Luận án Nâng cao năng lực công tác của đội ngũ chính trị viên tàu ở các lữ đoàn tàu mặt nước, quân chủng hải quân hiện nay

doc 208 trang Bích Hải 08/04/2025 221
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận án Nâng cao năng lực công tác của đội ngũ chính trị viên tàu ở các lữ đoàn tàu mặt nước, quân chủng hải quân hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docluan_an_nang_cao_nang_luc_cong_tac_cua_doi_ngu_chinh_tri_vie.doc
  • doc1 BÌA LUẬN ÁN.doc
  • doc2 BÌA TÓM TẮT TIẾNG VIỆT.doc
  • doc2 TÓM TẮT TIẾNG VIỆT.doc
  • doc3 BÌA TÓM TẮT TIẾNG ANH.doc
  • doc3 TÓM TẮT TIẾNG ANH.doc
  • doc4 THÔNG TIN MẠNG TIẾNG VIỆT.doc
  • doc4 THÔNG TIN MẠNG. TIẾNG ANH.doc

Nội dung text: Luận án Nâng cao năng lực công tác của đội ngũ chính trị viên tàu ở các lữ đoàn tàu mặt nước, quân chủng hải quân hiện nay

  1. 5 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các kết quả nghiên cứu và những tư liệu, số liệu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng. Hà Nội, ngày tháng năm 2024 TÁC GIẢ LUẬN ÁN NCS Phạm Vũ Hiệp
  2. 6 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TT Chữ viết đầy đủ Chữ viết tắt 1 Ban chỉ huy BCH 2 Bộ Quốc phòng BQP 3 Công tác đảng, công tác chính trị CTĐ, CTCT 4 Hải quân nhân dân Việt Nam HQNDVN 5 Lưu hành nội bộ M 6 Lữ đoàn tàu mặt nước LĐTMN 7 Quân đội nhân dân Việt Nam QĐNDVN 8 Quân ủy Trung ương QUTW 9 Trong sạch vững mạnh TSVM 10 Vũ khí trang bị kỹ thuật VKTBKT 11 Vững mạnh toàn diện VMTD
  3. 7 MỤC LỤC Trang TRANG PHỤ BÌA LỜI CAM ĐOAN MỤC LỤC DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT MỞ ĐẦU Chương 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐỀN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 1.1. Các công trình khoa học ở nước ngoài liên quan đến đề tài luận án 1.2. Các công trình khoa học ở trong nước liên quan đến đề tài luận án 1.3. Giá trị của các công trình khoa học đã tổng quan và những vấn đề luận án tập trung nghiên cứu Chương 2. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN, THỰC TIỄN VỀ NĂNG LỰC VÀ NÂNG CAO NĂNG LỰC CÔNG TÁC CỦA ĐỘI NGŨ CHÍNH TRỊ VIÊN TÀU Ở CÁC LỮ ĐOÀN TÀU MẶT NƯỚC, QUÂN CHỦNG HẢI QUÂN 2.1. Các lữ đoàn tàu mặt nước và đội ngũ chính trị viên tàu ở các lữ đoàn tàu mặt nước, Quân chủng Hải quân 2.2. Những vấn đề cơ bản về năng lực và nâng cao năng lực công tác của đội ngũ chính trị viên tàu ở các lữ đoàn tàu mặt nước, Quân chủng Hải quân Chương 3. THỰC TRẠNG NĂNG LỰC CÔNG TÁC VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI NÂNG CAO NĂNG LỰC CÔNG TÁC CỦA ĐỘI NGŨ CHÍNH TRỊ VIÊN TÀU Ở CÁC LỮ ĐOÀN TÀU MẶT NƯỚC, QUÂN CHỦNG HẢI QUÂN 3.1. Thực trạng năng lực công tác của đội ngũ chính trị viên tàu ở các lữ đoàn tàu mặt nước, Quân chủng Hải quân 3.2. Nguyên nhân của thực trạng và những vấn đề đặt ra đối với nâng cao năng lực công tác của đội ngũ chính trị viên tàu ở các lữ đoàn tàu mặt nước, Quân chủng Hải quân
  4. 8 Chương 4. YÊU CẦU VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC CÔNG TÁC CỦA ĐỘI NGŨ CHÍNH TRỊ VIÊN TÀU Ở CÁC LỮ ĐOÀN TÀU MẶT NƯỚC, QUÂN CHỦNG HẢI QUÂN HIỆN NAY 4.1. Những yếu tố tác động và yêu cầu nâng cao năng lực công tác của đội ngũ chính trị viên tàu ở các lữ đoàn tàu mặt nước, Quân chủng Hải quân hiện nay 4.2. Những giải pháp nâng cao năng lực công tác của đội ngũ chính trị viên tàu ở các lữ đoàn tàu mặt nước, Quân chủng Hải quân hiện nay KẾT LUẬN DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC
  5. 5 MỞ ĐẦU 1. Lý do lựa chọn đề tài luận án Biển, đảo là một bộ phận thiêng liêng của Tổ quốc Việt Nam. Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền biên giới quốc gia trên biển là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân trong đó HQNDVN là lực lượng nòng cốt, trọng yếu, thường xuyên. Được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, Quân đội, HQNDVN ngày càng phát triển lớn mạnh theo hướng “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại”, không ngừng nâng cao sức mạnh tổng hợp, trình độ, khả năng sẵn sàng chiến đấu, sức mạnh chiến đấu, góp phần quan trọng bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo, thềm lục địa, vùng đặc quyền kinh tế của Tổ quốc trong mọi tình huống. Lữ đoàn tàu mặt nước, Quân chủng Hải quân thuộc biên chế của các vùng Hải quân, là lực lượng nòng cốt, trọng yếu trong thực hiện nhiệm vụ tuần tra, vận tải, sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu của các vùng Hải quân. Để các LĐTMN, Quân chủng Hải quân hoàn thành tốt nhiệm vụ cần thực hiện nhiều nội dung biện pháp, trong đó chăm lo xây dựng đội ngũ chính trị viên tàu có phẩm chất, năng lực tốt