Luận văn Các giải pháp phát triển dịch vụ ngân hàng điện tử tại Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam

pdf 97 trang yendo 3990
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Các giải pháp phát triển dịch vụ ngân hàng điện tử tại Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfluan_van_cac_giai_phap_phat_trien_dich_vu_ngan_hang_dien_tu.pdf

Nội dung text: Luận văn Các giải pháp phát triển dịch vụ ngân hàng điện tử tại Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam

  1. LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐỀ TÀI Các giải pháp phát triển dịch vụ ngân hàng điện tử tại Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam 1
  2. LỜI NÓI ĐẦU Vài thập niên gần đây, những thành tựu trong lĩnh vực khoa học kỹ thuật đã đưa nhân loại bước sang một thời kì mới- thời kì văn minh hậu công nghiệp. Trong số những thành tựu đó, chúng ta phải kể đến sự phát triển của công nghệ thông tin. Có thể nói, sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin đã giúp các doanh nghiệp thay đổi tư duy lẫn phương thức kinh doanh trong môi trường hiện đại. Đặc biệt, trong lĩnh vực tài chính ngân hàng, với vai trò huyết mạch của nền kinh tế, việc ứng dụng công nghệ thông tin trong sự phát triển các dịch vụ ngân hàng là một yêu cầu tất yếu để tăng khả năng cạnh tranh và đem lại nhiều tiện ích cho khách hàng. Nhận thức được vai trò to lớn của công nghệ thông tin mang lại, nhiều ngân hàng trên thế giới đã và đang áp dụng công nghệ thông tin để phát triển và hoàn thiện các dịch vụ ngân hàng nhằm thoả mãn tối đa nhu cầu ngày càng đa dạng của khách hàng, trong đó phát triển mạnh mẽ nhất phải kể đến dịch vụ ngân hàng điện tử (e- banking). Ở Việt Nam, việc mở cửa lĩnh vực ngân hàng đã kéo theo sự xuất hiện các chi nhánh của hàng loạt các tổ chức tín dụng nước ngoài với số vốn khổng lồ, công nghệ hiện đại, dịch vụ đa dạng và với bề dầy kinh nghiệm làm cho các ngân hàng trong nước phải đứng trước những thách thức to lớn. Chính vì vậy, ngày càng có nhiều tổ chức tài chính, tổ chức tín dụng quan tâm đến dịch vụ ngân hàng điện tử với mục tiêu tăng khả năng cạnh tranh, giảm chi phí hoạt động, giữ gìn và thu hút khách, tăng thị phần, qua đó tăng doanh lợi cho ngân hàng và nâng cao hình ảnh và tăng doanh lợi cho ngân hàng. Do vậy, trong vài năm gần đây và đặc biệt bắt đầu từ năm 2002, các ngân hàng thương mại Việt Nam đua nhau tung ra các sản phẩm của dịch vụ ngân hàng điện tử. Tuy nhiên, do đây vẫn là một dịch vụ mới mẻ nên mức độ quan tâm của các tổ chức tín dụng có khác nhau, có nơi người ta nhắc đến nó như một cái gì đó xa xôi, có nơi dịch vụ này lại được quan tâm đặc biệt và được coi là một chiến lược cạnh tranh tất yếu trên bước đường phát triển của ngân hàng 2
  3. mà điển hình là ở Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam (Vietcombank). Đây là ngân hàng đi đầu của Việt Nam trong ứng dụng công nghệ thông tin và đặc biệt là trong việc phát triển dịch vụ ngân hàng điện tử. Để đi sâu tìm hiểu vấn đề này, tôi đã lựa chọn đề tài “ Các giải pháp phát triển dịch vụ ngân hàng điện tử tại Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam” cho khoá luận tốt nghiệp. Thông qua khoá luận này, tôi mong muốn đem đến cho người đọc cái nhìn khái quát về tình hình triển khai dịch vụ e-banking ở Việt Nam và đặc biệt là ở Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam, vai trò của dịch vụ này trong sự phát triển kinh tế của Việt Nam nói chung để từ đó tìm ra các giải pháp chiến lược cho sự phát triển của e-banking tại Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam. Khoá luận được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của học thuyết Mác-Lênin, các lý thuyết kinh tế học hiện đại, chủ trương, đường lối phát triển kinh tế của Đảng Cộng Sản Việt Nam. Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng là: hệ thống, thống kê, tổng hợp, phân tích, so sánh, kết hợp logic và lịch sử để đi từ lý luận đến thực tiễn, giải pháp. Khoá luận gồm lời nói đầu, kết luận và ba chương: Chương 1: Ngân hàng điện tử và tình hình triển khai ngân hàng điện tử ở Việt Nam Chương 2: Thực trạng phát triển dịch vụ ngân hàng điện tử tại Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam Chương 3: Giải pháp mở rộng và phát triển dịch vụ ngân hàng điện tử ở Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam Mặc dù đã hết sức cố gắng song do đây là đề tài còn khá mới mẻ không chỉ ở Việt Nam mà còn ở cả trên thế giới nên bài viết không tránh khỏi còn nhiều thiếu sót. Tôi mong nhận được nhiều ý kiến của người đọc quan tâm tới lĩnh vực dịch vụ ngân hàng mới mẻ này. Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới cô giáo Lê Thị Thanh, người đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ tôi hoàn thành khoá luận này. 3
  4. MỤC LỤC Chương I: Ngân hàng điện tử và tình hình triển khai dịch vụ ngân Trang hàng điện tử tại Việt Nam 6 I. Những vấn đề cơ bản về ngân hàng điện tử 6 1. Ngân hàng điện tử là gì? 6 a. Khái niệm 6 b. Quá trình hình thành và phát triển của ngân hàng điện tử 7 c. Ba cấp độ của dịch vụ ngân hàng điện tử 8 d.Các loại sản phẩm dịch vụ ngân hàng điện tử . 9 e. Phương thức giao dịch trong dịch vụ ngân hàng điện tử . 11 2. Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển của dịch vụ ngân hàng điện tử 13 a. Sự phát triển của thương mại điện 13 tử 16 b. Môi trường pháp 16 lý 17 c. Hạ tầng cơ sở công nghệ thông tin 17 d. Hạ tầng cơ sở nhân lực 18 e. Tính cạnh tranh 3. Ưu điểm và hạn chế của dịch vụ ngân hàng điện tử 20 II. Kinh nghiệm phát triển ngân hàng điện tử của một số nước trên 21 thế giới 22 1. Trung Quốc 22 2. Malaixia 23 3. Singapore 24 4. Nhật Bản 5. Nhận xét chung 25 III. Thực trạng phát triển dịch vụ ngân hàng điện tử tại Việt Nam 25 1. Bối cảnh thúc đẩy sự ra đời và phát triển của ngân hàng điện 4
  5. tử tại Việt Nam 2. Thực tiễn triển khai dịch vụ ngân hàng điện tử tại Việt 26 Nam 26 a. Về dịch vụ máy rút tiền tự động 28 b. Về dịch vụ internet banking . 28 c. Về dịch vụ ngân hàng qua mạng điện thoại di động 29 d. Về hệ thống thanh toán bù trừ điện tử liên ngân hàng 30 e. Về các loại sản phẩm dịch vụ khác Chương II: Thực trạng phát triển dịch vụ ngân hàng điện tử tại Ngân 32 hàng Ngoại Thương Việt Nam . I. Sự ra đời dịch vụ ngân hàng điện tử ở Ngân hàng Ngoại Thương 32 Việt Nam . 32 1. Bối cảnh chi phối sự ra đời và phát triển dịch vụ ngân hàng 32 điện tử tại Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam . 34 a. Kinh tế thế giới và châu Á 35 b. Vài nét về kinh tế Việt Nam thời gian qua . c. Giới thiệu về Ngân hàng Ngoại Thương Việt 39 Nam . 2. Sự ra đời và phát triển của dịch vụ ngân hàng điện tử tại Ngân 41 hàng Ngoại Thương Việt Nam II. Thực tiễn áp dụng ngân hàng điện tử tại Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam 42 1. Tình hình triển khai, phát hành các loại thẻ và máy rút tiền tự 45 động của Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam 47 2. Sản phẩm hệ thống ngân hàng bán lẻ Vietcombank- Tầm nhìn 2010 49 3. Sản phẩm dịch vụ VCB- Online 51 4. Hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng của Ngân hàng 5
  6. Ngoại Thương Việt Nam . 5. Dịch vụ VCB Cyber bill payment 54 III. Những tồn tại, các rủi ro gặp phải trong quá trình triển khai dịch vụ ngân hàng điện tử của Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam, 54 nguyên nhân . 58 1. Những tồn tại trong quá trình triển khai dịch vụ ngân hàng 59 điện tử của ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam . 59 2. Các rủi ro 60 a. Rủi ro về pháp luật 60 b. Rủi ro về tin tặc 61 c. Rủi ro về chữ kí điện tử d. Rủi ro về hệ thống và rủi ro về bảo mật 66 3. Nguyên nhân . Chương III: Giải pháp mở rộng dịch vụ ngân hàng điện tử tại Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam 66 66 I. Thuận lợi và khó khăn đối với sự phát triển của dịch vụ ngân hàng điện tử tại Việt Nam . 70 1. Thuận lợi 75 2. Khó khăn 76 II. Các giải pháp phát triển dịch vụ ngân hàng điện tử đối với ngân 82 hàng Ngoại Thương Việt 84 Nam 1. Giải pháp đối với Ngân hàng Ngoại Thương Việt 87 Nam 88 2. Giải pháp đối với Ngân hàng Nhà nước 3. Giải pháp đối với Chính phủ . Kết luận . 6
  7. Tài liệu tham khảo 7
  8. CHƯƠNG I NGÂN HÀNG ĐIỆN TỬ VÀ TÌNH HÌNH TRIỂN KHAI DỊCH VỤ NGÂN HÀNG ĐIỆN TỬ TẠI VIỆT NAM I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NGÂN HÀNG ĐIỆN TỬ 1. Ngân hàng điện tử là gì? a. Khái niệm Trước khi tiếp cận với khái niệm ngân hàng điện tử, chúng ta cùng tìm hiểu về thương mại điện tử vì ngân hàng điện tử chính là tên gọi của thương mại điện tử trong lĩnh vực ngân hàng. Thương mại điện tử là một yếu tố hợp thành của nền kinh tế số hoá, là hình thái hoạt động thương mại bằng các phương pháp điện tử, hay là việc trao đổi thông tin thương mại thông qua các phương tiện công nghệ điện tử mà nói chung là không cần phải in ra giấy tờ trong bất cứ công đoạn nào của quá trình giao dịch. Các hình thức hoạt động chủ yếu của thương mại điện tử là: Thư tín điện tử, thanh toán điện tử, trao đổi dữ liệu điện tử, giao gửi số hoá các dung liệu, bán hàng hóa hữu hình qua mạng. Dịch vụ thương mại điện tử đã và đang phát triển mạnh mẽ trong những năm gần đây và trở thành đề tài nóng hổi trong bất kỳ hội thảo nào về công nghệ thông tin. Việc chuyển đổi sang nền kinh tế mạng đang diễn ra với tốc độ nhanh hơn hầu hết mọi dự tính. Nền kinh tế mạng đòi hỏi các tổ chức tài chính phải tìm hiểu, phát triển chiến lược và đầu tư vào kinh doanh điện tử. Thử thách này yêu cầu những mô hình kinh tế mới và phương thức mới để tiếp cận với khách hàng. Thương mại điện tử tạo nên một hình thức cạnh tranh mới, buộc ngân hàng phải chọn những dịch vụ mà khách hàng cần, quyết định quy mô các chi nhánh ngân hàng trong hệ thống và mở rộng hệ 8
  9. thống thanh toán liên ngân hàng. Sự tham gia của thương mại điện tử cũng làm nảy sinh các vấn đề về công nghệ của ngân hàng. Các ngân hàng giải quyết được những thách thức này sẽ quyết định được sự ảnh hưởng của mình đối với thị trường điện tử hoá. Đứng trước yêu cầu đó ngân hàng đã cho ra nhiều dịch vụ mới : dịch vụ ngân hàng qua điện thoại sử dụng mã cá nhân, hoặc nhận dạng giọng nói; dịch vụ ngân hàng qua mạng internet, khách hàng chỉ cần một máy tính cá nhân nối mạng internet là có thể giao dịch với ngân hàng mà không cần phải trực tiếp đến ngân hàng. Những dịch vụ này đã đưa đến một thực tế là, thế giới ngày nay cho ta thấy có một loại ngân hàng mới: dịch vụ ngân hàng điện tử. Ngân hàng điện tử là ngân hàng mà các dịch vụ được cung cấp qua các phương tiện kỹ thuật điện tử, khách hàng không cần đến trực tiếp tại các chi nhánh của ngân hàng mà vẫn có thể thực hiện được các giao dịch và nắm bắt được thông tin tài chính của mình. Hiện nay, một số người vẫn thường đồng nhất dịch vụ internet banking với dịch vụ ngân hàng điện tử (e-banking). Trên thực tế, dịch vụ e-banking có nội hàm rộng hơn internet banking rất nhiều. Nếu như internet banking chỉ đơn thuần là việc cung ứng các dịch vụ ngân hàng thông qua mạng internet, thì dịch vụ e-banking còn bao hàm cả việc cung cấp các dịch vụ thông qua một số phương tiện khác như: fax, điện thoại, e-mail .Như vậy, internet banking là một bộ phận của e-banking và với những tiện ích của internet so với các phương tiện khác là giá giao dịch tương đối rẻ, tốc độ nhanh và có thể truyền được dữ liệu tới khắp mọi nơi trên thế giới một cách nhanh nhất thì internet banking được coi là linh hồn của e-banking. b. Quá trình hình thành và phát triển của ngân hàng điện tử Khoảng hơn một thập kỷ trước đây, hàng loạt các ngân hàng bắt đầu cung ứng một chương trình phần mềm cho khách hàng nhằm giúp khách hàng có thể xem số dư tài khoản, đồng thời thực hiện một số lệnh thanh toán cho một số dịch vụ công cộng như tiền điện, tiền nước Đến năm 1995, e- 9
  10. banking chính thức được triển khai thông qua chương trình phần mềm Quicken của công ty Intuit Inc., với sự tham gia của 16 ngân hàng lớn nhất nước Mỹ. Khi đó, khách hàng chỉ cần một máy vi tính, một modem và phần mềm Quicken là có thể sử dụng được dịch vụ này. Kể từ đó, e-banking đã và đang được nhân rộng ra ngoài nước Mỹ đến tất cả các châu lục khác. Ngày nay, ở những nước phát triển, dịch vụ này trở nên khá quen thuộc với khách hàng vì tính tiện lợi và hiệu quả của nó. Như ở Mỹ, năm 1998 có 7 triệu hộ gia đình giao dịch với ngân hàng qua Internet, năm 2001 có khoảng 10 triệu và dự kiến năm 2003 con số này sẽ lên tới 60 triệu1. Ở Việt Nam , dịch vụ e-banking đã được khởi động từ năm 1994, nhưng phải đến năm 2002, công nghệ thông tin Việt Nam mới đủ sức thích ứng với việc triển khai loại hình dịch vụ này. c. Ba cấp độ của dịch vụ ngân hàng điện tử Dịch vụ e-banking được chia thành ba cấp độ khác nhau: Ở cấp độ sơ đẳng nhất, e-banking không khác nhiều so với giao dịch qua điện thoại hay giao dịch với một máy rút tiền tự động. Bằng cách sử dụng bàn phím số của điện thoại, khách hàng có thể biết được tình hình tài khoản của mình hoặc có thể thực hiện các giao dịch đơn giản như chuyển tiền từ tài khoản tiết kiệm sang tài khoản vãng lai của cùng một chủ tài khoản. Ở cấp độ thứ hai, internet đóng vai trò tích cực hơn. Lúc này mỗi trang chủ của ngân hàng trên internet được xem như một cửa sổ giao dịch. Ngoài chức năng kiểm tra tài khoản, khách hàng còn có thể sử dụng hàng loạt các dịch vụ trực tuyến khác như vay mua hàng, mua một hợp đồng bảo hiểm và kể cả đầu tư vào chứng khoán Ở cấp độ thứ ba, ngân hàng đóng vai trò rất to lớn, hỗ trợ cho thương mại điện tử giữa các doanh nghiệp phát triển. Mọi giao dịch như chuyển tiền, 1 Theo số liệu của nhà phõn tớch Joe Demeo, Bộ tư phỏp Mỹ, (12/2001) 10
