Khóa luận Xây dựng con người mới ở tỉnh Thái Bình hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh

pdf 50 trang thiennha21 16/04/2022 3281
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Xây dựng con người mới ở tỉnh Thái Bình hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfkhoa_luan_xay_dung_con_nguoi_moi_o_tinh_thai_binh_hien_nay_t.pdf

Nội dung text: Khóa luận Xây dựng con người mới ở tỉnh Thái Bình hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh

  1. TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ ====== NGUYỄN THỊ NGA XÂY DỰNG CON NGƢỜI MỚI Ở TỈNH THÁI BÌNH HIỆN NAY THEO TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh HÀ NỘI, 2019
  2. TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ ====== NGUYỄN THỊ NGA XÂY DỰNG CON NGƢỜI MỚI Ở TỈNH THÁI BÌNH HIỆN NAY THEO TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh Ngƣời hƣớng dẫn khoa học TS. PHẠM THỊ THÚY VÂN HÀ NỘI, 2019
  3. LỜI CẢM ƠN Đề tài “Xây dựng con người mới ở tỉnh Thái Bình hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh” là nội dung tác giả khóa luận lựa chọn để nghiên cứu và làm khóa luận tốt nghiệp sau bốn năm học tập tại trường Đại học sư phạm Hà Nội 2, khoa Giáo dục chính trị. Để hoàn thành quá trình nghiên cứu và hoàn thiện khóa luận tốt nghiệp, ngoài sự nỗ lực học hỏi, tìm hiểu của tác giả khóa luận còn có sự hướng dẫn tận tình của giảng viên - TS. Phạm Thị Thúy Vân. Tác giả khóa luận xin chân thành cảm ơn cô Phạm Thị Thúy Vân, người đã hướng dẫn trực tiếp, cụ thể, chu đáo trong suốt thời gian hoàn thành khóa luận tốt nghiệp. Đồng thời, tác giả khóa luận xin gửi lời cảm ơn tới các thầy, cô trong khoa Giáo dục chính trị, bạn bè đã giúp đỡ, tạo điều kiện trong suốt quá trình học tập và hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này. Tuy nhiên, vì kiến thức chuyên môn còn hạn chế và bản thân còn thiếu nhiều kinh nghiệm thực tiễn nên nội dung của khóa luận tốt nghiệp không tránh khỏi những thiếu sót, tác giả khóa luận rất mong nhận được sự góp ý, nhận xét của quý thầy cô cùng toàn thể hội đồng phản biện, ban thư kí để khóa luận tốt nghiệp được hoàn thiện hơn. Trân trọng cảm ơn! Hà Nội, tháng 5 năm 2018 Sinh viên Nguyễn Thị Nga
  4. LỜI CAM ĐOAN Tác giả khóa luận xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu độc lập của cá nhân với sự cố vấn, hướng dẫn, giúp đỡ tận tình của người hướng dẫn khoá luận tốt nghiệp: Giảng viên - TS. Phạm Thị Thúy Vân. Tất cả các nguồn tài liệu đã được công bố đầy đủ, nội dung của khoá luận tốt nghiệp là trung thực. Hà Nội, tháng 5 năm 2018 Sinh viên Nguyễn Thị Nga
  5. MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 Chương 1. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG CON NGƯỜI 7 1.1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người 7 1.2. Quan niệm của Hồ Chí Minh về vai trò của con người 8 1.3. Quan điểm của Hồ Chí Minh về chiến lược “trồng người” 11 1.4. Giá trị lý luận và thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng con người mới 14 Chương 2. VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VÀO XÂY DỰNG CON NGƯỜI MỚI Ở TỈNH THÁI BÌNH HIỆN NAY 18 2.1. Những nhân tố tác động đến việc xây dựng con người mới ở tỉnh Thái Bình hiện nay 18 2.2. Thực trạng vấn đề xây dựng con người mới ở tỉnh Thái Bình hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh và nguyên nhân 21 2.3. Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả xây dựng con người mới ở tỉnh Thái Bình hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh 34 KẾT LUẬN 42 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 44
  6. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng Sản Việt Nam đã khẳng định: “Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho cách mạng Việt Nam một giá trị tinh thần vô giá: Đó là một hệ thống quan điểm đặc biệt toàn diện, nhất quán và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam. Từ cách mạng Dân tộc Dân chủ tiến lên cách mạng Xã hội chủ nghĩa - cuộc cách mạng thuộc địa từ giải phóng dân tộc đến giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người, tiến lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh có giá trị nền tảng tư tưởng, trở thành kim chỉ nam dẫn đường cho mọi thắng lợi của toàn Đảng, toàn quân dân ta. Đánh giá về những di sản lý luận vô giá của Người, Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống những quan điểm mạch lạc, toàn diện, khoa học và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam. Đồng thời, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vận dụng vào điều kiện cụ thể của nước ta. Hơn nữa, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại. Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường Xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đây là những kết luận chính xác và là sự tiến lên mới trong hệ thống tư duy lý luận của Đảng ta”. “Trong hệ thống lý luận tư duy cách mạng của Hồ Chí Minh, tư tưởng về xây dựng con người mới là tư tưởng chiếm một vị trí quan trọng. Nó là chiều sâu nhất trong tư duy lý luận của Người và đồng thời chứa đựng những giá trị khoa học ý nghĩa. Hồ Chí Minh quan niệm: “Độc lập dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa xã hội và giải phóng con người”. Bởi Hồ Chí Minh luôn cho rằng: “con người” là yếu tố quan trọng nhất. Chính vì vậy, tâm niệm của Người lúc bấy giờ là: Nhất định phải giải phóng con người thoát khỏi tất cả gông cùm nô lệ; đem lại tự do, ấm no, hạnh phúc lâu dài và mãi mãi cho nhân dân”. Hồ Chí Minh rời bến cảng Nhà Rồng năm 1911, xuất phát ra đi để tìm con đường cứu nước cho dân tộc với nguyện vọng: “Làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai 1
