Luận án Đảng vận động trí thức trong đấu tranh giải phóng dân tộc từ năm 1930 đến năm 1945

pdf 191 trang yendo 6870
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận án Đảng vận động trí thức trong đấu tranh giải phóng dân tộc từ năm 1930 đến năm 1945", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfluan_an_dang_van_dong_tri_thuc_trong_dau_tranh_giai_phong_da.pdf

Nội dung text: Luận án Đảng vận động trí thức trong đấu tranh giải phóng dân tộc từ năm 1930 đến năm 1945

  1. HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH ĐẶNG THỊ MINH PHƯỢNG §¶NG VËN §éNG TRÝ THøC TRONG §ÊU TRANH GI¶I PHãNG D¢N TéC Tõ N¡M 1930 §ÕN N¡M 1945 LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYÊN NGÀNH: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM HÀ NỘI - 2015
  2. HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH ĐẶNG THỊ MINH PHƯỢNG §¶NG VËN §éNG TRÝ THøC TRONG §ÊU TRANH GI¶I PHãNG D¢N TéC Tõ N¡M 1930 §ÕN N¡M 1945 LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYÊN NGÀNH: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM Mã số: 62 22 03 15 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. HỒ THỊ TỐ LƯƠNG 2. PGS.TS. TRẦN TRỌNG THƠ HÀ NỘI - 2015
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo qui định. Tác giả luận án Đặng Thị Minh Phượng
  4. MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1 Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 7 1.1. Các công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài 7 1.2. Đánh giá kết quả của các công trình nghiên cứu 21 1.3. Những vấn đề luận án tập trung giải quyết 23 Chương 2: ĐẢNG VẬN ĐỘNG TRÍ THỨC TỪ NĂM 1930 ĐẾN NĂM 1939 24 2.1. Đặc điểm cơ bản và những hoạt động của trí thức Việt Nam trước khi thành lập Đảng 24 2.2. Chủ trương và công tác vận động trí thức của Đảng từ năm 1930 đến năm 1939 39 Chương 3: ĐẢNG VẬN ĐỘNG TRÍ THỨC TỪ NĂM 1939 ĐẾN NĂM 1945 69 3.1. Đảng đặt nhiệm vụ chống đế quốc, giải phóng dân tộc lên hàng đầu 69 3.2. Đảng vận động, tập hợp trí thức vào Mặt trận dân tộc thống nhất hướng đến mục tiêu giải phóng dân tộc 77 Chương 4: NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM 114 4.1. Nhận xét 114 4.2. Một số kinh nghiệm 138 KẾT LUẬN 149 DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 152 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 153 PHỤ LỤC 169
  5. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN CNXH : Chủ nghĩa xã hội. CTVĐTT : Công tác vận động trí thức ĐNTT : Đội ngũ trí thức NXB : Nhà xuất bản SET : Section d’Excursion et de Tourisme (Đoàn Du ngoạn và Du lịch) XHCN : Xã hội chủ nghĩa
  6. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trí thức là tầng lớp quan trọng của xã hội, là lực lượng sáng tạo và truyền bá tri thức, là động lực phát triển của mọi thời đại. Thực tiễn lịch sử cho thấy, bất cứ thời đại nào, dân tộc nào biết qui tụ, tập hợp, xây dựng và trọng dụng trí thức thì thời đại ấy, dân tộc ấy hưng thịnh. Kế thừa và phát triển giá trị mà dân tộc Việt Nam đã đúc kết “hiền tài là nguyên khí quốc gia”, ngay từ khi ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam đã coi trọng và phát huy vai trò của trí thức trong đấu tranh cách mạng. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nguyễn Ái Quốc, đông đảo trí thức đã lựa chọn con đường theo Đảng làm cách mạng, cống hiến trí tuệ và tài năng cho dân tộc, góp phần vào những thắng lợi to lớn của nhân dân Việt Nam trên các chặng đường đấu tranh giành độc lập, tự do, thống nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: Trong cách mạng dân tộc dân chủ, vai trò giới trí thức đã quan trọng; trong xây dựng chủ nghĩa xã hội, vai trò giới trí thức càng quan trọng. Giai cấp công nhân nếu không có đội ngũ trí thức của mình và nếu bản thân công - nông không được nâng cao kiến thức, ( ) không thể xây dựng được chủ nghĩa xã hội [36, tr.113-114]. Trong thời kỳ đấu tranh giải phóng dân tộc, giành chính quyền về tay nhân dân, từ năm 1930 đến năm 1945, được sự tuyên truyền, vận động của Đảng, một bộ phận đông đảo trí thức yêu nước và tiến bộ đã hòa mình vào phong trào đấu tranh yêu nước và cách mạng của nhân dân, đồng hành cùng dân tộc, có nhiều đóng góp to lớn trong cuộc đấu tranh chống chế độ thuộc địa, khôi phục và phát triển phong trào cách mạng, bảo vệ Đảng, chuẩn bị lực lượng mọi mặt cho công cuộc Tổng khởi nghĩa, góp phần tạo nên thắng lợi Cách mạng Tháng Tám năm 1945, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Công tác vận động trí thức (CTVĐTT) của Đảng từ năm 1930 đến năm 1945 chứa đựng nhiều sáng tạo của
  7. 2 Đảng, tầm cao tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng và phát huy những giá trị truyền thống qúy báu của dân tộc, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa yêu nước Việt Nam; trong công tác vận động, tập hợp mọi tầng lớp nhân dân tham gia phong trào cách mạng do Đảng lãnh đạo. Tuy nhiên, bên cạnh những thành công đạt được, trong thời kỳ 1930 - 1945, công tác vận động, tập hợp trí thức của một số cấp bộ Đảng cũng bộc lộ một số sai lầm, hạn chế, nhất là những quan điểm tả khuynh, giáo điều trong đánh giá trí thức. Hiện thực lịch sử vận động trí thức thời kỳ 1930 - 1945 rất phong phú và sinh động, đã thu hút nhiều nhà khoa học quan tâm, nghiên cứu, song, đến nay vẫn còn nhiều vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu và làm sáng rõ, nhất là quá trình Đảng vận động trí thức hướng đến mục tiêu đấu tranh giành chính quyền cần phải được nghiên cứu toàn diện và thấu đáo. Việc nhìn nhận, đánh giá một số phong trào yêu nước của trí thức, sự đóng góp của trí thức vào công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc cũng cần được nghiên cứu, luận giải để đánh giá xác đáng, tương xứng với những đóng góp của trí thức đối với cách mạng và dân tộc Việt Nam. Trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và mở cửa, hội nhập quốc tế hiện nay, Đảng Cộng sản Việt Nam càng coi trọng và đánh giá cao những đóng góp của đội ngũ trí thức (ĐNTT) đối với dân tộc; đề ra nhiều chủ trương, giải pháp để phát huy tốt hơn vai trò của ĐNTT. CTVĐTT của Đảng được coi là một cơ sở quan trọng để phát triển nền khoa học - công nghệ, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa (XHCN); là một nhân tố quan trọng, bảo đảm sự vững mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc phục vụ công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước trong bối cảnh nhân loại đang tiến những bước dài vào thời đại của văn minh trí tuệ và nền kinh tế tri thức. Hội nghị lần thứ Bảy Ban Chấp hành Trung ương khoá X đã nhấn mạnh phải xây dựng cơ chế, chính sách mới nhằm phát huy có hiệu quả tiềm năng của ĐNTT; xây dựng chiến lược phát triển ĐNTT đến năm 2020. Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc
  8. 3 lần thứ XI của Đảng khẳng định: “Xây dựng đội ngũ trí thức lớn mạnh, có chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước ( ). Gắn bó mật thiết giữa Đảng và Nhà nước với trí thức, giữa trí thức với Đảng và Nhà nước” [45, tr.241-242]. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, ĐNTT Việt Nam không ngừng lớn mạnh và có những đóng góp quan trọng vào sự nghiệp đổi mới. Bên cạnh đó, thực tiễn công tác xây dựng và phát huy vai trò của ĐNTT cũng đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết, như vấn đề đánh giá, sử dụng, phát huy tiềm lực của ĐNTT, vấn đề tạo dựng môi trường tự do sáng tạo của ĐNTT, vấn đề ứng xử và cách thức qui tụ ĐNTT trong điều kiện mới để khai thác mạnh mẽ tiềm năng trí tuệ, một nguồn nội lực dân tộc lớn lao phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc v.v Để thực hiện được các chính sách đó, bên cạnh việc nghiên cứu, phát triển lý luận, tiếp thu kinh nghiệm quốc tế, rất cần nghiên cứu, đúc kết và vận dụng những kinh nghiệm vận động trí thức trong lịch sử đấu tranh cách mạng của nhân dân Việt Nam, trong đó có những kinh nghiệm về CTVĐTT của Đảng thời kỳ 1930 - 1945. Xuất phát từ nhận thức trên, nghiên cứu sinh chọn đề tài: “Đảng vận động trí thức trong đấu tranh giải phóng dân tộc từ năm 1930 đến năm 1945” làm luận án tiến sĩ lịch sử, chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích Nghiên cứu đề tài: “Đảng vận động trí thức trong đấu tranh giải phóng dân tộc từ năm 1930 đến năm 1945” làm sáng tỏ sự lãnh đạo của Đảng trong vận động trí thức thời kỳ 1930 - 1945, từ đó, đúc kết một số kinh nghiệm về CTVĐTT. 2.2. Nhiệm vụ - Nghiên cứu một cách có hệ thống quan điểm, chủ trương của Đảng và Nguyễn Ái Quốc về trí thức và CTVĐTT ở Việt Nam thời kỳ 1930 - 1945. - Luận giải quá trình các cấp bộ Đảng lãnh đạo thực hiện CTVĐTT, sự ra đời và hoạt động của các tổ chức trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng thời kỳ 1930 - 1945. - Đánh giá một cách khoa học, khách quan vị trí, vai trò và những đóng góp của trí thức trong quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc thời kỳ 1930 - 1945.
  9. 4 - Khẳng định những thành công, phân tích hạn chế của Đảng trong vận động trí thức thời kỳ 1930 - 1945. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận án là CTVĐTT của Đảng trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc thời kỳ 1930 - 1945. Đó là những quan điểm, chủ trương, chính sách trí vận của Đảng, Nguyễn Ái Quốc; những hoạt động lãnh đạo của các cấp bộ Đảng về vận động, tập hợp trí thức; những tổ chức, phong trào, hoạt động và đóng góp của trí thức từ năm 1930 đến năm 1945. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi thời gian, luận án giới hạn trong phạm vi 15 năm, từ đầu năm 1930 đến tháng 8 năm 1945. Tuy nhiên, để trình bày nội dung chính được lôgíc và khoa học, đề tài mở rộng thêm thời gian trước năm 1930, nhằm nêu bật những đóng góp to lớn của những trí thức yêu nước đối với sự ra đời của Đảng. Phạm vi không gian, luận án nghiên cứu CTVĐTT trên phạm vi cả nước, trong đó, trọng tâm là những thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phòng, Huế, Đà Nẵng, Sài Gòn - Chợ Lớn - là những nơi tập trung đông đảo lực lượng trí thức; trong một số trường hợp có đề cập đến hoạt động của trí thức khi họ hoạt động ở nước ngoài. Phạm vi nội dung, luận án tập trung nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển nhận thức của Đảng về CTVĐTT; các khuynh hướng tư tưởng của trí thức và các nhóm trí thức; sự chuyển biến về tư tưởng của trí thức và những đóng góp của trí thức vào tiến trình cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng thời kỳ 1930 - 1945. 4. Cơ sở lý luận, nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu 4.1. Cơ sở lý luận Luận án dựa trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác vận động quần chúng, về CTVĐTT và xây dựng trí thức phục vụ nhiệm vụ cách mạng.
  10. 5 4.2. Nguồn tài liệu Nguồn tài liệu chủ yếu sử dụng cho luận án gồm: Các văn bản, nghị quyết, chỉ thị, báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã được công bố trong Văn kiện Đảng Toàn tập, của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được công bố trong Hồ Chí Minh toàn tập; đồng thời, khai thác tài liệu của các cấp bộ Đảng, nhất là của các Xứ uỷ. Đây chính là nguồn tư liệu gốc để thực hiện nội dung luận án. Các tác phẩm hồi ký của các cán bộ cách mạng lão thành, lịch sử Đảng địa phương, lịch sử chiến tranh nhân dân, địa chí văn hóa của các tỉnh, thành. Các đề tài, luận án, luận văn, các công trình nghiên cứu khoa học về lịch sử đã được công bố, các bài viết đăng trên các báo, tạp chí chuyên ngành. Các bài tham luận được in, đăng trong các kỷ yếu hội thảo khoa học hiện đang được lưu giữ trong các thư viện của các tỉnh, thành địa phương và Trung ương. Một số bài viết có liên quan trên các trang web trên mạng internet. 4.3. Phương pháp nghiên cứu Luận án sử dụng hai phương pháp nghiên cứu chính là: phương pháp lịch sử và logic. Ngoài ra, luận án còn sử dụng các phương pháp khác như: thống kê, so sánh; chú trọng áp dụng các phương pháp phê phán sử liệu và phương pháp nghiên cứu đặc thù của khoa học Lịch sử Đảng là lấy các văn bản nghị quyết, chỉ thị gốc của Đảng làm cơ sở đối chiếu với sự kiện, nhân vật lịch sử trong thực tiễn để phân tích, đánh giá, qua đó tái hiện quá trình lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện CTVĐTT của Đảng thời kỳ 1930 - 1945. 5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án Về khoa học: Làm sáng tỏ công tác trí vận của Đảng thời kỳ 1930 - 1945, những quan điểm của Đảng, của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh trong việc hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách về công tác trí vận. Đánh giá vai trò của công tác trí vận và những đóng góp của trí thức đối với sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc thời kỳ 1930 - 1945.
  11. 6 Về thực tiễn: Hệ thống hóa quan điểm của Đảng về trí thức và CTVĐTT thời kỳ 1930 - 1945, góp phần xóa dần những “khoảng trống” trong lịch sử Đảng. Cung cấp thêm những luận cứ khoa học, tư liệu, tài liệu trong việc vận động trí thức tham gia vào công cuộc giải phóng dân tộc. Góp phần vào việc nghiên cứu, giảng dạy và tuyên truyền Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam thêm toàn diện và sâu sắc, góp phần vào công tác giáo dục truyền thống cách mạng cho ĐNTT, nhất là ĐNTT trẻ; động viên họ cống hiến tài năng và trí tuệ cho đất nước trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay. 6. Bố cục của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục công trình khoa học của tác giả có liên quan đến luận án, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án gồm 4 chương, 9 tiết.