  11. mở thư tín dụng cho hợp đồng mua bán giữa các nhà xuất nhập khẩu, mở các thư bảo lãnh đều có thể thực hiện trực tuyến. Khách hàng sẽ không phải đến trụ sở của ngân hàng mà vẫn có thể thực hiện được các giao dịch thông qua một chương trình do ngân hàng cài đặt tại văn phòng của khách hàng. Chương trình này cho phép truy cập đến máy chủ của ngân hàng 24/24 giờ và cả bảy ngày trong tuần. Hiện nay, ở châu Âu và châu Mỹ, e-banking là một khái niệm không còn xa lạ đối với dân chúng, nhưng ở châu Á và đặc biệt là ở Việt Nam, giao dịch này thuộc loại chưa phổ biến. Do đó, các chi nhánh ngân hàng nước ngoài thường giành được ưu thế và đi tiên phong trong lĩnh vực còn mới mẻ này như ngân hàng ANZ, ngân hàng HSBC Tuy nhiên, một số ngân hàng Việt Nam cũng đã có những bước phát triển nhất định trong việc ứng dụng dịch vụ ngân hàng điện tử để tăng khả năng cạnh tranh với các ngân hàng nước ngoài nhưng vẫn còn ở cấp độ sơ đẳng và đang có một số hoạt động ở cấp độ thứ hai. d. Các loại sản phẩm dịch vụ ngân hàng điện tử Ngân hàng điện tử cung cấp cho khách hàng nhiều loại sản phẩm dịch vụ tiện ích: Các loại thẻ nhựa: thẻ nhựa là tên mà người ta đặt cho các loại thẻ nhựa dùng thay thế cho tiền mặt. Có nhiều tên gọi khác nhau cho những loại thẻ này, nhưng nhìn chung chúng đều có hai chức năng chính: giúp cho người ta có thể rút được tiền mặt hoặc thực hiện thanh toán mà không cần dùng đến tiền mặt hoặc séc. Hiện nay, hầu hết các ngân hàng lớn trên thế giới đều có thể phát hành một thẻ mang ba chức năng cho khách hàng của họ là: Chức năng bảo chi séc (theo đó ngân hàng đảm bảo thanh toán cho khoản tiền ghi trên séc do khách hàng phát hành tới một hạn mức nhất định), chức năng rút tiền mặt từ các máy rút tiền tự động, chức năng thanh toán hàng hoá, dịch vụ bằng chuyển tiền điện tử tại điểm bán hàng. 11
  12. Hệ thống thanh toán điện tử tại các điểm bán hàng: đây còn gọi là dịch vụ chuyển tiền điện tử tại điểm bán hàng. Số tiền phải trả cho hàng hoá sẽ được chuyển bằng công nghệ điện tử tại điểm bán hàng từ ngân hàng của người mua sang ngân hàng của người bán. Điểm bán hàng có thể là tại siêu thị hay trạm bán xăng, nơi mà khách hàng sử dụng thẻ để thanh toán cho hàng hoá. Người bán hàng kéo trượt thẻ qua máy cà thẻ. Đây thực chất là một thiết bị đọc, có thể đọc được các thông tin được mã hoá trên dải từ nằm ở mặt sau thẻ. Máy rút tiền tự động (ATM): máy này cho phép khách hàng tự mình rút tiền mà không cần sự trợ giúp nào của nhân viên ngân hàng. Khách hàng dùng các loại thẻ nhựa đưa vào máy rút tiền tự động, các máy này sẽ nhận dạng khách hàng thông qua mã số nhận dạng cá nhân mà khách hàng nhập trên bàn phím của máy. Ngoài chức năng chủ yếu là cho phép khách hàng rút tiền mặt, các máy ATM còn cung cấp một loạt các tiện ích khác như cho phép khách hàng vấn tin tài khoản, chuyển tiền giữa các tài khoản, yêu cầu báo cáo tài khoản chi tiết hoặc in các báo cáo tài khoản mini Dịch vụ ngân hàng qua điện thoại: đây là loại hình dịch vụ ngân hàng mà khi sử dụng nó, khách hàng chỉ cần dùng hệ thống điện thoại thông thường. Với dịch vụ này, khách hàng có thể mọi nơi, mọi lúc dùng điện thoại cố định hay điện thoại di động để nghe được các thông tin về sản phẩm dịch vụ ngân hàng, thông tin tài khoản của mình và thậm chí có thể thực hiện được một số loại giao dịch. Đây là hệ thống trả lời tự động, hoạt động 24/24 giờ trong ngày, 7 ngày trong một tuần, 365 ngày trong một năm, nên khách hàng hoàn toàn chủ động sử dụng khi cần thiết. Dịch vụ ngân hàng tại nhà: là một loại dịch vụ ngân hàng điện tử cho phép khách hàng có thể chủ động kiểm soát hoạt động giao dịch ngân hàng từ văn phòng của họ. Hệ thống này giúp khách hàng tiết kiệm được rất nhiều thời gian và tiền bạc vì họ không cần phải đến giao dịch trực tiếp tại ngân hàng, khách hàng sẽ có nhiều thời gian hơn để tập trung vào các hoạt động 12
  13. kinh doanh của mình. Khách hàng cũng không còn phải lo lắng về nạn kẹt xe cũng như các loại giấy tờ sổ sách phức tạp. Với sự trợ giúp của dịch vụ này, việc giao dịch ngân hàng đối với khách hàng giờ đây chỉ còn là việc bấm bàn phím máy tính, vào thời điểm thuận tiện nhất của mình. Dịch vụ ngân hàng qua mạng máy tính toàn cầu (internet banking): là một loại hình dịch vụ ngân hàng hiện đại và còn khá mới mẻ. Nó cho phép khách hàng có thể giao dịch ngân hàng thông qua mạng internet vào bất cứ lúc nào, ở bất cứ đâu mà khách hàng cho là phù hợp nhất. Do đó, khách hàng có thể làm giao dịch 24 giờ trong ngày, 7 ngày trong tuần tại nhà riêng hoặc ở văn phòng, khi đang ở trong nước hay đang ở nước ngoài. Sự ra đời của internet banking thực sự là một cuộc cách mạng, nó thúc đẩy các giao dịch xảy ra nhanh hơn, tiết kiệm được nhiều thời gian và tiền cho cả khách hnàg lẫn ngân hàng và cho cả xã hội. Dịch vụ ngân hàng qua vô tuyến truyền hình tương tác: đây là một loại hình dịch vụ có tính hai chiều được cung cấp thông qua hệ thống truyền hình kỹ thuật số. Thông tin không chỉ đi một chiều từ đài truyền hình tới các khán giả mà còn cả theo chiều ngược lại. Với dịch vụ này, khách hàng không còn thụ động ngồi xem các chương trình của đài truyền hình phát mà họ hoàn toàn chủ động trong việc xem gì, khi nào. Ví dụ, khán giả có thể lấy thêm các thông tin chi tiết hơn về một bộ phim tài liệu nào đó đang phát hoặc thông qua bộ điều khiển từ xa có thể gửi ý kiến phản hồi về đài truyền hình. Dịch vụ ngân hàng qua mạng viễn thông không dây: đây là loại dịch vụ ngân hàng điện tử mới nhất hiện nay dựa trên công nghệ điện tử viễn thông không dây của mạng điện thoại di động. Thực chất dịch vụ này chính là sự kết nối điện thoại di động của khách hàng với trung tâm cung cấp dịch vụ ngân hàng điện tử và kết nối internet trên điện thoại di động sử dụng giao thức truyền thông. e. Phương thức giao dịch trong dịch vụ ngân hàng điện tử 13
  14. Việc thiết lập giao dịch điện tử có thể được thực hiện theo hai phương thức là phương thức giao dịch trực tiếp và phương thức giao dịch từ xa thông qua mạng internet hay thông qua điện thoại. * Phương thức giao dịch trực tiếp Với phương thức giao dịch trực tiếp, thông qua việc khách hàng trực tiếp đến ngân hàng, xuất trình các tài liệu để giao dịch, ngân hàng có thể kiểm tra các tài liệu này, kiểm tra chứng minh thư, chữ kí, giấy uỷ nhiệm, từ đó ngân hàng có thể kiểm tra thẩm quyền của người tham gia giao dịch, từ đó đảm bảo chắc chắn việc giao dịch, chuyển giao thông tin được chính xác. * Phương thức giao dịch từ xa (thông qua mạng internet hay điện thoại) Trong trường hợp khách hàng thực hiện đề nghị thiết lập giao dịch ngân hàng điện tử thông qua mạng internet hay điện thoại, ngân hàng sẽ có một số khó khăn trong việc kiểm tra, xác thực khách hàng do thiếu các phương tiện truyền thống như: chữ kí, chứng minh thư Trong trường hợp này, thông thường các ngân hàng xác định khách hàng thông qua việc yêu cầu khách hàng điền đầy đủ vào mẫu đề nghị giao dịch ngân hàng điện tử và gửi đến ngân hàng, trong mẫu này có những thông tin mà chỉ có ngân hàng và khách hàng mới có thể biết được. Ví dụ, các thông tin mà Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam yêu cầu khách hàng của mình phải điền đầy đủ khi có đề nghị thiết lập giao dịch điện tử là: tên người mở tài khoản, số, ngày, số chứng minh thư, địa chỉ, số điện thoại, số tài khoản, loại tài khoản, địa chỉ e-mail,số zip. Trong đó, chỉ có thông tin về mã số zip là chỉ có ngân hàng và khách hàng mới biết được. Song đây chỉ là mã giao dịch nên không có quy định buộc ngân hàng và khách hàng phải giữ bí mật. Mặt khác, mã số này không chỉ sử dụng cho khách hàng trong giao dịch mở tài khoản tiền gửi mà còn sử dụng trong các mẫu giao dịch liên quan đến tiền gửi tiết kiệm nên khả năng bị tiết lộ thông tin là khá cao. 14
  15. Sau khi ngân hàng chấp nhận đề nghị thiết lập giao dịch ngân hàng điện tử, ngân hàng sẽ gửi thông báo cho khách hàng trong đó cung cấp cho khách hàng tên giao dịch và mã số để giao dịch và khách hàng được khuyến nghị thay đổi mã số để đảm bảo an toàn. Việc cung cấp tên giao dịch và mã số giao dịch có thể thực hiện thông qua phương thức gửi thư giấy, song hiện nay ngân hàng thường chuyển bằng thư điện tử. Liên quan đến việc sửa chữa, thay đổi, cung cấp lại tên giao dịch và mã số, để tạo thuận lợi cho khách hàng, các ngân hàng cũng cho phép thực hiện yêu cầu giao dịch thông qua mạng và quá trình này cũng tương tự như quá trình thiết lập giao dịch qua mạng hay điện thoại đã được trình bày như trên. Qua việc xem xét quá trình thiết lập giao dịch ngân hàng điện tử, có thế thấy việc kiểm tra, xác thực khách hàng là một khâu rất quan trọng để đảm bảo đúng đối tượng. Bên cạnh đó, việc thiết lập phương thức cung cấp, chuyển giao thông tin giao dịch một cách thận trọng là rất cần thiết để đảm bảo sự an toàn và bí mật thông tin tiền gửi của khách hàng. Do có hai phương thức để thiết lập giao dịch ngân hàng điện tử nên khách hàng có thể lựa chọn phương thức nào tiện lợi nhất cho mình để sao cho nhanh chóng và hiệu quả. Ngày nay, do yêu cầu tiết kiệm thời gian nên khách hàng thường thực hiện theo phương thức giao dịch từ xa thông qua mạng internet hoặc thông qua điện thoại. 2. Các nhân tố ảnh hưởng tới sự ra đời và phát triển của ngân hàng điện tử a. Sự phát triển của thương mại điện tử Trước tiên, có thể khẳng định ngân hàng điện tử ra đời là nhờ vào sự phát triển mạnh mẽ của thương mại điện tử. Xu thế cạnh tranh ngày càng khốc lịêt giữa các doanh nghiệp trên thế giới cũng như ở Việt Nam đã buộc họ phải luôn luôn tiếp cận với những thành tựu mới của khoa học kĩ thuật nhằm phục vụ tốt hơn nhu cầu ngày càng đa dạng của khách hàng. Việc áp dụng thương mại điện tử vào hoạt động kinh doanh trở thành một yêu cầu tất 15
  16. yếu đối với tất cả các doanh nghiệp vì thương mại điện tử đưa lại những lợi ích tiềm tàng cho họ. *Đối với doanh nghiệp : - TMĐT trước hết giúp cho các doanh nghiệp nắm được thông tin phong phú về kinh tế- thương mại, nhờ đó, có thể xây dựng được chiến lược sản xuất và kinh doanh thích hợp với xu thế phát triển của thị trường trong nước, khu vực, và thị trường quốc tế. - Giảm chi phí sản xuất : TMĐT giúp giảm chi phí sản xuất trước hết là chi phí văn phòng.Các văn phòng không giấy tờ chiếm diện tích nhỏ hơn rất nhiều, chi phí tìm kiếm, chuyển giao tài liệu giảm đi nhiều lần. Điều quan trọng hơn là các nhân viên có năng lực được giải phóng khỏi nhiều công đoạn, sự vụ, có thể tập trung vào nghiên cứu phát triển, sẽ đưa đến những lợi ích to lớn lâu dài. - Giảm chi phí bán hàng và tiếp thị : TMĐT giúp giảm thấp chi phí bán hàng và chi phí tiếp thị. Bằng phương tiện internet, một nhân viên bán hàng có thể giao dịch được với rất nhiều khách hàng, catalogue điện tử trên Web phong phú hơn nhiều và thường xuyên cập nhật so với catalogue in ấn chỉ có khuôn khổ giới hạn và luôn lỗi thời. - Giảm chi phí giao dịch: Thương mại điện tử qua internet giúp người tiêu thụ và các doanh nghiệp giảm đáng kể thời gian và chi phí giao dịch (giao dịch được hiểu là quá trình quảng cáo, tiếp xúc ban đầu, giao dịch đặt hàng, giao dịch thanh toán). Thời gian giao dịch qua Internet chỉ bằng 7% thời gian giao dịch qua Fax và bằng khoảng 0,5 phần nghìn thời gian giao dịch qua bưu điện. - Cải tiến quan hệ trong công ty, với đồng nghiệp, đối tác, bạn hàng : TMĐT tạo điều kiện cho việc thiết lập và cũng cố mối quan hệ giữa các thành tố tham gia vào quá trình thương mại: Thông qua mạng các thành tố tham gia có thể giao tiếp trực tiếp và liên tục với nhau gần như không còn khoảng cách về địa lý và thời gian nữa; nhờ đó cả sự hợp tác lẫn sự quản lý đều được tiến 16
