Luận văn Một số giải pháp nhằm hạn chế ảnh hưởng của thông tin bất cân xứng đến hoạt động tín dụng của Ngân hàng TMCP Á Châu

pdf 99 trang tranphuong11 28/01/2022 6560
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Một số giải pháp nhằm hạn chế ảnh hưởng của thông tin bất cân xứng đến hoạt động tín dụng của Ngân hàng TMCP Á Châu", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfluan_van_mot_so_giai_phap_nham_han_che_anh_huong_cua_thong_t.pdf

Nội dung text: Luận văn Một số giải pháp nhằm hạn chế ảnh hưởng của thông tin bất cân xứng đến hoạt động tín dụng của Ngân hàng TMCP Á Châu

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM  ĐỖ THỊ HỒNG ĐƯỢM MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HẠN CHẾ ẢNH HƯỞNG CỦA THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG TMCP Á CHÂU LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ TP.HCM - 2013
  2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM  ĐỖ THỊ HỒNG ĐƯỢM MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HẠN CHẾ ẢNH HƯỞNG CỦA THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG TMCP Á CHÂU Chuyên ngành: Quản Trị Kinh Doanh Mã số: 60.34.0102 LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS, TS. NGUYỄN QUANG THU TP.HCM - 2013
  3. LỜI CAM ĐOAN  Tôi xin cam đoan rằng đề tài này là do chính tôi thực hiện, các số liệu thu thập và kết quả phân tích trong đề tài là trung thực, đề tài không trùng với bất kỳ đề tài nghiên cứu khoa học nào. TP.HCM, ngày 15 tháng 01 năm 2014 Học viên thực hiện Đỗ Thị Hồng Đượm
  4. MỤC LỤC  TRANG PHỤ BÌA LỜI CAM ĐOAN MỤC LỤC DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU DANH MỤC HÌNH VẼ, ĐỒ THỊ PHẦN MỞ ĐẦU 1 1. ĐẶT VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1 2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU 2 3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU 2 3.1. Đối tượng nghiên cứu 2 3.2. Phạm vi nghiên cứu: 2 4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2 5. KẾT CẤU CỦA ĐỀ TÀI 2 CHƯƠNG 1 : CƠ SỞ LÝ THUYẾT 3 1.1. LÝ THUYẾT VỀ HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG 3 1.1.1. Các khái niệm về tín dụng và rủi ro tín dụng 3 1.1.1.1. Khái niệm về tín dụng 3 1.1.1.2. Bản chất của tín dụng 3 1.1.1.3. Rủi ro tín dụng 4 1.1.2. Nguyên nhân của rủi ro tín dụng 4 1.1.2.1. Nguyên nhân chủ quan 4 1.1.2.2. Nguyên nhân khách quan 5 1.1.3. Các biện pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng 6 1.2. LÝ THUYẾT VỀ THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG 7 1.2.1. Giới thiệu về thông tin bất cân xứng 7
  5. 1.2.2. Hệ quả của thông tin bất cân xứng 7 1.2.2.1. Lựa chọn bất lợi 8 1.2.2.2. Tâm lý ỷ lại 9 1.3. THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG TRONG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG 10 1.3.1. Thông tin bất cân xứng và hoạt động tín dụng 10 1.3.2. Lựa chọn bất lợi trong hoạt động tín dụng 11 1.3.3. Tâm lý ỷ lại trong hoạt động tín dụng 13 1.3.4. Các điều kiện hạn chế ảnh hưởng của thông tin bất cân xứng đến hoạt động tín dụng 14 CHƯƠNG 2: ẢNH HƯỞNG CỦA THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA NH TMCP Á CHÂU 16 2.1. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA NH TMCP Á CHÂU 16 2.1.1. Giới thiệu tổng quan về NHTM CP Á Châu 16 2.1.2. Thực trạng về hoạt động của ACB 18 2.1.2.1. Tổng quan về tình hình hoạt động của ACB 18 2.1.2.2. Nghiệp vụ huy động vốn 19 2.1.2.3. Nghiệp vụ cấp tín dụng 20 2.1.2.4. Tình hình nợ xấu 23 2.1.3. Năng lực cạnh tranh trong hoạt động tín dụng của ACB 24 2.2. ẢNH HƯỞNG CỦA THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA NH TMCP Á CHÂU 26 2.2.1. Đánh giá các cơ sở vật chất và các điều kiện cần thiết để hạn chế ảnh hưởng của thông tin bất cân xứng đến hoạt động tín dụng tại ACB 26 2.2.1.1. Hệ thống thông tin kế toán và báo cáo tài chính 26 2.2.1.2. Tổ chức đánh giá tín dụng độc lập 27 2.2.1.3. Hệ thống định giá và đăng ký tài sản đảm bảo 29 2.2.1.4. Hệ thống công chứng 31 2.2.1.5. Hệ thống thanh tra giám sát ngân hàng 31 2.2.1.6. Chính sách lãi suất 33 2.2.1.7. Hệ thống thông tin và cơ sở dữ liệu 34
  6. 2.2.1.8. Hệ thống các tiêu chuẩn và kỹ thuật đánh giá 36 2.2.1.9. Năng lực và trình độ cán bộ tín dụng 38 2.2.1.10. Quyết định cấp tín dụng 39 2.2.1.11. Kiểm tra giám sát, thu hồi vốn vay 41 2.2.2. Tình hình quản trị rủi ro tín dụng trong trong môi trường thông tin bất cân xứng tại ACB 42 2.2.2.1. Quy trình cho vay tại ACB 42 2.2.2.2. Kiểm tra giám sát quá trình sử dụng vốn của khách hàng 44 2.2.2.3. Hệ thống chấm điểm xếp hạng tín dụng nội bộ tại ACB 46 2.2.3. Ảnh hưởng của thông tin bất cân xứng đến hoạt động tín dụng của ACB 49 2.2.3.1. Bất lợi trong việc lựa chọn khách hàng 50 2.2.3.2. Bất lợi trong việc lựa chọn khoản vay 51 2.2.3.3. Bất lợi trong việc đánh giá tài sản đảm bảo 52 2.2.3.4. Tâm lý ỷ lại từ phía khách hàng 52 2.2.3.5. Tâm lý ỷ lại từ phía ngân hàng 53 CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HẠN CHẾ ẢNH HƯỞNG CỦA THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA NH TMCP Á CHÂU 56 3.1. CƠ SỞ ĐỀ RA GIẢI PHÁP 56 3.1.1. Từ định hướng của nhà nước và cơ quan quản lý 56 3.1.1.1. Định hướng của nhà nước 56 3.1.1.2. Định hướng phát triển của ACB 58 3.1.2. Từ tình hình thực tế 59 3.2. GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ 61 3.2.1. Giải pháp cho NH TMCP Á Châu 62 3.2.1.1. Cơ chế sàng lọc trong tín dụng 62 3.2.1.2. Cơ chế giám sát - kiểm soát tín dụng 70 3.2.1.3. Cơ chế phát tín hiệu trong giao dịch 75 3.2.2. Kiến nghị đối với NHNN và các bộ ngành có liên quan 78
  7. DANH SÁCH CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT  Ngân hàng nhà nước : NHNN Ngân hàng thương mại : NHTM Ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu : Ngân hàng TMCP Á Châu/ ACB Tài sản đảm bảo : TSĐB Tổ chức tín dụng : TCTD Xếp hạng tín dụng : XHTD
  8. DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU  Trang Bảng 2.1 - Tổng hợp tình hình nợ xấu của ACB giai đoạn 2010-2012 23 Bảng 2.2 - Các biện pháp giảm thiểu rủi ro trong quá trình cấp tín dụng tại ACB 43 Bảng 3.1 - Các dấu hiệu cảnh báo trong hoạt động tín dụng 65
  9. DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ, ĐỒ THỊ  Trang Hình 1.1 - Tóm tắt mô hình thông tin bất cân xứng 8 Hình 2.1 - Tình hình huy động vốn theo loại tiền của ACB giai đoạn 2010-2012 19 Hình 2.2 - Tình hình huy động vốn theo loại hình khách hàng của ACB giai đoạn 2010-2012 20 Hình 2.3 - Tình hình cho vay theo loại tiền của ACB giai đoạn 2010-2012 21 Hình 2.4 - Tình hình cho vay theo thời hạn vay của ACB giai đoạn 2010-2012 21 Hình 2.6 - Tình hình cho vay theo khu vực địa lý của ACB giai đoạn 2010-2012 22 Hình 2.7 - Tình hình nợ xấu (nhóm 3-5) tại ACB giai đoạn 2010-2012 24 Hình 2.8 - Thị phần tín dụng của ACB trong giai đoạn 2010-2012 25
  10. 1 PHẦN MỞ ĐẦU  1. ĐẶT VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU Trong những năm qua, hệ thống ngân hàng đã có những đóng góp to lớn trong việc phát triển nền kinh tế nước ta. Hội nhập quốc tế tạo ra nhiều cơ hội phát triển nhưng cũng đem lại không ít những khó khăn, thách thức cho ngành ngân hàng Việt Nam nói chung và Ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu (NH TMCP Á Châu - ACB) nói riêng. Để có thể tồn tại và phát triển trong một thị trường cạnh tranh ngày càng quyết liệt và không ngừng biến đổi như hiện nay, các tổ chức tín dụng (TCTD) không ngừng nâng cao năng lực cạnh tranh của mình thông qua việc mở rộng quy mô hoạt động, cải tiến chất lượng dịch vụ, đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ. Do hoạt động tạo ra thu nhập chủ yếu của các ngân hàng là tín dụng nên cùng với việc mở rộng quy mô hoạt động thì rủi ro tín dụng cũng xảy ra. Nhất là khi tình trạng tăng nóng tín dụng đã trở nên phổ biến ở nước ta. Do đó nguy cơ rủi ro và nợ xấu là một thực tế hiển nhiên, có thể xảy ra tại bất kỳ một ngân hàng nào, kể cả các ngân hàng hàng đầu Việt Nam, bởi có những rủi ro nằm ngoài tầm kiểm soát của con người. Một trong những nguyên nhân gây nên rủi ro tín dụng là do ngân hàng luôn là người có ít thông tin về dự án, về mục đích sử dụng số tiền được cấp so với khách hàng. Đây chính là hiện tượng “thông tin bất cân xứng”- một trong những nguyên nhân gây nên thất bại thị trường. Trong thời gian qua, lãnh đạo ACB đã có những định hướng và chính sách của riêng mình về vấn đề thống tin bất cân xứng trong hoạt động tín dụng nhưng vẫn chưa thật sự bền vững. Mục tiêu chiến lược đã đề ra của ACB trong năm 2013 là “đẩy mạnh tăng trưởng tín dụng hiệu quả và an toàn”. Do vậy, để đảm bảo an toàn trong hoạt động của mình, ACB cần phải xử lý thông tin bất cân xứng để hạn chế lựa chọn bất lợi và tâm lý ỷ lại nhằm cho vay đúng người, đúng đối tượng, đảm bảo thu hồi được cả gốc và lãi của khoản tín dụng đã cấp cho khách hàng. Trước những đòi hỏi cấp thiết của tình hình quản trị rủi ro hiện nay, tác giả chọn đề tài “Một số giải pháp nhằm hạn chế ảnh hưởng của thông tin bất cân xứng
  11. 2 đến hoạt động tín dụng của Ngân hàng TMCP Á Châu” để nghiên cứu nhằm giúp cho hoạt động tín dụng của ACB có thể phát triển an toàn và hiệu quả hơn. 2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU - Phân tích ảnh hưởng của thông tin bất cân xứng đến hoạt động tín dụng của NH TMCP Á Châu. - Đề xuất một số giải pháp nhằm hạn chế ảnh hưởng của vấn đề thông tin bất cân xứng đến hoạt động tín dụng của NH TMCP Á Châu. 3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU 3.1. Đối tượng nghiên cứu: thông tin bất cân xứng trong hoạt động tín dụng tại ACB 3.2. Phạm vi nghiên cứu: * Thời gian nghiên cứu: Các thông tin, số liệu của nghiên cứu được thu thập và phân tích từ tháng 08/2013. * Không gian: Ngân hàng TMCP Á Châu 4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính để tiếp cận, phân tích ảnh hưởng của thông tin bất cân xứng đến hoạt động tín dụng tại ACB để đưa ra các giải pháp khắc phục. Nghiên cứu chủ yếu sử dụng các số liệu thứ cấp được tổng hợp từ nhiều nguồn khác nhau như các báo cáo tổng kết của ACB, các bài báo, tạp chí, luận văn khoa học có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến vấn đề cần nghiên cứu. 5. KẾT CẤU CỦA ĐỀ TÀI Kết cấu của luận văn bao gồm: Phần mở đầu Chương 1: Cơ sở lý thuyết Chương 2: Ảnh hưởng của thông tin bất cân xứng đến hoạt động tín dụng của Ngân hàng TMCP Á Châu Chương 3: Một số giải pháp nhằm hạn chế ảnh hưởng của thông tin bất cân xứng đến hoạt động tín dụng của Ngân hàng TMCP Á Châu Kết luận
  12. 3 CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ THUYẾT  1.1. LÝ THUYẾT VỀ HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG 1.1.1. Các khái niệm về tín dụng và rủi ro tín dụng 1.1.1.1. Khái niệm về tín dụng Tín dụng là một giao dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hóa) giữa bên cho vay (ngân hàng và các định chế tài chính khác) và bên đi vay (cá nhân, doanh nghiệp và các chủ thể khác), trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời hạn nhất định theo thỏa thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán. Luật các tổ chức tín dụng định nghĩa “Cấp tín dụng là việc tổ chức tín dụng thoả thuận để khách hàng sử dụng một khoản tiền với nguyên tắc có hoàn trả bằng các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ khác”. Tín dụng Ngân hàng là quan hệ tín dụng phát sinh giữa các ngân hàng, các tổ chức tín dụng với các đối tác kinh tế - tài chính của toàn xã hội, bao gồm doanh nghiệp, cá nhân, tổ chức xã hội, cơ quan nhà nước. 1.1.1.2. Bản chất của tín dụng Tín dụng là hệ thống quan hệ kinh tế phát sinh giữa người đi vay và người cho vay, nhờ quan hệ ấy mà vốn tiền tệ được vận động từ chủ thể này sang chủ thể khác để sử dụng cho các nhu cầu khác nhau trong nền kinh tế - xã hội. Trong thực tế tín dụng hoạt động rất phong phú và đa dạng nhưng ở bất cứ dạng nào cũng thể hiện hai mặt cơ bản là người sở hữu một số tiền hoặc hàng hóa chuyển giao cho người khác trong một thời gian nhất định và đến thời hạn do hai bên thỏa thuận, người sử dụng hoàn lại cho người sở hữu một giá trị lớn hơn. Phần tăng thêm được gọi là phần lời hay nói theo ngôn ngữ kinh tế là lãi suất.
  13. 4 1.1.1.3. Rủi ro tín dụng Rủi ro tín dụng là loại rủi ro phát sinh trong quá trình cấp tín dụng của ngân hàng, biểu hiện thực tế qua việc khách hàng không trả được nợ và lãi vay như cam kết trong hợp đồng tín dụng. “Rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng là khả năng xảy ra tổn thất trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng do khách hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình theo cam kết” (Khoản 01 Điều 02 - Quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của TCTD) Như vậy, có thể nói rằng rủi ro tín dụng có thể xuất hiện trong các mối quan hệ mà trong đó ngân hàng là chủ nợ và khách hàng nợ lại không thực hiện hoặc không đủ khả năng thực hiện nghĩa vụ trả nợ khi đến hạn. Rủi ro tín dụng là một đặc trưng tiêu biểu nhất, dễ xảy ra nhất trong mọi hoạt động của ngân hàng như cho vay, chiết khấu công cụ chuyển nhượng và giấy tờ có giá, cho thuê tài chính, bảo lãnh, bao thanh toán của ngân hàng. 1.1.2. Nguyên nhân của rủi ro tín dụng Phát sinh từ các đối tượng tham gia vào quan hệ tín dụng bao gồm rủi ro do nguyên nhân chủ quan (xuất phát từ người vay và ngân hàng) và do nguyên nhân khách quan (xuất phát từ môi trường kinh doanh) 1.1.2.1. Nguyên nhân chủ quan * Rủi ro từ phía ngân hàng cho vay - Ngân hàng không có đủ thông tin về các số liệu thống kê, chỉ tiêu để phân tích và đánh giá khách hàng (thông tin bất cân xứng). - Thẩm định sơ sài, đánh giá sai lệch thông tin khách hàng. - Thiếu giám sát và quản lý sau khi cho vay, sai phạm trong việc kiểm tra chứng từ và thực hiện công tác thu hồi nợ. - Quá tin tưởng vào tài sản thế chấp, bảo lãnh, bảo hiểm, coi đó là vật đảm bảo chắc chắn cho sự thu hồi cả gốc và lãi tiền vay.
