Luận án Chính sách nhập khẩu dịch vụ giáo dục đại học trong thời kỳ hội nhập quốc tế ở Việt Nam

pdf 217 trang yendo 4810
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận án Chính sách nhập khẩu dịch vụ giáo dục đại học trong thời kỳ hội nhập quốc tế ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfluan_an_chinh_sach_nhap_khau_dich_vu_giao_duc_dai_hoc_trong.pdf

Nội dung text: Luận án Chính sách nhập khẩu dịch vụ giáo dục đại học trong thời kỳ hội nhập quốc tế ở Việt Nam

  1. LỜI CẢM ƠN Trong quá trình học tập, nghiên cứu, hoàn thành luận án, tác giả đã nhận đƣợc sự chỉ bảo, hƣớng dẫn, giúp đỡ tận tình của Quý thầy cô giáo, các nhà khoa học, đồng nghiệp, bạn bè và ngƣời thân. Tác giả luận án chân thành cảm ơn: Lãnh đạo Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam, Trung tâm Đào tạo và Bồi dƣỡng, các Quý thầy cô, các nhà khoa học của Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam đã tận tâm giảng dạy, giúp đỡ tôi trong quá trình giảng dạy, nghiên cứu và hoàn thành Luận án. Tôi cũng xin cảm ơn Thƣờng trực Đoàn Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, lãnh đạo cùng toàn thể cán bộ Viện Công nhân và Công Đoàn đã giúp đỡ, động viên và tạo mọi điều kiện thuận lợi để tôi hoàn thành nhiệm vụ nghiên cứu. Tôi xin bày tỏ sự kính trọng và lòng biết ơn sâu sắc tới: Cố GS. TSKH Vũ Ngọc Hải, PGS. TS. Phan Văn Nhân và PGS. TS. Lê Phƣớc Minh, những ngƣời hƣớng dẫn khoa học đã tận tâm hƣớng dẫn, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực hiện Luận án. Tôi xin tri ân sự khích lệ, ủng hộ nhiệt tình của gia đình, ngƣời thân, bạn bè và đồng nghiệp trong thời gian thực hiện Luận án. Xin trân trọng cảm ơn! Tác giả Luận án Vũ Thị Loan i
  2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nghiên cứu trong luận án là trung thực và chƣa từng đƣợc ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Tác giả Luận án Vũ Thị Loan ii
  3. MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 1. Lý do chọn đề tài 1 2. Mục đích nghiên cứu 2 3. Khách thể và đối tƣợng nghiên cứu 2 3.1. Khách thể nghiên cứu 2 3.2. Đối tượng nghiên cứu 3 4. Giả thuyết khoa học 3 5. Nội dung và phạm vi nghiên cứu 3 5.1. Nội dung nghiên cứu 3 5.2. Phạm vi nghiên cứu 3 6. Phƣơng pháp tiếp cận và phƣơng pháp nghiên cứu 4 6.1. Phương pháp tiếp cận 4 6.2. Phương pháp nghiên cứu 5 7. Nhiệm vụ nghiên cứu 6 8. Luận điểm bảo vệ 6 9. Nơi thực hiện đề tài nghiên cứu 6 Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam. 6 10. Những đóng góp mới của luận án 6 11. Bố cục của luận án 7 CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH NHẬP KHẨU DỊCH VỤ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC TRONG THỜI KỲ HỘI NHẬP QUỐC TẾ 8 1.1. Tổng quan nghiên cứu vấn đề 8 1.1.1. Nghiên cứu về GDĐH trong thời kỳ HNQT 8 1.1.2. Nghiên cứu về chính sách và chính sách GDĐH 10 1.1.3. Nghiên cứu về chính sách XNK DV GDĐH 12 1.2. Chính sách và đánh giá chính sách 14 1.2.1. Khái niệm chính sách 14 1.2.2. Đánh giá chính sách 21 iii
  4. 1.3. Dịch vụ giáo dục đại học và nhập khẩu dịch vụ giáo dục đại học 28 1.3.1. Dịch vụ giáo dục đại học 28 1.3.2. Nhập khẩu dịch vụ GDĐH 33 1.4. Hội nhập quốc tế và những yêu cầu đối với NKDV GDĐH 35 1.4.1. Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế GDĐH 35 1.4.2. Những ảnh hưởng và yêu cầu NKDV GDĐH trong thời kỳ hội nhập 37 1.5. Chính sách và đánh giá chính sách NKDV GDĐH 42 1.5.1. Chính sách nhập khẩu dịch vụ GDĐH 42 1.5.2. Đánh giá chính sách NKDV GDĐH 42 1.6. Các nhân tố chủ quan và khách quan ảnh hƣởng đến chính sách NKDV GDĐH 47 1.6.1. Các nhân tố chủ quan ảnh hưởng đến chính sách NKDV GDĐH 47 1.6.2. Các nhân tố khách quan ảnh hưởng đến chính sách NKDV GDĐH 47 CHƢƠNG 2: CƠ SỞ THỰC TIỄN VỀ CHÍNH SÁCH NHẬP KHẨU DỊCH VỤ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC 55 2.1. Khái quát về GDĐH và khả năng đáp ứng nhu cầu xã hội của GDĐH Việt Nam . 55 2.1.1. GDĐH Việt Nam sau khi gia nhập WTO 55 2.1.2. Khả năng đáp ứng nhu cầu xã hội của GDĐH Việt Nam 56 2.1.3. Đánh giá chung về khả năng đáp ứng nhu cầu XH của GDĐH Việt Nam 60 2.2. Tổ chức khảo sát thực trạng chính sách NKDV GDĐH Việt Nam 61 2.2.1. Mục đích khảo sát. 61 2.2.2. Đối tượng và phạm vi khảo sát 61 2.2.3. Nội dung và phương pháp khảo sát 62 2.2.4. Xử lý số liệu khảo sát 62 2.3. Thực trạng chính sách NKDV GDĐH Việt Nam 62 2.3.1. Thực trạng tổ chức, chỉ đạo thực hiện chính sách NKDV GDĐH 62 2.3.2. Thực trạng thực hiện sách NKDV GDĐH 72 2.3.3. Thực trạng tác động của các chính sách NKDV GDĐH 95 2.3.4. Thực trạng các nhân tố ảnh hưởng 102 iv
  5. 2.4. Đánh giá chung về thực trạng thực hiện và tác động của chính sách NKDV GDĐH Việt Nam 106 2.5. Chính sách NKDV GDĐH của một số nƣớc và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam 108 2.5.1. Hàn Quốc 108 2.5.2. Ấn Độ 109 2.5.3. Singapore 111 2.5.4. Trung Quốc 112 2.5.5. Bài học kinh nghiệm rút ra cho Việt Nam 114 CHƢƠNG 3. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH NHẬP KHẨU DỊCH VỤ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ HNQT 117 3.1. Định hƣớng về nhập khẩu dịch vụ giáo dục đại học 117 3.2. Nguyên tắc đề xuất các giải pháp 120 3.2.1. Đảm bảo đúng pháp luật và thẩm quyền 120 3.2.2. Đảm bảo tính kế thừa và phát triển 120 3.2.3. Đảm bảo tính cấp thiết 121 3.3. Giải pháp hoàn thiện chính sách NKDV GDĐH ở Việt Nam trong thời kỳ HNQT. 122 3.3.1. Nâng cao nhận thức cho các chủ thể quản lý các cấp về tầm quan trọng của NKDV GDĐH trong thời kỳ HNQT. 122 3.3.2. Hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật và cơ chế quản lý hoạt động NKDV GDĐH trong thời kỳ HNQT 124 3.3.3. Xây dựng kế hoạch tổng thể NKDV GDĐH Việt Nam trong thời kỳ HNQT . 131 3.3.4. Đề xuất hệ thống tiêu chuẩn, thang, chỉ số và quy trình đánh giá chính sách NKDV GDĐH 133 3.3.5. Tăng cường năng lực của các chủ thể thực hiện chính sách NKDV GDDH 143 3.4. Khảo nghiệm và thử nghiệm giải pháp 147 3.4.1. Khảo nghiệm tính cần thiết và khả thi của các giải pháp 147 3.4.2. Tổ chức thử nghiệm một giải pháp đã đề xuất 153 Kết luận và khuyến nghị 159 1. Kết luận 159 2. Một số khuyến nghị 161 2.1. Đối với Nhà nước 161 v
  6. 2.2. Đối với Bộ Giáo dục và Đào tạo 162 2.3. Đối với các cơ quan nghiên cứu và cơ sở giáo dục đào tạo đại học: 162 Danh mục tài liệu tham khảo 163 Phụ lục 2.1: Tỷ lệ biết về những văn bản liên quan đến NKDV GDĐH 172 Phụ lục 2.2: Danh mục các chƣơng trình dự án nguồn vốn ODA cho giáo dục đại học và sau đại học 173 Phụ lục 2.3: Danh sách các chƣơng trình liên kết đào tạo với nƣớc ngoài đã đƣợc Bộ Giáo dục và Đào tạo phê duyệt từ năm 2009-2014 173 Phụ lục 2.4: Số lƣợng các chƣơng trình LKĐT phân bố theo quốc gia 207 Phụ lục 2.5: Phiếu khảo sát : Dùng cho SV đã và đang hƣởng thụ chƣơng trình đào tạo với nƣớc ngoài của Việt Nam 207 Phụ lục 2.6: Phiếu khảo sát: Dùng cho Lãnh đạo các trƣờng Đại học 214 Phụ lục 2.7: Phiếu khảo sát: Dùng cho Cán bộ quản lý, Giảng viên các trƣờng Đại học 221 Phụ lục 2.8: Phiếu khảo sát: Dùng cho ngƣời sử dụng nhân lực là cựu sinh viên đã thụ hƣởng các chƣơng trình đào tạo với nƣớc ngoài của Việt Nam. 228 Hệ thống văn bản pháp quy đƣợc ban hành để chỉ đạo thực hiện NKDV GDĐH 231 Báo cáo kết quả thử nghiệm vi
  7. DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT ADB Ngân hàng Phát triển châu Á (The Asian Development Bank) Bộ GD & ĐT Bộ Giáo dục và Đào tạo Bộ KH & ĐT Bộ Kế hoạch và Đầu tƣ CĐ Cao đẳng CNTT Công nghệ thông tin CSGD Cơ sở giáo dục CSLK Cơ sở liên kết CSVC Cơ sở vật chất CTĐT Chƣơng trình đào tạo CTLK Chƣơng trình liên kết CH Cao học CSĐT Cơ sở đào tạo DV Dịch vụ DVGD Dịch vụ giáo dục DVNK Dịch vụ nhập khẩu ĐH Đại học ĐTĐH Đào tạo đại học ĐBCL Đảm bảo chất lƣợng GDĐH Giáo dục đại học GDP Tổng sản phẩm quốc nội GV Giảng viên GATS Hiệp định chung về thƣơng mại dịch vụ (General Agreement on Trade in Services) GDP Tổng sản phẩm quốc nội (Gross Domestic Product) vii
  8. HNQT Hội nhập quốc tế KTTT Kinh tế thị trƣờng KHXH & NV Khoa học Xã hội và Nhân văn LHS Lƣu học sinh LKĐT Liên kết đào tạo NKDV Nhập khẩu dịch vụ NCKH Nghiên cứu khoa học NCS Nghiên cứu sinh NK Nhập khẩu NKGD Nhập khẩu giáo dục NNL Nguồn nhân lực OECD Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (Organization for Economic Co-operation and Development) ODA Hỗ trợ phát triển chính thức (Official Development Assistance) QLGD Quản lý giáo dục SĐH Sau đại học SV Sinh viên TTS Thực tập sinh ThS Thạc sỹ XNK Xuất nhập khẩu XK Xuất khẩu WB Ngân hàng thế giới (World Bank) WTO Tổ chức Thƣơng mại thế giới (World Trade Organization) XKDV Xuất khẩu dịch vụ viii
  9. DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ, HÌNH BẢNG Bảng 1.1: Khái niệm về các thuật ngữ liên quan đến đánh giá 26 Bảng 1.2: So sánh giữa đánh giá đối chiếu và theo tiêu chí 27 Bảng 1.3: GDĐH trong Hệ thống phân loại dịch vụ của WTO 30 Bảng 1.4: Nhận diện các hoạt động NKDV GDĐH theo 4 phƣơng thức cung cấp dịch vụ của GATS/WTO 35 Bảng 1.5: Khung đánh giá tổ chức, thực hiện và tác động của chính sách NKDV GDĐH 44 Bảng 2.1: Số trƣờng CĐ, ĐH trên cả nƣớc giai đoạn 2000-2014 57 Bảng 2.2: Đội ngũ GV các trƣờng CĐ, ĐH giai đoạn 2009-2013 59 Bảng 2.3: Ý kiến đánh giá về các văn bản pháp quy đã đƣợc ban hành chỉ đạo thực hiện chính sách NKDV GDĐH 71 Bảng 2.4: Thống kê số chƣơng trình liên kết theo địa phƣơng 93 Bảng 2.5: Tổng hợp mức độ hài lòng của các đối tƣợng hƣởng lợi từ chính sách NKDV GDĐH 95 Bảng 2.6: Đánh giá của ngƣời sử dụng lao động về mức độ ƣu tiên đối với SV tham gia chƣơng trình từ NKDV GDĐH 99 Bảng 2.7: Đánh giá về CL của SV tốt nghiệp từ các CTNK GDĐH 100 Bảng 2.8: Đánh giá mức độ đáp ứng của các điều kiện đảm bảo thực hiện chính sách về NKDV GDĐH 102 Bảng 2.9: Đánh giá của lãnh đạo các trƣờng đại học về mức độ ảnh hƣởng của các yếu tố đến NKDV GDĐH 103 Bảng 2.10: Đánh giá của cán bộ quản lý về mức độ ảnh hƣởng của các yếu tố đến NKDV GDĐH 104 Bảng 2.11: Đánh giá của SV về mức độ ảnh hƣởng của các yếu tố đến NKDV GDĐH 105 Bảng 2.12: Ý kiến đánh giá về chính sách NKDV GDĐH ở Việt Nam 106 Bảng 3.1: Thang đo tiêu chuẩn, tiêu chí và chỉ số đánh giá chính sách NKDV GDĐH 137 Bảng 3.2: Ý kiến đánh giá của chuyên gia quản lý giáo dục về sự cần thiết của các giải pháp đƣợc đƣa ra trong luận án 148 Bảng 3.3: Tỷ lệ ý kiến các chuyên gia về giải pháp “Nâng cao nhận thức cho các chủ thể quản lý về tầm quan trọng của nhập khẩu dịch vụ giáo dục đại học trong thời kỳ HNQT ” 150 ix
  10. Bảng 3.4: Tỷ lệ ý kiến các chuyên gia về giải pháp “Hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật và cơ chế quản lý hoạt động NKDV GDĐH trong thời kỳ HNQT ” 150 Bảng 3.5: Ý kiến các chuyên gia về giải pháp: “Xây dựng kế hoạch tổng thể NKDV GDĐH Việt Nam trong thời kỳ HNQT” 151 Bảng 3.6: Ý kiến các chuyên gia về giải pháp “Đề xuất hệ thống tiêu chuẩn, thang và chỉ số đánh giá chính sách NKDV GDĐH" 152 Bảng 3.7: Ý kiến các chuyên gia về giải pháp “Tăng cƣờng năng lực của chủ thể thực hiện chính sách NKDV GDĐH” 153 Bảng 3.8: Tổng hợp kết quả đánh giá chính sách "Khuyến khích mở rộng hợp tác song phƣơng" theo Hệ thống tiêu chí đề xuất 155 HÌNH: Hình 1.1: Chu trình chính sách 19 Hình 1.2: Nhân tố chủ quan và khách quan ảnh hƣởng đến chính sách NKDV GDĐH 53 Hình 2.1: Số trƣờng cao đẳng, đại học trên cả nƣớc giai đoạn 2000-2013 58 Hình 2.2 Quy mô SV CĐ, ĐH giai đoạn 2000- 2014 58 Hình 2.3: Tỷ lệ GV có trình độ SĐH giai đoạn 2001 – 2012 60 Hình 2.4. Số lƣợng các CT LKĐT đƣợc phê duyệt giai đoạn 2009-2014 78 Hình 2.5: Cơ cấu hệ đào tạo liên kết. 78 Hình 2.6: Cơ cấu ngành nghề liên kết 79 Hình 2.7: Số lƣợng các chƣơng trình LKĐT phân bố theo quốc gia 80 Hình 2.8: Tỷ lệ cấp bằng cho các chƣơng trình liên kết 81 Hình 2.9: Ý kiến đánh giá của sinh viên về giáo viên nƣớc ngoài 86 Hình 2.10: Đánh giá của SV về giáo viên Việt Nam 87 Hình 2.11: Đánh giá về cán bộ quản lý, cơ sở vật chất và tài liệu giảng dạy 89 Hình 2.12: Ý kiến đánh giá về các điều kiện NKCT của cơ sở GDĐH Việt Nam 90 Hình 2.13: Ý kiến đánh giá về các dịch vụ nhập khẩu 98 Hình 2.14: Tỷ lệ ý kiến về sử dụng học viên sau khi tốt nghiệp 98 Hình 2.15: Đánh giá về “giá trị gia tăng” của CSĐT Việt Nam khi NKDV GDĐH 101 Hình 2.16: Đánh giá mức độ ảnh hƣởng của các yếu tố đến NKDV GDĐH 105 SƠ ĐỒ: Sơ đồ 2.1. Mô hình quản lý hoạt động NKDV GDĐH ở Việt Nam 63 Sơ đồ 3.1. Quy trình đánh giá chính sách NKDV GDĐH 142 x
