Luận án Chất lượng hoạt động tham gia xây dựng môi trường văn hóa của tổ chức cơ sở đoàn ở các trường Sĩ quan quân đội hiện nay

doc 185 trang Bích Hải 08/04/2025 210
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận án Chất lượng hoạt động tham gia xây dựng môi trường văn hóa của tổ chức cơ sở đoàn ở các trường Sĩ quan quân đội hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docluan_an_chat_luong_hoat_dong_tham_gia_xay_dung_moi_truong_va.doc
  • doc1 BÌA LUẬN ÁN.doc
  • doc1 PHỤ LỤC.doc
  • doc2 BÌA TÓM TẮT TIẾNG VIỆT.doc
  • doc2 TÓM TẮT TIẾNG VIỆT.doc
  • doc3 BÌA TÓM TẮT TIẾNG ANH.doc
  • doc3 TÓM TẮT TIẾNG ANH.doc
  • doc4 THÔNG TIN MẠNG TIẾNG ANH.doc
  • doc4 THÔNG TIN MẠNG TIẾNG VIỆT.doc

Nội dung text: Luận án Chất lượng hoạt động tham gia xây dựng môi trường văn hóa của tổ chức cơ sở đoàn ở các trường Sĩ quan quân đội hiện nay

  1. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu độc lập của riêng tôi. Các số liệu, tài liệu sử dụng trong luận án là trung thực, có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng. Hà Nội, ngày tháng năm 2024 TÁC GIẢ LUẬN ÁN Hoàng Mạnh Cường
  2. MỤC LỤC Trang TRANG PHỤ BÌA LỜI CAM ĐOAN MỤC LỤC DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT MỞ ĐẦU 5 Chương 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 10 1.1. Các công trình khoa học liên quan đến đề tài luận án 10 1.2. Giá trị của các công trình khoa học đã tổng quan và những vấn đề luận án tập trung nghiên cứu 27 Chương 2. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN, THỰC TIỄN VỀ XÂY DỰNG MÔI TRƯỜNG VĂN HÓA VÀ CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG THAM GIA XÂY DỰNG MÔI TRƯỜNG VĂN HOÁ CỦA TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐOÀN Ở CÁC TRƯỜNG SĨ QUAN QUÂN ĐỘI 31 2.1. Tổ chức cơ sở đoàn ở các trường sĩ quan quân đội và xây dựng môi trường văn hoá ở các trường sĩ quan quân đội 31 2.2. Những vấn đề cơ bản về chất lượng hoạt động tham gia xây dựng môi trường văn hoá của tổ chức cơ sở đoàn ở các trường sĩ quan quân đội 54 Chương 3. THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG, NGUYÊN NHÂN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG THAM GIA XÂY DỰNG MÔI TRƯỜNG VĂN HOÁ CỦA TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐOÀN Ở CÁC TRƯỜNG SĨ QUAN QUÂN ĐỘI 78 3.1. Thực trạng chất lượng hoạt động tham gia xây dựng môi trường văn hoá của tổ chức cơ sở đoàn ở các trường sĩ quan quân đội 78 3.2. Nguyên nhân của thực trạng và những vấn đề đặt ra đối với nâng cao chất lượng hoạt động tham gia xây dựng môi trường văn hoá của tổ chức cơ sở đoàn ở các trường sĩ quan quân đội 108
  3. Chương 4. YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG THAM GIA XÂY DỰNG MÔI TRƯỜNG VĂN HOÁ CỦA TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐOÀN Ở CÁC TRƯỜNG SĨ QUAN QUÂN ĐỘI HIỆN NAY 122 4.1. Những yếu tố tác động và yêu cầu nâng cao chất lượng hoạt động tham gia xây dựng môi trường văn hoá của tổ chức cơ sở đoàn ở các trường sĩ quan quân đội hiện nay 122 4.2. Giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động tham gia xây dựng môi trường văn hoá của tổ chức cơ sở đoàn ở các trường sĩ quan quân đội hiện nay 134 KẾT LUẬN 169 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 171 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 172 PHỤ LỤC 186
  4. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TT Chữ viết đầy đủ Chữ viết tắt 1. Ban chấp hành BCH 2. Công tác đảng, công tác chính trị CTĐ, CTCT 3. Công tác đoàn và phong trào thanh niên CTĐ và PTTN 4. Đoàn viên thanh niên ĐVTN 5. Giáo dục và Đào tạo GD và ĐT 6. Hạ sĩ quan - binh sĩ HSQ-BS 7. Môi trường văn hóa MTVH 8. Thanh niên cộng sản TNCS 9. Tổ chức cơ sở TCCS 10. Trường sĩ quan TSQ 11. Trường sĩ quan quân đội TSQQĐ