  14. 5 - Chạy theo số lượng (hoặc theo kế hoạch) bỏ qua các tiêu chuẩn, điều kiện trong cho vay, thiếu quan tâm đến chất lượng khoản vay. - Quá lạc quan và tin tưởng vào sự thành công của phương án kinh doanh của khách hàng. - Ngân hàng thiếu một bộ phận chuyên trách theo dõi, quản lý rủi ro, quản lý hạn mức tín dụng tối đa cho từng khách hàng thuộc từng ngành nghề, sản phẩm địa phương khác nhau để phân tán rủi ro, các dự báo cần thiết trong từng thời kỳ. - Cán bộ tín dụng thiếu phẩm chất đạo đức và trình độ chuyên môn nghiệp vụ: nhân viên có hành vi giả mạo hợp đồng kinh tế, tự ý đảo nợ cho khách hàng hay cố tình che giấu thông tin bất lợi của khách hàng - Cạnh tranh giữa các tổ chức tín dụng chưa thực sự lành mạnh, thiếu sự hợp tác với nhau. * Nguyên nhân thuộc về phía khách hàng - Sử dụng vốn sai mục đích, không có thiện chí trong việc trả nợ vay. - Năng lực quản lý kinh doanh kém, - Tình hình tài chính doanh nghiệp yếu kém, thiếu minh bạch. - Mạo hiểm trong đầu tư hay đầu tư vào các lĩnh vực vượt quá khả năng quản lý của mình. - Khách hàng cố tình gian lận, lừa đảo ngân hàng. 1.1.2.2. Nguyên nhân khách quan - Rủi ro do môi trường kinh tế không ổn định + Sự thay đổi của môi trường tự nhiên như: thiên tai, dịch bệnh, bão lụt gây tổn thất cho khách hàng vay vốn kinh doanh. + Sự biến động quá nhanh và không dự đoán được của nền kinh tế như sự thay đổi về lãi suất, tỷ giá hối đoái; lạm phát; giá nguyên vật liệu đầu vào tăng làm ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của khách hàng. + Sự tấn công của hàng nhập lậu, hàng giả, hàng nhái ảnh hưởng đến hoạt động và sức cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước. + Rủi ro tất yếu của quá trình tự do hóa tài chính, hội nhập quốc tế.
  15. 6 - Rủi ro do môi trường pháp lý chưa thuận lợi. + Việc triển khai kém hiệu quả của cơ quan pháp luật cấp địa phương. + Sự thanh tra, kiểm tra, giám sát chưa hiệu quả từ phía Ngân hàng Nhà nước (NHNN). + Hệ thống thông tin quản lý chưa đầy đủ, minh bạch. Như vậy, tín dụng là một nghiệp vụ chứa đựng nhiều rủi ro, đặc biệt khi việc phân tích các phương án vay vốn hay các dự án đầu tư không chính xác. Thông tin đầu vào vô cùng quan trọng trong quá trình phân tích, đánh giá để đưa ra các quyết định cấp tín dụng cũng như các quyết định xử lý tín dụng sau giải ngân. Nếu nguồn đầu vào này kém chất lượng do thông tin không chính xác hoặc thông tin cập nhật không đầy đủ và kịp thời (thông tin bất cân xứng) thì cho dù ngân hàng có ứng dụng những phương tiện và công cụ phân tích hiện đại đến đâu đi nữa, kết quả tín dụng đầu ra cũng sẽ tiềm ẩn rất nhiều rủi ro. Trên thực tế, đây là một vấn đề phổ biến và khó quản lý khắc phục nhất là khi tình trạng tăng trưởng nóng tín dụng và nợ xấu đang là vấn đề nan giải của thị trường tài chính trong giai đọan hiện nay. 1.1.3. Các biện pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng - Xây dựng chính sách tín dụng hợp lý - Thực hiện đúng quy trình quản lý tín dụng - Phân tích tín dụng và đánh giá khả năng xảy ra rủi ro của mỗi khoản vay trước khi ra quyết định cho vay - Thường xuyên đánh giá, xếp loại khách hàng - Chọn lọc người vay và giám sát quá trình sử dụng vốn vay - Chuyên môn hóa việc cho vay và duy trì quan hệ khách hàng lâu dài - Thực hiện bảo đảm tín dụng - Giám sát tín dụng - Bảo hiểm tín dụng - Tăng cường công tác thẩm định khách hàng và dự án đầu tư
  16. 7 Trên đây là một số biện pháp cơ bản để phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng. Tuy nhiên, các tổ chức tín dụng có thể có những biện pháp hoặc sách lược riêng phù hợp với những điều kiện cụ thể của mỗi ngân hàng. 1.2. LÝ THUYẾT VỀ THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG (ANSYMMETRIC INFORMATION) 1.2.1. Giới thiệu về thông tin bất cân xứng Cha đẻ của lý thuyết thông tin bất cân xứng là ba nhà kinh tế học George A. Akerlof, Đại học California, Mỹ; Andrew Michael Spence, Đại học Stanford, Mỹ và Joseph E. Stiglitz, Đại học Columbia, Mỹ. Đây là những nhà nghiên cứu đã đoạt giải Nobel kinh tế năm 2001 khi đưa ra những phân tích hết sức thuyết phục về thông tin bất cân xứng - trạng thái mà khi đó “một chủ thể trên thị trường có nhiều thông tin tốt hơn chủ thể kia”. Theo Joseph Stiglitz, có hai nguyên nhân gây ra thông tin bất cân xứng. Thứ nhất là do những chủ thể kinh tế khác nhau quan tâm tới những đối tượng khác nhau và lượng thông tin của họ về cùng một đối tượng sẽ khác nhau. Thường thì các chủ thể kinh tế hiểu mình rõ hơn là hiểu người khác. Mức độ chênh lệch về thông tin tùy thuộc vào cơ cấu, đặc trưng của thị trường. Thứ hai là do chủ thể kinh tế tham gia giao dịch có thể cố tính che giấu thông tin để đạt được lợi thế trong đàm phán giao dịch. Tình trạng thông tin bất cân xứng xuất hiện ở nhiều lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế như ngân hàng, bảo hiểm, thị trường bất động sản, thị trường lao động, thị trường hàng hóa, thị trường chứng khoán, thị trường đồ cũ Như vậy, thông tin bất cân xứng được hiểu là tình trạng kinh tế xảy ra khi một bên giao dịch có ít thông tin hơn bên đối tác hoặc có thông tin nhưng thông tin không chính xác dẫn đến những quyết định sai trong quá trình giao dịch. Đồng thời bên có nhiều thông tin hơn cũng sẽ có những hành vi gây bất lợi cho bên kia khi thực hiện nghĩa vụ giao dịch. 1.2.2. Hệ quả của thông tin bất cân xứng Hai hành vi phổ biến do thông tin bất cân xứng gây ra là lựa chọn bất lợi (adverse selection) và tâm lý ỷ lại (moral hazard).
  17. 8 THÔNG TIN BẤT Sau khi ký Trước khi CÂN XỨNG ký hợp đồng hợp đồng Lựa chọn bất lợi Tâm lý ỷ lại Sàng lọc Phát tín hiệu Giám sát Hình 1.1: Tóm tắt mô hình thông tin bất cân xứng 1.2.2.1. Lựa chọn bất lợi Lựa chọn bất lợi là kết quả của tình trạng bất cân xứng về thông tin, xảy ra trước khi thực hiện giao dịch (trước khi ký hợp đồng) trong đó người lựa chọn thứ tốt lại chọn phải thứ không tốt. Trong điều kiện thông tin đối xứng, các bên trong giao dịch nắm thông tin ngang nhau và đầy đủ về đối tượng được giao dịch. Khi đó, người ta có thể tìm được thứ tốt hoặc thứ tương xứng với cái giá mà họ phải bỏ ra. Nhưng trong điều kiện thông tin bất cân xứng, người có ưu thế về thông tin có thể cung cấp những thông tin không trung thực về đối tượng được giao dịch (hành vi che đậy) cho bên kém ưu thế thông tin. Kết quả là, bên kém ưu thế về thông tin đồng ý hoàn thành giao dịch và nhận được thứ không như mình mong muốn. Trên thực tế, sự lựa chọn bất lợi có thể được giảm thiểu bằng hai biện pháp khác nhau nhưng có quan hệ mật thiết với nhau là phát tín hiệu (signaling) và sàng lọc (screening). Việc áp dụng cơ chế nào phụ thuộc vào bên có thông tin hay bên không có thông tin đóng vai trò chủ động. Cơ chế phát tín hiệu là việc bên có nhiều thông tin có thể cung cấp thông tin của mình (báo phát thông tin) một cách trung thực và tin cậy cho bên có ít thông tin. Cơ chế phát tín hiệu có thể được sử dụng trong nhiều trường hợp khác nhau như: trên thị trường hàng hóa, người bán những sản phẩm chất lượng cao sẽ sử dụng những động cơ khuyến khích như triển khai các chương trình quảng cáo đắt tiền, việc duy trì chế độ bảo hành cho sản phẩm, làm cho người mua biết được
  18. 9 mình bán sản phẩm có chất lượng tốt và bằng lòng trả giá cao hơn cho loại sản phẩm có chất lượng này; trên thị trường lao động, ứng cử viên đi xin việc phát tín hiệu về năng lực của mình cho nhà tuyển dụng biết thông qua các bằng cấp, thành tích đã đạt được; trên thị trường tài chính, người đi vay phát tín hiệu cho người cho vay biết rằng mình là người có uy tín, có khả năng trả nợ tốt nếu được cấp tín dụng hoặc trên thị trường chứng khoán, các công ty niêm yết trên thị trường phải cho nhà đầu tư thấy được danh tiếng, hiệu quả hoạt động và tiềm năng phát triển của mình để nâng cao vị thế, bán cổ phiếu với giá cao và hợp lý Sàng lọc là các hoạt động do bên không có hoặc có ít thông tin thực hiện để tách biệt, phân loại các đối tác theo một số tiêu chí nào đó (đặc tính, chủng loại, ) để từ đó có những chính sách, hành động khác nhau đối với từng nhóm đối tác. Cũng như phát tín hiệu, cơ chế sàng lọc cũng được ứng dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực khác nhau như trong thị trường lao động (phân nhóm lao động để trả lương, thưởng cho nhân viên), thị trường tài chính (đưa ra nhiều hạn mức tín dụng, lãi suất khác nhau đối với từng đối tượng, từng dự án và thời hạn vay), các tổ chức bảo hiểm phân loại nhóm khách hàng có rủi ro cao và nhóm có rủi ro thấp dễ áp dụng mức phí bảo hiểm tương ứng 1.2.2.2. Tâm lý ỷ lại Tâm lý ỷ lại (hay còn gọi là rủi ro đạo đức) là một thuật ngữ dùng để chỉ một loại rủi ro phát sinh khi đạo đức của chủ thể kinh tế bị suy thoái, là một kiểu thất bại của thị trường nảy sinh trong môi trường thông tin bất cân xứng. Tâm lý ỷ lại là kết quả của hành vi bị che đậy, xuất hiện sau khi ký hợp đồng. Nó phát sinh khi bên chiếm ưu thế về thông tin có những hành động có thể gây tổn hại cho bên có ít thông tin hơn. Hay nói cách khác, tâm lý ỷ lại nảy sinh khi bên có ưu thế thông tin hiểu được tình thế thông tin bất cân xứng giữa các bên giao dịch và tự nhiên hình thành động cơ hành động theo hướng làm lợi cho bản thân bất kể hành động đó có thể làm hại cho bên kém ưu thế thông tin. Hành vi tha hóa theo hướng như thế của bên có ưu
  19. 10 thế thông tin được bên kém ưu thế thông tin cho là không đứng đắn, là một thứ nguy hiểm, rủi ro cho mình. Để có sự tồn tại của tâm lý ỷ lại, ba điều kiện phải được thỏa mãn: - Phải có sự khác biệt về quyền lợi giữa các bên. - Phải có một cơ sở để tạo ra trao đổi có lợi hay một hình thức hợp tác khác nhau giữa các cá nhân từ đó làm lộ ra mâu thuẫn về quyền lợi. - Phải tồn tại những khó khăn trong việc xác định xem các điều kiện thỏa thuận có đúng là được tuân thủ và thực hiện hay không. Trong nhiều trường hợp, cơ chế giám sát được áp dụng nhằm mục đích kiểm soát tâm lý ỷ lại. Thông thường, bên có ít thông tin hơn sẽ chấp nhận bỏ ra nguồn lực trực tiếp thực hiện (giám sát trực tiếp) hoặc thông qua các kênh thông tin khác nhau trên thị trường (giám sát gián tiếp) để được kiểm soát thông tin trong suốt quá trình giao dịch. Chẳng hạn như để tránh các rủi ro phát sinh sau khi vay vốn, các TCTD thường thực hiện việc kiểm tra mục đích sử dụng vốn vay của khách hàng sau khi giải ngân hay kiểm tra hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng vay theo định kỳ; giám sát thông qua các qui định trong các hợp đồng tín dụng hay sử dụng các hệ thống giám sát khác như hệ thống thông tin tín dụng, thông tin trên thị trường chứng khoán, thông tin từ các đối thủ cạnh tranh, các cơ quan quản lý 1.3. THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG TRONG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG 1.3.1. Thông tin bất cân xứng và hoạt động tín dụng Thông tin bất cân xứng là một hiện tượng phổ biến trong hoạt động tín dụng. Nó chính là tình trạng chênh lệch thông tin giữa bên cho vay (ngân hàng) và bên đi vay (khách hàng). Trên thực tế, người đi vay là bên thường nắm rõ các thông tin về khoản vay (dự án đầu tư, năng lực trả nợ ) nhiều hơn phía ngân hàng. Ngoài ra, tình trạng thông tin bất cân xứng cũng xảy ra trong chính nội bộ của một số ngân hàng. Đó là sự chênh lệch thông tin giữa cấp quản lý và cấp nhân viên do cấp quản lý “giao quyền” thẩm định cho nhân viên khi cấp tín dụng. Chính sự tồn tại của thông tin bất
  20. 11 cân xứng sẽ dẫn đến sự lựa chọn bất lợi và tâm lý ỷ lại trong quá trình cho vay và tất yếu cuối cùng là sẽ gây ra rủi ro tín dụng. 1.3.2. Lựa chọn bất lợi trong hoạt động tín dụng Lựa chọn bất lợi xảy ra trước cho vay, khi ngân hàng bị khách hàng che giấu một số thông tin dẫn tới việc lựa chọn khách hàng không tốt và cấp tín dụng không hiệu quả. Khách hàng có độ rủi ro cao thường là những khách hàng tích cực nhất trong việc xin vay. Hậu quả của sự lựa chọn đối nghịch có thể dẫn đến việc cấp tín dụng cho khách hàng có rủi ro cao (rủi ro không trả được nợ) nên trong trường hợp này các ngân hàng có thể sẽ cắt giảm cho vay hoặc không tiếp tục cho vay mặc dù trên thị trường vẫn có nhiều khách hàng tốt (những trường hợp có thể trả được nợ). Trong hoạt động tài chính, lựa chọn bất lợi sẽ xuất hiện khi nguồn vốn khan hiếm, lãi suất cho vay bị đẩy lên cao. Theo nguyên tắc "rủi ro cao - lợi nhuận cao” và nguyên tắc loại trừ, khi nguồn cung tín dụng dồi dào, mức lãi suất cho vay thấp thì các dự án có suất sinh lợi thấp - rủi ro thấp, đảm bảo khả năng trả nợ một cách chắc chắn và các dự án có suất sinh lợi cao - rủi ro cao với khả năng trả nợ ít chắc chắn hơn đều được cấp tín dụng để thực hiện. Nhưng khi nguồn vốn khan hiếm, lãi suất cho vay bị đẩy lên cao, các dự án an toàn sẽ không chịu nổi áp lực lãi vay sẽ không vay mà chỉ có những dự án có mức độ rủi ro cao, với suất sinh lợi cao được vay vốn để thực hiện. Sự lựa chọn bất lợi xảy ra khi ngân hàng tiến hành thẩm định hồ sơ vay vốn của khách hàng, bao gồm các thông tin liên quan đến khách hàng, dự án vay vốn và tài sản đảm bảo tiền vay. Nếu những thông tin này không chính xác sẽ gây rủi ro cho quyết định cấp tín dụng của ngân hàng. Một thực tế đang tồn tại lâu nay là tình trạng các doanh nghiệp vay vốn thường đối phó với ngân hàng thông qua việc cung cấp các số liệu không trung thực, mặc dù những số liệu này đã được các cơ quan có chức năng kiểm duyệt. Điều này gây rất nhiều khó khăn cho ngân hàng trong việc nắm bắt tình hình hoạt động kinh doanh, cũng như việc quản lý vốn vay của đơn vị. Đặc biệt, có một số NHTM quyết định đầu tư chỉ dựa vào những cảm nhận trực quan của mình. Điều này nếu