  11. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Ngày 11/1/2007, Việt Nam chính thức trở thành thành viên của tổ chức thƣơng mại thế giới WTO và bắt đầu thực hiện các cam kết GATS, trong đó giáo dục là một trong mƣời hai ngành dịch vụ mà Việt Nam có cam kết. Trên thực tế, khi đƣa ra bản chào dịch vụ đa phƣơng, mức cam kết của Việt Nam là khá sâu và rộng đối với GDĐH. Theo đó, ta mở cửa cho phép các nhà đầu tƣ nƣớc ngoài đƣợc tiếp cận thị trƣờng GDĐH trong các lĩnh vực kỹ thuật, khoa học tự nhiên và công nghệ, quản trị kinh doanh và khoa học kinh doanh, kinh tế, kế toán, ngôn ngữ và luật quốc tế. Sự hiện diện thƣơng mại của các CSGD nƣớc ngoài là không hạn chế đối với các CSLK kể từ ngày Việt Nam gia nhập WTO và cũng không hạn chế đối với các cơ sở 100% vốn nƣớc ngoài kể từ sau ngày 1/1/2009. Việt Nam có một thị trƣờng DV GDĐH khá hấp dẫn với các nƣớc XK GDĐH, với khoảng trên dƣới 1 triệu học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông hàng năm. Hiện nay, hệ thống GDĐH trong nƣớc chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu về các DV GDĐH, nhất là chất lƣợng GDĐH; chƣa đáp ứng đƣợc nhu cầu học tập đa dạng về hình thức, về chất lƣợng cho nhiều nhóm ngƣời học khác nhau, nhất là đối với nhóm đối tƣợng có khả năng chi trả. Số lƣợng HS, SV Việt Nam đi du học nƣớc ngoài ngày càng tăng, đặc biệt là khoảng 15 năm trở lại đây. Bên cạnh đó, các nhà cung cấp DV GDĐH nƣớc ngoài cũng đang hƣớng đến thị trƣờng Việt Nam qua phƣơng thức 3 và 4 trong cam kết GATS. Với chính sách mở cửa về kinh tế, với sự bùng nổ về nhu cầu NNL chất lƣợng cao cho sự nghiệp CNH, HĐH đất nƣớc, nhiều hoạt động NKNV GDĐH đã đƣợc thực thi. Hàng năm, ƣớc tính Chính phủ và ngƣời dân Việt Nam chi hàng nghìn tỉ đồng để NKDV GDĐH từ các nƣớc Mỹ, Úc, Anh, Pháp, Canada, Đức, Nhật, Hàn Quốc, Nga, Singapore, Malaysia, Trung Quốc cho khoảng 70,000 SV Việt Nam du học nƣớc ngoài. Nguồn kinh phí này chủ yếu là tƣ̀ nguồn kinh phí tự túc của ngƣời học. Bên cạnh đó, Việt Nam NK khá nhiều các CTĐT, mời các giáo sƣ, nhà nghiên cứu, chuyên gia và triển khai hoạt động đào tạo tại Việt Nam. Hoạt động NK này đƣợc tiến hành bởi CSĐT Việt Nam gồm cả công lập, tƣ nhân, 1
  12. và nhà đầu tƣ nƣớc ngoài. Một số hoạt động NK nằm ngoài, một phần thậm chí có thể là hoàn toàn, sự kiểm soát của Nhà nƣớc. Tuy nhiên, nhiều chính sách quản lý NK GDĐH Việt Nam vẫn xem DV GDĐH không phải là một ngành dịch vụ và đặc biệt chính sách NKDV GDĐH ở Việt Nam không phải là chính sách chuyên biệt. Hệ thống các định chế pháp lý chƣa đầy đủ và chƣa phản ánh hết thực tiễn sinh động của hoạt động NK này. Cơ chế quản lý còn quá tập trung, quan liêu, xin cho và thiếu hệ thống giám sát chất lƣợng một cách hiệu quả. Cơ chế và các chính sách quản lý hoạt động NKDV GDĐH còn nhiều bất cập trong bối cảnh toàn cầu hóa HNQT. Bên cạnh các hoạt động NK có sự điều tiết và kiểm soát bởi Nhà nƣớc, còn có nhiều hoạt động diễn ra tự phát, bị động bởi nhà XK vì mục tiêu lợi nhuận, có các hành vi “lừa đảo” ngƣời học Do vậy, đã xảy ra không ít sự việc đáng tiếc, gây hậu quả cho ngƣời học, làm nhiễu loạn thị trƣờng DV GDĐH. Mặc dù đã có nhiều Hội thảo, Hội nghị, tọa đàm xung quanh những cơ hội và thách thức đặt ra cho nền GDĐH khi Việt Nam gia nhập WTO, đã có nhiều diễn đàn trên các trang thông tin điện tử thảo luận về vấn đề này, nhƣng đến nay vẫn chƣa có nhiều nghiên cứu chuyên sâu nào về chính sách NKDV GDĐH của các quốc gia và bài học khả năng áp dụng cho Việt Nam, vẫn vắng bóng những nghiên cứu đủ sâu để đo lƣờng những tác động của WTO/GATS đối với hệ thống GDĐH Việt Nam. Do vậy, Việt Nam cần nhiều hơn nữa các nghiên cứu chuyên sâu để từ đó đề xuất các chính sách hữu hiệu, phù hợp, góp phần tăng cƣờng quản lý các hoạt động NKDV GDĐH trong bối cảnh đổi mới cơ bản và toàn diện GDĐH Việt Nam, đáp ứng sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc. Những phân tích trên là lý do để tôi chọn đề tài luận án tiến sỹ về “Chính sách nhập khẩu dịch vụ giáo dục đại học trong thời kỳ hội nhập quốc tế ở Việt Nam”. 2. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn luận án đề xuất giải pháp hoàn thiện chính sách NKDV GDĐH của Việt Nam đáp ứng yêu cầu HNQT. 3. Khách thể và đối tƣợng nghiên cứu 3.1. Khách thể nghiên cứu Hoạt động NKDV GDĐH trong thời kỳ HNQT của Việt Nam 2
  13. 3.2. Đối tượng nghiên cứu Chính sách NKDV GDĐH của Việt Nam 4. Giả thuyết khoa học Việt Nam đã ban hành và thực thi chính sách về NKDV GDĐH, tuy nhiên, các chính sách này còn một số mặt hạn chế nên chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu HNQT. Nếu vận dụng các phƣơng thức cung cấp dịch vụ đƣợc quy định trong Hiệp đinh GATS và kinh nghiệm các quốc gia, sẽ đề xuất các giải pháp hoàn thiện các chính sách NKDV GDĐH, đảm bảo tính cần thiết, khả thi nhằm góp phần nâng cao chất lƣợng GDĐH trong thời kỳ HNQT. 5. Nội dung và phạm vi nghiên cứu 5.1. Nội dung nghiên cứu - Cơ sở lý luận về chính sách NKDV GDĐH trong thời kỳ HNQT. - Kinh nghiệm của một số nƣớc về chính sách NKDV GDĐH, bài học kinh nghiệm cho Việt Nam. - Thực trạng hoạt động NKDV GDĐH và chính sách NKDV GDĐH ở Việt Nam sau khi gia nhập WTO. - Đề xuất các giải pháp hoàn thiện chính sách NKDV GDĐH trong thời kỳ HNQT ở Việt Nam. - Khảo nghiệm, thăm dò tính cần thiết, tính khả thi một một giải pháp và thử nghiệm một giải pháp đƣợc đề xuất trong khuôn khổ luận án. 5.2. Phạm vi nghiên cứu - Trong khuôn khổ của một luận án tiến sĩ, đề tài chỉ tập trung nghiên cứu các chính sách cấp quốc gia, đồng thời xem xét việc thực hiện chính sách này ở cấp trƣờng (cấp cơ sở) về NKDV GDĐH - Chính sách NKDV GDĐH đƣợc tiếp cận 4 theo phƣơng thức: cung cấp qua biên giới; tiêu dùng ở nƣớc ngoài; hiện diện thƣơng mại; hiện diện thể nhân. - Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu thực trạng tổ chức, thực hiện và tác động của các chính sách NKDV GDĐH từ sau khi Việt Nam gia nhập WTO. - Nghiên cứu khảo nghiệm sự cần thiết và khả thi một số chính sách NKDV GDĐH tại một số trƣờng ĐH công lập ở Việt Nam: ĐH Ngoại thƣơng, ĐH Kinh tế Quốc dân. ĐH Hà Nội, ĐH Đà Nẵng và ĐH Thƣơng mại, ĐH Giáo dục - ĐH quốc gia Hà Nội. - Tổ chức thử nghiệm một giải pháp đã đề xuất. 3
  14. 6. Phƣơng pháp tiếp cận và phƣơng pháp nghiên cứu 6.1. Phương pháp tiếp cận Luận án dựa trên cơ sở phƣơng pháp luận của chủ nghĩa duy vật lịch sử và duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về phát triển, QLGD trong thời kỳ HNQT. Các tiếp cận trong nghiên cứu của luận án là: - Tiếp cận lịch sử - logic: Tiếp cận này cho phép khi nghiên cứu các chính sách cần đặt nó vào bối cảnh lịch sử cụ thể, cũng nhƣ các mối liên hệ và phát triển theo logic biện chứng của sự vật và hiện tƣợng. Vì vậy, khi nghiên cứu, chính sách NKDV GDĐH cần xem xét tính đặc thù của phát triển GDĐH Việt Nam trong quá trình hội nhập ngày càng sâu và rộng với thế giới. - Tiếp cận thị trường: Tiếp cận này cho phép khi nghiên cứu các chính sách nói chung và chính sách phát triển giáo dục nói riêng cần đặt nó vào một môi trƣờng KTTT. Giáo dục là một loại hình DV đặc biệt, vì vậy chính sách NKDV GD cũng phải tuân theo các quy luật của KTTT. Trong quá trình giải quyết những nhiệm vụ nghiên cứu, tiếp cận thị trƣờng là phƣơng pháp chủ đạo để xây dựng khung lý luận nghiên cứu vấn đề, đánh giá thực trạng và đề xuất các giải pháp hoàn thiện chính sách NKDV GDĐH. - Tiếp cận hội nhập và toàn cầu hóa: Tiếp cận này cho phép khi nghiên cứu các chính sách nói chung và chính sách phát triển giáo dục nói riêng cần xem xét nó theo những chuẩn mực và luật chơi quốc tế. Đây là phƣơng pháp tiếp cận chủ đạo trong việc lựa chọn những nội dung và hình thức NKDV GDDH phù hợp với những quy định của các hiệp định thƣơng mại và dịch vụ mà Việt Nam đã tham gia ký kết với quốc tế, nhƣng vẫn đảm bảo bản sắc dân tộc của Việt Nam. - Tiếp cận thực tiễn: Nghiên cứu chính sách NKDV GDĐH của một số nƣớc nhƣ Hàn Quốc, Ấn Độ, Trung Quốc, Singapore và Việt Nam trong giai đoạn hiện nay cũng nhƣ các hình thức NK DVGD theo quan điểm thƣơng mại hóa của WTO. - Tiếp cận phân tích chính sách: Đƣợc sử dụng để phân tích các chính sách NKDV GDĐH theo chu trình từ việc hoạch định, thực hiện, đánh giá và điều chỉnh chính sách. 4
  15. 6.2. Phương pháp nghiên cứu Để thực hiện mục tiêu và các nhiệm vụ trên của luận án, các phƣơng pháp nghiên cứu sau đây đƣợc sử dụng: - Nhóm các phương pháp nghiên cứu lý luận: Nghiên cứu các tài liệu, văn kiện của Đảng, Chính phủ về các chính sách NKDV GDĐH. Phân tích, những tƣ liệu khoa học về chính sách NKDV GDĐH để xây dựng khung lý thuyết NKDV GDĐH thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH và HNQT. - Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn: + Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi: Cán bộ quản lý của các cơ quan quản lý nhà nƣớc về GDĐH, cán bộ quản lý và GV, những cựu SV, học viên cao học và NCS của các CSGD ĐH có áp dụng DVNK GDĐH. + Phương pháp chuyên gia: Nhằm xác định đúng về thực trạng những điểm mạnh, điểm yếu của hoạt động NK và chính sách NKDV GDĐH ở Việt Nam, các tiêu chí thực hiện đánh giá chính sách NKDV GDĐH Việt Nam, các cách thức để khắc phục các yếu kém, thực hiện thành công công tác quản lý hoạt động NKDV GDĐH ở Việt Nam. Đồng thời, xin ý kiến các chuyên gia về sự phù hợp, cấp thiết và khả thi của các giải pháp về chính sách NKDV GDĐH trong luận án. + Phương pháp nghiên cứu điển hình: Lựa chon một số cơ sở GDĐH điển hình trong việc thực hiện thành công hoặc thất bại trong việc triển khai các hoạt động NKDV GDĐH, nghiên cứu sâu và rút ra những bài học kinh nghiệm trong việc áp dụng các chính sách trong quản lý lĩnh vực này. + Phương pháp tổng kết kinh nghiệm thực tiễn: Tổng kết kinh nghiệm thực tiễn vận dụng các chính sách NKDV GDĐH thông qua các báo cáo tổng kết về công tác này của các cơ quan quản lý GDĐH và của các cơ sở GDĐH. + Phương pháp thống kê: Để xử lý các số liệu thống kê hiện có và kết quả điều tra khảo sát thực trạng NKDV GDĐH. + Phương pháp kiểm chứng và thử nghiệm: Trên cơ sở những giải pháp đƣa ra tác giả dự kiến kiểm chứng tính cấp thiết và tính khả thi của các giải pháp thông qua ý kiến cán bộ quản lý của các cơ quan quản lý nhà nƣớc về GDĐH và các trƣờng. Ngoài ra, để chứng minh giả thuyết khoa học, đề tài đã lựa chọn một số giải pháp đƣợc kiểm chứng có tính cấp thiết và khả thi cao đƣa vào thử nghiệm. 5
  16. 7. Nhiệm vụ nghiên cứu - Tổng quan các chính sách về NKDV GDĐH của Việt Nam bắt đầu từ thời kỳ đổi mới đến thời điểm hiện nay, trong đó chủ yếu là giai đoạn sau khi Việt Nam gia nhập WTO. Đồng thời, luận án nghiên cứu kinh nghiệm của một số nƣớc về NKDV GDĐH điển hình là Hàn Quốc, Ấn Độ, Singapore và Trung Quốc. - Đánh giá thực trạng chính sách NKDV GDĐH của Việt Nam theo 4 phƣơng thức thực hiện: cung cấp qua biên giới; tiêu dùng ở nƣớc ngoài; hiện diện thƣơng mại; hiện diện thể nhân. - Đề xuất các giải pháp để hoàn thiện chính sách NKDV GDĐH có hiệu quả, chất lƣợng, phục vụ cho mục tiêu hội nhập của đất nƣớc. - Tổ chức thử nghiệm một giải pháp đã đề xuất. 8. Luận điểm bảo vệ - Chính sách NKDV GDĐH chỉ phù hợp với tiến trình HNQT khi việc ban hành và thực thi cần phải tuân theo những quy luật của KTTT và những điều khoản quy định trong Hiệp định GATS. - Hoạt động NKDV GDĐH chỉ đƣợc cải thiện và phù hợp với sự phát triển của giáo dục và tiến trình HNQT khi nó đƣợc tuân thủ theo khung đánh giá chính sách phù hợp. - Chính sách NKDV GDĐH phải đảm bảo tính đồng bộ, khả thi, cần thiết. 9. Nơi thực hiện đề tài nghiên cứu Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam. 10. Những đóng góp mới của luận án - Về lý luận: Luận án đã hệ thống hóa và làm phong phú thêm những vấn đề lý luận về chính sách NKDV GDĐH trong bối cảnh HNQT. Làm rõ đặc tính của DV GDĐH; xây dựng khung lý thuyết đánh giá chính sách NKDV GDĐH với Hệ thống tiêu chuẩn, thang, chỉ số và quy trình đánh giá gồm 4 tiêu chuẩn, 11 tiêu chí và 42 chỉ số. - Về thực tiễn: Dựa trên khung lý thuyết để phân tích đánh giá toàn diện thực trạng các chính sách NKDV GDĐH của Việt Nam; xem xét, phân tích làm rõ những điểm phù hợp và chƣa phù hợp của các chính sách này và từ những bài học kinh nghiệm quốc tế, đề xuất các giải pháp hoàn thiện chính sách NKDV GDĐH nƣớc ta. 6
  17. - Về các đề xuất và kiến nghị: Luận án đã đề xuất các giải pháp hoàn thiện các chính sách NKDV GDĐH Việt Nam nhằm nâng cao hiệu quả, chất lƣợng đào tạo NNL và bảo vệ quyền lợi chính đáng của ngƣời học trong thời kỳ HNQT. 11. Bố cục của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung chính của luận án đƣợc kết cấu thành 3 chƣơng: Chƣơng 1: Cơ sở lý luận về chính sách NKDV GDĐH trong thời kỳ HNQT. Chƣơng 2: Cơ sở thực tiễn về chính sách NKDV GDĐH. Chƣơng 3: Giải pháp hoàn thiện chính sách NKDV GDĐH Việt Nam trong thời kỳ HNQT. 7