  17. hành nhanh chóng và liên tục; các bạn hàng mới, các cơ hội kinh doanh mới được phát hiện nhanh chóng trên bình diện toàn quốc, toàn khu vực, toàn thế giới và có nhiều cơ hội để lựa chọn. - Tăng năng lực phục vụ khách hàng của các doanh nghiệp vì giờ đây họ có sự hỗ trợ đắc lực của các phương tiện điện tử, do vậy mà khách hàng được phục vụ một cách tốt nhất trong một thời gian ngắn nhất. - Mở rộng phạm vi kinh doanh của doanh nghiệp do thương mại điện tử giúp doanh nghiệp giảm được các loại chi phí, khả năng phục vụ khách hàng lại tăng, nhân lực cũng được giảm đi đáng kể nên việc mở rộng phạm vi kinh doanh là điều không khó nữa. *Đối với các cá nhân - Thuận tiện hơn khi tiến hành mua các sản phẩm hàng hoá và dịch vụ vì bây giờ họ không còn phải chờ đợi, xếp hàng nữa, thời gian giao dịch là nhanh và thuận tiện. - Tăng khả năng lựa chọn các loại hình sản phẩm hàng hoá dịch vụ: khách hàng có thể lựa chọn nhà cung cấp nào mang lại cho họ nhiều tiện ích nhất đối với họ. Khi thương mại điện tử xuất hiện, nhiều doanh nghiệp sau khi tiếp cận với lĩnh vực này sẽ mang đến cho khách hàng nhiều dịch vụ hoặc cung cấp hàng hoá cho khách hàng một cách thuận tiện nhất - Tiếp cận mặt hàng dễ dàng hơn: nhờ thương mại điện tử, khách hàng có thể tiếp cận với các mặt hàng, dịch vụ không chỉ bằng phương pháp truyền thống mà còn thông qua các phương tiện điện tử hiện đại, điều này mang lại rất nhiều thuận lợi cho họ. - Khách hàng có thể được hưởng các dịch vụ nhiều hơn khi tham gia vào các giao dịch mua hàng hóa và dịch vụ Những tác động to lớn của thương mại điện tử đối với các doanh nghiệp là điều không phải bàn cãi và ngành ngân hàng cũng không nằm ngoài qui 17
  18. luật đó. Thương mại điện tử đã đưa đến cho ngành ngân hàng một loại hình dịch vụ mới: nhanh chóng và hiệu quả, đó là dịch vụ ngân hàng điện tử. Ngày nay, với sự phát triển như vũ bão của công nghệ thông tin đã làm cho nền kinh tế xích lại gần nhau không có sự phân cách về mặt địa lý, không gian và thời gian. Sự phát triển của thương mại điện tử đã tác động đến ngân hàng, đặt ra cho ngân hàng những cơ hội và thách thức mới. Thương mại điện tử tạo nên một hình thức cạnh tranh mới, buộc ngân hàng phải chọn những dịch vụ mà khách hàng cần, quyết định quy mô các chi nhánh ngân hàng trong hệ thống và mở rộng hệ thống thanh toán liên ngân hàng. Sự tham gia của thương mại điện tử cũng làm nảy sinh các vấn đề về công nghệ của ngân hàng. Các ngân hàng giải quyết được những thách thức này sẽ quyết định được sự sự ảnh hưởng của mình đối với thị trường điện tử hoá. Đứng trước yêu cầu đó ngân hàng đã cho ra nhiều dịch vụ mới : dịch vụ ngân hàng qua điện thoại sử dụng mã cá nhân, hoặc nhận dạng giọng nói; dịch vụ ngân hàng qua mạng internet, khách hàng chỉ cần một máy tính cá nhân nối mạng internet là có thể giao dịch với ngân hàng mà không cần phải trực tiếp đến ngân hàng. Những dịch vụ này đã đưa đến một thực tế là, thế giới ngày nay cho ta thấy có một loại dịch vụ ngân hàng mới: ngân hàng điện tử. Cùng với ảnh hưởng của thương mại điện tử thì còn có các nhân tố có ảnh hưởng quyết định tới sự phát triển của ngân hàng điện tử. b. Môi trường pháp lý Môi trường pháp lý là một yếu tố đặc biệt quan trọng, ảnh hưởng đến hoạt động của mọi lĩnh vực đời sống xã hội. Trong từng nước, các ngân hàng chỉ có thể áp dụng dịch vụ ngân hàng điện tử khi tính pháp lý của nó được thừa nhận (biểu hiện cụ thể bằng sự thừa nhận pháp lý giá trị của các giao dịch điện tử, các thanh toán điện tử, chứng từ điện tử ) và có các cơ quan 18
  19. xác thực (chứng nhận chữ ký điện tử). Môi trường pháp lý ổn định sẽ có tác động tích cực đến sự phát triển của các loại hình dịch vụ mới này vì nó sẽ được bảo đảm các hoạt động của mình chính bằng hệ thống pháp luật của quốc gia mình. Chính vì vậy, môi trường pháp lý của quốc gia đòi hỏi ngày càng hoàn thiện hơn, ổn định hơn để đảm bảo thông suốt các hoạt động của ngân hàng điện tử. c. Hạ tầng cơ sở công nghệ thông tin Ngân hàng điện tử ra đời, như trên đã phân tích, là do sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin. Chính vì vậy, chỉ có thể tiến hành thực tế và một cách có hiệu quả các hoạt động của ngân hàng điện tử khi có một hạ tầng cơ sở công nghệ thông tin đủ năng lực. Đòi hỏi về hạ tầng cơ sở công nghệ thông tin bao gồm hai mặt: một là tính tiên tiến, hiện đại về công nghệ và thiết bị, hai là tính phổ cập về kinh tế (đủ rẻ tiền để đông đảo người có thể tiếp cận được). Do tính chất đặc biệt quan trọng của công nghệ thông tin trong sự phát triển của ngân hàng điện tử, nên các ngân hàng muốn phát triển loại hình dịch vụ này cần phải có nguồn vốn quan trọng ban đầu để đầu tư và hoàn thiện hạ tầng cơ sở công nghệ thông tin của ngân hàng mình. d. Hạ tầng cơ sở nhân lực Khi phát triển dịch vụ ngân hàng điện tử, có thể các ngân hàng giảm được đáng kể nguồn nhân lực do có nhiều công đoạn được tự động hoá và có máy móc hỗ trợ đắc lực. Nhưng cũng chính điều này đòi hỏi mỗi nhân viên ngân hàng phải trang bị cho mình những kĩ năng ứng dụng công nghệ thông tin một cách có hiệu quả, có thói quen làm việc bằng các phương tiện điện tử, đồng thời các nghiệp vụ ngân hàng lại các phải nắm chắc hơn vì họ không còn làm việc trực tiếp với khách hàng nữa. Ngoài ra, các ngân hàng cần phải có đội ngũ chuyên gia thông tin đủ mạnh. Con người luôn là nhân tố quyết định đến sự thành công của bất kì hoạt động nào, phát triển nhân lực mạnh mẽ sẽ góp phần to lớn cho những thành công của ngân hàng điện tử. e. Tính cạnh tranh 19
  20. Cạnh tranh là động lực của sự phát triển. Chỉ có cạnh tranh, các ngân hàng mới tự đổi mới mình để khỏi bị tụt hậu với các ngân hàng khác. Càng cạnh tranh nhiều các ngân hàng càng phải hoàn thiện mình hơn, đưa ra các dịch vụ tốt hơn, hoàn hảo hơn, nhiều tiện ích hơn để có thể thu hút được nhiều khách hàng hơn. Ngày nay, các ngân hàng trên thế giới nói chung và các ngân hàng Việt Nam nói riêng đã nhận thức được những đặc tính ưu việt của ngân hàng điện tử so với ngân hàng truyền thống nên đã, đang và sẽ lựa chọn, phát triển loại hình dịch vụ ngân hàng điện tử để đáp ứng những yêu cầu ngày càng khắt khe của khách hàng. Ngân hàng điện tử là ngân hàng mà các dịch vụ được cung cấp qua các phương tiện kỹ thuật điện tử, khách hàng không cần đến trực tiếp tại các chi nhánh của Ngân hàng mà vẫn có thể thực hiện được các giao dịch và nắm bắt được thông tin tài chính của mình. Ngân hàng điện tử ra đời mang lại lợi ích to lớn cho ngân hàng, chi phí ban đầu và chi phí cho công tác điều hành giảm xuống đáng kể, năng suất làm việc của nhân viên nâng cao và quan trọng là được khách hàng quan tâm tới và được đánh giá là những tổ chức hàng đầu về ứng dụng kỹ thuật tiến bộ cho phép ngân hàng có thể phục vụ khách hàng 24/24 giờ và ở mọi lúc, mọi nơi. 3. Ưu điểm và hạn chế của ngân hàng điện tử a. Ưu điểm Ngân hàng điện tử đã tạo ra nhiều sản phẩm dịch vụ tuyệt vời, đáp ứng được những yêu cầu ngày càng khắt khe của khách hàng. Trước đây, nói đến giao dịch ngân hàng, ta thường tưởng tượng ra cảnh khách hàng phải mất hàng giờ để điền vào các loại mẫu giấy tờ, sau đó đứng xếp hàng dài chờ đến lượt, rồi phải làm thủ tục qua nhiều cửa của ngân hàng. Nhưng giờ đây, các dịch vụ e-banking đa dạng với các cách sử dụng tương đối đơn giản, tiện lợi đã giúp khách hàng hoàn toàn thoát khỏi những phiền toái đó. E-banking đã thực sự trở thành phương tiện hỗ trợ đắc lực giúp cho khách hàng có thể chủ 20
  21. động kiểm soát tình hình tài chính của mình, có thể thông tin liên lạc với ngân hàng một cách hiệu quả, mọi nơi, mọi lúc mà không cần phải giao dịch trực tiếp với ngân hàng. Bên cạnh đó, phí giao dịch e-banking được đánh giá là ở mức thấp nhất so với các phương tiện giao dịch khác. Ta có thể theo dõi kết quả khảo sát sau: Phí giao dịch e-banking so với các phương tiện khác Nhân viên phục vụ Qua điện thoại ATM Internet 1,07 USD 0,54 USD 0,27 USD 0,015 USD Nguồn: Kết quả khảo sát của hãng nghiên cứu Booz, Allen & Hamilton(2000) Như vậy, thay đổi lớn nhất mà e-banking mang lại cho khách hàng là có thể đem lại một giải pháp mà từ trước tới nay chưa từng có. Khách hàng có được tất cả những gì mình mong muốn với một mức thời gian ít nhất và điều đó có thể tóm lại thành một cụm từ “sự tiện lợi”, nhất là đối với các cá nhân, hộ gia đình, doanh nghiệp vừa và nhỏ vì nhiều khi đối tượng khách hàng này không đủ nhân lực đi đến văn phòng trực tiếp giao dịch với ngân hàng và e- banking sẽ là sự lựa chọn tối ưu. E-banking không chỉ mang lại nhiều tiện ích cho khách hàng mà còn cho cả các ngân hàng nữa. E-banking giúp cho ngân hàng tiết kiệm được tối đa nguồn nhân lực bởi nhiều khâu đã được tự động hoá nhưng vẫn đảm bảo cung cấp cho khách hàng nhiều loại hình dịch vụ chất lượng cao như: dịch vụ vấn tin, chuyển khoản, thanh toán hoá đơn dịch vụ công cộng, kinh doanh chứng khoán, vay vốn, thông tin quảng cáo, trao đổi thông tin Nhờ đó, các ngân hàng không những có thể thoả mãn yêu cầu của khách hàng, thu hút ngày càng nhiều người tham gia vào các giao dịch của ngân hàng, nâng cao được hình ảnh và uy tín của họ, mà còn giảm chi phí giao kinh doanh và tăng doanh thu lợi nhuận, hoạt động kinh doanh ngày một phát triển. Ngoài ra, một lợi ích quan trọng khách mà e-banking mang lại cho ngân hàng, đó là ngân hàng có thể thực hiện chiến lược “toàn cầu hoá” mà không cần mở thêm chi nhánh. 21
  22. b. Hạn chế Tất cả những lợi ích này của e-banking đã và đang khiến các ngân hang không thể làm ngơ trước thời kỳ bùng nổ công nghệ thông tin như hiện nay. Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm trên, có không ít bất lợi của e-banking mà các ngân hàng và khách hàng của họ phải quan tâm. Đối với khách hàng, họ phải tính đến những bất lợi như: Một là, để tham gia được vào e-banking, khách hàng cần phải có máy vi tính hay các phương tiện điện tử khác và phải mua dịch vụ từ công ty dịch vụ, đây là khoản chi phí đầu tư ban đầu không nhỏ. Hai là, vấn đề bí mật, an toàn cho khách hàng cũng là điều đáng lo ngại. Ví dụ, với một giao dịch để thanh toán thẻ, khách hàng phải tiết lộ số thẻ cho ngân hàng. Giao dịch điện tử, khách hàng thực tế phải chấp nhận nhiều rủi ro hơn so với giao dịch chứng từ vì trong trường hợp xảy ra tranh chấp, chứng từ sẽ là bằng chứng hùng hồn hơn. Ba là, nhiều khách hàng vẫn muốn trực tiếp giao dịch với cán bộ ngân hàng để có thể diễn giải dễ dàng hơn. Cuối cùng, có những thông tin mà internet hay bất cứ một phương tiện điện tử khác không thể cung cấp đầy đủ như một cán bộ chuyên trách của ngân hàng. Đối với các ngân hàng, e-banking cũng có một số những nhược điểm. Đó là, để xây dựng hệ thống giao dịch điện tử đòi hỏi ngân hàng phải có lượng vốn đầu tư ban đầu khá lớn chưa kể đến các chi phí bảo hành, duy trì và phát triển hệ thống sau này, một lượng chi phí mà không phải ngân hàng nào cũng có thể sẵn sàng đầu tư. Vấn đề cần quan tâm khác là cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin, điều này đòi hỏi sự nỗ lực của cả quốc gia chứ không riêng gì một ngân hàng nào. Ngoài ra, vấn đề bảo mật an toàn cho khách hàng và hoà mạng vào các phần mền khác cũng đặt ra vấn đề cần giải quyết. II. KINH NGHIỆM PHÁT TRIỂN NGÂN HÀNG ĐIỆN TỬ CỦA MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI Trong khi ở Việt Nam ngân hàng điện tử còn tương đối mới mẻ và chưa phổ biến thì trên thế giới, đặc biệt là những quốc gia phát triển thì khái niệm 22
  23. e-banking không còn xa lạ đối với dân chúng. Chỉ cần một dẫn chứng về số công ty và cá nhân sử dụng mạng internet thì ta có thể rõ vấn đề trên: ở Việt Nam, con số đó là 0,2% trong khi của thế giới là 7,98%1. Ngoài ra, giao dịch thông qua các phương tiện điện tử ở các nước này cũng phát triển hơn rất nhiều. Ví dụ như giao dịch qua mạng điện thoại di động ở nước họ diễn ra rất thường xuyên với khối lượng giao dịch lớn thì ở Việt Nam chỉ có duy nhất một ngân hàng là ngân hàng Á Châu mới đang có dự án cho việc triển khai hình thức này mà cũng chỉ là dành cho những giao dịch đơn giản. Có thể nói, dịch vụ ngân hàng điện tử của Việt Nam còn phải cố gắng và nỗ lực rất nhiều mới đuổi kịp được các nước khác. Để đạt được điều này, Việt Nam cần phải học hỏi kinh nghiệm của các nước đã thành công trong việc triển khai dịch vụ ngân hàng điện tử và áp dụng một cách sáng tạo vào điều kiện thực tế của Việt Nam. Đối với các nước đã triển khai thành công dịch vụ ngân hàng điện tử, chính phủ nước họ đã có những điều chỉnh hợp lý, tạo môi trường pháp lý thuận lợi để tạo điều kiện cho dịch vụ này phát huy những mặt mạnh của nó trong xã hội. 1. Trung Quốc Tới nay, nỗ lực của Trung Quốc tập trung chủ yếu vào xây dựng cơ sở hạ tầng công nghệ cho công nghệ thông tin. Mấy năm gần đây, công nghệ phần cứng đạt tốc độ tăng khoảng 45%/năm. Trung Quốc cũng đã bắt đầu sản xuất máy siêu vi tính. Công nghiệp phần mềm phát triển với tốc độ trên 20%/năm và bắt đầu vào giai đoạn phát triển nhanh, át hẳn nhiều khu vực khác trên thế giới và gần đuổi kịp xu hướng phát triển toàn cầu. Trung Quốc bước vào thương mại điện tử rất chậm: cuối năm 1997 mới chính thức vào mạng internet (trước đó có truy cập nhưng không chính thức), nhưng ngay sau đó tốc độ phát triển tăng rất cao. 1 Tạp chớ khoa học và đào tạo ngõn hàng số 1+2/2003 23