  21. 12 kéo dài sẽ rất nguy hiểm, nhất là khi các cán bộ ngân hàng có trình độ chuyên môn thấp và khách hàng cố ý che đậy thông tin hay tạo thông tin giả, lừa đảo ngân hàng. Thêm vào đó, ở Việt Nam, nhiều công ty làm ăn thua lỗ vẫn tồn tại trên thị trường. Nó làm “nhiễu thông tin” hay góp phần tạo ra sự lừa dối từ phía khách hàng. Đến khi khách hàng đã mất khả năng chi trả thì ngân hàng cũng đã rơi vào tình thế “chuyện đã rồi”. Ví dụ gần đây nhất là trường hợp của Công ty TNHH Trường Ngân, một doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu các mặt hàng nông sản ở tỉnh Bình Dương, thế chấp 3.360 tấn cà phê để cầm cố cho 07 ngân hàng vay 600 tỷ đồng. Khi ngân hàng biết công ty rơi vào tình trạng vỡ nợ thì trong kho hàng thế chấp chỉ còn 1.500 tấn hàng, trong đó có 700 tấn là cà phê trị giá khoảng 100 tỷ đồng, số còn lại chỉ là vỏ, rác và tạp chất không có giá trị về kinh tế. Hay trường hợp của Công ty Chế biến thủy sản An Khang ở Cần Thơ. Khi công ty này có dấu hiệu mất khả năng chi trả vào năm 2011, 5 ngân hàng cho vay mới phát hiện bên cạnh tài sản đảm bảo là bất động sản thì hàng hóa tồn kho luân chuyển tổng cộng hơn 1.000 tấn mà công ty này dùng để thế chấp chỉ là một kho hàng rỗng. Như vậy, trong quá trình cấp tín dụng, sự lựa chọn bất lợi có thể xảy ra tại bất kỳ mắt xích thông tin nào khi thẩm định như lúc đánh giá, lựa chọn khách hàng, đánh giá dự án vay hay đánh giá tài sản đảm bảo. Bất lợi trong việc đánh giá, lựa chọn khách hàng. Nguyên nhân là do chưa có đủ cơ sở để đánh giá năng lực của khách hàng (năng lực quản trị và năng lực tài chính). Về năng lực quản trị, ngân hàng thường đánh giá dựa vào bằng cấp hay thâm niên. Điều này dẫn đến việc cán bộ thẩm định không đánh giá đúng thực chất về năng lực của khách hàng. Còn khi đánh giá năng lực tài chính, các ngân hàng thường dựa vào số liệu của báo cáo tài chính. Nhưng trên thực tế, các báo cáo này chưa đủ độ tin cậy cao nên nó cũng không phản ánh đúng năng lực tài chính của khách hàng. Thêm vào đó, tâm lý e ngại của cán bộ thẩm định khi điều tra vì sợ mất khách hàng cũng ảnh hưởng nhiều đến độ chính xác của kết quả đánh giá. Bất lợi trong việc đánh giá dự án vay. Đây là một vấn đề phổ biến vì ở Việt Nam, trình độ xây dựng dự án còn yếu kém, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ;
  22. 13 hệ thống pháp luật và các chính sách thường xuyên thay đổi; trình độ, năng lực nghiệp vụ cán bộ thẩm định chưa cao hay do khách hàng cố tình che giấu mục đích vay vốn thực sự của mình. Bất lợi trong việc đánh giá tài sản đảm bảo do ngân hàng không có nhiều thông tin hay thông tin không chính xác về tài sản đảm bảo và hạn chế trong chuyên môn của cán bộ thẩm định. 1.3.3. Tâm lý ỷ lại trong hoạt động tín dụng Tâm lý ỷ lại trong các hoạt động giao dịch vay nợ là khá phổ biến. Nó là một vấn đề do thông tin không cân xứng tạo ra sau cho vay. Trong đó, người vay có những hành vi hay có ý muốn thực hiện những hoạt động không tốt xét theo quan điểm của bên cho vay và vì những hoạt động này khiến món vay này ít có khả năng sẽ được hoàn trả hay nói cách khác là sẽ dẫn đến rủi ro tín dụng. Tâm lý ỷ lại gây nên xung đột về lợi ích giữa người vay và ngân hàng, giảm bớt xác xuất hoàn trả nợ vay nên người cho vay có thể quyết định thôi không cho vay nữa hoặc sẽ thực hiện những biện pháp giám sát để đảm bảo khoản vay sẽ được thu hồi. Tuy nhiên, việc giám sát quá trình sử dụng vốn vay của ngân hàng thường vấp phải nhiều khó khăn đến từ cả phía ngân hàng cũng như người đi vay. Bản thân các ngân hàng có thể gặp phải những rủi ro do tâm lý ỷ lại ở người đi vay khi ngân hàng không giám sát được đầy đủ người đi vay, kích thích người này dùng khoản vay một cách mạo hiểm quá mức hay khi khách hàng có động cơ đầu tư vào những dự án có độ rủi ro cao. Nếu dự án đó thành công thì khách hàng sẽ thu được lợi rất lớn, ngược lại nếu dự án thất bại thì ngân hàng sẽ phải gánh chịu hậu quả do khách hàng thua lỗ. Tâm lý ỷ lại cũng có thể xảy ra khi khách hàng sử dụng vốn vay không đúng mục đích; đầu tư vào dự án kém hiệu quả; thiếu nỗ lực, không có sự nghiêm túc trong quá trình thực hiện dự án dễ dẫn đến việc thua lỗ, phá sản hay khách hàng cố tình lừa đảo ngân hàng. Ngoài việc tồn tại sự yếu kém trong hoạt động cũng như năng lực quản lý, một nguyên nhân phổ biến nữa là các doanh nghiệp Việt Nam nhất là các doanh nghiệp
  23. 14 nhà nước hay có tâm lý ỷ lại khi xem vốn ngân hàng là vốn nhà nước. Họ cho rằng ngân hàng không thể từ chối cho vay, thẩm định chỉ mang tính chất hình thức. Và nếu làm ăn thua lỗ thì cũng tồn tại, trả nợ không được thì ngân hàng phát mãi tài sản đảm bảo và nhà nước sẽ hỗ trợ. Điều này đưa đến các quyết định mạo hiểm trong đầu tư hay đầu tư vào các lĩnh vực vượt quá khả năng quản lý của mình. Ngoài ra, còn có tâm lý ỷ lại của các tổ chức tín dụng sau khi cho vay dẫn đến những thiếu sót trong quá trình kiểm tra sử dụng vốn vay. Bên cạnh đó là những rủi ro về đạo đức của một bộ phận cán bộ tín dụng. Họ sẵn sàng liên kết với khách hàng để hợp thức hóa thủ tục trong quá trình vay vốn nhằm đạt chỉ tiêu tăng trưởng, lợi nhuận hay tệ hơn nữa là tham nhũng, ăn chia trong hợp đồng tín dụng. 1.3.4. Các điều kiện hạn chế ảnh hưởng của thông tin bất cân xứng đến hoạt động tín dụng Để hạn chế tình trạng thông tin bất cân xứng trong lĩnh vực quản lý rủi ro tín dụng thì nền kinh tế cần phải có cơ sở hạ tầng và điều kiện cần thiết như: - Các quy định pháp lý rõ ràng và chặt chẽ. - Hệ thống kế toán và báo cáo tài chính minh bạch, đủ độ tin cậy phản ánh đúng năng lực tài chính của khách hàng. - Tổ chức đánh giá, xếp loại tín dụng độc lập. - Hệ thống công chứng, đăng ký tài sản bảo đảm tính công khai, minh bạch, khách quan. - Hệ thống thanh tra giám sát của NHNN phải chặt chẽ, phát huy được hiệu quả. Tuy nhiên, đây chỉ mới là những điều kiện cơ bản của nền kinh tế (điều kiện cần) để giúp hoạt động tín dụng được diễn ra. Về phía các tổ chức tín dụng cũng phải đáp ứng thêm một số điều kiện về cơ sở hoạt động của mình (điều kiện đủ) để đảm bảo an toàn cho quá trình cấp tín dụng của ngân hàng như: - Chính sách lãi suất linh hoạt phù hợp. - Hệ thống thông tin đầy đủ có độ tin cậy và tính chính xác cao. - Các tiêu chuẩn đánh giá rõ ràng, minh bạch, dễ áp dụng. - Đội ngũ cán bộ tín dụng có năng lực và trình độ.
  24. 15 - Quyết định cấp tín dụng tại các ngân hàng trên cơ sở đảm bảo an toàn tín dụng. - Quá trình kiểm tra giám sát, thu hồi vốn vay của các TCTD được thực hiện và kiểm soát chặt chẽ. Tóm tắt chương 1 Chương 2 đã giới thiệu khái quát về hoạt động tín dụng và rủi ro tín dụng. Bên cạnh đó, chương này còn trình bày các lý thuyết về thông tin bất cân xứng và ảnh hưởng của nó đến hoạt động tín dụng. Đây là những nền tảng cơ bản để tiến hành phân tích những ảnh hưởng của thông tin bất cân xứng đến hoạt động tín dụng của các NHTM tại Việt Nam và thực tế tại ACB trong chương kế tiếp.
  25. 16 CHƯƠNG 2 ẢNH HƯỞNG CỦA THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA NH TMCP Á CHÂU  2.1. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA NH TMCP Á CHÂU 2.1.1. Giới thiệu tổng quan về NHTM CP Á Châu Ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu được thành lập theo Giấy phép số 0032/NH-GP do NHNN Việt Nam cấp ngày 24 tháng 04 năm 1993 và Giấy phép số 553/ DP- UB do UBND TP. HCM cấp ngày 13/05/1993. Ngày 04/06/1993, ACB chính thức đi vào hoạt động và được xem là một trong những ngân hàng thương mại cổ phần đầu tiên trong giai đoạn đầu của thời kỳ chuyển đổi kinh tế Việt Nam từ nền kinh tế tập trung, bao cấp tiến dần lên nền kinh tế thị trường. *Một số thông tin về ngân hàng: - Tên pháp lý: Ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu - Tên tiếng Anh: Asia Commercial Bank - Tên giao dịch viết tắt: ACB - Trụ sở chính: 442 Nguyễn Thị Minh Khai, Q.3, TP. HCM - Trang web: www.acb.com.vn - Slogo: - Slogan: ACB - Ngân hàng của mọi nhà *Vốn điều lệ: ACB thành lập với vốn điều lệ ban đầu là 20 tỷ đồng của 34 cổ đông. Tính đến ngày 31/12/2012, vốn điều lệ của ACB là gần 9,377 tỷ đồng (chín nghìn ba trăm bảy mươi bảy tỷ đồng). Trải qua 20 năm xây dựng và phát triển, vượt qua bao khó khăn thử thách, tích lũy được nhiều bài học, kinh nghiệm, ACB đã trở thành một trong những NHTM hàng đầu Việt Nam.
  26. 17 *Mạng lưới kênh phân phối: Tính đến đến tháng 11/2013, ACB có 345 chi nhánh và phòng giao dịch trên toàn quốc, có trên 2,000 đại lý chấp nhận thẻ và 969 đại lý chi trả Western Union. *Hệ thống công ty con, công ty liên kết và công ty liên doanh: Hiện tại ACB có bốn công ty trực thuộc (công ty chứng khoán ACB -ACBS, công ty quản lý và khai thác tài sản Ngân hàng Á châu- ACBA, công ty cho thuê tài chính Ngân hàng Á Châu -ACBL, công ty quản lý quỹ ACB - ACBC); hai công ty liên kết (công ty cổ phần Dịch vụ Bảo vệ Ngân hàng Á Châu - ACBD), công ty cổ phần Địa ốc ACB -ACBR) và một công ty liên doanh (công ty cổ phần Sài Gòn Kim hoàn ACB – SJC) * Nhân sự: Tính đến ngày 31/12/2012, tổng số nhân viên chính thức của ACB và các công ty con là 10,276 người. Cán bộ có trình độ đại học và trên đại học chiếm 93% trong tổng số nhân viên toàn hệ thống. *Cơ cấu tổ chức của Ngân hàng TMCP Á Châu Cơ cấu tổ chức của ACB hiện nay gồm có bảy khối (khách hàng cá nhân, khách hàng doanh nghiệp, ngân quỹ, phát triển kinh doanh, vận hành, quản trị nguồn lực, quản trị hành chính); bốn ban (kiểm toán nội bộ, chiến lược, chất lượng, chính sách và quản lý tín dụng); sáu phòng (tài chính, kế toán, quản lý rủi ro thị trường, thông tin quản trị, quan hệ đối ngoại, đầu tư) và ba trung tâm (công nghệ thông tin, giao dịch vàng, và trung tâm vàng). * Nội dung hoạt động: Các hoạt động chính của ACB và các công ty con là huy động vốn ngắn hạn, trung hạn và dài hạn dưới các hình thức tiền gửi có kỳ hạn, không kỳ hạn; tiếp nhận vốn ủy thác đầu tư và phát triển của các tổ chức trong nước, vay vốn của các tổ chức tín dụng khác; cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn; chiết khấu thương phiếu, trái phiếu và giấy tờ có giá; hùn vốn và liên doanh theo luật định; làm dịch vụ thanh toán giữa các khách hàng, thực hiện kinh doanh ngoại tệ, vàng bạc và thanh toán quốc tế, huy động các loại vốn từ nước ngoài và các dịch vụ ngân hàng
  27. 18 khác trong quan hệ với nước ngoài khi được NHNN cho phép; hoạt động bao thanh toán; đại lý bảo hiểm; cung cấp dịch vụ cho thuê tài chính; kinh doanh chứng khoán; môi giới và tư vấn đầu tư chứng khoán; lưu ký, tư vấn tài chính doanh nghiệp và bảo lãnh phát hành; các dịch vụ về quản lý quỹ đầu tư và khai thác tài sản, và cung cấp các dịch vụ ngân hàng khác. 2.1.2. Thực trạng về hoạt động của ACB 2.1.2.1. Tổng quan về tình hình hoạt động của ACB Trong năm 2012, ACB đã ứng phó tốt và khắc phục nhanh sự cố rút tiền xảy ra trong tuần cuối tháng 8/2012. Thanh khoản được đảm bảo; tài sản không thất thoát. Số dư huy động tiết kiệm VND khôi phục trong thời gian ngắn. Các chủ trương về xử lý trạng thái vàng, về huy động cũng như tín dụng của NHNN được ACB triển khai nghiêm túc. Trong năm 2012, các chỉ tiêu kinh doanh của ACB vẫn chưa đạt kế hoạch đề ra đầu năm. Tuy nhiên, bình quân cả năm, quy mô huy động và cho vay về cơ bản vẫn tăng khoảng 5% so với năm 2011. Tổng tài sản của ACB chốt tại thời điểm 31/12/2012 đạt 175,196 tỷ đồng, giảm 37% so với đầu năm. Lợi nhuận trước thuế năm 2012 của ACB chỉ đạt ở mức 1,042.67 tỷ đồng, chỉ đạt 25% so với năm 2011. Một số chỉ tiêu phản ánh tình hình tài chính tín dụng của ACB tính đến 30/09/2013: - Tổng tài sản đạt 159,880 tỷ đồng, giảm 15,316 tỷ đồng so với năm 2012 - Huy động đạt 134,175 tỷ đồng, tăng 8,942 tỷ đồng và đạt 59.5% so với kế hoạch đề ra. Điều này cho thấy ACB đã dần lấy lại được lòng tin của khách hàng sau khi xảy ra sự cố vào năm trước. - Trong lĩnh vực cho vay, dư nợ ACB đạt 103,503 tỷ đồng, tăng 688 tỷ đồng so với năm 2012 và đạt 5.56% so với con số kế hoạch đề ra. - Bên cạnh sự hồi phục trong hoạt động kinh doanh, tình hình nợ xấu của ACB cũng bắt đầu tăng nhanh. Tính đến thời điểm 30/09, tổng nợ xấu ACB là 3,451 tỷ đồng, tăng 880 tỷ đồng so với năm 2012. Và điều đáng quan tâm nhất là trong khi nợ nhóm 4-5 có xu hướng giảm thì tỷ trọng nợ dưới tiêu chuẩn (nợ nhóm 3) lại tăng
  28. 19 mạnh nhất (tăng gần 1,594 tỷ đồng). Điếu đó cho thấy, tuy ACB có tốc độ tăng trưởng chậm trong hoạt động tín dụng nhưng tình hình nợ quá hạn đã bắt đầu nhen nhóm và phổ biến tại các đơn vị trên toàn hệ thống. Điều này cho thấy công tác cho vay và nhất là công tác quản trị rủi ro của ACB đang rơi vào vùng nguy hiểm. 2.1.2.2. Nghiệp vụ huy động vốn Nhìn chung, tình hình huy động vốn của ACB giai đoạn 2010- 2012 có sự biến động mạnh. Chủ yếu là do sự cố rút tiền xảy ra vào trung tuần tháng 8/2012 và do giảm nguồn vốn huy động vàng theo chủ trương của Chính phủ và NHNN. Chính hai nguyên nhân này đã làm thay đổi cục diện tăng trưởng huy động của ACB từ tăng trưởng mạnh ở mức gần 33% vào năm 2011 xuống âm (-) 12% vào năm 2012. Xét theo loại tiền, số dư ngoại tệ và vàng có giảm nhưng là sự giảm dần đều trong tỷ trọng huy động. Điều đó chứng tỏ rằng nguyên nhân của nó chủ yếu là do ACB đã thực hiện việc xử lý trạng thái vàng theo đúng tiến độ và chủ trương của Chính phủ và NHNN. VND Ngoại tệ và vàng 8.00% 19.66% 13.02% 92.00% 80.34% 86.98% 2010 2011 2012 Hình 2.1 - Tình hình huy động vốn theo loại tiền của ACB giai đoạn 2010-2012 Như vậy, sự cố rút tiền chủ yếu tác động đến công tác huy động VND. Nhưng với chính sách điều hành linh hoạt, ứng phó tốt và nhanh chóng khắc phục sự cố, thanh khoản và sự an toàn của ngân hàng được đảm bảo, số dư huy động tiết kiệm VND đã được khôi phục trong thời gian ngắn. Kết quả huy động tiết kiệm VND năm 2012 của ACB tuy có sự “lùi” nhẹ so với đầu năm nhưng nó vẫn luôn chiếm tỷ trọng trên 80% trong tổng số dư huy động, vẫn tiếp tục giữ vai trò là nguồn vốn ổn định và thế mạnh truyền thống của ACB (hình 2.1).