  18. CHƢƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH NHẬP KHẨU DỊCH VỤ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC TRONG THỜI KỲ HỘI NHẬP QUỐC TẾ 1.1. Tổng quan nghiên cứu vấn đề Quá trình HNQT đang diễn ra ở tất cả các quốc gia với quy mô và tốc độ rất khác nhau. Giáo dục không nằm ngoài những tác động này. Vấn đề liên quan đến luận án đã đƣợc các nhà khoa học nghiên cứu và công bố tại nhiều công trình trong nƣớc và trên thế giới. Các nghiên cứu này có thể chia theo một số tiêu thức cụ thể sau: 1.1.1. Nghiên cứu về GDĐH trong thời kỳ HNQT Mary Louise Kearney, Giám đốc phụ trách ban thƣ ký UNESCO đã đề cập đến những thách thức hiện tại của GDĐH và SĐH nhƣ cung và cầu, chất lƣợng và hiệu quả mang lại cho cả hai phía: CSGD và ngƣời đƣợc đào tạo; chính sách đổi mới CSHT và trình độ NNL. Tác giả cũng nhấn mạnh vai trò ngày càng tăng của các trƣờng ĐH NCKH, đặc biệt là các nƣớc OECD đã đầu tƣ rất nhiều cho nghiên cứu ở các trƣờng ĐH từ những năm 1990, trong đó nghiên cứu ĐH, SĐH là nhân tố quan trọng để nâng cao chất lƣợng trong GD. Diễn đàn quốc tế “Gia nhập WTO và đổi mới GDĐH Việt Nam”, 11- 12/12/2006 tại Hà Nội, Philip Altbach cũng đã nghiên cứu và nhận định chung về tác động của GATS “GATS tác động đến những vấn đề trung tâm của GDĐH” nhƣ: tự chủ, ra quyết định, chính sách quốc gia Và ông cũng nhận định những mặt trái của GATS: “Các thị trƣờng mở, ít nhất trong GDĐH, thúc đẩy sự bình đẳng đang tồn tại. Nếu biên giới giáo dục hoàn toàn đƣợc mở, những ngƣời cung cấp giáo dục mạnh nhất và giầu nhất sẽ thâm nhập mà không bị giới hạn. Các nƣớc và các trƣờng ĐH không đủ sức cạnh tranh sẽ rất khó phát triển. Điều đó có nghĩa là các nƣớc đang phát triển sẽ bị thiệt thòi. Các trƣờng ĐH địa phƣơng sẽ khó cạnh tranh với những nhà cung cấp GDĐH xây dựng trƣờng ở nƣớc họ. Các nhà cung cấp DV GDĐH nƣớc ngoài sẽ chọn các mảng béo bở dễ kiếm lời nhất của thị trƣờng - thƣờng là các ngành quản trị kinh doanh, CNTT, tài chính ngân hàng, phần còn lại dành cho các trƣờng bản xứ. Các lĩnh vực nhƣ khoa học cơ bản đòi hỏi các phòng thí nghiệm và thiết bị tốn kém và không đem lại các điều kiện kiếm lợi trƣớc mắt, 8
  19. sẽ bị các nhà cung cấp nƣớc ngoài bỏ qua ”. Ông viết: “Toàn cầu hóa về tri thức hiện vẫn đang hoạt động mạnh mẽ mà không cần phải khoác chiếc áo của GATS và WTO. Chúng ta sẽ tiến lên một sự toàn cầu hóa dựa trên sự bình đẳng chứ không phải chủ nghĩa thực dân mới”. Ông đã chỉ ra những nét chính trong việc hoạch định chính sách GDĐH trong thời kỳ HNQT và cam kết GATS [65]. Ngoài ra, còn phải kể đến các công trình nghiên cứu của Chiristopher Ziguras [95] và Mark A, Ashwill [106] mô tả về ảnh hƣởng của GATS đối với GDĐH của các nƣớc đang phát triển ở châu Á, về chính sách của các nƣớc XNK DV GDĐH. Ở Việt Nam cũng có nhiều tác giả nghiên cứu về vấn đề này, đó là Vũ Ngọc Hải [91] đã nghiên cứu vấn đề về quyền tự chủ, trách nhiệm xã hội của các trƣờng ĐH. Ông cho rằng: Quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của các trƣờng ĐH ở nƣớc ta hiện nay phải đƣợc coi là động lực chủ yếu, là đòn bẩy để nhanh chóng phát triển GDĐH, là giải pháp cơ bản và hữu hiệu trong xóa bỏ cơ chế “xin cho” rơi rớt của chế độ tập trung, quan liêu, bao cấp vẫn đang tồn tại nặng nề hiện nay. Giao quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm cho các trƣờng ĐH của nƣớc ta thì chắc chắn một điều là các trƣờng có thể tự mình tạo ra cơ hội và đƣờng đi ngắn nhất, hiệu quả nhất trong đào tạo NNL đáp ứng yêu cầu của HNQT. Tác giả Trần Văn Nhung [85] đã thực hiện đề tài: “Nghiên cứu, xây dựng giải pháp đào tạo cán bộ KHKT ở nƣớc ngoài từ năm 1995 đến 2005”. Cơ quan chủ trì là Viện nghiên cứu phát triển giáo dục, Bộ GD & ĐT – 2000. Đề tài đã nghiên cứu thực trạng và yêu cầu phát triển đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ giai đoạn 2010 – 2020 của đất nƣớc, nhóm tác giả xây dựng các giải pháp đào tạo cán bộ khoa học kỹ thuật công nghệ tại các CSĐT nƣớc ngoài theo tinh thần Nghị quyết TW2 của Đảng đến năm 2020 bằng ngân sách nhà nƣớc kết hợp với sự giúp đỡ và hợp tác nƣớc ngoài. Tuy nhiên, đề tài vẫn chƣa đƣa ra đƣợc những chính sách cho việc HTQT đối với GDĐH hay cụ thể hơn là đề tài chƣa chỉ ra chính sách NKDV GDĐH cho Việt Nam trong thời kỳ HNQT một cách có hệ thống. Phạm Đỗ Nhật Tiến với nghiên cứu “Phát triển GDĐH Việt Nam trong bối cảnh nƣớc ta gia nhập WTO” [62] đã nghiên cứu GDĐH Việt Nam sau 9
  20. WTO với việc tích cực thực hiện các cam kết về GATS trong lĩnh vực giáo dục. Nghiên cứu của ông cũng chỉ ra rằng nền GDĐH nƣớc ta phải thay đổi để thích ứng với các điều kiện mới; yêu cầu thay đổi đã trở thành vấn đề toàn cầu. Ngoài ra, nghiên cứu của ông cũng đã đƣa ra kịch bản về sự phát triển GDĐH Việt Nam sau WTO là dựa trên giả thiết là bao giờ, nhƣ thế nào và với điều kiện gì Việt Nam sẽ mở cửa giáo dục theo các cam kết về GATS. Tác giả Bành Tiến Long [6], cũng đã đƣa ra thực trạng quản lý nhà nƣớc về GDĐH thể hiện rất cụ thể trong Báo cáo tại diễn đàn quốc tế “Gia nhập WTO và đổi mới GDĐH Việt Nam”, Hà Nội, 12/2006: chiến lƣợc, cơ chế, chính sách phát triển GDĐH không rõ ràng, mức độ chuẩn xác không cao; nhiều chính sách đã lạc hậu không đáp ứng kịp với sự phát triển KTXH; tƣ duy quản lý Nhà nƣớc về GDĐH còn mang nặng quán tính của cơ chế bao cấp, mệnh lệnh chƣa phù hợp với sự đổi mới của cơ chế kinh tế và HNQT; công tác thống kê, thông tin rất yếu và thiếu chính xác; công tác kiểm tra, thanh tra còn mang nặng hình thức; hệ thống kiểm định và ĐBCL GDĐH vẫn chƣa đánh giá đƣợc chất lƣợng của các trƣờng ĐH nƣớc ta. Từ thực trạng của nền giáo dục nƣớc nhà, ông đã đƣa ra một số giải pháp cần phải thực hiện. 1.1.2. Nghiên cứu về chính sách và chính sách GDĐH Nghiên cứu về chính sách có công trình của Keely Brain (2007) [103]. Tác giả nêu những tác động của toàn cầu hóa, CNTT và viễn thông đến các quốc gia nhƣ dòng chảy nhân lực, khả năng tạo việc làm .Xã hội hiện đại đòi hỏi những giá trị của các kỹ năng cao, các công việc phức tạp và sáng tạo. Nhƣ vậy, hiệu quả kinh tế của các nƣớc phải dựa vào tri thức, kỹ năng, của nhân lực có trình độ. Các công trình nghiên cứu của Christopher Ziguras (2003) [97]. Công trình mô tả ảnh hƣởng của GATS đối với GDĐH của các nƣớc đang phát triển ở Châu Á và về chính sách của các nƣớc XNK GD, về những tác động tiềm tàng của chính sách nhƣ tài chính, ĐBCL, công nhận giá trị bằng cấp, tình trạng chảy máu chất xám và những câu hỏi đặt ra cho các nhà lãnh đạo giáo dục về vai trò của họ đối với nền giáo dục quốc gia. Heather Eggins [98] (2008), nghiên cứu “Các xu hƣớng và vấn đề trong GDĐH”. Ông đã đặt GDĐH trong bối cảnh toàn cầu hóa, những ảnh 10
  21. hƣởng của nó đối với các nƣớc trên thế giới nói chung và Châu Âu với sự phát triển của quá trình Bologa, những lợi thế do GDĐH, SĐH mang lại cho các nƣớc khi đào tạo đƣợc nhân lực trình độ cao phục vụ cho chuỗi giá trị toàn cầu. Các chính sách công về GDĐH, SĐH, đặc biệt là đối với đào tạo tiến sỹ của các quốc gia mới nổi, sức hút NNL chất lƣợng cao trên thế giới đến các nƣớc phát triển đã tác động nhƣ thế nào đến các chính sách ĐTĐH, SĐH của các nhà nƣớc. Ngoài ra, tác giả cũng đề cập đến dòng chảy SV ra nƣớc ngoài và hậu quả của nó. Cuối cùng là một số giải pháp nâng cao vai trò các trƣờng ĐH, QLCL, cải tiến chƣơng trình giảng dạy, chuyển dịch sang đào tạo tiến sỹ chuyên ngành. Jane Knight [99] (2006), tác giả nghiên cứu “GDĐH xuyên biên giới, hƣớng dẫn thực hiện GATS về giáo dục xuyên biên giới”. Jane Knight làm việc tại trung tâm phát triển giáo dục quốc tế, Viện Ontario về nghiên cứu giáo dục, đại học Toronto, Canada. Trong công trình nghiên cứu này, bên cạnh các vấn đề về chính sách, quy định, tác giả đặc biệt nghiên cứu về tính phức tạp, rủi ro và các cơ hội bắt nguồn từ việc tăng cƣờng chuyển dịch xuyên biên giới của các chƣơng trình giáo dục và các nhà cung cấp giáo dục. Ở Việt Nam, mặc dù việc làm chính sách trong giáo dục là quan trọng, song ở nƣớc ta còn ít công trình nghiên cứu về lĩnh vực này. Công trình nghiên cứu của Hà Thế Ngữ [40]: Ông nghiên cứu về chiến lƣợc và dự báo giáo dục có thể đƣợc xem nhƣ công trình nghiên cứu mang tính quy mô và hệ thống của nƣớc nhà đầu tiên. Song công trình của ông đã đƣợc gần 40 năm, vì vậy cũng cần phải có những nghiên cứu mới, bổ sung để phù hợp với giai đoạn hiện nay và phù hợp với những cam kết quốc tế. Đặng Bá Lãm, Trần Khánh Đức, 2002 (đồng chủ biên) cuốn sách “Phát triển nhân lực công nghệ ƣu tiên ở nƣớc ta trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa” [37]. Cuốn sách là kết quả nghiên cứu của một đề tài cấp nhà nƣớc. Tuy tập trung vào việc đào tạo nhân lực có trình độ cao cho CNTT, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu và tự động hóa, nhƣng các tác giả nghiên cứu cơ sở phƣơng pháp luận và phƣơng pháp phát triển NNL KHCN nói chung, kinh nghiêm quốc tế về đào tạo NNL KHCN có trình độ cao nói riêng. Nhƣng các tác giả chƣa chỉ ra đƣợc cần phải có những chính sách ƣu tiên gì để đào tạo NNL cho những ngành ƣu tiên đó. 11
  22. 1.1.3. Nghiên cứu về chính sách XNK DV GDĐH Mark A.Asawill (2006), [106] công trình nghiên cứu về “Sự lựa chọn các chƣơng trình và đối tác nƣớc ngoài”. Ông đƣa ra một số cảnh báo đối với các nƣớc tiếp nhận DV GDĐH hãy cẩn thận không chỉ với các cỗ máy cấp bằng (degree mills) mà còn với các cỗ máy kiểm định công nhận (accredditation mills). Đặc biệt, ông đã chỉ ra chính sách HTQT trong giáo dục là phải nhanh nhạy, sắc bén với thị trƣờng. Tuy nhiên, nghiên cứu của ông mới chỉ dừng lại ở việc mô tả, mang tính cảnh báo, chƣa nghiên cứu và đƣa ra cụ thể một chính sách nào về GDĐH có yếu tố nƣớc ngoài. Tiêu biểu trong nghiên cứu về chính sách XNK DV GDĐH là Hiệp ƣớc Bologna [94]. Hiệp ƣớc này đƣợc Bộ trƣởng giáo dục của 29 nƣớc Châu Âu ký vào năm 1999 và mở rộng cho các nƣớc tham gia khi có nhu cầu. Đến nay, đã có 47 nƣớc là thành viên của Hiệp ƣớc. Các quốc gia tham gia Hiệp ƣớc theo đuổi mục đích thành lập một khu vực GDĐH Châu Âu với các chuẩn mực về bằng cấp và bảo đảm chất lƣợng có tính so sánh và tƣơng thích hơn trong toàn Châu Âu đến năm 2010. Ở Việt Nam, có công trình nghiên cứu của tác giả Đặng Bá Lãm và Phạm Thành Nghị về “Chính sách và kế hoạch trong QLGD” [36]. Nội dung trong cuốn sách bàn về các vấn đề lý luận của chính sách. Các tác giả đã trình bày các khái niệm cơ bản của chính sách, chiến lƣợc, kế hoạch và mối liên quan giữa các phạm trù này. Cuốn sách mô tả sự phức tạp và đa dạng của phạm trù chính sách. Các vấn đề về quy trình xây dựng chính sách, lập kế hoạch chính sách cũng đƣợc đề cập đến trong cuốn sách. Nhƣng công trình mới chỉ dừng lại ở việc khái quát chứ chƣa đánh giá chính sách cụ thể về GDĐH. Chƣa đề cập đến chính sách NKDV GDĐH của Việt Nam trong thời kỳ HNQT. Trong cuốn chuyên khảo “Chính sách quản lý XNK GDĐH kinh nghiệm quốc tế và sự lựa chọn của Việt Nam” do Lê Phƣớc Minh (chủ biên) [50], tác giả cũng chỉ ra bối cảnh GDĐH trong và ngoài nƣớc trong giai đoạn hiện nay, làm rõ các khái niệm, nhận thức khác biệt về các chính sách quản lý XNK GDĐH, thể hiện quan điểm, đƣờng lối của một số quốc gia về lĩnh vực XNK GDĐH. Tuy nhiên, tác giả cũng chƣa phân tích, đánh giá đƣợc 12
  23. một số tác động của các chính sách hiện hành của Đảng và Nhà nƣớc Việt Nam về hoạt động XNK DV GDĐH hiện nay. Cuốn sách [42] “XNK DV GDĐH của Việt Nam” do Hoàng Văn Châu chủ biên và nhóm tác giả: Vũ Thu Hiền, Đào Ngọc Tiến đã đề cập về DV, DVGD cũng chỉ ra kinh nghiệm của một số quốc gia phát triển XNK giáo dục; phân tích các hoạt động XNK nhƣ quy mô, hệ thống các trƣờng ĐH và đội ngũ giáo viên, nguồn vốn và các phƣơng thức XNK DV GDĐH; định hƣớng và giải pháp phát triển GDĐH Việt Nam đến năm 2020. Tuy nhiên, nhóm tác giả cũng chƣa phân tích, đánh giá tác động một cách cụ thể, chi tiết của các chính sách XNK DV GDĐH của Việt Nam. Công trình mới nhất của Trần Khánh Đức (chủ biên) [84]. Trong cuốn sách “Giáo dục và phát triển NNL trong thế kỷ XXI” đã đề cập đến các vấn đề nhƣ KTTT và giáo dục trong khuôn khổ WTO, chính sách và chiến lƣợc phát triển giáo dục. Nhƣng tác giả chƣa phân tích, đánh giá sâu ảnh hƣởng của chính sách XNK DV GDĐH; chƣa hệ thống hóa các chính sách NKDV GDĐH của Việt Nam trong thời kỳ HNQT. Luận án của Chu Trí Thắng [30] “Chính sách hợp tác nƣớc ngoài về đào tạo SĐH của Việt Nam trong thời kỳ HNQT” đã phân tích, đánh giá các chính sách HTQT về đào tạo nhân lực SĐH của Việt Nam theo quan điểm HNQT, phát triển nhân lực, phát triển kinh tế, xã hội và đề xuất hoàn thiên chính sách HTQT về ĐT SĐH. Tuy nhiên, tác giả chƣa đánh giá đầy đủ các nội dung của chính sách HTQT về đào tạo GDĐH trong thời HNQT. Gần đây một số Hội thảo khoa học về chính sách trong giáo dục đã đƣợc tổ chức. Có thể kể đến Hội thảo: “Nghiên cứu cơ sở khoa học và thực tiễn của các giải pháp đổi mới quản lý nhà nước về GD & ĐT trong bối cảnh nền KTTT định hướng XHCN” Hội thảo quốc tế: “Chính sách đối với nhà giáo và cán bộ QLGD trong tiến trình đổi mới giáo dục” do Trƣờng Đại học Giáo dục, Đại học Quốc gia Hà Nội tổ chức tại Hà Nội tháng 12/2009 [88]. Ngoài ra, có một số công trình nghiên cứu về GDĐH Việt Nam trong bối cảnh HNQT của Nguyễn Công Giáp, nghiên cứu các giải pháp QLGD trong môi trƣờng hội nhập WTO (2008), Học Viện Quản lý giáo dục, Hà Nội [54], Phạm Phụ (2005), về khuôn mặt mới của GDĐH Việt Nam, Nxb ĐH 13