  24. Trung Quốc đã tham gia chương trình Trade Point của UNCTAD, với 1 point ở Thượng Hải và 1 point ở Bắc Kinh như các tâm điểm cung cấp các dịch vụ tiếp thị và giao dịch buôn bán đối ngoại có sử dụng phương tiện điện tử cho các doanh nghiệp chưa có điều kiện tự mình trực tiếp tiến hành, đồng thời cung cấp dịch vụ đào tạo huấn luyện kỹ năng giao dịch buôn bán đối ngoại, đặc biệt là kỹ năng giao dịch qua mạng, đồng thời chính phủ cũng tạo điều kiện về cơ sở vật chất cho các ngân hàng trong nước tiến hành dịch vụ e- banking, tuy nhiên mức độ phát triển của dịch vụ này ở Trung Quốc chưa cao, số người sử dụng dịch vụ này còn ít vì hiện nay. Ở Trung Quốc, các hoạt động trao đổi thông tin qua mạng vẫn phải chịu sự theo dõi và kiểm duyệt của chính phủ, do vậy đã khiến cho hoạt động này chưa phát triển mạnh mẽ. Theo các cơ quan nghiên cứu quốc tế về thương mại điện tử thì triển vọng phát triển ngân hàng điện tử ở Trung Quốc còn chưa rõ ràng, vì một trong nhưng đòi hỏi của lĩnh vực này là internet không bị theo dõi, kiểm duyệt. 24
  25. 2. Malaixia Để phát triển ngân hàng điện tử, Malaixia đã thành lập một tiểu ban đặc nhiệm do bộ Năng lượng, Bưu điện và thông tin đứng đầu, được thành lập để xây dựng một hệ thống luật đáp ứng các yêu cầu của ngân hàng điện tử gồm: Luật chữ ký điện tử, luật tội phạm máy tính, luật bản quyền sửa đổi. Bên cạnh đó, chính phủ cũng đã công bố chiến lược thương mại điện tử bao gồm: - Xây dựng một hạ tầng cơ sở thông tin đẳng cấp quốc tế - Malaixia sẽ không kiểm duyệt internet - Malaixia sẽ trở thành kiểu mẫu khu vực về bảo vệ sở hữu trí tuệ trong kinh doanh trên mạng - Malaixia sẽ đảm bảo tự do sở hữu tư nhân và giao lưu lực lượng lao động trí tuệ toàn thế giới - Sẽ không đánh thuế nhập khẩu các thiết bị và kĩ thuật phục vụ cho “kinh tế số hoá” và thương mại trong thời gian ít nhất là đến năm 2010. Hệ thống thanh toán điện tử đã được thiết lập ở Malaixia do ngân hàng Negara chịu trách nhiệm chính đã phát triển rất mạnh mẽ. Dịch vụ ngân hàng điện tử ở đây có thể nói là tương đối phát triển do chính phủ đã tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho lĩnh vực này hoạt động. 3. Singapore Từ lâu, Singapore đã tuyên bố mục tiêu biến nước này trở thành một trong những nước đứng đầu thế giới về điện toán hoá, làm cho công nghệ thông tin thâm nhập vào mọi khía cạnh của đời sống xã hội. Và đến năm 1997, tất cả các cơ quan, công sở đều đã liên kết vào internet. Riêng về thanh toán điện tử, Singapore là một trong những nước áp dụng đầu tiên trên thế giới. Tháng 12/1996, nhân phiên họp cấp bộ trưởng WTO tổ chức ở Singapore, Singapore đã chính thức khai trương việc ứng dụng toàn 25
  26. diện các loại thẻ tiền mặt internet, thẻ thông minh, thẻ mua hàng điện tử, túi tiền điện tử. Hệ thống giao dịch an toàn mang tính quốc tế, thành lập tháng 4/1997 đưa vào sử dụng toàn diện cuối năm 1998. Để đạt được những thành tựu đó, chính phủ Singapore đã đưa ra nhiều văn kiện quan trọng điều chỉnh hoạt động thương mại điện tử nói chung và ngân hàng điện tử nói riêng ở Singapore như: Luật chống lạm dụng máy tính điện tử, luật bí mật riêng tư, luật giao dịch điện tử, luật bản quyền cũng được sửa đổi lại cho phù hợp với các yêu cầu của thương mại điện tử. Trong thời gian tới, Singapore tiếp tục có các chiến lược phát triển thương mại điện tử và mở rộng thanh toán điện tử, với các mục tiêu sau: - Xây dựng một cơ sở hạ tầng thương mại điện tử kết nối quốc tế, - Biến Singapore thành một trung tâm thương mại điện tử, - Khuyến khích các doanh nghiệp ứng dụng thương mại điện tử như là một chiến lược kinh doanh, - Xúc tiến dân chúng sử dụng rộng rãi các hình thức thương mại điện tử, - Làm hài hoà các luật và các chính sách thương mại điện tử qua biên giới. Trong kế hoạch tổng thể phát triển của mình, Singapore coi pháp luật là nền móng dưới cùng của hạ tầng cơ sở thương mại điện tử. 4. Nhật Bản Nền công nghệ thông tin của Nhật Bản có đặc điểm nổi bật là: công nghiệp phần cứng khá xuất sắc, nhưng công nghệ phần mềm thì chậm, thua khá xa so với Mỹ và Tây Âu, và sự xâm nhập của công nghệ thông tin vào đời sống xã hội cũng thấp hơn so với các nước kia. Chính vì vậy việc triển khai dịch vụ ngân hàng điện tử của Nhật Bản cũng không thể nào phát triển bằng Mỹ và Tây Âu. Để thúc đẩy dịch vụ này phát triển cũng như để công nghệ thông tin có nhiều ứng dụng vào đời sống xã hội hơn nữa, Nhật Bản cũng đã đưa ra một số biện pháp như: đưa ra một chương trình lớn về phát triển cơ sở 26
  27. hạ tầng công nghệ thông tin toàn quốc, bộ Bưu điện xây dựng một đề án tới năm 2010 hoàn tất việc chuyển mạng thông tin toàn quốc sang dùng sợi cáp quang, có các dự án xây dựng các cửa hàng ảo, các tiêu chuẩn cho thông tin sản phẩm, vấn đề bảo mật và an toàn, công nghệ thẻ thông minh, trung tâm xác thực và chứng nhận chữ ký điện tử và chữ ký số hoá Tất cả các hoạt động trên của Nhật Bản đã có những tác động rõ rệt tới sự phát triển của e- banking ở nước này. Dịch vụ ngân hàng điện tử giờ đây đã có một môi trường pháp lý để tiến hành các giao dịch trong toàn quốc, nhân dân thấy tin tưởng hơn vào sự an toàn của cả hệ thống, các ngân hàng điện tử của Nhật Bản giờ đã có thể cạnh tranh với các ngân hàng trên thế giới trong việc kinh doanh lĩnh vực tài chính ngân hàng. 5. Nhận xét chung Thông qua tình hình phát triển dịch vụ ngân hàng điện tử ở các nước trên thế giới, Việt Nam có thể học tập được nhiều bài học kinh nghiệm quý báu như: - Hiểu biết và tiếp đó là nhận thức đầy đủ về ngân hàng điện tử đối với đông đảo người dân và doanh nghiệp vẫn còn là một vấn đề phải xử lý, không chỉ ở các nước ít phát triển, mà ở cả những quốc gia phát triển về lĩnh vực này. - Cơ sở kỹ thuật, công nghệ và pháp lý cho ngân hàng điện tử còn đang trong giai đoạn tiếp tục hoàn thiện trên bình diện toàn thế giới. - Việc triển khai ngân hàng điện tử đang tăng nhanh, nhưng tập trung chủ yếu vào một số nước tiên tiến. - Ngân hàng sđiện tử đang được sự quan tâm trong từng nước, từng khối kinh tế và trên bình diện thế giới, nhưng mối quan tâm xuất phát chủ yếu là từ phía các nước đã có hạ tầng cơ sở vững chắc cho “kinh tế số hoá”, đã có thực tiễn giao dịch điện tử. Còn các nước khác, nhất là những nước đang phát triển, bị cuốn theo và buộc phải tiếp cận, dù cơ sở công nghệ thông tin còn thấp kém, chính vì vậy, nhiều nước tỏ ra dè dặt, nhất là từ phía chính phủ. 27
  28. - Các nước có thể chế kinh tế-xã hội ít nhiều còn khép kính chậm tiếp cận ngân hàng điện tử hơn các nước theo thể chế mở. - Dù hành động cụ thể có khác nhau, nhưng cách tiếp cận ngân hàng điện tử ở các nước về cơ bản là như nhau và đều gồm các bước:Đầu tiên, hình thành một hệ thống các quan điểm và nguyên tắc chỉ đạo về ngân hàng điện tử. Thứ hai, phổ cập kiến thức và nhận thức về ngân hàng điện tử tới các doanh nghiệp và từng cá nhân. Thứ ba, xác định các cản trở hiện hữu của đất nước mình đối với ngân hàng điện tử. Thứ tư, triển khai từng bước ngân hàng điện tử. Thứ năm, nhanh chóng đào tạo một đội ngũ nhân lực có kỹ năng. Những kinh nghiệm trên đây đều rất đáng chú ý đối với các nước, nhất là những quốc gia bắt đầu tiếp cận ngân hàng điện tử. Chính vì vậy, nghiên cứu kinh nghiệm của các nước và áp dụng một cách sáng tạo vào thực tiễn của đất nước mình thì các nước mới phát triển được ngân hàng điện tử một cách có hiệu quả. III. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ NGÂN HÀNG ĐIỆN TỬ TẠI VIỆT NAM 1. Bối cảnh thúc đẩy sự ra đời và phát triển ngân hàng điện tử tại Việt Nam Cùng với xu thế chung của thế giới, Việt Nam đang trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Nội dung cơ bản của quá trình này là việc Việt Nam nhất trí thực hiện các cam kết kinh tế quốc tế trong khuôn khổ các hiệp định, mà nổi bật là Việt Nam đã kí kết với các tổ chức quốc tế là: Hiệp định về chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung cho khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC), hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ và chuẩn bị là tổ chức thương mại thế giới (WTO). Các cam trên đã tác động tới mọi ngành, trong đó có ngành ngân hàng. Các cam kết trên cho thấy, hội nhập sẽ mở ra hàng loạt cơ hội kinh doanh cho các ngân hàng Việt Nam , đồng thời cũng đặt cho ngành này những thách thức to lớn của sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt, đặc 28
  29. biệt là với những ngân hàng mở chi nhánh ở Việt Nam. Đứng trước nguy cơ này, các ngân hàng Việt Nam đã buộc phải có chiến lược phát triển phù hợp để có thể tăng khả năng cạnh tranh và ngân hàng điện tử chính là sự lựa chọn thích hợp. 2. Thực tiễn phát triển dịch vụ ngân hàng điện tử tại Việt Nam Ở Việt Nam , dịch vụ ngân hàng điện tử đã được khởi động từ năm 1994, nhưng phải tới năm 2002, công nghệ thông tin Việt Nam mới đủ sức thích ứng với việc triển khai loại hình dịch vụ này. Tuy vậy, có thể khẳng định thương mại điện tử nói chung và ngân hàng điện tử nói riêng vẫn là lĩnh vực tương đối mới mẻ ở Việt Nam. Trong một cuộc điều tra gần đây của phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam (VCCI) cho thấy chỉ có 10% số doanh nghiệp tỏ ra quan tâm đến thương mại điện tử, trong đó có 1%-2% là thực sự triển khai dịch vụ này. Đối với hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam, dù được cho là luôn đi đầu trong việc phát triển công nghệ, vẫn còn rất nhiều bất cập. Trong số khoảng 100 ngân hàng gồm 6 ngân hàng thương mại nhà nước, gần 50 ngân hàng cổ phần, 4 liên doanh, 24 chi nhánh và gần 30 văn phòng đại diện của các ngân hàng nước ngoài, chỉ có số ít (khoảng 15%)1 là thực sự quan tâm tới dịch vụ ngân hàng điện tử. Các ngân hàng như Vietcombank, ngân hàng cố phần thương mại Á Châu ACB là những ngân hàng đi đầu trong việc phát triển dịch vụ này. a. Về máy rút tiền tự động Trước tiên phải kể đến là việc triển khai dịch vụ thanh toán thẻ và dịch vụ ngân hàng tự động qua máy ATM tại các ngân hàng thương mại Việt Nam. Đây là hai loại hình dịch vụ phát triển rất mạnh ở nhiều ngân hàng trong thời kì gần đây. 1 Tạp chớ ngõn hàng số 5 năm 2002 29
  30. Cash card là loại thẻ cho phép rút tiền mặt từ tài khoản tại ngân hàng thông qua các máy rút tiền tự động ATM (automatic teller machine). Với mỗi thẻ rút tiền mặt khách hàng sẽ có mã số xác định chủ thẻ PIN (personal identification number). Mã số xác định chủ thẻ được giữ bí mật ngay cả đối với nhân viên của ngân hàng. Khi sử dụng máy rút tiền tự động, khách hàng đưa thẻ cùng với mã cá nhân vào. Sau đó theo sự chỉ dẫn trên màn hình video, khách hàng có thể rút tiền mặt (nhưng giới hạn đến một mức nhất định), kiểm tra số dư trên tài khoản của mình hoặc gửi thêm tiền. Việc triển khai ATM là rất đáng kể tại nhiều ngân hàng Việt Nam, trong đó đáng kể nhất là Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam, đây được coi là ngân hàng hàng đầu của Việt Nam trong phát triển ATM. Hiện tại, Vietcombank đã có trên 100 máy ATM và đang mở rộng mạng lưới lên 200 máy ATM, doanh số thanh toán năm 2002 đạt gần 1800 tỷ đồng và 6 tháng đầu năm 2003 đạt gần 1000 tỷ đồng1. Cùng với ATM, việc phát triển hoạt động thanh toán thẻ cũng rất phát triển ở Việt Nam. Thị trường thẻ của Việt Nam sôi động với sự tham gia của nhiều ngân hàng thương mại. Và theo đánh giá của các tổ chức thẻ quốc tế và các chuyên gia ngân hàng tài chính trong nước thì thị trường thẻ của Việt Nam sẽ còn phát triển mạnh mẽ hơn trong giai đoạn tiếp theo và đầy tiềm năng cho các ngân hàng đầu tư và phát triển. Thẻ được đưa vào Việt Nam từ năm 1990 và ngân hàng dầu tiên phát triển thẻ là Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam . Năm 1990, Vietcombank trở thành đại lý thanh toán thẻ Visa đầu tiên tại Việt Nam của ngân hàng BFCE Singapore, sau đó là đại lý thanh toán thẻ Mastercard của công ty MBF Malaixia và đại lí thanh toán thẻ JCB của công ty JCB Nhật Bản. Đến nay, Vietcombank đã đẩy mạnh hoạt động của mình và là một trong ít ngân hàng của Việt Nam triển khai đầy đủ cả năm loại thẻ tín dụng quốc tế là: Visa, JCB, Mastercard, American Express, Diner Club. Có thể nói, Vietcombank là ngân hàng khai sinh, mở rộng và phát triển thị trường thẻ ở Việt Nam. 1 Tạp chớ Thị trường tài chớnh tiền tệ, số 16, năm 2003 30
  31. Năm 1996 là giai đoạn bắt đầu sôi động của thị trường thẻ với sự tham gia của nhiều ngân hàng. Nếu như đầu thập kỷ 90, mới chỉ có hai ngân hàng có uy tín được chấp nhận làm đại lý thanh toán thẻ là Vietcombank và ACB, thì đến thời kì này còn có một loạt ngân hàng thương mại (NHTM) cổ phần và NHTM nhà nước như: ngân hàng Công Thương, Đông Á, Sài Gòn Thương Tín và các chi nhánh của ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh cũng đã triển khai các nghiệp vụ với một số loại thẻ quốc tế. Hạn mức của thẻ Visa/Master Card chuẩn là 50 triệu đồng hoặc trên 50 triệu đồng đối với thẻ Visa/Master Card vàng. Với tiện ích sử dụng trước nguồn vốn của ngân hàng để thanh toán tiền hàng hoá và dịch vụ, tại gần 7000 điểm chấp nhận thanh toán thẻ, như: các siêu thị, nhà hàng, khách sạn, đại lí vé máy bay, công ty du lịch, cửa hàng bán đồ lưu niệm, người sử dụng thẻ cũng có thể rút tiền mặt tại hơn 500.000 máy ATM hoạt động 24/24 giờ ở Việt Nam cũng như các nước trên thế giới. Khách hàng còn dễ dàng thanh toán các khoản chi phí, học phí, sinh hoạt phí khi đi du học nước ngoài. Ngoài ra, khách hàng có thể sử dụng thẻ để thanh toán tiền điện, nước, cước điện thoại Do đó, thẻ được người nước ngoài sinh sống và làm việc trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đà Nẵng, người dân thành phố có thu nhập khá ổn định, gia đình có con em đi du học, ưa sử dụng. Bên cạnh thẻ tín dụng quốc tế, thẻ thanh toán nội địa cũng rất phát triển, đó là các loại: Thẻ thanh toán Đông Á, Sacombank Card, Phương Nam Card và điển hình là các loại thẻ của ngân hàng Á Châu như: ACB Card, Saigon Co.op, Mailinh, Saigon Tourist, Maximark, Citimart, Miền Đông, ACB e.card. b. Về dịch vụ internet banking Internet banking được coi là linh hồn của e-banking. Nhưng ở Việt Nam, số lượng các doanh nghiệp triển khai dịch vụ này là ít. Thực tế cho thấy rằng, số lượng các công ty và cá nhân sử dụng internet ở nước ta còn quá thấp (chỉ 31
