Luận văn Biện pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Ngân hàng TMCP Quân đội Chi nhánh Hải Phòng

pdf 10 trang thiennha21 09/04/2022 5391
Bạn đang xem tài liệu "Luận văn Biện pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Ngân hàng TMCP Quân đội Chi nhánh Hải Phòng", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfluan_van_bien_phap_nang_cao_chat_luong_tin_dung_doi_voi_doan.pdf

Nội dung text: Luận văn Biện pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Ngân hàng TMCP Quân đội Chi nhánh Hải Phòng

  1. LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở bất kỳ nền kinh tế nào trên thế giới đều đóng vai trò lớn đối với sự phát triển kinh tế, xã hội. Thời gian qua ở Việt Nam, các doanh nghiệp nhỏ và vừa đã khẳng định với đặc trưng năng động và thích ứng nhanh với sự thay đổi của thị trường. Các doanh nghiệp này đã đóng góp đáng kể cho sự gia tăng việc làm góp phần giải quyết các vấn đề xã hội, tạo mối liên kết chặt chẽ giữa các loại hình doanh nghiệp trong nền kinh tế. Các dịch vụ ngân hàng được coi là huyết mạch đối với sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp này. Nền kinh tế Việt Nam đang trong thời kỳ mở cửa, với chính sách khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia nên số lượng các doanh nghiệp ngày càng nhiều trong đó có các doanh nghiệp có quy mô nhỏ và vừa. Trong một tương lai gần, DNNVV chứ không phải doanh nghiệp lớn sẽ là nòng cốt của nền kinh tế.Việc tiếp cận các nguồn vốn tín dụng đối với các doanh nghiệp này còn nhiều rào cản và khó khăn do các ngân hàng hiện nay chưa chú trọng đến đối tượng doanh nghiệp này. Chính sách tín dụng và quy mô dư nợ đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa của Ngân hàng TMCP Quân đội – Chi nhánh Hải Phòng chưa được chú trọng và chưa phát triển xứng tầm với bề dày hoạt động. Tính đến ngày 31/12/2014 tổng dư nợ đạt 2.066 tỷ đồng (trong đó dư nợ của khối doanh nghiệp nhỏ và vừa là 439 tỷ đồng), thấp hơn nhiều so với các ngân hàng cổ phần khác được thành lập sau và chất lượng tín dụng có xu hướng ngày càng giảm sút. Từ tính cấp thiết của vấn đề này em đã chọn đề tài: "Biện pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Ngân hàng TMCP Quân đội Chi nhánh Hải Phòng" làm đề tài luận văn tốt nghiệp của mình. 2. Mục tiêu nghiên cứu - Nghiên cứu những vấn đề cơ bản về chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Ngân hàng thương mại. 1
  2. - Phân tích đánh giá thực trạng chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Ngân hàng TMCP Quân đội - Chi nhánh Hải Phòng. - Đề xuất các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Ngân hàng TMCP Quân đội - Chi nhánh Hải Phòng. 3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa. Phạm vi nghiên cứu của đề tài là chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Ngân hàng TMCP Quân đội - Chi nhánh Hải Phòng trong thời gian từ năm 2010 đến năm 2014. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Các phương pháp được sử dụng trong nghiên cứu đề tài gồm: phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp thống kê, phân tích tổng hợp, phương pháp so sánh, tiếp cận hệ thống, phương pháp phân tích tài liệu có sẵn. Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn gồm ba chương: Chƣơng 1: Lý luận về chất lƣợng tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa của Ngân hàng thƣơng mại. Chƣơng 2: Thực trạng chất lƣợng tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Ngân hàng TMCP Quân đội - Chi nhánh Hải Phòng giai đoạn 2010 - 2014 Chƣơng 3: Biện pháp nâng cao chất lƣợng tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Ngân hàng TMCP Quân đội - Chi nhánh Hải Phòng. 2