  29. 20 Đặc biệt, trong bối cảnh ACB tuân thủ trần lãi suất huy động trong suốt thời gian dài và bị ảnh hưởng bởi sự cố rút tiền từ tháng 8 vừa qua, số dư tiền gửi của khách hàng cá nhân cũng tăng liên tục qua các năm và luôn chiếm vai trò chủ đạo (72% - 88%) trong các thành phần kinh tế ủng hộ gửi tiền tại ACB đã cho thấy sức mạnh của ngân hàng bán lẻ ACB tại Việt Nam (hình 2.2). Các đối tượng khác 0.56% 0.72% 0.86% Cá nhân Hợp tác xã 72.07% 84.05% 88.20% Công ty 100% vốn nước ngoài Công ty liên doanh 0.29% 0.02% 0.28% Công ty cổ phần, công ty 0.02%0.44% 0.53% 26.28% 0.01%0.41% TNHH, doanh nghiệp tư nhân 0.38% 13.59% 9.78% Doanh nghiệp Nhà nước 0.79% 0.33% 0.35% 2010 2011 2012 Hình 2.2 -Tình hình huy động vốn theo loại hình khách hàng của ACB giai đoạn 2010-2012 2.1.2.3. Nghiệp vụ cấp tín dụng Trong công tác cho vay, tổng dư nợ năm 2012 của ACB hầu như không có sự thay đổi so với năm 2011. Bên cạnh ảnh hưởng của sự khủng hoảng kinh tế toàn cầu phải kể đến tác động của thông tư số 11/2011/TT-NHNN ngày 29/4/2011 của NHNN về việc chấm dứt huy động và cho vay vốn bằng vàng của tổ chức tín dụng, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/5/2011. Đây là nguyên nhân gây nên sự quay đầu mạnh của số dư nợ ngoại tệ và vàng từ tăng 25.36% vào năm 2011 xuống âm (-) 30.33 % trong năm 2012. Ổn định hơn thị trường ngoại tệ và vàng, ACB có tăng trưởng tương đối ổn định trong mảng cho vay VND, mảng luôn chiếm trên 70% dư nợ. Tuy tốc độ tăng trưởng năm 2012 có giảm hơn so với năm 2011 nhưng cũng đã thể hiện được sự cố gắng của toàn hệ thống ACB trong bối cảnh các cá nhân và doanh nghiệp Việt Nam đang gặp khó khăn như hiện nay (hình 2.3).
  30. 21 VND Ngoại tệ và vàng 24.61% 26.16% 18.23% 75.39% 73.84% 81.77% 2010 2011 2012 Hình 2.3 -Tình hình cho vay theo loại tiền của ACB giai đoạn 2010-2012 Nếu xét về thời hạn vay, ACB tập trung xem xét tài trợ cho vay ngắn hạn nhiều hơn và hạn chế cho vay trung dài hạn. Cụ thể, các khoản cho vay ngắn hạn luôn chiếm trên 50% và tỷ trọng này đều tăng dần qua các năm. Các sản phẩm thế mạnh là cho vay hỗ trợ vốn sản xuất kinh doanh, vay bổ sung vốn lưu động theo các hình thức cấp hạn mức tín dụng, vay từng lần hay trả góp với thời gian lên đến 180 tháng (vay tiêu dùng, vay mua/xây dựng sữa chữa nhà, mua bất động sản). Ngắn hạn Trung hạn Dài hạn 26.88% 21.36% 26.78% 22.79% 26.73% 18.87% 50.34% 51.90% 54.35% 2010 2011 2012 Hình 2.4 -Tình hình cho vay theo thời hạn vay của ACB giai đoạn 2010-2012 Về đối tượng khách hàng mục tiêu, ACB luôn định hướng tập trung vào khách hàng cá nhân và các doanh nghiệp vừa và nhỏ (công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần và doanh nghiệp tư nhân). Đây là hai nhóm khách hàng trọng tâm và luôn chiếm từ 93-96% tỷ trọng khách hàng tại ACB. Trong đó, điều kiện sàng lọc khách hàng là các cá nhân có nghề nghiệp, thu nhập ổn định, có quan hệ xã hội, lịch sử bản thân lành mạnh, lịch sử quan hệ tín dụng tốt và có thái độ hợp tác tốt; các doanh nghiệp có ngành nghề hoạt động rõ ràng, lịch sử quan hệ tín dụng tốt, đội ngũ
  31. 22 điều hành có kinh nghiệm, cơ cấu sở hữu và cổ đông rõ ràng và có thái độ hợp tác tốt với ACB. Cá nhân và các đối tượng khác 37.37% 34.87% 43.13% Hợp tác xã 0.02% 0.02% 0.79% 0.45%0.02% 0.49% 0.03% 0.30%0.46% Công ty 100% vốn nước ngoài 56.17% 60.61% 52.91% Công ty liên doanh 5.75% 3.23% 3.18% Công ty cổ phần, công 2010 2011 2012 ty TNHH, doanh nghiệp tư nhân Hình 2.5 - Tình hình cho vay theo các thành phần kinh tế của ACB giai đoạn 2010-2012 Về thị trường mục tiêu, TP HCM với vai trò là trung tâm kinh tế, tài chính, thương mại, dịch vụ của cả nước; là hạt nhân của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, một trong ba vùng kinh tế trọng điểm lớn nhất nước là khu vực hoạt động chính của ACB (luôn chiếm trên 60% dư nợ). Tuy nhiên, cũng với vai trò là trung tâm tài chính ngân hàng lớn nhất Việt Nam, thành phố dẫn đầu cả nước về số lượng ngân hàng và doanh số quan hệ tài chính - tín dụng nên xét về góc độ cạnh tranh, TP HCM cũng là nơi có mức cạnh tranh khốc liệt nhất. Cùng với sự phát triển của TP. HCM, hạt nhân vùng Đông Nam bộ, khu vực miền Đông cũng bắt đầu thể hiện vai trò của vùng kinh tế trọng điểm bằng sự chuyển mình với tốc độ tăng trưởng 24% so với năm 2011 (hình 2.6). 6.21% 5.52% 6.85% TP.HCM 5.06% 5.96% 7.25% 19.70% 23.08% 19.54% Đồng bằng SCL 4.03% 4.81% 4.85% Miền Bắc Miền Trung 65.00% 61.52% 60.62% Miền Đông 2010 2011 2012 Hình 2.6 -Tình hình cho vay theo khu vực địa lý của ACB giai đoạn 2010-2012
  32. 23 2.1.2.4. Tình hình nợ xấu Trong bối cảnh biến động mạnh của tình hình kinh tế - xã hội, thị trường vốn và thị trường tiền tệ trong nước và thế giới, ACB đã không ngừng nâng cao năng lực, tái cơ cấu và chấn chỉnh lại bộ máy hoạt động, sửa đổi và hoàn thiện chính sách tín dụng, các mô hình đánh giá xếp hạng và các biện pháp kiểm soát tín dụng hiệu quả như: chọn lọc dự án đầu tư, sàng lọc khách hàng, kiểm soát chất lượng tín dụng, tập trung đầu tư vốn trên cơ sở an toàn. Các chính sách của ACB đã thể hiện và phát huy được hiệu quả trong việc ngăn ngừa, quản lý rủi ro tín dụng trong thời gian qua. Bảng 2.1 – Tổng hợp tình hình nợ xấu của ACB giai đoạn 2010-2012 Năm 2010 2011 2012 Giá trị (trđ) Tỷ lệ (%) Giá trị (trđ) Tỷ lệ (%) Giá trị (trđ) Tỷ lệ (%) Nợ đủ tiêu chuẩn 86,693,232 99.42 101,564,431 98.79 94,822,750 92.23 Nợ cần chú ý 209,067 0.24 326,758 0.32 5,421,128 5.27 Nợ dưới tiêu chuẩn 64,759 0.07 274,973 0.27 747,218 0.73 Nợ nghi ngờ 58,399 0.07 345,655 0.34 673,361 0.65 Nợ có khả năng mất vốn 169,648 0.19 297,339 0.29 1,150,391 1.12 (Nguồn: Ngân hàng TMCP Á Châu) Tuy nhiên, khi hoạt động trong một môi trường luôn tồn tại tình trạng thông tin không hoàn hảo như ngày nay, ACB cũng không thể tránh khỏi tác động tiêu cực của quy luật rủi ro khi cho vay. Kể từ năm 2010, nợ xấu (nhóm 3-5) bắt đầu tăng mạnh, kéo chất lượng tín dụng đi xuống. Nợ xấu chiếm từ 0.34% - 0.89% vào năm 2010 và 2011 đã tăng lên 2.46% tổng dư nợ vào năm 2012. Bên cạnh đó, tỷ lệ nợ cần chú ý (nhóm 2) cũng tăng mạnh chiếm tới 5.19% tổng dư nợ so với tỷ lệ 0.32- 0.34% của hai năm trước đó (hình 2.7). Đây là một điểm đáng báo động khi tính liên thông giữa thị trường bất động sản và thị trường tín dụng ngày càng hiện hữu. Vì phần lớn dư nợ của các tổ chức tín dụng nói chung và của ACB nói riêng thường thế chấp bằng bất động sản nên khi thị trường nhà đất đóng băng, giá trị tài sản suy giảm nhanh chóng, chất lượng tài sản thế chấp xấu đi nghiêm trọng và nợ xấu lại tiếp tục gia tăng.
  33. 24 Triệu đồng 3,000,000 2,570,970 2,500,000 2,000,000 1,500,000 1,000,000 917,967 500,000 292,806 0 2010 2011 2012 Hình 2.7 – Tình hình nợ xấu (nhóm 3-5) tại ACB giai đoạn 2010-2012 2.1.3. Năng lực cạnh tranh trong hoạt động tín dụng của ACB Ngân hàng Á Châu - ACB, với kinh nghiệm và uy tín thương hiệu từ 20 năm phát triển vượt bậc, là ngân hàng mạnh của ngành ngân hàng Việt Nam với tổ chức vận hành vững mạnh, năng lực tài chính dồi dào, được tin tưởng và hỗ trợ chặt chẽ từ các bên hữu quan. Tháng 5/2012, tổ chức xếp hạng tín nhiệm Moody’s đã công bố kết quả đánh giá xếp hạng sức mạnh tài chính riêng biệt (BFSR) của ACB ở mức E+. ACB nằm trong nhóm các ngân hàng có mức BFSR cao nhất Việt Nam. Trong lần đánh giá này, Moody’s tiếp tục ghi nhận những thế mạnh của ACB với vị trí của một ngân hàng lớn có vị thế dẫn đầu: ngân hàng lớn thứ 5 trong toàn hệ thống ngân hàng Việt Nam và là ngân hàng tư nhân lớn nhất; khả năng sinh lời mạnh, hiệu quả hoạt động tốt, khả năng thanh khoản mạnh; hệ thống phê duyệt và kiểm soát rủi ro tín dụng tốt; hệ thống quản lý rủi ro và kiểm soát nội bộ không ngừng được cải tiến. Trên thực tế, nếu xét trên cơ sở phân tích ước lượng các nhóm tiêu chí sức mạnh thị trường, sự ổn định về năng lực tài chính, hiệu quả hoạt động kinh doanh và tiềm năng phát triển, ACB nằm trong nhóm được xếp hạng A về năng lực cạnh tranh (mức cao nhất) trong số các NHTM trên cả nước. Còn nếu xét riêng mảng cho vay, ACB với những thế mạnh sẵn có, đã trở thành một trong những đối thủ nặng cân đối với các ngân hàng bạn, nhất là những ngân hàng ngoài quốc doanh như Sacombank, Techcombank, Eximbank .
  34. 25 4.50% 3.80% 4.00% 4.00% 3.33% 3.50% 3.00% 2.50% 2.00% 1.50% 1.00% 0.50% 0.00% Năm 2010 Năm 2011 Năm 2012 Hình 2.8 – Thị phần tín dụng của ACB trong giai đoạn 2010-2012 Trong những năm qua, mặc dù áp lực cạnh tranh trong ngành ngân hàng rất cao nhưng ACB vẫn đạt tốc độ tăng trưởng cao hơn tốc độ tăng trưởng trung bình của toàn ngành trong lĩnh vực cho vay các tổ chức kinh tế và dân cư. Năm 2012, ACB chiếm 3.33% thị phần cho vay của cả nước, giảm 0.63% so với năm 2011 (hình 2.8). Tuy nhiên, đây là một tỷ trọng khá cao so với các NHTM ngoài quốc doanh như Sacombank (3.19%), Techcombank (2.21%), Eximbank (2,42%)1. Việt Nam gia nhập WTO đã mở ra cơ hội phát triển cho thị trường tài chính và các ngành phụ trợ liên quan đến ngành ngân hàng. Tuy nhiên, nó cũng kéo theo sự tấn công của các ngân hàng nước ngoài, tạo thêm sức ép trong hoạt động cho các ngân hàng trong nước, trong đó có ACB. Nhưng thay vào đó, khi nền tài chính thế giới và Việt Nam đang gặp khó khăn, các ngân hàng nước ngoài sẽ không quá tích cực xâm nhập thị trường Việt Nam do các vấn đề từ thị trường chính của họ sẽ làm cho việc cạnh tranh với các ngân hàng này bớt căng thẳng, nhất là trong lĩnh vực bán lẻ. Bên cạnh đó, quá trình tái cấu trúc ngành ngân hàng Việt Nam sẽ làm cho các ngân hàng nhỏ đang làm “rối” thị trường giảm bớt tham vọng tăng trưởng nhanh của mình. Điều này làm cho thị trường vận hành hiệu quả và minh bạch hơn. Đồng thời, việc cạnh tranh nguồn nhân lực cũng sẽ bớt gay gắt khi khả năng mở rộng mạng lưới bị hạn chế bởi chủ trương của NHNN. 1 Năm 2012 dư nợ nền kinh tế đạt 3,090,904 tỷ đồng. Trong đó, Sacombank: 98,728 tỷ đồng, Techcombank 68,261 tỷ đồng và Emximbank là 74,922 tỷ đồng.