  7. cũng được học hành”. Như vậy, sau khi đất nước được độc lập, thống nhất thì điều quan trọng tiếp theo là việc chăm lo cho con người bởi Người nói: “Có độc lập tự do mà người dân sống không có hạnh phúc thì cái độc lập, tự do ấy không có ý nghĩa gì”. “Việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề xây dựng con người mới không đơn giản chỉ thuần tuý là hệ thống những di sản giá trị lý luận quý báu. Điều quan trọng là vận dụng và phát triển những tư duy đó của Đảng trong chiến lược xây dựng con người mới ở nước ta hiện nay”. Do đó, việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về “xây dựng con người mới” ở tỉnh Thái Bình vẫn rất cần thiết, có ý nghĩa quan trọng cả về phương diện lý luận lẫn phương diện thực tiễn, vừa có ý nghĩa trước mắt, vừa có ý nghĩa lâu dài của cách mạng Việt Nam. Xuất phát từ những lí do nói trên, tác giả khóa luận đã lựa chọn đề tài: “Xây dựng con người mới ở tỉnh Thái Bình hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh” làm khóa luận tốt nghiệp chuyên ngành Tư tưởng Hồ Chí Minh. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và xây dựng con người mới, có nhiều công trình khoa học ý nghĩa và có giá trị nghiên cứu sâu sắc đã được công bố, tiêu biểu là các công trình của các tác giả: + “Lê Sĩ Thắng (1996) (chủ biên) trong cuốn sách “Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và chính sách xã hội”, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, khái quát quan niệm của Hồ Chí Minh về con người, chỉ rõ con người trong tư duy Hồ Chí Minh là con người lịch sử - cụ thể, tồn tại và chịu ảnh hưởng trong nhiều mối quan hệ” [5, tr.1]. + “Võ Nguyên Giáp với bài “Chủ tịch Hồ Chí Minh với sự nghiệp xây dựng con người mới” trong cuốn “Những bài viết và nói chọn lọc thời kỳ đổi mới”, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội 2001 đã khái quát những lý luận của Hồ Chí Minh về con người trên nhiều phương diện; về vai trò của con người; về tư tưởng “trồng người”. Tác giả khẳng định: Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về con người và sự nghiệp xây dựng con người là di sản quý 2
  8. báu đối với công tác đổi mới của Đảng. Đồng thời, là cơ sở lý luận giúp cho Đảng ta xây dựng chiến lược xây dựng con người trong giai đoạn hiện nay” [5, tr.1]. + “Thành Duy (1996) trong cuốn “Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức”, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, đã nhấn mạnh giá trị, ý nghĩa to lớn của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh về hình thành đạo đức cho con người trong một chế độ xã hội mới. Thành Duy khẳng định lý luận của Đảng, xác định tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là nền tảng đạo đức của toàn Đảng và toàn quân dân ta” [5, tr.1]. “Trong cuốn “Tư tưởng Hồ Chí Minh với sự nghiệp xây dựng con người Việt nam phát triển toàn diện”, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2001, Thành Duy đề cập tới những lý luận cụ thể về mối quan hệ giữa văn hóa với việc xây dựng con người phát triển toàn diện, phân tích khái quát tư tưởng Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò và ý nghĩa của giáo dục đối với việc đào tạo con người. Qua đó khẳng định: Giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng con người mới Xã hội chủ nghĩa vẫn còn nguyên giá trị cho tới thời điểm hiện tại” [5, tr.1]. + “Hoàng Trang - Phạm Ngọc Anh (2008) (đồng chủ biên) trong Cuốn “Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh với việc giáo dục đội ngũ cán bộ, đảng viên hiện nay”, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, khẳng định tư duy lý luận Hồ Chí Minh không chỉ bộc lộ qua tình thương yêu con người; mà còn biểu hiện ở việc chăm lo, bồi dưỡng, sử dụng, phát huy sức mạnh của con người, của nhân dân để giải phóng gông cùm xiềng xích cho con người; đem lại tự do, hạnh phúc cho con người" [5, tr.1]. Những bài viết tiêu biểu, nổi bật khác đăng trên các báo, tạp chí với nhiều cách tiếp cận khác nhau, đã luận giải giá trị, ý nghĩa chỉ đạo của tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và xây dựng con người mới đối với sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay, cụ thể như: + “Đặng Xuân Kỳ trong bài “Quan điểm Hồ Chí Minh về con người và bản chất con người”, “Tạp chí Triết học số 10 năm 2002”, đã phân tích: Trong tư duy Hồ Chí Minh, con người được đặt trong mối quan hệ ba chiều đó là: Quan hệ với một cộng đồng (mỗi con người là một thành viên); quan hệ với xã hội (con 3
  9. người được làm chủ hay bị áp bức); quan hệ với tự nhiên (con người không tách rời tự nhiên). Từ đó, làm rõ vị trí con người trong hệ thống lý luận của Hồ Chí Minh đối với quá trình phát triển của cách mạng Việt Nam” [5, tr.1]. + Với bài “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau” trong “Di chúc” của Hồ Chí Minh” - “tác giả Lê Thúy Hạnh viết trong Tạp chí Triết học số 10 năm 2009”, đã khẳng định: Trong “Di chúc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh, “vấn đề bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một công việc vô cùng quan trọng và cần thiết. Đồng thời, tác giả phân tích, chứng minh lý luận của Hồ Chí Minh về mục đích, tầm quan trọng; ý nghĩa sâu sắc cùng những biện pháp cụ thể nhằm xây dựng thế hệ cách mạng vừa hồng vừa chuyên, xứng đáng là chủ nhân tương lai của đất nước” [5, tr.1]. + Nguyễn Thế Nghĩa với bài viết “Di chúc Hồ Chí Minh và con đường đổi mới ở Việt Nam hôm nay” đăng trên Tạp chí Triết học số 11 năm 2009, khẳng định: “Tư tưởng Hồ Chí Minh soi sáng con đường cách mạng Việt Nam, đặc biệt là trong công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay. Tác giả phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng, đại đoàn kết dân tộc; về bồi dưỡng đạo đức cách mạng, đào tạo thế hệ trẻ tương lai trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội đối với sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam” [5, tr.1]. + Trong bài “Quan điểm dân sinh và triết lí nhân sinh Hồ Chí Minh” - “tác giả Đặng Hữu Toàn viết trong Tạp chí Triết học số 3 năm 2009”, đã luận giải và khẳng định: “Điều cốt lõi với Hồ Chí Minh là luận điểm vì con người và làm sao giải phóng con người. Đó là luận điểm dân sinh thấm đượm tinh thần nhân đạo cao cả và thể hiện tư tưởng chủ nghĩa nhân văn sâu sắc. Đồng thời, là triết lí nhân sinh hành động lấy thực tiễn cuộc sống làm điểm xuất phát, lấy giải phóng và phát triển con người làm mục tiêu. Tác giả nhấn mạnh: Xây dựng Chủ nghĩa xã hội theo quan điểm của Hồ Chí Minh không chỉ gắn liền với độc lập dân tộc, mà còn là bước đi, con đường, cách thức để giữ vững tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân” [5, tr.1]. + Trong bài “Nghĩ về mùa xuân và tuổi trẻ trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh” - “tác giả Đỗ Huy đăng trên Tạp chí Triết học số 3 năm 2010”, nhấn mạnh: 4