là vấn đề đặc biệt quan trọng. Đội ngũ chính trị viên tàu ở các LĐTMN, Quân chủng Hải quân là người chủ trì về chính trị, đảm nhiệm CTĐ, CTCT trên tàu, đáp ứng các điều kiện, tiêu chuẩn, được bầu hoặc chỉ định làm bí thư cấp ủy, tổ chức đảng trên tàu. Theo đó, phẩm chất, năng lực công tác của đội ngũ chính trị viên tàu ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng hoạt động CTĐ, CTCT; kết quả thực hiện nhiệm vụ của tàu, xây dựng tàu VMTD, “Mẫu mực, tiêu biểu”, xây dựng tổ chức đảng trên tàu TSVM. Trong những năm qua, cấp ủy, tổ chức đảng, đội ngũ cán bộ chủ trì, cơ quan chức năng các cấp đã thường xuyên quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, bồi dưỡng, nâng cao năng lực công tác của đội ngũ chính trị viên tàu. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, năng lực công tác của đội ngũ
  6. 6 chính trị viên tàu ở các LĐTMN, Quân chủng Hải quân hiện nay còn những hạn chế so với vị trí, vai trò, chức trách, nhiệm vụ được giao. Một bộ phận chính trị viên tàu còn hạn chế về năng lực lãnh đạo; còn có những lúng túng trong tiến hành một số hoạt động CTĐ, CTCT trên tàu; năng lực chỉ huy, quản lý bộ đội trong xây dựng chính quy, rèn luyện kỷ luật còn có hạn chế nhất định, có sự chênh lệch so với người chỉ huy tàu. Kết quả thực hiện nhiệm vụ của một bộ phận chính trị viên tàu chưa cao, chất lượng, hiểu quả công tác của một số chính trị viên tàu còn thấp. Nội dung, hình thức, biện pháp chậm được đổi mới, cơ sở vật chất, phương tiện đảm bảo cho việc nâng cao năng lực công tác của đội ngũ chính trị viên tàu còn nhiều khó khăn, điều kiện đảm bảo cho việc tự học tập, nghiên cứu nâng cao năng lực công tác của đội ngũ chính trị viên tàu chưa đáp ứng được nhu cầu. Hiện nay, nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền, biển đảo của Tổ quốc diễn ra trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực có nhiều diễn biến phức tạp, tình hình chiến sự giữa Nga - Ukraine ngày càng gia tăng, tình hình Biển Đông luôn tiềm ẩn những nguy cơ dẫn đến xung đột quân sự, gây mất ổn định trong khu vực. Đất nước ta sau gần 40 năm đổi mới thế và lực, uy tín trên trường quốc tế không ngừng được nâng lên, tạo những tiền đề quan trọng để thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi và thời cơ lớn, cách mạng nước ta vẫn đứng trước nhiều khó khăn thách thức, các thế lực thù địch đang ra sức chống phá bằng chiến lược “diễn biến hòa bình”, kết hợp với bạo loạn lật đổ, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong đội ngũ cán bộ, đảng viên. Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa được đầy lùi, mặt trái nền kinh tế thị trường, các tiêu cực và tệ nạn xã hội đang tác động trực tiếp đến tư tưởng, tình cảm, niềm tin của cán bộ, chiến sĩ trên tàu Hải quân. Vì vậy, hơn lức nào hết phải nâng cao năng lực công tác của đội ngũ chính trị viên tàu, góp phần nâng cao chất lượng CTĐ, CTCT, nâng cao trình độ sẵn sàng chiến đấu và sức mạnh chiến đấu, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ
  7. 7 được giao. Với ý nghĩa đó, nghiên cứu sinh lựa chọn đề tài: “Nâng cao năng lực công tác của đội ngũ chính trị viên tàu ở các lữ đoàn tàu mặt nước, Quân chủng Hải quân hiện nay” làm luận án tiến sĩ ngành Xây dựng Đảng và Chính quyền Nhà nước. 2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu, làm rõ những vấn đề cơ bản lý luận, thực tiễn về năng lực công tác và nâng cao năng lực công tác của đội ngũ chính trị viên, nhằm đề xuất những giải pháp nâng cao năng lực công tác của đội ngũ chính trị viên tàu ở các LĐTMN, Quân chủng Hải quân hiện nay. Nhiệm vụ nghiên cứu Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án và xác định những vấn đề luận án tập trung nghiên cứu. Nghiên cứu những vấn đề cơ bản lý luận, thực tiễn về năng lực công tác và nâng cao năng lực công tác của đội ngũ chính trị viên tàu ở các LĐTMN, Quân chủng Hải quân. Nghiên cứu, đánh giá đúng thực trạng năng lực công tác của đội ngũ chính trị viên tàu, khái quát những vấn đề đặt ra đối với nâng cao năng lực công tác của đội ngũ chính trị viên tàu ở các LĐTMN, Quân chủng Hải quân. Xác định yêu cầu, đề xuất những giải pháp nâng cao năng lực công tác của đội ngũ chính trị viên tàu ở các LĐTMN, Quân chủng Hải quân hiện nay. 3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu Năng lực công tác của đội ngũ chính trị viên tàu ở các lữ đoàn tàu mặt nước, Quân chủng Hải quân. Phạm vi nghiên cứu Luận án tập trung nghiên cứu những vấn đề cơ bản lý luận, thực tiễn về năng lực công tác và nâng cao năng lực công tác của đội ngũ chính trị viên tàu ở các LĐTMN, Quân chủng Hải quân.