  24. Quốc gia TP Hồ Chí Minh [64] và nhiều tác giả nhƣ Lâm Quang Thiệp, Phạm Đỗ Nhật Tiến Các tác giả đã mô tả bức tranh về toàn cầu hóa HNQT, đồng thời cũng chỉ ra thuận lợi, khó khăn đối với GDĐH Việt Nam khi gia nhập WTO. Từ các nghiên cứu trên, có thể rút ra một số nhận xét sau: Mặc dù có nhiều tác giả trong và ngoài nƣớc quan tâm đến GDĐH và đặc biệt là GDĐH trong thời kỳ HNQT, nhƣng đến nay chƣa có công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống các chính sách NKDV GDĐH, chƣa có công trình nào đi sâu nghiên cứu về các nhân tố ảnh hƣởng, các điều kiện, cơ sở pháp lý xây dựng và hoàn thiện chính sách NKDV GDĐH nâng cao CLĐT, góp phần phát triển NNL chất lƣợng cao đáp ứng yêu cầu HNQT. Trong thời kỳ HNQT, NNL có trình độ cao đƣợc coi là chìa khóa vạn năng của mỗi quốc gia trong phát triển bền vững: kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội. Trong quá trình nghiên cứu đã cho thấy nếu giáo dục nói chung và đặc biệt là GDĐH biết tận dụng các thế mạnh của quá trình hội nhập sẽ nhanh chóng đạt thành công trên mọi lĩnh vực. Nhƣng cũng có điểm cần lƣu ý: Quá trình hội nhập sẽ tạo nhiều cơ hội, nhƣng cũng đặt ra không ít những thách thức đối với mỗi quốc gia đặc biệt là các quốc gia đang phát triển. Vì vậy, các nƣớc đang phát triển phải chuẩn bị những chính sách hữu hiệu nhằm tận dụng quá trình toàn cầu hóa và HNQT này. Nếu không chuẩn bị tốt, có nƣớc sẽ rơi vào bẫy của các quốc gia lớn, các quốc gia phát triển. Vì vậy, việc nghiên cứu hoàn thiện chính sách NKDV GDĐH của Việt Nam trong thời kỳ HNQT để tạo NNL chất lƣợng cao đáp ứng yêu cầu HNQT, là hết sức cần thiết. 1.2. Chính sách và đánh giá chính sách 1.2.1. Khái niệm chính sách 1.2.1.1. Khái niệm Theo ngôn ngữ quốc tế, chính sách - Policy - để chỉ những biện pháp rất cụ thể, hƣớng đích với những điều kiện, những ràng buộc, những giới hạn để thực hiện chủ trƣơng, đƣờng lối của Nhà nƣớc cầm quyền. Chính sách đƣợc hiểu nhƣ công cụ của bộ máy cai trị, áp đặt lên hệ thống bị cai trị, trong phạm vi mà quyền lực cai trị cho phép. Từ điển Bách khoa Việt Nam giải thích: “Chính sách là những chế tài phải cụ thể để thực hiện đường lối, nhiệm vụ được thực hiện trong một thời 14
  25. gian nhất định, trên những lĩnh vực cụ thể nào đó. Bản chất, nội dung và phương hướng của chính sách tùy thuộc vào tình hình thực tiễn trong từng lĩnh vực, từng giai đoạn, phải vừa giữ vững mục tiêu, phương hướng được xác định trong đường lối, nhiệm vụ chung, vừa linh hoạt vận dụng vào hoàn cảnh và điều kiện cụ thể” [87]. Định nghĩa này không chỉ giải thích tính hữu hạn của chính sách, tính linh hoạt và tính mềm dẻo của chính sách, mà còn khẳng định tính lịch sử, cụ thể, tính phù hợp với từng giai đoạn của chính sách. Mỗi thời kỳ, mỗi hoàn cảnh, mối tƣơng quan giữa các lực lƣợng, mỗi điều kiện để thực hiện có thể sẽ khác đi, vì vậy, chính sách sẽ tùy theo đấy mà thay đổi, để tăng thêm tính hiệu quả có thể đạt tới. Cuối thế kỷ XX, hai nhà khoa học K.James và J.S. Coones, cũng đồng quan điểm: “Chính sách là một công cụ có tính ước lệ và không rõ ràng, hàm chứa nhiều nội dung phức tạp, được biểu hiện dưới nhiều góc độ, khía cạnh và diễn ra theo những chiều hướng khác nhau, nhưng có liên quan và tác động qua lại với nhau” [104]. “Tính ƣớc lệ và không rõ ràng” trong quan điểm của K.James và J.S Coones đƣợc các tác giả lƣu ý không phải trong mục đích cuối cùng, không phải về từng loại chính sách, cũng không phải về ý nghĩa chính trị của nó, mà thiên nhiều về biện pháp, điều kiện và các nguồn lực thực hiện. Theo Vũ Cao Đàm, “Chính sách là tập hợp các biện pháp được thể chế hóa của một chủ thể quản lý tác động vào đối tượng quản lý nhằm thúc đẩy đối tượng quản lý thực hiện mục tiêu mà chủ thể quản lý vạch ra” [90]. Nhƣ vậy, chính sách có thể đƣợc phân theo các đối tƣợng quản lý. Trong luận án chủ thể quản lý là nhà nƣớc, do đó chính sách công là tập hợp các biện pháp can thiệp đƣợc thể chế hóa mà nhà nƣớc đƣa ra nhằm đạt đƣợc mục tiêu quản lý của mình. Trong thực tiễn nghiên cứu phân tích và đánh giá chính sách tồn tại nhiều cách tiếp cận khác nhau, phản ánh những góc nhìn khác nhau về các chính sách. Theo tác giả Guba (1984) (Dẫn theo Đặng Bá Lãm và Phạm Thành Nghị [36] có tới 8 cách hiểu chính sách nhƣ sau: chính sách là các quyết định hiện hành của cơ quan quản lý, dựa vào đó để điều hành, kiểm tra, phục vụ và tác động tới mọi việc trong phạm vi quyền lực của mình; chính sách là các tiêu chuẩn ứng xử đƣợc đặc trƣng bởi tính kiên định và quy tắc trong một số lĩnh vức chủ yếu; chính sách là sự định hƣớng các hành động mong muốn; chính sách là quy tắc ứng xử đã đƣợc thừa nhận thông qua 15
  26. các quyết định của chính quyền một cách chính thức; chính sách là sự xác nhận các ý định và mục đích; chính sách là đầu ra, là kết quả tổng hợp của tất cả các hành động, các quyết định và ứng xử của các cấp quản lý; chính sách là kết quả của hệ thống hoạch định và thực thi trong quản lý và cuối cùng chính sách là chiến lƣợc dùng để giải quyết hoặc làm cho tốt hơn một vấn đề. Tóm lại, khi định nghĩa về chính sách, các tài liệu khoa học trong và ngoài nƣớc, tập trung trả lời những câu hỏi sau: - Chính sách phục vụ mục tiêu gì? - Ai có thẩm quyền ban hành chính sách? Để một chính sách có hiệu lực, cần điều kiện pháp lý gì? - Chính sách nhằm giải quyết nhiệm vụ cụ thể gì? Đối tƣợng nào? Đem lại lợi ích cho những ai? Ai phải là ngƣời trực tiếp thực hiện? Trong thời gian nào? - Cần những điều kiện gì để thực hiện? Trong phạm vi nào? Nghiên cứu các khái niệm trên, những giới hạn và các bối cảnh ra đời một chính sách, tác giả xin nêu một nhận thức tổng quát: “Chính sách là cụ thể hóa cách thức thực hiện các chủ trương, đường lối của nhà nước cầm quyền về một vấn đề cụ thể trong một thời gian nhất định”. 1.2.1.2. Phân loại chính sách Thông thƣờng khi giải quyết một vấn đề hoặc một lĩnh vực nào đó có thể có nhiều loại chính sách khác nhau cùng giải quyết một vấn đề đặt ra trong thực tiễn. Do vậy, cần phân loại các chính sách theo một số tiêu chí sau: - Theo cấp ban hành chính sách, có chính sách quốc gia, chính sách cấp ngành, chính sách địa phƣơng. Và có các chính sách quốc tế do các tổ chức liên quốc gia, các tổ chức quốc tế ban hành. - Theo đối tƣợng thụ hƣởng, ngƣời ta phân biệt chính sách chung, tức áp dụng chung cho mọi đối tƣợng và những chính sách cụ thể, riêng cho từng đối tƣợng. - Theo thời gian liên quan đến hiệu lực của chính sách, có thể phân ra thành chính sách ngắn hạn, chính sách trung hạn, chính sách dài hạn. + Chính sách ngắn hạn, thƣờng là những quy định của pháp luật, đƣợc thực hiện trong một khoảng thời gian ngắn, đem lợi ích đến các đối tƣợng mà nó điều chỉnh, bằng các nguồn lực ngắn hạn. + Chính sách trung hạn là những quy định có hiệu lực trong trung hạn, điều chỉnh các vấn đề mà chính sách này nhắm đến, trong trung hạn hoặc bảo đảm lợi ích cho đối tƣợng thụ hƣởng trong khoảng thời gian lớn hơn ngắn hạn, nhƣng chƣa đủ để gọi là dài hạn. 16
  27. + Chính sách dài hạn là khoảng thời gian dài để quy định cho một chính sách nào đó, từ khi ban hành đến khi kết thúc. Mọi yếu tố từ mục tiêu của chính sách, đến các điều kiện thực hiện, đối tƣợng tác động, hiệu lực thi hành, lợi ích mang lại, những chi phí (gồm cả chi phí cơ hội) đều có tính dài hạn, tính chiến lƣợc, liên quan đến các mục tiêu bền vững. Chính sách dài hạn, thƣờng là của quốc gia, bao trùm ở nhiều lĩnh vực của xã hội, tác động đến nhiều đối tƣợng, trong quá trình thực thi. - Phân loại theo các lĩnh vực liên quan, những đối tƣợng hoặc lĩnh vực chịu sự điều chỉnh của chính sách, ta thƣờng gặp chính sách kinh tế, chính sách xã hội, chính sách GD & ĐT . Đây là những loại chính sách mà sự phân biệt nó ngay từ tên gọi, tức đối tƣợng mà nó tác động, điều chỉnh. Phân loại theo tiêu thức này ta dễ dàng nhận thấy trực diện những hành động mà chính sách có thể can thiệp, tác động. Ở đây, không phân biệt đâu là chính sách ngắn, trung hoặc dài hạn, cũng không phân biệt phạm vi bao trùm của chính sách, mà chỉ xác định những đối tƣợng của lĩnh vực nào mà chính sách vƣơn tới, tác động; hoặc có thể đánh giá lợi ích mà chính sách mang lại cho hoạt động gì? Lĩnh vực nào? Ngƣời ta cũng gọi đây là cách phân loại theo tính chất can thiệp của chính sách đến các vấn đề của KTXH. 1.2.1.3. Chính sách công Xuất phát từ những cách tiếp cận khác nhau dẫn đến cách đặt tên và vai trò của mỗi chính sách là sẽ khác nhau. Từ đó, dẫn đến việc phân loại chính sách cũng rất khác nhau. Trong các loại chính sách ta thƣờng thấy có một loại chính sách tƣơng đối phổ biến đó là chính sách công. Vậy chính sách công là gì? Theo W.Jenkin - nhà kinh tế học Hoa Kỳ (1978) cho rằng: “Chính sách công là một tập hợp các quyết định có liên quan lẫn nhau của một nhà chính trị hay một nhóm nhà chính trị gắn liền với việc lựa chọn các mục tiêu và các giải pháp để đạt được các mục tiêu đó” [59]. Quan niệm này của W.Jenkin liên quan đến ngƣời (bộ phận quản lý) ban hành chính sách công, bất luận chính sách này đƣợc thực hiện ở khu vực công hay khu vực tƣ nhân? Đem lại lợi ích cho ai? Có hiệu lực lâu dài hay ngắn hạn? Một điểm nữa, cần chỉ ra là W.Jenkin quan niệm chính sách (mà ở đây là chính sách công) bao gồm tập hợp các biện pháp, các giải pháp, có liên quan mật thiết 17
  28. với nhau, tác động đến mục tiêu cuối cùng của quản lý. Theo William.N.Dunn: “Chính sách công là một kết hợp phức tạp những sự lựa chọn liên quan lẫn nhau, bao gồm cả các quyết định không hành động, do các cơ quan nhà nước hay các quan chức nhà nước đề ra”. Quan niệm này của Dunn khẳng định rõ hơn xuất xứ của một chính sách công, đó là do cơ quan nhà nƣớc (tức cơ quan quyền lực công cộng) đề xuất, hoặc do các quan chức nhà nƣớc khởi thảo trình ra. Nhƣ vậy, đặc điểm cơ bản nhất của chính sách công là ngƣời (hoặc cơ quan) đề xuất, phải là đại diện cho cơ quan công quyền gắn với lợi ích công cộng và về tính chất phải có tính công cộng. Chính sách công không cụ thể về thời gian hiệu lực, về các lĩnh vực mà nó can thiệp, nó chỉ nhấn mạnh đối tƣợng mà chính sách công can thiệp, và đặc biệt, ngƣời (hoặc cơ quan) ban hành chính sách công, phải là cơ quan công cộng có quyền lực - gọi tắt là cơ quan công quyền. Xem xét, mổ xẻ các hƣớng tiếp cận khác nhau của các học giả nƣớc ngoài có thể tóm lƣợc những đặc trƣng cơ bản của chính sách công nhƣ sau: - Thứ nhất, ngƣời ban hành chính sách công là nhà nƣớc (hoặc cơ quan do nhà nƣớc chỉ định). Ngƣời thực hiện chính sách lại không nhất thiết chỉ là các cơ quan nhà nƣớc, các đơn vị đặt dƣới sự bảo trợ của nhà nƣớc, các đối tƣợng chỉ mang lợi ích công cộng, mà bao hàm cả các đối tƣợng tƣ nhân, những cơ quan hành động theo lợi ích của từng nhóm dân cƣ, tất nhiên, các lợi ích này không đối lập nhau, không loại trừ lẫn nhau. Giữa khu vực tƣ nhân và khu vực công chịu sự điều chỉnh của chính sách công, đều có một mục đích. Do vậy, chính sách công sẽ gồm nhiều quyết định không bài trừ lẫn nhau, đem lại lợi ích chung cho các đối tƣợng mà nó tác động. - Thứ hai, chính sách công là những quyết định hành động, tức là nó đã vƣợt qua quá trình hoạch định chính sách, chỉ còn tổ chức thực thi và đánh giá hiệu quả thực hiện chính sách thôi. Các chính sách công thƣờng tác động trực tiếp lên đối tƣợng quản lý, đặt ra yêu cầu, quy trình để thực hiện, chứ tuyệt nhiên không còn phải khảo sát, thử nghiệm. Ngƣời ta nhìn vào chính sách công là thấy đƣợc các chuỗi hành động kế tiếp nhau, tác động vào đối tƣợng quản lý đến khi đạt mục đích cuối cùng. - Thứ ba, chính sách công gồm nhiều quyết định có liên quan lẫn nhau. Các quyết định của chính sách công chính là quyết định hành động, đƣợc thể 18
  29. hiện trong những văn bản Luật, các quy định dƣới luật, các điều kiện thực hiện, những đối tƣợng mà chính sách hƣớng tới 1.2.1.4. Chu trình chính sách Chu trình đƣợc hiểu là thời gian cần thiết để hoàn thành một vòng quay, sau đó lặp lại vòng tiếp theo, kể cả các sự kiện, những diễn tiến và kết quả đạt đƣợc khi thực hiện một công việc nào đấy. Trong thực tiễn quản lý kinh tế - xã hội, các quy định, chính sách, giải pháp đều tuân theo một chu trình nhất định. Có 03 bƣớc công việc cho một chu trình đó là: Hoạch định, thực thi và đánh giá. Không giống một số chu trình khác, chu trình chính sách đòi hỏi thực hiện nghiêm các công đoạn trên, theo một thứ tự đã định. Không thể thay thế bƣớc phân tích cho khâu thực thi; cũng không thể thay thế hoạch định cho đánh giá. Đây chính là căn cứ khoa học cho những đề xuất đổi mới, tiến bộ. Đây cũng là quy trình thúc đẩy mọi sự vật phát triển. Chu trình chính sách có thể cụ thể hóa bằng Hình 1.1: Hoạch định chính sách - Xác định vấn đề và mục tiêu - Xây dựng các lựa chọn - Dự đoán kết quả và tác động - Lựa chọn chính sách Đánh giá chính sách - Đánh giá chính sách Thực thi chính sách - Điề u chính chính sách Hình 1.1: Chu trình chính sách Thứ nhất, hoạch định chính sách là khâu quan trọng bậc nhất, ở chỗ, đề xuất chuẩn - có kết quả, hiệu quả, đem lại lợi ích lớn; đề xuất không chuẩn - tổn phí nguồn lực, mất hiệu quả, thậm chí tạo ra hiệu quả ngƣợc, hiệu quả âm, làm xáo trộn và mất ổn định xã hội. Vì tầm quan trọng của nó, ngƣời ta đề xuất quy trình hoạch định chính sách, gồm một số bƣớc: 19