  10. Theo Hồ Chí Minh, xã hội cần phải có “chiến lược chăm lo, bồi dưỡng, phát huy và tạo mọi điều kiện cần thiết cho thế hệ trẻ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mà lịch sử giao phó để xứng đáng là những chủ nhân tương lai của đất nước. Đồng thời, tác giả cũng chỉ ra rằng: Bản thân thanh niên, thế hệ trẻ theo Hồ Chí Minh cũng phải tự biết cố gắng phấn đấu rèn luyện, tu dưỡng đạo đức, phát triển trình độ khoa học, khả năng thẩm mỹ để sẵn sàng đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước” [5, tr.1]. Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh về “xây dựng con người mới” đã được nghiên cứu từ nhiều góc độ, phương diện khác nhau với những nội dung cụ thể. Tuy nhiên, theo tác giả khóa luận, việc nghiên cứu một cách có hệ thống lý luận, tư tưởng của Người về vấn đề “xây dựng con người mới” vẫn rất cần thiết, đặc biệt là việc làm rõ quá trình vận dụng “xây dựng con người mới” theo tư tưởng Hồ Chí Minh ở tỉnh Thái Bình nhằm “xây dựng con người mới” phát triển toàn diện, đáp ứng được nhiệm vụ của công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước hiện nay, vẫn mang tính thời sự sâu sắc, cấp thiết về mặt lý luận và thực tiễn, vừa có ý nghĩa trước mắt, vừa có ý nghĩa lâu dài. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là hệ thống những quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng con người mới và vận dụng những quan điểm của Hồ Chí Minh về “xây dựng con người mới” vào tỉnh Thái Bình hiện nay. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu của khóa luận là khu vực tỉnh Thái Bình từ năm 1986 đến năm 2018. 4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 4.1. Mục đích nghiên cứu Khóa luận có mục đích làm rõ những quan điểm trong tư tưởng Hồ Chí Minh về “xây dựng con người mới” và vận dụng tư tưởng đó vào việc “xây dựng con người mới” ở tỉnh Thái Bình hiện nay. 5
  11. 4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Hệ thống hóa và luận giải những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về “xây dựng con người mới”. - Phân tích những nhân tố tác động đến việc “xây dựng con người mới” ở tỉnh Thái Bình hiện nay; thực trạng “xây dựng con người mới” ở tỉnh Thái Bình hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh và chỉ ra nguyên nhân của thực trạng đó. - Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả “xây dựng con người mới” ở tỉnh Thái Bình hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh. 5. Cơ sở lí luận và phƣơng pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lí luận Khóa luận dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về “xây dựng con người mới”, các văn kiện của Đảng và Nhà nước, có tham khảo, sử dụng kết quả nghiên cứu khoa học hiện đại về “xây dựng con người mới”. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Khóa luận vận dụng các nguyên tắc phương pháp luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, chủ yếu sử dụng phương pháp logic, lịch sử; phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp hệ thống hóa. 6. Đóng góp của khóa luận - Về mặt lý luận: Góp phần khái quát những nội dung chính trong hệ thống những quan điểm, tư tưởng của Hồ Chí Minh về “xây dựng con người mới”. - Về mặt thực tiễn: Góp phần phân tích những nhân tố tác động đến việc “xây dựng con người mới” ở tỉnh Thái Bình hiện nay; thực trạng “xây dựng con người mới” ở tỉnh Thái Bình hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh và bổ sung các giải pháp nâng cao hiệu quả “xây dựng con người mới” ở tỉnh Thái Bình hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh. 7. Kết cấu của khóa luận Ngoài phần mục lục, mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, khóa luận gồm 2 chương 6 tiết. 6
  12. Chƣơng 1 TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG CON NGƢỜI 1.1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về con ngƣời 1.1.1. Con người được nhìn nhận như một chỉnh thể - “Hồ Chí Minh luôn xem xét, đánh giá con người như một chỉnh thể thống nhất cả về thể lực, trí lực, tâm lực và các hoạt động của nó. Với Hồ Chí Minh, con người hay có suy nghĩ tích cực, lạc quan, hướng tới những điều tốt đẹp và thường có xu hướng cố gắng vươn lên để đạt được cái Chân - Thiện - Mỹ trong cuộc sống, mặc dù “có thế này, thế khác” [14, tr.265]. “Hồ Chí Minh có cách nhìn nhận, đánh giá, xem xét con người trong tính đa dạng: đa dạng trong các mối quan hệ xã hội (quan hệ dân tộc, giai cấp, tầng lớp, đồng chí, đồng bào, ); đa dạng trong tính cách, khát vọng, nhu cầu, phẩm chất, khả năng, cũng như năm ngón tay dài, ngắn khác nhau, nhưng đều hợp nhau lại nơi bàn tay. Với Hồ Chí Minh, mấy mươi triệu người dân Việt Nam, có người thế này, có người thế khác, nhưng đều cùng thuộc nòi giống Lạc Hồng; đa dạng trong hoàn cảnh xuất thân, điều kiện sống, làm việc, ” [14, tr.265]. - Hồ Chí Minh luôn luôn xem xét con người trong sự “thống nhất biện chứng giữa hai mặt đối lập”, đó là: “Thiện và ác, hay và dở, tốt và xấu, hiền và dữ, bao gồm cả tính người - mặt xã hội và tính bản năng - mặt sinh học của con người”. Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, con người có tốt, có xấu nhưng “dù là xấu, tốt, văn minh hay dã man đều có tình” [14, tr.265]. 1.1.2. Con người cụ thể, lịch sử “Đặt trong một bối cảnh cụ thể và một tư duy chung, Hồ Chí Minh sử dụng khái niệm “con người” theo nghĩa rộng trong một số trường hợp như: “Phẩm giá con người”, “giải phóng con người”, “người ta”, “con người”, “ai”, Tuy nhiên phần lớn, Người xem xét con người trong các mối quan hệ xã hội, quan hệ giai cấp, theo giới tính (thanh niên, phụ nữ), theo lứa tuổi (phụ lão, nhi đồng), nghề nghiệp (công nhân, nông dân, tri thức, ), trong khối thống nhất của cộng đồng dân tộc (sĩ, nông, công, thương) và quan hệ quốc tế (bầu bạn năm châu, các dân tộc bị áp bức, bốn phương vô sản). Đó là con người hiện thực, cụ thể, khách quan” [14, tr.266]. 7