  8. 8 Tiến hành nghiên cứu, khảo sát, điều tra thực tế phục vụ cho luận án ở các LĐTMN của các vùng Hải quân, Quân chủng Hải quân. Tư liệu, số liệu, điều tra, khảo sát sử dụng trong luận án được giới hạn chủ yếu từ năm 2015 đến nay; các giải pháp có giá trị vận dụng đến năm 2035 và những năm tiếp theo. 4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu Cơ sở lý luận, thực tiễn Cơ sở lý luận của đề tài Hệ thống quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của ĐCSVN, các chỉ thị, nghị quyết của QUTW, BQP, các quy chế, quy định của Tổng Cục Chính trị QĐNDVN về xây dựng Đảng, xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng, xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị, về cán bộ, công tác cán bộ, chính ủy, chính trị viên trong Quân đội. Cơ sở thực tiễn của đề tài Thực tế hoạt động của đội ngũ chính trị viên tàu ở các LĐTMN, Quân chủng Hải quân, hoạt động xây dựng đội ngũ chính trị viên tàu, nâng cao năng lực công tác của đội ngũ chính trị viên tàu ở các LĐTMN, Quân chủng Hải quân; các báo cáo tổng kết CTĐ, CTCT của Quân chủng Hải quân, các Vùng Hải quân, các LĐTMN, Quân chủng Hải quân. Các số liệu thống kê, kết quả điều tra, khảo sát của tác giả trong quá trình khảo sát thực tế ở các LĐTMN, Quân chủng Hải quân. Phương pháp nghiên cứu Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, đề tài sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu của khoa học chuyên ngành và liên ngành; trong đó chú trọng phương pháp: Phân tích và tổng hợp; logic và lịch sử; thống kê và so sánh, điều tra, khảo sát; tổng kết thực tiễn. 5. Những đóng góp mới của luận án Xây dựng, làm rõ nội hàm quan niệm năng lực và quan niệm nâng cao năng lực công tác của đội ngũ chính trị viên tàu ở các LĐTMN, Quân chủng Hải quân.
  9. 9 Khái quát những vấn đề đặt ra đối với nâng cao năng lực công tác của đội ngũ chính trị viên tàu ở các LĐTMN, Quân chủng Hải quân. Đề xuất những nội dung, biện pháp có tính khả thi trong những giải pháp nâng cao năng lực công tác của đội ngũ chính trị viên tàu ở LĐTMN, Quân chủng Hải quân hiện nay. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần làm sáng tỏ những vấn đề cơ bản lý luận, thực tiễn về năng lực công tác của đội ngũ chính trị viên tàu ở các LĐTMN, Quân chủng Hải quân; cung cấp thêm luận cứ khoa học để cấp ủy, tổ chức đảng ở các LĐTMN, Quân chủng Hải quân có thể vận dụng vào xác định chủ trương, giải pháp nâng cao năng lực công tác của đội ngũ chính trị viên tàu ở các LĐTMN, Quân chủng Hải quân hiện nay và trong những năm tiếp theo. Luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong học tập, nghiên cứu, giảng dạy môn CTĐ, CTCT ở các học viện, nhà trường Quân đội. 7. Kết cấu của luận án Luận án được kết cấu gồm: Phần mở đầu, 4 chương (9 tiết), kết luận, danh mục các công trình của tác giả đã công bố liên quan đến đề tài luận án, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.
  10. 10 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 1.1. Các công trình khoa học ở nước ngoài liên quan đến đề tài luận án 1.1.1. Các công trình nghiên cứu về cán bộ, công tác cán bộ, xây dựng đội ngũ cán bộ, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị N.A. Pê-tơ-rô-vi-trép (1983), Xây dựng Đảng [ 112]. Cuốn sách tập trung nghiên cứu về những nguyên lý xây dựng Đảng trên nền tảng tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin, nghiên cứu về khoa học xây dựng Đảng, cộng sản (b) Nga về tiến hành các mặt công tác đảng, công tác tư tưởng, tổ chức, chính sách, cán bộ, về tổ chức bộ máy của Đảng ở Trung ương và địa phương... Đối với công tác cán bộ ở địa phương cuốn sách cho rằng: “Lựa chọn rồi phân phối cán bộ lãnh đạo, giáo dục theo tinh thần của tư tưởng cộng sản chủ nghĩa, của lòng trung thực và thật thà, của ý thức trách nhiệm cao với nhiệm vụ được giao; thu hút đông đảo đảng viên thực hiện công tác đảng với tư cách là những cán bộ ngoài biên chế trong khuôn khổ hoạt động xã hội” [112, tr.299]. Chu Chí Hòa (2010), Đổi mới công tác xây dựng đảng ở nông thôn [72]. Cuốn sách bàn về công tác đảng ở nông thôn Trung Quốc cần phải đổi mới từ cơ cấu tổ chức, công tác giáo dục, quản lý, giám sát đảng viên, công tác lựa chọn, bổ nhiệm bí thư tổ chức đảng thôn, phương thức lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng ở nông thôn. Tác giả cho rằng, để nâng cao tố chất của đội ngũ cán bộ ở nông thôn cần nâng cao năng lực cầm quyền và trình độ lãnh đạo. “Cán bộ nông thôn đóng vai trò là người tổ chức, người thúc đẩy, người thực hiện sự nghiệp của Đảng ở nông thôn, nên cần phải có năng lực và trình độ lãnh đạo nhất định. Tổ chức năng lực của cán bộ nông thôn là một hệ thống tổng hợp các năng lực bao gồm: “năng lực học tập, năng lực tư duy, năng lực thực hiện, năng lực sáng tạo trên nhiều phương diện” [ 72, tr.356]. Trong công tác lựa chọn cán bộ ở nông thôn cuốn sách chỉ rõ: “việc lựa chọn, đề bạt, bổ