  35. 26 2.2. ẢNH HƯỞNG CỦA THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA NH TMCP Á CHÂU 2.2.1. Đánh giá các cơ sở vật chất và các điều kiện cần thiết để hạn chế ảnh hưởng của thông tin bất cân xứng đến hoạt động tín dụng tại ACB 2.2.1.1. Hệ thống thông tin kế toán và báo cáo tài chính Hệ thống thông tin kế toán và báo cáo tài chính là một cơ sở quan trọng giúp cho các bên có liên quan nắm bắt được tình hình tài chính của doanh nghiệp. Nếu một hệ thống thông tin kế toán và báo cáo tài chính không minh bạch và không có độ tin cậy cao sẽ gây nhiều khó khăn khi sử dụng để làm căn cứ xác định tình trạng thực tế của doanh nghiệp. Tại Việt Nam, quy định về kiểm toán độc lập chưa bắt buộc áp dụng đối với tất cả các loại hình doanh nghiệp. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ thường xây dựng báo cáo tài chính mang tính chất đối phó với cơ quan thuế nên báo cáo chính thức thường thấp hơn tình trạng thực tế, không đảm bảo đủ điều kiện vay vốn ngân hàng. Thậm chí là tại một doanh nghiệp có thể có nhiều hệ thống báo cáo như một bản là dùng để báo cáo thuế (kết quả kinh doanh thấp hơn rất nhiều so với thực tế), một bản dùng để cung cấp cho ngân hàng (báo cáo thường cao hơn thực tế) và một dùng để dùng cho nội bộ (đúng thực tế). Thêm vào đó, hầu hết các ngân hàng không có yêu cầu khách hàng đến giao dịch tín dụng phải có báo cáo tài chính được kiểm toán. Nên việc sử dụng các báo cáo tài chính để làm căn cứ thẩm định dự án của các ngân hàng chưa có đủ độ tin cậy. Trước tình hình đó, để tránh rơi vào lựa chọn bất lợi khi cấp tín dụng, cho vay quá ít hoặc quá nhiều so với tình trạng thực tế của doanh nghiệp, ACB không hoàn toàn dựa vào báo cáo tài chính để làm cơ sở phê duyệt. Trên thực tế, ACB còn dựa trên các thông tin thu thập được từ nhiều nguồn khác nhau như phỏng vấn trực tiếp khách hàng, thông qua các chứng từ, sổ sách theo dõi hoạt động kinh doanh, tham khảo số liệu ngành chung để đối chiếu so sánh, thiết lập và chọn ra một bản báo cáo phù hợp và sát với thực tế hơn từ doanh nghiệp.
  36. 27 2.2.1.2. Tổ chức đánh giá tín dụng độc lập Hiện tại ở Việt Nam đã có trung tâm thông tin tín dụng CIC của NHNN và một số công ty chứng khoán đã làm công tác xếp loại khách hàng. Bên cạnh đó là sự ra đời của một số tổ chức xếp hạng tín nhiệm như: Trung tâm Đánh giá tín nhiệm Vietnamnet Ratings (CRV) thuộc Công ty Phần mềm và Truyền thông VASC, Công ty cổ phần Tư vấn và Dịch vụ Thông tin Tín nhiệm Việt Nam (VNCIS) gọi tắt là Công ty Thông tin Tín nhiệm Việt Nam, Trung tâm Khoa học thẩm định tín nhiệm doanh nghiệp (CRC) nhưng tất cả đã bộc lộ những bất cập trong quá trình hoạt động của mình. * Trung tâm tín dụng CIC thuộc NHNN Việt Nam là tổ chức có chức năng thu nhận, lưu trữ, phân tích, xử lý, dự báo thông tin tín dụng phục vụ cho yêu cầu quản lý nhà nước của NHNN; thực hiện các dịch vụ thông tin ngân hàng theo quy định của NHNN và của pháp luật. Sản phẩm phân tích xếp hạng tín dụng (XHTD) doanh nghiệp tại CIC được ra đời và thí điểm từ năm 2002, đến năm 2004 được chính thức cung cấp cho các TCTD, đến năm 2006 nghiệp vụ phân tích XHTD doanh nghiệp được Thống đốc NHNN phê duyệt là một nghiệp vụ chính thức của Trung tâm Thông tin tín dụng. Điều đó đã khẳng định vai trò, vị trí và tầm quan trọng của XHTD doanh nghiệp trong hoạt động thông tin tín dụng. CIC là đơn vị duy nhất tại Việt nam có được những thế mạnh về XHTD như: có hệ thống công nghệ thông tin hiện đại với một dữ liệu lớn về tài chính doanh nghiệp; dữ liệu đánh giá lịch sử quan hệ tín dụng của doanh nghiệp được cung cấp bởi 100% các TCTD hoạt động tại Việt Nam; các đánh giá về phi tài chính mang tính tổng quát, hệ thống và có kết hợp với đánh giá chuyên gia; đáp ứng được các yêu cầu đặt ra của hệ thống XHTD, cập nhật kịp thời khi có bất kỳ biến động nào của phía doanh nghiệp hoặc các biến động kinh tế liên quan đến doanh nghiệp. Trên thực tế, trung tâm CIC đã thể hiện được vai trò cần thiết của mình trong việc cung cấp thông tin đối với các TCTD. Tuy nhiên, chất lượng thông tin chưa cao, các các chỉ tiêu còn chung chung và có độ cập nhật không cao. Những thông
  37. 28 tin cần thiết để xác định lịch sử, độ tin cậy của doanh nghiệp và những người điều hành hầu như không có. Mặt khác, sự hợp tác giữa các ngân hàng và trung tâm CIC không đồng bộ và chưa đạt hiệu quả cao. Một số ngân hàng do chưa thực sự ý thức về tầm quan trọng của tính cập nhật và chính xác về thông tin nên các TCTD chưa có sự quan tâm đúng mức đến các thông tin, dữ liệu khi báo cáo cho CIC. Thậm chí, một số NHTM vì sợ cạnh tranh nên không cung cấp thông tin hoặc cung cấp thông tin không chính xác cho trung tâm CIC dẫn đến tình trạng khách hàng có thể phát sinh nhiều quan hệ vay vốn tại nhiều TCTD trong một thời điểm. Chính vì vậy, ngân hàng rất khó trong việc giám sát mục đích sử dụng vốn vay của khách hàng. Đây chính là vấn đề rủi ro đạo đức và lựa chọn đối nghịch xảy ra tại các ngân hàng. *Trung tâm Đánh giá tín nhiệm Vietnamnet Ratings (CRV) thành lập ngày 4/6/2005 là tổ chức chuyên cung cấp cho thị trường các dịch vụ thu thập thông tin, đánh giá xếp hạng, định mức tín nhiệm của các tổ chức tài chính và xếp hạng DN. Quy trình đánh giá của công ty gồm hơn 100 chỉ tiêu tài chính và phi tài chính, được xử lý bởi phần mềm tính điểm với phương châm “độc lập, khách quan và xác thực”. Tuy nhiên, phương pháp định mức tín nhiệm dựa trên cơ sở thống kê của CRV được cho là cần kho dữ liệu lớn và có thời gian tích lũy thông tin lâu dài. Sau khi bảng xếp hạng “chỉ số tín nhiệm” của 32 ngân hàng Việt Nam được CRV công bố lần đầu vào tháng 9/2012, nhiều thông tin trái chiều đã đặt ra hoài nghi về tính xác thực và năng lực thẩm định của đơn vị này. Vì trong đó có sự khác biệt lớn giữa bảng xếp hạng của công ty với bảng xếp hạng tín dụng do CIC công bố vào đầu năm. * Công ty cổ phần Tư vấn và Dịch vụ Thông tin Tín nhiệm Việt Nam (VNCIS) là công ty hoạt động trong lĩnh vực tư vấn và cung cấp các dịch vụ thông tin kinh tế, thông tin tín nhiệm doanh nghiệp cho doanh nghiệp, tổ chức tín dụng, nhà đầu tư trong và ngoài nước nhằm ngăn ngừa hạn chế rủi ro trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp, góp phần phát triển nền kinh tế Việt Nam.
  38. 29 Công ty được biết đến với đội ngũ chuyên gia hàng đầu Việt Nam giàu kinh nghiệm trong lĩnh vực xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp, tư vấn xếp hạng và quản trị rủi ro tín dụng thương mại doanh nghiệp; quy trình công nghệ hiện đại và kho dữ liệu doanh nghiệp phong phú gần 300.000 doanh nghiệp Việt Nam; quan hệ đối tác chặt chẽ với Trung tâm thông tin tín dụng (CIC) – NHNN Việt Nam và các cơ quan thông tin khác. Tuy nhiên, cho đến nay, công ty này mới xuất bản duy nhất một ấn phẩm “Xếp hạng tín dụng Top 1000 doanh nghiệp Việt Nam năm 2011” hợp tác với Trung tâm Thông tin tín dụng - CIC. * Trung tâm Khoa học thẩm định tín nhiệm doanh nghiệp (CRC) cũng là một đơn vị thường hợp tác với CIC. CRC cũng có kho dữ liệu đầy đủ với nguồn nhân lực gồm các chuyên gia nhưng hoạt động lại kém hiệu quả, không giúp ích cho các tổ chức tín dụng và nhà đầu tư bởi CRC xác định định mức tín nhiệm không theo hạng mức cao thấp mà chỉ nhằm đánh giá xem tình hình tài chính của đối tượng đang ở mức an toàn hay không. Tận dụng những lợi ích hiện có của CIC, những thông tin được cung cấp từ CIC được ACB sử dụng một cách hiệu quả. Tất cả khách hàng và những cá nhân/ tổ chức có liên quan (người bảo lãnh, người đồng ký vay, người đồng trả nợ ) đều được tra cứu thông tin CIC. Và đây là một thao tác bắt buộc và có quy định chặt chẽ trong quá trình cấp tín dụng. Thông tin CIC phải được tra cứu trước khi lập tờ trình tín dụng như một bước sàng lọc những khách hàng đã từng phát sinh nợ không đủ tiêu chuẩn trong quá trình vay vốn. 2.2.1.3. Hệ thống định giá và đăng ký tài sản đảm bảo Một hệ thống đăng ký quyền sở hữu tài sản rõ ràng là vô cùng quan trọng cho phát triển nền kinh tế nói chung và hoạt động tín dụng của ngân hàng nói riêng. Nếu tất cả các tài sản được đăng ký và xác nhận quyền sở hữu, thì người sở hữu nó có thể đem tài sản này thế chấp, cầm cố vay vốn ngân hàng. Hay nói các khác, nếu tất cả các tài sản (nhất là các bất động sản) được đăng ký quyền sở hữu (hay quyền sử dụng) thì nó mới thực sự là tài sản, nếu không, nó chỉ là của cải vật chất đơn thuần của người có nó và việc chuyển nhượng, thế chấp, cầm cố sẽ gặp nhiều khó khăn.
  39. 30 Hiện nay, việc đăng ký tài sản đã có quy định, nhưng nhìn chung việc thực hiện chưa được triệt để và rộng khắp. Nguyên nhân của vấn đề này là do thực tế khách quan có rất nhiều loại tài sản không thực hiện đúng các trình tự, thủ tục và không có đầy đủ các giấy tờ cần thiết nên việc đăng ký chứng nhận quyền sở hữu là rất khó. Đặc biệt là các bất động sản tại khu vực nông thôn, rất nhiều hộ làm nhà tự phát mà không có bất kỳ một giấy tờ nào. Những loại bất động sản này chỉ có thể được xem là những công cụ, phương tiện phục vụ cho cuộc sống hàng ngày của người dân mà rất khó đưa vào chu chuyển trong nền kinh tế. Với sự không minh bạch và khó xác định tính xác thực, hợp lý, hợp lệ cũng như giá trị của các loại tài sản gây rất nhiều khó khăn cho các ngân hàng trong việc đưa ra quyết định cấp tín dụng của mình. Trong khi tại một số TCTD ở Việt Nam, nhân viên thẩm định khách hàng cũng đồng thời làm công tác thẩm định tài sản khi cho vay. Thì tại ACB, hoạt động thẩm định tài sản được tách bạch với công tác thẩm định khách hàng. Đội ngũ nhân viên thẩm định tài sản được đào tạo bài bản, chuyên nghiệp. Các thông tin về TSBĐ được khảo sát thực tế, đầy đủ chi tiết về tính pháp lý cũng như giá trị thực tế đảm bảo tính minh bạch, rõ ràng, xác thực và an toàn cho cán bộ tín dụng khi cho vay. Về hệ thống đăng ký giao dịch đảm bảo, để tránh tình trạng khách hàng sử dụng một tài sản thế chấp, cầm cố, vay vốn nhiều ngân hàng, các TCTD, trong đó có ACB đều tuân thủ quy định việc đăng ký giao dịch đảm bảo các tài sản này chỉ được thực hiện tại một số cơ quan có thẩm quyền như: cơ quan đăng ký quốc gia giao dịch đảm bảo và chi nhánh: cơ quan đăng ký tàu biển và thuyền viên khu vực; cục hàng không dân dụng Việt Nam; sở địa chính hoặc tài nguyên môi trường; ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn. Mỗi cơ quan nêu trên thực hiện đăng ký giao dịch đảm bảo mỗi loại tài sản theo quy định.
  40. 31 2.2.1.4. Hệ thống công chứng Những năm qua, hoạt động công chứng ở nước ta mặc dù đã có nhiều đổi mới và chuyển biến tích cực nhưng trên thực tế vẫn còn tồn tại một số hạn chế nhất định. Bên cạnh hiện tượng cạnh tranh không lành mạnh giữa ở các văn phòng công chứng, chất lượng công chứng vẫn còn thấp do trình độ thẩm định, nghiệp vụ của một số công chứng viên yếu và không đồng đều. Tại một số nơi lực lượng công chứng viên còn khá mỏng so với nhu cầu thực tế, dễ gây ách tắc thậm chí có thể dẫn đến những sai sót trong việc công chứng thế chấp gây thiệt hại cho ngân hàng. Ngoài ra, khi nạn giả mạo giấy tờ để lừa đảo ngày càng gia tăng, sự dễ dãi trong thẩm định hồ sơ dẫn tới việc công chứng ẩu, công chứng sai gây cản trở và ảnh hưởng lớn đến uy tín và chất lượng hoạt động của các văn phòng công chứng. Đặc biệt là có nhiều công chứng viên, văn phòng công chứng còn cố tình lách luật gây ra hàng loạt những sai phạm nghiêm trọng. Để hạn chế các rủi ro phát sinh ở giai đoạn công chứng gây thiệt hại cho ngân hàng cũng như khách hàng, ACB đều rất thận trọng trong tất cả các khâu từ công tác soạn thảo, chuẩn bị và kiểm soát hồ sơ trước khi thực hiện công chứng. Nhân viên pháp lý chịu trách nhiệm tính chính xác, minh bạch, đầy đủ và đảm bảo tính pháp lý của tất cả các thông tin trên hợp đồng. Thêm vào đó là sự kiểm soát chặt chẽ của kiểm soát viên tín dụng hoặc trưởng bộ phận tín dụng trước khi thực hiện công chứng tại phòng công chứng. Ngoài ra, để tránh những khiếu nại có thể phát sinh cũng như đảm bảo công bằng, việc phổ biến và thống nhất nội dung trên hợp đồng với khách hàng cũng được ACB rất chú trọng trước khi đi công chứng. 2.2.1.5. Hệ thống thanh tra giám sát ngân hàng Trong những năm qua, hoạt động thanh tra giám sát ngân hàng đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, đảm bảo cho hệ thống ngân hàng phát triển và hoạt động an toàn, hiệu quả; góp phần phát triển kinh tế của đất nước. Tuy nhiên, hệ thống thanh tra giám sát ngân hàng Việt Nam vẫn còn một số hạn chế nhất định. Hiện nay, phương pháp thanh tra, giám sát chủ yếu là thanh tra và kiểm tra tính tuân thủ của các TCTD đối với các qui định pháp lý về hoạt động ngân hàng,
  41. 32 chưa tập trung vào mô hình thanh tra hướng đến mục tiêu, đảm bảo an toàn hoạt động ngân hàng như thanh tra đánh giá rủi ro thị trường, cảnh báo sớm các rủi ro có thể xảy ra do cơ chế điều hành có vấn đề hay do đầu tư cho vay vào những ngành và lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro. Phương pháp này hiện nay đã tỏ ra không còn hiệu quả khi hệ thống các TCTD đã gia tăng nhanh chóng về số lượng, qui mô và loại hình, đòi hỏi phải mở rộng và tiếp cận từng bước với phương pháp giám sát dựa trên rủi ro. Khả năng đáp ứng yêu cầu thông tin phục vụ cho hoạt động giám sát còn nhiều hạn chế như: thiếu thông tin, chưa có hệ thống xử lý thông tin tập trung; quy trình tiếp nhận thông tin báo cáo tài chính của các TCTD còn nhiều bất cập, tình trạng cả chi nhánh và hội sở của TCTD đều phải thực hiện báo cáo không chỉ gây ra sự lãng phí tiền vốn và thời gian, mà còn dẫn đến sự sai lệch dữ liệu; thông tin đi qua nhiều khâu chuyển tiếp dẫn đến sai lệch dữ liệu và mất nhiều thời gian; việc thu thập thông tin về TCTD trong quá trình thanh tra tại chỗ chưa được quản lý bằng một hệ thống thông tin, gây khó khăn trong việc tổng hợp và kiểm soát dữ liệu. Hoạt động thanh tra, giám sát còn đơn độc trong giám sát hiệu quả kinh doanh của TCTD, chưa xem xét và nâng cao vai trò giám sát tại chỗ của kiểm toán, kiểm soát nội bộ trong từng TCTD cũng như phối hợp với những tổ chức khác như bảo hiểm tiền gửi, các công ty kiểm toán độc lập, nhằm tăng cường hiệu quả giám sát theo hướng đánh giá và phòng ngừa rủi ro. Cơ quan giám sát thuộc NHNN vừa thực hiện chức năng cấp phép, vừa ban hành cơ chế chính sách, vừa thực hiện chức năng hướng dẫn, triển khai thực hiện cơ chế chính sách và thực hiện vai trò kiểm tra, thanh tra, giám sát hoạt động ngân hàng. Điều này dễ dẫn đến xung đột lợi ích, hạn chế hiệu quả và hiệu lực giám sát. Các công cụ phục vụ cho hoạt động giám sát dựa trên rủi ro còn thiếu và chưa được vận dụng nhiều vào thực tế. Các mô hình phân tích định lượng, dự báo và kiểm định đánh giá rủi ro hay cảnh báo sớm đối với từng TCTD và toàn hệ thống TCTD chưa phát triển, làm giảm tính chuyên nghiệp và hiệu quả hoạt động thanh tra, giám sát.