  30. xác định sự cần thiết khách quan, tính cấp bách phải hoạch định chính sách; chỉ rõ nhân tố khách quan và chủ quan sẽ ảnh hƣởng đến quá trình hoạch định, đề xuất và tổ chức thực thi; dự thảo các phƣơng án chính sách; thảo luận để lựa chọn phƣơng án tốt nhất; thẩm định và hoàn thiện phƣơng án lựa chọn; nghị quyết ban hành chính sách. Thứ hai, thực thi chính sách gồm tất cả các hoạt động triển khai trong thực tiễn, đƣa chính sách đến đối tƣợng có trách nhiệm thực thi; giải thích những chỗ còn vƣớng mắc, bảo đảm các nguồn lực, các điều kiện để thực hiện; xem xét các khía cạnh khác nhau, khách quan và chủ quan có tác động trực tiếp đến khâu thực hiện; thúc đẩy các nhân tố hỗ trợ quá trình thực hiện để bảo đảm kết quả cuối cùng của chính sách. Nếu hoạch định là hình thành chính sách, thì thực thi là hiện thực hóa những mong muốn, những kỳ vọng của chính sách trong đời sống KT - XH, làm cho chính sách có giá trị, khẳng định tính đúng đắn, hợp lý, đáp ứng những đòi hỏi khách quan từ thực tiễn. Ngƣời ta sẽ nhìn thấy sức sống của chính sách từ khâu thực thi, đồng thời khẳng định ý nghĩa khoa học và thực tiễn của chính sách trong đời sống. Chính sách công có nhiều ý nghĩa với công chúng, đem lại hiệu quả và lợi ích cho số đông, nên càng quan trọng. Trong thực tế, ta đã chứng kiến có chính sách chết yểu, có chính sách tồn tại lâu dài, cũng chính vì ý nghĩa đó. Thứ ba, đánh giá chính sách, mặc dù là khâu cuối cùng của quy trình, nhƣng có liên quan rất nhiều đến hoạch định và đặc biệt, thực thi chính sách. Có thể khâu hoạch định chƣa hoàn hảo, những thực thi tốt, các giải pháp đề xuất đã tính hết đến các khả năng, bao quát đƣợc các khía cạnh khác nhau của thực tiễn, ứng phó rất tốt với những thay đổi của thực tại khách quan, chắc chắn sẽ có kết quả tốt. Nhƣ vậy, đánh giá chính sách đƣợc hiểu nhƣ chứng minh tính hữu ích của các biện pháp đƣa ra, hoặc chỉ rõ những chỗ thiếu hoàn thiện của khâu hoạch định, đặc biệt là khâu thực thi chính sách. Tuy nhiên, cần hiểu chính xác, là khi chính sách đã đƣợc triển khai, đủ để có thể cho những kết quả đầu tiên, thì chính sách đó cần phải đƣợc đánh giá. 20
  31. 1.2.2. Đánh giá chính sách 1.2.2.1. Khái niệm đánh giá Đánh giá là việc xem xét, rà soát một cách có hệ thống và khách quan về kế hoạch, chƣơng trình, dự án đang triển khai hoặc đã hoàn thành. Đánh giá giúp làm rõ việc tuân thủ, thực hiện trách nhiệm giải trình về những khó khăn, vƣớng mắc nảy sinh nhằm tìm biện pháp khắc phục hoặc phòng ngừa. Đánh giá là một phần trọng yếu của công tác quản trị quốc gia hiệu quả nhằm cải thiện tính tính minh bạch, trách nhiệm việc ra quyết định đƣợc thông tin đầy đủ. Do đó, đánh giá cũng là công cụ cho cải cách khu vực công. Thuật ngữ “đánh giá” đƣợc đặt trong bối cảnh phát triển và đƣợc sử dụng theo định nghĩa của Ủy ban Hỗ trợ phát triển (DAC) của OECD là: “sự đánh giá có hệ thống và khách quan về dự án, chƣơng trình hoặc chính sách đang tiến hành hoặc đã hòan thành về thiết kế, việc thực hiện và kết quả của chúng với mục đích xác định mức độ phù hợp và đạt đƣợc mục tiêu, tính hiệu quả và hiệu lực trong phát triển, tác động và tính bền vững”. Đánh giá phải cung cấp đƣợc thông tin đáng tin cậy và hữu ích, cho phép lồng ghép các bài học đã rút ra đƣợc trong quá trình ra quyết định. Đánh giá một cách có hệ thống các dự án, chƣơng trình, thể chế và chính sách là điều có ý nghĩa sống còn nhằm nâng cao tính trách nhiệm với kết quả hoạt động, việc rút ra các bài học cần thiết và hiệu chỉnh chính sách trong khu vực công [53]. Thành công cuối cùng của đánh giá phụ thuộc vào việc các nhà lập kế hoạch và ra quyết định đã sử dụng các phát hiện của công tác đánh giá và các bài học rút ra hữu hiệu đến đâu để hoàn thiện việc hoạch định chính sách và lập kế hoạch. Vì thế, việc xác lập mối liên hệ chặt chẽ giữa một bên là công tác đánh giá và bên kia là việc hoạch định chính sách, cải cách, lập kế hoạch và ngân sách là điều cần thiết. Theo Nguyễn Trung Thắng và Hoàng Hồng Hạnh: “Đánh giá tác đôṇ g chính sách là dự báo những tác động có thể xảy ra của một dự thảo chính sách hoặc đo lƣờng , phân tích các tác động về KT - XH, môi trƣờng đã xảy ra sau khi thực hiện môṭ chính sách đa ̃ ban hành” [58]. 1.2.2.2. Mục đích của đánh giá Mục đích của đánh giá là trả lời các câu hỏi: “Vì sao”, tức là cái gì gây ra các thay đổi; “Nhƣ thế nào”, tức là tiến trình nào dẫn đến các kết quả thành công hay thất bại; “Việc tuân thủ và trách nhiệm đến đâu”, tức là làm 21
  32. rõ các hoạt động đã lên kế hoạch có đƣợc thực hiện theo kế hoạch hay không [31]. Nhƣ vậy, đánh giá nhằm vào 7 mục đích sau: (i) Đánh giá, kiểm tra định kỳ 5 tiêu chí liên quan đến tình hình thực hiện là: tính thích hợp, hiệu suất; hiệu quả; ảnh hƣởng/tác động và tính bền vững (của một hoạt động, chƣơng trình, dự án); (ii) Phân tích và làm rõ sự tƣơng quan giữa kết quả đạt đƣợc trên thực tế so với mục tiêu đã nêu trong văn bản đƣợc cấp thẩm quyền phê duyệt; (iii) Xác định các vấn đề và những vƣớng mắc nảy sinh hoặc tiềm ẩn để khuyến nghị các hành động khắc phục, giải quyết phòng ngừa hiệu quả; (iv) Đảm bảo tuân thủ các quy trình, thủ tục pháp lý; (v) Cung cấp thông tin cho các bên liên quan về kết quả và tác động của chƣơng trình, dự án (kết quả tác động đó có bền vững không?); (vi) Rút ra bài học kinh nghiệm cho việc lập kế hoạch và thiết kế các hoạt động chƣơng trình, dự án tiếp theo và hoàn thiện các chính sách phát triển; (vii) Tạo điều kiện thực hiện trách nhiệm giải trình, bao gồm cả việc cung cấp thông tin cho công chúng. Ngoài ra, theo Jean [44], mục tiêu chính của đánh giá chính sách công là thông tin về việc đƣa ra quyết định nhằm trả lời câu hỏi: Điều gì đã và sẽ diễn ra nếu chính sách không đƣợc triển khai? Khi đó, khó khăn nằm ở việc lựa chọn một kịch bản đối chứng để đối chiếu với chính sách có liên quan nhằm đánh giá những tác động quan sát đƣợc hay những tác động kỳ vọng. 1.2.2.3. Phương pháp tiếp cận đánh giá Lý thuyết đánh giá chính sách công đƣợc nhiều nhà khoa học tiếp cận theo nhiều hƣớng khác nhau. Có thể tóm lƣợc các cách tiếp cận đánh giá chính sách nhƣ sau: Thứ nhất, tiếp cận trước – sau: Theo Jean [44], có hai cách tiếp cận truyền thống trong đánh chính sách là: Một là, cách tiếp cận sau: là cách tiếp cận mang tính thực chứng. Đây là việc xem xét và đánh giá các chính sách đã đƣợc triển khai. Cách tiếp cận này dựa vào những số liệu kinh tế vi mô và các kỹ thuật kinh tế lƣợng. Nó áp dụng các phƣơng pháp kiểm nghiệm hay bán kiểm nghiệm phỏng theo các ngành khoa học khác và áp dụng cho các chƣơng trình cung cấp dịch vụ tối thiểu, các chƣơng trình hội nhập nghề nghiệp 22
  33. Hai là, cách tiếp cận trước: thiên về đánh giá các chính sách kinh tế vĩ mô. Đây là cách tiếp cận mang tính chuẩn tắc: ngƣời ta nghiên cứu tác động tiềm năng của các chính sách sẽ đƣợc triển khai. Phƣơng pháp này dựa vào các mô hình kinh tế vĩ mô xác định các nhóm tác nhân đại diện, một số nhóm hộ gia đình, những nông dân nghèo Đôi khi kết hợp với các mô hình mô phỏng vi mô. Phƣơng pháp này tiến hành phân tích ở cấp độ sâu hơn. Cách tiếp cận này quan tâm đến các chính sách cơ cấu” [44]. Nguyễn Trung Thắng và Hoàng Hồng Hạnh cũng đƣa ra: “Đánh giá tác động chính sách gồm hai loại: (i) Đánh giá tác động chính sách trƣớc khi ban hành là hoạt động phân tích, dự báo những tác động có thể có của chính sách sắp đƣợc ban hành. (ii) Đánh giá tác động sau khi ban hành chính sách là việc rà soát, xem xét các tác động do việc thực thi chính sách sau khi ban hành đã tạo ra, làm cơ sở để chỉnh sửa, hoàn thiện hoặc bãi bỏ chính sách” [58]. Thứ hai, tiếp cận "đáp ứng nhu cầu": Đã có nhiều bài học kinh nghiệm trên thế giới, cũng nhƣ ở Việt Nam về sự thành công và thất bại trong thực thi các chính sách công. Không thiếu những chính sách đƣợc hoạch định và thực thi theo ý kiến chủ quan của ngƣời lãnh đạo hay ngƣời làm chính sách dựa trên những đánh giá chủ quan của họ về nhu cầu hay sự cần thiết phải thực thi chính sách đó. Điều này đƣa tới một số chính sách thiếu bền vững do chúng đƣợc hoạch định và thực thi mà không đáp ứng nhu cầu của ngƣời hƣởng lợi. Nhằm khắc phục vấn đề chính sách không đáp ứng nhu cầu của ngƣời sử dụng, các nƣớc đã hƣớng đến tiếp cận nhu cầu trong chính sách công. Một là, những ai có nhu cầu và hưởng lợi trong chính sách: - Những ngƣời trực tiếp hƣởng lợi: Những ngƣời có liên quan trực tiếp đến chính sách. - Những ngƣời gián tiếp hƣởng lợi: Những ngƣời có liên quan gián tiếp đến chính sách Hai là, các yếu tố ảnh hưởng đến yêu cầu của người hưởng lợi trong chính sách: - Các đặc trƣng KT - XH; - Thu nhập của hộ gia đình; - Các đặc trƣng của của các bên liên đới; - Thái độ của các bên tham gia đối với chính sách. 23
  34. Ba là, những điều kiện cơ bản cần thiết của chính sách hướng đến người hưởng lợi trực tiếp: - Ngƣời hƣởng lợi trực tiếp phải đƣợc thông tin về chi phí, lợi ích và rủi ro; - Ngƣời hƣởng lợi trực tiếp phải tự nguyện và có khả năng bầy tỏ nguyện vọng của họ; - Sự đóng góp có ý nghĩa (bằng tiền, bằng thời gian) cho phép gia tăng quyền lực của khách hàng nhƣ loại dịch vụ, mức độ và cách thức dịch vụ đƣợc cung cấp. Thứ ba, tiếp cận theo chu trình chính sách Chu trình chính sách bao gồm ba khâu: Hoạch định, thực thi và đánh giá chính sách. Phân tích đánh giá chính sách là xem xét lại toàn bộ các khâu trong chu trình chính sách, từ việc hoạch định, thực thi và đánh giá chính sách nhằm đƣa ra những điều chỉnh cần thiết cho phù hợp với thực tiễn. 1.2.2.4. Nội dung đánh giá chính sách Phối hợp 3 cách tiếp cận ở trên để xác định nội dung đánh giá chính sách nhƣ sau: Thứ nhất, đánh giá việc hoạch định chính sách: Đánh giá việc hoạch định chính sách là các công việc từ khảo sát, tập hợp tƣ liệu thực tế, đề xuất (bao gồm vấn đề trọng tâm của chính sách, mục tiêu phải giải quyết, các nhiệm vụ phải thực hiện, những khả năng can thiệp của chính sách để lựa chọn phƣơng án tốt nhất, chi phí thực hiện và kết quả, dự đoán hiệu quả, đề xuất tập phƣơng án để lựa chọn phƣơng án tối ƣu ). Bên cạnh đó, còn là xem xét chính sách có phù hợp với nhu cầu định hƣớng phát triển. Tiêu chí đánh giá hoạch định chính sách cần trả lời các câu hỏi sau: (i) Mục tiêu của chính sách có đƣợc xây dựng dựa trên nhu cầu của xã hội? (ii) Nội dung của chính sách có đƣợc xây dựng dựa trên phân tích thực trạng và dự báo nhu cầu tƣơng lai? (iii) Nội dung chính sách có đƣợc xem xét điều chỉnh phù hợp với định hƣớng phát triển theo các giai đoạn khác nhau? (iv) Các nhà quản lý là thành viên chính thức của nhóm hoạch định chính sách? (v) Các nhà quản lý đƣợc tham gia vào quá trình xây dựng các mục tiêu của chính sách? (vi) Các bên liên quan đƣợc tham gia/tham vấn trong quá trình xây dựng chính sách? (vii) Văn bản chính sách đƣợc công khai trên các phƣơng tiện thông tin đại chúng? 24
  35. Thứ hai, Đánh giá việc tổ chức, chỉ đạo thực hiện chính sách: Các tiêu chí dùng để đánh giá việc tổ chức, chỉ đạo thực hiện chính sách, cần trả lời các câu hỏi: (i) Việc tổ chức bộ máy và cơ chế phối hợp thực hiện được thực hiện như thế nào? - Thành lập Ban chỉ đạo; xây dựng kế hoạch thực hiện chính sách. - Thiết lập và vận hành hệ thống quản lý triển khai chính sách. - Phân công nhân sự và phân công trách nhiệm để thực thi chính sách. - Xây dựng cơ chế phối hợp thực hiện chính sách. (ii) Hướng dẫn thực hiện chính sách? - Xây dựng và ban hành các văn bản hƣớng dẫn thực hiện chính sách. - Tập huấn cho các cán bộ, đơn vị thực thi chính sách. (iii) Tuyên truyền, phổ biến chính sách? - Xây dựng kế hoạch tuyên truyền về chính sách. - Ra thông cáo báo chí về chính sách. - Truyền thông về chính sách. Thứ ba, đánh giá việc thực hiện chính sách: Triển khai thực hiện chính sách có tầm quan trọng, vì những khó khăn nảy sinh trong quá trình thực thi chính sách sẽ dẫn đến việc điều chỉnh mục tiêu và nội dung của chính sách. Mặt khác, thực hiện chính sách là quá trình cụ thể hóa những ý tƣởng của chính sách vốn mang tính trừu tƣợng vào thực tiễn sinh động nên thông tin ngƣợc nhận đƣợc trong quá trình triển khai chính sách sẽ giúp đánh giá lại các mặt của quyết định chính sách và thay đổi chính sách này. Các tiêu chí dùng để đánh giá thực hiện chính sách bao gồm các thông tin nhằm trả lời những câu hỏi sau: - Các hoạt động cơ bản để thực hiện chính sách là gì? - Có tạo ra các sự thay đổi không? - Chính sách có đến đối tƣợng mục tiêu hay không? - Khách hàng/ngƣời hƣởng lợi có hài lòng không? - Các nguồn lực về CSVC và tài chính có đảm bảo không? - Nhân sự và phân công trách nhiệm để thực hiện chính sách nhƣ thế nào? - Sự hiểu biết để triển khai chính sách có đảm bảo không? 25