  32. khoảng 0,2% so với con số 7,98% của toàn thế giới1). Chính điều này đã làm hạn chế việc triển khai internet banking tại Việt Nam. NHTM trong nước đầu tiên cung cấp dịch vụ internet banking là Ngân hàng Công Thương Việt Nam , đây thực sự là ngân hàng đi tiên phong trong lĩnh vực này, cho dù những dịch vụ mà họ cung cấp vẫn chưa thể so sánh với các ngân hàng lớn trên thế giới. c. Về dịch vụ ngân hàng qua mạng điện thoại di động Về phần hoạt động giao dịch, thanh toán qua mạng điện thoại di động ở Việt Nam còn rất mới mẻ. Cho đến nay, tuy chưa có một nhà cung ứng dịch vụ nào thực sự triển khai dịch vụ thanh toán qua mạng điện thoại di động, nhưng ngân hàng Á Châu cũng có định hướng về hình thức thanh toán qua mạng điện thoại di động bằng việc khai thác chức năng gửi nhắn tin. Thực chất giao dịch thanh toán này được thực hiện bằng những thao tác thủ công thông qua các nhân viên tại ngân hàng, không có một tổ chức chính thức nào tham gia vào quá trình thanh toán và được thông qua băng một trình tự bảo mật nào, dĩ nhiên vẫn có cách xác nhận giao dịch của người mua và người bán thông qua hình thức nhắn tin này. Nhưng dù sao cũng là một ý tưởng hay, mang tính năng động với mục đích đa dạng hoá các loại hình thanh toán đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của người dân tại thị trường thanh toán Việt Nam. Thực ra, nếu xét trên phương diện kĩ thuật, chúng ta hoàn toàn có thể triển khai hình thức thanh toán qua mạng điện thoại di động, tất nhiên là phải có sự phối hợp chặt chẽ của các bên tham gia như: Trung tâm bưu chính viễn thông, hệ thống ngân hàng. Nếu hình thức này được áp dụng sẽ tạo điều kiện phát triển mạng lưới thanh toán không dùng tiền mặt tại các điểm thanh toán hàng hoá, cung ứng dịch vụ lưu động như: dịch vụ taxi, điểm bán hàng lưu động hoặc giao hàng tại nhà Hy vọng rằng, trong lĩnh vực thanh toán thông qua mạng điện thoại di động này, Việt Nam có được cơ hội tạo nên những bước nhảy vọt và mau chóng hoà nhập được với thế giới. 1 Tạp chớ Khoa học và đào tạo ngõn hàng, số 1+2/2003 32
  33. d. Về hệ thống thanh toán bù trừ điện tử liên ngân hàng Cùng với các hoạt động triển khai thị trường thẻ, máy rút tiền tự động, thì hệ thống thanh toán bù trừ điện tử liên ngân hàng cũng được đưa vào vận hành chính thức từ ngày 1/1/2003 thay thế hoàn toàn việc trao đổi trực tiếp chứng từ giấy, nhờ đó rút ngắn được thời gian chuyển tiền và đảm bảo độ chính xác cao. Hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng cũng đợc mở rộng. Đến nay, hệ thống đã có gần 200 chi nhánh của 50 thành viên, tăng gần gấp 4 lần ban đầu (54 chi nhánh, 6 thành viên), số lệnh xử lí mỗi ngày và doanh số thanh toán qua hệ thống cũng tăng lên rất nhiều đã góp phần đẩy nhanh tốc độ thanh toán và mở rộng thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế. Việc triển khai tích cực hệ thống thanh toán bù trừ điện tử liên ngân hàng giữa các ngân hàng thương mại Việt Nam sẽ góp phần thúc đẩy hoạt động giữa các ngân hàng thông qua các phương tiện tử và như vậy sẽ góp phần đẩy nhanh tốc độ triển khai e-banking tại Việt Nam. d. Về các loại dịch vụ khác Cùng với ATM và các loại thẻ thì từ năm 2002, nhiều ngân hàng đã đưa vào sử dụng các dịch vụ: dịch vụ ngân hàng tại nhà (home-banking) và dịch vụ ngân hàng qua điện thoại (phone-banking). Bằng hình thức này, phần lớn các yêu cầu được đáp ứng là thông báo những thông tin cơ bản như lãi suất, tỷ giá ngoại tệ hàng ngày, kiểm tra số dư tài khoản Tuy nhiên, dịch vụ ngân hàng tại nhà chưa được phổ biến tại các ngân hàng trong nước mà việc cung cấp dịch vụ này vẫn chủ yếu là do các chi nhánh ngân hàng nước ngoài và đối tượng phục vụ chủ yếu là các doanh nghiệp. Hệ thống ngân hàng thương mại trong nước mới chỉ có duy nhất Vietcombank cung cấp dịch vụ này với tên gọi là Vietcombank Money. Việc ứng dụng công nghệ thông tin vào ngành ngân hàng đã mang lại rất nhiều kết quả đáng khích lệ. Thời gian qua, ngành ngân hàng đã thực hiện được việc xây dựng hệ thống thanh toán liên ngân hàng. Với hệ thống này, thời gian hoàn thành một giao dịch đã giảm đi đáng kể. Trước đây 10 năm, 33
  34. một giao dịch giữa ngân hàng với ngân hàng khác thường mất từ 7-15 ngày thì nay thời gian gần như không đáng kể. Đây là một thành công rất lớn. Ngoài ra, chúng ta còn xây dựng được các hệ thống thông tin điều hành, quản lý, điều khiển nguồn vốn, quản lý tín dụng Ngành ngân hàng cũng đã xây dựng được một trang web riêng phục vụ cho việc tra cứu thông tin, truy cập và xem các văn bản, chính sách. Ngành ngân hàng đã có kế hoạch xây dựng các giải pháp công nghệ thông tin trong 10 năm từ 2001-2010 với một số nội dung chủ yếu sau: xây dựng cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin Việt Nam tiến tới hiện đại hoá các hoạt động ngân hàng, đưa ra nhiều dịch vụ nhằm đảm bảo ngân hàng Nhà Nước thông qua hệ thống này thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ của mình, giám sát các hoạt động ngân hàng. Các ngân hàng thương mại phải đảm bảo có các dịch vụ hiện đại, phục vụ tốt nhất cho phát triển kinh tế đất nước và phù hợp với xu thế phát triển của thế giới. E-banking là xu hướng phát triển tất yếu của tất cả các ngân hàng trên thế giới và Việt Nam, có vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ quá trình hội nhập, phát triển kinh tế Việt Nam và nâng cao chất lượng dịch vụ. Hiện nay, ở Việt Nam, đã có ngày càng nhiều ngân hàng tiếp cận tới phương thức kinh doanh mới này và các hoạt động trên có thể coi là những bước thử nghiệm đầu tiên cho phương thức kinh doanh mới này và kết quả ban đầu là tích cực. Hiện nay, ở Việt Nam, việc triển khai dịch vụ ngân hàng điện tử đang diễn ra rất mạnh mẽ ở nhiều ngân hàng cả quốc doanh, ngân hàng cổ phần cũng như những ngân hàng có vốn của nước ngoài. Chính sự luôn đổi mới của các ngân hàng đã làm cho ngân hàng điện tử ngày càng có một vị trí vững chắc trên thị trường tài chính ngân hàng của Việt Nam. 34
  35. - CHƯƠNG II THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ NGÂN HÀNG ĐIỆN TỬ TẠI NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM I. SỰ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ NGÂN HÀNG ĐIỆN TỬ TẠI NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM 1. Môi trường chi phối sự ra đời dịch vụ ngân hàng điện tử tại Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam a. Kinh tế thế giới và kinh tế châu Á Trái với những dự đoán về sự phục hồi mạnh mẽ của kinh tế thế giới được đưa ra hồi cuối năm 2001, năm thứ 2 của thế kỉ thứ 21, kinh tế thế giới lại phục hồi chậm chạp trong những bất ổn gia tăng. Tốc độ tăng trưởng của kinh tế thế giới chỉ đạt 2,8% (tăng 0,6% so với mức độ 2,2% năm 2001, thấp hơn 1,9% so với mức 4,9% năm 2000). Nguyên nhân chính của sự phục hồi chậm chạp của nền kinh tế thế giới là nền kinh tế số 1 thế giới, Mỹ, mặc dù đã có những bước phục hồi sau thời kì suy thoái năm 2001, song sự phục hồi này vẫn còn uể oải. Bên cạnh đó là sự phá sản của các công ty và tập đoàn khổng lồ trên thế giới đã có những tác động rất xấu tới nền kinh tế thế giới. Tổng quan kinh tế thế giới vẫn còn ảm đạm, trong khi đó kinh tế châu Á đã có dấu hiệu phục hồi trở lại sau một thời gian dài trì trệ kinh tế do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực từ năm 1997. Theo đánh giá của IMF, tăng trưởng kinh tế của khu vực này năm 2002 đạt 6,1%. Đặc biệt, trong khu vực châu Á, các nền kinh tế Đông Á tăng trưởng 6,3% vào năm 2002, cao hơn mức độ tăng trưởng của năm 200121. 21 Tạp chớ: Những vấn đề kinh tế thế giới, số 1, thỏng 1, năm 2003 35
  36. Còn đối với khu vực ASEAN, khu vực này đạt mức 4,1% trong năm 2002, tăng 2 lần so với năm 2001, riêng Thái Lan đạt 5,1%. Malaixia đạt 4%, còn Philippine và Indonexia, mặc dù bị ảnh hưởng bởi các vụ đánh bom khủng bố nhưng nền kinh tế vẫn tăng trưởng ở mức độ cao tương ứng là 3,7% và 3,6%. Nguyên nhân chính của sự phục hồi nhanh chóng ở khu vực Đông Á nói chung và Đông Nam Á nói riêng là sự phục hồi mạnh mẽ của thị trường công nghệ thông tin, đặc biệt là ở Trung Quốc, Ấn Độ, Hàn Quốc .Trên thị trường công nghệ thông tin, mức tiêu thụ máy tính năm 2002 tăng 5,5%, tiêu thụ phần mềm tăng 10%, đặc biệt là ở khu vực Đông Nam Á. Tuy nhiên, cả World Bank, IMF, ADB đều lo ngại rằng kinh tế Đông Á có nguy cơ tăng trưởng không ổn định, do hệ thống ngân hàng của các nước này chưa có những cải cách thích ứng với nền kinh tế. Thông qua những diễn biến của kinh tế thế giới và gẫn gũi hơn là kinh tế châu Á và kinh tế Đông Á, ta thấy nền kinh tế thế giới đang trong giai đoạn phục hồi dần dần sau những biến cố của cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997 và sự kiện ngày 11/9/2001 tại Mỹ, mặc dù mức độ tăng trưởng kinh tế của nó là còn thấp. Nhưng trong thời gian tới, chắc chắn mức độ tăng trưởng của nền kinh tế thế giới sẽ tăng mạnh hơn, với sự tăng trưởng của các quốc gia giàu có cũng như của những nước đang phát triển. Ở châu Á, thị trường công nghệ thông tin mở rộng, tạo điều kiện cho các quốc gia phát triển mạnh lĩnh vực này. Điều này đã có những tác động nhất định tới thị trường công nghệ thông tin của Việt Nam cũng như tác động đến những cải cách của hệ thống ngân hàng Việt Nam. Trong bối cảnh kinh tế thế giới và khu vực đang diễn biến như trên, cuộc cách mạng kinh doanh điện tử là một hiện thực, việc chuyển đổi lên nền kinh tế mạng đang diễn ra với tốc độ nhanh hơn bao giờ hết. Và kết quả là các công ty trong thị trường tài chính và ngân hàng đang có những thay đổi quan trọng trong quan hệ và kỳ vọng đối với khách hàng. Những thay đổi này bao gồm cả sự khác biệt về chất lượng dịch vụ đối với khách hàng so với đối thủ cạnh tranh. 36
  37. Các ngân hàng trên thế giới từ lâu đã đưa ra những giải pháp làm sao áp dụng công nghệ thông tin tốt nhất để đảm bảo tính cạnh trạnh của ngân hàng. Do đó, trong quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, các ngân hàng Việt Nam dù muốn hay không cũng phải năng động, tự đổi mới mình bằng cách nâng cao trình độ nghiệp vụ ngân hàng, cung cấp cho khách hàng những sản phẩm dịch vụ ngày càng đa dạng hơn với chất lượng cạnh tranh và Vietcombank không nằm qui luật tất yếu ấy. Nếu không theo, không cạnh tranh được thì khi mở cửa thị trường ngân hàng tài chính, Vietcombank sẽ không thể nào cạnh tranh nổi với những ngân hàng nước ngoài có số vốn khổng lồ và trình độ công nghệ thông tin vượt trội, lúc đó uy tín của ngân hàng sẽ bị giảm sút và khách hàng không còn ưa chuộng các sản phẩm dịch vụ của ngân hàng nữa. Đây chính là vấn đề mà Vietcombank đã phải quan tâm rất lớn khi đất nước tiến hành mở cửa để tìm ra con đường tồn tại cho ngân hàng. b. Vài nét về kinh tế Việt Nam thời gian qua Năm 2002, bất chấp nhiều khó khăn và thách thức trong và ngoài nước, Việt Nam vẫn có những bước phát triển vượt bậc. Gia nhập ASEAN, bình thường hoá quan hệ với Mỹ, kí hiệp định hợp tác liên minh với châu Âu phù hợp với xu hướng khu vực hoá, toàn cầu hoá, ký hiệp định thương mại Việt Nam-Hoa Kỳ, tham gia vào AFTA, APEC, chuẩn bị gia nhập WTO tất cả đã tạo điều kiện thuận lợi cho Việt Nam thực thi chính sách mở cửa, phát triển kinh tế. Trong thời gian qua, Việt Nam đã gặt hái được nhiều thành công cụ thể là: tốc độ tăng GDP là 7,04%, là nước có tốc độ tăng trưởng đứng thứ hai khu vực, sau Trung Quốc. Tốc độ tăng trưởng vững chắc theo xu hướng tăng dần, năm sau cao hơn năm trước về mọi mặt. Riêng đối với lĩnh vực ngân hàng, Việt Nam đã có sự phát triển vượt bậc, đặc biệt là có sự phát triển mạnh mẽ trong việc triển khai dịch vụ ngân hàng điện tử. Bên cạnh Vietcombank đã có nhiều ngân hàng như Ngân hàng 37