  3. CHƢƠNG 1 LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHẤT LƢỢNG TÍN DỤNG DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA CỦA NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI 1.1. Tổng quan về doanh nghiệp nhỏ và vừa trong nền kinh tế thị trƣờng 1.1.1 Khái niệm về doanh nghiệp nhỏ và vừa Trước tiên, để có được khái niệm về doanh nghiệp nhỏ và vừa, chúng ta bắt đầu nghiên cứu từ khái niệm doanh nghiệp. Hiện nay, có rất nhiều quan điểm khác nhau về doanh nghiệp, nhưng theo Luật doanh nghiệp nước Việt Nam năm 2014 và có hiệu lực từ 1/7/2015 định nghĩa: “Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch, được đăng ký thành lập theo quy định của pháp luật nhằm mục đích kinh doanh”. Khi căn cứ vào quy mô hoạt động của doanh nghiệp thì người ta có thể phân thành 3 loại doanh nghiệp: doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp vừa và doanh nghiệp nhỏ. Ngày nay, hầu hết các nước trên thế giới đều căn cứ vào “Tổng số vốn kinh doanh và số lượng lao động của doanh nghiệp” để phân biệt doanh nghiệp thuộc loại doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp vừa hay doanh nghiệp nhỏ. Tuy nhiên, ở mỗi nước các tiêu thức để phân biệt loại hình doanh nghiệp là khác nhau, có 2 nhóm tiêu chí: tiêu chí định tính và tiêu chí định lượng. Nhóm tiêu chí định tính: dựa trên những đặc trưng cơ bản của doanh nghiệp như: mức độ chuyên môn hóa thấp, số đầu mối quản lý ít, mức độ phức tạp của quản lý thấp Nhóm tiêu chí định lượng: có thể dựa vào các tiêu chí như số lượng lao động, giá trị tài sản hay vốn, quy mô doanh thu, lợi nhuận. Trong đó số lao động có thể là lao động trong danh sách, lao động thường xuyên, lao động thực tế. Tài sản hoặc vốn có thể là tổng giá trị tài sản hay vốn, tài sản (vốn) cố định. Doanh thu là doanh thu của cả năm, tổng giá trị gia tăng năm. Ở Việt Nam căn cứ theo hai tiêu thức số lao động và tổng vốn hoặc giá trị tài sản để phân loại doanh nghiệp, theo công văn số 681/CP-KTN do Chính phủ ban hành ngày 20/6/1998 quy định DNNVV là doanh nghiệp có vốn kinh doanh dưới 5 3
  4. tỷ đồng và có số lao động thường xuyên không quá 200 người. Tuy nhiên cùng với sự phát triển của đất nước, quy mô và số lượng các doanh nghiệp này ngày càng gia tăng, có nhiều doanh nghiệp có mức vốn trên 5 tỷ đồng hay có lao động trên 200 người nhưng vẫn chưa đủ mạnh để được coi là doanh nghiệp lớn. Vì vậy, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 90/2001/NĐ - CP, ngày 23/11/2001 và sau này được thay thế bằng Nghị định số 56/2009/NĐ-CP ngày 30/6/2009 của Chính Phủ về trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa. Theo nghị định năm 2009: Doanh nghiệp nhỏ và vừa là cơ sở kinh doanh đã đăng ký kinh doanh theo quy định pháp luật, được chia thành ba cấp: siêu