  13. Với Hồ Chí Minh, “con người không mang tính trìu tượng hóa, khái quát hóa mà đó là những con người cụ thể, tồn tại trong từng giai đoạn lịch sử nhất định. Đó là nhân dân Việt Nam - những con người lao động nghèo khó, chân lấm tay bùn, bị áp bức cùng cực dưới gông cùm, xiềng xích nô lệ với ách thống trị của phong kiến, đế quốc; là dân tộc Việt Nam bị đô hộ bởi chủ nghĩa thực dân; là những người dân mất nước, khao khát giành lại quyền làm chủ non sông” [14, tr.266]. 1.1.3. Bản chất con người mang tính xã hội - “Để sinh tồn, theo quan niệm của Hồ Chí Minh, con người phải lao động sản xuất. Chính trong quá trình lao động, sản xuất của mình, con người dần dần nhận thức được các hiện tượng, quy luật của tự nhiên, của xã hội; hiểu về mình và hiểu biết lẫn nhau, Từ đó, xác lập các mối quan hệ giữa người với người” [14, tr.266]. - “Trong quan niệm của Hồ Chí Minh, con người vừa là sản phẩm của xã hội, vừa là sự tổng hợp các quan hệ xã hội từ hẹp đến rộng, chủ yếu bao gồm các quan hệ: anh, em; họ hàng; bầu bạn; đồng bào; loài người” [14, tr.266]. 1.2. Quan niệm của Hồ Chí Minh về vai trò của con ngƣời 1.2.1. Con người là vốn quý nhất, nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp cách mạng Hồ Chí Minh quan niệm: “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân, trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”; “vô luận việc gì, đều do người làm ra, và từ nhỏ đến to, từ gần đến xa, đều thế cả” [16, tr.241]. Với Hồ Chí Minh: “Việc dễ mấy không có nhân dân cũng chịu, việc khó mấy có dân liệu cũng xong”. Hồ Chí Minh tổng kết ngắn gọn: “Dân ta tốt lắm”. “Người tin vào phẩm chất tốt đẹp của dân ta từ lòng trung thành và niềm tin tưởng tuyệt đối vào cách mạng, vào Đảng, không sợ khó khăn, gian khổ, tù đày, hi sinh đến việc dân nhường cơm sẻ áo, chở che, đoàn kết, đùm bọc, bảo vệ, nuôi nấng bộ đội và cán bộ cách mạng bởi Người khẳng định rằng: Nhân dân là người sáng tạo ra mọi giá trị vật chất và tinh thần” [16, tr.241]. Với quan niệm: Dân ta trí tuệ, sáng tạo và tài năng, “giải quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi, những đoàn thể to 8
  14. lớn, nghĩ mãi không ra” [16, tr.295], “Hồ Chí Minh đặt niềm tin vững chắc vào tinh thần quật cường và lực lượng vô tận của dân tộc ta. Với lòng yêu nước và chí kiên quyết của nhân dân và quân đội ta, chẳng những chúng ta có thể thắng lợi, mà chúng ta nhất định thắng lợi. Đặc biệt là lòng sốt sắng, hăng hái của dân để thực hiện con đường cách mạng”. Có thể nói: Nhân dân chính là yếu tố tiên quyết, quyết định mọi sự thành công của cách mạng bởi “Lòng yêu nước và sự đoàn kết của nhân dân là một lực lượng vô cùng to lớn, không ai thắng nổi” [17, tr.281]. 1.2.2. Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng; phải coi trọng, chăm sóc, phát huy nhân tố con người Năm 1911, đặt trong bối cảnh giữa lúc đất nước đang bị đô hộ, xâm chiếm; nhân dân phải chịu cảnh cơ cực, lầm than, Người ra đi với ý chí sắt đá: “Quyết giải phóng gông cùm nô lệ cho đồng bào”. Người xác định rõ trách nhiệm của Người cũng là của Đảng và Chính phủ là “làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”. “Vì sống gần gũi với dân, giữa lòng dân, hiểu rõ dân tâm, dân tình, dân ý nên Hồ Chí Minh thấy rõ yêu cầu giải phóng dân tộc, giải phóng con người, giải phóng lao động xã hội. Người khắng định: Nhân dân vừa là mục tiêu vừa là động lực của cách mạng. Ở Hồ Chí Minh có sự quan tâm đặc biệt, cách cảm nhận, thông cảm sâu sắc với thân phận bất hạnh, bi thương của những người cùng khổ và nô lệ lầm than. Nhưng sự cảm thông đó hoàn toàn không phải là sự cảm thông theo kiểu tôn giáo. Ngược lại, Người luôn có niềm tin vững chắc vào trí tuệ, bản lĩnh của con người, ở khả năng tự giải phóng của chính bản thân con người” [20, tr.222]. Bởi vậy, Người luôn cố gắng làm hết sức mình để xây dựng, rèn luyện con người. Từ đó, quyết tâm đấu tranh đem lại độc lập, ấm no, tự do, hạnh phúc cho người dân. Người xác định: “Con người là mục tiêu trong điều kiện cụ thể của từng giai đoạn cách mạng”. “Khi đất nước còn nô lệ, lầm than, mục tiêu trước hết và trên hết là giải phóng dân tộc, giành độc lập dân tộc. Sau khi chính quyền đã về tay nhân dân, mục tiêu ăn, mặc, ở, đi lại, học hành, chữa bệnh lại được ưu tiên hơn”, bởi “nếu 9
  15. nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”. Vì vậy, chúng ta phải thực hiện ngay vấn đề tiên quyết: “Làm cho dân có ăn, làm cho dân có mặc, làm cho dân có chỗ ở, làm cho dân được học hành”. Đến “Di chúc”, Người viết: “Đầu tiên là công việc đối với con người”. “Con người là mục tiêu của cách mạng nên mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Chính phủ đều vì lợi ích chính đáng của con người. Có thể là lợi ích lâu dài, lợi ích trước mắt; lợi ích cả dân tộc và lợi ích của bộ phận, giai cấp, tầng lớp và cá nhân. Với hoạt động thực tiễn, việc gì lợi cho dân, dù nhỏ mấy - ta phải hết sức làm. Việc gì hại cho dân, dù nhỏ mấy - ta phải hết sức tránh” [20, tr.222]. Hồ Chí Minh có niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh vĩ đại và năng lực sáng tạo của quần chúng. Trong sự nghiệp xây dựng đất nước, Hồ Chí Minh đã nhận rõ: “Muốn xây dựng Chủ nghĩa xã hội, trước hết phải có con người Xã hội chủ nghĩa”, “có dân thì có tất cả”, [20, tr.222]. Niềm tin vào sức mạnh của dân còn được nhận thức từ mối quan hệ giữa nhân dân với Đảng và Chính phủ. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Nếu không có dân thì Chính phủ không đủ lực lượng; nếu không có Chính phủ thì nhân dân không có ai dẫn đường, Đảng lãnh đạo nhưng nhân dân là chủ. Dân như nước, bộ đội như cá. Lực lượng bao nhiêu là nhờ ở dân hết. Tin dân, học dân, tôn trọng dân, dựa vào dân theo đúng đường lối quần chúng sẽ tạo nên sức mạnh vô địch. Bởi sự nghiệp cách mạng giành độc lập dân tộc và xây dựng Chủ nghĩa xã hội chỉ có thể thực hiện được với sự giác ngộ đầy đủ và lao động sáng tạo của hàng chục triệu quần chúng nhân dân” [24, tr.222]. “Hồ Chí Minh tin ở dân còn xuất phát từ niềm tin vào tình người. Đã là người Cộng sản thì phải tin nhân dân và niềm tin quần chúng sẽ tạo nên sức mạnh cho người Cộng sản”. Người nói: “Dân tộc ta là một dân tộc anh hùng. Trong khi giữ vững niềm tin vào dân thì phải chống các bệnh: xa nhân dân, khinh nhân dân, sợ nhân dân; không tin cậy nhân dân; không hiểu biết nhân dân; không yêu thương nhân dân. Không yêu thương và tin tưởng nhân dân là nguyên nhân của căn bệnh nguy hiểm - bệnh quan liêu, mệnh lệnh. Bệnh này sẽ dẫn đến kết quả là hỏng việc” [24, tr.222]. 10