  36. - Hệ thống quản lý triển khai chính sách đƣợc thiết lập và vận hành nhƣ thế nào? - Sự ủng hộ của các bên có liên quan ra sao? - Những vấn đề gặp phải trong triển khai chính sách? Thứ tư, đánh giá tác động của chính sách : Đánh giá tác động của chính sách mới xuất hiện trong những năm gần đây [44]. “Đánh giá tác động” là một thuật ngữ nằm trong hệ thống các thuật ngữ giám sát và đánh giá chƣơng trình/dự án/chính sách. Bởi vậy, cần phân biệt giữa đánh giá tác động với các các cấp độ khác của giám sát và đánh giá. Khái niệm về các thuật ngữ chung đƣợc trình bày trong Bảng 1.1. Bảng 1.1: Khái niệm về các thuật ngữ liên quan đến đánh giá Thuật ngữ Khái niệm Ví dụ Các nguồn lực tài chính, Nhân lực, chuyên môn kỹ Đầu vào nhân lực và vật liệu sử dụng thuật; Trang thiết bị; Các trong các dự án/ chƣơng nguồn tài chính trình/ chính sách phát triển. Những hành động hoặc Ví dụ: Các hội thảo/khóa đào Các hoạt động công việc đƣợc triển khai. tạo đã và đang đƣợc tổ chức. Đầu ra Các sản phẩm, hàng hoá và Ví dụ: Số ngƣời đƣợc đào Kết quả dịch vụ do dự án/ chƣơng trình/ tạo; Số phòng học mới cấp độ 1 chính sách phát triển mang lại. đƣợc xây dựng. Là những ảnh hƣởng hoặc Ví dụ: Các kỹ năng đƣợc Kết quả Kết thay đổi ngắn hạn hoặc trung cải thiện; Các cơ hội nghề Kết cấp độ 2 quả hạn đạt đƣợc từ các đầu ra nghiệp mới. quả của dự án/chƣơng trình. Những hệ quả lâu dài của Ví dụ: Cải thiện đời sống, Kết quả Tác chƣơng trình (kết quả kéo nâng cao chất lƣợng NNL cấp độ 3 động theo từ một sự việc), có thể đáp ứng yêu cầu của xã là những ảnh hƣởng tích cực hội trong thời kỳ HNQT. hoặc tiêu cực. (Nguồn: Dựa theo Giám sát và Đánh giá - Hướng dẫn của Yumi Sera và Susan Beaudry, 2007; Bộ phận Phát triển Xã hội - Ngân hàng Thế giới). 26
  37. 1.2.2.5. Phương pháp đánh giá Có 2 cách đánh giá: Thứ nhất, đánh giá đối chiếu: là đánh giá có sự so sánh việc thực hiện của một cá nhân/tập thể về một nhiệm vụ xác định liên quan tới việc thực hiện của những cá nhân/tập thể khác cùng hoàn thành nhiệm vụ đó; Thứ hai, đánh giá theo tiêu chí: là đánh giá dựa theo một số chuẩn mực nhất định. Sự khác biệt giữa hai loại đánh giá đối chiếu và đánh giá theo tiêu chí đƣợc minh hoạ trong Bảng 1.2 (xem Bảng 1.2). Bảng 1.2: So sánh giữa đánh giá đối chiếu và theo tiêu chí Đánh giá đối chiếu Đánh giá theo tiêu chí Đƣa ra một công cụ so sánh việc Để xác định việc thực thi của thực hiện của các cá nhân, tập thể các cá nhân, tập thể so với các theo một hệ các nhiệm vụ đã định tiêu chí (mục tiêu) đã định. Sử Là một dụng cụ chọn lựa để Là một "trở ngại" để quyết định dụng chọn giữa các cá nhân, tập thể xem liệu một cá nhân, tập thể cạnh tranh để có đƣợc các nguồn đã dành đƣợc đủ kiến thức hay lực hạn hẹp. kỹ năng để tiếp tục sang một cấp độ hƣớng dẫn mới chƣa. Nội dung có thể xác định bằng Nội dung phải đƣợc định ra các mục tiêu chung. bằng các mục tiêu cụ thể. Nội dung đánh giá không nhất Nội dung đánh giá phải gắn thiết phải gắn chặt với các mục chặt với các mục tiêu đã đề ra. tiêu nhất định nào đó. Mối liên quan giữa các phần Mối quan hệ giữa các phần Nội đánh giá và các mục tiêu có thể đánh giá và các mục tiêu phải dung là gián tiếp. rõ ràng. Các phần đánh giá thƣờng là Tất cả các mục tiêu đã nêu cần một ví dụ đại diện cho một tập đƣợc đánh giá qua các phần; thể lớn hơn, một giả định đƣa ra nếu chỉ đƣa ra mô hình các là thực thi theo một đại diện là mục tiêu là không thích hợp. sự chứng minh đúng đắn về việc thực thi của cả tập thể Thƣờng cần đến các phần phân Các đề mục phải gắn với các tích mục tiêu Nguồn: Tổng quan về giám sát và đánh giá. Dự án SREM, 2010. 27
  38. 1.3. Dịch vụ giáo dục đại học và nhập khẩu dịch vụ giáo dục đại học 1.3.1. Dịch vụ giáo dục đại học 1.3.1.1. Khái niệm dịch vụ Các hoạt động dịch vụ đang phát triển mạnh mẽ và chiếm một vị trí ngày càng quan trọng trong nền kinh tế của nhiều quốc gia trên thế giới. Khái niệm về DV đã có nhiều, nhƣng vẫn chƣa có sự thống nhất. C. Mác cho rằng: "Dịch vụ là con đẻ của nền kinh tế sản xuất hàng hóa, khi mà kinh tế hàng hóa phát triển mạnh, đòi hỏi một sự lƣu thông thông suốt, trôi chảy, liên tục để thoả mãn nhu cần ngày càng cao đó của con ngƣời thì dịch vụ ngày càng phát triển". Nhƣ vậy, với quan niệm trên, C. Mác đã chỉ ra nguồn gốc ra đời và sự phát triển của dịch vụ, kinh tế hàng hóa càng phát triển thì dịch vụ càng phát triển mạnh. Theo tạp chí The Economits [109], dịch vụ là bất cứ cái gì đem bán mà không thể rơi vào chân bạn. Theo quan niệm này, dịch vụ cũng là một sản phẩm, một hàng hóa có thể mua bán, nhƣng có đặc điểm riêng, khác với hàng hóa thông thƣờng. Dịch vụ là sản phẩm của lao động, song khác với quá trình sản xuất hàng hóa, quá trình sản xuất, cung cấp dịch vụ không thể tiến hành đƣợc nếu không có sự tiếp xúc giữa ngƣời cung cấp với ngƣời tiêu dùng dịch vụ. Dịch vụ đƣợc sử dụng để chỉ những thứ tƣơng tự nhƣ hàng hoá nhƣng là phi vật chất. Có những thứ thiên về sản phẩm hữu hình, có những thứ thiên hẳn về dịch vụ và rất nhiều sản phẩm do lao động của con ngƣời tạo ra nằm trong khoảng giữa sản phẩm hàng hóa và dịch vụ. Nhƣ vậy, dịch vụ là các sản phẩm do lao động của con ngƣời tạo ra, đáp ứng nhu cầu khác biệt và ngày càng tăng lên của con ngƣời. Mặc dù có nhiều cách hiểu, cách quan niệm về dịch vụ. Nhƣng trong phạm vi của nghiên cứu, luận án sử dụng khái niệm của tác giả Hoàng Văn Châu: “Dịch vụ là sản phẩm của lao động, không tồn tại dưới hình thái vật thể, được tiêu dùng đồng thời với quá trình cung cấp, nhằm thỏa mãn nhu cầu của sản xuất, của tiêu dùng và sức khỏe của con người” [41]. Nhà cung cấp dịch vụ thƣờng áp dụng chiến lƣợc 7P’s để Marketing cho sản phẩm dịch vụ, cụ thể là: - Product: dịch vụ mang đến cho khách hàng là gì? - Price: giá cả nhƣ thế nào? 28
  39. - Place: hệ thống phân phối, điểm bán dịch vụ nhƣ thế nào? - Promotion: sử dụng các công cụ tiếp thị nhƣ thế nào? - People: con ngƣời trong quá trình cung ứng dịch vụ nhƣ thế nào? - Physical evidence: những dẫn chứng xác thực là gì? - Process: quy trình nhƣ thế nào? Chúng ta có thể hiểu rõ hơn về khái niệm dịch vụ thông qua các đặc điểm sau: - Tính chất vô hình (Intangibility): sản phẩm dịch vụ không tồn tại dƣới dạng vật thể nên không thể nhìn thấy, cầm nắm . do vậy ngƣời ta không thể biết đƣợc chất lƣợng của dịch vụ trƣớc khi mua nó và tiêu dùng nó. Một học viên không thể đánh giá đƣợc chất lƣợng giảng dạy nếu không trực tiếp tham gia khóa học. - Tính đồng thời (Simultaneity) hay là tính không thể tách rời (Inseparability): tức là việc sản xuất và tiêu dùng dịch vụ xảy ra đồng thời. Nếu chỉ có sản xuất mà không có tiêu dùng dịch vụ thì không đƣợc, hoặc nếu không có sản xuất mà chỉ có tiêu dùng dịch vụ cũng không đƣợc tức là việc tiêu dùng sản phẩm dịch vụ trùng với việc cung ứng dịch vụ. - Tính không đồng nhất và tính khó xác định chất lượng (Inconsistency): chất lƣợng của các dịch vụ khó xác định bởi các dịch vụ phụ thuộc vào ngƣời cung cấp. Chất lƣợng không đồng nhất, tùy thuộc vào hoàn cảnh tạo ra dịch vụ nhƣ ngƣời cung ứng, thời gian, địa điểm cung ứng. - Tính không lưu trữ được (Inventory): dịch vụ không thể lƣu trữ đƣợc, tức là sản phẩm dịch vụ không thể sản xuất sẵn rồi lƣu vào kho chờ tiêu thụ. Dịch vụ không thể tách rời nguồn gốc, trong khi hàng hóa vật chất tồn tại không phụ thuộc vào sự vắng mặt hay có mặt của nó. Đặc tính này chỉ mang tính tƣơng đối do một số sản phẩm dịch vụ có thể mang hình thái vật chất nhƣ đối với dịch vụ thiết kế, bản vẽ là hữu hình và có thể lƣu trữ đƣợc. Chỉ có kỹ năng cung ứng dịch vụ là còn lƣu lại và không mất đi sau khi đã cung ứng. 1.3.1.2. Quan niệm chung và đặc điểm của dịch vụ GDĐH Thứ nhất, quan niệm của WTO về DV GDĐH: Theo hệ thống phân loại dich vụ của GATS, DVGD là ngành thứ 5 và đƣợc chia làm 5 phân ngành: DVGD tiểu học, DVGD trung học, DV GDĐH, DVGD ngƣời lớn và các dịch vụ khác. Phân loại các sản phẩm chủ yếu (CPC) của Liên hợp quốc thì xếp giáo dục vào nhóm 9 (dịch vụ cá nhân, 29
  40. cộng đồng và xã hội) và đƣợc dẫn chiếu tới mã CPC92 (UN, 31/12/2008, The Central Product Classification (CPC) Ver.2). Trong hệ thống phân loại các ngành dịch vụ của WTO nhằm mục tiêu phục vụ cho quá trình đàm phán và cam kết của các thành viên, DV GDĐH đƣợc coi là một phân ngành dịch vụ, nằm trong ngành DVGD. Bảng 1.3: GDĐH trong Hệ thống phân loại dịch vụ của WTO Ngành Phân ngành Tên gọi 5 Dịch vụ giáo dục A Giáo dục tiểu học B Giáo dục trung học C Giáo dục đại học D GD cho ngƣời lớn E Dịch vụ giáo dục khác Nguồn: WTO (1991), Services Sectoral Classification List. Tại Việt Nam, GDĐH đƣợc coi là một bộ phận trong hệ thống giáo dục quốc dân, là các trình độ đào tạo tiếp theo sau cấp trung học phổ thông hoặc sau trung cấp chuyên nghiệp. Điều 1 Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục 2009 đã chỉ rõ GDĐH bao gồm: - Đào tạo trình độ cao đẳng đƣợc thực hiện từ hai đến ba năm học tùy theo từng ngành nghề đào tạo đối với ngƣời có bằng tốt nghiệp PTTH hoặc bằng tốt nghiệp trung cấp; từ một năm rƣỡi đến hai năm đối với ngƣời có bằng trung cấp cùng chuyên ngành; - Đào tạo trình độ đại học đƣợc thực hiện từ bốn năm đến sáu năm học tùy theo ngành nghề đối với ngƣời có bằng tốt nghiệp PTTH hoặc bằng tốt nghiệp trung cấp; từ hai năm rƣỡi đến bốn năm đối với ngƣời có bằng tốt nghiệp trung cấp có cùng chuyên ngành; từ một năm rƣỡi đến hai năm đối với ngƣời có bằng cao đẳng cùng chuyên ngành; - Đào tạo trình độ thạc sỹ đƣợc thực hiện từ một đến hai năm học đối với ngƣời có bằng tốt nghiệp đại hoc. - Đào tạo trình độ tiến sỹ đƣợc thực hiện trong bốn năm học đối với ngƣời có bằng tốt nghiệp đại học và từ hai đến ba năm đối với ngƣời có bằng thạc sỹ. Trong trƣờng hợp đặc biệt, thời gian đào tạo trình độ tiến sỹ có thể đƣợc kéo dài theo quy định của Bộ trƣởng Bộ GD & ĐT. 30
  41. Nhƣ vậy, DV GDĐH là DVGD ở trình độ cao, đƣợc tiêu dùng sau khi đã hoàn thành cấp học THPT hoặc tƣơng đƣơng. Trong nền kinh tế tri thức hiện đại các nƣớc nhìn vào GDĐH để đánh giá sự phát triển giáo dục của một dân tộc, một quốc gia. Thứ hai, đặc điểm của DV GDĐH: DV GDĐH là một bộ phận của DVGD nói chung, do vậy đặc điểm cơ bản của ngành DVGD sau đây: - Tính không đồng nhất: DV GDĐH cũng nhƣ các ngành dịch vụ khác, nó là một thứ hàng hóa vô hình, không thể đƣợc xác định đƣợc bằng các đơn vị định lƣợng, mà nó đƣợc ghi thông qua chất lƣợng cung cấp dịch vụ. Tuy nhiên, chất lƣợng của DV GDĐH lại khó có thể xác định một cách rõ ràng. Điều này phụ thuộc vào nhiều yếu tố, chẳng hạn: nhà cung cấp dịch vụ, cơ sở và trang thiết bị hạ tầng, khả năng sƣ phạm của giảng viên, cách thiết kế chƣơng trình giảng dạy .Tuy nhiên, ngay cả cùng một CTĐT, thì chất lƣợng dịch vụ không phải lúc nào cũng giống nhau, vì còn phụ thuộc vào tâm lý ngƣời dạy, ngƣời học và môi trƣờng giảng dạy . - Vừa có tính thương mại vừa có tính phi thương mại: Mặc dù chúng ta đang xem xét DV GDĐH cũng nhƣ DVGD nói chung dƣới gọc nhìn kinh tế là một ngành dịch vụ. Tuy nhiên, không thể phủ nhận rằng giáo dục còn có ý nghĩa to lớn. Trình độ của ngƣời công dân có ảnh hƣởng tới sự phát triển, phồn thịnh của một quốc gia. Giáo dục có nhiệm vụ cung cấp cho cá nhân có những khả năng và kỹ năng cơ bản để đáp ứng với đòi hỏi của thị trƣờng lao động, xã hội. Từ trƣớc tới nay, khu vực công vẫn luôn cung cấp DV GDĐH nhƣ là một chính sách xã hội quan trọng và tiến tới phổ cập giáo dục ở các cấp học cơ bản nhƣ tiểu học, trung học cơ sở và tiến tới là trung học phổ thông. Tuy nhiên, càng ở cấp học càng cao, thì tính phi thƣơng mại của giáo dục càng giảm, khu vực công càng nới lỏng vai trò, trách nhiệm của mình trong việc cung cấp. Nhờ đó tính phi thƣơng mại của giáo dục, GDĐH càng đƣợc thể hiện rõ hơn, khi ngày càng đƣợc nhiều khu vực tƣ nhân tham gia vào cung cấp dịch vụ này. - Khả năng tích lũy: Giáo dục là dịch vụ tác động thẳng từ ngƣời dạy đến ngƣời học, những ngƣời học có thể lƣu giữ kiến thức, coi đó là hình thức tích lũy và khả năng tạo ra sức lao động mới hiệu quả cao hơn so với trƣờng 31