  5. 5 MỞ ĐẦU 1. Lý do lựa chọn đề tài luận án Các TSQQĐ là bộ phận của hệ thống các trường đại học quốc gia, là những trung tâm GD và ĐT, nghiên cứu khoa học, nơi đào tạo đội ngũ sĩ quan, cán bộ quân đội, nguồn nhân lực chất lượng cao cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Để đào tạo đội ngũ cán bộ, sĩ quan quân đội, các TSQQĐ phải giải quyết nhiều vấn đề từ đổi mới mục tiêu, mô hình đào tạo, nội dung, chương trình đào tạo, xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý GD và ĐT, đội ngũ giảng viên, hiện đại hóa cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học trong đó, xây dựng MTVH có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Môi trường văn hóa ở các TSQQĐ góp phần nâng cao chất lượng thực hiện nhiệm vụ chính trị trung tâm là GD và ĐT, nghiên cứu khoa học, rèn luyện kỷ luật. Đồng thời, MTVH là nơi tạo dựng, nuôi dưỡng những phẩm chất nhân cách của người quân nhân, cán bộ quân đội, hình thành, phát triển hệ giá trị văn hóa tốt đẹp, phát huy truyền thống văn hóa của dân tộc, của Đảng, Quân đội, góp phần ngăn chặn sự xâm nhập, lây lan các tiêu cực và tệ nạn xã hội, các tàn dư văn hóa của chế độ thực dân, phong kiến, sự thẩm lậu văn hóa phương Tây, các yếu tố phản văn hoá vào nhà trường. Tổ chức cơ sở đoàn ở các TSQQĐ gồm đông đảo ĐVTN - lực lượng xung kích, sáng tạo trong quán triệt, thực hiện nhiệm vụ, luôn nỗ lực, cố gắng vượt qua mọi khó khăn, gian khổ cống hiến tài năng, trí tuệ, góp phần hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ chính trị của nhà trường. Với sức trẻ, ĐVTN ở các TSQQĐ luôn nhiệt huyết trong các phong trào, cuộc vận động trong đó có hoạt động tham gia xây dựng MTVH. Kế thừa truyền thống của các thế hệ đi trước, TCCS đoàn và ĐVTN ở các TSQQĐ luôn nêu cao tinh thần xung kích cách mạng, khát vọng vươn lên, tích cực cống hiến, sáng tạo xây dựng MTVH; là lực lượng xung kích trong hoạt động này, góp phần làm cho môi trường học tập, công tác ở các TSQQĐ không ngừng được làm “giàu” về giá trị văn hóa. Trong những năm qua, nhận thức được vị trí, vai trò tầm quan trọng của MTVH, tham gia xây dựng MTVH của TCCS đoàn, đảng ủy, ban giám hiệu và đội ngũ cán bộ chủ trì ở các TSQQĐ đã thường xuyên quan tâm, lãnh
  6. 6 đạo, chỉ đạo hoạt động tham gia xây dựng MTVH của TCCS đoàn, do đó chất lượng hoạt động này ngày càng được nâng lên, góp phần nâng cao đời sống văn hóa, tinh thần của quân nhân, nhân viên, HSQ-BS. Các TCCS đoàn đã nhận thức đúng đắn, đề cao trách nhiệm, có những chương trình hành động cụ thể, thiết thực trong xây dựng MTVH. Tuy nhiên, chất lượng hoạt động tham gia xây dựng MTVH của TCCS đoàn ở một số đơn vị thuộc các TSQQĐ còn bộc lộ những hạn chế, khuyết điểm: Nhận thức, trách nhiệm một số chủ thể, lực lượng về MTVH và vai trò của TCCS đoàn trong hoạt động tham gia xây dựng MTVH chưa toàn diện, thống nhất; nội dung, hình thức biện pháp hoạt động tham gia xây dựng MTVH của TCCS còn hạn chế so với tiềm năng, thế mạnh vốn có; kết quả hoàn thành nhiệm vụ tham gia xây dựng MTVH so với mục đích, yêu cầu nhiệm vụ có mặt chưa cao. Hiện nay yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; xây dựng Quân đội, trực tiếp là yêu cầu GD và ĐT ở các TSQQĐ ngày càng cao, đòi hỏi phải quan tâm xây dựng MTVH trong sạch, lành mạnh. Xu thế toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng; sự phát triển nhanh chóng của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; mặt trái nền kinh tế thị trường; sự chống phá của các thế lực thù địch trên lĩnh vực tư tưởng, văn hoá; sự tác động tiêu cực của tệ nạn xã hội, sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ đang tác động trực tiếp đến xây dựng MTVH ở các TSQQĐ, tác động đến TCCS đoàn và ĐVTN làm xuất hiện những nhận thức khác nhau về vai trò, trách nhiệm của TCCS đoàn trong hoạt động tham gia xây dựng MTVH, có biểu hiện đề cao giá trị vật chất, coi nhẹ giá trị văn hóa, tinh thần, chạy theo lợi ích cá nhân, thờ ơ, thiếu trách nhiệm, “khô Đoàn, nhạt Đảng”. Vì vậy, nâng cao chất lượng hoạt động tham gia xây dựng MTVH của TCCS đoàn ở các TSQQĐ là yêu cầu cơ bản, thường xuyên và cấp bách hiện nay. Từ những lý do trên, tác giả chọn vấn đề “Chất lượng hoạt động tham gia xây dựng môi trường văn hoá của tổ chức cơ sở đoàn ở các trường sĩ quan quân đội hiện nay”, làm đề tài luận án tiến sĩ Khoa học Chính trị, ngành xây dựng Đảng và Chính quyền Nhà nước.