  12. 7 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 1.1. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI Nghiên cứu về trí thức Việt Nam nói chung, về công tác vận động, tập hợp trí thức của Đảng qua các thời kỳ cách mạng, trong đó có thời kỳ 1930 - 1945 nói riêng, đã được đề cập trong nhiều tác phẩm, nhiều công trình nghiên cứu khoa học, xã hội dưới dạng chuyên khảo, các công trình, các luận án, luận văn. Có thể phân chia thành các nhóm sau đây: 1.1.1. Những công trình nghiên cứu về lịch sử Đảng có đề cập đến trí thức và công tác vận động trí thức của Đảng thời kỳ 1930 - 1945 Ngay từ thập niên 30 thế kỷ XX, trong các dịp kỷ niệm thành lập Đảng hàng năm, những nhà lãnh đạo, lý luận của Đảng đã công bố nhiều bài viết trên báo chí của Quốc tế Cộng sản và của Đảng Cộng sản Đông Dương v.v phản ánh về lịch sử và truyền thống đấu tranh của Đảng, trong đó có đề cập đến công tác vận động quần chúng nói chung và CTVĐTT của Đảng nói riêng. Đáng chú ý nhất là tác phẩm Sơ thảo Lịch sử phong trào cộng sản ở Đông Dương của tác giả Hồng Thế Công (tức Hà Huy Tập) thực hiện năm 1933 [40, tr. 399 - 425]. Tác phẩm này hàm chứa nhiều vấn đề lịch sử về sự ra đời của Đảng, trong đó có đề cập đến trí thức cũng như một số quan điểm nhìn nhận của Đảng đối với trí thức. Tuy nhiên, tác phẩm chỉ đề cập một cách sơ lược về trí thức với tư cách là một cơ sở xã hội cho sự hình thành các tổ chức chính trị ở Việt Nam; giới hạn nghiên cứu cũng dừng lại ở những năm đầu của thập kỷ 30 thế kỷ XX. Từ năm 1960, thực hiện chủ trương tăng cường công tác tổng kết kinh nghiệm và viết lịch sử Đảng được đề ra tại Đại hội Đảng lần thứ III (9/1960), nhiều công trình nghiên cứu về lịch sử Đảng được tiến hành. Những công trình nghiên cứu của Ban nghiên cứu Lịch sử Đảng Trung ương (nay là Viện Lịch sử Đảng), đặc biệt là tác phẩm Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam (sơ thảo), tập I
  13. 8 (1920 - 1954) [9] khi đề cập đến sự lãnh đạo của Đảng qua các giai đoạn lịch sử đã nêu lên chủ trương chỉ đạo của Đảng về công tác quần chúng, trong đó có CTVĐTT. Một số giáo trình về lịch sử Đảng của Trường Chuyên khoa Lịch sử Đảng trước đây, của Trường Đảng Nguyễn Ái Quốc (nay là Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh), của Viện Lịch sử Đảng, của Bộ Giáo dục và Đào tạo khi biên soạn về thời kỳ 1930 - 1945 cũng phản ánh một cách khái lược về CTVĐTT của Đảng. Từ tháng 9/1962, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Thông tư số 97 về việc thành lập Ban nghiên cứu Lịch sử Đảng các khu, tỉnh, thành phố. Đến nay, hầu hết các tỉnh, thành phố trong cả nước đã hoàn thành việc nghiên cứu, biên soạn và xuất bản lịch sử Đảng bộ cấp tỉnh, thành phố. Có thể kể đến các công trình tiêu biểu sau: Tác phẩm Lịch sử Đảng bộ Thừa Thiên Huế, tập 1 (1930 - 1945) [3] là công trình khảo cứu qui mô, toàn diện về lịch sử của Đảng bộ Thừa Thiên Huế từ năm 1930 đến năm 1945. Trong khi khắc họa bức tranh toàn cảnh về những ngày lịch sử sôi động chuẩn bị cho Tổng khởi nghĩa giành chính quyền năm 1945 ở Huế, tác phẩm đã đề cập đến sự ra đời của Trường Thanh niên Tiền Tuyến, quá trình “Việt Minh hóa” những thanh niên, trí thức của Trường như: Nguyễn Tấn, Nguyễn Kèn, Lê Khánh Khang v.v khi họ được bổ sung vào Ban Chấp hành Việt Minh Nguyễn Tri Phương và những đóng góp của các học viên Trường Thanh niên Tiền Tuyến ở Huế trước và sau ngày khởi nghĩa giành chính quyền thành công ở Huế (ngày 23/8/1945). Cuốn Lịch sử Đảng bộ Thành phố Hà Nội (1930 - 2000) [135] với dung lượng hơn 900 trang được chia làm 3 phần, gồm 6 chương, công trình miêu tả, phân tích, đánh giá những đóng góp của những trí thức trong chi bộ cộng sản đầu tiên (tháng 3/1929), hoạt động của Tổng Hội Sinh viên Đông Dương dưới sự lãnh đạo của Xứ ủy Bắc Kỳ. Một bức tranh khá toàn diện về hoạt động của những nhân sĩ, trí thức như Phan Thanh, Võ Nguyên Giáp, Nghiêm Xuân Yêm,
  14. 9 Nguyễn Xiển, Vũ Đình Hoè, Bùi Kỷ v.v dưới sự vận động, lãnh đạo của Đảng trên nhiều lĩnh vực cũng được khắc họa sinh động. Tác phẩm Lịch sử Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh (1930 - 1975) của Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh [4] là một trong những công trình khoa học công phu, quy mô, với 4 phần chính. Từ thực tiễn sinh động, phong phú của cuộc đấu tranh cách mạng ở Nam Kỳ nói chung và Sài Gòn - Chợ Lớn nói riêng, trong phần thứ nhất với tiêu đề: “Đảng bộ Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định ra đời và lãnh đạo cuộc Cách mạng Tháng Tám thành công tại Thành phố (1930 - 1945)”, đã làm rõ những đóng góp của phong trào thanh niên, sinh viên, trí thức Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định, đặc biệt là vai trò của Thanh niên Tiền Phong trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Ngoài ra, có thể kể đến các công trình khác như: Luận án Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo xây dựng đội ngũ trí thức từ năm 1991 đến năm 2005 của Nguyễn Thắng Lợi [109] , luận án Đảng bộ Thành phố Hà Nội lãnh đạo xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức từ năm 1997 đến năm 2007 của Lương Quang Hiển [57] v.v Những luận án trên đã đề cập, phân tích một số quan điểm của Đảng về trí thức và chủ trương vận động trí thức của Đảng thời kỳ 1930 - 1945. Những công trình nghiên cứu nêu trên khi đề cập đến quá trình ra đời và lãnh đạo cách mạng của các Đảng bộ tỉnh, thành phố, đã đề cập đến công tác vận động, tập hợp quần chúng, trong đó có CTVĐTT tại địa phương thời kỳ 1930 - 1945. Tuy nhiên, do việc giới hạn nghiên cứu về không gian, nên việc nghiên cứu về trí thức rất tản mạn và thiếu tính hệ thống. Nhìn chung, những công trình trên mới dừng lại ở việc nêu chủ trương chỉ đạo của Đảng, những kinh nghiệm chung về công tác vận động quần chúng, trong đó có CTVĐTT thời kỳ 1930 - 1945, quá trình vận động, tranh thủ và tập hợp trí thức cũng như sự hình thành những tổ chức của trí thức đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, đặc biệt là những chuyển biến về tư tưởng chính trị của một số tổ chức trí thức do quá trình vận
  15. 10 động, tuyên truyền của Đảng cũng như vai trò, đóng góp của trí thức đối với phong trào cách mạng giải phóng dân tộc chưa được tìm hiểu thấu đáo và chưa có những đánh giá xác đáng. 1.1.2. Những công trình nghiên cứu về lịch sử dân tộc, về các danh nhân văn hóa có đề cập đến trí thức và công tác vận động trí thức của Đảng thời kỳ 1930 - 1945 Vai trò hết sức quan trọng của trí thức đã được khẳng định trong tiến trình lịch sử của dân tộc, đặc biệt trong lịch sử hiện đại, khi trí thức Việt Nam chính là một lực lượng không thể thiếu trong liên minh công - nông - trí, một liên minh hùng mạnh dưới sự lãnh đạo của Đảng đã làm nên những chiến công vang dội trong lịch sử dựng nước và giữ nước. Nếu chỉ tính riêng từ năm 1975 đến nay, liên quan đến CTVĐTT của Đảng trong thời kỳ 1930 - 1945, bên cạnh những công trình nghiên cứu lịch sử Đảng, đã có nhiều công trình nghiên cứu về lịch sử, văn hóa dân tộc đã được công bố. Tác phẩm Thanh niên Tiền phong và các phong trào học sinh, sinh viên, trí thức Sài Gòn 1939 - 1945 của Huỳnh Văn Tiểng, Bùi Đức Tịnh [164] làm rõ hoạt động sôi nổi của phong trào học sinh, sinh viên, trí thức thời kỳ 1930 - 1945 qua hai cuộc đấu tranh năm 1937, 1939 tại trường Petrus Ký, phong trào Câu lạc bộ học sinh, trại hè Suối Lồ Ô, Section d’Excursion et de Tourisme (Đoàn Du ngoạn và Du lịch) (S.E.T). Bên cạnh đó, tác phẩm còn là tài liệu quý khi khắc họa toàn bộ quá trình ra đời, hệ thống tổ chức, hoạt động của tổ chức Thanh niên Tiền Phong. Đây là một sự sáng tạo của Xứ ủy Nam Kỳ nhằm tập hợp, qui tụ những trí thức lớn tại Nam Kỳ vào trong một tổ chức dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng, là lực lượng quan trọng trong cuộc đấu tranh giành chính quyền tại Nam Bộ trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Cuốn sách Một số vấn đề về trí thức Việt Nam của Nguyễn Thanh Tuấn [169] cung cấp cho người đọc một bức tranh toàn cảnh về người trí thức Việt Nam qua các chặng đường lịch sử, chỉ ra đặc điểm cũng như xu hướng phát triển
  16. 11 của trí thức Việt Nam, vai trò của trí thức đối với sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng CNXH. Trong tác phẩm, tác giả khẳng định: trong cuộc đấu tranh giành độc lập cho dân tộc thời kỳ 1930 - 1945, Đảng đã vận động, tập hợp, đoàn kết trí thức từ cuộc vận động chống lại những quan niệm “tiểu nông đố kỵ” đối với trí thức theo kiểu “trí, phú, địa, hào, đào tận gốc, trốc tận rễ” cho đến cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và duy tâm, giữa quan điểm “nghệ thuật vị nghệ thuật” và “nghệ thuật vị nhân sinh” và định hướng con đường đấu tranh đúng đắn cho trí thức, văn nghệ sỹ khi ban hành Đề cương văn hóa Việt Nam và tổ chức trí thức thành một lực lượng chính trị rộng rãi bên cạnh Đảng trong Đảng Dân chủ Việt Nam. Với dung lượng gần 700 trang, năm 2000, tác giả William J. Duiker trong tác phẩm nổi tiếng Ho Chi Minh - a Life (Hồ Chí Minh - một cuộc đời) [209], đã mô tả chi tiết về tiểu sử, cuộc đời và hoạt động của Nguyễn Ái Quốc - Chủ tịch Hồ Chí Minh, quá trình Nguyễn Ái Quốc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam, những nhận định, đánh giá về trí thức của Nguyễn Ái Quốc cũng được tái hiện và luận giải khá kỹ. Tác phẩm Lịch sử cuộc vận động vì các quyền dân sinh, dân chủ ở Việt Nam (1936 - 1939) của Phạm Hồng Tung [182] đã làm sáng tỏ sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng Cộng sản Đông Dương sau những chuyển biến mới của thời cuộc trong nước và quốc tế từ tháng 7/1936. Đứng trước nguy cơ của chiến tranh thế giới do chủ nghĩa phát xít ráo riết chuẩn bị, theo chỉ thị của Quốc tế Cộng sản, Đảng đã khắc phục dần những hạn chế của đường lối tả khuynh, biệt phái từ sau tháng 10/1930 trong công tác chỉ đạo chiến lược cách mạng nói chung và công tác vận động quần chúng (trong đó có CTVĐTT) nói riêng; chủ trương liên hiệp với tất cả các giai cấp, tầng lớp, tổ chức các hình thức đấu tranh của quần chúng, hướng các cuộc đấu tranh vào việc đòi các quyền dân sinh, dân chủ thiết yếu, ngăn ngừa chiến tranh, bảo vệ hòa bình. Tác phẩm đã cung cấp khối kiến thức rất đa dạng về hoạt động của lực lượng trí thức dưới sự lãnh đạo
  17. 12 trực tiếp của Đảng Cộng sản Đông Dương trong phong trào Đông Dương Đại hội, cuộc vận động dân chủ trên địa hạt báo chí công khai và phong trào Đại hội báo giới, cuộc vận động tranh cử vào hội đồng quản hạt Nam Kỳ, cuộc đấu tranh vì các quyền dân sinh, dân chủ của quần chúng. Tác phẩm Nội các Trần Trọng Kim - Bản chất, vai trò và vị trí lịch sử của Phạm Hồng Tung [184] đề cập đến sự ra đời, hoạt động, tổ chức của hai tổ chức hoạt động công khai là Thanh niên Tiền Phong ở Sài Gòn và Trường Thanh niên Tiền Tuyến ở Huế. Hai tổ chức này gắn liền với tên tuổi của những trí thức đã đứng trong hàng ngũ của Đảng như Phạm Ngọc Thạch, hoặc được “Việt Minh hóa”, trở thành những cán bộ cấp cao của Đảng trong bộ máy chính quyền nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sau Cách mạng Tháng Tám như: Luật sư Phan Anh, Giáo sư Tạ Quang Bửu v.v Cuốn sách của Trịnh Nhu, Trần Trọng Thơ với nhan đề Cách mạng Tháng Tám 1945 thắng lợi vĩ đại đầu tiên của cách mạng Việt Nam [130] khắc họa những nét cơ bản hoạt động của phong trào học sinh, sinh viên trong Tổng Hội Sinh viên Đông Dương gắn liền với tên tuổi của Dương Đức Hiền, Lưu Hữu Phước, Huỳnh Văn Tiểng, Mai Văn Bộ, v.v Bên cạnh đó, tác phẩm còn dành một dung lượng lớn về quá trình “Việt Minh hóa” của những trí thức trong Trường Thanh niên Tiền tuyến, sự lãnh đạo của Xứ ủy Nam Kỳ (Tiền Phong) đối với tổ chức Thanh niên Tiền Phong, đánh giá những đóng góp to lớn của trí thức Việt Nam trong Cách mạng Tháng Tám và trong việc thành lập chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Luận án Các cuộc vận động dân chủ trong quá trình phi thực dân hóa ở Việt Nam, giai đoạn 1904 - 1945 của Nguyễn Thị Thanh Thủy [163] đi sâu tìm hiểu, nghiên cứu các cuộc vận động dân chủ ở Việt Nam trong quá trình phi thực dân hóa. Tuy nhiên, bên cạnh việc phân tích, lí giải, đặt các cuộc vận động dân chủ trong phạm vi rộng lớn là cuộc vận động giải phóng dân tộc, giải phóng con người, giải phóng xã hội, tác giả đã phân tích khá cặn kẽ quan điểm, chủ trương
  18. 13 của Đảng trong việc vận động, tập hợp lực lượng của toàn dân tộc, trong đó có trí thức vào sự nghiệp giải phóng dân tộc. Tác giả cũng khắc họa một bức tranh sinh động về hoạt động của trí thức Việt Nam trên tất cả các lĩnh vực như văn hóa văn nghệ, báo chí, đấu tranh nghị trường từ năm 1930 đến năm 1939 đến sự ra đời, hoạt động của các tổ chức trí thức trong giai đoạn 1939 - 1945 dưới sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của Đảng trong Mặt trận Việt Minh như: phong trào học sinh sinh viên trong Tổng Hội Sinh viên Đông Dương, Đảng Dân chủ Việt Nam, Thanh niên Tiền tuyến, Thanh niên Tiền Phong. Tác giả Phạm Thị Huệ trong tác phẩm Phong trào dân tộc dân chủ ở Nam Kỳ 1930 - 1945, nghiên cứu qua tài liệu lưu trữ [69] đã phân tích hoạt động sôi nổi của những trí thức hoạt động trên địa bàn Nam Kỳ từ khi Đảng ra đời (1930) đến khi giành thắng lợi trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc (1945) như Nguyễn Văn Tạo, Nguyễn An Ninh, Dương Bạch Mai, Nguyễn Văn Nguyễn, Trần Huy Liệu, Nguyễn Thị Minh Khai, Lý Chính Thắng, Phạm Ngọc Thạch v.v Những trí thức trên đã đấu tranh không mệt mỏi cho phong trào dân tộc dân chủ ở Nam Kỳ trên các lĩnh vực từ đấu tranh nghị trường, báo chí công khai, văn học nghệ thuật, đấu tranh cách mạng v.v Tác phẩm còn làm sáng tỏ công tác vận động quần chúng, trong đó có CTVĐTT của Đảng thông qua những cuộc đấu tranh đầu tiên ở Nam Kỳ khi Đảng vừa mới thành lập cho đến các cuộc đấu tranh để khôi phục, củng cố tố chức và lực lượng cách mạng trong thời kỳ 1930 - 1945. Sự ra đời, hoạt động của phong trào học sinh, sinh viên trong nhóm Hoàng - Mai - Lưu; phong trào truyền bá chữ Quốc ngữ của những trí thức có tên tuổi như Đặng Minh Trứ, Lê Văn Huấn, Trần Văn Nguyên, Huỳnh Tấn Phát; tổ chức Thanh niên Tiền Phong cũng được khắc họa rõ nét trong tác phẩm. Ngoài các tác phẩm trên, có thể thể kể tên các công trình, như: Nghệ thuật vị nghệ thuật hay nghệ thuật vị nhân sinh? của Nguyễn Ngọc Thiện [158]; Lịch sử nhà tù Côn Đảo (1862 - 1975) của Nguyễn Đình Thống, Nguyễn Linh và Hồ Sỹ Hành [159], Luận án Tiến sĩ Lịch sử Phong trào yêu nước của
