Luận văn Biện pháp nâng cao năng suất lao động tại công ty cổ phần đóng tàu Sông Cấm

pdf 10 trang thiennha21 09/04/2022 8060
Bạn đang xem tài liệu "Luận văn Biện pháp nâng cao năng suất lao động tại công ty cổ phần đóng tàu Sông Cấm", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfluan_van_bien_phap_nang_cao_nang_suat_lao_dong_tai_cong_ty_c.pdf

Nội dung text: Luận văn Biện pháp nâng cao năng suất lao động tại công ty cổ phần đóng tàu Sông Cấm

  1. MỞ ĐẦU Trong nền kinh tế thị trường, đặc biệt là xu hướng hội nhập toàn cầu hóa, các doanh nghiệp của Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp trong ngành đóng tàu nói riêng cũng luôn nhận thức được việc tăng năng suất lao động và chất lượng sản phẩm đã trở thành vấn đề sống còn của mỗi doanh nghiệp, năng suất lao động sẽ trở thành lợi thế cạnh tranh của mỗi doanh nghiệp và mỗi quốc gia. Đặc biệt trong bối cảnh của Việt Nam đang đẩy mạnh công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Hiện nay, một vấn đề đặt ra cho các doanh nghiệp của Việt Nam nói chung là làm thế nào để nâng cao được năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ, làm thế nào để tạo ra những sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ có chất lượng cao nhất nhưng với chi phí thấp nhất. Do Việt Nam sau một thời gian khá dài các doanh nghiệp chưa thực sự quan tâm đúng mức tới việc đầu tư đổi mới công nghệ sản xuất, áp dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật, tiên tiến, hiện đại để nâng cao năng suất lao động, dẫn tới hiệu quả sản xuất kinh doanh và năng suất lao động của các doanh nghiệpViệt Nam nói chung vẫn còn rất thấp so với các nước trên thế giới và các nước trong khu vực. 1. Tính cấp thiết của đề tài Xuất phát từ thực tế nêu trên, việc nghiên cứu đề xuất các biện pháp nâng cao năng suất lao động trong các doanh nghiệp của Việt Nam là hết sức cần thiết và cấp bách trong giai đoạn hiện nay. Chính vì vậy, việc nghiên cứu và đề xuất các biện pháp nâng cao năng suất lao động tại công ty cổ phần đóng tàu Sông Cấm có ý nghĩa rất quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển bền vững của Công ty. 2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài Luận văn đã hệ thống hóa được cơ sở lý luận về năng suất lao động để phân tích, đánh giá và đưa ra các biện pháp nâng cao năng suất lao động tại công ty cổ phần đóng tàu Sông Cấm. 1
  2. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Luận văn đã nghiên cứu tổng quan các nhân tố tác động đến năng suất lao động tại công ty cổ phần đóng tàu Sông Cấm trong giai đoạn từ năm 2010 đến năm 2014. Luận văn đã đưa ra các biện pháp nâng cao năng suất lao động tại công ty cổ phần đóng tàu Sông Cấm và các doanh nghiệp có quy mô sản xuất và cơ cấu sản phẩm tương tự tại Việt Nam. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Các phương pháp sử dụng: phương pháp thu thâp̣ , thống kê, phương pháp phân tích - tổng hợp, phương pháp so sánh và khảo sát thực tế. 5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài Ý nghĩa khoa học: luận văn đã hệ thống hóa được cơ sở lý luận về năng suất lao động. Ý nghĩa thực tiễn: luận văn đã đánh giá thực trạng về năng suất lao động tại công ty cổ phần đóng tàu Sông Cấm và đề xuất áp dụng các biện pháp nâng cao năng suất lao động tại công ty cổ phần đóng tàu Sông Cấm và các doanh nghiệp có quy mô sản xuất, cơ cấu sản phẩm tương tự tại Việt Nam. 6. Nội dung nghiên cứu của đề tài Về kết cấu của luận văn ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm có: Chương 1. Cơ sở lý luận về năng suất lao động Chương 2. Đánh giá thực trạng năng suất lao động tại công ty cổ phần đóng tàu Sông Cấm Chương 3. Biện pháp nâng cao năng suất lao động tại công ty cổ phần đóng tàu Sông Cấm. 2
  3. CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NĂNG SUẤT LAO ĐỘNG 1.1. Khái niệm về năng suất lao động Năng suất lao động là hiệu quả của hoạt động có ích của con người trong một đơn vị thời gian, nó được biểu hiện bằng số lượng sản phẩm sản xuất ra trong một đơn vị thời gian hoặc hao phí để sản xuất ra được một sản phẩm [1]. Hay năng suất lao động cũng có thể được khái quát một cách rất ngắn gọn là tỷ số giữa đầu ra và đầu vào được sử dụng để tạo ra đầu ra đó [2]. Đầu ra có thể là tổng giá trị sản xuất hoặc giá trị gia tăng hoặc khối lượng hàng hóa tính bằng đơn vị hiện vật. Đầu vào được tính theo các yếu tố tham gia để sản xuất ra đầu ra. Đó là lao động, nguyên liệu vốn, thiết bị máy móc, vật trung gian mua vào. Như vậy năng suất lao động trở thành nhân tố quan trọng nhất đánh giá khả năng cạnh tranh của hệ thống sản xuất trong mỗi doanh nghiệp, đồng thời cũng thể hiện trình độ phát triển của các doanh nghiệp và các quốc gia. Như vậy, với quan niệm năng suất lao động chỉ thuần tuý thể hiện mối tương quan giữa “đầu ra” và “đầu vào”. Nếu đầu ra lớn hơn đạt được từ một đầu vào thì có thể nói năng suất lao động cao hơn. Quan niệm truyền thống đề cập về mặt tĩnh và chủ yếu nhấn mạnh về mặt số lượng. Còn theo quan niệm mới thì năng suất lao động được hiểu rộng hơn, đó là tăng số lượng sản xuất đồng thời với tăng chất lượng đầu ra. Điều này có nghĩa là sử dụng một lượng lao động để sản xuất một khối lượng lớn các đầu ra có cùng chất lượng hoặc chất lượng cao hơn. Với quan niệm như vậy, năng suất có thể hiểu là trả ít hơn và nhận nhiều hơn mà không tổn hại đến chất lượng. Năng suất lao động không chỉ phụ thuộc vào số lượng mà còn phụ thuộc rất lớn vào chất lượng, đặc điểm của đầu ra và tính hiệu quả trong sản xuất. Trong thời kỳ đầu của sự phát triển, khi nền kinh tế còn thấp kém, năng suất và chất lượng được xem trong mối quan hệ trao đổi bù trừ, để có chất lượng người ta phải hy sinh năng suất và ngược lại, để có năng suất cao phải hy sinh chất lượng. Nhưng ngày nay, năng suất và chất lượng đã trở thành đồng hướng thống nhất với nhau. năng suất lao động cao phải tạo ra những sản phẩm và dịch vụ có các đặc tính kinh tế kỹ thuật và chức năng sử dụng thoả mãn nhu cầu của khách 3