  7. 7 2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở nghiên cứu làm rõ những vấn đề cơ bản lý luận, thực tiễn chất lượng hoạt động tham gia xây dựng MTVH của TCCS đoàn ở các TSQQĐ; đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động tham gia xây dựng MTVH của TCCS đoàn ở các TSQQĐ hiện nay. Nhiệm vụ nghiên cứu - Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án, khái quát giá trị lý luận, thực tiễn của các công trình khoa học đã tổng quan đối với đề tài luận án và xác định những vấn đề luận án tập trung nghiên cứu. - Nghiên cứu làm rõ những vấn đề cơ bản về TCCS đoàn, MTVH, xây dựng MTVH ở các TSQQĐ và chất lượng hoạt động tham gia xây dựng MTVH của TCCS đoàn ở các TSQQĐ. - Đánh giá đúng thực trạng chất lượng hoạt động tham gia xây dựng MTVH của TCCS đoàn, chỉ rõ nguyên nhân và xác định những vấn đề đặt ra đối với nâng cao chất lượng hoạt động tham gia xây dựng MTVH của TCCS đoàn ở các TSQQĐ trong những năm tới. - Xác định yêu cầu và đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động tham gia xây dựng MTVH của TCCS đoàn ở các TSQQĐ hiện nay. 3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu Chất lượng hoạt động tham gia xây dựng MTVH của TCCS đoàn ở các TSQQĐ. Phạm vi nghiên cứu Luận án tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận, thực tiễn về xây dựng MTVH và chất lượng hoạt động tham gia xây dựng MTVH của TCCS đoàn ở các TSQQĐ. Phạm vi nghiên cứu, khảo sát hoạt động tham gia xây dựng MTVH của TCCS đoàn ở các TSQQĐ, tập trung ở các trường: TSQ Chính trị, TSQ Lục quân 1, TSQ Lục quân 2, TSQ Phòng hóa, TSQ Đặc công, TSQ Công binh,
  8. 8 TSQ Pháo binh, TSQ Kỹ thuật Quân sự. Các số liệu, tư liệu điều tra, khảo sát thực tiễn phục vụ đề tài luận án được giới hạn từ năm 2017 đến nay. Các giải pháp có giá trị ứng dụng đến năm 2030 và những năm tiếp theo. 4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu Cơ sở lý luận Luận án được nghiên cứu dựa trên hệ thống lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về văn hoá, MTVH, xây dựng MTVH; hoạt động CTĐ, CTCT trong Quân đội nhân dân Việt Nam, trực tiếp là xây dựng và hoạt động của TCCS đoàn ở các TSQQĐ. Cơ sở thực tiễn Hiện thực hoạt động tham gia xây dựng MTVH của TCCS đoàn ở các TSQQĐ; các chỉ thị, nghị quyết của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, Tổng cục Chính trị về CTĐ và PTTN, về xây dựng MTVH trong quân đội; các báo cáo sơ kết, tổng kết CTĐ và PTTN, công tác xây dựng MTVH của các TSQQĐ và hoạt động của TCCS đoàn tham gia xây dựng MTVH ở các TSQQĐ; kết quả điều tra, khảo sát thực tiễn. Đồng thời, luận án kế thừa, tiếp thu có chọn lọc kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học đã nghiệm thu, công bố có liên quan đến đề tài luận án. Phương pháp nghiên cứu Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, đề tài sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu của khoa học ngành và liên ngành. Trong đó, chú trọng sử dụng các phương pháp: Kết hợp phân tích và tổng hợp; lôgic và lịch sử; thống kê và so sánh; điều tra, khảo sát; nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn. 5. Những đóng góp mới của luận án Xây dựng và làm rõ quan niệm chất lượng hoạt động tham gia xây dựng MTVH của TCCS đoàn ở các TSQQĐ. Xác định những vấn đề đặt ra đối với nâng cao chất lượng hoạt động tham gia xây dựng MTVH của TCCS đoàn ở các TSQQĐ trong những năm tới.
  9. 9 Đề xuất một số nội dung, hình thức biện pháp cụ thể, có tính khả thi trong giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động tham gia xây dựng MTVH của TCCS đoàn ở các TSQQĐ hiện nay, nhất là giải pháp “Thực hiện đúng nội dung, vận dụng linh hoạt, sáng tạo các hình thức biện pháp hoạt động tham gia xây dựng môi trường văn hoá của tổ chức cơ sở đoàn ở các trường sĩ quan quân đội hiện nay”. 6. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn của luận án Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần làm sâu sắc hơn những vấn đề lý luận và thực tiễn chất lượng hoạt động tham gia xây dựng MTVH của TCCS đoàn ở các TSQQĐ. Đồng thời, cung cấp thêm những luận cứ khoa học để các cấp uỷ, đội ngũ cán bộ, cơ quan chức năng các cấp tham khảo vào xác định các chủ trương, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn nâng cao chất lượng hoạt động tham gia xây dựng MTVH của TCCS đoàn ở các TSQQĐ. Kết quả nghiên cứu của luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo đối với đội ngũ cán bộ đoàn trong hoạt động tham gia xây dựng MTVH của TCCS đoàn ở các TSQQĐ hiện nay. Luận án có thể sử dụng làm tài liệu nghiên cứu, tham khảo phục vụ cho công tác nghiên cứu, giảng dạy, học tập môn CTĐ, CTCT ở các TSQQĐ. 7. Kết cấu của luận án Luận án gồm phần: Mở đầu, nội dung (04 chương, 8 tiết), kết luận, các công trình khoa học của tác giả đã được công bố liên quan đến đề tài luận án; danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.
  10. 10 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 1.1. Các công trình khoa học liên quan đến đề tài luận án 1.1.1. Các công trình khoa học ở nước ngoài liên quan đến đề tài luận án 1.1.1.1. Các công trình nghiên cứu về văn hoá và xây dựng môi trường văn hoá A.I. Acnonđop (1981), Cơ sở lý luận văn hóa Mác - Lênin [02]. Tác giả cuốn sách đã luận giải văn hóa và MTVH: “Môi trường văn hóa là một tổng thể ổn định của những yếu tố vật thể và nhân cách, nhờ đó mà các cá thể tác động lẫn nhau Môi trường văn hoá không chỉ là sự tổng hợp của những yếu tố văn hóa vật thể mà ở đó còn có những con người hiện diện văn hóa” [02, tr.15]. Tác giả khẳng định để xây dựng được MTVH tốt đẹp bao gồm nhiều quá trình, nhiều nội dung, lực lượng và trong các thành tố cấu thành MTVH, con người vừa là sản phẩm của văn hóa, hoạt động văn hóa vừa là chủ thể tham gia xây dựng MTVH. Vì vậy, khi con người nhận thức toàn diện về văn hóa, MTVH, vai trò MTVH trong sự phát triển sẽ đề cao vai trò, trách nhiệm, tích cực chủ động xây dựng và hoàn thiện MTVH. Đồng thời, MTVH tốt đẹp góp phần xây dựng, phát triển con người với tư cách là một yếu tố cấu thành môi trường đó. Lưu Vân Sơn (2010), “Tìm tòi thực tiễn và tư duy lý luận xây dựng văn hoá xã hội chủ nghĩa đặc sắc Trung Quốc” [100]. Tác giả bài báo đã làm rõ nội dung xây dựng nền văn hóa Trung quốc, con người Trung Quốc trong giai đoạn cách mạng mới với những đặc trưng mới, xây dựng Trung Quốc trở thành nước xã hội chủ nghĩa có nền văn hóa tiên tiến, hài hòa, giàu đẹp. Đồng thời, chỉ rõ vị trí, vai trò của nền văn hóa mới, con người mới, đây là yếu tố quan trọng tạo động lực xây dựng đất nước Trung Quốc hùng cường. Để làm được như vậy, cần phát huy vai trò mọi tổ chức, lực lượng, nhất là quần chúng nhân dân, nâng cao sự tự tin về văn hoá, giương cao ngọn cờ quy tụ lòng dân: “Mục đích căn bản, cao cả phát triển văn hoá là vì nhân dân, dựa vào nhân dân, đẩy mạnh xây dựng văn hoá xã hội chủ nghĩa cần kiên trì và lấy nhân dân làm gốc, hướng tới quần chúng, đáp ứng tối đa nhu cầu văn hoá tinh thần của quần chúng nhân dân [100, tr.35].