  16. “Con người là động lực của cách mạng được nhìn nhận trên phạm vi cả nước, toàn thể đồng bào, song trước hết là ở giai cấp công nhân và nông dân. Điều này có ý nghĩa to lớn trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng Chủ nghĩa xã hội. Nhà nước mới theo tư tưởng của Hồ Chí Minh lấy công - nông - trí làm nền tảng. Từ thắng lợi của Cách mạng tháng Mười phải nhìn nhận và đánh giá đúng giai cấp đứng ở trung tâm của thời đại mới, đó là giai cấp công nhân. Chỉ có giai cấp công nhân với những đặc điểm chung và riêng mới lãnh đạo được dân tộc đào mồ chôn Chủ nghĩa tư bản. Muốn vậy, giai cấp công nhân chỉ có liên minh với giai cấp nông dân và gắn bó với dân tộc mới trở thành lực lượng hùng mạnh” [25, tr.223]. “Không phải mọi con người đều trở thành động lực, mà phải là những con người được giác ngộ và tổ chức. Họ phải có trí tuệ và bản lĩnh, văn hóa, đạo đức, được nuôi dưỡng trên nền truyền thống lịch sử và văn hóa hàng ngàn năm của dân tộc Việt Nam Chính trị, văn hóa, tinh thần là động lực cơ bản trong động lực con người. Con người là động lực chỉ có thể thực hiện được khi hoạt động có tổ chức, có lãnh đạo” [23, tr.221]. Vì vậy, cần có sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản. “Giữa con người - mục tiêu và con người - động lực có mối quan hệ biện chứng với nhau. Càng chăm lo cho con người - mục tiêu tốt bao nhiêu thì sẽ tạo thành con người - động lực tốt bấy nhiêu. Ngược lại, tăng cường được sức mạnh của con người - động lực thì sẽ nhanh chóng đạt được mục tiêu cách mạng. Phải kiên quyết khắc phục kịp thời các phản động lực trong con người và tổ chức. Đó là chủ nghĩa cá nhân. Thứ vi trùng rất độc này đẻ ra hàng trăm thứ bệnh: thói quen truyền thống lạc hậu, tàn tích xã hội cũ để lại, bảo thủ, rụt rè không dám nói, không dám làm, không dám đề ra ý kiến, tóm lại không dám đổi mới và sáng tạo” [20, tr.220]. 1.3. Quan điểm của Hồ Chí Minh về chiến lƣợc “trồng ngƣời” 1.3.1. “Trồng người” là yêu cầu khách quan, vừa cấp bách, vừa lâu dài của cách mạng Trên cơ sở khẳng định: “Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng”, “Hồ Chí Minh rất quan tâm đến sự nghiệp giáo dục, đào tạo, rèn luyện con người”. Người nói đến “lợi ích trăm năm” và “mục tiêu xây dựng Chủ nghĩa xã hội là 11
  17. những quan điểm mang tầm vóc chiến lược, cơ bản, lâu dài, nhưng cũng rất cấp bách”. Nó liên quan đến nhiệm vụ “trước hết cần có những con người Xã hội chủ nghĩa” và “trồng người”. “Tất cả những điều này phản ánh tư tưởng lớn về tầm quan trọng có tính quyết định của nhân tố con người; tất cả vì con người, do con người”. “Như vậy, con người phải được đặt vào vị trí trung tâm của sự phát triển. Nó vừa nằm trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước với nghĩa rộng, vừa nằm trong chiến lược giáo dục và đào tạo theo nghĩa hẹp”. “Muốn xây dựng Chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người Xã hội chủ nghĩa”. + “Con người Xã hội chủ nghĩa đương nhiên phải do Chủ nghĩa xã hội tạo ra. Nhưng ở đây, trên con đường tiến lên Chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người Xã hội chủ nghĩa. Điều này cần được hiểu là: Ngay từ đầu, phải đặt ra nhiệm vụ xây dựng con người có những phẩm chất cơ bản, tiêu biểu cho con người mới Xã hội chủ nghĩa, làm gương, lôi cuốn xã hội. Công việc này là một quá trình lâu dài, không ngừng hoàn thiện, nâng cao và thuộc về trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, gia đình, cá nhân mỗi người” [21, tr.190]. + “Mỗi bước xây dựng những con người như vậy là một nấc thang xây dựng Chủ nghĩa xã hội”. Đây là mối quan hệ biện chứng giữa “xây dựng Chủ nghĩa xã hội” và “con người Xã hội chủ nghĩa”. + Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người mới Xã hội chủ nghĩa có hai mặt gắn bó chặt chẽ với nhau: “Một là, kế thừa những giá trị tốt đẹp của con người truyền thống (Việt Nam và phương Đông). Hai là, hình thành những phẩm chất mới: Có tư tưởng Xã hội chủ nghĩa; có đạo đức Xã hội chủ nghĩa; có trí tuệ và bản lĩnh để làm chủ (bản thân, gia đình, xã hội, thiên nhiên, ); có tác phong Xã hội chủ nghĩa; có lòng nhân ái, vị tha, độ lượng” [21, tr.190]. 1.3.2. Chiến lược “trồng người” là một trọng tâm, là một bộ phận hợp thành của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội PGS.TS Phạm Ngọc Anh khi bàn về tư tưởng của Hồ Chí Minh trong “sự nghiệp trồng người” có nhận định rằng: “Để thực hiện chiến lược “trồng người”, 12
  18. cần có nhiều biện pháp, nhưng Giáo dục - Đào tạo là biện pháp quan trọng bậc nhất. Bởi vì, giáo dục tốt sẽ tạo ra tính thiện, đem lại tương lai tươi sáng cho thanh niên. Ngược lại, giáo dục không tốt sẽ ảnh hưởng xấu đến thanh niên”. “Nội dung và phương pháp giáo dục phải toàn diện về cả đức, trí, thể, mỹ, phải đặt đạo đức, lý tưởng và tình cảm cách mạng, lối sống Xã hội chủ nghĩa lên hàng đầu”. Hai mặt “đức”, “tài” thống nhất với nhau, không tách rời nhau. Trong đó, “đức” là gốc, là nền tảng cho “tài năng” phát triển. Phải kết hợp giữa nhận thức và hành động, lời nói với việc làm, Có như vậy mới có thể “học để làm người”. “Trồng người” là công việc “trăm năm”, không thể nóng vội “một sớm một chiều”, không phải làm một lúc là xong, cũng không phải tùy tiện, đến đâu hay đến đó. Nhận thức và giải quyết vấn đề này có ý nghĩa thường trực, bền bỉ trong suốt cuộc đời mỗi con người, trong suốt thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh cho rằng: “Việc học không bao giờ cùng, còn sống còn phải học”. Như vậy, có thể khẳng định như PGS.TS Phạm Ngọc Anh: “Hồ Chí Minh được cả thế giới tôn vinh là Nhà văn hóa kiệt xuất, không