  42. hợp chƣa học hoặc chƣa đào tạo. Nhƣ vậy, giáo dục là phƣơng tiện nâng cao năng suất của ngƣời lao động trong tƣơng lai. Tri thức đƣợc bồi đắp trong nhiều năm tháng, thông qua quá trình tích lũy, cho phép con ngƣời phát triển thêm khả năng cá nhân cho đến ngày có thể sử dụng để tạo ra các sản phẩm và dịch vụ cao cấp hơn. Do đó, có thể nói giáo dục cũng có khả năng để ngƣời học tích lũy tri thức. Tuy nhiên, càng lên cao thì các kiến thức đƣợc tích lũy giảm dần, nhƣng kinh nghiệm sống, vốn thực tế, khả năng tự trang bị kiến thức của ngƣời học tăng lên. - Ngoại ứng tích cực trong giáo dục: DVGD không chỉ đem lại lợi ích cho cá nhân ngƣời sử dụng dịch vụ mà còn cho cả những ngƣời xung quanh và cho xã hội. Sự thiếu giáo dục ở bất kỳ cá nhân nào cũng ảnh hƣởng không tốt và có thể gây tổn thất cho cả xã hội. Ngƣợc lại, khi trình độ học vấn, hiểu biết của cá nhân đƣợc nâng cao, xã hội mà trƣớc hết là bạn bè, gia đình và những ngƣời xung quanh sẽ đƣợc hƣởng lợi những lợi ích tích cực nhƣ trao đổi thông tin, học hỏi kinh nghiệm, nâng cao năng suất lao động xã hội . Ngoài những đặc điểm trên của DVGD nói chung, DV GDĐH có những đặc điểm riêng sau đây: - Tính chuyên môn hóa cao: Thông thƣờng ở các cấp học cơ bản nhƣ tiểu học, trung học cơ sở hay trung học phổ thông, học sinh đƣợc đào tạo các môn nhƣ: lịch sử, địa lý, văn, toán .giúp học sinh có nhiều hiểu biết trên nhiều lĩnh vực. Mặc dù, ở các trƣờng chuyên, CTĐT có đi sâu hơn vào một môn học cụ thể nào đó, tuy nhiên vẫn phải đáp ứng việc dạy và học đầy đủ những môn cơ bản trên. Số lƣợng, nội dung và cách giảng dạy ở các trƣờng nói chung là giống nhau và đều dựa trên nền tảng là sách giáo khoa đƣợc sự thống nhất chung trên toàn quốc. Trong khi đó, DV GDĐH có tính chuyên môn hóa cao nên tạo ra sự khác biệt đáng kể giữa các trƣờng đại học. CTĐT của khối các trƣờng kinh tế khác với khối các trƣờng kỹ thuật, chính trị và xã hội. Trong khối kinh tế, CTĐT về kinh tế khác với CTĐT về ngân hàng hay quản lý; trong khối xã hội, CTĐT quản lý giáo dục khác với CTĐT giáo dục học . - GDĐH chuyển từ quan niệm là một lợi ích công sang lợi ích tư: Quan niệm này cho rằng văn bằng đại học mang lợi ích về cho ngƣời học đƣợc nhiều hơn là cho xã hội. Vì vậy, điều tất yếu là ngƣời đƣợc hƣởng lợi ích tƣ 32
  43. phải chi trả để đạt đƣợc lợi ích đó, và các trƣờng đại học tƣ cần đƣợc thành lập để bán DV GDĐH. Ý tƣởng về tƣ nhân hóa cũng dẫn đến việc huy động nguồn tài chính tƣ, trong đó có cả học phí ở trƣờng đại học công. DV GDĐH đƣợc coi là dịch vụ thƣơng mại vì nó đƣợc cung cấp trên cơ sở cạnh tranh. - Tính hướng nghiệp: đây là điểm khác biệt cơ bản của DV GDĐH phân biệt với các cấp học giáo dục khác. Tính chuyên môn trong GDĐH chính là nhằm mục đích hƣớng nghiệp cho các SV sau khi ra trƣờng trở thành đội ngũ lao động lao động trong ngành nghề có liên quan đến CTĐT. Trong CTĐT đại học của mình, sinh viên đƣợc cung cấp những thông tin nền tảng, nghiệp vụ cần thiết cho một loại hình ngành nghề xác định. 1.3.2. Nhập khẩu dịch vụ GDĐH 1.3.2.1. Khái niệm Xuất - nhập khẩu (XNK) là một thuật ngữ đƣợc dùng để chỉ hoạt động trao đổi, mua bán hàng hóa và dịch vụ với nƣớc ngoài vì mục đích thƣơng mại. XNK hàng hóa là khái niệm đã quen thuộc trong đời sống kinh tế xã hội, còn XNK dịch vụ mới đƣợc đề cập nhiều trong thời gian gần đây khi các quốc gia chú trọng hơn đến sự phát triển của khu vực dịch vụ. Tại Việt Nam, XNK DV GDĐH lại khá mới mẻ, chƣa có nhận thức đẩy đủ cả từ các cơ quan quản lý nhà nƣớc tới các trƣờng ĐH, SV và ngƣời dân. [42]. Nhập khẩu là mua hàng hóa DV từ nƣớc ngoài (hoặc do nhà sản xuất nƣớc ngoài) về tiêu dùng trong nƣớc. NKDV GDĐH là việc quốc gia này mua DV GDĐH từ quốc gia khác. Nói cách khác, đây chính là việc các trƣờng ĐH nƣớc ngoài cung ứng dịch vụ cho ngƣời cƣ trú trong nƣớc thông qua đầu tƣ nƣớc ngoài 100% hoặc liên doanh, liên kết, hợp tác quốc tế về GDĐH. Khi ngƣời học từ một quốc gia này sang quốc gia khác học ĐH, thì tức là ngƣời đó (quốc gia đó) đã NKDV GDĐH từ quốc gia khác vào quốc gia mình. 1.3.2.2. Nhập khẩu dịch vụ GDĐH thể hiện qua cam kết với GATS Khi Việt Nam gia nhập WTO (World Trade Organization), phần dịch vụ, tại khoản 2, Điều 1, hiệp định GATS quy định 04 phƣơng thức cung cấp, mà các nƣớc tham gia, dựa vào đấy để tuân thủ. Đó là: cung cấp qua biên giới; tiêu thụ ở nƣớc ngoài; hiện diện thể nhân và hiện diện thƣơng mại. Đây là 04 phƣơng thức trao đổi các dịch vụ (trong đó có DV GDĐH), mà các quốc gia phải chọn lựa. Có thể nhận diện các hoạt động NKDV GDĐH nhƣ sau: 33
  44. 1) Nhập khẩu DV GDĐH với phương thức cung cấp qua biên giới: NKDV GDĐH với phƣơng thức này là toàn bộ các hoạt động có liên quan đến phƣơng thức NK đƣợc thực hiện thông qua các hình thức đào tạo trực tuyến (E-learning) hay đào tạo từ xa (distance – learning). Trong phƣơng thức này, DV GDĐH đƣợc xuất qua biên giới, đến từng ngƣời tiêu dùng, nhƣng ngƣời cung cấp vẫn ở tại quốc gia xuất phát. Các dịch vụ xuất gồm: chƣơng trình, sách giáo khoa, quy chế, quy định, những tƣ liệu giành cho ngƣời học mà không phải xin phép để vào các quốc gia NK. Điều kiện căn bản quyết định sự thành công của phƣơng thức này là trình độ tự giác cao của các thành viên bên NK, sự am hiểu, thông thạo đến mức chuyên nghiệp của đội ngũ chuyên gia làm NKDV GDĐH ở các quốc gia NK; sự sẵn sàng khung pháp lý để NK, đồng thời vẫn bảo vệ đƣợc các dịch vụ hiện có trong nƣớc. Sự minh bạch các loại thông tin và phát triển mạnh mẽ CNTT, khả năng bảo vệ mạng thông tin của quốc gia, khi phải mở cửa để NK. 2) Nhập khẩu DV GDĐH với phương thức tiêu thụ ở nước ngoài: NKDV GDĐH theo phƣơng thức này thực chất là cử đội ngũ SV, học viên, nghiên cứu sinh, thực tập sinh ra nƣớc ngoài học tập và phải chi trả học phí cho trƣờng nƣớc ngoài. So với phƣơng thức trên, phƣơng thức thứ hai này đƣợc áp dụng phổ biến hơn, chủ yếu từ các nƣớc đang phát triển với các quốc gia phát triển. Việt Nam đã áp dụng phƣơng thức NKDV GDĐH ngay từ những ngày đầu sau năm 1945 khi giành đƣợc đất nƣớc từ tay thực dân Pháp bằng việc gửi các đoàn SV, nghiên cứu sinh, thực tập sinh đến các quốc gia phƣơng tây học tập có thời hạn. 3) Nhập khẩu DV GDĐH với phương thức hiện diện thương mại: NKDV GDĐH theo phƣơng thức này là việc một quốc gia cho phép trƣờng ĐH nƣớc ngoài hiện diện tại nƣớc mình để cung cấp dịch vụ. Ví dụ: trƣờng đại học RMIT cung cấp DV ĐTĐH tại Việt Nam Đây là hình thức đã nhiều quốc gia áp dụng và có kết quả với công cuộc GDĐT trong thời kỳ mới. Hình thức này cho phép các cơ sở GDĐT nƣớc ngoài đƣợc đặt chi nhánh, văn phòng đại diện, thậm chí mở trƣờng, cung cấp giáo viên và các dịch vụ cần thiết cho GDĐH ở nƣớc NK. 4) Nhập khẩu DV GDĐH với phương thức hiện diện của thể nhân: NKDV GDĐH với phƣơng thức này là toàn bộ các hoạt động NK đƣợc thực hiện chủ yếu bằng cách NK giáo viên (có thời hạn) của nƣớc ngoài vào 34
  45. giảng dạy và nghiên cứu ở trong nƣớc. Tất nhiên, sự di chuyển của giáo viên thƣờng kèm theo chƣơng trình, sách giáo khoa và cả mục tiêu của chƣơng trình, những thoả thuận giữa bên xuất (nƣớc ngoài) và bên nhập (Việt Nam) trƣớc các dịch vụ này. Bảng 1.4: Nhận diện các hoạt động NKDV GDĐH theo 4 phƣơng thức cung cấp dịch vụ của GATS/WTO Phương thức Nhận diện các hoạt động Quy mô/ Xu hướng phát triển Phƣơng thức 1: - ĐT từ xa - Hiện chiếm thị phần nhỏ; Cung cấp qua - ĐT trực tuyến, nhƣợng quyền - Có tiềm năng lớn trong biên giới thƣơng hiệu tƣơng lai nhờ sự phát triển của - ĐT qua hình thức trƣờng ĐH ảo. CNTT và Internet. Phƣơng thức 2: - SV trong nƣớc đƣợc cử đi học - Hiện chiếm tỷ trọng lớn nhất Tiêu dùng ở tập tại các quốc gia trên thế giới. trên thị trƣờng DVGD toàn cầu. nước ngoài - SV đi học nƣớc ngoài bằng hình thức tự túc. Phƣơng thức 3: - Cho phép hiện diện thƣơng - Tiềm năng và đƣợc công Hiện diện mại để cung cấp DV: chúng quan tâm ngày càng lớn; thương mại + Thành lập chi nhánh. - Gây nhiều tranh cãi vì liên + Thành lập văn phòng đại diện, quan đến các quy định về đầu Hợp đồng LKĐT, thành lập tƣ nƣớc ngoài. trƣờng liên doanh, thành lập trƣờng 100% vốn nƣớc ngoài. Phƣơng thức 4: - GV, chuyên gia GD nƣớc - Có nhiều tiềm năng phát Hiện diện của ngoài đƣợc mời tới nƣớc mình triển nhƣng bị phụ thuộc vào thể nhân giảng dạy. các quy định về di chuyển thể - GV, chuyên gia nƣớc ngoài nhân (nhƣ visa, cấp phép ) sang tình nguyện. Nguồn: Kế thừa nghiên cứu Hoàng Văn Châu 1.4. Hội nhập quốc tế và những yêu cầu đối với NKDV GDĐH 1.4.1. Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế GDĐH Hội nghị thế giới về GDĐH, tổ chức từ 5 đến 8/7/2009 tại UNESCO Paris, nhận định rằng GDĐH đang chuyển động dƣới ảnh hƣởng của những động lực mới. Đó là: sự gia tăng nhu cầu học tập, việc đa dạng hoá các loại 35
  46. trƣờng và nguồn cung ứng, hợp tác giữa các nhà trƣờng và liên kết mạng, nhu cầu học tập suốt đời, tác động của CNTT và truyền thông, trách nhiệm xã hội của các trƣờng ĐH, sự thay đổi về vai trò của Chính phủ. Về cơ bản các động lực trên là biểu hiện cụ thể của toàn cầu hoá trong GDĐH. Theo cách nói của T. Friedman, đó là một thế giới phẳng trong đó các rào cản về địa lý, kinh tế và chính trị đang dần đƣợc dỡ bỏ. Thế giới phẳng này cũng đang làm “phẳng hoá” giáo dục, nghĩa là tạo ra một sân chơi bằng phẳng, liên kết mạng, nơi mọi ngƣời đều có thể học hỏi, trau dồi kiến thức, phát triển kỹ năng, và mọi quốc gia, tổ chức đều có thể tham gia cung ứng giáo dục, vừa hợp tác, vừa cạnh tranh bình đẳng. Vì thế, hợp tác quốc tế về giáo dục đã chuyển sang một giai đoạn phát triển mới, cao hơn và phức tạp hơn. Đó là HNQT về giáo dục trong đó có hội nhập GDĐH. Hội nhập GDĐH: là quá trình mở cửa, trao đổi các hoạt động GDĐH với các nƣớc khác trong khu vực và thế giới; liên kết nền GDĐH của mình với nền GDĐH của khu vực và thế giới; điều chỉnh và mở cửa các chính sách GDĐH để tham gia vào một sân chơi chung. Các quốc gia tiến hành thực hiện liêm minh, LKĐT đại học, trao đổi, giao lƣu giảng viên, sinh viên với nhau để tiến tới một khu vực chung về GDĐH. Hay nói cách khác, HNQT trong GDĐH là quá trình liên kết, thống nhất các nền GDĐH quốc gia lại với nhau ở cấp liên quốc gia, cấp khu vực, cấp châu lục và cấp toàn cầu nhằm hỗ trợ thúc đẩy quá trình cung cấp, sang tạo và chuyển giao tri thức, kỹ năng và các tiến bộ khoa học kỹ thuật trên thế giới, giúp đào tạo ra NNL có chất lƣợng đáp ứng yêu cầu HNQT. Quá trình hội nhập GDĐH đƣợc thực hiện chủ yếu thông qua sự chuyển dịch qua biên giới của bốn nhân tố cơ bản trong ngành: Ngƣời học, giảng viên, CTĐT và CSĐT đại học. HNQT về GDĐH trong thời gian qua đã phát triển mạnh mẽ và mang hai đặc trƣng cơ bản, đó là: Thứ nhất, bên cạnh sự chuyển dịch qua biên giới của ngƣời học và giảng viên vốn có từ lâu, hiện nay thế giới đã hình thành và tăng cƣờng việc chuyển dịch qua biên giới của CTĐT và CSĐT ĐH; Thứ hai, bên cạnh sự chuyển dịch qua biên giới theo cơ chế phi thƣơng mại (thông qua hợp tác quốc tế trong khuôn khổ các dự án ODA hay hoạt động của các tổ chức quốc tế và LKĐT) hiện nay, đã hình thành và phát triển sự chuyển dịch qua biên giới theo cơ chế thƣơng mại. Hai cơ chế này có quan hệ mật thiết với hai tổ chức quốc tế hàng đầu trong tiến trình HNQT về giáo dục. Đó là UNESCO và WTO. 36
  47. UNESCO là một tổ chức giáo dục, khoa học, văn hóa và truyền thống của Liên hợp quốc với 195 nƣớc thành viên. Quan điểm cơ bản của UNESCO coi giáo dục là một quyền lợi cơ bản của con ngƣời, bất kỳ ai, tên cơ sở xứng đáng, cũng có quyền tiếp cận với GDĐH. WTO là Tổ chức Thƣơng mại thế giới hiện có 159 nƣớc thành viên. Quản điểm cơ bản của WTO coi giáo dục là một trong 12 ngành dịch vụ có tính thƣơng mại thuộc phạm vi điều chỉnh của Hiệp định chung về Thƣơng mại Dịch vụ (GATS); dịch vụ này cần từng bƣớc đƣợc tự do hóa thƣơng mại trên cơ sở đàm phán. Tuy nhiên hai tổ chức có hai quan điểm nhƣng có một điểm chung cơ bản là đẩy mạnh quá trình quốc tế hóa giáo dục. GATS thúc đẩy việc hội nhập GDĐH vì mục đích lợi nhuận, còn UNESCO thì thúc đẩy việc hội nhập GDĐH là không vì mục đích lợi nhuận. Ngoài hình thức hội nhập giữa các chính phủ, các chủ thể nhƣ các tổ chức giáo dục, các trƣờng ĐH của mỗi quốc gia còn hợp tác với nhau theo cơ chế thƣơng mại qua 4 phƣơng thức đƣợc quy định của GATS nhƣ sau: Cung cấp qua biên giới; tiêu dùng ngoài lãnh thổ; hiện diện thƣơng mại và hiện diện thể nhân. Tóm lại, HNQT là một xu thế không thể đảo ngƣợc, vừa là quá trình hợp tác để phát triển vừa là quá trình đấu tranh của các nƣớc để bảo vệ lợi ích của mỗi quốc gia. HNQT đƣợc hình thành từ quá trình phát triển kinh tế dựa trên những yếu tố cơ bản nhƣ khoa học công nghệ, văn hóa xã hội, tài nguyên thiên nhiên còn trong GDĐH, HNQT không chỉ về khoa học GDĐT, về phƣơng pháp đào tạo, về tổ chức nhà trƣờng, tổ chức quá trình đào tạo, mà còn gồm đầu tƣ và chi tiêu, cơ chế quản lý nhà trƣờng, mối quan hệ giữa quản lý nhà nƣớc và trƣờng ĐH. Toàn cầu hóa đƣợc mô tả nhƣ một quá trình tăng cƣờng “dân cƣ, văn hóa, ý tƣởng, giá trị, kiến thức, công nghệ và kinh tế”; toàn cầu hóa tạo ra một thế giới kết nối và phụ thuộc nhau. Toàn cầu hóa ảnh hƣởng đến mỗi quốc gia theo các cách khác nhau, có thể có những tác động tích cực hoặc tiêu cực, tùy thuộc vào lịch sử, truyền thống, văn hóa, những ƣu tiên và nguồn lực của mỗi quốc gia (Jane Knight, 2006) [99]. Giáo dục là một trong những lĩnh vực bị tác động bởi quá trình toàn cầu hóa. Một khía cạnh quan trọng của định nghĩa này là nó đề cập đến biên giới giữa các quốc gia, liên tƣởng đến phạm vi toàn cầu và sự dịch chuyển. Thuật ngữ này cũng khác biệt với thuật ngữ quốc tế hóa - một thuật ngữ tập trung tới quan hệ giữa các nƣớc. 37