  19. 14 giáo chức và học sinh, sinh viên Hà Nội từ năm 1888 đến năm 1945 của Lê Thị Thu Hương [74] v.v Ngoài các công trình trên, những bài viết nghiên cứu về các chiến sĩ cộng sản, những trí thức tên tuổi trong các hồi ký đã được xuất bản cũng là nguồn tư liệu phong phú về CTVĐTT của Đảng trong thời kỳ 1930 - 1945. Tiêu biểu là các tác phẩm: Hồi ký Đào Duy Anh (Nhớ nghĩ chiều hôm) của Đào Duy Anh [1]. Tác giả đã dành trọn mục XV để bàn về vị trí, vai trò, trách nhiệm của trí thức Việt Nam đối với dân tộc và cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc do Đảng lãnh đạo. Trên cơ sở phân kỳ lịch sử hình thành, phát triển của trí thức thành hai thời kỳ lớn: thời kỳ phong kiến và thời kỳ hiện đại, tác giả đã lí giải một cách thấu đáo nhiều vấn đề liên quan đến trí thức Việt Nam từ thời Trần đến những năm sau Cách mạng Tháng Tám. Trong tác phẩm, tác giả có những nhận định hết sức sâu sắc về trí thức Việt Nam: trí thức Việt Nam có nguồn nước mạch ngầm chảy bất tận không bao giờ tắt đó chính là ý thức dân tộc, là thái độ, tình cảm, là ý chí tranh đấu, là tinh thần hăng hái đi theo cách mạng và kháng chiến dưới sự lãnh đạo của Đảng để hướng đến độc lập cho Tổ quốc và sự tự do cho những người cần lao trong xã hội. Hồi ký Thanh Nghị tập 1, quyển 1: Báo Thanh nghị và nhóm Thanh Nghị của Vũ Đình Hòe [64] đã khắc họa một bức tranh toàn cảnh về quá trình ra đời, tổ chức, hoạt động của nhóm Thanh Nghị và báo Thanh Nghị gắn liền với tên tuổi của những trí thức Vũ Đình Hòe, Phan Anh, Vũ Văn Hiền, Hoàng Thúc Tấn, Lê Huy Vân. Đặc biệt, tập Hồi ký này liên tục được tái bản nhiều lần vào các năm 1977, 2000, 2004 và có những bổ sung quan trọng. Trong hồi ký, một số bài viết của các tác giả nước ngoài như P. Brocheux, Stein Tonnesson nhận định, đánh giá về những gương mặt trí thức Việt Nam và đóng góp của họ đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc cũng được sưu tầm đưa vào tác phẩm. Ngoài ra, còn phải kể đến các hồi ký như: Trường Chinh một nhân cách lớn, một nhà lãnh đạo kiệt xuất của cách mạng Việt Nam [23], Hồi ký Trần Huy
  20. 15 Liệu của Viện Sử học do Phạm Như Thơm sưu tầm, chỉnh lí [198], Hồi ký Trần Văn Giàu 1940 - 1945 của Trần Văn Giàu [52] v.v Những công trình trên đây đề cập đến những gương mặt trí thức cụ thể, những hoạt động, tổ chức của trí thức có vai trò quan trọng trong tiến trình đấu tranh giải phóng dân tộc thời kỳ 1930 - 1945 và CTVĐTT của Đảng trong thời gian này. Trên các tạp chí khoa học và lý luận như: Tạp chí Lịch sử Đảng, Tạp chí Lý luận chính trị, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử v.v xuất hiện nhiều bài nghiên cứu về trí thức Việt Nam, những bài viết có nội dung liên quan đề cập trực tiếp đến tư tưởng Hồ Chí Minh về trí thức, đề cập đến CTVĐTT của Đảng thời kỳ 1930 -1945 của nhiều tác giả, tiêu biểu như: Mấy vấn đề về trí thức trong tư tưởng Hồ Chí Minh của Nguyễn Khánh Bật [15], Bài học từ quan điểm của Hồ Chí Minh về trí thức của Phan Thanh Khôi [92] , Trí thức Việt Nam với sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc của Nguyễn Văn Khánh [80], v.v Tuy nhiên, trong khuôn khổ hạn hẹp của một bài tạp chí, các bài viết chủ yếu nghiên cứu một số khía cạnh thuộc về quan điểm của Đảng, tư tưởng Hồ Chí Minh về trí thức, một số hoạt động của trí thức trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và trong Cách mạng Tháng Tám 1945. 1.1.3. Những công trình nghiên cứu lịch sử về trí thức có đề cập đến trí thức và công tác vận động trí thức của Đảng thời kỳ 1930 - 1945 Trong thời gian gần đây, xuất hiện nhiều công trình nghiên cứu lịch sử ở cả trong và ngoài nước về trí thức, tập trung nghiên cứu quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về trí thức, vai trò của trí thức trong lịch sử Việt Nam, các tổ chức trí thức, các nhân vật trí thức v.v trong đó có đề cập đến những quan điểm, đến CTVĐTT của Đảng trong thời kỳ 1930 - 1945. Có thể kể đến một số công trình sau: Trong tác phẩm The Rise of Nationalism in Vietnam 1900 - 1941(Sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc ở Việt Nam 1900 - 1941), tác giả William J. Duiker [208] trong khi đề cập đến những trí thức Pháp tham gia giảng dạy tại các trường
  21. 16 Pháp - Việt đã đề cập đến hoạt động của trí thức, học sinh, sinh viên trong tổ chức Hội truyền bá Quốc ngữ để dạy chữ Quốc ngữ cho nhân dân Việt Nam, qua đó dùng chữ Quốc ngữ để đưa văn hóa Việt Nam ra ngoài biên giới đến với người nước ngoài. Các công trình nghiên cứu lịch sử của các tác giả như: Yves Gra, L’histoire de la Guerre d’Indochine (Lịch sử cuộc chiến tranh Đông Dương) [213]; Stein Tonesson, The Vietnamese revolution of 1945: Roosevelt, Ho Chi Minh and de Gaulle in a World at War (Cách mạng Việt Nam năm 1945: Rudơven, Hồ Chí Minh và Đờ Gôn trong một thế giới chiến tranh) [212]; Daniel Hémery, Saigon 1925-1945 (Sài Gòn 1925 - 1945) [207]; v.v Khi viết về "cuộc chiến tranh Đông Dương”, nghiên cứu về phong trào cách mạng ở Việt Nam, những nhà cách mạng Việt Nam, Đảng Cộng sản Đông Dương v.v có đề cập và đưa ra những quan điểm nhìn nhận, đánh giá về CTVĐTT của Đảng thời kỳ 1930 - 1945, về Mặt trận Việt Minh, về Xứ ủy Giải phóng và Xứ ủy Tiền Phong trong những năm 1943 - 1945. Nhìn chung, các tác phẩm của các nhà nghiên cứu trên đều đánh giá cao vai trò của Đảng Cộng sản Đông Dương trong việc đoàn kết toàn dân, vận động đông đảo quần chúng nhân dân, học sinh, sinh viên, trí thức tham gia vào các tổ chức như: Hội truyền bá Quốc ngữ, Mặt trận Việt Minh, Thanh niên Tiền Phong v.v để giải phóng dân tộc. Tuy nhiên, do lập trường, quan điểm, phương pháp nghiên cứu khác nhau nên cũng có một số quan điểm còn bất đồng chưa phù hợp, đúng với thực tiễn lịch sử Việt Nam, cần tiếp tục tranh luận. Nhà nghiên cứu Stein Tonesson nhận định, các tổ chức Đảng tồn tại ở Nam Kỳ trong giai đoạn 1943 - 1945 gồm nhóm “Giải Phóng” và nhóm “Tiền Phong” là “địch thủ” của nhau [212, tr.414]. Yves Gras lại đồng nhất Đảng Cộng sản Đông Dương với Mặt trận Việt Minh, cho rằng tổ chức Mặt trận Việt Minh cũng là tổ chức Đảng. Trong nghiên cứu khoa học nói chung và nghiên cứu lịch sử nói riêng thì việc bất đồng ý kiến, tranh luận, trao đổi là điều rất bình thường và lành mạnh. Những nhận
  22. 17 định như trên đã được trao đổi và cần tiếp tục được trao đổi, thảo luận. Trong giới sử gia phương Tây khi nghiên cứu về lịch sử Việt Nam cận, hiện đại không thể không kể đến những nghiên cứu của David G.Marr, với những tác phẩm như: Vietnam 1945: the Quest for Power (Việt Nam 1945: Cuộc giành quyền lực) [211], Vietnamese Tradition on Trial, 1920 - 1945 (Truyền thống Việt Nam trong thử thách 1920 - 1945) [210]. Trong tác phẩm Vietnamese Tradition on Trial, 1920 - 1945, David G.Marr đã dành hơn 30 trang để đề cập đến vai trò của các sĩ phu và trí thức Việt Nam trong cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp, tìm đường giải phóng dân tộc. Trong tác phẩm này, D.Marr cho rằng ở Việt Nam đã hình thành nên một bộ phận trí thức mới (trí thức Tây học), số lượng trí thức này tăng lên khá nhanh, họ chủ yếu là những học sinh, sinh viên được đào tạo ở nước ngoài và trong hệ thống giáo dục Pháp - Việt, họ đã làm dấy lên một luồng sinh khí mới cho phong trào yêu nước Việt Nam khi tham gia sôi nổi vào các phong trào yêu nước theo các khuynh hướng chính trị khác nhau. Những trí thức mới này cũng là lực lượng chính cho việc truyền bá chữ Quốc ngữ trong những năm 1938 - 1945. Tác phẩm Trí thức Việt Nam - thực tiễn và triển vọng của Phạm Tất Dong [29] nghiên cứu những nội dung cơ bản về quan điểm, chủ trương của Đảng đối với trí thức và CTVĐTT của Đảng thời kỳ 1930 - 1945. Bên cạnh những nhận định, đánh giá chủ trương của Đảng trong vấn đề tập hợp, qui tụ, đoàn kết trí thức ngay từ tổ chức tiền thân của Đảng là Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đến Mặt trận Việt Minh, tác phẩm còn đề cập đến “những khúc quanh của lịch sử” khi Xứ ủy Trung kỳ đề ra chủ trương “thanh Đảng”; những chủ trương, biện pháp của Đảng để khắc phục những hạn chế trong nhận thức của Xứ ủy Trung Kỳ về chủ trương “thanh Đảng” trong Chỉ thị của Trung ương gửi Xứ ủy Trung Kỳ về vấn đề thanh đảng Trung Kỳ; sự kiện năm 1944 Đảng giúp đỡ những nhân sĩ, trí thức thành lập Đảng Dân chủ Việt Nam và lãnh đạo bộ phận trí thức trở
  23. 18 thành một lực lượng quan trọng trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và trong Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tác phẩm Một số vấn đề về trí thức Việt Nam của Nguyễn Văn Khánh và Nguyễn Quốc Bảo [79] là một công trình chuyên khảo công phu về trí thức Việt Nam. Các tác giả đã lí giải từ lí luận đến thực tiễn để khẳng định vai trò của trí thức Việt Nam trong lịch sử dân tộc trên các lĩnh vực, đặc biệt là trong công cuộc giải phóng dân tộc thời kỳ 1930 - 1945. Tác phẩm gồm 4 nội dung lớn. Ở nội dung thứ nhất, các tác giả đã đề cập đến những nội dung rất cơ bản trong quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và Đảng Cộng sản Việt Nam về trí thức. Nội dung thứ hai với tiêu đề: “Sự hình thành và phát triển của trí thức Việt Nam trong lịch sử”, người đọc lại được các tác giả dẫn dắt đi sâu lí giải bối cảnh lịch sử, điều kiện hình thành lớp thanh niên trí thức tài năng những năm 1920, đến bước chuyển về lập trường tư tưởng, chính trị của trí thức Việt Nam trước và sau khi thành lập Đảng. Ở nội dung thứ ba “trí thức Việt Nam với sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc”, các tác giả đã phân tích sâu từ các tổ chức chính trị sơ khai của “trí thức tiểu tư sản yêu nước” khi chịu ảnh hưởng tư tưởng của Cách mạng Tháng Mười Nga dẫn đến sự phân hóa thành hai bộ phận: trí thức theo khuynh hướng quốc gia cải lương và trí thức theo khuynh hướng cách mạng vô sản và dẫn đến kết quả là sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1930 và sự trưởng thành nhanh chóng của bộ phận trí thức cách mạng trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giành chính quyền trong Cách mạng Tháng Tám sau này. Nội dung thứ tư, tác phẩm đi sâu tìm hiểu các chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với trí thức, những vấn đề đặt ra đối với trí thức và những giải pháp để phát huy tiềm năng của ĐNTT trong công cuộc đổi mới. Tác phẩm Trí thức với Đảng, Đảng với trí thức trong sự nghiệp giải phóng và xây dựng đất nước do Nguyễn Văn Khánh (chủ biên) [82] đã giới thiệu khái quát những luận điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh về trí thức và vị trí, vai trò của trí thức trong sự nghiệp cách mạng của giai
  24. 19 cấp vô sản. Trong phần thứ ba của tác phẩm, ở mục I, với tiêu đề: “Trí thức Việt Nam trong cao trào giải phóng dân tộc (1930 - 1945) và Cách mạng Tháng Tám”, các tác giả đã khắc họa một bức tranh khá sinh động về hoạt động của thanh niên, học sinh, sinh viên, trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng trong mười lăm năm, từ năm 1930 đến năm 1945. Công trình Trí thức Việt Nam xưa và nay [186] và Lịch sử và văn hóa Việt Nam - Những gương mặt trí thức [187] (hai tập) trong khi giới thiệu những gương mặt trí thức tiêu biểu của Việt Nam từ thời Lý - Trần đến những năm đầu thế kỷ XX, đã cung cấp nhiều thông tin và đưa ra một số nhận định, đánh giá về những trí thức hoạt động trong thời kỳ 1930 - 1945. Luận văn Thạc sĩ Sử học Sự ra đời và hoạt động của Đảng Dân chủ Việt nam trong những năm 1944 - 1964 của Phạm Thị Mai Thủy [161] khái quát toàn bộ quá trình ra đời, hoạt động của Đảng Dân chủ Việt Nam - một chính đảng của trí thức, tiểu tư sản từ khi ra đời đến năm 1964. Ở nội dung chương 1, tác giả đã phân tích hoạt động của các nhóm và tổ chức khác nhau của trí thức như tổ chức Hướng đạo sinh của Hoàng Đạo Thúy, Tạ Quang Bửu, nhóm trí thức của Dương Đức Hiền, nhóm trí thức cấp tiến trong Thanh Nghị v.v đến hệ thống tổ chức, Điều lệ của Đảng Dân chủ Việt Nam để khái quát thành luận điểm: được sự giúp đỡ của Đảng Cộng sản Đông Dương, ngay sau khi ra đời, Đảng Dân chủ Việt Nam đã tự nguyện đấu tranh theo đường lối và sự lãnh đạo của Đảng, là một thành viên tích cực của Mặt trận dân tộc thống nhất, là hiện thân sống động của công tác trí vận của Đảng giai đoạn tiền khởi nghĩa. Tác phẩm Góp phần tìm hiểu Nho giáo - nho sĩ - trí thức Việt Nam trước 1945 của tác giả Chương Thâu [156] cung cấp cho người đọc một bức tranh khá toàn cảnh về lược sử Nho giáo Việt Nam, về trí thức Việt Nam trong giai đoạn giao thời đầu thế kỷ XX, trí thức Việt Nam trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Luận văn Chủ trương của Đảng về vận động, tập hợp tầng lớp trí thức thời kỳ 1930 - 1954 của Nguyễn Thu Hải [53] đã làm rõ chủ trương của Đảng
  25. 20 Cộng sản Việt Nam trong CTVĐTT thời kỳ 1930 - 1954, dựng lại một cách khách quan quá trình thực hiện chủ trương của Đảng về công tác trí vận. Tác giả còn bước đầu rút ra những thành công và hạn chế, kinh nghiệm chủ yếu từ quá trình Đảng lãnh đạo, tập hợp trí thức thời kỳ 1930 - 1954. Tác giả Trần Viết Nghĩa trong cuốn sách Trí thức Việt Nam đối diện với văn minh phương Tây thời Pháp thuộc [121] đã làm rõ sự hình thành của tầng lớp trí thức Tây học ở Việt Nam. Trí thức Tây học chính là nguồn gốc cơ bản dẫn đến sự hình thành của bộ phận trí thức cách mạng trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc thời kỳ 1930 - 1945. Tác giả cũng đã phác họa chân dung, diện mạo vô cùng đa dạng của nền văn hóa Việt Nam từ khi Đảng ra đời với những trí thức cách mạng hoạt động trên lĩnh vực văn hóa tiêu biểu như: Hải Triều, Trường Chinh, Đặng Thai Mai, Kim Lân v.v trong thời kỳ 1930 - 1945 với tất cả sự phong phú của nó, từ cuộc đấu tranh về “duy vật” và “duy tâm”, “nghệ thuật vị nghệ thuật”, “nghệ thuật vị nhân sinh” cho đến khi Đề cương văn hóa Việt Nam năm 1943 của Đảng ra đời. Dưới ánh sáng của Đề cương văn hóa Việt Nam, các văn nghệ sĩ nước nhà được qui tụ trong Hội Văn hóa cứu quốc, một tổ chức đoàn thể của Mặt trận Việt Minh, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, hướng mạnh đến quần chúng nhân dân, “tới tính dân tộc và tính thời đại”. Tác phẩm Ba thế hệ trí thức người Việt (1862 - 1954) nghiên cứu Lịch sử xã hội của Trịnh Văn Thảo [154] đã khắc họa sự chuyển biến tư tưởng của các nhóm trí thức Việt Nam từ giữa thế kỷ XIX đến giữa thế kỷ XX. Tác giả “nhận diện” các “thế hệ trí thức” qua các thời kỳ lịch sử từ khi Pháp xâm lược Việt Nam đến năm 1975. Trong “thế hệ năm 1925” - trí thức Âu hóa (theo từ dùng của tác giả), tác giả đã khắc họa những gương mặt trí thức tiêu biểu như Nguyễn An Ninh, Nguyễn Ái Quốc, Đặng Thai Mai, Võ Nguyên Giáp và cuộc đấu tranh của những trí thức trong Mặt trận Dân chủ Đông Dương để đòi những quyền dân sinh, dân chủ.