chỉ vì Người đã sáng tạo ra một thời đại mới và một nền văn hóa mới ở Việt Nam, mà còn là vì những đóng góp mới của Người vào lý luận và sự phát triển chung của văn hóa nhân loại”: “Trong lĩnh vực văn hóa, Hồ Chí Minh đã sớm nhận thấy vai trò và sức mạnh của văn hóa, đã sớm đưa văn hóa vào chiến lược phát triển của đất nước: Ngay sau khi giành được độc lập, Hồ Chí Minh đã đề nghị Chính phủ bắt tay ngay vào công cuộc xây dựng một nền văn hóa mới ở Việt Nam bằng việc phát triển phong trào bình dân học vụ, diệt giặc dốt, nâng cao dân trí và xây dựng đời sống mới, xây dựng và phát triển thuần phong mỹ tục, đưa những giá trị văn hóa đi sâu vào quần chúng, coi nó như một sức mạnh vật chất, một động lực, một mục tiêu, một hệ điều tiết xã hội trong quá trình phát triển. Đây là một quan điểm hoàn toàn mới mẻ, điều mà mãi đến những năm 80 của thế kỉ XX, UNESCO mới tổng kết và coi đó như là một quy luật phát triển của xã hội”. Phát triển quan điểm của C.Mác: “Văn hóa không thể đứng ngoài mà phải ở trong kinh tế và chính trị”, Hồ Chí Minh bổ sung thêm: “Văn hóa cũng là một mặt 13
  19. trận, văn nghệ sĩ là chiến sĩ trên mặt trận ấy”. Bàn về chức năng của văn hóa, Người cho rằng: “Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi” (chức năng nâng cao nhận thức, mở rộng hiểu biết); “Văn hóa phải làm cho ai cũng có lý tưởng tự chủ, độc lập, tự do” (chức năng bồi dưỡng tinh thần vì nước quên mình); “Văn hóa phải sửa đổi được tham nhũng, lười biếng, phù hoa, xa xỉ” (xây dựng và hoàn thiện đạo đức con người), “Hầu hết những luận điểm có tính chất chân lý này, Hồ Chí Minh đều đưa ra trong thời kì những năm 1945 - 1946, khi Người bắt tay vào việc xây dựng một nền văn hóa mới ở Việt Nam. Thực tiễn chứng minh rằng: Những luận điểm đó không chỉ có ý nghĩa với Việt Nam mà còn có ý nghĩa quốc tế rất sâu sắc. Đánh giá cao tư tưởng và những đóng góp của Hồ Chí Minh, Nghị quyết tôn vinh Người là anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới của UNESCO”: “Những tư tưởng của Người là hiện thân của những khát vọng của các dân tộc trong việc khẳng định bản sắc dân tộc của mình và tiêu biểu cho việc thúc đẩy sự hiểu biết lẫn nhau”. “Trong lĩnh vực đạo đức, Hồ Chí Minh đã có những đóng góp rất đặc sắc vào tư tưởng đạo đức học Mácxít. Những đóng góp đó đã nâng Người lên vị trí một nhà đạo đức học lỗi lạc, được thế giới thừa nhận. Do nhiều nguyên nhân, C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin nói nhiều về đạo đức, song chưa có điều kiện bàn nhiều về vai trò của đạo đức trong đời sống xã hội. Hồ Chí Minh đã phát triển, hoàn thiện tư tưởng đạo đức học Mácxít về vai trò và sức mạnh của đạo đức, về những chuẩn mực đạo đức cơ bản và những nguyên tắc xây dựng một nền đạo đức mới phù hợp với Việt Nam. Nhờ đó, đã tạo nên một cuộc cách mạng trong lĩnh vực đạo đức ở Việt Nam”. 1.4. Giá trị lý luận và thực tiễn của tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về xây dựng con ngƣời mới Về mặt lý luận, theo PGS.TS Phạm Ngọc Anh: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng con người mới với nội dung sâu sắc và mới mẻ, có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự nghiệp giáo dục và đào tạo con người Việt Nam. Trên cơ sở quán triệt quan điểm giáo dục đạo lý để làm người, coi con người là vốn quý nhất, chăm lo 14
  20. cho hạnh phúc của con người là mục tiêu phấn đấu cao nhất của chế độ ta, con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp cách mạng Xã hội chủ nghĩa, Đảng ta đã xác định Giáo dục - Đào tạo là quốc sách hàng đầu. Con người, chủ thể của mọi sáng tạo, mọi nguồn của cải vật chất và văn hóa, ngày càng được quan tâm chăm sóc, phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức, là động lực của Chủ nghĩa xã hội”. “Chủ nghĩa xã hội là một chế độ ưu việt nhưng phải hiểu sự ưu việt trên hai mặt gắn bó với nhau: Một là, nó là kết quả của những nỗ lực vượt bậc và bền bỉ của toàn dân ta, với những con người phát triển cả về trí lực và khả năng lao động, về tính tích cực chính trị - xã hội, về đạo đức, tình cảm trong sáng. Hai là, đó là xã hội do những con người mới làm chủ, một xã hội không phải chỉ do con người mà còn vì con người”. “Về mặt thực tiễn, sự phát triển con người đã trở thành tiêu chí ngày càng quan trọng trong việc xếp hạng các nước trên thế giới. Năm 1990, Chương trình phát triển của Liên Hợp Quốc (UNDP) đã đưa ra chỉ dẫn nhằm đánh giá tiến độ kinh tế và xã hội của một nước, không chỉ ở tổng sản phẩm quốc dân như trước đây, mà còn dựa trên cơ sở ba tiêu chí cơ bản: thu nhập, trình độ giáo dục và tuổi thọ”. “Hướng bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người Việt Nam là không ngừng gia tăng tính tự giác, năng động, tự chủ, phát huy sức mạnh bên trong của mỗi cá nhân, chú trọng xây dựng những mặt thuộc hạ tầng của đời sống xã hội như: giáo dục, y tế, phúc lợi công cộng, kết hợp với sức mạnh của cả cộng đồng, xây dựng nền tảng tinh thần vững chắc của chế độ mới”. “Dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta nhấn mạnh việc chăm lo cho hạnh phúc của con người là mục tiêu phấn đấu cao nhất của chế độ ta. Trong mục tiêu chung “dân giàu, nước mạnh, dân chủ công bằng, văn minh”, Đảng ta phấn đấu làm cho nhân dân có cuộc sống no đủ, có nhà ở tương đối tốt, có điều kiện thuận lợi về đi lại, học hành, chữa bệnh, có mức hưởng thụ văn hóa khá; quan hệ xã hội lành mạnh, lối sống văn minh, gia đình hạnh phúc. Xét đến cùng, đó là tư tưởng phấn đấu 15