  11. 11 nhiệm những người có tài có “hai thế mạnh” như vậy trong đội ngũ đảng viên nông thôn làm bí thư tổ chức đảng thôn, thì chắc chắn mỗi thôn đều sẽ có một “đầu tàu” của xã hội khá giả toàn diện” [72, tr.401]. Hoàng Văn Hổ (2014), Cầm quyền khoa học [ 74]. Cuốn sách đã khái quát quan điểm cầm quyền của Đảng Cộng sản Trung Quốc; ý nghĩa quan trọng của cầm quyền khoa học, bản chất của cầm quyền khoa học, mối quan hệ tương hỗ giữa cầm quyền khoa học, cầm quyền dân chủ, cầm quyền theo pháp luật; khẳng định: “Đảng cầm quyền muốn trước sau kiên trì cầm quyền khoa học thì điều then chốt là phải xây dựng được một đội ngũ cán bộ có tố chất cao, đảm đương được trách nhiệm nặng nề, vượt qua được thử thách sóng gió dựa theo yêu cầu cách mạng hóa, trẻ hóa, tri thức hóa và chuyên nghiệp hóa” [74, tr.573,574]. Đồng thời, phê phán những quan điểm phong kiến vẫn còn tồn tại trong xã hội Trung Quốc, như tư duy “quan bản vị”, “duy quan thị tôn”(chỉ có quan được coi trọng); quan điểm “quan quý dân tiện”(quan thì quý phái, dân thì hèn mọn); “Dưới sự ảnh hưởng và thúc giục của quan niệm truyền thống về “quan” này, rất nhiều người đã tìm trăm phương nghìn kế chui vào trong đội ngũ cán bộ để kiếm chức”; “ với tư duy không đến tuổi về hưu không thoái vị, không phạm sai lầm không rời vị trí, không sai thì không xuống, đã xuống thì tất có sai” [74, tr.576]. Nhiệm Ngạn Thân (2016), Phát hiện và sử dụng nhân tài [ 139]. Cuốn sách đi sâu trình bày về công tác cán bộ, trong đó đề cập những vấn đề xã hội rất quan tâm như tính dân chủ trong Đảng, phong cách viết, phong cách hội họp, thể chế chính trị Về việc tu dưỡng rèn luyện của người cán bộ cho rằng: “Quan viên thời xưa coi trọng chuyện “tu thân”, còn cán bộ ngày nay cần coi trọng việc “tu dưỡng”. Nghĩa của từ “tu” chính là tự học tập, tự sửa chữa, tự cải tạo, tự hoàn thiện; luôn duy trì sự tôn trọng hiền tài, tôn trọng lãnh đạo, tôn trọng quần chúng” [ 139, tr.16]. Về cách dùng người; về vấn đề lựa chọn cán bộ và nghệ thuật lãnh đạo cuốn sách chỉ rõ, phải có tầm nhìn sâu rộng, quyết đoán, khoan dung, tính thiện như nước. Về tính quyết đoán của
  12. 12 cán bộ tác giả luận giải như sau: “Thậm chí, khi cần thiết, người lãnh đạo phải kiên quyết dẹp tan mọi lời bàn tán, đưa ra chủ kiến cá nhân “độc đoán” nhưng điều cần lưu ý là, bạn có thể “độc đoán” nhưng không thể “chuyên quyền”, càng không được có quan điểm ý kiến của mình là tiếng nói quyết định tối thượng” [139, tr.129]. Hồ Thành Quốc (2016), Đạo làm quan [129]. Cuốn sách cho rằng, quan chức là những người giữ trọng trách quan trọng trong các cơ quan công quyền của đất nước, là những người vì dân, vì nước, “chức vị phải được nhân dân thừa nhận”, kiên trì “liên hệ tình cảm với nhân dân”. Vậy nên, quan chức phải là những tấm gương thanh liêm, chính trực, trong sạch, có đạo đức, tiêu biểu trong quần chúng nhân dân. Về đạo đức của người làm quan: “Làm quan mà vô đạo đức thì sẽ làm cho tác phong đạo đức của Đảng, của chính quyền và xã hội nảy sinh vấn đề nghiêm trọng” [ 129, tr.118]. Về tu dưỡng phẩm chất, ý chí, nâng cao năng lực cầm quyền của cán bộ, phải kiên trì, không biết mệt mỏi, cần cù học tập, cải tiến phương pháp, biết cách học, học có trọng điểm, học rộng biết nhiều; về công tác nghiệp vụ tuyệt đối không nói không làm được. “Cán bộ lãnh đạo hằng ngày phải đứng trước rất nhiều công việc, nhiệm vụ rất quan trọng, áp lực rất lớn. Trong tình hình như thế, cán bộ lãnh đạo không nên tỏ ra là mình đang gặp khó khăn, nhất thiết phải tỏ ra là mình đang lạc quan, tích cực tiến thủ, biến áp lực thành động lực, tích cực hoàn thành nhiệm vụ” [ 129, tr.265]; khẳng định đạo đức của người làm quan, tác phong làm quan, ý chí bản lĩnh của người cán bộ, năng lực của cán bộ lãnh đạo, những biểu hiện, việc làm sai trái trong quá trình công tác có ảnh hưởng rất lớn đến chế độ, đến vận mệnh của quốc gia, dân tộc, làm suy giảm lòng tin của quần chúng nhân dân với Đảng và Nhà nước Trung Quốc. Vấn đề tu dưỡng đạo đức, xây dựng tác phong đạo đức liêm chính, nâng cao tố chất bản thân và năng lực cầm quyền, phòng chống thoái hóa biến chất, đề phòng diễn biến hòa bình, giữ vững mặt trận tư tưởng, tăng cường tính kỷ luật và sự trong sạch của cán bộ lãnh đạo, phòng chống tham nhũng xây dựng Đảng Cộng sản Trung Quốc trong sạch.