  42. 33 Ngoài ra, cơ quan thanh tra giám sát còn hạn chế về phương diện kỹ thuật, việc ứng dụng công nghệ về thu thập và xử lý thông tin còn lạc hậu, mức độ chính xác và tính cập nhật dữ liệu còn hạn chế. Thêm vào đó, việc áp dụng mô hình kiểm định và kiểm tra tính hiệu quả của mô hình quản trị rủi ro của các TCTD vào thực tiễn thanh tra, giám sát các TCTD còn gặp khó khăn do nguồn nhân lực còn hạn chế về trình độ chuyên môn nghiệp vụ. ACB luôn tuân thủ theo các quy định của cơ quan quản lý, ủng hộ chủ trương hợp tác, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động thanh tra giám sát của NHNN được thực hiện hiệu quả. 2.2.1.6. Chính sách lãi suất Lãi suất vừa là một công cụ sắc bén thực thi vai trò đòn bẩy điều tiết kinh tế vĩ mô vừa nâng cao hiệu quả, an toàn vốn tín dụng. Trong thời gian qua cơ chế điều hành lãi suất chưa được vận hành hữu hiệu, mặc dù lãi suất hiện đã giảm xuống thấp nhưng chênh lệch giữa lãi suất cho vay với huy động vẫn ở mức cao, cơ chế điều hành lãi suất đồng Việt Nam và lãi suất ngoại tệ chưa gắn kết chặt chẽ với nhau và chưa được đặt trong quan hệ hợp lý với điều hành tỷ giá khiến cho nhu cầu đầu tư, thanh toán, nắm giữ tài sản và tích trữ giá trị bằng bất động sản, vàng, ngoại tệ còn phổ biến. Lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức là khó khăn thường gặp khi triển khai các chính sách lãi suất của nhà nước. Cả hai loại rủi ro này đều có xu hướng nâng lãi suất lên và tăng rủi ro tín dụng. Lựa chọn đối nghịch xảy ra khi chính sách lãi suất áp dụng hấp dẫn nhiều doanh nghiệp chấp nhận rủi ro; nhiều doanh nghiệp lành mạnh sẽ bị loại ra khỏi thị trường tín dụng do không sẵn sàng trả mức lãi suất cao như các doanh nghiệp đang khó khăn. Rủi ro đạo đức phát sinh khi cơ chế lãi suất yếu, không kiểm soát được các hoạt động cho vay của ngân hàng, trong trường hợp người vay nhận được sự bảo trợ ngầm từ Chính phủ. Tại ACB, chính sách định hướng lãi suất của nhà nước luôn được tuân thủ. Điều này đôi khi khiến lãi suất ACB có thể thấp hơn một số ngân hàng vượt trần lãi suất về huy động hay cao hơn các ngân hàng hạ sàn lãi suất tín dụng. Nhưng xét về
  43. 34 lâu về dài, nhờ chất lượng dịch vụ và sự uyển chuyển trong hoạt động, ACB đã giữ được sự gắn kết khách hàng đồng thời vẫn tuân thủ định hướng lãi suất của NHNN. Ở ACB, lãi suất được quy định cụ thể cho từng nhóm khách hàng, từng sản phẩm dịch vụ kết hợp với các chương trình ưu đãi và chính sách chăm sóc khách hàng, lãi suất của ACB luôn cạnh tranh với các ngân hàng thương mại khác tại Việt Nam. 2.2.1.7. Hệ thống thông tin và cơ sở dữ liệu a. Hệ thống thông tin phục vụ đánh giá xếp loại khách hàng Một hệ thống thông tin đầy đủ về khách hàng như: lịch sử hình thành và quá trình phát triển, năng lực tài chính, mức độ tín nhiệm, ban điều hành là cơ sở hết sức quan trọng giúp cho việc thẩm định, xếp loại lựa chọn khách hàng trong hoạt động của các TCTD. Nếu hệ thống này không đầy đủ và chính xác sẽ ảnh hưởng rất lớn đến khả năng đánh giá, thẩm định khách hàng của các ngân hàng. Hiện nay, trung tâm tín dụng thuộc NHNN Việt Nam (CIC) là tổ chức duy nhất thực hiện công tác thu thập thông tin khách hàng có quan hệ tín dụng với tất cả các TCTD. Cơ chế thu thập thông tin của CIC theo quy chế hoạt động thông tin tín dụng do NHNN ban hành. Trong đó quy định TCTD theo định kỳ có trách nhiệm báo cáo các thông tin liên quan đến khách hàng cho CIC và các TCTD được quyền khai thác thông tin của CIC. Tận dụng những lợi ích hiện có của CIC, thông tin cung cấp từ CIC được ACB sử dụng một cách hiệu quả. Tất cả khách hàng và những cá nhân/ tổ chức có liên quan (người bảo lãnh, người đồng ký vay, người đồng trả nợ ) đều được tra cứu thông tin CIC. Và đây là một thao tác bắt buộc và có quy định chặt chẽ trong quá trình cấp tín dụng. Thông tin CIC phải được tra cứu trước khi lập tờ trình tín dụng như một bước sàng lọc những khách hàng đã từng phát sinh nợ không đủ tiêu chuẩn trong quá trình vay vốn. Ngoài ra, ACB cũng kết hợp thu thập các thông tin của khách hàng và những người có liên quan từ nhiều nguồn khác nhau khi thẩm định để phục vụ cho công tác đánh giá xếp loại khách hàng khi cấp tín dụng tại ACB. b. Hệ thống thông tin nội bộ của các TCTD
  44. 35 Hiện nay, tại một số TCTD ở Việt Nam, hệ thống lưu trữ, xử lý thông tin cũng chưa hiệu quả và tính hệ thống gần như không có. Thậm chí việc kiểm soát tổng dư nợ của một khách hàng (kể cả các đơn vị trực thuộc hạch toán báo số) là một vấn đề rất khó khăn đối với các TCTD. Trong khi đó, tại ACB tình trạng này đã được khắc phục rất sớm. Kể từ năm 1999, ACB đã triển khai chương trình hiện đại hóa công nghệ thông tin ngân hàng, xây dựng hệ thống mạng diện rộng, nhằm trực tuyến hóa và tin học hóa hoạt động giao dịch và đến cuối năm 2001, ACB chính thức vận hành hệ thống công nghệ ngân hàng lõi là TCBS (The Complete Banking Solution: Giải pháp ngân hàng toàn diện), cho phép tất cả chi nhánh và phòng giao dịch nối mạng với nhau, cùng chung cơ sở dữ liệu tập trung và xử lý giao dịch theo thời gian thực. Và đến năm 2010, ACB lại tiếp tục ứng dụng chương trình CLMS vào hoạt động tín dụng của hệ thống. Đây là một chương tình quản lý tín dụng tập trung. CLMS giúp cho ACB rút ngắn được thời gian xử lý và quản lý hồ sơ tín dụng. Bên cạnh đó là hệ thống mail nội bộ (Lotus) luôn trực tuyến. Đây vừa là công cụ hỗ trợ đắc lực trong việc trao đổi thông tin giữa các thành viên gia đình ACB vừa là kho dữ liệu, tài liệu hoạt động quan trọng của toàn hệ thống ACB. Giúp mọi nhân viên có thể lưu trữ, cập nhật và kiểm tra tất cả các tài liệu liên quan đến quy trình, nghiệp vụ của mình một cách nhanh chóng, thuận tiện và với độ bảo mật cao nhất. c. Hệ thống thông tin phục vụ cho việc thẩm định dự án Ngoài hệ thống thông tin dùng để đánh giá khách hàng, khi thẩm định dự án, phương án kinh doanh, các TCTD cần phải có hệ thống thông tin nhằm xác định, kiểm tra các thông số đầu vào và đầu ra của dự án, nhất là các thông số về thị trường các nguyên liệu đầu vào và thị trường đầu ra của các sản phẩm Vấn đề về hệ thống thông tin phục vụ cho công tác thẩm định dự án của các TCTD hiện nay, trong đó có ACB, vẫn đang là vấn đề rất lớn. Những biến số quan trọng nhất quyết định đến hiệu quả của dự án như thông tin về giá nguyên, vật liệu, giá bán, khả năng tiêu thụ có thể thu thập qua nhiều kênh như chứng từ, hóa đơn, sổ sách theo dõi mua bán của hàng hoặc qua internet, các doanh nghiệp và các cơ sở
  45. 36 kinh doanh trong và ngoài nước Tuy nhiên, vì đây là có thể là bí mật của nghề nghiệp nên các thông tin thu thập được thường không đồng nhất và thiếu tính chính xác. Nó phụ thuộc rất nhiều vào trình độ và năng lực của các nhân viên tín dụng. 2.2.1.8. Hệ thống các tiêu chuẩn và kỹ thuật đánh giá a. Các tiêu chuẩn đánh giá năng lực khách hàng Theo quy định đối với những người điều hành doanh nghiệp đòi hỏi phải có một số tiêu chuẩn nhất định nào đó về năng lực, trình độ. Nhưng thực tế những quy định này nặng về hình thức hơn và chủ yếu dựa vào trình độ, kinh nghiệm, chức vụ . Những căn cứ, tiêu chuẩn để dựa vào đó đánh giá khả năng điều hành của một doanh nghiệp, một tổ chức gần như không có. Còn đối với khách hàng là cá nhân việc đánh giá năng lực khách hàng cũng mang tính chủ quan và thiên về định tính nhiều hơn. Tại ACB, khách hàng được đánh giá chủ yếu về năng lực quản lý, điều hành doanh nghiệp/ cơ sở kinh doanh và đặc biệt là năng lực tài chính của khách hàng vì đây là tiêu chí thể hiện khả năng thanh toán nợ vay của khách hàng. Trong đó, năng lực tài chính của khách hàng cá nhân được đánh giá căn cứ vào tình hình tài chính chung của khách hàng và người hôn phối và từ các nguồn thông tin thẩm định khác. Chỉ tiêu được đánh giá là tổng tài sản (tiền mặt, tiền gửi ngân hàng, tiền đang chuyển, chứng khoán, đầu tư/góp vốn, khoản phải thu, phương tiện đi lại, bất động sản ) và tỷ lệ nợ/tổng tài sản trong bảng cân đối tình hình tài chính của khách hàng do nhân viên thẩm định thu thập và thiết lập. Đối với doanh nghiệp, năng lực tài chính của khách hàng căn cứ vào các chỉ tiêu của bảng cân đối kế toán, bảng lưu chuyển tiền tệ b. Các tiêu chuẩn phân tích báo cáo tài chính Yêu cầu cơ bản nhất để phân tích báo cáo tài chính nhằm đưa ra các đánh giá, kết luận có độ tin cậy là phải có hệ thống thông tin báo cáo tài chính đủ độ tin cậy và có hệ thống các chỉ tiêu, chuẩn mực đánh giá. Hiện nay chưa có các tiêu chuẩn, chuẩn mực được cho là hiệu quả để so sánh đánh giá một báo cáo tài chính của một khách hàng là tốt hay không tốt, đủ tiêu chuẩn hay chưa đủ tiêu chuẩn.
  46. 37 Hiện nay, bộ tài chính đã ban hành các thông tư hướng dẫn chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động tài chính của TCTD nhà nước, các doanh nghiệp nhà nước. NHNN Việt Nam đã giao cho trung tâm thông tin tín dụng CIC thực hiện đánh giá xếp loại khách hàng theo một số tiêu chuẩn. Trên cơ sở những tiêu chí của NHNN đưa ra, các TCTD cũng xây dựng hệ thống chỉ tiêu đánh giá, xếp loại khách hàng. Đến nay, một số NHTM, trong đó có ACB cũng đã triển khai công tác đánh giá xếp loại khách hàng, nhưng chỉ giới hạn trong phạm vi nội bộ và chủ yếu là tính cảm quan của nhân viên đánh giá. c. Các tiêu chuẩn thẩm định dự án đầu tư Đây là những thông số, những tiêu chuẩn vô cùng cần thiết như hệ số chiết khấu, mức độ rủi ro, Trong quá trình thẩm định một dự án, có rất nhiều tiêu chuẩn để đánh giá dự án, nhưng hai tiêu chuẩn thông dụng nhất là dựa vào giá trị hiện tại ròng (NPV) và suất thu hồi vốn nội bộ (IRR). Một dự án có NPV dương hay IRR lớn hơn một ngưỡng yêu cầu là có thể quyết định đầu tư hoặc cấp tín dụng cho dự án đó. Vấn đề khó khăn đầu tiên đối với các TCTD khi tính NPV hoặc đánh giá theo tiêu chuẩn IRR là việc xác định suất chiết khấu phù hợp. Thực tế các TCTD, thường lấy lãi suất cho vay trung, dài hạn của chính TCTD cộng thêm một tỷ lệ nữa để có được suất chiết khấu. Nhưng cơ sở này là rất cảm tính phụ thuộc nhiều vào chính sách của các TCTD từng thời kỳ. Vì suất chiết khấu dùng để đánh giá một dự án lệ thuộc vào rất nhều yếu tố mang sắc thái khác nhau như từ phía chủ đầu tư đến chủng loại đầu tư, từ những thước đo tiêu biểu của ngành nghề đến suất chiết khấu chung của thị trường hay từ tính mạo hiểm mà dự án phải chấp nhận đánh đổi nên ACB sử dụng suất chiết khấu là chi phí sử dụng vốn bình quân – WACC (Weighted Average Cost of Capital) khi tính toán NPV của dự án. d. Các kỹ thuật phân tích báo cáo tài chính, thẩm định dự án Kỹ thuật đánh giá, thẩm định dự án nói riêng, dự báo nói chung hiện nay được sử dụng phổ biến nhất là dựa vào phân tích mô hình phỏng (phân tích động) để tính xác suất có khả năng xảy ra các trường hợp tốt và các trường hợp bất lợi cho dự án.