  21. cho độc lập, tự do, hạnh phúc của con người, của dân tộc và của nhân loại. Nói cách khác, tất cả vì con người, do con người”. Hồ Chí Minh thường nói đến “văn minh thắng bạo tàn”. “Văn minh ở đây được hiểu là trình độ phát triển đời sống tinh thần và trình độ phát triển của khoa học - kĩ thuật. Xã hội văn minh là xã hội có những con người nhân văn, tức là những con người phát triển toàn diện cả đức, trí, thể, mỹ; lý tưởng và tình cảm; nhân ái và khoan dung. Xã hội mới không chấp nhận con người phát triển một chiều, phiến diện, què quặt. Muốn con người trở thành vừa là động lực, vừa là mục tiêu của sự nghiệp cách mạng thì phải phát huy vai trò của giáo dục và đào tạo. Bởi vì, giáo dục bao gồm gia đình - nhà trường - xã hội, góp phần hình thành, phát triển và hoàn thiện nhân cách con người”. “Trồng người” là nhằm phát triển toàn diện con người, nâng cao trình độ “người”, hướng tới Chân - Thiện - Mỹ. “Tư tưởng về văn hóa, đạo đức và xây dựng con người mới là một bộ phận rất quan trọng trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh. Từ lâu, tư tưởng đó đã trở thành một bộ phận của nền văn hóa dân tộc và là ngọn đèn pha soi đường cho công cuộc xây dựng một nền văn hóa và đạo đức mới ở Việt Nam. Nghiên cứu và học tập tư tưởng văn hóa, đạo đức Hồ Chí Minh không chỉ đơn thuần là vấn đề nhận thức, mà còn là trách nhiệm chính trị của cả dân tộc, nhằm xây dựng Việt Nam thành một quốc gia văn minh trong thời kỳ hội nhập quốc tế”. 16
  22. Tiểu kết chương 1 “Tư tưởng của Hồ Chí Minh về xây dựng con người mới là một nội dung được Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm. Đó là một hệ thống tư tưởng bao gồm những luận điểm cơ bản như: Một là, quan niệm của Hồ Chí Minh về con người, trong đó, con người được nhìn nhận như một chỉnh thể; con người cụ thể, lịch sử; bản chất con người mang tính xã hội; Hai là, quan niệm của Hồ Chí Minh về vai trò của con người, trong đó Hồ Chí Minh khẳng định con người là vốn quý nhất, nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp cách mạng; con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng; phải coi trọng, chăm sóc, phát huy nhân tố con người; Ba là, quan điểm của Hồ Chí Minh về chiến lược “trồng người”, trong đó Hồ Chí Minh nhấn mạnh “trồng người” là yêu cầu khách quan, vừa cấp bách, vừa lâu dài của cách mạng; chiến lược “trồng người” là một trọng tâm, là một bộ phận hợp thành của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Hệ thống tư tưởng của Hồ Chí Minh về xây dựng con người mới cho đến ngày nay vẫn còn giữ nguyên giá trị lý luận và thực tiễn”. 17
  23. Chƣơng 2 VẬN DỤNG TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VÀO XÂY DỰNG CON NGƢỜI MỚI Ở TỈNH THÁI BÌNH HIỆN NAY 2.1. Những nhân tố tác động đến việc xây dựng con ngƣời mới ở tỉnh Thái Bình hiện nay 2.1.1. Điều kiện tự nhiên, dân cư 2.1.1.1. Điều kiện tự nhiên “Thái Bình là một tỉnh nằm ở ven biển đồng bằng sông Hồng, miền Bắc Việt Nam, có diện tích 1.570,5 km², thuộc vùng duyên hải Bắc Bộ. Tỉnh có tọa độ từ 20°18′B đến 20°44′B, 106°06′Đ đến 106°39′Đ. Trung tâm Tỉnh là thành phố Thái Bình cách thủ đô Hà Nội 120km về phía Đông Nam” [4, tr.1]. “Địa hình tỉnh Thái Bình tương đối bằng phẳng với độ dốc thấp hơn 1%; độ cao phổ biến từ 1 - 2m trên mực nước biển, thấp dần từ Bắc xuống Đông Nam. Tỉnh có bờ biển dài 52km” [4, tr.1]. “Thái Bình nằm trong vùng khí hậu cận nhiệt đới ẩm: Mùa hè thường nóng ẩm, mưa nhiều từ tháng 5 đến tháng 9; mùa đông khô lạnh từ tháng 11 năm trước đến tháng 3 năm sau; mùa thu diễn ra vào tháng 10 và tháng 4; mùa xuân không rõ rệt như các nước nằm phía trên vành đai nhiệt đới. Nhiệt độ trung bình là 23,5 °C. Số giờ nắng trong năm từ 1.600 đến 1.800 giờ. Độ ẩm tương đối trung bình từ 85 đến 90%” [4, tr.1]. “Tỉnh Thái Bình nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa, hàng năm đón nhận một lượng mưa lớn (1.700 - 2.200mm) và là vùng bị chia cắt bởi các con sông lớn, đó là các chỉ lưu của sông Hồng, trước khi chạy ra biển” [4, tr.1]. 2.1.1.2. Dân cư “Năm 2017, tỉnh Thái Bình có 1.790.500 người, mật độ dân số là 1.138 người/km². Thành phần dân số: Nông thôn: 83,6%; thành thị: 16,4%. Theo dự kiến phấn đấu đến năm 2020, tỉ lệ đô thị hóa ở Tỉnh đạt khoảng 32%, tỉ lệ lao động phi nông nghiệp trong tổng số lao động khoảng 67%. Tỉnh Thái Bình có tổng 286 đơn vị cấp xã gồm 10 phường, 9 thị trấn và 267 xã. Thái Bình được chia thành 7 huyện và 1 thành phố trực thuộc” [4, tr.1]. 18
  24. Danh sách các đơn vị hành chính trực thuộc tỉnh Thái Bình Dân số Dân số Hành Tên Hành chính Tên (ngƣời)2013 (ngƣời)2013 chính Thành phố (1) 1 thị trấn, Kiến Xương 212.200 10 phường, 36 xã Thái Bình 268.167 9 xã 2 thị trấn, Quỳnh Phụ 231.900 Huyện (7) 36 xã 1 thị trấn, 1 thị trấn, Đông Hưng 233.000 Thái Thụy 248.800 43 xã 47 xã 2 thị trấn, 1 thị trấn, Hưng Hà 248.600 Tiền Hải 209.800 33 xã 34 xã 1 thị trấn, Vũ Thư 218.200 29 xã 2.1.2. Điều kiện kinh tế, văn hóa - xã hội 2.1.2.1. Điều kiện kinh tế Theo số liệu thống kê năm 2014: - “Tổng sản phẩm trong tỉnh (GRNP) đạt 38.341 tỷ đồng (tăng 7,83% so năm 2013), là năm có mức tăng trưởng cao nhất trong 04 năm gần đây và cao hơn mức tăng trưởng chung của cả nước (5,8%). Tổng giá trị sản xuất ước tăng 8,82%. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực” [11, tr.1]. - “Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng năm 2014 ước đạt 25.639 tỷ đồng, tăng 13.48% so 2013” [11, tr.1]. - “Tổng thu ngân sách nhà nước năm 2014 (không kể ghi thu) ước đạt 12.115 tỷ đồng (bằng 155% dự toán, tăng 8,3% so với năm 2013). Trong đó, thu nội địa 4.053,6 tỷ đồng (tăng 32,4% so với cùng kỳ)” [11, tr.1]. - “Tổng chi ngân sách nhà nước năm 2014 ước đạt 12.085 tỷ đồng (bằng 160% dự toán, tăng 6,8% so với năm 2013). Trong đó, chi phát triển kinh tế đạt 5.022,6 tỷ đồng” [11, tr.1]. 19
  25. - “Giá trị sản xuất công nghiệp (theo giá so sánh 2010) ước đạt 33.840 tỷ đồng, tăng 11,4% so với năm 2013. Ðã có 126/144 dự án trong các khu công nghiệp đi vào hoạt động đem lại giá trị sản xuất là 12.566 tỷ đồng, tăng 11,3% so năm 2013” [11, tr.1]. - “Toàn Tỉnh đã tạo việc làm mới cho 32.200 lao động, tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 3,32%” [11, tr.1]. 