  26. 21 Ngoài ra, có thể kể đến các ấn phẩm hoặc các công trình nghiên cứu về trí thức như: Trí thức Nam Bộ trong kháng chiến chống Pháp (1945 - 1954) của tác giả Hồ Sơn Diệp [28], Bác Hồ với nhân sĩ, trí thức của Trần Đương [47], Hồ Chí Minh trong trái tim trí thức và văn nghệ sĩ của tác giả Văn Thị Thanh Mai [112] v.v cùng nhiều công trình khác trong khi nghiên cứu những góc độ khác nhau về trí thức như: đặc điểm của trí thức Việt Nam, vai trò của trí thức trong xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc trong kháng chiến và xây dựng đất nước, những vấn đề lí luận chung về trí thức, quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, những quan điểm của Đảng về trí thức qua các thời kỳ cách mạng, trong đó có thời kỳ 1930 - 1945. Những công trình có tính chất chuyên khảo trên đây đã cung cấp cho người đọc những quan điểm của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh về trí thức, những nội dung cơ bản, những đánh giá về vai trò của trí thức trong công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, tiến hành công cuộc đổi mới đất nước v.v Tuy nhiên, CTVĐTT của Đảng trong thời kỳ 1930 - 1945 còn phản ánh sơ lược, tản mạn, thiếu hệ thống; chưa đi sâu phân tích phương thức vận động, tập hợp trí thức cũng như chưa lý giải thấu đáo về một số tổ chức trí thức, còn những ý kiến đánh giá khác nhau trong giai đoạn này. 1.2. ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ CỦA CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU Nhìn một cách tổng thể, có thể thấy mảng đề tài trí thức nói chung, CTVĐTT của Đảng nói riêng đã thu hút được sự quan tâm, nghiên cứu của nhiều tác giả với nhiều công trình nghiên cứu ở trong và ngoài nước. 1.2.1. Trong các công trình đó, vị trí, vai trò của trí thức, vai trò của Nguyễn Ái Quốc, Đảng Cộng sản Đông Dương trong việc vận động, qui tụ trí thức đã được phản ánh ở những mức độ khác nhau. Hầu hết các tác phẩm đã đạt được nhiều kết quả lớn trong việc phân tích khái niệm, đặc điểm của trí thức; phân tích quan điểm của Đảng, tư tưởng Hồ Chí Minh về trí thức; đưa ra những đánh giá khoa học khác nhau về vai trò của trí thức, những đóng góp to lớn của
  27. 22 trí thức trên nhiều lĩnh vực khác nhau như chính trị, quân sự, kinh tế, ngoại giao, văn hóa, xã hội v.v qua các thời kỳ cách mạng; cung cấp một số kinh nghiệm cũng như đề xuất những phương thức, biện pháp vận động, phát huy vai trò của trí thức trong hoàn cảnh mới v.v Tuy nhiên, trong hầu hết các công trình đã công bố, CTVĐTT của Đảng thời kỳ 1930 - 1945 chưa được quan tâm đúng mức. Điểm dễ nhận thấy đầu tiên là CTVĐTT của Đảng thường chỉ được thể hiện một cách đơn lẻ, đề cập tới một cách khái quát, đặt trong mối quan hệ chung giữa các phong trào yêu nước của trí thức với cuộc vận động giải phóng dân tộc, giành chính quyền trong các giáo trình, sách giáo khoa, các công trình chuyên khảo, hoặc những công trình nghiên cứu nói chung về lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam hoặc lịch sử cận đại Việt Nam. Chủ trương, quan điểm và những chỉ đạo cụ thể của Đảng và Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đối với CTVĐTT còn chưa được khắc họa rõ. Chưa có công trình nào nghiên cứu dưới góc độ lịch sử Đảng phản ánh về CTVĐTT của Đảng thời kỳ 1930 - 1945 một cách độc lập. Còn thiếu những công trình nghiên cứu một cách có hệ thống những sáng tạo của các cấp bộ Đảng, từ Trung ương đến các Xứ ủy trong thu hút, tập hợp trí thức và vai trò của trí thức trong cuộc đấu tranh giành chính quyền, giải phóng dân tộc thời kỳ 1930 - 1945. 1.2.2. Trong những công trình đã công bố nghiên cứu về mảng đề tài này còn nhiều ý kiến đánh giá khác nhau về các sự kiện, nhân vật lịch sử, những đánh giá, nhận định thiếu sức thuyết phục hoặc chưa xác đáng, chưa phân tích sâu nguyên nhân dẫn đến những thiếu sót, khuyết điểm của một số cấp uỷ Đảng trong việc phân định thành phần và vị trí của trí thức; quan điểm đánh giá về tổ chức Thanh niên Tiền phong ở Nam Kỳ, về Trường quân sự Thanh niên Tiền tuyến ở Huế v.v Đáng chú ý là trong một vài công trình nghiên cứu có liên quan của học giả nước ngoài đã nêu ra những nhận định thiên kiến như: Yves Gra đã nhầm lẫn và đồng nhất tổ chức Đảng với Mặt trận Việt Minh. D.Marr cho rằng Cách mạng Tháng Tám của Việt Nam chưa phải là một cuộc cách mạng. Những
  28. 23 nhận định trên cần được tiếp tục nghiên cứu, trao đổi. Mặc dù vậy, các tác phẩm, các công trình trên đã tập hợp được nhiều tư liệu có liên quan, cung cấp những luận cứ khoa học, những gợi mở quan trọng cho việc tiếp cận, nghiên cứu đề tài một cách hệ thống, toàn diện và sâu sắc hơn. 1.3. NHỮNG VẤN ĐỀ LUẬN ÁN TẬP TRUNG GIẢI QUYẾT Các công trình nghiên cứu trên đã đạt được nhiều kết quả trong việc giải quyết những vấn đề lí luận và thực tiễn về trí thức và CTVĐTT của Đảng thời kỳ 1930 - 1945. Những kết quả đó là cơ sở quan trọng để nghiên cứu sinh tham khảo trong quá trình thực hiện luận án. Trong khuôn khổ đề tài luận án, nghiên cứu sinh tập trung nghiên cứu, giải quyết những vấn đề sau: Thứ nhất, làm sáng tỏ những quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng trong việc tuyên truyền, vận động, qui tụ trí thức phục vụ sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc thời kỳ 1930 - 1945. Thứ hai, đánh giá một cách xác đáng năng lực và những đóng góp của trí thức, của các nhóm trí thức cho phong trào cách mạng thời kỳ 1930 - 1945. Thứ ba, làm rõ những sáng tạo, thành công và hạn chế của Đảng trong vận động và tranh thủ trí thức phục vụ cách mạng thời kỳ 1930 - 1945. Thứ tư, đúc kết những kinh nghiệm có ý nghĩa lý luận và thực tiễn. Vận dụng quan điểm của Đảng trong thời kỳ đổi mới để đánh giá khách quan những sự kiện, nhân vật còn có những đánh giá khác biệt trong các công trình nghiên cứu có liên quan đã được công bố.
  29. 24 Chương 2 ĐẢNG VẬN ĐỘNG TRÍ THỨC TỪ NĂM 1930 ĐẾN NĂM 1939 2.1. ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN VÀ NHỮNG HOẠT ĐỘNG CỦA TRÍ THỨC VIỆT NAM TRƯỚC KHI THÀNH LẬP ĐẢNG 2.1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về trí thức Khái niệm trí thức: Hiện nay, trên thế giới và ở Việt Nam có nhiều quan niệm khác nhau về trí thức do có nhiều cách tiếp cận riêng về khái niệm này. Trong mỗi xã hội, quốc gia, dân tộc, mỗi thời đại, mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau, quan niệm về trí thức cũng thay đổi. Vì vậy, quan niệm trí thức là gì là một nội dung đã thu hút được sự quan tâm nghiên cứu của nhiều ngành khoa học, nhiều nhà nghiên cứu, nhà chính trị, nhà khoa học. Tuy nhiên, hiện nay vẫn chưa có một khái niệm nào được công nhận là đã giải quyết được hết nội hàm khái niệm trí thức. Theo tiếng La tinh, thuật ngữ “trí thức” (intelligentia) chỉ những người có hiểu biết, có tri thức. Tầng lớp xã hội này bao gồm những người chuyên lao động trí óc, có trình độ chuyên môn cao. Từ điển Chủ nghĩa cộng sản khoa học của Liên Xô năm 1986 viết “trí thức là một nhóm xã hội gồm những người lao động trí óc phức tạp và có học vấn chuyên môn cần thiết cho ngành lao động đó. Sự tồn tại của trí thức với tính cách là một nhóm xã hội đặc biệt gắn liền với sự phân công lao động xã hội giữa lao động trí óc và lao động chân tay” [185, tr.360]. Ở Việt Nam, khi tiếp cận khái niệm trí thức có nhiều cách đánh giá khá nhau: Từ điển Bách khoa Việt Nam định nghĩa trí thức là “tầng lớp xã hội làm nghề lao động trí óc, trong đó, bộ phận chủ yếu là những người có học vấn cao, hiểu biết sâu rộng về chuyên môn của mình, có sáng tạo và phát minh” [66, tr.582]. Trong cuốn Từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học do Hoàng Phê chủ biên định nghĩa: “trí thức là người chuyên làm việc lao động trí óc và có tri thức chuyên môn cần thiết cho hoạt động nghề nghiệp của mình” [197, tr.999]. Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X (tháng 8/2008) “Về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
  30. 25 hóa, hiện đại hóa đất nước” định nghĩa: “Trí thức là những người lao động trí óc có trình độ học vấn cao về lĩnh vực chuyên môn nhất định, có năng lực tư duy độc lập, sáng tạo, truyền bá và làm giàu tri thức, tạo ra những sản phẩm tinh thần và vật chất có giá trị đối với xã hội” [44, tr.81-82]. Khái niệm về trí thức như trên là tiền đề, cơ sở để Đảng hình thành những chủ trương, đường lối mang tính cụ thể và thiết thực hơn trong quá trình vận động, xây dựng và phát triển ĐNTT, đảm bảo nguồn lực nhằm thực hiện thắng lợi sự nghiệp cách mạng nước nhà. Như vậy, dù tiếp cận dưới góc độ nào thì các định nghĩa về trí thức tuy có câu chữ khác nhau nhưng đều có hai nội dung cơ bản thống nhất trên hai phương diện chủ yếu: thứ nhất, trí thức là lao động có trình độ chuyên môn sâu và trí thức là lao động trí óc phức tạp, sáng tạo. Khái niệm đội ngũ trí thức: Khái niệm “đội ngũ” được xuất phát từ thuật ngữ quân sự, đó là tổ chức gồm nhiều người tập hợp thành một lực lượng hoàn chỉnh. Trước năm 1998, ở Việt Nam chủ yếu dùng thuật ngữ “tầng lớp trí thức”. Trong cuốn Từ điển Tiếng Việt NXB Đà Nẵng ấn hành, năm 2009, khái niệm “đội ngũ” được hiểu theo hai nghĩa: thứ nhất, là “khối đông người được tập hợp và tổ chức thành một lực lượng có quy củ”; thứ hai, là “một tập hợp số đông người có cùng chức năng hoặc nghề nghiệp”. Như vậy, đội ngũ có thể hiểu là tập hợp một số đông người có cùng chức năng, nhiệm vụ và nghề nghiệp, có sự thống nhất về mặt tổ chức. Nhờ thống nhất về mặt tổ chức nên họ thống nhất cả về mặt hành động và mục tiêu. Hay nói cách khác, đội ngũ là tập hợp một số người thành một lực lượng thống nhất về mặt tổ chức, cùng nhau hành động thực hiện một hay một số chức năng, nhiệm vụ nhất định để cùng đem về kết quả cụ thể nào đó. Từ sự phân tích trên tác giả khái quát như sau: “đội ngũ trí thức là tập hợp những người lao động trí óc, có trình độ học vấn cao về lĩnh vực chuyên môn sâu cho ngành lao động nhất định, có năng lực tư duy độc lập, sáng tạo, truyền bá và làm giàu tri thức, ứng dụng tri thức khoa học vào phát triển sản xuất và tiến bộ xã hội thành một lực lượng đông đảo thống nhất về mặt tổ chức, hành