  13. 13 Ban Tổ chức Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc (2022), Quản trị Đảng nghiêm minh, toàn diện thành tựu và kinh nghiệm trong công tác tổ chức và xây dựng Đảng Cộng sản Trung Quốc từ sau Đại hội XVIII10]. [ Cuốn sách là công trình nghiên cứu tổng kết toàn diện trong suốt chặng đường 5 năm (2012 - 2017) mà Đảng, Nhà nước và nhân dân Trung Quốc đã giành được trong công tác tổ chức, xây dựng Đảng nghiêm minh, toàn diện. Tổng kết toàn diện về cơ sở lý luận, thực trạng và những thành tựu, bài học kinh nghiệm. Trong đó nêu rõ: “cán bộ đảng là lực lượng trung kiên trong sự nghiệp của Đảng và Nhà nước. Đảng muốn quản trị Đảng, trước hết là phải quản lý cán bộ, quản trị Đảng nghiêm minh mấu chốt là phải quản trị cán bộ lãnh đạo nghiêm minh” [10, tr.263]. Tích cực tăng cường xây dựng đội ngũ cán bộ thích ứng với nhu cầu phát triển của Đảng và Nhà nước Trung Quốc; xây dựng tiêu chuẩn cán bộ tốt trong thời đại mới, chỉ rõ phương hướng đúng đắn cho công tác cán bộ; tăng cường bồi dưỡng giáo dục đào tạo, tuyển dụng, dùng người, kiện toàn, hoàn thiện cơ chế tuyển người, dùng người. Kiên trì đặt chữ “nghiêm” lên hàng đầu và tăng cường quản lý, giám sát cán bộ. Cuốn sách còn đề cập đến thu hút sử dụng anh tài trong thiên hạ - nhân tài, coi đó là nguồn lực chiến lược để thực hiện việc chấn hưng dân tộc, giành được thế chủ động trong cạnh tranh quốc tế, quan điểm quy tụ nhân tài, thu hút trí tuệ để thực hiện “giấc mộng vĩ đại” phục vụ cho đại cục, phát triển thúc đẩy sự kết hợp chặt chẽ giữa phát triển nhân tài và phát triển kinh tế - xã hội cải cách thể chế, cơ chế phát triển nhân tài, kích thích sự sáng tạo của nhân tài, mở rộng cánh cửa đối ngoại trong lĩnh vực nhân tài, khai thác sử dụng nhân tài trong và ngoài nước. Kiên trì nguyên tắc Đảng quản lý nhân tài, kết hợp hài hòa lực lượng trên các mặt trận để hình thành nên hợp lực lớn mạnh cùng tham gia thúc đẩy công tác nhân tài. Lý Thận Minh - Trần Chí Hoa (2024), Tính trước nguy cơ suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng [ 106]. Cuốn sách là sản phẩm xã hội hóa của đề tài “Nghiên cứu bài học lịch sử của việc Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng”. Cuốn sách đi sâu làm rõ những nguyên nhân chính
  14. 14 dẫn đến sự suy yếu trong công tác lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản Liên Xô. Những bài học kinh nghiệm vẫn còn nguyên giá trị đối với các Đảng Cộng sản nói chung và với Đảng Cộng sản Việt Nam nói riêng trên con đường đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhất là với vai trò của các nhà hoạch định chính sách, quản lý nhà nước, các nhà nghiên cứu, cán bộ lãnh đạo các cấp. Đối với đội ngũ cán bộ chính trị trong Quân đội nhân dân Việt Nam nói chung, đội ngũ chính trị viên tàu ở các lữ đoàn tàu mặt nước, Quân chủng Hải quân nói riêng, cuốn sách là tài liệu hữu ích trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, chỉ huy, quản lý đơn vị, trong tiến hành công tác tư tưởng trên tàu Hải quân. 1.1.2. Các công trình nghiên cứu về cán bộ, công tác cán bộ; đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chính trị trong lực lượng vũ trang A. A. Grê-scô (1978), Các lực lượng vũ trang của Nhà nước Xô viết [67]. Cuốn sách gồm 12 chương; chương VII: Cuốn sách đề cập đến vai trò của sĩ quan trong Quân đội, cho rằng sĩ quan trong Quân đội là nhân tố quyết định rất nhiều để giành thắng lợi, Quân đội không thể hùng mạnh mà không có một số lượng đầy đủ cán bộ chỉ huy, cán bộ chính trị, cán bộ kỹ thuật - kỹ sư, được huấn luyện, đào tạo chính quy. Những sĩ quan của Quân đội Xô Viết là những người đầy tớ trung thành của nhân dân, họ là chỗ dựa vững chắc của Đảng và Chính phủ trong Quân đội và Hạm đội, là những người đại biểu cho tinh thần giai cấp cách mạng và chiến đấu của Quân đội, và nhấn mạnh: “Trong số những tài năng đó những cán bộ chỉ huy và cán bộ chính trị - trong đó nhiều người đã trở thành chỉ huy quân sự và tướng lĩnh lớn những nhà tổ chức kiệt xuất [67, tr.296]. Đối với công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ quân sự trong Quân đội, không chỉ đào tạo ở hậu phương mà còn đào tạo ngay tại chiến trường chỉ trong một thời gian ngắn Đảng đã gửi vào Quân đội và Hạm đội những quân nhân ưu tú nhất của mình. “Ngoài các trường của quân đội và hạm đội, việc đào tạo cán bộ chỉ huy và cán bộ chính trị trung cấp được tiến hành trực tiếp tại các phương diện quân, tập đoàn quân và quân khu” [67, tr.300].