nhỏ, nhỏ và vừa theo quy mô tổng nguồn vốn (tổng nguồn vốn tương đương tổng tài sản được xác định trong bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp) hoặc số lao động bình quân năm (tổng nguồn vốn là tiêu chí ưu tiên), cụ thể như sau: Bảng 1.1. Tiêu chí xác định doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Việt Nam Quy mô DN DN nhỏ DN vừa siêu nhỏ Số lao Tổng Số lao động Tổng nguồn Số lao động động nguồn vốn (ngƣời) vốn (ngƣời) Khu vực (ngƣời) (tỷ đồng) (tỷ đồng) Nông, lâm Từ trên 10 Từ trên 20 Từ trên 200 nghiệp và < 10 < 20 đến 200 đến 100 đến 300 thủy sản Công nghiệp Từ trên 10 Từ trên 20 Từ trên 200 < 10 < 20 và xây dựng đến 200 đến 100 đến 300 Thương mại Từ trên 10 Từ trên 10 Từ trên 50 < 10 < 10 và dịch vụ đến 50 đến 50 đến 100 Nguồn: Thông tư số 16/2013/TT-BTC ngày 08/02/2013 của Bộ tài chính 1.1.2. Đặc điểm của loại hình doanh nghiệp nhỏ và vừa DNNVV bên cạnh việc mang các đặc trưng vốn có của doanh nghiệp còn những đặc điểm riêng biệt, chủ yếu sau: DNNVV có quy mô hoạt động nhỏ, có thể hoạt động đa dạng ở nhiều ngành nghề kinh tế, do đó sức lan toả của các DNNVV là rất lớn. Mặt khác, nó có thể thâm nhập vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, là loại hình doanh nghiệp có sự 4
  5. năng động lớn trước những thay đổi của thị trường, có thể chuyển hướng kinh doanh và mặt hàng nhanh, chuyển địa điểm dễ dàng. DNNVV có vốn đầu tư ban đầu ít, nguồn vốn kinh doanh và mở rộng sản xuất bị hạn chế nhưng hiệu quả kinh tế cao, khả năng thu hồi và quay vòng nhanh, có sức thu hút nhiều thành phần kinh tế đầu tư vào khu vực này. Cơ cấu tổ chức sản xuất, quản lý của DNNVV rất gọn nhẹ, các quyết định quản lý, triển khai thực hiện nhanh, công tác kiểm tra, điều hành trực tiếp có hiệu quả. Mặt khác, mối quan hệ giữa các thành viên trong doanh nghiệp là rất gần gũi và thân thiết nhưng trình độ quản lý nhìn chung còn hạn chế, ít được đào tạo một cách khoa học. Hiện tượng trốn thuế, kinh doanh không đúng với ngành nghề đăng ký, làm và bán hàng giả, hàng kém chất lượng rất phổ biến do hoạt động phân tán nên khó quản lý. Khả năng tài chính yếu, việc tiếp cận nguồn tín dụng ngân hàng chưa cao, nguyên nhân là do năng lực quản lý kém, chưa chuẩn bị được các dự án khả thi, không được tài trợ vốn bằng tín chấp. Các ngân hàng hiện nay chưa chú trọng đến đối tượng doanh nghiệp này, một phần do họ chưa có hệ thống đánh giá đầy đủ, chính xác về loại hình doanh nghiệp này. 1.1.3. Vai trò của các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong nền kinh tế thị trường Ngày nay, tầm quan trọng của doanh nghiệp nhỏ và vừa đã được quốc tế thừa nhận, hoạt động và sự phát triển của các DNNVV đóng vai trò lớn trong sự phát triển của nền kinh tế mỗi quốc gia. Một số vai trò của các DNNVV được thể hiện là: DNNVV tạo ra nhiều việc làm cho người lao động, mang lại nguồn thu nhập ổn định và lợi ích cho tất cả mọi người, kể cả những người đang thất nghiệp, phụ nữ mang thai hay những người tàn tật đều có cơ hội có việc làm. DNNVV có thể tận dụng được nguồn nguyên nhiên vật liệu để sản xuất ra nhiều loại hàng hoá khác nhau, nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng, ngoài ra còn tạo 5
  6. ra các nguyên liệu, sản phẩm phụ trợ cho các ngành sản xuất công nghiệp và tham gia xuất khẩu ra nước ngoài. DNNVV có thể góp phần vào việc phân bổ nguồn lao động, phân bổ các ngành công nghiệp đến các vùng dân cư khác nhau, do vậy sẽ giảm bớt được khoảng cách phát triển giữa các khu vực và nâng cao tính cạnh tranh trong mỗi quốc gia. DNNVV góp phần đào tạo, đào tạo lại và bồi dưỡng thêm cho các đội ngũ nhân viên, công nhân, những nhà quản trị mới trong nền kinh tế thị trường. Đóng góp vào sự tăng trưởng kinh tế và tăng thu nhập dân cư: ở hầu hết các quốc gia, DNNVV thường đóng góp khoảng 20 - 50% thu nhập quốc dân. Ngoài ra, các doanh nghiệp này chủ yếu phục vụ cho thị trường nội địa, hoạt động dựa trên nguồn lực, phát triển các công nghệ và kỹ năng trong nước, điều này có ý nghĩa đòn bẩy giúp nâng cao chất lượng cuộc sống, giảm thiểu gánh nặng từ những tiêu cực xã hội. Đảm bảo tính năng động cho nền kinh tế: với quy mô kinh doanh gọn nhẹ DNNVV có nhiều khả năng chuyển đổi mặt hàng nhanh phù hợp với nhu cầu thị trường mà ít gây biến động lớn, ít chịu ảnh hưởng và có khả năng phục hồi nhanh sau những cuộc khủng hoảng kinh tế trên góc độ kinh tế quốc gia. 1.2. Tín dụng ngân hàng và vai trò của tín dụng ngân hàng 1.2.1. Khái niệm về tín dụng ngân hàng Tín dụng là một phạm trù kinh tế, ra đời, tồn tại và phát triển cùng với sự ra đời, tồn tại và phát triển của nền sản xuất và lưu thông hàng hóa. Tín dụng ra đời là một yếu tố khách quan của sự phát triển kinh tế xã hội. Mặc dù hoạt động tín dụng ra đời từ rất lâu nhưng cho đến nay người ta vẫn chưa thống nhất khi định nghĩa đầy đủ về tín dụng. Khái niệm “tín dụng” có nguồn gốc từ thuật ngữ Latinh credittum có nghĩa là sự tin tưởng, tín nhiệm. Theo từ điển thuật ngữ tín dụng, tín dụng là một phạm trù kinh tế thể hiện mối quan hệ giữa người cho vay và người đi vay. Trong quan hệ này người cho vay có nhiệm vụ chuyển giao quyền sử dụng tiền hoặc hàng hóa cho vay cho người 6
  7. đi vay trong một thời gian nhất định. Người đi vay tới kỳ hạn trả nợ có nghĩa vụ hoàn trả số tiền hoặc hàng hóa đã vay, có kèm hoặc không kèm một khoản lãi. Theo Mác: “Tín dụng dưới hình thức biểu hiện của nó là sự tín nhiệm ít nhiều có căn cứ đã khiến cho người này giao cho người khác một số tư bản nào đó dưới hình thái hàng hóa được đánh giá thành một số tiền nhất định. Số tiền này bao giờ cũng phải được trả lại trong một thời hạn đã được ấn định”. Theo quan niệm của các nhà nghiên cứu kinh tế, tín dụng được coi là một quan hệ vay mượn lẫn nhau giữa người cho vay và người đi vay với điều kiện có hoàn trả cả vốn lẫn lãi sau một thời gian nhất định. Hay nói một cách khác, tín dụng là một phạm trù kinh tế phản ánh mối quan hệ kinh tế mà trong đó mỗi cá nhân hay tổ chức nhường quyền sử dụng một khối lượng giá trị hoặc hiện vật cho một cá nhân hay tổ chức khác với những ràng buộc nhất định về: số tiền hoàn trả (gốc và lãi), thời gian hoàn trả, lãi suất, cách thức vay mượn và thu hồi Cũng trong từ điển thuật ngữ tín dụng, khái niệm “Tín dụng Ngân hàng” như sau: “là quan hệ tín dụng giữa Ngân hàng và TCTD khác với doanh nghiệp, cá nhân. Trong quan hệ tín dụng này, Ngân hàng vừa là người đi vay, vừa là người cho vay. Khác với tín dụng Thương mại, tín dụng Ngân