  48. Quốc tế hóa GDĐH đƣợc mô tả nhƣ một quá trình tích hợp các yếu tố quốc tế vào các chức năng, nhiệm vụ (dạy học, nghiên cứu, dịch vụ) và tiến trình tổ chức thực hiện giáo dục [99]. Chiến lƣợc quốc tế hóa giáo dục bao gồm: hợp tác quốc tế về các dự án phát triển, các thỏa thuận giữa các tổ chức và mạng lƣới; khía cạnh quốc tế và trao đổi văn hóa của quá trình dạy và học, chƣơng trình giảng dạy và nghiên cứu, các câu lạc bộ hoạt động ngoại khóa; sự dịch chuyển của các chƣơng trình học thông qua hoạt động tƣ vấn, tuyển dụng SV quốc tế, các chƣơng trình trao đổi SV ra nƣớc ngoài, CTLK, thiết lập chi nhánh của các trƣờng Khía cạnh quốc tế hóa của GDĐH bao gồm cả các hoạt động tại trƣờng và hoạt động xuyên biên giới. Luận án này chỉ tập trung vào quốc tế hóa giáo dục đối với các hoạt động xuyên biên giới. 1.4.2. Những ảnh hưởng và yêu cầu NKDV GDĐH trong thời kỳ hội nhập NKDV GDĐH trong thời kỳ hội nhập phải đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế xã hội của mỗi quốc gia, cụ thể là: 1.4.2.1. Thoả mãn yêu cầu nâng cao tri thức phục vụ cho phát triển kinh tế xã hội. Trong quá trình phát triển sự nghiệp GD & ĐT của mỗi quốc gia, có thể không thoả mãn đƣợc hết nhu cầu của mọi ngƣời, nhƣng nền giáo dục từng nƣớc sẽ cung cấp cho nhân loại thành tựu của đất nƣớc mình, những đặc thù trong GDĐT phù hợp với truyền thống lịch sử, văn hóa, kinh tế xã hội của từng quốc gia, nhƣng không phải là đại diện cho mọi quốc gia đƣợc. GDĐT là loại dịch vụ công cộng, vì thế, sự kết hợp, sự “dùng chung” các thành tựu trong GDĐT giữa các quốc gia là cần thiết, sẽ tăng thêm các lợi ích của dịch vụ cho dân tộc và cho nhân loại nói chung. Đây là vai trò hết sức to lớn của hoạt động NKDV GDĐH. Mô hình lƣợng hóa đã chứng tỏ rằng, lợi ích của NKDV GDĐH tác động tích cực đến hàng trăm lĩnh vực, gián tiếp tác động đến hàng nghìn lĩnh vực và các loại sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ mà ngƣời dân quốc gia tiêu dùng. Khi đẩy mạnh NKDV GDĐH, mặt bằng dân trí của quốc gia đƣợc nâng lên, vì ngoài thành tựu từ các CTĐT của quốc gia, còn đƣợc bổ sung thêm từ các DVNK. Mà thông thƣờng, các DVNK đƣợc đánh giá tốt hơn những dịch vụ đang có. Hoạt động NKDV GDĐH hiện nay cơ bản nhằm vào: những chƣơng trình mà trong nƣớc chƣa xây dựng đƣợc; những chƣơng trình mà trong nƣớc thiếu nguồn lực nghiên cứu và triển khai; những chƣơng trình bổ sung thêm cho các chƣơng trình trong nƣớc; những chƣơng trình có sự cạnh tranh mạnh trong khu vực và thế giới. 38
  49. 1.4.2.2. Tác động đến tính cạnh tranh và chất lượng của hệ thống GDĐH. Nói chung, đã mở rộng đa dạng hoá các chƣơng trình GDĐH, phát triển các DV, sẽ làm tăng chất lƣợng các dịch vụ. Đây là quy luật của kinh tế hàng hoá, mà cạnh tranh lành mạnh sẽ thúc đẩy các dịch vụ phát triển, gia tăng loại hình, gia tăng chất lƣợng, hạ giá để thu hút ngƣời mua. Lợi ích này sẽ mang lại không chỉ cho ngƣời mua, ngƣời bán, mà còn mang lại lợi ích lớn hơn cho cộng đồng tiêu dùng, những ngƣời sẵn sàng sử dụng các DV GDĐH đƣợc nhập vào. Nhƣ vậy, NKDV GDĐH cũng là cách làm khôn ngoan. NK làm đa dạng, phong phú các DV GDĐH, đồng thời cũng làm tăng thêm lực cạnh tranh ngay trong chính bản thân các DV GDĐH. NKDV GDĐH không chỉ tạo ra cơ chế cạnh tranh mà còn thúc đẩy, tăng cƣờng cạnh tranh ngay trong những dịch vụ thiết yếu ấy. Những dịch vụ nào tốt, cần thiết cho xã hội, trong nƣớc chƣa có, chất lƣợng đƣợc kiểm định, giá cả phù hợp, sẽ đủ sức đứng vững trong thị trƣờng. Ngƣợc lại, những DV nào không phù hợp (cả về chất lƣợng và giá cả) với số đông ngƣời tiêu dùng, sẽ bị (hoặc tự) loại bỏ. Quy luật nghiệt ngã này cũng là đặc trƣng cốt lõi nhất của cạnh tranh. Có thể tóm tắt bản chất của cạnh tranh là: phù hợp thì tất yếu tồn tại, không phù hợp thì bị đào thải. Vì vậy, có thể thấy cạnh tranh trong GDĐT là cần thiết mang lại cho các đối tác nhiều lợi ích hơn là thiệt hại. NKDV GDĐH không chỉ tạo ra cạnh tranh mà lớn hơn, là thúc đẩy và tăng thêm năng lƣợng mới cho cạnh tranh. NKDV GDĐH đem lại nhiều cơ hội hơn cho ngƣời tiêu dùng trong quá trình lựa chọn các DV phù hợp nhất – đây là lợi ích và cũng là nét văn minh của KTTT. 1.4.2.3. Mở rộng cơ hội cho người học ở trong và ngoài nước, thu hút và khuyến khích người tài cho sự phát triển đất nước. NKDV GDĐH làm tăng thêm danh mục các chƣơng trình mà trong nƣớc chƣa có. Ngƣời tiêu dùng có cơ hội đƣợc lựa chọn nhiều hơn, lợi ích Các phHầnệ điều của họ tăng lên, lợi ích của cộng đồng và xã hội vì thế cũng đƣợc cải thiện mềmhành ứng (HĐH) theo chiều hƣớng tốt hơn. Trong tập hợp các DV GDĐH, các dịch vụ đã có dụng sẵn trong nƣớc sẽ có thêm cơ hội cọ xát, so sánh với các dịch vụ nhập vào, cũng là khuyến khích cạnh tranh giữa các dịch vụ với nhau, cũng là nhân tố giúp cho ngƣời dân có nhiều cơ hội lựa chọn hơn để tham gia các CTĐT. Nhƣ đã phân tích ở trên, càng tăng thêm nhiều dịch vụ, nhất là có cả những dịch vụ trong nƣớc với dịch vụ của nƣớc ngoài, càng làm cho cạnh tranh phát triển. Mà cạnh tranh phát triển rộng đến đâu, ngƣời tiêu dùng càng đƣợc 39
  50. hƣởng lợi đến đấy. Đây cũng là quy luật đúng cả trong kinh tế và phát triển văn hóa, xã hội, trong đó có GDĐT. Theo nguyên lý cạnh tranh và tự do lựa chọn, quyền của ngƣời tiêu dùng càng ngày càng tăng, tính dân chủ và minh bạch trong sản xuất và cung ứng các dịch vụ cũng ngày càng đƣợc thực hiện tốt hơn. Theo nguyên tắc tối đa hoá lợi ích tiêu dùng, những ngƣời sản xuất và cung ứng, tức bên bán dịch vụ sẽ phải thoả mãn tối đa yêu cầu của những ngƣời NK, tức ngƣời mua các dịch vụ này, vì nếu không, sẽ khó bán đƣợc dịch vụ cho số lƣợng không lớn những ngƣời mua, có khả năng thanh toán, nhƣng “khó tính” trong chọn lựa dịch vụ theo yêu cầu của mình. Một khía cạnh nữa cũng cần nhắc đến là việc góp phần giữ chân, thu hút nhân tài khi đẩy mạnh NKDV GDĐH. Nhân tài không chỉ đòi hỏi có chính sách đãi ngộ tốt nếu không nói là đặc biệt, mà họ còn cần môi trƣờng làm việc, cống hiến và thể hiện tài năng trong môi trƣờng khoa học kỹ thuật và công nghệ. Nếu chỉ đãi ngộ đơn thuần mà không tạo điều kiện làm việc để phát huy hết sở trƣờng của họ, tạo cơ hội cho họ cống hiến và phát triển hơn nữa, để họ bộc lộ hết năng lực, tức là cơ hội cho họ làm việc, thì chỉ là điều kiện cần. Chính do lao động, tài năng của họ mới đƣợc thăng hoa, nở rộ nhất. Vì vậy, khi NKDV GDĐH cũng sẽ tạo ra những thách thức mới, tạo ra “việc làm” cho ngƣời tài đƣợc phát huy sở trƣờng trong nghiên cứu và phát lộ những ý tƣởng mới. Họ cũng đƣợc làm việc trong môi trƣờng quốc tế rộng mở, đòi hỏi họ cống hiến, đòi hỏi họ tạo ra sản phẩm, dịch vụ mới, đòi hỏi họ có phát minh, sáng chế. Đây là một logic thực tế và cũng là lợi ích của NKDV GDĐH. Ngƣời “tài” nhờ công việc mà thể hiện, nhờ công việc để hấp dẫn mình, nhờ công việc mà cống hiến. Họ chỉ có thể trở thành và công nhận là ngƣời tài giỏi nếu qua công việc. Vì thế, NKDV GDĐH không chỉ tạo thêm các dịch vụ mới so với những gì sẵn có, gia tăng sự cạnh tranh lành mạnh mà còn có tác dụng ƣu đãi ngƣời tài, giữ chân và thu hút ngƣời tài. Lợi ích của NK là rất lớn và đa dạng. Tuy nhiên, nếu không kiểm soát, không tự giác nhận thức về tính hai mặt của các dịch vụ nhập vào, có thể gia tăng cả những thiệt hại không đáng có nhƣ các DVNK, bằng lợi thế của mình, sẽ đè bẹp các dịch vụ trong nƣớc. Điều này dẫn đến tổn thất ngoại tệ, lại làm thiệt hại về mặt kinh tế nhiều hơn, nếu không kiểm soát đƣợc các hoạt động NK này. Đây là một cảnh báo mà nhiều nhà kinh tế đã thông tin và đã đƣợc kiểm nghiệm từ thực tế NK các hàng hoá, dịch vụ nói chung, DV GDĐH nói riêng. Làn sóng mở cửa sẽ cuốn trôi cả những gì là 40
  51. truyền thống văn hoá lịch sử, tập quán tốt đẹp của các quốc gia. Đây là sự thật, là tính hai mặt của việc mở cửa, nhất là đối với DV GDĐH. 1.4.2.4. Thúc đẩy sự phát triển các ngành nghề, đặc biệt là các ngành nghề sử dụng nhiều chất xám, đem lại giá trị gia tăng cao. NKDV GDĐH cũng tức là NK phần tri thức tiên tiến, mà trong nƣớc không có hoặc có, nhƣng thiếu những điều kiện để phát triển. Thực chất đây là phần mềm, yếu tố linh hoạt thƣờng xuyên thay đổi (theo hƣớng tích cực), và những thay đổi của nó giúp cho hàng loạt yếu tố khác biến đổi, tiến bộ. Do đặc tính của NK (có chọn lọc) là giúp hình thành nên các ngành học mới, hệ tri thức mới, đào tạo ra NNL có chất lƣợng cao. Các ngành, nghề của xã hội nhờ đó đƣợc bổ sung những thông tin mới để hoàn thiện, hoặc hình thành những kỹ năng mới, phƣơng thức thực hành mới. Đây là giá trị của các DV GDĐH nhập vào, là “lợi nhuận”, không phải lợi nhuận có đƣợc bằng tiền từ việc kế thừa, tiếp nối, phát triển các DV GDĐH mà nƣớc NK có thể làm đƣợc. Ngay việc trang bị kiến thức từ kết quả của quá trình NK ấy, cũng đƣợc xem xét nhƣ sự chuyển giao trí thức của nhân loại cho cộng đồng của những nƣớc NK mà kết quả không thể tính bằng tiền đƣợc. Những tri thức này cũng không chỉ giúp phát triển các ngành nghề mới, mà còn gợi ý để xúc tiến sự ra đời các phân ngành, các kiến thức, kỹ năng, mà nếu không nhờ NK chƣa chắc đã hình thành đƣợc. Đây là vị trí bổ sung và chuyển giao của hoạt động NKDV GDĐH. Tuy nhiên, các quốc gia khôn ngoan phải biết lựa chọn, kế thừa những gì mà họ cần, họ thiếu, loại bỏ những gì mà quốc gia đang có (để tiết kiệm ngoại tệ) và các dịch vụ có thể gây tổn thƣơng cho văn hóa, thuần phong mỹ tục hoặc nguồn lực của quốc gia. Tức là NK phải có chọn lọc, phải tính đến sự đối ứng các nguồn lực ở trong nƣớc, phải cân nhắc nguồn ngoại tệ mà quốc gia có thể giành cho hoạt động NK hàng hoá, DVGD nói chung, các DV GDĐH nói riêng. Tóm lại, khi nói về các yêu cầu của NKDV GDĐH, chỉ nhìn thấy tác động tích cực của nó đối với NNL, với tƣ cách ngƣời cung cấp thêm, bổ sung thêm. Tính chất “dùng chung” của DV GDĐH đƣợc thể hiện rất rõ ở hoạt động XNK này. Rào cản lớn nhất chính là những phân tích, đánh giá tỉnh táo về sự cần thiết của các dịch vụ đối với từng nƣớc NK và thái độ khôn ngoan, biết lựa chọn những dịch vụ nào là cần thiết nhất để nhập, đặc 41
  52. biệt là việc NKDV GDĐH. Nếu quốc gia nào cũng làm nhƣ vậy, các yêu cầu của NKDV GDĐH càng lớn, ý nghĩa lan tỏa tích cực của các dịch vụ công cộng loại này sẽ khó tính đƣợc hết. 1.5. Chính sách và đánh giá chính sách NKDV GDĐH 1.5.1. Chính sách nhập khẩu dịch vụ GDĐH 1.5.1.1. Khái niệm Chính sách NKDV GDĐH là một loại chính sách công, có mục đích là gia tăng, làm phong phú thêm, đa dạng hóa các mức thỏa dụng của công chúng, tạo ra sức cạnh tranh, để ngƣời tiêu dùng có cơ hội lựa chọn những dịch vụ đáp ứng tốt nhất nhu cầu của mình. Ngƣời ban hành chính sách này là chính phủ, vì nó gắn trực tiếp với việc nâng cao trình độ NNL, nó bao phủ phần GDĐH và những dịch vụ khác có liên quan, nó tác động đến số đông công dân trong độ tuổi học tập và nghiên cứu, nó liên quan đến sức cạnh tranh của quốc gia trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và HNQT. Để thực hiện chính sách này, có nhiều hành động cùng hỗ trợ, ở các mức độ và giác độ khác nhau, huy động các nguồn lực khác nhau. Các quyết định liên quan trực tiếp đến thực hiện chính sách NKDV GDĐH, cũng đa dạng, trên nhiều lĩnh vực với nhiều loại đối tƣợng: loại dịch vụ nhập vào; ngƣời có trách nhiệm và đƣợc chỉ định NKDV này; giá và cơ chế lựa chọn loại DVNK; các trƣờng, các công dân và những tổ chức có liên quan chịu trách nhiệm NK và bán lại chúng cho xã hội; những yêu cầu cụ thể của mỗi khâu, mỗi công đoạn để các DV GDĐH đƣợc nhập và đƣợc tiêu dùng trong nƣớc . Từ những phân tích trên, tác giả xin nêu một nhận thức tổng quát: Chính sách NKDV GDĐH là chính sách công, thông qua việc cụ thể hóa các chủ trương, đường lối của Nhà nước và những cam kết quốc tế về NKDV GDĐH trong từng thời kỳ phát triển. Đây là những cách thức tác động của Nhà nước vào lĩnh vực NKDV GDĐH để đạt được mục tiêu đề ra. 1.5.1.2. Phân loại chính sách NKDV GDĐH Để tránh trùng lặp khi phân tích chính sách, tác giả đã nhóm các chính sách NKDV GDĐH theo 4 phƣơng thức cung cấp dịch vụ đƣợc quy định trong Hiệp định GATS là: - Chính sách NKDV GDĐH liên quan đến phƣơng thức cung cấp qua biên giới. - Chính sách NKDV GDĐH liên quan đến phƣơng thức tiêu thụ ở nƣớc ngoài. - Chính sách NKDV GDĐH liên quan đến phƣơng thức hiện diện thƣơng mại. - Chính sách NKDV GDĐH liên quan đến phƣơng thức hiện diện thể nhân. 42