  47. 38 Việc nhìn vào biểu đồ phân bố xác suất của dự án có thể biết được xác suất để NPV dương là bao nhiêu, âm là bao nhiêu. Hiện nay, các kỹ thuật phân tích báo cáo tài chính, thẩm định dự án chưa được áp dụng phổ biến tại Việt Nam do điều kiện về công nghệ và những người am hiểu về nó còn rất hạn chế. Vì vậy, khi muốn đánh giá một dự án hoặc một doanh nghiệp hoạt động không hiệu quả là vấn đề hết sức khó khăn đối với cán bộ tín dụng. Nhất là đối với những dự án của những doanh nghiệp có “mối quan hệ” tốt. Khi thẩm định các dự án đầu tư, ACB sẽ tiến hành xác định các khoản mục chi phí dự án, thị trường đầu vào, đầu ra, chi phí sử dụng vốn, tính khả thi của nguồn vốn đầu tư, từ đó xác định các yếu tố có tác động mạnh nhất đến hiệu quả của dự án nhằm phân tích độ nhạy của dự án đồng thời xác định mức độ rủi ro mà dự án có khả năng chịu đựng khi các yếu tố đó biến động để đưa ra các giải pháp hạn chế rủi ro của dự án. 2.2.1.9. Năng lực và trình độ cán bộ tín dụng Kết quả thẩm định khách hàng, dự án, giám sát hoạt động của doanh nghiệp hoặc cơ sở kinh doanh phụ thuộc rất nhiều vào năng lực và trình độ của đội ngũ cán bộ tín dụng. Học viện ngân hàng, đại học ngân hàng, đại học kinh tế, học viện tài chính là những nơi đào tạo nhân lực chủ yếu cho các TCTD. Tuy nhiên, một thực trạng là công tác đào tạo nguồn nhân lực cho các TCTD hiện nay chỉ nặng về lý thuyết mà ít cập nhật thông tin và ít tiếp cận công tác thực tiển. Việc tổ chức thi tuyển cán bộ cho các TCTD những năm gần đây mặc dù có nhiều cải tiến và đổi mới, nhưng vẫn còn không ít hạn chế, bất cập mà dư luận xã hội quan tâm như thiếu khách quan, công bằng, minh bạch và nghiêm túc trong thi tuyển. Điều này đã ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng đội ngũ cán bộ tín dụng và gây nên sự bất bình đẳng trong xã hội khi mà người có đủ năng lực và phẩm chất đạo đức lại không được tuyển dụng do có những tiêu cực trong công tác tuyển dụng. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của các NHTM chưa được quan tâm đầu tư. Trên thực tế, vẫn còn một số cán bộ tín dụng hiện nay thiếu năng lực về phân
  48. 39 tích và xử lý thông tin tín dụng để bảo vệ và giám sát khoản vay, thậm chí vẫn còn một số cán bộ làm sai quy trình tín dụng. Sau 20 năm hoạt động, ACB đã sở hữu được một đội ngũ lãnh đạo, nhân viên có đủ năng lực và trình độ trong ngành ngân hàng. Đặc biệt, ACB đã thành lập được Trung Tâm đào tạo dành riêng cho nhân viên của ngân hàng. Tại đây, trình độ chuyên môn nghiệp vụ và kỹ năng của nhân viên không ngừng nâng cao khi được ACB thường xuyên tổ chức các khóa huấn luyện, đào tạo nghiệp vụ, kỹ năng cho nhân viên toàn hệ thống và nhất là đội ngũ nhân viên kinh doanh và quản lý tại các kênh phân phối, bộ phận chủ chốt trong hoạt động của ngân hàng. 2.2.1.10. Quyết định cấp tín dụng Căn cứ vào quy định của Luật các TCTD và các văn bản hướng dẫn kèm theo, tất cả các ngân hàng đều cố gắng xây dựng cho mình quy trình tín dụng tách bạch giữa khâu thẩm định và quyết định cho vay. Tuy nhiên, với những vấn đề thực tế nêu trên, việc sàng lọc, lựa chọn khách hàng, dự án có hiệu quả, đủ độ tin cậy, có mức độ rủi ro thấp, đảm bảo khả năng trả nợ ngân hàng là một thách thức rất lớn đối với các TCTD. Trên thực tế, hầu như không có TCTD nào, đủ tự tin quyết định cấp tín dụng chỉ dựa vào những cái vô hình và khó phân tích như giá trị vô hình của doanh nghiệp, giá trị của vốn chủ sở hữu, giá trị thực của các khoản phải thu, các khoản tồn kho để quyết định cho vay. Nhất là lần đầu tiên thiết lập quan hệ tín dụng thì việc này càng khó khăn hơn. Các ngân hàng thường quyết định cho vay dựa vào các tài sản hữu hình mà chủ yếu là tài sản cố định dùng để đảm bảo cho các khoản vay. Bởi lẻ, các tài sản hữu hình là thứ dễ xác định giá trị nhất. Việc cấp tín dụng sẽ cảm thấy yên tâm hơn rất nhiều nếu nó được đảm bảo bằng tài sản, nhất là các loại tài sản có tính thanh khoản và giá trị cao. Việc quản lý các loại tài sản cũng sẽ dễ dàng hơn khi nắm giữ tài sản hoặc giữ những giấy tờ sở hữu chúng và được nhà nước xác nhận. Ngoài đóng vai trò là chỗ dựa tin cậy trong việc đưa ra quyết định cấp tín dụng, tài sản đảm bảo còn có tác dụng rất tốt trong việc ngăn ngừa sự xuất hiện của
  49. 40 tâm lý ỷ lại sau khi cho vay. Vì khi thực hiện bất cớ một hành vi nào, mỗi cá nhân luôn xem xét họ sẽ được gì và mất gì. Nếu hành vi luôn mang lại lợi ích mà không bị tổn thất thì họ sẽ thực hiện, ngược lại nếu hành vi luôn tạo ra tổn thất mà không có lợi ích gì cho bản thân họ sẽ không thực hiện. Đối với loại còn lại, hành vi được thực hiện khi lợi ích lớn hơn chi phí và ngược lại hành vi sẽ không được thực hiện. Khi những khoản tín dụng được cấp mà không có tài sản đảm bảo, phần vốn của bên vay tham gia rất ít hoặc không tham gia vào dự án đầu tư, thì xu hướng tất yếu là bên vay sẽ thực hiện các dự án có mức độ rủi ro cao để đem lại lợi nhuận cao vì nếu dự án thất bại thì cái mà họ mất là không đáng kể, ngược lại nếu dự án thành công thì lợi ích của họ là rất lớn. Hành vi của bên vay sẽ hoàn toàn ngược lại khi họ phải đem thế chấp các tài sản hiện có của mình để được cấp tín dụng. Khi tài sản được thế chấp cầm cố tại các TCTD thì người vay sẽ bị mất nó nếu khoản vay của họ đầu tư không cẩn thận và xảy ra rủi ro. Chính vì vậy mà họ phải thận trọng hơn khi thực hiện quyết định đầu tư của mình. Từ một yếu tố có giá trị tham chiếu trở thành yếu tố quan trọng trong các quyết định cấp tín dụng, tài sản đảm bảo trở thành trở ngại chính đối với nhiều doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trong việc tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng. Mặt khác, việc quyết định cho vay không được căn cứ trên cơ sở tính khả thi và hiệu quả của dự án đầu tư, phương án kinh doanh mà căn cứ vào tài sản đảm bảo sẽ tác đụng không tốt đến hoạt động tín dụng ngân hàng và có thể tiềm ẩn những nguy cơ rủi ro rất lớn. Theo định hướng chính sách và hoạt động tín dụng của ACB, có 6 tiêu chí được áp dụng để thẩm định phân nhóm khách hàng, phê duyệt tín dụng cũng như kiểm soát, đánh giá chất lượng danh mục tín dụng của ACB được chia thành 02 nhóm: nhóm tiêu chí phân nhóm khách hàng bao gồm đối tượng khách hàng, ngành nghề kinh doanh, khả năng trả nợ, sản phẩm tín dụng và nhóm tiêu chí phê duyệt tín dụng gồm tài sản đảm bảo và tỷ lệ cho vay/tài sản bảo đảm. Khi phân tích, đánh giá và thẩm định/tái thẩm định khách hàng mới, mức cấp tín dụng mới hay tái cấp tín dụng, tăng cấp tín dụng cho khách hàng hiện hữu, mỗi khoản vay/ khách hàng sẽ
  50. 41 được xếp vào một trong bốn nhóm: cấp tín dụng bình thường, hạn chế cấp tín dụng, kiểm soát cấp tín dụng hoặc không cấp tín dụng. Từ đó, ứng với mỗi nhóm khách hàng sẽ quy định cấp phê duyệt tương ứng như chuyên viên, ban tín dụng chi nhánh, ban tín dụng hội sở hay ban tín dụng khu vực Ngoài ra, dựa trên kết quả hoạt động, tình hình quản lý nợ xấu của từng đơn vị và tùy cấp bậc của chuyên viên, ACB sẽ quy định hạn mức phê duyệt tín dụng cụ thể cho từng đơn vị, từng cá nhân. 2.2.1.11. Kiểm tra giám sát, thu hồi vốn vay Với những vấn đề nêu trên, việc xử lý lựa chọn bất lợi trong hoạt động tín dụng của các NHTM Việt Nam hiện nay đang là vấn đề rất lớn. Đó mới là những vấn đề trước khi quyết định cho vay. Bây giờ chúng ta cùng xem xét vấn đề xử lý tâm lý ỷ lại của các TCTD sau khi cho vay. Hay nói cách khác là công tác giám sát sử dụng vốn vay, thu hồi nợ vay của các TCTD. Để có thể kiểm tra giám sát, đảm bảo việc sử dụng vốn vay đúng mục đích đòi hỏi các TCTD phải biết được dòng tiền ra trong quá trình sử dụng vốn vay của bên vay. Đây là một vấn đề rất lớn đang đặt ra đối với các TCTD Việt Nam vì việc kiểm soát dòng tiền bảo đảm bên vay sử dụng vốn đúng mục đích không phải là vấn đề đơn giản. Khác với các nền kinh tế phát triển, đối với Việt Nam, tỷ lệ thanh toán bằng tiền mặt vẫn ở mức rất cao. Đây chính là khó khăn rất lớn của các ngân hàng trong việc giám sát chi tiêu của người vay vốn. Mặt khác, trong khi hệ thống thông tin trong nội bộ giữa các TCTD chưa được thông suốt, các doanh nghiệp được mở tài khoản ở nhiều TCTD khác nhau và hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp hết sức đa dạng, rất khó phân biệt nên việc qua mặt các ngân hàng trong việc sử dụng vốn vay sai mục đích hay trường hợp một dự án, một hợp đồng có thể vay ở nhiều TCTD là điều rất dễ xảy ra. Thêm vào đó, cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu đã khiến cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của nước ta gặp nhiều khó khăn, năng lực tài chính của các doanh nghiệp giảm sút, chất lượng tín dụng suy giảm và nợ xấu tăng nhanh ở khắp hệ thống ngân hàng và không riêng gì ACB. Thấy được tầm quan trọng của công tác quản lý tín dụng sau giải ngân trong môi trường thông tin không hoàn hảo như ngày nay, ACB luôn đặc biệt quan tâm
  51. 42 đầu tư và giám sát chặt chẽ quy trình này nhằm hạn chế đến mức tối thiểu các rủi ro có thể thể xảy ra và xử lý nghiêm các trường hợp khách hàng vi phạm hợp đồng cũng như các nhân viên không tuân thủ quy trình. 2.2.2. Tình hình quản trị rủi ro tín dụng trong trong môi trường thông tin bất cân xứng tại ACB Trong quản trị điều hành hoạt động kinh doanh ngân hàng, có nhiều phương thức quản lý để đảm bảo an toàn tín dụng cũng như các kỹ thuật thu nhập và xử lý thông tin có thể áp dụng trong việc kiểm soát rủi ro tín dụng, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của ngân hàng, cải thiện tình hình tài chính và nâng cao năng lực cạnh tranh của các ngân hàng như phương thức quản lý rủi ro bằng cách nâng cao chất lượng tín dụng, phân tán rủi ro, trích lập dự phòng rủi ro, sử dụng thị trường bán nợ hay thông qua dẫn xuất tín dụng Tùy vào chủ trương, định hướng, chính sách và khả năng của mình mà các ngân hàng hàng lựa chọn các biện pháp nhất định. Riêng tại ACB, định hướng chính sách hoạt động tín dụng rõ ràng, linh hoạt theo từng thời kỳ. Hiện tại, ngân hàng đang áp dụng các biện pháp quản trị rủi ro bằng cách nâng cao chất lượng tín dụng. Chính sách được thực hiện thông qua việc giám sát quy trình cho vay; kiểm tra, giám sát quá trình sử dụng vốn vay và triển khai chương trình chấm điểm xếp hạng tín dụng. 2.2.2.1. Quy trình cho vay tại ACB Tại ACB quy trình phối hợp tác nghiệp đối với các hồ sơ tín dụng được thực hiện chặt chẽ nhằm rút ngắn thời gian và đảm bảo quá trình cấp tín dụng được thực hiện một cách đồng bộ, nhất quán trong toàn hệ thống. Tùy theo quy mô, đặc điểm nguồn nhân lực và điều kiện của từng chi nhánh, phòng giao dịch, ACB triển khai áp dụng 3 mô hình thẩm định tín dụng như mô hình kênh phân phối tự thẩm định tín dụng, mô hình kênh phân phối thẩm định tín dụng cho kênh phân phối khác và mô hình Trung tâm tín dụng thẩm định tín dụng cho kênh phân phối. Nhưng nhìn chung, quy trình cấp tín dụng của ACB là kết quả của sự phối hợp tác nghiệp của các bộ phận bắt đầu từ lúc khách hàng đề nghị vay
  52. 43 vốn đến khi khách hàng thanh lý khoản vay tại ACB bao gồm các bước căn bản như: tư vấn và nhận hồ sơ vay vốn, thẩm định tín dụng khách hàng và thẩm định tài sản, trình và phê duyệt hồ sơ tín dụng, nhận kết quả phê duyệt và bước cuối cùng là giải ngân, thu nợ, quản lý giám sát sau giải ngân (Phụ Lục 3). Điểm nổi bật trong quy trình này là bên cạnh việc quy định chi tiết từng bước công việc, ACB cũng có sự phân công, phân quyền rõ ràng theo từng chức danh, bộ phận theo hướng chuyên môn hóa nghiệp vụ giúp cho công tác thẩm định được tiến hành nhanh chóng không bị chồng chéo, rút ngắn thời gian thẩm định. Đặc biệt, việc tách biệt được bộ phận thẩm định tài sản, phân tích tín dụng và phê duyệt giúp cho ACB tránh được tình trạng lạm dụng thẩm quyền gây ra những sai phạm trong nghiệp vụ và nhất là hạn chế được tình trạng nhũng nhiễu khách hàng khi cho vay. Trong quy trình có nhiều bộ phận cùng tham gia nhưng trong đó bộ phận tư vấn tài chính cá nhân (PFC*) và quan hệ khách hàng (R*) là đầu mối liên hệ, chăm sóc khách hàng. Điều này đảm bảo sự đồng bộ, thống nhất trong quá trình xử lý hồ sơ tín dụng cũng như thuận lợi cho việc trao đổi thông tin giữa khách hàng và ACB. Bảng 2.2 – Biện pháp giảm thiểu rủi ro trong quá trình cấp tín dụng tại ACB Rủi ro được nhận diện Biện pháp giảm thiểu rủi ro Thông tin không đầy Việc thu thập, thẩm định, phân tích các thông tin, chứng đủ và chính xác từ, tài liệu phải được thực hiện đúng hướng dẫn. Khách hàng không Thẩm định chính xác tình hình tài chính của khách hàng thanh toán đúng hạn tại thời điểm cho vay. Thường xuyên theo dõi, giám sát khách hàng sau giải ngân để nắm được những thay đổi về khả năng trả nợ của khách hàng nhằm có giải pháp kịp thời và phù hợp. Nhắc trước khi đến hạn đối với những khách hàng được đánh giá là có khả năng vi phạm thời hạn thanh toán. Sử dụng biểu mẫu sai Nội dung tờ trình tín dụng, hợp đồng và các văn bản liên quy định quan phải đảm bảo theo biểu mẫu và đúng theo hướng dẫn. Phê duyệt không đúng Phê duyệt hồ sơ tín dụng phải được thực hiện theo đúng quy định quy định, chính sách tín dụng của ACB. (Nguồn: Ngân hàng TMCP Á Châu)