  31. 26 động để cùng nhau thực hiện mục tiêu đó là tạo ra những sản phẩm tinh thần và vật chất có giá trị đối với xã hội”. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về trí thức và vai trò của trí thức: Theo V.I. Lênin, trí thức là một tầng lớp đặc biệt, không phải là một giai cấp, và không có một hệ tư tưởng độc lập. Tuy nhiên, tầng lớp này có một vị trí đặc biệt vì trí thức bao gồm những phần tử tiên tiến nhất trong một quốc gia dân tộc, trí thức là đại biểu cho đỉnh cao của tri thức, lao động của trí thức là lao động đặc thù. Trong tác phẩm Một bước tiến, hai bước lùi, V.I. Lênin viết: Tôi dùng chữ trí thức, giới trí thức, để dịch những danh từ Đức Literat, Literatentum là những danh từ có nghĩa bao hàm không những chỉ các nhà trước tác mà thôi, mà còn bao hàm tất cả mọi người có học thức, các đại biểu của những nghề tự do nói chung, các đại biểu của lao động trí óc (tức là những người mà người Anh gọi là brain worker), khác với những đại biểu của lao động chân tay [190, tr.372]. Đánh giá cao vai trò của trí thức, những người sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin coi trí thức là lực lượng xã hội có vai trò đặc biệt quan trọng trong sự phát triển của xã hội thông qua những cống hiến, sáng tạo và tài năng của họ trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. Xã hội càng phát triển thì tầng lớp trí thức càng có vai trò to lớn, đặc biệt là trong việc sáng tạo ra những giá trị văn hóa, tinh thần, trong lĩnh vực khoa học - kỹ thuật. Trong lĩnh vực sản xuất vật chất, trí thức cũng đóng vai trò quan trọng trong việc tổ chức, quản lí bởi “không có sự chỉ đạo của các chuyên gia am hiểu các lĩnh vực khoa học, kỹ thuật và có kinh nghiệm, thì không thể nào chuyển lên chủ nghĩa xã hội được ” [192, tr.217]. Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm, trí thức cũng mang trong mình những nhược điểm và hạn chế nhất định. Hạn chế lớn nhất của trí thức mà V.I.Lênin đã chỉ ra là tính hay dao động, thiển cận chính trị. Nó biểu hiện ở chỗ họ coi nhẹ thực trạng gay gắt của các mâu thuẫn giai cấp, không tìm thấy được lực lượng và động lực cách mạng, không kiên định trước thử thách của các cuộc cách mạng xã hội, thiếu tính kỷ luật và tổ chức. V.I. Lênin còn cho rằng, do điều kiện sống và môi trường hoạt động của trí thức “không cho phép họ thống nhất lực lượng một cách trực tiếp
  32. 27 rộng rãi, không cho họ được giáo dục trực tiếp trong lao động tập thể có tổ chức” [191, tr.18]. V.I. Lênin còn chỉ ra chủ nghĩa cá nhân là hạn chế lớn của trí thức: “so với giai cấp vô sản thì giới trí thức bao giờ cũng có nhiều tính chất cá nhân chủ nghĩa hơn” [191, tr.18], “sẽ không ai dám chối cãi rằng, nói chung, đặc điểm của những trí thức với tính cách là một tầng lớp đặc biệt trong những xã hội tư bản chủ nghĩa hiện đại, chính là chủ nghĩa cá nhân và sự không thể thích ứng được với kỷ luật và tổ chức” [190, tr.300]. Từ sự phân tích trên, V.I. Lênin cho rằng, nếu trí thức “không nhập cục với một giai cấp thì giới trí thức chỉ là một con số không mà thôi” [189, tr.552]. Chính vì vậy, trong cuộc đấu tranh giữa giai cấp vô sản và tư sản, trí thức nếu “không muốn làm tay chân TỰ NGUYỆN hay KHÔNG TỰ NGUYỆN cho giai cấp tư sản, đều phải đứng về phía giai cấp vô sản” [189, tr.379]. Do đó, nhiệm vụ của giai cấp vô sản là phải giúp đỡ trí thức thoát khỏi ảnh hưởng của giai cấp tư sản, truyền cho họ sự nhiệt tình cách mạng của giai cấp tiên phong. V.I. Lênin còn chỉ rõ: trong thời kỳ xây dựng CNXH, cùng với việc tạo dựng tầng lớp trí thức mới XHCN, nhiệm vụ của giai cấp công nhân là phải tập trung và tiến hành cải tạo lực lượng trí thức của chế độ cũ. Bởi vì CNXH cần một lực lượng trí thức lớn hơn cả chủ nghĩa tư bản để không chỉ điều hành bộ máy nhà nước mà còn xây dựng và quản lý toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Chính vì vậy, trong bài viết Gửi Đại hội Quốc tế các sinh viên xã hội chủ nghĩa, Ph. Ăngghen khẳng định: Các cuộc cách mạng tư sản trước đây đòi hỏi các trường đại học chỉ đào tạo ra các trạng sư làm nguyên liệu tốt nhất để hình thành nên những nhà hoạt động chính trị của chúng; ngoài đòi hỏi đó, sự nghiệp giải phóng giai cấp công nhân còn cần phải có những bác sĩ, kỹ sư, nhà hóa học, nông học và các chuyên gia khác, vì vấn đề là phải nắm lấy việc quản lý không phải chỉ bộ máy chính trị, mà còn cả toàn bộ nền sản xuất xã hội nữa, và ở đây cần đến những kiến thức vững chắc chứ không phải là những câu xuông xáo oang oang [76, tr.613-614]. Như vậy, trong quá trình xây dựng, phát triển và hoàn thiện học thuyết của mình, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin coi trí thức là vốn quý của xã
  33. 28 hội, là lực lượng xã hội có vai trò đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp cách mạng của giai cấp công nhân, là một bộ phận cấu thành của xã hội. Xã hội khó có thể phát triển nếu thiếu đi trí thức, và ngược lại, trí thức sẽ tự vô hiệu hóa nếu tách mình khỏi đời sống xã hội. Chính vì vậy, trong sự phát triển của xã hội cần phải đấu tranh chống lại cả hai khuynh hướng hoặc coi nhẹ hoặc tuyệt đối hóa vai trò của trí thức. 2.1.2. Đặc điểm của trí thức Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX Trong nửa đầu thế kỷ XX, đặc biệt là trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc từ năm 1930 đến năm 1945, trí thức Việt Nam có các đặc điểm cơ bản sau: Thứ nhất, trí thức Việt Nam giàu lòng yêu nước, mang trong mình ý thức dân tộc. Trí thức Việt Nam có tinh thần yêu nước, tinh thần dân tộc rất sâu đậm, luôn luôn gắn bó với sự nghiệp giữ gìn nền độc lập của quốc gia, sự thống nhất của đất nước. Suốt chiều dài lịch sử dân tộc, trí thức Việt Nam luôn trăn trở trước vận mệnh của dân tộc, của nhân dân; luôn gắn bó với nhân dân; góp phần xây dựng nền văn hóa lâu đời của dân tộc. Trí thức Việt Nam có nguồn gốc xuất thân khác nhau, đủ mọi tầng lớp: quan chức, viên chức các cấp, trí thức bậc cao, trí thức bình dân, một số khá đông thuộc thành phần phú nông, địa chủ, tư sản nhưng đại bộ phận trong số họ đều bị đế quốc áp bức, bóc lột; phần lớn trí thức đều có một điểm chung ở tình cảm thiết tha với cội nguồn, với số phận dân tộc, với thực tại xã hội và nhất là với tương lai đất nước. Đứng trước thực trạng xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX khi những trường học nào trong chương trình giảng dạy có tư tưởng dân tộc, dân chủ, tiến bộ chỉ tồn tại sau một thời gian đều bị thực dân Pháp bắt phải đóng cửa. Nhiều thầy giáo, nhà văn, nhà báo có tư tưởng tiến bộ bị thực dân Pháp bắt bớ. Giới trí thức chân chính - những con người yêu nước, trọng danh dự, có ý thức sâu sắc về thân phận của những người nô lệ, của người dân mất nước đều cảm thấy nghẹt thở dưới chế độ thực dân phong kiến. Chính vì vậy, phần lớn trí thức Việt Nam có tinh thần yêu nước, ghét Tây, muốn giải phóng dân tộc. Những trí thức yêu nước, có tinh thần dân tộc như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Phan Văn Trường, Nguyễn Ái Quốc, Nguyễn An Ninh v.v đã có sự lựa chọn và con đường đi riêng của mình để tìm đường giải phóng dân tộc. Trí thức ý thức sâu sắc
  34. 29 dân tộc chính là cái nôi sinh thành và nuôi dưỡng lý trí, tình cảm, tinh thần và là môi trường để trí tuệ, tài năng của trí thức phát triển. Với tư duy nhạy bén về chính trị, trí thức Việt Nam nhận thức rõ tình cảnh mất chủ quyền của dân tộc và mất tự do của chính bản thân mình. Họ cảm thấy nô lệ, mất nước là quốc sỉ và mong muốn tìm lối thoát. Điều này lí giải vì sao trong suốt quá trình thực dân Pháp xâm lược và đặt ách thống trị trên đất nước Việt Nam, phong trào yêu nước (kể cả những phong trào theo xu hướng phong kiến, dân chủ tư sản hay vô sản) những năm cuối của thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX đều do các sĩ phu phong kiến yêu nước, trí thức khởi xướng và lãnh đạo. Thứ hai, trí thức gồm hai bộ phận trí thức Nho học (cựu học) và trí thức Tây học (tân học) cùng tồn tại song song. Sau khi bình định xong Việt Nam, Pháp đẩy mạnh công cuộc thực dân hóa bằng hai chương trình khai thác thuộc địa. Chương trình khai thác thuộc địa của Pháp đã dẫn đến sự biến đổi toàn diện xã hội Việt Nam cả về cơ cấu, trình độ kinh tế và về xã hội. Trên lĩnh vực xã hội, bên cạnh các giai cấp, tầng lớp cũ, xuất hiện những giai tầng mới như công nhân, tư sản, tiểu tư sản và lực lượng trí thức Tây học (còn được gọi là tầng lớp trí thức tân học) song song tồn tại cùng tầng lớp trí thức Việt Nam truyền thống (còn được gọi là lớp cựu học). Trí thức Tây học ngày càng lớn mạnh và có vai trò quan trọng trong nhiều lĩnh vực của xã hội như chính trị, văn hóa - xã hội. Trí thức Tây học là sản phẩm trực tiếp của hệ thống giáo dục phương Tây. Dưới thời cai trị của hai Toàn quyền Đông Dương là Paul Beau và Albert Saraut, hệ thống giáo dục của chính quyền thực dân từng bước thay thế cho nền giáo dục phong kiến nhất là sau kỳ thi Hương cuối cùng năm 1919 được tổ chức ở Trung Kỳ. Năm 1917, Toàn quyền Đông Dương Albert Saraut ban hành bộ Học chính tổng quy để cải cách nền giáo dục Đông Dương. Nền giáo dục Việt Nam mới đã khá hoàn chỉnh, gồm ba bậc học chính: tiểu học, trung học, cao đẳng và đại học. Mục đích của Pháp khi tiến hành các hoạt động cải cách giáo dục là để đào tạo ra những nhân viên thừa hành và thợ lành nghề phục vụ cho chính sách cai trị và khai thác của thực dân Pháp, nhưng chính những nội dung mới mẻ của nó đã góp phần đưa
  35. 30 những tri thức, tư tưởng mới vào xã hội Việt Nam, đồng thời, tạo ra một lực lượng trí thức Tây học. Lực lượng này phần lớn là học sinh, sinh viên được đào tạo chủ yếu ở trong các nhà trường Pháp - Việt. Những trí thức được đào tạo từ hệ thống giáo dục này, sau đã trở thành những nhà khoa học, nhà chính trị, nhà văn hóa, nhà thơ, nhà văn nổi tiếng, nhà giáo, nhà lãnh đạo cách mạng Việt Nam như: Tôn Thất Tùng, Hoàng Minh Giám, Vũ Đình Hoè, Nguyễn Phan Chánh, Huỳnh Tấn Phát, Võ Nguyên Giáp, Trường Chinh, Nguyễn Thái Học, Tôn Quang Phiệt v.v Bên cạnh nguồn trí thức được đào tạo ở trong nước, còn có một số trí thức được đào tạo tại các trường cao đẳng, đại học của Pháp hoặc từ những trung tâm giáo dục có uy tín ở châu Âu. Phần lớn những trí thức này đi du học bằng nhiều con đường khác nhau, nhưng chủ yếu vẫn là do nguồn học bổng tài trợ từ Pháp và từ kinh phí hỗ trợ của gia đình. Sau khi du học, đại bộ phận trở về nước tham gia trực tiếp vào các lĩnh vực khác nhau để duy tân đất nước và giải phóng dân tộc. Đây chính là bộ phận trí thức Tây học có trình độ và bằng cấp cao nhất trong xã hội Việt Nam lúc đó. Có thể kể đến những trí thức tiêu biểu trong bộ phận này như Tiến sĩ luật Phan Văn Trường, Tiến sĩ triết học Nguyễn Mạnh Tường, Tiến sĩ luật Phan Anh, Tiến sĩ văn khoa Nguyễn Văn Huyên, Tiến sĩ văn chương và luật Trần Văn Chương, Tiến sĩ luật Vũ Văn Hiền, Thạc sĩ toán học Hoàng Xuân Hãn, Thạc sĩ vật lí Ngụy Như Kon Tum, Cử nhân luật Nguyễn An Ninh, Luật sư Nguyễn Hữu Thọ, Bác sĩ Phạm Ngọc Thạch, Bác sĩ Hồ Đắc Di v.v Một bộ phận khác của trí thức Tây học được hình thành thông qua quá trình tự học hoặc du học tự phát, tự tổ chức, bí mật ở nước ngoài. Con đường này rất khó khăn và rất ít người đi theo con đường này. Bộ phận này có thể kể đến những trí thức tiêu biểu như: Nguyễn Ái Quốc, Trần Huy Liệu, Trần Văn Giàu, Nguyễn Khánh Toàn, Nguyễn Văn Tạo, Dương Bạch Mai v.v Khác với nhiều thanh niên trí thức thời ấy có điều kiện sang Pháp du học, Nguyễn Ái Quốc (Nguyễn Tất Thành) chọn con đường xuất dương bằng nghề bồi bếp trên tàu, tự lao động kiếm sống, để được đi, mở mang tầm hiểu biết. Trong suốt hành trình tìm đường cứu nước (1911-1920), Nguyễn Ái Quốc đã trải qua gần ba mươi quốc gia của bốn châu lục, phải làm đến mười hai nghề lao động cực nhọc khác nhau để kiếm sống.