  11. 11 Vương Hồng Tài (2012), Bàn về văn hoá Trung Quốc và mô hình trường đại học của Trung Quốc [101]. Tác giả cuốn sách đã chỉ ra các trường đại học khác nhau, tính tất yếu mô hình, cách thức vận hành, phát triển khác nhau, nói cách khác mỗi trường đại học đều có những nét văn hoá, MTVH riêng, phụ thuộc vào điều kiện địa lý, văn hóa vùng miền, mô hình, mục đích, phương châm đào tạo. Tuy nhiên, cần một chuẩn chung nhất định, phát triển nền văn hóa xã hội chủ nghĩa tiên tiến, kế thừa văn hóa truyền thống tốt đẹp, phù hợp, đáp ứng nhu cầu văn hóa tinh thần ngày càng tăng của nhân dân, không ngừng nâng cao “sức mạnh mềm” của quốc gia, dân tộc. Tác giả đã đưa ra ba tiêu chuẩn để xây dựng mô hình của một trường đại học đó là: Một là, có phương châm nòng cốt giáo dục đại học, phương châm này phải có tính độc lập, sáng tạo. Hai là, có mô hình trường đại học cơ sở, tức phải có phương tiện thực tiễn. Ba là, chứng minh được mô hình trường đại học có hiệu quả rộng rãi, giải quyết được những vấn đề thực tế đặt ra... thiếu bất kỳ mô hình nào đều dẫn tới không thành công [101, tr. 471]. Ba yếu tố trên là một thể thống nhất, hợp thành điều kiện để thúc đẩy, phổ biến mô hình trường đại học mẫu. Qua đó, tác giả khẳng định phải phát huy sức mạnh tổng hợp trong tham gia xây dựng nhà trường nói chung và MTVH nhà trường nói riêng, góp phần xây dựng nhà trường ngang tầm nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng mới. Young Yun Kim (2017), “Thích ứng đa văn hóa” [73]. Tác giả người Hàn Quốc đã trình bày trong bài báo quan điểm những người rời khỏi môi trường quen thuộc với nền văn hóa quê hương và định cư ở MTVH mới trong những khoảng thời gian khác nhau. Mặc dù hoàn cảnh riêng biệt, tất cả những người mới đến đều thấy cần thiết lập và duy trì mối quan hệ với môi trường mới. Quá trình thích nghi thường bắt đầu với những trải nghiệm tâm lý và sinh lý, sức ép thường được gọi là các triệu chứng của “sốc văn hóa”. Nền tảng của quá trình thích ứng đa văn hóa là hai trải nghiệm có liên quan với nhau về sự phi văn hóa của một số thói quen văn hóa ban đầu, và mặt khác là
  12. 12 sự tiếp biến văn hóa của những thói quen mới. Tác giả nhấn mạnh vai trò của MTVH đến sự phát triển của cá nhân và cộng đồng dân tộc, đồng thời đòi hỏi mỗi cá nhân phải không ngừng chủ động tích cực tham gia xây dựng MTVH, tạo môi trường thuận lợi để cá nhân phát triển. Quá trình xây dựng MTVH cần lấy chuẩn mực chung nhất, tiến bộ để kế thừa và phát triển, loại bỏ những yếu tố cá thể, nhỏ lẻ không phù hợp để hoàn thiện MTVH. Xây dựng MTVH thống nhất trong đa dạng, hài hòa lợi ích của tập thể và từng cá nhân trong cộng đồng. Levin, MaMlok (2021), “Văn hóa và xã hội trong thời đại kỹ thuật số” [80]. Trong bài báo, hai tác giả người Mỹ đã làm rõ phải chú ý nhiều hơn đến các nghiên cứu về văn hóa như một phương tiện để hiểu về xã hội kỹ thuật số. Với sự phát triển mạnh của công nghệ thông tin, văn hóa cũng đa dạng, phong phú hơn, tác động đến con người mạnh mẽ không chỉ trong công việc còn trong cuộc sống, tạo điều kiện cho con người phát triển toàn diện, không ngừng hoàn thiện bản thân, tiếp thu kiến thức, kinh nghiệm phát triển, hội nhập. Tuy nhiên, mặt trái của công nghệ thông tin trong lĩnh vực văn hóa cũng đặt ra cho con người nhiều vấn đề cần phải giải quyết. Đồng thời, tác giả khẳng định vai trò to lớn của văn hóa đối với xã hội, nhất là trong thời đại bùng nổ thông tin như hiện nay. Và nhấn mạnh để văn hóa phát triển cần có những quy định chung bắt buộc tuân theo cũng như đòi hỏi sự tham gia của các tổ chức, cá nhân trong xã hội. Từ đó, đặt ra vấn đề phải xây dựng MTVH tốt đẹp, lành mạnh góp phần định hướng giá trị tốt đẹp cho con người trong xã hội số, phát triển nhưng giữ được giá trị cốt lõi “bản ngã” con người, hướng con người đến những giá trị Chân - Thiện - Mỹ. 1.1.1.2. Các công trình nghiên cứu về hoạt động của các tổ chức thanh niên trong xây dựng môi trường văn hóa Mao Trạch Đông (1961), Bàn về thanh niên và công tác thanh niên [56]. Cuốn sách đã làm rõ tư tưởng của Mao Trạch Đông về vị trí, vai trò, sứ mệnh của thanh niên trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, kiến thiết nước nhà. “Là đạo quân xung kích chủ yếu trong đấu tranh cách mạng và kiến thiết đất nước, thanh niên là niềm hy vọng lớn lao nhất” [56, tr.04]. Do đó, trách nhiệm của đất nước, dân tộc là đào tạo, bồi dưỡng để thanh niên không