  53. 44 Trong công tác thẩm định, có rất nhiều thông tin cần được thu thập để phục vụ cho việc lập tờ trình và xét duyệt. Các thông tin có thể được thu thập gián tiếp hay trực tiếp nhưng đa số thông tin được dùng để phân tích chủ yếu dựa vào các tài liệu mà khách hàng cung cấp. Điều này đòi hỏi cán bộ tín dụng phải có những kỹ năng cần thiết để không làm cho khách hàng có cảm giác bị điều tra, xét hỏi và dẫn đến việc mất khách hàng. Đồng thời, phải luôn cảnh giác với các hành vi giả mạo, lừa dối từ khách hàng và tuân thủ các biện pháp giảm thiểu rủi ro khi cho vay của ACB (bảng 2.2). 2.2.2.2. Kiểm tra giám sát quá trình sử dụng vốn của khách hàng Quy định về kiểm tra, giám sát sử dụng vốn vay được áp dụng thống nhất tại Hội sở, Sở Giao dịch, chi nhánh, Phòng giao dịch và các đơn vị có chức năng trong toàn hệ thống ngân hàng Á Châu. Mục đích của quy trình này là nhằm đảm bảo khoản vay được sử dụng đúng mục đích, phù hợp với thỏa thuận giữa ACB và khách hàng trong các hợp đồng tín dụng, hợp đồng bảo đảm tiền vay và các cam kết (nếu có); chủ động phát hiện và cảnh báo các rủi ro có thể xảy ra để có những biện pháp xử lý nhằm thu hồi được vốn gốc và lãi đúng hạn. Theo nguyên tắc, tất cả các khoản vay của khách hàng tại ACB sẽ được kiểm tra, giám sát mục đích sử dụng vốn vay của khách hàng đầy đủ và đúng quy định. ACB quy định tiền vay phải được sử dụng đúng với mục đích thể hiện trên phương án vay. Tiền vay không được dùng để thanh toán hay trả nợ vay tại ACB và các tổ chức tín dụng khác (ngoại trừ trường hợp tài trợ xuất khẩu sau giao hàng trả nợ trước giao hàng của hợp đồng xuất khẩu đã được ACB tài trợ) mà phải được thanh toán cho người thụ hưởng hoặc đối tác của khách hàng vay và phù hợp với phương án vay vốn, mục đích sử dụng vốn của khách hàng. Hình thức, tần suất, nội dung kiểm tra, giám sát mục đích sử dụng vốn vay phải phù hợp với mục đích sử dụng vốn và đặc điểm kinh doanh của khách hàng. Trong đó, tùy vào đặc điểm, mục đích, tính chất của khoản vay và đặc điểm kinh doanh của khách hàng mà việc kiểm tra được thực hiện theo định kỳ hoặc đột xuất
  54. 45 thông qua hai hình thức kiểm tra thực tế mục đích sử dụng vốn vay và kiểm tra thông qua chứng từ hoặc kết hợp sử dụng cả hai hình thức. Điều quan trọng là chứng từ chứng minh mục đích sử dụng vốn phải có tính xác thực vì đây là công cụ chứng minh vốn vay được sử dụng đúng mục đích hay không. Các chứng từ do khách hàng cung cấp sẽ được nhân viên ACB kiểm tra, đối chiếu bản chính hoặc ACB tự truy xuất các chứng từ từ hệ thống nội bộ. Nội dung chứng từ thể hiện được giao dịch kinh tế giữa khách hàng và đối tác của khách hàng và phải phù hợp với phương án vay vốn, mục đích sử dụng vốn của khách hàng. Khi kiểm tra thực tế, ngoài việc kiểm tra mục đích sử dụng vốn vay của khách hàng, ACB kết hợp xem xét tình hình tài chính và tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng nhằm nắm bắt tình hình tài chính, sản xuất kinh doanh của khách hàng và xác định tính phù hợp của thực tế với chứng từ, thông tin do khách hàng cung cấp hay ACB thu thập được. Việc kiểm tra thực tế được nhân viên kiểm tra lập thành văn bản, trong đó phản ánh đầy đủ, kịp thời, trung thực, khách quan các nội dung kiểm tra đồng thời phải phù hợp với từng sản phẩm, mục đích sử dụng vốn của khách hàng. Cụ thể, mẫu phiếu kiểm tra phải được điền đầy đủ nội dung, có chữ ký xác nhận của nhân viên kiểm tra, khách hàng và cấp kiểm soát theo quy định; mỗi lần kiểm tra chỉ được lập một phiếu kiểm tra cho một khách hàng và việc cập nhật các thông tin trên phiếu kiểm tra phải được tiến hành ngay tại địa điểm kiểm tra. Trường hợp đơn vị phát hiện các dấu hiệu cảnh báo thì sẽ tiến hành kiểm tra, giám sát mục đích sử dụng vốn vay đột xuất nhằm đánh giá đúng thực tế tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh, mục đích sử dụng vốn, khả năng trả nợ của khách hàng và xác định được nguyên nhân để có biện pháp phòng ngừa rủi ro kịp thời, hiệu quả đúng quy định. Quy định kiểm tra, giám sát sau cho vay được bắt buộc áp dụng trên toàn hệ thống và đã phát huy được tác dụng khi phát hiện và xử lý kịp thời nhiều trường hợp cảnh báo, sai phạm trong quá trình tiếp xúc, kiểm tra thực tế khách hàng, giúp ACB tránh được những rủi ro và thiệt hại đáng tiếc. Tuy nhiên, trên thực tế cũng có
  55. 46 nhiều đơn vị kênh phân phối và nhân viên chưa hiểu được tầm quan trọng của việc kiểm tra, giám sát sau khi cho vay nên vẫn chưa được thực hiện nghiêm túc theo quy định và nếu có cũng chỉ thực hiện mang tính hình thức, đối phó với quy định, kiểm toán nội bộ hay với thanh tra nhà nước. Cụ thể, sau những lần kiểm toán định kỳ hoặc đột xuất, Ban kiểm toán nội bộ ACB phát hiện nhiều trường hợp nhân viên cho khách hàng ký trước phiếu kiểm tra để đến kỳ không phải đến gặp khách hàng, hay giả mạo chứng từ, cung cấp chứng từ không đúng mục đích sử dụng vốn vay giúp khách hàng hợp thức hóa mục đích sử dụng vốn Các vi phạm này đều được ACB ghi nhận vào kết quả đánh giá nhân viên hàng năm và được thông báo công khai trên toàn hệ thống. 2.2.2.3. Hệ thống chấm điểm xếp hạng tín dụng nội bộ tại ACB a. Đối với khách hàng doanh nghiệp Tại ACB, hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ doanh nghiệp phục vụ xét duyệt tín dụng được chính thức triển khai từ ngày 01/11/2010. Hệ thống này bao gồm hai hệ thống chấm điểm: Hệ thống xếp hạng tín dụng doanh nghiệp phục vụ xét duyệt tín dụng (Scoring xét duyệt) nhằm mục đích đánh giá rủi ro tín dụng của khách hàng doanh nghiệp đồng thời phục vụ cho việc xét duyệt hồ sơ tín dụng, kết quả xếp hạng khách hàng được sử dụng làm một trong những căn cứ để đưa ra quyết định tín dụng và chính sách khách hàng. Nó được dùng để thay thế cho kết quả chấm điểm phân loại nợ khi trình cấp tín dụng và là một trong những tài liệu bắt buộc khi trình cấp tín dụng đối với KHDN tại ACB. Hệ thống chấm điểm phục vụ cho phân loại nợ (Scoring phân loại nợ) là công cụ để thực hiện phân loại nợ theo hệ thống quốc tế và căn cứ vào kết quả phân loại nợ để tính toán và trích lập dự phòng rủi ro theo quy định về phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro của NHNN Việt Nam Đối tượng chấm điểm là toàn bộ khách hàng có nhu cầu cấp mới/tái cấp/cấp tăng mức tín dụng hoặc đang có dư nợ vay/bảo lãnh tại ACB, ngoại trừ khách hàng là các đơn vị hành chính sự nghiệp có thu, không có báo cáo tài chính; khách hàng
  56. 47 có mức cấp tín dụng được bảo đảm bằng giấy tờ có giá do ACB và các tổ chức tín dụng khác phát hành (bao gồm STK, số dư tiền gửi, vàng, ngoại tệ mặt, giấy tờ có giá, trái phiếu do ACB và các tổ chức tín dụng khác phát hành); khách hàng bị giải thể, phá sản theo quy định pháp luật hay khách hàng có nợ quá hạn trên 360 ngày. Phần Scoring xét duyệt (cấp mới/tái cấp/tăng thêm). Việc chấm điểm được thực hiện ngay khi nhận được đầy đủ hồ sơ tín dụng của khách hàng và trước khi trình các cấp phê duyệt có thẩm quyền. Riêng đối với hồ sơ trình cấp tín dụng tăng thêm, chỉ tiến hành chấm điểm lại nếu thời gian trình lần này so với lần trước quá 3 tháng. Theo kết quả xếp loại rủi ro tín dụng của Scoring xét duyệt, khách hàng sẽ được xếp vào từ loại 1 đến loại 10. Trong đó, loại 1 tương tứng với khách hàng có độ rủi ro thấp nhất và loại 10 tương tứng với khách hàng có độ rủi ro cao nhất. Phần Scoring phân loại nợ được sử dụng sau khi trình cấp tín dụng. Trong đó, sẽ thực hiện chấm điểm định kỳ 03 tháng/lần trong vòng 10 ngày làm việc của tháng thứ 3 của quý tiếp theo (ngày 15-25 của tháng cuối cùng của quý) và sẽ thực hiện chấm điểm đột xuất ngay khi khách hàng có thay đổi về cơ cấu tổ chức, ngành nghề kinh doanh, tăng giảm vốn điều lệ hoặc vốn chủ sở hữu, hình thức sở hữu doanh nghiệp (chia tách, hợp nhất, sáp nhập, chuyển đổi hình thức, cổ phần hóa hoặc thay đổi chủ sở hữu) trong vòng 5 ngày kể từ ngày nhận được thông tin thay đổi trên phải thực hiện chấm điểm tín dụng khách hàng hoặc nếu trong tháng khách hàng phát sinh nợ quá hạn từ 10 ngày trở lên tại ACB và các tổ chức tín dụng khác thì phải chấm điểm tín dụng khách hàng trong vòng 5 ngày làm việc đầu tiên kể từ ngày phát sinh sự kiện. Theo kết quả xếp loại rủi ro tín dụng của Scoring phân loại nợ, khách hàng sẽ được xếp vào từ loại AAA đến loại D, hệ thống sẽ phân nhóm nợ theo từng đối tượng khách hàng. Quy trình chấm điểm của hệ thống xếp hạng tín dụng doanh nghiệp được thực hiện như sau: - Thu thập thông tin: thu thập và tổng hợp thông tin về khách hàng, phương án SXKD, dự án đầu tư và các thông tin khác.
  57. 48 - Xác định nhóm khách hàng dùng để xác định bộ tiêu chí chấm điểm: khách hàng có đầy đủ báo cáo tài chính trên 2 năm (thực hiện đầy đủ các thao tác chấm điểm tín dụng), chưa có đủ báo cáo tài chính (mới thành lập hoặc đang trong giai đoạn đầu tư chưa chấm điểm tài chính). - Xác định ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh của khách hàng. - Xác định quy mô của khách hàng (doanh thu, tổng tài sản, số lượng lao động bình quân, vốn chủ sở hữu). - Xác định loại hình sở hữu của khách hàng. - Chấm điểm các tiêu chí tài chính dựa trên báo cáo tài chính thẩm định, báo cáo thuế, báo cáo tài chính thời điểm và dự phóng kết quả kinh doanh, bao gồm các chỉ tiêu: chỉ tiêu thanh khoản, chỉ tiêu hoạt động, nhóm chỉ tiêu tự tài trợ, nhóm chỉ tiêu sinh lời. - Chấm điểm các tiêu chí phi tài chính về công ty, tổ chức và quản lý, hoạt động sản xuất kinh doanh và quan hệ giao dịch, như nhóm chỉ tiêu trình độ quản lý, môi trường nội bộ của doanh nghiệp, nhóm chỉ tiêu đặc điểm kinh doanh, nhóm chỉ tiêu khả năng trả nợ và nhóm chỉ tiêu quan hệ với tổ chức tín dụng của doanh nghiệp, đánh giá tính ổn định của môi trường kinh doanh, rủi ro ngành - Chấm điểm tài sản đảm bảo (tình hình nợ quá hạn, tổng mức cấp tín dụng, tài sản đảm bảo ). b. Đối với khách hàng cá nhân/ hộ kinh doanh Quy trình thực hiện đơn giản hơn so với khách hàng doanh nghiệp. Nhân viên chấm điểm sẽ tiến hành thu thập và phân tích các thông tin về nhân thân khách hàng hoặc hộ kinh doanh, phương án kinh doanh, thu nhập, khả năng trả nợ, thông tin về tình hình quan hệ với các TCTD để đánh giá và xem xét cấp tín dụng. Nhìn chung, hệ thống chấm điểm xếp loại khách hàng của ACB cũng tương đối hoàn thiện so với các ngân hàng khác. Với hệ thống này, khách hàng vay vốn tại ACB được các cán bộ tín dụng đánh giá thông qua các chỉ tiêu tài chính và phi tài chính. Bên cạnh việc phân tích dựa trên công nghệ giản đơn, hệ thống lưu trữ thông tin ổn định, sử dụng hồ sơ sẵn có, sử dụng các yếu tố không mang tính lượng hoá,
  58. 49 hệ thống chấm điểm xếp loại khách hàng của ACB cũng tận dụng được kinh nghiệm và kiến thức chuyên sâu của các cán bộ tín dụng, các chuyên gia tài chính để phân tích các chỉ tiêu tài chính . Tuy nhiên, kết quả đánh giá xếp loại phụ thuộc vào mức độ chính xác của nguồn thông tin thu thập, khả năng dự báo cũng như trình độ phân tích, đánh giá của cán bộ tín dụng. Mô hình này khi áp dụng cho các khoản vay riêng lẻ, mang tính đặc thù, chịu ảnh hưởng các yếu tố vùng miền, phong tục, tập quán thì việc dựa trên các yếu tố định lượng, không đưa ra được quyết định chính xác mà phải dựa trên ý kiến và kinh nghiệm của cán bộ tín dụng. Còn việc đánh giá các chỉ tiêu phi tài chính chủ yếu dựa vào đánh giá theo ý chủ quan của cán bộ tín dụng. Ngoài ra, hệ thống này rất khó đo lường vai trò của các yếu tố đến hạng tín nhiệm của khách hàng và vì vậy không có tác dụng tư vấn đối với khách hàng cũng như đối với việc thẩm định hồ sơ khoản vay. 2.2.3. Ảnh hưởng của thông tin bất cân xứng đến hoạt động tín dụng của ACB Theo kinh nghiệm của nhiều nước, trừ những cú sốc bất ngờ như khủng hoảng kinh tế, thiên tai nguyên nhân gây ra tình trạng nợ xấu nhiều nhất là do các ngân hàng không có đầy đủ thông tin từ phía khách hàng của mình mặc dù đã có rất nhiều nỗ lực trong công tác thẩm định. Nói một cách đơn giản là do cơ chế sàng lọc, giám sát chưa đủ hiệu lực nên các ngân hàng đã để "lọt" khách hàng có khả năng che đậy hành vi và thông tin của họ trong giao dịch vay vốn để thực hiện những dự án có rủi ro cao. Một nguyên nhân nữa là do tâm lý ỷ lại từ phía khách hàng khi đã có trong tay vốn tín dụng từ phía ngân hàng cấp và do bản thân ngân hàng ỷ lại vào tài sản đảm bảo của khách hàng. Trên thực tế, ACB cũng đã quan tâm đầu tư nguồn lực cho việc nghiên cứu, thiết kế và hoàn thiện các phương tiện và biện pháp ngăn ngừa ảnh hưởng của thông tin bất cân xứng từ các giai đoạn trước, trong và sau khi cho vay như xây dựng được một quy trình cho vay khép kín kết hợp quá trình kiểm tra giám sát mục đích sử dụng vốn vay của khách hàng sau khi giải ngân và bên cạnh đó là xây dựng thêm một hệ thống chấm điểm xếp loại khách hàng để phục vụ cho công tác cho vay