  4. hàng và những đòi hỏi của xã hội, bảo vệ môi trường, sử dụng tiết kiệm nguồn tài nguyên, ít gây ô nhiễm và không lãng phí trong quá trình sản xuất. Theo quan điểm tiếp cận mới về năng suất lao động do Uỷ ban năng suất của Hội đồng năng suất châu Âu đưa ra: Năng suất lao động là một trạng thái tư duy. Nó là một thái độ nhằm tìm kiếm để cải thiện những gì đang tồn tại. Có một sự chắc chắn rằng ngày hôm nay con người có thể làm việc tốt hơn ngày hôm qua và ngày mai tốt hơn ngày hôm nay. Hơn nữa đó đòi hỏi những cố gắng không ngừng để thích ứng với các hoạt động kinh tế trong những điều kiện luôn thay đổi, luôn ứng dụng những lý thuyết và phương pháp mới. Đó là sự tin tưởng chắc chắn trong quá trình tiến triển của loài người [3]. Năng suất lao động phản ánh năng lực tạo ra của cải, hay hiệu suất của lao động cụ thể trong quá trình sản xuất, đo bằng số sản phẩm, lượng giá trị sử dụng (hay lượng giá trị) được tạo ra trong một đơn vị thời gian, hay đo bằng lượng thời gian lao động hao phí để sản xuất ra một đơn vị thành phẩm. Năng suất lao động là chỉ tiêu quan trọng nhất thể hiện tính chất và trình độ tiến bộ của một tổ chức, một đơn vị sản xuất, hay của một phương thức sản xuất. Năng suất lao động được quyết định bởi nhiều nhân tố, như trình độ thành thạo của người lao động, trình độ phát triển khoa học và áp dụng công nghệ, sự kết hợp xã hội của quá trình sản xuất, quy mô và tính hiệu quả của các tư liệu sản xuất, các điều kiện tự nhiên. Năng suất lao động là chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng lao động, đặc trưng bởi quan hệ so sánh giữa một chỉ tiêu đầu ra với lao động để sản xuất ra nó. Năng suất lao động là một trong những yếu tố quan trọng tác động tới sức cạnh tranh. Đặc biệt, năng suất lao động lại phản ánh yếu tố chất lượng người lao động là yếu tố cốt lõi của sự phát triển trong sự cạnh tranh toàn cầu, phát triển của khoa học công nghệ và nền kinh tế tri thức hiện nay. Từ những quan niệm trên, ta có thể chỉ ra rằng năng suất lao động là hiệu quả sản xuất của lao động có ích trong một đơn vị thời gian. Tăng năng suất lao động không chỉ đơn thuần là chỉ tiêu phản ánh lượng sản phẩm sản xuất ra mà nó thể hiện mối quan hệ giữa năng suất, hiệu quả, việc làm và sự phát triển bền vững. 4
  5. 1.2. Các loại năng suất lao động Năng suất lao động có thể chia theo nhiều tiêu thức khác nhau, xét theo phạm vi năng suất lao động có thể chia làm hai loại năng suất lao động của quốc gia và năng suất lao động của doanh nghiệp. 1.2.1. Năng suất lao động quốc gia Năng suất lao động quốc gia là chỉ tiêu phản ánh hiệu suất làm việc một lao động của một quốc gia, năng suất lao động quốc gia thường đo bằng tổng sản phẩm trong nước tính bình quân trên một lao động trong thời kỳ tham chiếu. Năng suất quốc gia phản ánh tổng giá trị sản xuất trên một lao động ở một nước. Năng suất quốc gia tạo ra sức mạnh kinh tế của một đất nước và là tiêu chuẩn quan trọng để đánh giá tiêu chuẩn sống. Năng suất quốc gia là chỉ số của nền kinh tế quốc dân nói chung và chỉ số để so sánh giữa các nước. Năng suất lao động quốc gia được tính bằng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) trên một lao động và tỷ lệ sử dụng lao động được tính là tỷ lệ số lao động đang làm việc trên tổng dân số. Vì vậy sự tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) trên một đầu người có thể do tăng năng suất lao động hoặc do tăng tỷ lệ sử dụng lao động. Có nhiều loại chỉ tiêu để chúng ta có thể tính và đánh giá năng suất lao động quốc gia, nhưng hiện nay người ta thường dùng chỉ tiêu tính năng suất lao động quốc gia bằng giá trị tổng sản phẩm quốc nội (GDP) hoặc tổng giá trị gia tăng (GVA) để tính năng suất lao động của một quốc gia. Q Công thức tính: W = T Trong đó: W: Năng suất lao động của một người lao động (tính bằng tiền) Q: Tổng sản phẩm quốc nội (GDP - Gross Domestic Product) hoặc tổng giá trị gia tăng (GVA - Gross Value Added) T: Số lượng lao động[4]. 5