  13. 13 ngừng trưởng thành; thanh niên cần nhận thức sâu sắc trọng trách của mình không ngừng nỗ lực vươn lên, đáp ứng sứ mệnh xây dựng đất nước Trung Hoa hùng cường, phát triển. Đồng thời, thanh niên phải kiên cường nghe theo Đảng, làm theo Đảng, không ngừng nuôi dưỡng ước mơ, dám nghĩ, dám làm, làm giỏi mọi việc; quyết tâm trở thành thanh niên giỏi thời đại mới, có lý tưởng cao, dám chịu trách nhiệm, dám chịu khó khăn, có chí tiến thủ, tuổi trẻ được cống hiến hết mình cho sự nghiệp cách mạng trên các lĩnh vực, trong đó xây dựng MTVH là lĩnh vực quan trọng để phát triển tổ chức, hoàn thiện bản thân, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. X.M.Lê-pê-khin (1978), Những nguyên lý Lê-nin-nit về giáo dục thanh niên [75]. Tác giả cuốn sách khẳng định vị trí, vai trò to lớn của thanh niên trong tiến trình lịch sử cách mạng. Để thanh niên phát triển, đóng góp nhiều hơn, các tổ chức phải không ngừng giáo dục, rèn luyện thanh niên, tin tưởng thanh niên, giao nhiệm vụ và động viên, khuyến khích thanh niên vươn lên hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Để đạt được mục tiêu đó, cần phát huy sức mạnh tổng hợp của nhiều tổ chức và lực lượng, trong đó tổ chức đảng là yếu tố quyết định, suy đến cùng: "Là điều kiện chủ yếu, cơ sở, tiền đề của việc giáo dục lý tưởng cộng sản cho thanh niên" [75, tr.45-46]. Đồng thời, tác giả nhấn mạnh vai trò của tổ chức đoàn trong tập hợp, giáo dục tinh thần, ý thức, trách nhiệm thanh niên đối với sự nghiệp cách mạng, tinh thần sẵn sàng hy sinh cho tổ quốc. Theo đó, cần có MTVH tốt để tập hợp, giáo dục, rèn luyện, phát huy tính xung kích của ĐVTN, một MTVH tốt đẹp, tích cực, giàu trí tuệ, thấm đẫm giá trị nhân văn sâu sắc là điều kiện "bệ đỡ", đưa thanh niên vươn cao, bay xa, thực hiện khát vọng xây dựng và phát triển đất nước, dân tộc. “Giáo dục thanh niên nhất thiết nhằm vào mục đích làm cho thanh niên hiểu về vị trí, vai trò của mình trong xã hội, ý thức được không phải chỉ là những quyền hạn mà còn cả những trách nhiệm trước xã hội, trước tập thể, trước gia đình” [75, tr.16]. M.I. Ca-li-nin (1982), Bàn về thanh niên [19]. Tác giả cuốn sách đã khẳng định vai trò to lớn của thanh niên trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc, với những đặc tính vốn có như số lượng đông đảo, tính xung
  14. 14 kích trong tham gia vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội “Không một binh chủng nào, một nghiệp vụ chuyên môn nào, một công tác đặc biệt đột xuất nào - bao gồm cả hoạt động du kích - mà lại không có sự tham gia của ĐVTN cộng sản, của thanh niên” [19, tr.174]. Do đó, cần nhận thức đầy đủ vị trí, vai trò của thanh niên, có phương pháp, cách thức phù hợp để tập hợp, giáo dục, xây dựng bản lĩnh chính trị, năng lực cho đội ngũ này đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng nói chung, trong xây dựng MTVH nói riêng: "Coi thường đặc điểm riêng của tuổi trẻ chỉ làm cho công tác đoàn thêm khô héo, cằn cỗi, làm cho thanh niên khiếp sợ đoàn và xa lánh đoàn hơn mà thôi" [19, tr.13 -14]. V.I. Vanop và B.Lixin (1985), Đào tạo và giáo dục cán bộ đoàn [154]. Trong cuốn sách, tác giả đã trình bày những kinh nghiệm trong đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng cán bộ đoàn TNCS Lênin Liên Xô. Đây là thủ lĩnh đoàn, đầu tàu, quyết định rất lớn đến kết quả hoàn thành nhiệm vụ của ĐVTN. Vai trò cao, đòi hỏi người cán bộ đoàn phải không ngừng hoàn thiện bản thân trên mọi phương diện phẩm chất, năng lực, phương pháp, tác phong công tác, kỹ năng, kinh nghiệm Vì vậy, cần làm tốt khâu lựa chọn, đào tạo, bố trí, sử dụng, bồi dưỡng cán bộ đoàn cho phù hợp và đảm bảo hiệu quả tốt nhất "trang bị những phẩm chất cần thiết, giáo dục tác phong Lêninit cho cán bộ đoàn" [154, tr. 68]. Đồng thời, cần xây dựng môi trường tốt để cán bộ đoàn phát triển, nhất là MTVH. Một MTVH thấm đẫm giá trị nhân văn, tiếp thu giá trị văn hóa nhân loại, dân tộc với những chuẩn mực trong giao tiếp văn hóa, hành động văn hóa; mạnh dạn giao việc và tin tưởng vào cán bộ đoàn, tạo động lực để cán bộ đoàn phát huy tài năng, trí tuệ, lòng nhiệt huyết cách mạng trong thực hiện nhiệm vụ và đạt kết quả cao nhất. Sa Vẻng Đen Na Môn (2016), Phát huy giá trị văn hoá truyền thống trong phát triển đời sống văn hoá ở đơn vị cơ sở Quân đội nhân dân Lào hiện nay [55]. Tác giả luận án đã nghiên cứu một cách có hệ thống về đời sống văn hoá ở đơn vị cơ sở Quân đội nhân dân Việt Nam Lào: "Đời sống văn hóa là một bộ phận của đời sống xã hội, nó thể hiện chất lượng cuộc sống con người" [55, tr.47]. Đồng thời, chỉ ra sự tác động to lớn của nó đến đời sống