  36. 31 Nguyễn Ái Quốc luôn tự học tập, học hỏi trong bất cứ hoàn cảnh nào và luôn quan sát, độc lập suy nghĩ để tìm lời giải đáp. Hành trình tìm đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc có những đặc điểm riêng biệt, khác hẳn với thế hệ thanh niên trí thức du học ở phương Tây cùng thời. Về số lượng, tính đến giữa năm 1920, có khoảng 5.000 trí thức Tây học, đến cuối những năm 1930 tăng lên đến 10.000: “Đến giữa những năm 1920 có khoảng 5.000 trí thức Việt Nam mới, phần lớn họ đều rất trẻ, được học từ ba đến mười năm chính khóa tại trường. Cuối những năm 1930, con số này lên đến khoảng 10.000” [210, tr.33]. Trong số những trí thức Tây học này, số người có trình độ từ bậc tiểu học trở lên có khoảng “40 vạn người (12.000 giáo viên, 335.445 học sinh, 23.000 viên chức và hàng trăm sinh viên các trường đại học, cao đẳng và dạy nghề” [122, tr.251]. Trí thức Tây học tập trung ở các đô thị, các trung tâm văn hóa, chính trị như: Sài Gòn, Hà Nội, Vinh, Nam Định, Đà Nẵng, Huế và ở các tỉnh lỵ, huyện lỵ. Thứ ba, trí thức là lực lượng đứng ra tiếp nhận và truyền bá các trào lưu tư tưởng mới, châm ngòi nổ cho các phong trào đấu tranh. Mặc dù tiếp thu nền giáo dục mới của phương Tây nhưng đa số trí thức Việt Nam tiếp nối truyền thống văn hóa của dân tộc, đấu tranh chống văn hóa nô dịch, chỉ tiếp nhận những giá trị văn hóa bên ngoài phù hợp với văn hóa Việt Nam. Phần lớn trí thức Tây học có nền tảng học vấn Nho học, họ kết hợp được tinh hoa của cả hai nền văn hóa Đông - Tây. Chính họ đã tạo nên sự thay đổi lớn trên lĩnh vực văn hóa - xã hội, tư tưởng, chính trị ở Việt Nam trong thời gian này. Trí thức Việt Nam rất nhạy cảm với thời cuộc, dễ tiếp xúc với những tư tưởng tiến bộ và canh tân đất nước. Khi phong trào đấu tranh của quần chúng công, nông thức tỉnh, họ bước vào cuộc chiến đấu rất hăng hái và đóng một vai trò quan trọng trong phong trào đấu tranh của quần chúng nhất là ở các đô thị. Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, khi tư tưởng Duy Tân đi vào giai đoạn thoái trào, sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga, chủ nghĩa Mác - Lênin dần dần được truyền bá rộng rãi. Nhiều trí thức đã đứng ra tiếp nhận và tuyền bá tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin vào phong trào yêu nước và phong trào công nhân Việt Nam. Nhiều người trong số họ đã trở
  37. 32 thành ngọn cờ đầu trong việc truyền bá chủ nghĩa yêu nước, tinh thần dân tộc gắn với tư tưởng tiến bộ của nhân loại như: Nguyễn An Ninh, Nguyễn Thái Học v.v Một số người giác ngộ chủ nghĩa Mác - Lênin, sau này được bổ sung vào đội ngũ đảng cộng sản, trở thành lớp đảng viên lớp tiền bối như: Trần Phú, Ngô Gia Tự, Phạm Văn Đồng, Hà Huy Tập, Lê Hồng Phong, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Văn Cừ, Trường Chinh v.v Chính vì vậy, trí thức là một lực lượng cách mạng quan trọng của cách mạng Việt Nam, là lực lượng nhạy cảm với cách mạng, châm ngòi cho các phong trào dân chủ, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc. 2.1.3. Hoạt động của trí thức Việt Nam trước khi thành lập Đảng Trước khi Đảng ra đời, trong thập kỷ hai mươi thế kỷ XX, trí thức Việt Nam mà chủ yếu là trí thức Tây học đã có những hoạt động quan trọng, góp phần thúc đẩy phong trào yêu nước Việt Nam phát triển ngày càng mạnh mẽ. Sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất, dưới ảnh hưởng của Cách mạng Tháng Mười Nga và chủ nghĩa Mác - Lênin, tầng lớp trí thức Việt Nam với những hoạt động sôi nổi đã trở thành lực lượng tổ chức và lôi cuốn quần chúng nhân dân vào cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Hoạt động của trí thức trên lĩnh vực báo chí và tư tưởng Trên lĩnh vực báo chí, tư tưởng văn hóa, tranh thủ những điều kiện thuận lợi trên lĩnh vực tư tưởng văn hóa mà chính quyền thực dân nới rộng, các nhóm thanh niên trí thức đã hoạt động mạnh mẽ trên lĩnh vực báo chí công khai, lập các nhà xuất bản tiến bộ như: Nam Đồng thư xã, Giác quần thư xã (Hà Nội), Quan hải tùng thư (Huế), Cường học thư xã, Tân Việt thư xã (Sài Gòn). Trí thức còn xuất bản nhiều tờ báo tiến bộ như Chuông rè (La Cloche fêlée) của Nguyễn An Ninh, Người nhà quê (Le Nhaqué) do Nguyễn Khánh Toàn làm chủ nhiệm, An Nam của Phan Văn Trường v.v Trí thức Việt Nam còn tiến hành cuộc vận động văn hóa tiến bộ, tuyên truyền rộng rãi những tư tưởng tự do dân chủ. Tuy nhiên, càng về sau, cùng với sự thay đổi của điều kiện lịch sử, những trí thức hoạt động trên lĩnh vực báo chí và tư tưởng ngày càng bị phân hoá mạnh. Một bộ phận trí thức đi sâu vào khuynh hướng chính trị tư sản (những trí thức trong Nam Đồng thư xã), một bộ phận
  38. 33 chuyển dần sang quỹ đạo cách mạng vô sản (tiêu biểu là những trí thức trong tổ chức Phục Việt, Hưng Nam). Thông qua các hoạt động này, uy tín của trí thức trong quần chúng nhân dân được nâng lên, góp phần lôi cuốn, tập hợp nhân dân vào con đường đấu tranh giải phóng dân tộc. Hoạt động của trí thức trong các tổ chức chính trị sơ khai Cùng với các hoạt động trên lĩnh vực báo chí và tư tưởng, trí thức còn khởi xướng, châm ngòi nổ cho nhiều phong trào đấu tranh chính trị gây tiếng vang lớn như: đấu tranh đòi thả chí sĩ yêu nước Phan Bội Châu (1925), lễ truy điệu và để tang nhà yêu nước Phan Châu Trinh (1926), đấu tranh đòi thả nhà yêu nước Nguyễn An Ninh (1926). Đóng vai trò quan trọng trong việc tổ chức các hoạt động này là các hội viên của Hội Phục Việt và Đảng Thanh niên. Tháng 1/1925, nhóm sinh viên của Trường Cao đẳng Sư phạm Đông Dương gồm: Tôn Quang Phiệt, Đặng Thai Mai, Phạm Thiều, Nguyễn Quang Phùng, Trần Tiến Vĩ, Nguyễn Quốc Túy, Nguyễn Văn Ngọc v.v thành lập tổ chức Việt Nam nghĩa đoàn. Cũng trong năm 1925, Việt Nam nghĩa đoàn liên lạc với nhóm nhân sĩ ở Trung Kỳ như: Lê Văn Huân, Nguyễn Đình Kiên (Tú Kiên), Trần Mộng Bạch đã nhóm họp tại núi Quyết (Bến Thủy) tuyên bố thành lập Hội Phục Việt. Thành phần của Phục Việt chủ yếu là trí thức trẻ, nhà nho, giáo viên, sinh viên, học sinh và những người làm nghề tự do. Tháng 6/1925, thực dân Pháp bắt được Phan Bội Châu, giải về Hà Nội, giam tại nhà tù Hỏa Lò và khép Phan Bội Châu tội tử hình. Ngay lập tức một phong trào đấu tranh dâng lên cao. Trước sức ép của phong trào, nhà cầm quyền Pháp phải tuyên bố ân xá Phan Bội Châu, đưa về an trí ở Huế. Tháng 3/1926, Phan Châu Trinh qua đời, khắp nơi trong cả nước, đặc biệt là ở các thành phố lớn đều tổ chức để tang nhà chí sĩ, nhất là trong học sinh, sinh viên “ở đâu có trường học, ở đó có phong trào truy điệu và để tang Phan Chu Trinh” [122, tr.260]. Đảng Thanh niên tích cực tham gia vào phong trào này tại Sài Gòn. Tờ Đông Pháp thời báo do Trần Huy Liệu làm Chủ bút đã đăng nhiều bài viết ca ngợi tư tưởng dân chủ của Phan Châu Trinh và nhiều bài thơ, câu đối
  39. 34 của nhân dân gửi đến đám tang của Phan Châu Trinh đã gây ảnh hưởng lớn đến phong trào. Đảng Thanh niên của Trần Huy Liệu còn đứng ra tổ chức phong trào đấu tranh đòi thả Nguyễn An Ninh, tổ chức đón tiếp Bùi Quang Chiêu. Mục đích của các hoạt động trên là để biểu dương lực lượng của quần chúng, chống lại âm mưu của chính quyền thực dân muốn cấu kết với tư sản và địa chủ phá hoại phong trào. Mặc dù, Đảng Thanh niên có những hạn chế nhất định trong quá trình hoạt động, nhưng nó có tác dụng thúc đẩy phong trào của quần chúng, là bước đệm chuẩn bị cho sự ra đời của các tổ chức cộng sản sau này: “Chính cái lớp thanh niên lăn xả vào trường hoạt động trong những năm 1925 - 1928 ấy đã góp phần đẩy mạnh phong trào và thành lập những tổ chức cộng sản sau này” [104, tr.4]. Hoạt động của trí thức theo khuynh hướng tư sản Những năm 20 thế kỷ XX còn là thời điểm chứng kiến những hoạt động đầy sôi động của trí thức theo khuynh hướng tư sản. Tổ chức tiêu biểu nhất cho khuynh hướng tư sản ở Việt Nam trong thời gian này là Việt Nam Quốc dân Đảng. Việt Nam Quốc dân Đảng thành lập vào ngày 25/12/1927. Trong thành phần lãnh đạo của Việt Nam Quốc dân Đảng, gồm những trí thức trẻ yêu nước: Nguyễn Thái Học, Phó Đức Chính, Hoàng Văn Tùng, Hồ Văn Mịch, Phạm Tuấn Tài, Nhượng Tống v.v Vì vậy, bộ phận “trí thức tiểu tư sản, sinh viên, viên chức vừa là lực lượng nòng cốt vừa đóng vai trò lãnh đạo” [98, tr.157] của Việt Nam Quốc dân Đảng. Đáng chú ý là trong quá trình xây dựng và phát triển, Việt Nam Quốc dân Đảng đã hình thành liên minh giữa những trí thức Tân học trẻ Hà Nội mà đại biểu là Nguyễn Thái Học và thế hệ trí thức Nho học lớn tuổi, đứng đầu là Nguyễn Khắc Nhu1. Về bộ máy tổ chức của Đảng, Việt Nam Quốc dân Đảng có bốn cấp. Địa bàn hoạt động Việt Nam Quốc dân Đảng chủ yếu ở Bắc Kỳ. Tại miền Trung, cơ sở của Việt Nam Quốc dân Đảng phát triển yếu. Tại Nam Kỳ, Việt Nam Quốc dân Đảng đã xây dựng được cơ sở tại Gia Định, Thủ Dầu Một, Bến Tre, Chợ Lớn, Vũng Tàu và Thành phố Sài Gòn. Cường học thư xã do Trần Huy Liệu đứng đầu là đầu mối của Việt Nam Quốc dân Đảng tại Nam Kỳ. 1 còn gọi là xứ Nhu vì ông đỗ đầu xứ trong cuộc thi sát hạch thi Hương.
  40. 35 Là một tổ chức yêu nước của trí thức, tiểu tư sản nhưng cương lĩnh, mục đích, điều lệ của Việt Nam Quốc dân Đảng lại không vững chắc, hay thay đổi. Tại hội nghị thành lập Đảng ngày 25/12/1927, theo hai yếu nhân của Đảng là Trần Huy Liệu và Phạm Tuấn Tài thì tôn chỉ mục đích đầu tiên được thông qua là: “Trước làm cách mạng quốc gia, sau làm thế giới cách mạng” [102, tr.18]. Các khái niệm “chính cương”, “đảng cương” hay “chủ nghĩa” cũng chưa hề được nhắc đến trong bản dự thảo Chương trình, Điều lệ. Về mục đích: Đảng nêu rõ phải đánh đổ nền quân chủ chuyên chế, lập nước Việt Nam dân quốc cộng hoà, trong đó, nhân dân được hưởng các quyền tự do ngôn luận, đi lại, hội họp, tự do tín ngưỡng. Về thực chất, Việt Nam Quốc dân Đảng muốn thực hiện đường lối dùng bạo lực đánh đuổi ngoại xâm, giành độc lập dân tộc và xây dựng chế độ cộng hoà; sau đó, giúp đỡ các nước thuộc địa vùng lên làm cách mạng giải phóng dân tộc. Việt Nam Quốc dân Đảng là một tổ chức chính trị của trí thức đứng trên lập trường tư sản để đấu tranh giải phóng dân tộc. Tổ chức này có đóng góp nhất định cho phong trào giải phóng dân tộc ở Việt Nam trước năm 1930. Do những hạn chế nhất định nên Việt Nam Quốc dân Đảng không thể thu hút lực lượng của toàn dân tộc vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, nhưng để lại nhiều bài học quý báu cho sự nghiệp cách mạng Việt Nam sau này. Đó là bài học về con đường bạo lực cách mạng và khởi nghĩa vũ trang. Bài học về xây dựng đảng chính trị. Bài học về xây dựng lực lượng cách mạng và khối đại đoàn kết dân tộc v.v Hoạt động của trí thức theo khuynh hướng cách mạng vô sản Cùng với khuynh hướng đấu tranh của trí thức theo khuynh hướng dân chủ tư sản thì nửa sau những năm hai mươi thế kỷ XX, khuynh hướng vô sản ngày càng bén rễ và phát triển trong phong trào cách mạng. Trải qua quá trình tìm tòi, khảo nghiệm, nghiên cứu, sàng lọc; sự kiện Nguyễn Ái Quốc bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế III và là một trong những người sáng lập ra Đảng Cộng sản Pháp, đã đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Nguyễn Ái Quốc. Từ một thanh niên yêu nước đấu tranh cho độc lập tự do, Nguyễn Ái Quốc đã trở thành một chiến sĩ cộng sản, một chiến sĩ quốc tế vô sản.