  6. 1.2.2. Năng suất lao động doanh nghiệp Năng suất của doanh nghiệp là tỷ số giữa tổng đầu ra của doanh nghiệp với tổng đầu vào của doanh nghiệp trong một khoảng thời gian nhất định. Có nhiều loại chỉ tiêu để chúng ta có thể tính và đánh giá năng suất lao động của doanh nghiệp, nhưng dùng loại chỉ tiêu nào lại tùy thuộc vào việc lựa chọn một thước đo cho phù hợp với tình hình và đặc điểm của từng doanh nghiệp. Hiện nay, người ta thường dùng ba loại chỉ tiêu để tính và đánh giá năng suất lao động của doanh nghiệp gồm: chỉ tiêu tính năng suất lao động bằng hiện vật, chỉ tiêu tính năng suất lao động bằng giá trị và chỉ tiêu tính năng suất lao động bằng thời gian lao động, trong khuôn khổ bài luận văn này ta chỉ sử dụng hai chỉ tiêu để đánh giá năng suất lao động của doanh nghiệp, gồm: 1.2.2.1. Chỉ tiêu tính năng suất lao động bằng giá trị Chỉ tiêu tính năng suất lao động của doanh nghiệp dựa trên giá trị sản lượng tính bằng tiền của tất cả các loại sản phẩm của doanh nghiệp sản xuất ra để tính năng suất lao động của một lao động hay một công nhân. Q Công thức tính: W = T Trong đó: W: Năng suất lao động của một người lao động (tính bằng tiền) Q: Giá trị sản lượng, giá trị doanh thu, lợi nhuận T: Tổng số lao động hoặc công nhân [5]. - Ưu điểm: Đây là chỉ tiêu tính năng suất lao động thông dụng nhất, có khả năng tính cho nhiều loại sản phẩm khác nhau, khắc phục được nhược điểm chỉ tiêu tính bằng hiện vật. Phạm vi sử dụng của nó rộng hơn từ doanh nghiệp, ngành, giữa các ngành và nền kinh tế quốc dân, có thể dùng để so sánh mức năng suất lao động giữa các doanh nghiệp, giữa các ngành với nhau và các quốc gia khác nhau. - Nhược điểm: Chỉ tiêu này không khuyến khích việc tiết kiệm vật tư và vật dụng rẻ tiền mau hỏng, chịu ảnh hưởng của cách tính tổng sản lượng theo phương 6
  7. pháp công xưởng, nếu sản phẩm hiệp tác với ngoài nhiều cơ cấu sản phẩm thay đổi sẽ làm sai lệch mức năng suất lao động của bản thân doanh nghiệp. Chỉ dùng trong trường hợp cấu thành sản phẩm sản xuất không thay đổi (hoặc có sự thay đổi ít) vì cấu thành sản phẩm thay đổi nhiều sẽ làm sai lệch mức và tốc độ tăng năng suất lao động. 1.2.2.2. Chỉ tiêu tính năng suất lao động bằng thời gian lao động Chỉ tiêu này dùng lượng thời gian cần thiết để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm (hoặc hoàn thành một công việc) để biểu hiện năng suất lao động. Giảm chi phí lao động cho một đơn vị sản phẩm dẫn tới tăng năng suất lao động. Công thức tính: T L = Q Trong đó: L: Số lượng lao động hao phí cho một đơn vị sản phẩm (tính bằng đơn vị thời gian). T: Thời gian lao động đã hao phí. Q: Số lượng sản phẩm hoặc giá trị [6]. Số lượng lao động này được tính bằng cách tổng hợp chi phí thời gian lao động