  15. 15 văn hóa cán bộ, chiến sĩ, đến sức mạnh chiến đấu và mức độ hoàn thành nhiệm vụ của đơn vị cơ sở. Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, với sự phát triển mạnh mẽ của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, cần nghiên cứu, chắt lọc, bổ sung, hoàn thiện các giá trị văn hóa phù hợp, hướng tới xây dựng quân đội vững mạnh. Môi trường văn hóa tốt góp phần cho đời sống văn hóa không ngừng được nâng lên, ĐVTN có điều kiện phát triển toàn diện, được sống, cống hiến, phát triển và hưởng thụ theo năng lực, khả năng của bản thân. Ngược lại, đời sống văn hóa cao là yếu tố để xây dựng MTVH lành mạnh, phù hợp để ĐVTN sống tốt hơn, cống hiến nhiều hơn, hiệu quả hơn. Soumya Mary Mathews, Dr.S.Arulsamy (2021), "Vai trò của giáo dục trong việc truyền tải văn hóa trong xã hội" [82]. Trong giả bài báo, hai tác giả người Ấn Độ đã khẳng định giáo dục đóng vai trò quan trọng trong việc truyền tải văn hóa. Văn hóa tác động rất lớn đến giáo dục cũng như thay đổi xã hội. Nền văn hóa được phát triển thông qua giáo dục. Văn hóa mở đường cho giáo dục trong khi giáo dục có trách nhiệm tạo hương vị cho các giá trị văn hóa trong cuộc sống. Do đó, cả hai phải được đan xen theo nhiều cách khác nhau. Muốn phát triển văn hóa phải đẩy mạnh, nâng cao chất lượng GD và ĐT, để GD và ĐT phát triển bền vững, theo kịp sự phát triển của sự nghiệp cách mạng thì cải cách, đổi mới, nâng cao giá trị văn hóa. Muốn văn hóa phát triển cần có con người nói chung và thế hệ trẻ nói riêng phát triển tương ứng. Và chính sự phát triển toàn diện của con người, nhất là thế hệ trẻ trên cơ sở được giáo dục tốt là điều kiện để xây dựng MTVH tốt đẹp, lành mạnh và hoàn bị. 1.1.2. Các công trình khoa học ở trong nước liên quan đến đề tài luận án 1.1.2.1. Các công trình nghiên cứu về văn hoá, xây dựng môi trường văn hoá, xây dựng môi trường văn hoá trong quân đội Nguyễn Duy Bắc (2006), Sự biến đổi các giá trị văn hoá trong bối cảnh xây dựng nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay [08]. Tác giả cuốn sách đã trình bày nội dung cơ bản về văn hóa, giá trị của văn hóa, sự biến đổi của văn hóa theo dòng chảy lịch sử và sự tác động của hoàn cảnh: “Văn hoá về bản chất có tính xã hội thông qua các phương thức hoạt động sinh tồn và hoạt động giao tiếp của con người” [08, tr.23]. Nói đến văn hóa là "Nói đến
  16. 16 những giá trị tinh thần mà thoả mãn được nhu cầu hay lợi ích nhất định của mỗi con người và mỗi cộng đồng người" [08, tr.45]. Quá trình phát triển văn hóa cần nhìn nhận đánh giá đúng yếu tố tác động, yêu cầu, đề xuất giải pháp phù hợp để hạn chế tiêu cực, phát huy tích cực, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Trong quân đội, MTVH chịu sự chi phối lớn của những tác nhân bên ngoài xã hội nên xây dựng MTVH phải sử dụng sức mạnh tổng hợp, kết hợp các tổ chức, lực lượng trong và ngoài đơn vị, trong đó TCCS đoàn và ĐVTN là lực lượng xung kích. Lê Văn Tân (2007), Xây dựng môi trường văn hoá bộ đội Hải quân trên quần đảo Trường Sa [102]. Tác giả luận án nhấn mạnh MTVH là sản phẩm của sự tác động lẫn nhau giữa con người và môi trường sống. Trong đó, con người vừa là sản phẩm của MTVH, đồng thời là chủ thể, quyết định MTVH. Do đó, quá trình xây dựng MTVH phải nghiên cứu thấu đáo, cụ thể, khách quan, chính xác, xây dựng hệ giải pháp cụ thể, hiệu quả đạt được mới toàn diện: “Môi trường văn hóa là sản phẩm của sự tác động lẫn nhau giữa con người với môi trường sống trong quá trình con người cải tạo tự nhiên, xã hội và cải tạo chính bản thân mình để trở thành chủ thể của hoàn cảnh ấy” [102, tr.15]. Môi trường văn hóa tác động rất lớn đến quân nhân, nhất là tinh thần trách nhiệm, mục tiêu, lý tưởng, lòng quyết tâm, sự quả cảm chiến đấu để bảo vệ biển đảo quê hương, nơi đầu sóng, ngọn gió. Nhưng để có MTVH chuẩn mực và có sức lan tỏa cần phát huy sức mạnh của mọi tổ chức, lực lượng trong đó TCCS đoàn và ĐVTN là lực lượng quan trọng, không chỉ bởi số lượng ĐVTN đông đảo mà còn bởi tính xung kích, sáng tạo của TCCS đoàn. Phạm Duy Đức (2010), Phát triển văn hoá Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020. Những vấn đề phương pháp luận [59]. Tác giả đã đánh giá sơ lược quá trình phát triển văn hóa của Việt Nam từ khi Đảng khởi xướng công cuộc đổi mới (1986-2010); đưa ra quan niệm phát triển văn hóa: “Là sự thay đổi về văn hóa theo xu thế tiến bộ, trước hết ở những lĩnh vực cơ bản của đời sống văn hóa như phát triển con người, phát triển MTVH cùng với các lĩnh vực hoạt động văn hóa đa dạng khác” [59, tr.46]. Trên cơ sở khái niệm đó, tác giả nêu lên những thành tựu và hạn chế trong xây dựng MTVH đất nước ta trong 10