  41. 36 Từ chủ nghĩa yêu nước chân chính, Nguyễn Ái Quốc đã đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, chủ nghĩa cộng sản. Từ đây, con đường mà Nguyễn Ái Quốc đã đi cũng chính là con đường mà Nguyễn Ái Quốc dẫn dắt dân tộc Việt Nam đi theo: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác ngoài con đường cách mạng vô sản”. Thực hiện bước ngoặt đó, Nguyễn Ái Quốc đã hoàn tất chặng đường đầu của hành trình cứu nước, đã tìm ra chân lí của thời đại và “gắn phong trào cách mạng Việt Nam với phong trào công nhân quốc tế, đưa nhân dân Việt Nam đi theo con đường mà chính Người đã trải qua, từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Mác - Lênin” [31, tr.8], truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin về Việt Nam, chuẩn bị từng bước về tư tưởng - chính trị và tổ chức cho sự ra đời của một đảng cộng sản ở Việt Nam. Sau một thời gian hoạt động ở Pháp và Liên Xô, tháng 11/1924, Nguyễn Ái Quốc đến Quảng Châu (Trung Quốc). Tại đây, Nguyễn Ái Quốc gặp Phan Bội Châu, được Phan Bội Châu giới thiệu những thanh niên ưu tú trong tổ chức Tâm Tâm xã. Qua tìm hiểu tình hình thực tế, Nguyễn Ái Quốc đã lựa chọn được một số thanh niên tích cực trong Tâm tâm xã, tổ chức tuyên truyền giác ngộ họ, lập ra nhóm Cộng sản đoàn vào tháng 2/1925. Từ tổ chức này, tháng 6/1925, Nguyễn Ái Quốc thành lập tổ chức Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Về thành phần, khi mới thành lập, Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên gồm “90% là trí thức, chỉ có 10% là công nông”, về sau, tuy “các thành phần công, nông có tăng lên, nhưng lực lượng trí thức vẫn chiếm tới 40%” [8, tr.279]. Con số này cho thấy lực lượng thanh niên trí thức chiếm số lượng chủ yếu trong Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên chưa phải là một chính đảng cộng sản, nhưng đường lối chính trị, chương trình hành động và điều lệ của Hội đã thể hiện rõ quan điểm lập trường cách mạng của giai cấp công nhân. Từ năm 1925 đến năm 1927, Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên mở các lớp huấn luyện chính trị ngắn ngày, đào tạo được 75 hội viên [60, tr.135]. Nội dung chương trình học bao gồm cả kiến thức lý luận và thực tiễn cách mạng. Kết thúc khóa học, một số hội viên tiến tiến được cử đi học lý luận tại Trường Đại học
  42. 37 Phương Đông (Liên Xô), một số được cử đi học quân sự tại Trường quân sự Hoàng Phố (Trung Quốc), đại bộ phận được cử về nước để gây dựng tổ chức, xây dựng phong trào, tiếp tục truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin và con đường cứu nước giải phóng dân tộc theo khuynh hướng cách mạng vô sản vào trong phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Trong quá trình hoạt động, những thanh niên trí thức trong Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên luôn đóng vai trò quan trọng trong việc tập hợp quần chúng. Năm 1928, Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đề ra chủ trương chủ trương “vô sản hóa” dẫn đến những thay đổi lớn trong phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Tháng 9/1928, Kỳ bộ Bắc Kỳ chủ trương đưa các hội viên đi “vô sản hóa”, nhằm giác ngộ quần chúng và phát triển hội viên ở các vùng mỏ và các đồn điền, đồng thời, rèn luyện đội ngũ cán bộ vốn xuất thân từ tiểu tư sản, trí thức. Hội nghị giao cho Ngô Gia Tự, Nguyễn Đức Cảnh - ủy viên Kỳ bộ phụ trách “vô sản hóa”. Trải qua quá trình cùng ăn, cùng ở, cùng làm với công nhân, những hội viên của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên vốn là trí thức, thanh niên, học sinh càng thấm thía quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin: “chỉ khi nào cùng lao động chung với công nhân, nông dân, người ta mới trở thành người cộng sản chân chính được” [188, tr.452]. Sau phong trào, hàng loạt các cơ sở của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên được hình thành trên cả nước. Nếu như năm 1928, Hội mới chỉ có 300 hội viên, thì đến năm 1929 đã có 1.700 hội viên, trong đó đông nhất là ở Bắc và Trung Kỳ, nếu kể cả hội viên dự bị thì có gần 3.000 người. Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên có cơ sở ở nhiều trung tâm kinh tế, chính trị và trở thành lực lượng chính trị yêu nước rộng lớn trong cả nước. Phong trào “vô sản hóa” diễn ra trong khoảng thời gian rất ngắn nhưng lại trong một bối cảnh hết sức đặc biệt, nhằm đặt cơ sở vững chắc để chủ nghĩa Mác - Lênin bám rễ và phát triển trong công nhân. Nhận thức được sự trưởng thành của giai cấp công nhân và yêu cầu cần phải tổ chức thành một chính đảng để lãnh đạo phong trào cách mạng, tháng 3/1929 tổ chức cộng sản đầu tiên ở Việt Nam được thành lập tại số nhà 5D, phố Hàm Long (Hà Nội) gồm 4 thành viên của Kỳ bộ Bắc Kỳ: Trịnh Đình Cửu, Trần Văn Cung, Dương Hạc Đính, Nguyễn Tuân và 3 Bí thư
  43. 38 Tỉnh bộ: Ngô Gia Tự (Bắc Ninh - Bắc Giang), Đỗ Ngọc Du (Hà Nội), Nguyễn Đức Cảnh (Hải Phòng). Thành viên thứ 8 là Nguyễn Phong Sắc bận đi công tác. Tại hội nghị ngày 28 và ngày 29/3/1929 của hơn 30 đại biểu Kỳ bộ Bắc Kỳ tại đồn điền Kim Đới (Sơn Tây), chi bộ đã nêu vấn đề phải thành lập đảng cộng sản và được sự nhất trí cao. Hội nghị cử Ngô Gia Tự, Trần Văn Cung, Nguyễn Tuân, Dương Hạc Đính đi dự Đại hội toàn quốc của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên với trách nhiệm phải đưa vấn đề thành lập đảng cộng sản ra Đại hội. Đây là thắng lợi về mặt tổ chức và tư tưởng của những người kiên trì chủ trương thành lập đảng cộng sản. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ nhất do Tổng bộ Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên triệu tập diễn ra tại Hương Cảng từ ngày 1 đến ngày 9/5/1929 với sự tham gia của 3 ủy viên Trung ương bộ là: Lê Hồng Sơn, Lê Duy Điếm, Lâm Đức Thụ; 4 đại biểu Kỳ bộ Bắc Kỳ là Ngô Gia Tự, Trần Văn Cung, Nguyễn Tuân, Dương Hạc Đính; 4 đại biểu Kỳ bộ Trung Kỳ: Nguyễn Sĩ Sách, Nguyễn Thiệu, Trương Quang Trọng, Võ Mai; 3 đại biểu Kỳ bộ Nam Kỳ: Phạm Văn Đồng, Châu Văn Liêm, Trần Văn Phồng và 1 đại biểu ở Xiêm là Võ Công. Tại Đại hội, trưởng đoàn đại biểu Kỳ bộ Bắc Kỳ đã phân tích những điều kiện khách quan và chủ quan của phong trào công nhân Việt Nam và đưa ra đề nghị thành lập đảng cộng sản nhưng chủ trương này không được Đại hội thông qua. Vì vậy, đoàn đại biểu Kỳ bộ Bắc Kỳ đã thoát ly Đại hội, về nước. Khi về nước, họ tuyến bố thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương vào tháng 6/1929. Sau khi Đảng Cộng sản Đông Dương ra đời, An Nam Cộng sản Đảng cũng được thành lập. Tiếp đó, những hội viên tiên tiến trong tổ chức Tân Việt Cách mạng Đảng cũng quyết định thành lập Đông Dương Cộng sản liên đoàn. Như vậy, chỉ trong một khoảng thời gian ngắn đã có ba tổ chức cộng sản ở Việt Nam được thành lập. Sự ra đời của ba tổ chức cộng sản đánh dấu bước trưởng thành của giai cấp công nhân. Những trí thức, hội viên ưu tú của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đã trở thành lớp đảng viên cộng sản đầu tiên, những đảng viên trung kiên, bất khuất. Nhiều trí thức tiêu biểu giữ cương vị trọng trách của Đảng trong những năm sau như: Ngô Gia Tự, Trần Phú, Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập, Nguyễn Văn Cừ, Trường Chinh. Tuy
  44. 39 nhiên, ba tổ chức này lại tranh giành ảnh hưởng của nhau, ảnh hưởng không tốt tới phong trào cách mạng, dẫn đến đòi hỏi phải thống nhất các tổ chức cộng sản thành một đảng duy nhất. Đầu năm1930, Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản tại Cửu Long, Hương Cảng, Trung Quốc đã thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, trí thức đã có những hoạt động rất phong phú, khởi xướng và lãnh đạo phong trào yêu nước, thực hiện những cải cách về văn hóa, xã hội, canh tân đất nước v.v góp phần đem lại những tiến bộ của xã hội Việt Nam. Trí thức cũng chính là lực lượng đóng vai trò quan trọng trong việc tiếp thu và truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin, lý luận cách mạng giải phóng dân tộc của Nguyễn Ái Quốc vào Việt Nam, góp phần vào sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam đầu năm 1930. 2.2. CHỦ TRƯƠNG VÀ CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG TRÍ THỨC CỦA ĐẢNG TỪ NĂM 1930 ĐẾN NĂM 1939 2.2.1. Đảng vận động trí thức giai đoạn 1930 - 1935 2.2.1.1. Quan điểm của Nguyễn Ái Quốc và Đảng về trí thức và vận động trí thức giai đoạn 1930 - 1935 Chủ tịch Hồ Chí Minh, sinh thời, Người đặc biệt quan tâm đến trí thức. Ngay từ những năm 20 thế kỷ XX, trong hành trình tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc đã rất coi trọng trí thức bởi theo Người: trong truyền thống Việt Nam, người trí thức rất được trọng vọng, đứng vị trí hàng đầu trong các thang bậc xã hội: Người An Nam rất hiếu học. Trong các tầng lớp xã hội, người sĩ phu chiếm địa vị hàng đầu. Có con học giỏi là một vinh hạnh cho cha mẹ. Cho nên, dù có nghèo đói đến đâu, cha mẹ cũng cố tìm cách cho con cái được học hành. “Nửa bụng chữ bằng một hũ vàng” là một câu tục ngữ biểu hiện nhiệt tình ham muốn có học thức của dân tộc An Nam [114, tr.423]. Nguyễn Ái Quốc nhận thức rõ trí thức Việt Nam luôn mang trong mình ý thức dân tộc sâu sắc, là lực lượng đi tiên phong tham gia cách mạng. Họ chính là lực lượng đi đầu trong việc tiếp thu tư tưởng cách mạng tiến bộ của chủ nghĩa Mác - Lênin, tích cực truyền bá trong quần chúng nhân dân và hăng hái tham gia vào các tổ chức cách mạng tiền thân của Đảng. Trí thức là những người có học thức, hiểu
  45. 40 biết do có điều kiện tiếp xúc với những tri thức mới trong hệ thống giáo dục đương thời, nên họ rất nhạy bén với cái mới, với những tư tưởng tiến bộ, nhưng là một bộ phận của một dân tộc bị thống trị, cùng chung số phận mất nước, trí thức Việt Nam cũng bị đế quốc bạc đãi, khinh rẻ, vì vậy, phần lớn trong số họ có tinh thần yêu nước, chống Pháp: “Trí thức: Từ học trò đến công chức, thầy thuốc, vì có trình độ văn hoá tương đối cao, có điều kiện tiếp cận với người Pháp, hai vì bị người Pháp coi thường, cho nên họ đều rất ghét người Pháp” [116, tr.194]. Chính vì vậy, trí thức Việt Nam giàu lòng yêu nước và có thể đồng hành cùng giai cấp công nhân, giai cấp nông nhân trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản. Trong tác phẩm Đường cách mệnh (1927), Người viết: “công nông là gốc cách mệnh; còn học trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ ( ) là bầu bạn cách mệnh của công nông” [115, tr.288] và “trong ba lần cách mệnh, 1789, 1848, 1870, đều vì dân can đảm nhiều, nhưng trí thức ít, cho nên để tư bản nó lợi dụng” [115, tr.296]. Là học trò xuất sắc của chủ nghĩa Mác - Lênin, vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về trí thức, Hồ Chí Minh nhận thức rõ, trong quá trình vận động trí thức, một vấn đề có tính quy luật là phải qui tụ được lực lượng trí thức thành đội ngũ, dưới sự lãnh đạo của một chính đảng để họ thực sự trở thành “bầu bạn” của công - nông. Chính vì vậy, tại Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam đầu năm 1930, trong Sách lược vắn tắt của Đảng, Nguyễn Ái Quốc khẳng định nhiều quan điểm đúng đắn về trí thức và CTVĐTT, đặt vấn đề phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản trí thức để tập hợp, đoàn kết, vận động họ cùng với giai cấp công nhân, nông dân và nhân dân lao động đi theo con đường đấu tranh giải phóng dân tộc do Đảng lãnh đạo: “Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông, Thanh Niên, Tân Việt, v.v để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp ” [38, tr.4]. Nguyễn Ái Quốc cũng khẳng định trong Chương trình tóm tắt của Đảng rất rõ là: “Đảng lôi kéo tiểu tư sản, trí thức và trung nông về phía giai cấp vô sản” [38, tr.6]. Báo cáo tóm tắt hội nghị cũng khẳng định phải: “đưa những người ở các tầng lớp khác, trí thức, tiểu tư sản, v.v. vào tổ chức phản đế” [38, tr.12]. Những quan điểm của Nguyễn Ái Quốc về trí thức trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng tuy vắn tắt nhưng đã xác định những vấn đề chiến lược cho
  46. 41 việc vận động, tập hợp trí thức, phản ánh tư tưởng đại đoàn kết dân tộc, huy động mọi lực lượng dân tộc vào cuộc đấu tranh chống đế quốc xâm lược, giành độc lập dân tộc; là cơ sở, nền tảng để xây dựng liên minh công - nông - trí và định hướng những nguyên tắc cơ bản về vấn đề xây dựng mặt trận dân tộc thống nhất nói chung và công tác trí vận nói riêng; là sự kế thừa truyền thống tôn trọng trí thức, không bị chi phối bởi quan điểm giai cấp và đấu tranh giai cấp cực đoan chi phối. Những quan điểm trên có ảnh hưởng lớn đối với trí thức, phát huy truyền thống yêu nước của trí thức, lôi cuốn trí thức về phía cách mạng từ những ngày đầu tiên, chĩa mũi nhọn vào kẻ thù chung là đế quốc và phong kiến, tăng cường sức mạnh cho cuộc cách mạng, hướng trí thức đồng hành cùng các giai tầng trong xã hội đấu tranh cho mục tiêu độc lập cho dân tộc, tự do hạnh phúc cho đồng bào. Tháng 10/1930, Ban Chấp hành Trung ương lâm thời họp Hội nghị lần thứ nhất tại Hương Cảng (Trung Quốc). Dưới sự chủ trì của Trần Phú, Hội nghị đã xem xét, thảo luận Luận cương chánh trị của Đảng Cộng sản Đông Dương (Dự án để thảo luận trong Đảng), Án nghị quyết của Trung ương toàn thể Đại hội nói về tình hình hiện tại ở Đông Dương và nhiệm vụ cần kíp của Đảng và nhiều văn kiện quan trọng khác. Trên cơ sở phân tích tình hình thế giới và cách mạng Đông Dương, đặc điểm, tính chất và nhiệm vụ cách mạng Đông Dương, địa vị của các giai cấp trong cuộc cách mạng Đông Dương, Luận cương chánh trị của Đảng Cộng sản Đông Dương (Dự án để thảo luận trong Đảng) quá nhấn mạnh mặt tiêu cực của các tầng lớp trên trong xã hội. Đối với tiểu tư sản, trí thức, Luận cương đánh giá: trong giai cấp tiểu tư sản, thì bộ phận làm thủ công nghiệp "có ác cảm" với cách mạng; tiểu thương "không tán thành cách mạng"; trí thức, tiểu tư sản, học sinh có "xu hướng quốc gia chủ nghĩa", "đại biểu quyền lợi cho tất cả giai cấp tư bổn bổn xứ" [38, tr.96]. Từ đó, trong vấn đề xác định lực lượng cách mạng, Luận cương chỉ thấy được vai trò động lực cách mạng của công nhân và nông dân, mà không đánh giá đúng mức vai trò cách mạng của giai cấp tiểu tư sản, tầng lớp trí thức: Bọn trí thức, tiểu tư sản, học sanh, v.v là bọn xu hướng quốc gia chủ nghĩa, chúng nó đại biểu quyền lợi cho tất cả giai cấp tư bổn bổn xứ,
  47. 42 chớ không phải chỉ bênh vực quyền lợi riêng cho bọn tiểu tư sản mà thôi. Trong thời kỳ chống đế quốc chủ nghĩa thì bọn ấy cũng hăng hái tham gia, nhưng chỉ lúc đầu mà thôi; chúng nó không thể binh vực quyền lợi cho dân cày được, vì chúng nó phần nhiều có dây dướng với bọn địa chủ [38, tr.96]. Đối với các đảng phái khác Luận cương cũng có những nhận định chưa chính xác: Đảng phải nhận rõ cái tánh chất và địa vị các đảng phái tiểu tư sản trong cuộc cách mạng (như bọn Quốc dân Đảng, Ng. An Ninh, v.v ). ( ). Các đảng phái ấy đều dính dáng với giai cấp địa chủ và tư bổn bổn xứ. Đối với đế quốc chủ nghĩa thì bọn trí thức tiểu tư sản lãnh tụ các đảng phái ấy và chủ trương quốc gia cách mạng. Nhưng mục đích của họ chỉ chủ trương sự phát triển tư bổn cho xứ Đông Dương mà thôi [38, tr.98-99]. Do nhận thức giáo điều và máy móc về mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và giai cấp trong xã hội thuộc địa, do thiếu một chiến lược liên minh dân tộc và giai cấp rộng rãi trong cuộc đấu tranh dân tộc, nên mặc dù Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng tháng 10/1930 có Án nghị quyết về vấn đề phản đế của T.Ư toàn thể hội nghị, chủ trương thành lập hội phản đế, nhưng thành phần của hội vẫn nặng về các đoàn thể cách mạng: “chiêu tập các hội công nông, học sanh, binh lính, thanh niên, phụ nữ và các đảng phái c.m khác” [38, tr.195], chưa bao gồm rộng rãi mọi giai cấp và tầng lớp trong dân tộc, đánh giá chưa xác đáng vai trò của tiểu tư sản: “trong phản đế vận động, tất nhiên có nhiều phần tử tiểu tư sản tham gia, bọn ấy cũng có quan trọng về đường c.m, song không bao giờ nên quá tăng giá trị của bọn họ lên” [38, tr.195-196]. Những hạn chế về nhận thức trên, một mặt, do Đảng vừa mới ra đời, công tác tư tưởng - lý luận, hệ thống tổ chức và chỉ đạo của các cấp bộ Đảng còn đang ở bước đầu hình thành; cuộc khủng bố trắng của địch hướng vào Đảng và quần chúng cách mạng càng gây cho Đảng những tổn thất nặng nề, hạn chế mọi mặt hoạt động của Đảng, từ đó phát sinh những nhận thức khác nhau, thiếu nhất quán; mặt khác, bắt nguồn từ sự chỉ đạo của Quốc tế Cộng sản.