hàng không cung cấp tín dụng dưới hình thức hàng hóa”. Theo Luật các TCTD đã được sửa đổi bổ sung năm 2004 quy định cụ thể về hoạt động tín dụng và cấp tín dụng của TCTD như sau: “Hoạt động tín dụng là việc TCTD sử dụng nguồn vốn tự có, nguồn vốn huy động để cấp tín dụng. Cấp tín dụng là việc TCTD thỏa thuận để khách hàng sử dụng một khoản tiền với nguyên tắc có hoàn trả bằng các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bảo lãnh Ngân hàng và các nghiệp vụ khác”. Như vậy, Tín dụng ngân hàng mang bản chất chung của quan hệ tín dụng. Đó là quan hệ tin cậy lẫn nhau trong việc vay và cho vay giữa các ngân hàng, các TCTD với các doanh nghiệp và cá nhân, được thực hiện theo nguyên tắc hoàn trả và có lãi. 7
  8. 1.2.2. Các hình thức tín dụng ngân hàng Căn cứ vào các cách tiếp câṇ cũng như các tiêu chí khác nhau và tùy yêu cầu quản lý mà tín dụng có thể phân loại theo nhiều tiêu chí khác nhau. Theo những tiêu chí và cách tiếp câṇ cơ bản nhất ta có thể phân loaị tín duṇ g NHTM theo các cách sau: - Phân loại theo thời gian (thời hạn tín dụng) Phân chia theo thời gian có ý nghĩa quan trọng đối với ngân hàng vì thời gian liên quan mật thiết đến tính an toàn và sinh lợi của tín dụng cũng như khả năng hoàn trả của khách hàng. Theo thời gian, tín dụng được phân thành: Tín dụng ngắn hạn: là các khoản tín dụng có thời hạn từ 12 tháng trở xuống. Các khoản tín dụng này thường được cấp cho khách hàng có nhu cầu bổ sung vốn lưu đôṇ g trong kinh doanh hay bù đắp taṃ thời các nhu cầu tiêu dùng trong thời gian ngắn. Tín dụng trung hạn: là các khoản tín dụng có thời hạn từ trên 12 tháng đến 60 tháng. Các khoản tín dụng này thường được cấp cho khách hàng có nhu cầu đầu tư, cải tạo, sử a chữa tài sản cố điṇ h, mở rôṇ g sản xuất k inh doanh có thời gian thu hồi vốn nhanh . Các nhu cầu tiêu dùng trung hạn có nguồn trả dần từ thu nhập nhưng không quá dài như mua sắm ô tô, xây sửa nhà Tín dụng dài hạn: là các khoản tín dụng có thời từ trên 60 tháng. Các khoản tín dụng này thường được cấp cho khách hàng để đầu tư tài sản cố định có thời gian sử duṇ g dài , thời gian thu hồi vốn trên 60 tháng, có giá trị lớn phục vụ sản xuất kinh doanh như nhà xưởng , máy móc thiết bị ; các nhu cầu tiêu dùng có giá trị lớn, thời gian trả nơ ̣ dài như mua sắm nhà cử a . - Phân loại theo hình thức Chiết khấu thương phiếu: là việc Ngân hàng ứng trước tiền cho khách hàng tương ứng với giá trị của thương phiếu trừ đi phần thu nhập của Ngân hàng để sở hữu một thương phiếu chưa đến hạn (hoặc một giấy nợ). Cho vay: là việc ngân hàng cung cấp nguồn tài chính cho khách hàng với cam kết hoàn trả cả gốc và lãi trong khoảng thời gian xác định. 8
  9. Bảo lãnh: là cam kết bằng văn bản của TCTD (bên bảo lãnh) với bên có quyền (bên nhận bảo lãnh) về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng (bên được bảo lãnh) khi khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh. Khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả cho TCTD số tiền đã được trả thay. Cho thuê: là hoạt động tín dụng trung và dài hạn thông qua việc cho thuê máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác trên cơ sở hợp đồng cho thuê giữa bên cho thuê với bên thuê. Bên cho thuê cam kết mua máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác theo yêu cầu của bên thuê và nắm giữ quyền sở hữu đối với các tài sản cho thuê. Bên thuê sử dụng tài sản thuê và thanh toán tiền thuê trong suốt thời hạn thuê đã được hai bên thỏa thuận. Khi kết thúc thời hạn thuê, bên thuê được quyền lựa chọn mua lại tài sản thuê hoặc tiếp tục thuê theo các điều kiện đã thoả thuận trong hợp đồng cho thuê tài chính - Phân loại theo mục đích của tín dụng theo tiêu thức này, tín dụng có thể phân chia thành các loại sau: cho vay phục vụ sản xuất kinh doanh, thương mại, cho vay tiêu dùng cá nhân, cho vay bất động sản, cho vay kinh doanh xuất nhập khẩu - Phân loại theo tài sản đảm bảo Tài sản đảm bảo cho phép ngân hàng có được nguồn thu nợ thứ hai bằng cách bán các tài sản đó khi nguồn thu nợ thứ nhất (từ phương án vay vốn) không có hoặc không đảm bảo khả năng trả nợ. Theo tiêu thức này, tín dụng gồm: Cho vay không có tài sản đảm bảo: là loại cho vay không có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh của bên thứ ba mà việc cho vay chỉ dựa vào uy tín của khách hàng, thường áp dụng đối với những khách hàng tốt, có khả năng tài chính mạnh, quản trị có hiệu quả và có uy tín trong quan hệ với ngân hàng. Cho vay có tài sản đảm bảo: là loại cho vay được ngân hàng cung ứng khi có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc phải có sự bảo lãnh của bên thứ ba. Sự bảo đảm 9
  10. này là căn cứ pháp lý để ngân hàng có thêm một nguồn thứ hai, bổ sung cho nguồn thu nợ thứ nhất thiếu chắc chắn. - Phân loại theo mức độ rủi ro của khoản vay việc phân chia tín dụng theo mức độ rủi ro giúp ngân hàng thường xuyên đánh giá được mức độ an toàn của các khoản tín dụng, nhằm đưa ra các biện pháp phòng ngừa rủi ro, nếu phân chia theo tiêu chí này thì tín dụng gồm: Tín dụng lành mạnh: là khoản tín dụng an toàn, khả năng thu hồi cao. Tín dụng có vấn đề: là khoản tín dụng có dấu hiệu thiếu lành mạnh như khách hàng gặp thiên tai, trì hoãn nộp báo cáo tài chính, tiến độ thực hiện kế hoạch chậm Nợ quá hạn có khả năng thu hồi: là khoản nợ đã quá hạn trong thời hạn ngắn và khách hàng có kế hoạch khắc phục tốt, tài sản đảm bảo có giá trị lớn Nợ quá hạn khó đòi: là khoản nợ quá hạn lâu, khả năng trả nợ kém, tài sản thế chấp nhỏ hoặc bị giảm giá, khách hàng không hợp tác - Phân loại theo đặc điểm luân chuyển vốn Tín dụng vốn lưu động: là loại tín dụng được cấp để bổ sung vốn lưu động cho các khách hàng. Tín dụng vốn cố định: là loại tín dụng được cấp để hình thành nên tài sản cố định cho các tổ chức kinh tế. Có những ngân hàng phân chia mức độ rủi ro chi tiết hơn, tùy theo mục đích sử dụng việc phân chia này. 1.2.3. Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa Cũng như các loại hình doanh nghiệp khác trong quá trình kinh doanh, các DNNVV sử dụng vốn TDNH để đáp ứng nhu cầu thiếu hụt vốn và tối ưu hoá hiệu quả sử dụng vốn của mình. Vốn TDNH đầu tư cho các DNNVV đóng vai trò rất quan trọng, nó vừa thúc đẩy sự phát triển khu vực kinh tế này mà thông qua đó tác động trở lại thúc đẩy hệ thống ngân hàng, đổi mới chính sách tiền tệ hoàn thiện các cơ chế chính sách về tín dụng, thanh toán ngoại hối Để thấy được vai TDNH trong việc phát triển của DNNVV, xét một số vai trò sau: 10