  15. 15 A.M. Ioblev (1979), Hoạt động của Đảng Cộng sản Liên Xô trong lĩnh vực đào tạo cán bộ quân đội [83]. Cuốn sách đã luận giải về vai trò của Đảng Cộng sản Liên Xô trong tổ chức, lãnh đạo, giáo dục rèn luyện Quân đội, về xây dựng đội ngũ cán bộ vững mạnh đủ khả năng về trình độ, năng lực lãnh đạo, tổ chức chỉ huy để hoàn thành mọi nhiệm vụ cách mạng. Bồi dưỡng năng lực công tác cho đội ngũ cán bộ bao gồm nhiều hình thức, biện pháp, nhiều khâu, nhiều bước, thông qua vai trò của nhiều tổ chức và lực lượng. Bồi dưỡng toàn diện nhưng trọng tâm là nâng cao về chất lượng chính trị, lòng trung thành, tinh thần chiến đấu, sẵn sàng hy sinh của Hồng quân và Hải quân Liên Xô, khẳng định: “Đảng thường xuyên chăm lo giáo dục, xây dựng, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ sĩ quan vững về tư tưởng, giỏi về quân sự và kỹ thuật” [83, tr.3]. Đây chính là một kinh nghiệm quý báu của Đảng Cộng sản Liên Xô trong cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc. Về vấn đề xây dựng, bồi dưỡng Quân đội trong thời bình, cuốn sách còn đề cập đến việc tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng năng lực công tác cho đội ngũ cán bộ sĩ quan có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng. Đây là yêu cầu không thể thiếu trong quá trình nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ Quân đội phù hợp với trình độ phát triển của khoa học kỹ thuật quân sự. E. Ph. Xu-li-mốp (1980), Sự lãnh đạo khoa học trong các lực lượng Xô- Viết [170]. Cuốn sách luận giải về phương pháp luận của vấn đề lãnh đạo, quản lý cán bộ Quân đội, hạ sĩ quan, binh sĩ trong thời bình và công tác chuẩn bị lực lượng trong tác chiến hiện đại khi có chiến tranh xảy ra. Đồng thời chỉ rõ: huấn luyện toàn diện đội ngũ sĩ quan: “Dạy cho họ hoàn thành được chức trách của mình trong hoàn cảnh chiến đấu một cách chuẩn xác, tự tin và am hiểu công việc. Binh khí kỹ thuật là vũ khí hiện đại chỉ có thể được sử dụng có kết quả trong chiến đấu dưới sự lãnh đạo của những người chỉ huy được huấn luyện tốt” [170, tr.145]; khẳng định: khoa học quân sự, khoa học nhân văn quân sự đòi hỏi đặt ra cho đội ngũ cán bộ chỉ huy, cán bộ chính trị, hậu cần, kỹ thuật. Người cán bộ phải toàn diện cả về quân sự và chính trị là
  16. 16 điểm tựa vững chắc cho cán bộ chiến sĩ trong đơn vị, vận dụng tư duy khoa học vào thực tiễn là phương châm đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện cán bộ của Đảng và Nhà nước Liên Xô. M.N. Ti-mô-phê-ê-trép (1982), Chế độ một trưởng trong các lực lượng vũ trang Xô viết [140]. Cuốn sách đã luận giải quá trình xác lập, thực hiện chế độ chính ủy và chế độ một trưởng (chế độ một người chỉ huy) trong Quân đội và Hải quân Liên Xô qua các thời kỳ cách mạng; lý giải làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn việc xác lập chế độ chính ủy, giá trị, ý nghĩa của chế độ chính ủy đối với sức mạnh chiến đấu, chiến thắng của Quân đội và Hải quân Liên Xô trong các thời kỳ cách mạng. Nêu rõ vai trò của chính ủy giai đọan 1918 - 1924: “là những người mang trong mình tinh thần đảng, là hiện thân về tính kỷ luật, tính kiên định, tinh thầm dũng cảm của đảng trong cuộc chiến đấu nhằm thực hiện các mục tiêu đã đề ra” [140, tr.13]. A. Ph. Sram-tren-cô (1983), Những vấn đề tâm lý học trong chỉ huy bộ đội [135]. Cuốn sách bàn về vấn đề lựa chọn và phân phối cán bộ, trong các tập thể quân nhân. Trong đó chú trọng đến việc tuyển chọn cán bộ, phát hiện và sử dụng những người thực sự có tài, có năng lực, phẩm chất chính trị tốt, tập hợp, phân công, giao nhiệm vụ, quan tâm giúp đỡ cán bộ trưởng thành. Đồng thời, đưa ra những nội dung, biện pháp trong bồi dưỡng, giáo dục, quản lý cán bộ trẻ, còn ít kinh nghiệm trong thực tiễn, huấn luyện, chiến đấu, tâm lý tư tưởng luôn bị tác động chi phối, dao động trong thực tiễn công tác, và nêu rõ: “tổ chức gặp gỡ những người chỉ huy có kinh nghiệm và chuyên gia giỏi về phương pháp giảng dạy, những nhà cách mạng lão thành và cựu chiến binh, trao đổi kinh nghiệm, giúp đỡ họ trong công tác, trong tổ chức đời sống và hoạt động văn hóa quần chúng” [135, tr.227]. Chương Tử Nghị (1986), Giáo trình Công tác đảng, công tác chính trị trong học viện, nhà trường Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc trong thời kỳ đổi mới [ 111]. Cuốn sách bàn về xây dựng công tác chính trị cơ sở; công