  17. 17 năm qua, xác định yêu cầu và những yếu tố tác động, mối liên hệ giữa văn hóa với các lĩnh vực khác của đời sống xã hội và sự phát triển của nó, phân biệt mô hình phát triển văn hóa Việt Nam giai đoạn 2011-2020 so với mô hình xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc mà Cương lĩnh năm 1991 của Đảng đã nêu ra, cũng như xác định mục tiêu, phương hướng và giải pháp phát triển văn hóa trong 10 năm tiếp theo (2010-2020), xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, hội nhập, hiện đại, phát triển. Nguyễn Chí Bền (2012) Văn hóa Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế [09]. Tác giả cho thấy nền văn hóa Việt Nam là nền văn hóa gắn liền với văn minh lúa nước thủa “khai thiên, lập địa”, tiếp thu, chọn lọc tinh hoa văn hóa của thế giới, tự đào thải những yếu tố không phù hợp để phát triển. Trong “thế giới phẳng” ngày nay, với nền kinh tế Việt Nam vận hành theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, sự phát triển của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, giao lưu văn hóa có những thay đổi cả về hình thức và tính chất. Hình thái của giao lưu văn hóa thời hiện đại là cộng sinh chứ “không đơn thuần là sự tiếp nhận hay không tiếp nhận mà đó là điều hiển nhiên, không thể bàn cãi, chối bỏ” [09, tr.176]. Sự giao thoa giữa các nền văn hóa nhiều khi đóng vai trò quan trọng, thậm chí quyết định hơn là đối đầu vũ trang, những thuật ngữ “xâm lăng văn hoá”, được sử dụng ngày càng nhiều. Môi trường văn hóa lành mạnh đồng thời thực hiện hai nhiệm vụ kế thừa, phát huy hồn cốt văn hóa truyền thống, tiếp thu chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại và đấu tranh, loại bỏ những sản phẩm phi văn hóa. Đối với ĐVTN cần nhận thức sâu sắc vấn đề, xây dựng tốt tinh thần trách nhiệm, nâng cao hơn nữa hiệu quả xây dựng MTVH trong bối cảnh hội nhập. Tổng cục Chính trị (2014), Nâng cao chất lượng xây dựng môi trường văn hóa ở đơn vị cơ sở trong quân đội hiện nay [115]. Cuốn sách chỉ ra mục đích xây dựng MTVH ở đơn vị cơ sở trong quân đội: “Nhằm xây dựng môi trường sống tốt đẹp, lành mạnh, bồi dưỡng hoàn thiện nhân cách, động viên, khuyến khích cán bộ, chiến sĩ phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ, xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện” [115, tr.21]. Nội dung xây dựng MTVH ở đơn
  18. 18 vị cơ sở trong quân đội phong phú, đa dạng như hệ thống những giá trị văn hóa và con người văn hóa; thiết chế văn hóa; quan hệ văn hóa; hoạt động văn hóa; cảnh quan văn hóa. Các nội dung trên là một thể thống nhất, quá trình xây dựng cần tiến hành đồng bộ, nhịp nhàng, hiệu quả, nâng cao nhận thức của các tổ chức, lực lượng, phát huy tinh thần trách nhiệm, đổi mới nội dung, hình thức biện pháp sát với đặc điểm đơn vị và điều kiện hiện có, phối hợp với địa phương nơi đóng quân để xây dựng MTVH lành mạnh, nhân văn, nhân ái, đoàn kết, phát triển. Phát huy vai trò xung kích của ĐVTN với số lượng đông đảo, chất lượng cao, nắm bắt và ứng dụng nhanh chóng khoa học công nghệ xây dựng MTVH mẫu mực, tiêu biểu. Tổng cục Chính trị (2016), Nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống thiết chế văn hóa ở đơn vị cơ sở trong quân đội hiện nay [116]. Cuốn sách đã khái quát, làm rõ vị trí, vai trò, cấu trúc, chức năng, nhiệm vụ, cơ chế hoạt động, các yếu tố cấu thành thiết chế văn hóa ở các đơn vị cơ sở trong Quân đội nhân dân Việt Nam. Theo đó, nâng cao chất lượng hoạt động của thiết chế văn hóa là: Tổng thể các chủ trương, biện pháp của chủ thể, lực lượng tác động vào các yếu tố cấu thành chất lượng hoạt động của các thiết chế văn hóa, làm cho các nhân tố đó chuyển biến, phát triển về chất, tạo sức mạnh tổng hợp để phát huy cao nhất chức năng của các thiết chế văn hóa, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu về đời sống văn hóa, tinh thần của cán bộ, chiến sĩ, xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị [116, tr.43]. Như vậy, thiết chế văn hóa là một bộ phận cấu thành MTVH ở đơn vị cơ sở, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của thiết chế văn hóa góp phần xây dựng đơn vị có MTVH lành mạnh, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Bùi Quang Cường (2018), “Tăng cường xây dựng văn hóa Đảng - Biện pháp phòng chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” hiện nay” [27]. Tác giả đã đi sâu phân tích làm rõ văn hóa Đảng, vị trí, vai trò, thực trạng, yêu cầu, giải pháp xây dựng văn hóa Đảng hiện nay. “Văn hóa Đảng là toàn bộ những giá trị tốt đẹp, cao quý do đảng viên và tổ chức đảng sáng tạo ra trong quá trình