của các bước công việc hoặc bước công nghệ, các chi tiết sản phẩm (đơn vị dùng để tính là giây, phút, giờ). Người ta chia ra: - Số lượng lao động công nghệ (Lcn). - Số lượng lao động chung (Lch). - Số lượng lao động sản xuất (Lsx). - Số lượng lao động đầy đủ (Lđđ). - Số lượng lao động công nghệ (Lcn) bao gồm chi phí thời gian lao động của công nhân chính hoàn thành quá trình công nghệ chủ yếu. - Số lượng lao động chung (Lch) bao gồm chi phí thời gian lao động của công nhân hoàn thành quá trình công nghệ cũng như phục vụ quá trình công nghệ đó. 7
  8. Công thức tính: Lch = Lcn + Lpvq Trong đó: Lpvq: Số lượng lao động phục vụ quá trình công nghệ. - Số lượng lao động sản xuất (Lsx) bao gồm chi phí thời gian lao động của công nhân chính và công nhân phụ trong toàn doanh nghiệp. Công thức tính: Lsx = Lch + Lpvsx Trong đó: Lpvsx : Số lượng lao động phục vụ sản xuất. - Số lượng lao động đầy đủ (Lđđ) bao gồm hao phí lao động trong chế tạo sản phẩm của các loại công nhân viên sản xuất công nghiệp trong doanh nghiệp. Công thức tính: Lđđ = Lsx + Lql Trong đó: Lql : bao gồm số lượng lao động của cán bộ kỹ thuật, nhân viên quản lý các phòng, ban, phân xưởng, tạp vụ, bảo vệ. Chỉ tiêu tính theo lượng lao động có những công dụng nhất định nhưng không thể thay thế hoàn toàn cho chỉ tiêu tính theo giá trị. Trong công tác lập kế hoạch được sử dụng nhiều các chỉ tiêu. - Ưu điểm: phản ánh được cụ thể mức tiết kiệm thời gian lao động để sản xuất ra sản phẩm. - Nhược điểm: Tính toán khá phức tạp, không dùng để tính tổng hợp được năng suất lao động bình quân của một ngành hay một doanh nghiệp có nhiều loại sản phẩm khác nhau. Ngoài ra, trong quản lý người ta phân biệt các loại năng suất lao động theo năm, tháng, ngày, giờ. Tổng giá trị sản lượng (hay tổng doanh thu) NSLĐngày = Số ngày làm việc thực tế của người lao động Tổng giá trị sản lượng (hay tổng doanh thu) NSLĐgiờ = Số giờ làm việc thực tế của người lao động 8
  9. 1.3. Nâng cao năng suất lao động 1.3.1. Khái niệm nâng cao năng suất lao động Nâng cao năng suất lao động là cũng trong một thời gian lao động, nhưng khối lượng hàng hóa sản xuất ra tăng lên làm cho thời gian lao động cần thiết để sản xuất ra một đơn vị hàng hóa giảm xuống[7]. Nói chung chúng ta hiểu nâng cao năng suất lao động là sự thay đổi trong cách thức lao động, một sự thay đổi làm rút ngắn thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra một hàng hoá, sao cho số lượng lao động ít hơn mà lại có được sức sản xuất ra nhiều giá trị sử dụng hơn. Nâng cao năng suất lao động và tăng việc làm là nguồn gốc của tăng trưởng kinh tế, sự cần thiết phải nâng cao năng suất lao động trong các doanh nghiệp sau khi chuyển sang cơ chế thị trường, dưới tác động của thị trường và sức ép cạnh tranh, các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và đặc biệt là các doanh nghiệp nhà nước đã nhận thức được vai trò, ý nghĩa của năng suất lao động. Để tồn tại và phát triển các doanh nghiệp đã tiến hành một cuộc cải cách lớn, tinh giản lao động, đổi mới máy móc thiết bị, công nghệ, tổ chức sản xuất và quản lý. Nhờ đó nhiều doanh nghiệp đã vượt qua khó khăn, ngày càng phát triển hơn trong cơ chế thị trường. Kết quả sau hơn 20 năm đổi mới, nước ta đã có những tiến bộ đáng kể trong năng suất lao động của toàn bộ nền kinh tế, của các doanh nghiệp nhà nước và cả các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Cơ chế thị trường đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phát huy tinh sáng tạo chủ động, nỗ lực tìm mọi biện pháp phấn đấu mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh, tăng doanh thu, lợi nhuận và khả năng cạnh tranh trên thị trường. Các doanh nghiệp đều nhận thức được năng suất, chất lượng và hiệu quả quyết định sự tồn tại và phát triển. Nâng cao giá trị và chất lượng sản phẩm tạo ra cơ sở giảm chí phí là con đường chủ yếu để tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm. Mối quan hệ giữa tăng năng suất lao động, tăng thu nhập của người lao động và doanh nghiệp có sự gắn bó chặt chẽ với nhau. Năng suất lao động đã thực sự trở thành động lực cho sự phát triển của mọi doanh nghiệp. Mức tăng năng suất lao động trong các doanh nghiệp của Việt Nam đã có mức tăng khả 9
  10. quan, tốc độ tăng trưởng của một số chỉ tiêu có thể xếp vào loại cao trên thế giới. Tuy vậy xét về tổng thể mức tăng năng suất lao động ở các doanh nghiệp Việt Nam vấn rất thấp so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Nguyên nhân của thực trạng này là do cơ sở hạ tầng còn thấp, trình độ công nghệ còn lạc hậu, trình độ quản lý còn bất cập, đội ngũ lao động chưa được đào tạo để đáp ứng nhu cầu của hoạt động sản xuất kinh doanh. Với thực trạng năng suất lao động như hiện nay sẽ là một khó khăn lớn cho các doanh nghiệp có thể đứng vững và cạnh tranh trên thị trường với các doanh nghiệp nước ngoài. Nâng cao năng suất lao động sẽ tạo điều kiện tăng quy mô và tốc độ của tổng sản phẩm xã hội, thu nhập quốc dân , cho phép giải quyết thuận lợi các vấn đề về tích lũy, tiêu dùng. Vì năng suất lao động tăng lên thì sản lượng tăng lên và tổng giá trị sản lượng tăng lên. Khi giá trị sản lượng tạo điều kiện cho việc tăng lợi nhuận, giúp cho các doanh nghiệp cá thể tích luỹ đầu tư mở rộng sản xuất. Việc nâng cao năng suất ngày càng đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế, khi mà nền kinh tế hiện nay đang chuyển sang hướng phát triển mới. Năng suất lao động tăng có thể do chất lượng của lao động tăng lên, giúp cho một giờ làm việc đem lại nhiều sản lượng hơn, thay đổi về thành phần hay chất lượng của vốn khiến cho sử dụng vốn có hiệu quả cao hơn, có thể do tiến bộ công nghệ xuất phát từ công tác nghiên cứu và phát triển trong nước, vay mượn từ tri thức toàn cầu, hay chỉ đơn giản là rút kinh nghiệm từ thực tế làm việc, cũng có thể do tái phân bổ nguồn lực, một người lao động chuyển từ một công việc đồng áng có năng suất thấp sang một công việc có năng suất cao trong nhà máy sẽ trở nên có hiệu quả hơn, dù trình độ học vấn không thay đổi. Có thể tóm tắt những yếu tố cơ bản đóng góp vào việc nâng cao năng suất như sau: Phát triển nguồn nhân lực: Đầu tư vào nguồn nhân lực làm tăng năng lực cho lực lượng lao động. Nói một cách tổng quát, những công nhân được đào tạo tốt hơn sẽ làm việc năng suất hơn và tạo ra nhiều sản phẩm và dịch vụ có chất lượng hơn. 10