  38. thương mại cổ phần Á Châu, Ngân hàng Công Thương Việt Nam, Ngân hàng ANZ đã bắt đầu áp dụng những hệ thống cho phép theo dõi số tài khoản qua internet và đưa vào áp dụng một số dịch vụ của e-banking. Các sản phẩm dịch vụ e-banking mà các ngân hàng trên đưa ra ngày một hoàn thiện, chất lượng cao. Do vậy, để tăng khả năng cạnh tranh thì Vietcombank không thể đi ngoài xu thế phát triển này. Với môi trường trong nước và quốc tế tăng trưởng tương đối ổn định đã tạo cho các doanh nghiệp cơ hội tốt để hoàn thiện mình và phát triển. Trong các lĩnh vực của quốc gia, ngân hàng là lĩnh vực đặc biệt quan trọng, và chính ngành này cũng đã có những bước tăng trưởng đáng kể. Trong điều kiện kinh tế thế giới, khu vực và trong nước thuận lợi như vậy, các ngân hàng Việt Nam đã tiến hành công cuộc hiện đại hoá hệ thống dựa trên những ứng dụng của công nghệ thông tin để sao cho đạt được hiệu quả cao hơn trong kinh doanh, trong đó, Ngân hàng Ngoại Thương là ngân hàng hàng đầu của Việt Nam đi tiên phong trong việc phát triển các loại hình dịch vụ mới dựa trên những ứng dụng của công nghệ thông tin và dịch vụ ngân hàng điện tử đã ra đời và phát triển mạnh mẽ tại Vietcombank. Trong môi trường kinh doanh trên thế giới và tại Việt Nam, không loại trừ một ngân hàng nào, tất cả đều phải tự hoàn thiện và luôn đổi mới. Chỉ có vậy, các ngân hàng mới tìm được vị trí trong lòng khách hàng vì đòi hỏi của họ ngày một khắt khe và chỉ có đáp ứng được những yêu cầu đó thì ngân hàng mới thực sự có thể cạnh tranh trên thị trường khốc liệt này. Chính vì vậy, phát triển dịch vụ e-banking là một hướng đi đúng đắn và tất yếu của tất cả các ngân hàng trong quá trình hội nhập, phát triển và Vietcombank không nằm ngoài xu thế đó. c. Giới thiệu về Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam được thành lập từ ngày 01/04/1963 đã trưởng thành và tăng trưởng liên tục, hoàn thành tốt chức năng và nhiệm vụ của mình, có nhiều đóng góp tích cực trong các giai đoạn phát triển của 38
  39. nền kinh tế quốc dân. Bước vào thời kì đổi mới, Vietcombank đã đạt được những thành tích đáng khích lệ, thể hiện là một trong những ngân hàng thương mại quốc doanh hoạt động có hiệu quả. Trước năm 1990, ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam là trung tâm tín dụng và thanh toán quốc tế, được giao quản lý toàn bộ ngoại tệ của quốc gia, không hình thành vốn điều lệ. Cũng trong thời gian này, cơ sở vật chất kĩ thuật của ngân hàng vẫn còn ở mức đơn giản với những hoạt động giao dịch truyền thống. Nhưng ban lãnh đạo của ngân hàng đã thấy rõ sự cần thiết phải có một cơ sở hạ tầng hiện đại để tăng hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Chính vì vậy, ngân hàng đã bắt đầu đầu tư vào trang thiết bị, đào tạo lại nhân viên ngân hàng để ngày càng tiếp cận với các trang thiết bị một cách có hiệu quả. Xây dựng chiến lược kinh doanh thời gian tới, ngân hàng đặt ra nhiệm vụ là phải cải tổ lại ngân hàng và đặc biệt là tiến hành hiện đại hoá toàn bộ ngân hàng, đưa đến cho khách hàng những sản phẩm dịch vụ mới, nhanh chóng và tiện ích, đáp ứng nhu cầu ngày càng khắt khe của ngân hàng. Sau năm 1990, từ sau khi có pháp lệnh ngân hàng (23/05/1990), chức năng quản lý nhà nước của ngân hàng Nhà nước và chức năng hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại được phân định. Hệ thống ngân hàng Việt Nam nói chung, Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam nói riêng đã vượt qua giai đoạn khó khăn, từng bước thay đổi thích nghi với cơ chế quản lý mới, đi lên cùng thị trường. Môi trường cạnh tranh của Vietcombank ngày càng quyết liệt với sự tham gia của khoảng 100 ngân hàng gồm: 6 ngân hàng thương mại nhà nước, gần 50 ngân hàng cổ phần, 4 liên doanh, 24 chi nhánh và gần 30 văn phòng đại diện của các ngân hàng nước ngoài, trong đó Vietcombank vẫn đóng vai trò là một ngân hàng thương mại chủ đạo của nền kinh tế Việt Nam. Về cơ sở vật chất kỹ thuật, Vietcombank có mạng lưới chi nhánh khắp cả nước, được trang bị hệ thống vi tính hiện đại, tiêu chuẩn quốc tế: hệ thống máy rút tiền tự động ATM, hệ thống thẻ tín dụng quốc tế và trong nước, 39
  40. Vietcombank là ngân hàng đầu tiên của Việt Nam tham gia mạng SWIFT toàn cầu và mới đây là hệ thống ngân hàng điện tử cùng với hệ thống các trang thiết bị hiện đại phục vụ cho hoạt động kinh doanh. Về quan hệ đối ngoại, Vietcombank có mạng lưới 1300 ngân hàng đại lý trên 100 quốc gia, đảm bảo tốt các nghiệp vụ thanh toán, tín dụng quốc tế một cách có hiệu quả. Ngân hàng Ngoại Thương có các văn phòng đại diện ở Paris, Stockhom, Moscow, NewYork, Singapore, Hồng Kông Vietcombank chủ trương duy trì quan hệ chặt chẽ với các ngân hàng trong nước và ngân hàng đại lý ngoài nước nhằm nắm bắt thông tin và tăng cường hợp tác cùng có lợi. Việc mở rộng mạng lưới đại lý trên toàn cầu đã giúp Vietcombank ngày càng mở rộng hoạt động trên phạm vi toàn cầu, tăng năng lực hoạt động của ngân hàng ngày càng cao hơn, điều này đã giúp rất nhiều đến việc triển khai hoạt động của ngân hàng điện tử của ngân hàng trên phạm vi toàn cầu một cách thuận lợi. Có thể thấy rõ Vietcombank có những lợi thế về cơ sở vật chất kĩ thuật, quan hệ đối ngoại, kinh nghiệm và trình độ chuyên môn ngày càng nâng cao sau 40 năm hoạt động trong lĩnh vực ngoại thương. Ngoài những lợi thế đó, Vietcombank còn có một tiềm năng tài chính tốt, nguồn vốn dồi dào, liên tục tăng trưởng qua các năm. Hoạt động kinh doanh của ngân hàng luôn có lãi, lãi năm sau cao hơn năm trước và ngân hàng luôn hoàn thành xuất sắc những nhiệm vụ và mục tiêu đặt ra trong những thời gian nhất định, có những đóng góp to lớn đối với sự phát triển vượt bậc của ngành ngân hàng và sự phát triển và tăng trưởng kinh tế của đất nước. Như vậy, khi bắt đầu đổi mới, Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam đã nhanh chóng nắm bắt thời cơ và những nhu cầu cần thiết, cẩn trương thực hiện cải tiến tổ chức, kỹ thuật nghiệp vụ, hiện đại hoá các phương pháp và phương tiện kinh doanh, tạo nên những sản phẩm dịch vụ mới đem lại tiện ích rõ rệt cho khách hàng Tuy nhiên, trong bối cảnh “tranh sáng tranh tối” của thời kỳ chuyển đổi nền kinh tế, cũng như nhiều tổ chức kinh doanh khác, 40
  41. Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam đã phải trả giá đắt về một số thiếu sót, sai lầm trong điều hành và thực hiện, gây lên những tổn thất không nhỏ cho Nhà nước. Thế nhưng, Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam đã không chùn bước, quyết giữ thế thượng phong trong công cuộc đổi mới và hiện đại hoá các nghiệp vụ kinh doanh. Trong xu thế hội nhập quốc tế và không ngừng cải tiến tiện ích phục vụ khách hàng, Vietcombank đang đi đầu trong việc thiết lập dịch vụ ngân hàng bán lẻ, máy rút tiền tự động ATM và hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng trực tuyến VCB-Online Công tác ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động của ngân hàng luôn được đánh giá là có hiệu quả và đạt được chất lượng cao. Trong 40 năm qua, nhờ có những ứng dụng đó mà ngân hàng đã đem đến cho khách hàng nhiều sản phẩm dịch vụ mới ngày càng hoàn thiện về tính năng và sự tiện ích. Chính điều này đã làm cho uy tín của ngân hàng ngày một lên cao và được nhiều tổ chức, tạp chí có uy tín trên thế giới bình chọn là một hàng thương mại hoạt động có hiệu quả nhất Việt Nam. Về lĩnh vực ứng dụng công nghệ thông tin, ngân hàng cũng đã giành được những thành tích đáng khích lệ. Báo Sài Gòn Giải Phóng đã phối hợp với hội tin học thành phố Hồ Chí Minh tổ chức cuộc thi viết về điển hình ứng dụng công nghệ thông tin trong các cơ quan tổ chức doanh nghiệp. Ngân hàng Ngoại Thương được lựa chọn là ngân hàng thương mại quốc doanh có nhiều ứng dụng công nghệ thông tin tiên tiến. Cuộc thi đã trao tặng giải thưởng cho Ngân hàng Ngoại Thương là “đơn vị điển hình ứng dụng công nghệ thông tin 2003”. Ngoài ra, Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam vừa chính thức được Euromoney- một tạp chí có uy tín và đáng tin cậy trong ngành tài chính, ngân hàng và thị trường vốn quốc tế- bình chọn là ngân hàng tốt nhất Việt Nam năm 2003. Trong số chuyên đề của tạp chí này phát hành vào tháng 7 năm 2003 có ghi nhận: ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam là ngân hàng đi đầu trong việc ứng dụng công nghệ, phát triển mạng lưới máy rút tiền tự động 41
  42. ATM và thẻ thanh toán quốc tế. Đặc biệt, năng lực tài chính và vấn đề xử lý nợ của Ngân hàng Ngoại Thương được tạp chí này đánh giá rất cao. Tất cả những lợi thế trên đã đem lại uy tín cho Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam, tạo điều kiện tốt nhất cho ngân hàng thực hiện được chiến lược huy động vốn trong và ngoài nước, kinh doanh với hiệu quả nhất, từ đó có khả năng đầu tư cung cấp cho khách hàng những sản phẩm dịch vụ mới với chất lượng cao nhất. 2. Sự ra đời và phát triển dịch vụ ngân hàng điện tử tại Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam Như chúng ta đã biết, vào cuối thế kỉ 20, ngành công nghệ tin học phát triển cực mạnh và việc áp dụng công nghệ thông tin vào ngành ngân hàng ngày một nhanh chóng và rộng khắp. Nền kinh tế nước ta đã mở rộng cánh cửa với chủ trương phát triển kinh tế của Đảng là chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, sớm đưa nước ta thoát khỏi nghèo đói và mục tiêu tổng quát của chiến lược phát triển kinh tế của nước ta năm 2001-2010 là : “Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển; nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hoá tinh thần của nhân dân; tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nguồn lực con người, năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng an ninh được tăng cường, thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN được hình thành về cơ bản: vị thế của nước ta trên trường quốc tế được nâng cao:”. Quán triệt đường lối phát triển kinh tế của Đảng, với sự chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, ban lãnh đạo Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam đã xây dựng đề án tái cơ cấu Ngân hàng Ngoại Thương một cách toàn diện về tổ chức điều hành, tài chính, công nghệ để mau chóng đưa hoạt động của Vietcombank ngang tầm các ngân hàng khu vực và quốc tế, chủ động hội nhập kinh tế thế giới. Chính vì vậy, hàng loạt các biện pháp cải tổ, đổi mới của ngân hàng trong mọi lĩnh vực đã được ra đời, trong đó có sự đổi mới, đầu tư về công nghệ thông tin mà đặc biệt là việc cho ra đời dịch vụ ngân hàng 42
  43. điện tử đã thể hiện sự lớn mạnh vượt trội của Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam. Luôn đi đầu trong các ngân hàng thương mại nhà nước về đổi mới phương thức kinh doanh và ứng dụng những thành tựu công nghệ thông tin vào quá trình hoạt động, Ngân hàng Ngoại Thương đã có chiến lược phát triển dịch vụ ngân hàng điện tử vào hoạt động của mình để tăng nâng cao chất lượng phục vụ cho khách hàng. Ngay từ những năm cuối thế kỷ 20, Vietcombank đã nghiên cứu và ứng dụng công nghệ thông tin vào các hoạt động kinh doanh nghiệp vụ ngân hàng. Vào năm 1994, Vietcombank đã chính thức ứng dụng một số sản phẩm của e-banking, nhưng vẫn ở mức độ đơn giản như: kiểm tra số dư tài khoản cho khách hàng, thông báo về lãi suất và tỷ giá. Tiếp theo, để mở rộng và phát triển loại hình dịch vụ còn tương đối mới mẻ này, Vietcombank đã cho ra những sản phẩm mới mà đặc biệt là mở đầu cho việc phát triển thị trường thẻ tại Việt Nam.Vietcombank là người đầu tiên làm một đại lý thực hiện nghiệp vụ thanh toán thẻ tại Việt Nam từ năm 1990. Ý thức được vai trò vô cùng quan trọng của công nghệ khi ứng dụng vào ngân hàng thương mại, nó góp phần tích cực vào việc thiết lập một nền tảng ngân hàng hiện đại, tiến tiến, tạo ra nhiều tiện ích cho mọi khách hàng, giảm bớt khối lượng lao động, đưa năng suất, hiệu suất kinh doanh lên cao, chất lượng phục vụ tốt hơn, thu hút được nhiều khách hàng và đương nhiên sẽ có nhiều lợi thế cạnh tranh hơn, Vietcombank đã mạnh dạn đầu tư cho công nghệ của mình ngày một mạnh và quyết định nhảy vọt để vươn lên thành ngân hàng thương mại hàng đầu ở Việt Nam. Ngân hàng Ngoại Thương có thể coi là ngân hàng mở đầu cho việc phát triển thị trường thẻ tại Việt Nam. Hiện tại, ngân hàng đang cung cấp cho khách hàng cả 5 loại thẻ quốc tế đó là: Visa card, mastercard, thẻ Amex, thẻ JCB, thẻ Diner club. 43
  44. Cùng với việc triển khai các loại thẻ, việc phát triển các máy rút tiền tự động cũng được triển khai một cách mạnh mẽ tại nhiều nơi, tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng không phải sử dụng nhiều tiền mặt. Năm 2001, Vietcombank đã bắt đầu ứng dụng internet banking và năm 2002, Vietcombank đã đưa vào sử dụng hai hệ thống: hệ thống giao dịch tự động và hệ thống VCB-online. Tiếp đó là việc triển khai hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng-IBPS. II. THỰC TIỄN ÁP DỤNG DỊCH VỤ NGÂN HÀNG ĐIỆN TỬ TẠI NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM Ở các nước tư bản phát triển, các điều kiện về vốn, cơ sở hạ tầng rất phát triển, các nước này xây dựng cho mình hệ thống ngân hàng hùng hậu, kinh nghiệm lâu đời, tiềm năng vốn lớn, cơ sở hạ tầng phát triển, hệ thống pháp luật cũng đã hoàn chỉnh là môi trường thuận lợi và ổn định cho dịch vụ ngân hàng điện tử hoạt động và phát triển. Ở Việt Nam, nền kinh tế nói chung còn phát triển chưa cao, chưa ổn định. Hệ thống pháp luật, chính sách còn thiếu đồng bộ, còn nhiều điều bất hợp lý cần sửa đổi, bổ sung. Trong hoàn cảnh này, Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam cần phải cố gắng và nỗ lực rất nhiều để vươn lên, phát triển thành ngân hàng hàng đầu trong nước và trong khu vực. Ngân hàng Ngoại Thương là ngân hàng hàng đầu của Việt Nam trong việc tích cực triển khai các đề án của WB, của NHNN về hiện đại hoá hệ thống thanh toán, ứng dụng những chuẩn mực của ngân hàng hiện đại, một ngân hàng điện tử vào hoạt động thực tiễn góp phần hiện đại hóa công nghệ trong lĩnh vực tài chính ngân hàng nước nhà. Ngay từ những năm cuối thế kỉ 20, Vietcombank đã nghiên cứu và ứng dụng công nghệ thông tin vào các hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Trong quá trình ứng dụng công nghệ, Vietcombank đi từ thấp đến cao, từ đơn giản lên đa dạng, kỹ năng với chất lượng cao. Trung tâm tin học với hơn 40 cán bộ kỹ thuật có trình độ chuyên môn và am hiểu các nghiệp vụ ngân hàng, 44