  17. 17 tác chính trị viên đại đội, về tầm quan trọng của việc thiết lập chính trị viên đại đội; công tác chủ yếu của chính trị viên, những tố chất cần có ở chính trị viên... , cho rằng: Phẩm chất, năng lực công tác của cán bộ phải toàn diện trên tất cả các lĩnh vực, cả về chính trị, quân sự, khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật, kinh nghiệm thực tiễn. Liên tục đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp, kết hợp chặt chẽ giữa đào tạo tại nhà trường với bồi dưỡng, nâng cao ở đơn vị; khuyến khích, động viên cán bộ tự nghiên cứu, học tập. Về nội dung, chú trọng nâng cao năng lực sáng tạo, năng lực rèn luyện, năng lực thực hành của cán bộ trong thực tiễn và yêu cầu cần phải: “Tăng cường bồi dưỡng, nâng cao trình độ cho cán bộ là yêu cầu bức thiết của xây dựng “bốn hoá” và “hiện đại hoá quân đội”, “Quân uỷ Trung ương cần phải đưa nhiệm vụ giáo dục huấn luyện cán bộ lên vị trí chiến lược, đảng uỷ các cấp phải coi trọng giáo dục, bồi dưỡng cán bộ” [111, tr. 336]. Bun Thăn Chăn Thạ Ly Ma (2016), Bồi dưỡng năng lực công tác của đội ngũ cán bộ các cơ quan chiến lược Tổng Cục Chính trị Quân đội nhân dân Lào hiện nay [24]. Luận án đã đưa ra quan niệm về năng lực công tác của đội ngũ cán bộ các cơ quan chiến lược Tổng Cục Chính trị QĐND Lào: Năng lực công tác của đội ngũ cán bộ các cơ quan chiến lược Tổng Cục Chính trị Quân đội nhân dân Lào là khả năng, trình độ thực tế, thể hiện ở năng lực chuyên môn, nghiệp vụ, năng lực lãnh đạo, chỉ huy quản lý và năng lực chuyên biệt của đội ngũ cán bộ các cơ quan chiến lược Tổng Cục Chính trị đáp ứng yêu cầu của các chức danh, đảm bảo cho đội ngũ này hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ được giao [24, tr. 47]. Đã phân tích cấu trúc năng lực công tác của đội ngũ cán bộ các cơ quan chiến lược Tổng Cục Chính trị QĐND Lào, gồm: Một là, năng lực chuyên môn nghiệp vụ, bao gồm năng lực CTĐ, CTCT và năng lực nghiệp vụ các ngành CTĐ, CTCT. Hai là, năng lực lãnh đạo, chỉ huy, quản lý, gắn với cương vị, chức trách, nhiệm vụ của từng chức danh cán bộ về Đảng và
  18. 18 chính quyền. Ba là, năng lực chuyên biệt, gắn với đặc thù của đội ngũ cán bộ các cơ quan chiến lược Tổng Cục Chính trị QĐND Lào, trong đó nhấn mạnh: “Năng lực nghiên cứu, quán triệt; năng lực tham mưu, đề xuất; năng lực chỉ đạo, hướng dẫn kiểm tra; năng lực phân tích, tổng hợp, dự báo tình hình; năng lực tổ chức phối hợp hiệp đồng công tác; năng lực giao tiếp, xử lý tình huống” [24, tr. 47-52]. 1.2. Các công trình khoa học ở trong nước liên quan đến đề tài luận án 1.2.1. Các công trình nghiên cứu về cán bộ, công tác cán bộ, xây dựng đội ngũ cán bộ, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị Trần Thị Anh Đào (2010), Công tác tư tưởng và vấn đề đào tạo cán bộ làm công tác tư tưởng [65]. Cuốn sách đề cập phẩm chất và năng lực của đội ngũ cán bộ làm công tác tư tưởng tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền, chỉ ra một số hạn chế trong công tác báo chí xuất bản hiện nay như: Khuynh hướng thương mại hóa, buông lỏng sự quản lý của các cơ quan chủ quản, chưa chú trọng việc giáo dục đào tạo bồi dưỡng rèn luyện đạo đức của đội ngũ nhà báo, phóng viên, biên tập viên về phẩm chất chuyên môn nghiệp vụ; đề xuất một số giải pháp để ngăn chặn đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị trong cán bộ, đảng viên, đó là: “Kết hợp việc ngăn chặn, đầy lùi có hiệu quả sự suy thoái tư tưởng chính trị trong cán bộ, đảng viên với chủ động tiến công, phê phán kịp thời các quan điểm sai trái, thù địch và bọn cơ hội chính trị” [65, tr.71]. Đồng thời, thực hiện đồng bộ, toàn diện các giải pháp giáo dục, thuyết phục, hành chính, kinh tế, tổ chức, tư tưởng; tăng cường giáo dục đạo đức lối sống cho cán bộ, đảng viên; mở rộng dân chủ đi đôi với tăng cường kỷ cương, kỷ luật trong Đảng. Cao Văn Thống - Vũ Trọng Lâm (2020), Đổi mới và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ và công tác cán bộ trong giai đoạn mới [ 159]. Cuốn sách đưa ra các khái niệm: Cán bộ, công tác cán bộ, công chức, viên chức, cán bộ cấp xã, phường; nhấn mạnh đến vai trò to lớn và đặc biệt quan trọng của công tác cán bộ đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Ngay từ khi bắt đầu công cuộc đổi mới, Đảng ta đã xác định đổi mới cán bộ lãnh đạo