  19. 19 xây dựng Đảng và hoạt động lãnh đạo của Đảng” [27, tr.08]. Trong điều kiện hiện nay, dưới sự tác động của thế giới, khu vực; yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng; sự chống phá của các thế lực thù địch, nâng cao văn hóa Đảng là việc làm rất cần thiết, để mỗi tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên nêu cao tinh thần tiền phong, gương mẫu, vững về lập trường tư tưởng, trong sáng về đạo đức, lối sống, mẫu mực trong phong cách lãnh đạo, hoàn thành trọng trách lịch sử. Muốn xây dựng văn hóa Đảng, cần xây dựng MTVH thấm đẫm tính Đảng, mọi tổ chức và cán bộ, đảng viên phải nhận thức sâu sắc, thực hiện triệt để mọi chủ trương đường lối của Đảng, quyết tâm hoàn thành tốt trọng trách Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó. Nguyễn Phú Trọng (2021), “Ra sức xây dựng, giữ gìn và phát huy những giá trị đặc sắc của nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” [124]. Trong bài phát biểu của mình, tác giả khẳng định văn hóa là nói đến những gì là tinh hoa, tinh túy nhất, được chưng cất, kết tinh, hun đúc thành những giá trị tốt đẹp, cao thượng, đặc sắc nhất, rất nhân văn, nhân ái, nhân nghĩa, nhân tình, tiến bộ. Qua đó, thấy mục đích sâu xa nhất của xây dựng MTVH là hướng tới con người, vì con người với những giá trị cốt lõi là tình yêu thương và sự sẻ chia. Đó là cơ sở để xây dựng MTVH trong quân đội, hướng quân nhân đến bản chất cách mạng “trung với Đảng, hiếu với dân”, thủy chung, sắc son, chí nghĩa, chí tình trên tình yêu thương giai cấp và truyền thống dân tộc. Trách nhiệm đó là của mọi tổ chức, lực lượng và TCCS đoàn, ĐVTN có vai trò xung kích quan trọng. Hà Đức Long (2021), “Xây dựng môi trường văn hóa trong Quân đội nhân dân Việt Nam theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng” [81]. Trong bài báo tác giả nhấn mạnh xây dựng MTVH trong Quân đội là một trong những động lực quan trọng hàng đầu thúc đẩy yếu tố chính trị - tinh thần của quân nhân. Tác giả cũng đã luận giải những ưu điểm và hạn chế trong công tác xây dựng MTVH thời gian qua, nguyên nhân, bài học kinh nghiệm, đề xuất giải pháp mang tính chất định hướng hoạt động tham gia xây dựng MTVH trong quân đội theo tinh thần đại hội XIII. Trong giai đoạn hội nhập quốc tế hiện nay thì việc xây dựng MTVH là nhân tố quan trọng góp phần hun đúc tình cảm tốt đẹp của quân nhân cách mạng, bồi đắp lý tưởng, niềm tin, xây dựng hình ảnh
  20. 20 “Bộ đội Cụ Hồ” trong thời kỳ mới ; tạo “bức tường lửa”, bảo vệ quân nhân trước mọi sản phẩm văn hóa xấu độc bên ngoài. Và để xây dựng MTVH tốt đẹp, cần đa dạng các chủ trương, biện pháp với nhiều tổ chức và lực lượng, trong đó TCCS đoàn và ĐVTN luôn là lực lượng xung kích đi đầu. Trần Văn Bính (2021), Vì một nền văn hóa dân tộc và hiện đại - Mấy vấn đề cấp thiết trong sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa con người ở nước ta hiện nay [12]. Cuốn sách lựa chọn các bài viết, bài nghiên cứu về văn hóa dân tộc Việt Nam trong dòng chảy dân tộc và thế giới. Cuốn sách đã chỉ ra sự cần thiết của sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc. Qua đó, khẳng định vai trò văn hóa trong sự phát triển con người, định hướng con người đến giá trị tốt đẹp. Ngược lại, trong tổng thể và điều kiện hoạt động, con người là nhân tố quyết định sự phát triển của văn hóa. Đó là mối quan hệ tương hỗ, văn hóa phát triển vì con người, do con người và con người là động lực để phát triển văn hóa. Trong Quân đội, xây dựng MTVH vì sự trưởng thành của quân nhân, hướng tới quân nhân và mỗi quân nhân là nhân tố để xây dựng MTVH trong đơn vị ngày một hoàn thiện hơn, văn hóa hơn. Nguyễn Thành Trung (2022), Nâng cao chất lượng xây dựng môi trường văn hóa ở các trung đoàn bộ binh trong Quân đội nhân dân Việt Nam [127]. Trong luận án, tác giả đã trình bày vai trò của xây dựng MTVH: “Xây dựng môi trường văn hóa ở các trung đoàn bộ binh trong Quân đội nhân dân Việt Nam là toàn bộ hoạt động của các chủ thể, các lực lượng tác động vào các yếu tố cấu thành môi trường văn hóa, nhằm làm cho môi trường văn hóa tốt đẹp hơn” [127, tr.45]. Đồng thời, luận án chỉ rõ để xây dựng MTVH tốt đẹp, cần sự tham gia của nhiều tổ chức và lực lượng, trong đó TCCS đoàn đóng vai trò quan trọng: Đoàn thanh niên là lực lượng đông đảo, xung kích, có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng xây dựng MTVH ở các trung đoàn bộ binh. Do vậy, tổ chức đoàn phải tập hợp ĐVTN; động viên tính tích cực, sáng tạo của họ xung kích vào nhiệm vụ chủ yếu, trọng tâm tạo sự chuyển biến dứt điểm những khâu yếu, mặt yếu, hạn chế trong xây dựng MTVH của đơn vị [127, tr.158].