  45. họ đã say mê, yêu nghề, yêu ngành, có đạo đức nghề nghiệp cao, không ngừng vươn lên học tập, nghiên cứu, dám nghĩ, dám làm vì sự phát triển phồn vinh của Vietcombank. Mọi hoạt động của trung tâm tin học đều được ban lãnh đạo quan tâm, ân cần giúp đỡ chỉ đạo, quản lý và định hướng đi cho thích hợp với thực tiễn. Từ trung tâm tin học ở trung ương toả xuống các chi nhánh trong toàn hệ thống, mỗi chi nhánh đều có một phòng tin học vững vàng về nghiệp vụ, truyền thống về công nghệ. Vào tháng 8 năm 1994, Vietcombank bắt đầu cho ứng dụng một loại hình dịch vụ mới, đó là dịch vụ ngân hàng điện tử (e-banking), nhưng hoạt động của nó mới chỉ ở mức độ đơn giản nhất. Khách hàng có thể biết được các thông tin của ngân hàng thông qua các phương tiện điện tử như điện thoại, thư điện tử, qua mạng internet Lượng khách hàng sử dụng e-banking lúc đầu không nhiều, do thời gian đó việc sử dụng các phương tiện điện tử trong hoạt động ngân hàng vẫn còn là mới mẻ. Nhưng chỉ với việc áp dụng dịch vụ này trong hoạt động ngân hàng đã cho thấy tầm nhìn chiến lược của Vietcombank và chứng tỏ một sự năng động, thích ứng cao với thời cuộc của một ngân hàng quốc doanh Việt Nam. Việc triển khai dịch vụ e-banking của ngân hàng Ngoại Thương được thông qua hàng loạt các sản phẩm, dịch vụ mới, mang lại sự thoải mái và tiện ích cho khách hàng. 1. Tình hình triển khai, phát hành các loại thẻ và máy rút tiền tự động của ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam Bắt đầu từ mốc thời gian quan trọng là năm 1994, Ngân hàng Ngoại Thương đã có những bước phát triển mới trong việc triển khai dịch vụ e- banking. Ngân hàng Ngoại Thương là ngân hàng duy nhất ở Việt Nam chấp nhận thanh toán đủ 5 loại thẻ tín dụng quốc tế: Visa card, mastercard, thẻ Amex, thẻ JCB, thẻ Diner club. Hiện nay, Vietcombank được coi là ngân hàng mạnh nhất trong lĩnh vực thẻ. Tính đến nay, số lượng thẻ tín dụng quốc tế: Vietcombank Visa, Vietcombank Mastercard, Vietcombank American 45
  46. Express của Vietcombank phát hành đã đạt trên 4.000 thẻ, với doanh số sử dụng trên 120 tỷ đồng, chiếm tới 45% thị phần phát hành thẻ tín dụng quốc tế tại Việt Nam. Riêng loại thẻ cao cấp Vietcombank American Express, theo thoả thuận mới đạt được với Amex, từ ngày 15/7/2002, Vietcombank sẽ là ngân hàng độc quyền kinh doanh phát hành và thanh toán thẻ Amex tại thị trường Việt Nam, mới được đưa vào thị trường Việt Nam cho đối tượng là giới trung lưu, giới doanh nghiệp, khách hàng có độ tín nhiệm cao, đến nay đã phát hành trên 1000 thẻ. Là ngân hàng thương mại duy nhất ở nước ta chấp nhận thanh toán cả 5 loại thẻ thông dụng nhất thế giới, doanh số thanh toán của Vietcombank năm 2002 đạt gần 100 triệu USD và trong 6 tháng đầu năm 2003 đạt 55 triệu USD. Sản phẩm thẻ ghi nợ nội địa Connect 24 do Vietcombank tự phát triển tuy ra đời mới được một năm nhưng đã được đông đảo khách hàng chấp nhận. Phần lớn khách hàng sử dụng thẻ Connect 24 hiện nay là nhân viên của các doanh nghiệp mở tài khoản để nhận lương. Các doanh nghiệp chỉ cần đăng kí tài khoản các nhân viên cho nhân viên của mình và yêu cầu phát hành thẻ Connect 24 cho nhân viên. Thay vì lĩnh tiền mặt để trả lương cho nhân viên thì đến kì lương, doanh nghiệp chỉ cần lập một bảng lương và yêu cầu ngân hàng chuyển tiền vào tài khoản cá nhân của từng nhân viên. Điều này tiết kiệm được rất nhiều thời gian, công sức cho bộ phận kế toán của công ty, giảm thiểu được sai sót so với việc trả lương bằng tiền mặt. Hơn nữa, thông tin về tiền lương của nhân viên được đảm bảo bí mật tuyệt đối. Về phía nhân viên, nhận lương bằng cách này cũng rất thuận tiện cho họ vì họ có thể rút tiền bất cứ khi nào cần bằng cách dùng thẻ Connect 24. Ngoài ra, số tiền chưa dùng tới trong tài khoản cũng được tính lãi giống như một sổ tiết kiệm vậy. Chỉ ra đời có một năm, Vietcombank đã phát hành được hơn 80.000 thẻ Connect 24 với doanh số thanh toán đạt 688 tỷ đồng1, đây là một thành tích rất khích lệ, có vai trò kinh tế- xã hội quan trọng. Tiến tới, Vietcombank cũng 1 Theo tạp chớ: Thị trường tài chớnh tiền tệ, số 16 ngày 15/8/2003 46
  47. dự tính cho phép chủ thẻ Connect 24 có thể thanh toán tiền điện, điện thoại thông qua dịch vụ thẻ này. Có thể tóm tắt những tiện ích của thẻ connect 24 của Vietcombank như sau: - Rút tiền mặt từ tài khoản tiền gửi cá nhân của mình. - Rút tiền mặt từ thẻ tín dụng quốc tế. - Trả lương cho cán bộ trong cơ quan. - Kết hợp với VCB- Online để quán lý vốn tập trung cho doanh nghiệp. - Kiểm tra số dư trên tài khoản. - In bảng kê các giao dịch gần nhất. - Chuyển khoản trong hệ thống Vietcombank - Thanh toán hoá đơn tiền điện, nước, điện thoại mà hệ thống Connect 24 cho phép thực hiện trên một số địa bàn tỉnh, thành phố. Vừa qua, sản phẩm thẻ Connect 24 của Vietcombank đã vinh dự nhận được giải thưởng Sao vàng Đất Việt, một giải thưởng cao quý mà bất cứ một doanh nghiệp nào cũng mong muốn được tặng cho sản phẩm hay thương hiệu của mình. Điều này chứng minh được vị trí của thẻ trong cuộc sống hiện tại và tương lai. Bên cạnh việc phát triển thị trường thẻ, việc triển khai máy rút tiền tự động của Vietcombank cũng diễn ra hết sức sôi động. Được xác định là một trong những sản phẩm của dịch vụ chiến lược, hệ thống máy rút tiền tự động được xây dựng trên nền tảng công nghệ hiện đại, tiêu chuẩn quốc tế. Hiện nay, Vietcombank đã có trên 100 máy ATM và đang mở rộng mạng lưới lên 200 máy ATM, doanh số thanh toán năm 2002 đạt gần 1800 tỷ đồng và 6 tháng đầu năm 2003 đạt gần 1000 tỷ đồng. Và hiện tại, ngân hàng Ngoại Thương đang là ngân hàng Việt Nam đầu tiên tham gia vào hệ thống ATM toàn cầu. Việc triển khai hệ thống máy rút tiền tự động của Vietcombank đem lại nhiều tiện ích cho khách hàng và cho toàn xã hội. Đây chính là cách thức 47
  48. sử dụng đồng tiền an toàn, tiện lợi, văn minh và hiệu quả vì không nhất thiết phải mang theo tiền trong người, khi nào cần sử dụng chỉ cần tới các máy ATM gần nhất rút ra đúng số tiền mình cần mà không phải trả thêm phí, số tiền còn lại vẫn được hưởng lãi mà không phải giữ trong mình một khoản tiền nhàn rỗi dễ bị mất mát hoặc sử dụng ngoài dự kiến, gây lãng phí. Còn đối với các khách hàng là doanh nghiệp thì việc sử dụng dịch vụ trả lương qua hệ thống ngân hàng để họ rút tiền ở các máy ATM sẽ tiết kiệm được nhân sự và chi phí quản lí. Xã hội nhờ đó mà thay đổi từng bước thói quen dùng tiền mặt của đại bộ phận dân chúng, hạn chế lượng tiền mặt lưu thông trên thị trường, quản lí được tình trạng lạm phát, ngăn chặn được nạn cướp giật, móc túi và các tệ nạn khác. Để tham gia sử dụng hệ thống VCB-ATM, khách hàng là người Việt Nam hoặc người nước ngoài phải có tài khoản tiền gửi tại Vietcombank hoặc đang sử dựng thẻ tín dụng quốc tế và thẻ ghi nợ quốc tế do các ngân hàng trong và ngoài nước phát hành. Cạnh tranh thu hút khách hàng mở tài khoản sử dụng thẻ, thu hút tiền gửi không kì hạn có lãi suất thấp để cho vay đồng thời tăng thu phí dịch vụ, Vietcombank đã chủ động tiếp thị, tìm kiếm khách hàng là các công ty liên doanh và các nhà máy dệt, may, da giầy, chế biến nông sản thực phẩm, nhà máy giấy, xi măng, có đông công nhân, các công ty, nhà hàng, siêu thị có nguồn thu tiền mặt lớn để làm dịch vụ chi trả lương, thu chi ngân quỹ, chuyển tiền, tạo điều kiện cho doanh nghiệp giảm lao động, tiết kiệm chi phí, trong các khâu tiền mặt, thủ quỹ. Do đó, ngày càng nhiều doanh nghiệp, nhất là những doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chấp nhận dịch vụ này với Vietcombank. Các sản phẩm thẻ và máy rút tiền tự động của ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam đã giúp cho khách hàng vượt qua được những hạn chế về không gian, thời gian, khách hàng có thể giao dịch tại bất cứ tại nơi nào có cơ sở giao dịch của Vietcombank, nó mang lại cho khách hàng có nhiều tiện ích khi 48
  49. mọi giao dịch được thực hiện tức thì không cần qua một khâu trung gian nào. Khách hàng có thể thực hiện các giao dịch tại máy ATM gần nhất để sử dụng các dịch vụ tự động hoá có tính chính xác cao. 2. Sản phẩm hệ thống ngân hàng bán lẻ Vietcombank- Tầm nhìn 2010 (VCB- Vision 2010) Trên quan điểm quản lý tập trung, bước đầu đã thực hiện thành công đối với ngoại tệ và thanh toán quốc tế, thanh toán nội bộ dựa trên khả năng đáp ứng của công nghệ thông tin kết hợp với việc tham khảo phạm vi triển khai của đề án hiện đại hoá hệ thống ngân hàng của Ngân hàng Thế giới, Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam sớm nhận thức được vai trò và tầm quan trọng của công nghệ thông tin trong việc ưu tiên phát triển các sản phẩm nghiệp vụ nền tảng, đặc biệt là cấu trúc nghiệp vụ dưới góc độ ứng dụng công nghệ thông tin làm cơ sở cho việc phát triển các sản phẩm dịch vụ ngân hàng sau này. Chính vì vậy, vào năm 2000, Vietcombank đã cho xây dựng hệ thống ngân hàng bán lẻ VCB- Vision 2010. Sản phẩm này thực sự được coi là lựa chọn đúng đắn đối với sản phẩm và nền tảng công nghệ phát triển dựa trên thiết kế của Mỹ và được điều chỉnh cho phù hợp với đặc điểm của các ngân hàng châu Á, nhằm đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao về chất lượng phục vụ khách hàng. Nhờ có VCB- Vision 2010 mà Vietcombank đã tiêu chuẩn hoá loại hình nghiệp vụ, qui trình xử lý, rút ngắn thời gian cho khách hàng VCB- Vision 2010 được đưa vào ứng dụng bởi có những ưu điểm về nhiều loại hình dịch vụ mới: khách hàng có thể đồng thời có nhu cầu vừa đổi tiền, nhận tiền, thanh toán séc tại quầy “one-stop” (một cửa). Tại đây, khách hàng không phải qua nhiều khâu giao dịch, tiết kiệm được thời gian, công sức, đồng thời nhân viên ngân hàng cũng phải ngày một hoàn thiện trình độ nghiệp vụ và thái độ phục vụ đối với khách hàng. Dịch vụ trả lương tự động giúp các công ty giảm được biên chế bộ phận kế toán cồng kềnh và giảm được biên chế phòng tài vụ, chỉ cần chuyển đến Vietcombank đĩa mềm và văn bản giấy 49
  50. tờ thì các khoản lương sẽ được chuyển vào tài khoản của từng người. Dịch vụ chuyển tiền tự động giúp tiết kiệm thời gian bởi vì không nhất thiết phải đến ngân hàng để giải quyết mọi công việc thanh toán liên quan đến tiền tệ. Đồng thời, VCB-Vision 2010 còn có những đặc tính cơ bản sau: sự lựa chọn thông minh với mục tiêu đưa ra nhiều giải pháp lựa chọn cho yêu cầu đa dạng của khách hàng. VCB-Vision 2010 giúp linh hoạt hơn bằng cách chỉ bằng một khai báo, khách hàng có thể dễ dàng, chủ động thay đổi cách thức xử lý của hệ thống mà không cần có sự tác động của phía kĩ thuật. Đặc biệt hơn, VCB- Vision 2010 có tính thích hợp cao, có khả năng hoạt động đồng bộ với những hệ thống: thẻ thanh toán, chuyển điện quốc tế, máy rút tiền tự động. Việc triển khai thành công sản phẩm này, bắt đầu từ năm 1999, không chỉ làm thay đổi toàn bộ những quan điểm từ một ngân hàng truyền thống sang các quan điểm mới của một ngân hàng hiện đại- theo định hướng lấy khách hàng làm trung tâm- mà còn làm tiền đề quan trọng cho việc phát triển các sản phẩm tiện ích và dịch vụ hiện đại có khả năng cạnh tranh với các ngân hàng trong nước và khu vực. Ngoài ra, sự lựa chọn đúng đắn và triển khai thành công sản phẩm VCB- Vision 2010 còn được thể hiện ở việc Vietcombank đã đi trước một bước, đón đầu về công nghệ so với các ngân hàng thương mại Việt Nam khác. Với phương châm phát triển đất nước, xây dựng và hiện đại hoá ngành ngân hàng, tạo mọi điều kiện kinh doanh và phát triển của doanh nghiệp, các dịch vụ và hệ thống của VCB-Vision 2010 đều nhằm giải phóng khách hàng và đem lại nhiều tiện ích cho họ. Khách hàng gạt bỏ được những phiền toán khi đến giao dịch tại ngân hàng, hài lòng và tin tưởng khi được phục vụ với gian nhanh nhất, tiện lợi nhất, sẽ nhận được các dịch vụ tổng thể có tính tiêu chuẩn cao ở mọi nơi, mọi lúc bằng nhiều hình thức khác nhau, cảm nhận được sự yên tâm khi gửi tiền vào ngân hàng nhờ tính bảo mật và an toan cao của hệ thống. 50