  48. 43 Đối với trí thức và giai cấp tiểu tư sản, Quốc tế Cộng sản đánh giá họ “là những đại biểu kiên quyết nhất không những cho lợi ích riêng của giai cấp tiểu tư sản, mà cả cho lợi ích chung và khách quan của toàn bộ giai cấp tư sản dân tộc nữa ( ) do dự và không kiên định” [40, tr.421], không phải là lực lượng liên minh của giai cấp vô sản. Đối với giai cấp tiểu tư sản, sách lược của Ban Chấp ủy Quốc tế Cộng sản (tháng 12/1929) đánh giá họ là một trong những phần tử nghèo khổ hợp thành bộ phận cách mạng nhất. Tuy vậy, không nên “cường điệu khuynh hướng cách mạng của giai cấp tiểu tư sản thành thị, lại càng không nên xem những phần tử ít cách mạng nhất, tầng lớp tiểu thương, như là động lực của cách mạng" [40, tr.421- 422]. Khuynh hướng “tả” của Quốc tế Cộng sản về giai cấp và đấu tranh giai cấp và những đánh giá thiếu chính xác của Quốc tế Cộng sản đối với trí thức, tiểu tư sản đã chi phối tư tưởng, hành động của các Đảng Cộng sản trên thế giới, trong đó có Đảng Cộng sản Đông Dương. Do hạn chế về nhận thức và trực tiếp chịu ảnh hưởng của khuynh hướng “tả” của Quốc tế Cộng sản nên Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng tháng 10/1930 đã không chấp nhận những quan điểm mới, sáng tạo, độc lập tự chủ của Nguyễn Ái Quốc nêu trong Chánh cương vắn tắt của Đảng và Sách lược vắt tắt của Đảng. Trong thực tiễn phong trào cách mạng năm 1930, ở Trung Kỳ, xuất hiện nhiều tín hiệu rõ rệt về thái độ tích cực ủng hộ cách mạng của một số không ít người thuộc các tầng lớp trên, có những kẻ phản bội cách mạng nhưng không nhiều, mà ngược lại, “các tầng lớp trí thức và một số sĩ phu, một số trung tiểu địa chủ lại có xu hướng cách mạng rõ ràng” [38, tr.229]. Nhưng hạn chế của phong trào là “không tổ chức được toàn dân lại thành một lực lượng thật rộng, thật kín” [38, tr.227], vì vậy: “tổ chức cách mạng vẫn đơn thuần công nông”, mà không thu nạp đại đa số nhân dân “thiếu mặt tổ chức thật quảng đại quần chúng, hấp thụ các tầng lớp trí thức dân tộc, ( ) có đầu óc oán ghét đế quốc Pháp, mong muốn độc lập quốc gia, để đưa tất cả những tầng lớp và cá nhân đó vào trong hàng ngũ chống đế quốc Pháp ” [38, tr.228].
  49. 44 Nhận thấy hạn chế đó, xuất phát từ thực tiễn của phong trào đấu tranh của quần chúng nhân dân, trong Chỉ thị của Trung ương Thường vụ về vấn đề thành lập Hội “Phản đế đồng minh”, ngày 18/11/1930, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã có những điều chỉnh trong nhận thức về quan điểm đối với trí thức mà Hội Nghị Ban Chấp hành Trung ương tháng 10/1930 đã nêu lên, chủ trương đoàn kết rộng rãi lực lượng toàn dân tộc, bao gồm các giai cấp, tầng lớp và cá nhân yêu nước. Từ tư tưởng khẳng định hiện thời Đảng đang thiếu một tổ chức của quần chúng để hấp thu các tầng lớp trí thức tiểu tư sản, cả những người oán ghét đế quốc Pháp đến vận động toàn dân nhất tề đánh giặc; Đảng quyết định lập Hội Phản đế đồng minh - hình thức tổ chức Mặt trận dân tộc thống nhất đầu tiên của Đảng. Song do Chỉ thị được ban hành vào lúc cách mạng vào giai đoạn thoái trào, Hội Phản đế đồng minh chưa được thành lập thì phong trào cách mạng đã bị đế quốc Pháp dìm trong biển máu. Đầu tháng 4/1931, giữa lúc phong trào cách mạng đang bị đàn áp, khủng bố, Xứ ủy Trung Kỳ thực hiện chủ trương “Bônsơvíchhóa” Đảng một cách máy móc, giáo điều nên đề ra chỉ thị thanh Đảng, phổ biến xuống tận cơ sở. Nội dung chủ yếu của Chỉ thị này là đưa ra khỏi Đảng những đảng viên xuất thân từ trí thức, con nhà giàu có hoặc quan lại: “thanh trừ trí phú địa hào, đào tận gốc trốc tận rễ” [39, tr.157]. Chỉ thị này làm cho phong trào cách mạng ở miền Trung đang gặp khó khăn càng thêm khó khăn. Đây là một chủ trương chưa đúng đắn, không phù hợp với tình hình thực tế của phong trào đấu tranh giữa lúc phong trào đang trải qua những thử thách ác liệt nhất, không phù hợp với yêu cầu tập hợp mọi lực lượng dân tộc. Trước tình hình đó, trong Chỉ thị của Trung ương gửi Xứ uỷ Trung Kỳ về vấn đề thanh Đảng Trung kỳ, ban hành ngày 20/5/1931, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã nghiêm khắc phê phán chủ trương "thanh Đảng" của Xứ uỷ Trung Kỳ, chỉ rõ đó là một “ý nghĩ mơ hồ, một chỉ thị võ đoán và là một lối hành động quàng xiên chí tướng” [39, tr.157]. Đồng thời, Ban Chấp hành Trung ương Đảng chỉ thị cho Xứ ủy Trung Kỳ phải xem xét, kiểm điểm, đấu tranh, tự phê bình để
  50. 45 sửa sai, từ đó duy trì cơ sở, phát triển phong trào cách mạng. Chỉ thị của Trung ương Đảng đã kịp thời uốn nắn những khuyết điểm của Xứ uỷ Trung Kỳ trong công tác tổ chức, lãnh đạo phong trào cách mạng, góp thêm kinh nghiệm cho công tác xây dựng Đảng. Mặc dù vậy, sau khi Chỉ thị của Trung ương gửi Xứ uỷ Trung Kỳ về vấn đề thanh Đảng Trung kỳ được ban hành, khuynh hướng “tả” từ sự chỉ đạo của Quốc tế Cộng sản vẫn còn ảnh hưởng trong nhiều năm sau đó. Đến năm 1935, trong dự thảo Cương lĩnh của Đảng Cộng sản Đông Dương vẫn đánh giá phong trào đấu tranh của học sinh còn theo chiều hướng tiêu cực: Dần dần từng bước, nếu các phong trào cách mạng của vô sản và nông dân lớn lên về bề sâu và bề rộng và rõ ràng mang tính chất giai cấp như trong năm 1930 và sau đó, thì phong trào học sinh xẹp xuống, mất tính chất phản đế trước kia của nó và hơn nữa chuyển sang phe quốc gia cải lương chống lại cách mạng công nông [43, tr.436]. Nhưng cũng trong dự thảo Cương lĩnh của Đảng Cộng sản Đông Dương, Đảng đã có chuyển biến bước đầu về việc đánh giá khả năng cách mạng của học sinh: “Học sinh nghèo, con cái người lao động có thể đi với cách mạng. Phần đông trong số họ là con cái địa chủ, tư bản, quan lại, vai trò của họ trong cuộc đấu tranh phản đế không nhỏ trong thời kỳ cao trào cách mạng” [43, tr.435]. Đối với tiểu tư sản, trí thức, Đảng cho rằng họ cũng bị chủ nghĩa đế quốc áp bức bóc lột nặng nề nên giai cấp vô sản phải sử dụng họ như những “lực lượng dự trữ” của mình cho cuộc cách mạng: Về những người dân nghèo thành thị (người bán rong, trí thức, thất nghiệp, nông dân bị bần cùng hóa, tiểu công chức của chính phủ và của tư nhân,v.v ) ở vào những điều kiện khó khăn, dưới ách nặng nề của chủ nghĩa đế quốc nên có thể đi với cách mạng. Giai cấp vô sản phải sử dụng họ như những lực lượng dự trữ của mình cho cuộc cách mạng phản đế và điền địa [43, tr.436]. Như vậy, từ Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo, Luận cương chánh trị của Đảng Cộng sản Đông Dương Dương (Dự
  51. 46 án để thảo luận trong Đảng) (10/1930) v.v đến dự thảo Cương lĩnh của Đảng Cộng sản Đông Dương (1935) chưa có sự thống nhất trong Đảng về khả năng cách mạng của bộ phận trí thức. Những quan điểm của Nguyễn Ái Quốc về trí thức và vận động trí thức là đúng đắn, phù hợp với thực tiễn lịch sử Việt Nam. Song do hạn chế về nhận thức, thiếu hiểu biết thực tiễn Việt Nam, bị chi phối bởi quan điểm giai cấp và đấu tranh giai cấp cực đoan của Quốc tế Cộng sản, Ban Chấp hành Trung ương và Xứ ủy Trung Kỳ đã chưa nhận thức rõ quan điểm đó, thậm trí còn phê phán những sáng tạo của Nguyễn Ái Quốc trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên. 2.2.1.2. Biện pháp, hình thức và các hoạt động tiêu biểu của trí thức dưới sự vận động của Đảng giai đoạn 1930 - 1935 Tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế 1929 - 1933 đến đời sống của các tầng lớp, giai cấp trong xã hội và sự phân hóa của trí thức Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929 - 1933, đã để lại những hậu quả nặng nề và tác động mạnh mẽ đến đời sống nhân dân các nước thuộc địa. Dưới ách áp bức nặng nề của thực dân Pháp, đời sống của tất cả các tầng lớp nhân dân ngày càng đói khổ, cùng kiệt. Công nhân bị cắt giảm tiền công, tỷ lệ thất nghiệp cao. Nông dân bị tăng thuế, mất ruộng. Tiểu thương, tiểu chủ, thợ thủ công, điêu đứng, địa chủ nhỏ sa sút, đa số tư sản dân tộc bị phá sản. Nạn thất nghiệp trong trí thức tăng mạnh, khó tìm được việc làm, lương giảm, nhiều trí thức rơi vào cảnh bần cùng. Trong tác phẩm Giáo dục Pháp - Việt ở Bắc Kỳ (1884 - 1945), tác giả Trần Thị Phương Hoa mô phỏng cuộc sống của trí thức được đăng tải trên báo Trung Bắc Tân văn: “Có bằng cao đẳng mà phải đi kéo xe để kiếm ăn, những người có bằng cử nhân, bác sỹ hay kỹ sư cũng phải nằm co ở nhà, nhiều người đã phải tìm đến với cái chết những người liều thân hoại thể như thế phần nhiều là bọn lao động trí thức” [59, tr.195]. Do đó, nhân dân Việt Nam chỉ có một con đường là vùng dậy đấu tranh: “Sự áp bức và bóc lột vô nhân đạo của đế quốc Pháp đã làm cho đồng bào ta hiểu rằng có cách mạng thì sống, không có cách mạng thì chết” [38, tr.15]. Cũng như nhiều giai cấp, tầng lớp khác, trí thức Việt Nam vốn đã bị phân hóa nay càng bị phân hóa rõ rệt. Có thể phân chia thành các nhóm trí thức như:
  52. 47 nhóm trí thức có xu hướng cách mạng, nhóm trí thức hợp tác trong chính quyền thực dân và nhóm trí thức trung lập. Nhóm trí thức theo xu hướng cách mạng xuất hiện từ những năm 20 trong quá trình chuẩn bị thành lập Đảng và kéo dài cả sau khi Đảng thành lập. Trên vũ đài chính trị, xuất hiện một thế hệ những trí thức trẻ tuổi và nhiệt huyết như: Võ Nguyên Giáp, Trường Chinh, Trần Phú, Hà Huy Tập, Nguyễn Văn Cừ, Ngô Gia Tự, Hoàng Văn Thụ, Nguyễn An Ninh. Dương Bạch Mai, Nguyễn Văn Tạo, Nguyễn Văn Nguyễn, Phạm Ngọc Thạch, Trần Ngọc Danh, Lê Văn Thử, Trần Văn Giàu v.v Phần lớn họ là những trí thức được đào tạo trong hệ thống giáo dục của chính quyền thực dân hoặc du học sinh từ Pháp về, hay bị trục xuất về nước. Họ luôn đi đầu, châm ngòi nổ trong những vấn đề chính trị sôi động của đất nước. Họ đấu tranh với nhiều hình thức phong phú từ những bài báo, những bài diễn thuyết, những cuộc tranh luận trong giới trí thức với nhau và tranh luận với cả người pháp, đấu tranh nghị trường, đấu tranh giải phóng dân tộc v.v Họ kêu gọi tăng lương giảm giờ làm cho tầng lớp vô sản, đòi tự do ngôn luận, hội họp, đi lại v.v Nhóm trí thức hợp tác trong chính quyền thực dân, không tham gia khuynh hướng cách mạng cũng không chống lại phong trào cách mạng. Nhiều người trong số họ có lòng yêu mến tha thiết giới cần lao, thông hiểu cuộc sống cùng cực của người bình dân. Trong số những trí thức này, nhiều người xuất thân từ các trí thức Nho học, từ tầng lớp nghèo khổ, do cố gắng học hành đỗ đạt, được tuyển dụng làm việc trong bộ máy chính quyền thực dân. Tiêu biểu cho nhóm này là Huỳnh Thúc Kháng, Đào Duy Anh, Trương Vĩnh Ký, Nguyễn Trọng Quản, Trương Minh Ký, Lê Hoằng Mưu (Mộng Huê Lầu, Cao Hiển Vinh), Hồ Văn Trung (Hồ Biểu Chánh), Nguyễn Hữu Ngỡi (Tân Dân Tử) v.v Những trí thức trên không tranh đấu bằng những bài diễn thuyết nảy lửa mà bằng sự điềm đạm trong ngòi bút, ghi lại những suy nghĩ, tâm tư, lối sống của đồng bào bằng những tác phẩm văn học, bài báo của mình. Nhóm trí thức trung lập là những người không cộng tác với chính quyền thực dân cũng không theo xu thế cách mạng. Họ là những trí thức dạy học, những nhà báo tài năng, xông xáo trên lĩnh vực văn hóa và văn học. Một số gương mặt trí thức
  53. 48 tiêu biểu có thể kể đến: Hoàng Xuân Hãn, Phạm Khắc Hòe, Nguyễn Văn Minh, Phú Đức, Phạm Minh Kiên, Bửu Đình, Dương Minh Đạt, Đào Thanh Phước, Nguyễn Thế Phương, Thạch Lam (Nguyễn Tường Lân), Thế Lữ (Nguyễn Thứ Lễ), Tú Mỡ (Hồ Trọng Hiếu), Trần Tiêu, Xuân Diệu v.v Những nhóm trí thức trên có con đường đi riêng của mình, nhưng họ thống nhất với nhau ở điểm chung: “yêu nước, ghét Tây, muốn có một tập đoàn chiến đấu”. Từ khi thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam, hàng trăm phong trào yêu nước đấu tranh của nhân dân dưới các hình thức và màu sắc khác nhau đứng lên đánh đuổi thực dân xâm lược. Nhưng tất cả các phong trào đấu tranh đều thất bại, một trong những nguyên nhân quan trọng của sự thất bại đó là thiếu một tổ chức có cương lĩnh, đường lối đúng đắn để giải quyết những mâu thuẫn cơ bản, những mục tiêu của cách mạng, của đất nước, của dân tộc, lãnh đạo nhân dân đi đến thắng lợi cuối cùng. Đầu năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (từ tháng 10/1930 đổi tên thành Đảng Cộng sản Đông Dương) chấm dứt cuộc khủng hoảng sâu sắc về đường lối và giai cấp lãnh đạo cách mạng Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Đảng ra đời, với đường lối chính trị đúng đắn, thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược, chống đế quốc và chống phong kiến, phù hợp với nguyện vọng của đại đa số quần chúng nhân dân nên đã nhanh chóng giành được quyền lãnh đạo phong trào cách mạng. Vừa mời ra đời, Đảng đã lãnh đạo quần chúng nhân dân tiến hành một cao trào cách mạng sôi nổi, rộng lớn 1930 - 1931 mà đỉnh cao là Xô Viết Nghệ Tĩnh. Mở đầu cho phong trào là các cuộc đấu tranh của công - nông. Trong các cuộc đấu tranh đó, các giai cấp, tầng lớp khác trong xã hội cũng không đứng ngoài phong trào của công - nông. Đi theo tiếng gọi của Đảng, trí thức Việt Nam đã vùng dậy đấu tranh cho quyền lợi chung của dân tộc, họ hòa mình vào cuộc đấu tranh của công - nông. Giai đoạn 1930 - 1935, bên cạnh bộ phận trí thức ở trong nước, nhiều trí thức yêu nước đang học tập và làm việc ở Pháp bị trục xuất về nước. Về nước, những trí thức đó được sự tuyên truyền, vận động của Đảng, của các trí thức - đảng viên cộng sản, họ đã tích cực hoạt động trên nhiều lĩnh vực, góp một nhân tố tích cực cho phong trào cách mạng phát triển.