  19. 19 các cấp là mắt xích quan trọng nhất mà Đảng phải nắm chắc để thúc đẩy cuộc cải cách có ý nghĩa cách mạng. Tác giả đề cập đến 5 quan điểm trong Hội nghị Trung ương VII (khóa XII) về xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, coi cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng; công tác cán bộ là khâu “then chốt” của công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị; quán triệt nguyên tắc về quan hệ giữa đường lối chính trị và đường lối cán bộ, xây dựng đội ngũ cán bộ là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, trực tiếp là của cấp ủy, tổ chức đảng mà trước hết là người đứng đầu cơ quan tham mưu cho Đảng, trong đó cơ quan tổ chức, cán bộ làm nòng cốt. Trong đánh giá thực trạng đội ngũ cán bộ hiện nay: “Nhìn chung chất lượng đội ngũ cán bộ ngày càng đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của tình hình mới. Cán bộ cấp chiến lược 100% có trình độ cử nhân và cao cấp lý luận chính trị; trình độ thạc sĩ, tiến sĩ (chiếm 65,43%)” [159, tr.177]. Ngô Thành Can (2020), Đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực thực thi công vụ cho cán bộ, công chức, viên chức [ 25]. Cuốn sách khẳng định: Đào tạo, bồi dưỡng nhằm giúp cán bộ công chức, viên chức hiểu về công việc, thực hiện thành thạo kỹ năng nghề nghiệp để thực hiện tốt chức trách, nhiệm vụ của mình với tinh thần, thái độ tích cực, đồng thời từng bước nâng cao khả năng thích ứng với môi trường, với công việc trong tương lai và có cơ hội phát triển nghề nghiệp. Đào tạo, bồi dưỡng khi được tổ chức một cách chuyên nghiệp, hiệu quả thì đó là những giải pháp có tính chiến lược nhằm phát triển tổ chức và tạo ra lợi thế cạnh tranh của tổ chức. Đồng thời tập trung bàn về cán bộ, công chức, viên chức, công vụ, năng lực thực thi công vụ; lý luận chung về đào tạo bồi dưỡng, một số những vấn đề chung về đào tạo bồi dưỡng, hiệu quả công tác đào tạo bồi dưỡng, một số yếu tố ảnh hưởng đến đào tạo bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức của nước ta. Cuốn sách chỉ rõ: “Hoạt động đào tạo, bồi dưỡng nhằm giúp cán bộ, công chức, viên chức hiểu về công việc, thực hiện thành thạo kỹ năng nghề nghiệp để thực hiện tốt chức trách, nhiệm vụ của mình, với tinh thần, thái độ tích cực” [25, tr.282]. Nguyễn Thị Hồng Hải (2020), Tuyển dụng công chức dựa trên năng lực một số vấn đề lý luận và thực tiễn [ 69]. Cuốn sách đề cập một số vấn đề lý
  20. 20 luận về năng lực, khung năng lực của cán bộ, công chức; giới thiệu kinh nghiệm tuyển dụng công chức dựa trên năng lực ở một số quốc gia trên thế giới; phân tích thực tiễn khung năng lực của công chức ở Việt Nam và đề xuất khung năng lực của công chức các cơ quan hành chính Nhà nước; thực trạng tuyển dụng công chức ở Việt Nam, cơ hội và thách thức, nội dung áp dụng khung năng lực cùng với những đề xuất, vận dụng khung năng lực vào thi tuyển công chức. Trong bối cảnh hoạt động tuyển dụng công chức ở Việt Nam đang ngày càng có nhiều đổi mới, công tác tuyển chọn đánh giá cán bộ phải trên cơ sở một hệ quy chuẩn trên một khung định mức nhất định về cán bộ, năng lực cán bộ, là cơ sở xắp xếp bố trí và sử dụng đội ngũ cán bộ công chức, viên chức ở nước ta. Nguyễn Minh Tuấn (2021), Xây dựng Đảng về tổ chức, cán bộ [ 160]. Cuốn sách bàn về công tác xây dựng Đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ của Đảng trong hệ thống chính trị Việt Nam, cho rằng: nhiều cán bộ, công chức được đào tạo, bồi dưỡng nhưng chất lượng chưa tương xứng, còn nhiều khuyết điểm, yếu kém kéo dài: “Từ năm 2006 đến nay, đã có 3.342.886 lượt cán bộ, công chức, viên chức được qua đào tạo, bồi dưỡng. Tuy nhiên, hiệu quả đào tạo bồi dưỡng chưa xứng tầm, vẫn còn không ít cán bộ tham gia học tập một cách đối phó, hình thức cốt có bằng cấp để có đủ tiêu chuẩn để xem xét bổ nhiệm, đề bạt” [160, tr.330,331]; đã chỉ rõ nguyên nhân của những yếu kém trên, đồng thời đề ra được một số giải pháp trọng tâm để đổi mới mạnh mẽ từng khâu trong công tác cán bộ. Nhất là giải pháp về quy hoạch và đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, nội dung trọng yếu của công tác cán bộ, bảo đảm cho công tác cán bộ đi vào nền nếp, chủ động, có tầm nhìn xa, đáp ứng cả nhiệm vụ trước mắt và lâu dài. Hoàng Đăng Quang (2022), Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ đủ khả năng làm việc trong môi trường quốc tế [ 115]. Cuốn sách đề cập hệ thống nội hàm các khái niệm và nội dung công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ đủ khả năng làm việc trong môi trường quốc tế. Trên cơ sở làm nổi bật yêu cầu cần phải phát triển đủ cán bộ có khả năng làm việc trong môi trường quốc tế; đã xác định một số nhóm tiêu chí đối với cán bộ đủ khả năng làm việc trong môi trường