  51. Có được những ưu điểm như vậy chắc chắn rằng trong tương lai không xa, các dự án phù hợp tương tự VCB-Vision 2010 sẽ được ứng dụng rộng rãi không chỉ trong nội bộ Vietcombank mà còn ở nhiều ngân hàng khác, khách hàng sẽ tự tin, thoải mái và yên tâm hơn khi đến với các ngân hàng Việt Nam. 3. Sản phẩm dịch vụ VCB- Online Nằm trong chiến lược hiện đại hoá dịch vụ ngân hàng và đưa ra các dịch vụ tiện ích của ngân hàng hiện đại đến với khách hàng, ngày 15/5/2002, Vietcombank chính thức đưa vào hoạt động dịch vụ VCB- Online tại trụ sở và các chi nhánh của Vietcombank trên phạm vi cả nước. Hệ thống dịch vụ VCB- Online được xây dựng và quản lí trên nền tảng của hệ thống ngân hàng bán lẻ Vietcombank Vision 2010, hoạt động trên cơ sở mạng trực tuyến và quản lý dữ liệu tập trung. Trên nền tảng này, dịch vụ VCB- Online đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của khách hàng, cho phép khách hàng mở tài khoản một nơi nhưng được giao dịch tại tất cả các nơi có chi nhánh của Vietcombank và các phòng giao dịch trong toàn quốc. Đây là hệ thống rất tiện ích cho khách hàng, tiết kiệm được thời gian, cho phép khách hàng được giao dịch ngay tại công ty, cơ quan hay nhà riêng mà không nhất thiết phải đến ngân hàng. Khách hàng thông qua hệ thống e-banking để chuyển tiền từ khoản không kỳ hạn sang tài khoản có kỳ hạn hay sang tài koản đầu tư có lãi cao hơn, khách hàng thông qua VCB- Online có thể thực hiện thanh toán trả tiền cho các loại hình dịch vụ như trả tiền nước, điện thoại, đóng phí bảo hiểm .Nếu là khoản tiền vay, VCB- Online cho phép khách hàng trả tiền lãi vay, trả gốc vốn vay qua nó. Hệ thống dịch vụ VCB- Online là rất thuận lợi cho khách hàng khi mọi yêu cầu giao dịch được tiến hành tức thì mà không phải qua bất kì một khâu trung gian nào. Luồng tiền đầu tư qua ngân hàng sẽ linh hoạt hơn, nhanh hơn. Hơn nữa, khách hàng có thể tự thực hiện các giao dịch tại các máy rút tiền tự 51
  52. động ATM đặt ở nơi gần nhất để sử dụng các dịch vụ tự động hoá cao lại chính xác. Một khi hệ thống VCB- Online đưa vào sử dụng, thì có thể nói, đây là một thang gấp kéo ngắn khoảng cách giao dịch giữa ngân hàng với khách hàng, tạo dựng quan hệ thân cận, tiết kiệm thời gian và nâng cao hiệu quả kinh doanh, mang lại tiện ích cho khách hàng là cơ bản. Cũng nhờ vào tính năng của hệ thống này, một dịch vụ mơi và rất tiện lợi sẽ được cung cấp cho khách hàng, đó là dịch vụ e-banking. Vietcombank đã xây dựng được dịch vụ ngân hàng điện tử dựa trên công nghệ hoàn toàn mới, phù hợp với khả năng tin học của hầu hết khách hàng. E-banking cho phép người sử dụng quản lí được tài khoản của mình ở Vietcombank, nắm bắt được kịp thời các khoản ghi có, ghi nợ. Thông qua địa chỉ Website của Vietcombank ( .vn) khách hàng của Vietcombank có thể dùng password và usename do Vietcombank cung cấp để xem số dư cũng như những diễn biến trong ngày, trong tháng được cập nhật ngay lập tức của một tài khoản bất kì tại nhà hoặc chuyển tiền sang tài khoản có lãi suất cao mà không cần phải đi đến tận ngân hàng. 4. Hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng của Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam. Năm 2002,Vietcombank đã chính thức triển khai hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng, làm cơ sở nòng cốt chô việc phát triển dịch vụ e- banking. Thanh toán điện tử liên ngân hàng (TTLNH) là quá trình xử lí các khoản thanh toán liên ngân hàng cho tới khi hoàn tất việc thanh toán cho người thụ hưởng, được thực hiện qua mạng máy tính. Hệ thống TTLNH bao gồm hai tiểu hệ thống là tiểu hệ thống thanh toán giá trị cao (bao gồm các giao dịch có giá trị cao và cả những giao dịch có giá trị thấp nhưng chuyển khẩn) và tiểu hệ thống thanh toán có giá trị thấp (xử lý các giao dịch chuyển tiền giá trị 52
  53. thấp). Ngoài ra, hệ thống TTLNH còn cung cấp giải pháp chuyển tiền giao dịch từ hệ thống chuyển tiền điện tử cũ và kết chuyển thanh toán bù trừ trên các địa bàn sang hệ thống mới. Các giao dịch giá trị cao là các giao dịch có giá trị trên 500 triệu đồng. Hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng có những ưu điểm nổi bật như: - Cung cấp cho khách hàng thêm một lựa chọn trong việc chuyển tiền với ưu điểm là thời gian chuyển tiền ngắn với mức phí không đổi. - Thanh toán tự động, tập trung hướng tới chuẩn hoá hệ thống thanh toán, giảm thiểu thời gian chuyển tiền. - Tập trung nguồn vốn thanh toán của các ngân hàng thương mại, tăng nguồn vốn khả dụng (do các ngân hàng giảm được lượng vốn dự trữ bắt buộc), tạo điều kiện cho các ngân hàng thương mại có thể sử dụng một cách có hiệu quả nhất nguồn vốn của mình. - Giảm thiểu hệ thống tài khoản thanh toán song biên (hiện nay do nhu cầu thanh toán và điều chuyển vốn, các ngân hàng phải mở rất nhiều tài khoản tại các ngân hàng, tổ chức tín dụng khác để phục vụ cho việc thanh toán song biên và đa biên). Việc này dẫn đến quản lí hệ thống tài khoản thanh toán song biên là phức tạp. Nguồn vốn của các ngân hàng và các tổ chức tín dụng bị phân tán. So với các hệ thống chuyển tiền cũ, TTLNH có những ưu điểm nổi bật về góc độ công nghệ và góc độ dịch vụ. Trước hết, chi phí tham gia hệ thống này của các ngân hàng tương đối thấp, yêu cầu về máy móc, thiết bị để tham gia thanh toán ở mức tối thiểu (chỉ cần một máy tính, một modem, một đường điện thoại và một máy in laser). Phần mềm chương trình dùng cho cac ngân hàng thành viên đã được Việt hoá nên tương đối thuận tiện, dễ sử dụng, thao tác vận hàng đơn giản. Thêm vào đó, hệ thống TTLNH cũng cung cấp giải pháp bảo mật hệ thống. Do hệ thống thanh toán, hạch toán được xử lý tự động, không có sự can thiệp của con người nên yêu cầu về bảo mật của 53
  54. chương trình là rất cao. Chương trình đã cung cấp giải pháp bảo mật nhiều tầng, đưa chữ kí điện tử vào sử dụng. Đây được đánh giá là một bước đột phá , là bước đi đầu tiên của nền thương mại điện tử Việt Nam. Về phía Vietcombank, với nền tảng công nghệ ngân hàng hiện đại cùng với sự đầu tư, chuẩn bị có chiều sâu cả về nhân lực và chương trình nên ngay từ những ngày đầu triển khai hệ thống TTLNH, Vietcombank đã bắt kịp một cách nhanh chóng. Cho đến nay, sau hơn một năm vận hành hệ thống, theo các báo cáo và đánh giá của ngân hàng Nhà nước, Vietcombank là ngân hàng đứng đầu về doanh số và số lượng giao dịch qua hệ thống TTLNH. Ngoài ra, Vietcombank cũng được đánh giá là ngân hàng có mức độ tự động hoá trong xử lý các giao dịch, thực hiện việc chuyển đổi dữ liệu từ hệ thống ngân hàng bán lẻ của Vietcombank sang hệ thống TTLNH một cách tốt nhất, đạt được các mục tiêu của hệ thống TTLNH đề ra. Cho đến thời điểm này, hệ thống Vietcombank đã có hơn 10 đơn vị thành viên tham gia hệ thống TTLNH. Trong thời gian tới, sẽ có thêm một số chi nhánh Vietcombank tham gia với vai trò là đơn vị thành viên. Đến nay, Vietcombank đã xây dựng được quy trình hạch toán, thanh toán nội bộ đối với các giao dịch qua hệ thống TTLNH một cách hoàn chỉnh, đồng thời cũng xử lý tốt mối quan hệ giữa ngân hàng trung ương với các chi nhánh trong việc quản lý vốn và hạch toán thu hộ, chi hộ trong TTLNH. Tất cả các giao dịch TTLNH đều được phản ánh tức thời trên tài khoản tiền gửi của chi nhánh mở tại trung ương. Các chi nhánh hoàn toàn chủ động trong việc thực hiện giao dịch, thanh toán và chủ động về nguồn vốn sử dụng. Với việc tham gia hệ thống TTLNH, Vietcombank đang tiến dần tới mục tiêu chuẩn hoá hệ thống thanh toán và đây thực sự là một bước quan trọng trong việc triển khai dịch vụ ngân hàng điện tử của Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam. 5. Dịch vụ Vietcombank cyber bill payment (V-CBP) 54
  55. Để triển khai tích cực hơn nữa loại hình dịch vụ ngân hàng điện tử, đồng thời với mục đích mang lại cho khách hàng nhiều tiện ích hơn nữa, ngày 26 tháng 8 năm 2003, Nsssgân hàng Ngoại Thương Việt Nam chính thức khai trương dịch vụ thương mại điện tử với tên gọi “Vietcombank cyber bill payment” tên viết tắt là V-CBP. Dịch vụ V-CBP cho phép khách hàng là chủ tài khoản mở tại Vietcombank hay là chủ thẻ Connect 24 có thể sử dụng mạng internet (qua trang web: www.vietcombank.com.vn) hoặc thẻ Connect 24 và trong tương lại sẽ là cả điện thoại di động để thực hiện các giao dịch: - Thanh toán cước phí điện thoại - Chuyển tiền - Thanh toán phí bảo hiểm - Thanh toán các loại phí dịch vụ khác như cước phí internet, tiền điện, nước - Thanh toán tiền mua hàng hoá tại các siêu thị, cửa hàng Với V-CBP, hệ thống thanh toán của Vietcombank được kết nối trực tuyến với hệ thống của các nhà cung cấp hàng hoá và dịch vụ, tạo điều kiện thực hiện giao dịch trực tuyến, nhanh chóng (thời gian xử lý giao dịch chỉ tính bằng giây) và đặc biệt là an toàn và chính xác. Nhờ những tính năng vượt trội, V-CBP sẽ đóng vai trò là kênh kết nối giữa các nhà cung cấp dịch vụ, hàng hoá và người tiêu dùng, phát huy tối đa vai trò trung gian tài chính của ngân hàng. Việc phát triển thanh toán không dùng tiền mặt này sẽ góp từng phần thay đổi thói quen ưa sử dụng tiền mặt trong thanh toán của đại bộ phận dân cư, giảm chi phí xã hội, nâng cao khả năng quản lý tiền tệ của Nhà nước, đồng thời tăng khả năng cạnh tranh của Vietcombank trước quá trình hội nhập ngày càng sâu rộng hơn của nền kinh tế Việt Nam. Hơn nữa, V-CBP còn tạo tiền đề cho việc phát triển dịch vụ thương mại điện tử business to business, business to customer tại Việt Nam. 55
  56. Kết nối với dịch vụ V-CBP, các nhà cung cấp dịch vụ, hàng hóa sẽ tiết kiệm được chi phí nhân công, trụ sở, chi phí cho việc giữ, vận chuyển và bảo quản tiền mặt. Đồng thời, hiệu quả sử dụng đồng vốn của các đơn vị cung cấp dịch vụ, hàng hoá sẽ được nâng cao, vì ngay khi khách hàng thực hiện lệnh thanh toán thông qua V-CBP, tiền sẽ được chuyển thẳng vào tài khoản của các đơn vị này và bắt đầu sinh lãi. Về phía người tiêu dùng, khi sử dụng V-CBP, họ sẽ được chủ động chi trả các chi phí dịch vụ, thanh toán hàng hoá mọi nơi, mọi lúc, thuận tiện, nhanh chóng và an toàn , không phải trả phí giao dịch và phí đăng kí sử dụng dịch vụ. Theo hợp đồng giữa Vietcombank và các đối tác, trước mắt, khách hàng có thể thanh toán phí cho các nhà cung cấp dịch vụ là : Bưu điện thành phố Hồ Chí Minh, công ty bảo hiểm nhân thọ Prudential, công ty bảo hiểm AIA. Trong thời gian tới, như thoả thuận với đối tác cung ứng giải pháp công nghệ CDIT, số lượng các nhà cung ứng dịch vụ của địa bàn được kết nối với V- CBP sẽ sớm được mở rộng. Hiện nay, đang có khoảng hơn 120.000 tài khoản cá nhân đã được mở tại Vietcombank, trong đó gần 10.000 tài khoản đã tham gia dịchvụ internet banking và 87.000 là chủ thẻ Connect 24. Tính đến thời điểm này, đã có gần 3 triệu giao dịch bằng thẻ Connect 24 được thực hiện và doanh số sử dụng của thẻ này đã vượt quá con số 1.500 tỷ đồng1. Sản phẩm Connect 24 vừa chính thức được công nhận là một trong những sản phẩm được bình chọn giải Sao vàng Đất Việt năm 2003. Và theo thông báo của ban tổ chức, Vietcombank- đơn vị có sản phẩm thẻ Connect 24 sẽ vinh dự là một trong 20 đơn vị có sản phẩm và thương hiệu đạt giải được lên nhận giải tại lễ trao giải chính thức vào ngày 28/8/2003. Dự kiến, sự ra đời của dịch vụ V-CBP hôm nay cùng với chương trình nâng số máy ATM lên con số 200 vào cuối năm 2003, phát triển các dịch vụ và tiện ích cho người sử dụng thẻ, khuyến khích mở rộng đơn vị 1 Thụng tin từ trang web: ngày 26/8/2003 56
  57. chấp nhận thanh toán thẻ Connect 24 sẽ làm tăng nhanh, trong thời gian ngắn tới đây, số lượng phát hành thẻ này cũng như lượng tài khoản cá nhân được mở tại ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam. Trong tình hình công nghệ của các ngân hàng thương mại Việt Nam phát triển chưa đồng đều, thì những bước tiến của ngân hàng Ngoại Thương trong việc triển khai từng bước dịch vụ ngân hàng điện tử quả là đáng khích lệ. Trong buổi lễ khai trương hệ thống VCB-Online và hệ thống ATM, Phó Thủ tướng Phạm Gia Khiêm và Thống đốc NHNN Lê Đức Thuý đã đến dự và hoan nghênh Vietcombank đã đi đầu trong ứng dụng công nghệ thông tin vào dịch vụ ngân hàng và mong muốn Vietcombank tiến mạnh, tiến nhanh hơn nữa trong quá trình hiện đại hoá ngân hàng, tiến tới hội nhập quốc tế, góp phần phục vụ nền kinh tế nước nhà phát triển cao. Với những hệ thống ứng dụng công nghệ mới là: hệ thống giao dịch tự động (Connect 24) và hệ thống VCB-Online, cùng với sự phát triển của thị trường thẻ của Vietcombank và tham gia vào hệ thống TTLNH một cách tích cực, phát triển dịch vụ mới V-CBP, Vietcombank đang tiến dần tới mục tiêu chuẩn hoá hệ thống thanh toán thông qua dịch vụ e-banking. Tình hình triển khai e-banking của Vietcombank mới chỉ là ở những bước sơ khai. Nhưng chỉ bằng một số sản phẩm mới, nhưng nó chứng tỏ sự dám nghĩ, dám làm của tập thể ngân hàng trong thời đại bùng nổ công nghệ thông tin. Điều này sẽ giúp cho ngân hàng Ngoại Thương tự tin hơn trong thời gian tới, càng đổi mới hơn nữa và càng gặt hái được nhiều thanh công hơn nữa. III. NHỮNG TỒN TẠI VÀ RỦI RO GẶP PHẢI TRONG QUÁ TRÌNH TRIỂN KHAI DỊCH VỤ NGÂN HÀNG ĐIỆN TỬ CỦA NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM, NGUYÊN NHÂN 1. Những tồn tại trong quá trình triển khai dịch vụ ngân hàng điện tử tại Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam Trong thời gian qua, các ngân hàng Việt Nam nói chung và Vietcombank nói riêng đã có những bước triển khai tích cực dịch vụ ngân hàng điện và cũng đã thu được những thành tích đáng kể. Khách hàng ngày càng có lòng tin vào 57