2.1.2.2. Điều kiện văn hóa, xã hội “Về giáo dục: Thái Bình là một trong 5 tỉnh, Thành phố đầu tiên trong cả nước được công nhận đạt phổ cập Mầm non cho trẻ 5 tuổi; học sinh tốt nghiệp Trung học phổ thông đạt tỷ lệ cao; số học sinh đỗ Đại học, Cao đẳng xếp thứ 2 toàn quốc, Ngành Giáo dục - Đào tạo và Khoa học - công nghệ của Tỉnh được giữ vững và phát triển” [4, tr.1]. “Về văn hóa truyền thống: Tỉnh Thái Bình có gần 82 lễ hội đặc sắc, 16 loại hát múa, trò chơi như: Chiếu chèo "làng Khuốc", trò múa rối nước làng Nguyên Xá (Đông Hưng) và làng vườn Bách Thuận (Vũ Thư), Thái Bình phát triển du lịch văn hoá gắn với các lễ hội, đền Trần, tham quan chùa Keo, đền Mẫu Đợi xã Đông Hải huyện Quỳnh Phụ, đền Đồng Bằng xã An Lễ huyện Quỳnh Phụ, đền Tiên La, du lịch sinh thái gắn với xây dựng Khu du lịch Cồn vành, Cồn Thủ, du lịch làng nghề (Đồng Xâm, Hồng Thái Capital - Kiến Xương ), du lịch biển (Đồng Châu - Tiền Hải), đặc biệt là khu Resort Cồn Đen đang được xây dựng tại xã Thái Đô, Thái Thụy, Thái Bình. Nhà hát Chèo Thái Bình là đơn vị nghệ thuật chèo chuyên nghiệp, nơi bảo tồn và lưu giữ nghệ thuật chèo trên quê hương Thái Bình” [10, tr.1]. “Về những làng nghề nổi tiếng: Tỉnh Thái Bình có một số làng nghề nổi tiếng như: Làng nghề chạm bạc Đồng Xâm nằm ở phía Bắc của huyện Kiến Xương, thuộc xã Hồng Thái; làng Nguyễn thuộc xã Nguyên Xá, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình; làng chiếu Tân Lễ (làng Hới có nghề dệt chiếu lâu đời và nổi tiếng ở làng Hải Triều xã Tân Lễ tỉnh Thái Bình; làng vườn Bách Thuận nằm cách Thành phố Thái Bình 10 km theo hướng Cầu Tân Đệ đi Nam Định thuộc huyện Vũ Thư” [10, tr.1]. 20
  26. “Về du lịch: Tỉnh Thái Bình có một số bãi biển đẹp như: Biển Đồng Châu thuộc huyện Tiền Hải, cách thành phố Thái Bình 35 km theo tỉnh lộ đi Kiến Xương - Tiền Hải; khu du lịch sinh thái biển Cồn Vành; khu du lịch sinh thái biển Cồn Đen cách đất liền khoảng 3km thuộc địa phận xã Thái Đô, Thái Thuỵ, Thái Bình, cách trung tâm Thành phố Thái Bình khoảng 40 km” [10, tr.1]. 2.2. Thực trạng vấn đề xây dựng con ngƣời mới ở tỉnh Thái Bình hiện nay theo tƣ tƣởng Hồ Chí Minh và nguyên nhân 2.2.1. Thực trạng vấn đề xây dựng con người mới ở tỉnh Thái Bình hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh Một là, về vấn đề coi trọng, chăm sóc, phát huy nhân tố con người: - Trong việc đưa ra những chủ trương, chính sách phát triển con người: Từ năm 1986 đến năm 2018, “sau khi đất nước thống nhất, tỉnh Thái Bình nhận thức đầy đủ hơn về tầm quan trọng, mục tiêu, nội dung, phương thức giải quyết các vấn đề xã hội, đặc biệt là an sinh xã hội, phúc lợi xã hội, bảo đảm toàn diện và tốt hơn chất lượng cuộc sống của người dân Thái Bình; khẳng định mục tiêu chính sách xã hội là nhằm xây dựng, phát triển con người, đem lại cuộc sống hạnh phúc cho con người, góp phần lành mạnh hóa xã hội và phát triển bền vững đất nước” [4, tr.1]. “Hệ thống chính sách, pháp luật về vấn đề coi trọng, chăm sóc, phát huy nhân tố con người; đặc biệt là những chủ trương, chính sách phát triển con người ở tỉnh Thái Bình ngày càng đồng bộ và hoàn thiện hơn. Nguồn lực đầu tư được tăng cường và đa dạng hóa; Tỉnh phát huy được sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và mọi người dân thực hiện chính sách xã hội, chăm lo cho con người; đạt được những thành tựu quan trọng về phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội; bảo đảm an sinh xã hội, không ngừng cải thiện phúc lợi xã hội. Tỉnh Thái Bình đã hoàn thành hầu hết và căn bản các chỉ tiêu thiên niên kỷ, nhất là giảm nghèo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, thực hiện nhiều chính sách để ổn định, từng bước nâng cao đời sống của người dân Thái Bình” [10, tr.1]. Như vậy, qua các năm từ năm 1986 đến năm 2018, tỉnh Thái Bình đã đưa ra các “chủ trương, chính sách khác nhau nhằm mục đích phát triển con người; coi trọng, 21
  27. chăm sóc, phát huy nhân tố con người”. Tuy nhiên, những “chủ trương, chính sách” đó vẫn còn nhiều hạn chế và bất cập, chưa thực sự phù hợp với điều kỉện, hoàn cảnh phát triển của tỉnh Thái Bình. - Trong việc đảm bảo đời sống văn hóa, giáo dục, y tế cho người dân: + Trong lĩnh vực văn hóa: “Trước bối cảnh đổi mới hội nhập toàn diện, để giữ vững bản sắc văn hóa của Tỉnh, lãnh đạo tỉnh Thái Bình đã chủ động tích cực hội nhập quốc tế kết hợp giữ vững truyền thống và bản sắc văn hoá của người dân địa bàn; phát triển văn hoá đồng thời củng cố quốc phòng an ninh, tăng cường quan hệ đối ngoại, đặc biệt là chú trọng phát triển văn hoá, xã hội hài hoà với phát triển kinh tế, bảo đảm tiến bộ và công bằng trong các chính sách, chủ trương. Đồng thời, Tỉnh đã tăng cường huy động các nguồn lực xã hội cho phát triển văn hoá, xây dựng nền văn hoá của người dân Thái Bình tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; vừa kế thừa, phát huy những truyền thống văn hoá tốt đẹp của cộng đồng các dân tộc Việt Nam; vừa tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại, để văn hoá thực sự là nền tảng tinh thần của xã hội” [10, tr.1]. Trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI, Nghị quyết số 33 về “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”, ngày 9/6/2014 Đảng Cộng Sản Việt Nam đã khẳng định: “Phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách con người và xây dựng con người để phát triển văn hóa. Trong xây dựng văn hóa, trọng tâm là chăm lo xây dựng con người có nhân cách, lối sống tốt đẹp, với các đặc tính cơ bản: yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo”. “Để văn hóa trở thành nguồn sức mạnh nội sinh quan trọng của sự phát triển đất nước, con người Việt Nam nói chung và người dân địa bàn nói riêng trong bối cảnh của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, tỉnh Thái Bình đã chú trọng phát huy, nâng cao sự đổi mới; tích cực năng động sáng tạo; chủ động tiếp biến và làm giàu tri thức không ngừng của người dân Thái Bình. Tỉnh Thái Bình còn là một môi trường văn hóa văn minh, lành mạnh; góp phần giáo dục, rèn luyện người dân về nhân cách và đạo đức, lối sống. Đồng thời, Tỉnh luôn ưu tiên xây dựng văn hóa lành 22
  28. mạnh, văn minh trong Đảng, trong nội bộ các cơ quan Nhà nước, đoàn thể. Tỉnh coi đây là nhân tố quan trọng để phát triển hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Ngoài ra, Tỉnh thường xuyên quan tâm xây dựng văn hóa trong kinh tế, coi con người thực sự là trung tâm trong quá trình phát triển văn hóa; phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của các nhân tố khách quan và chủ quan, của điều kiện bên trong và bên ngoài, bảo đảm phát triển văn hóa luôn hài hòa và cân đối” [10, tr.2]. “Tỉnh Thái Bình thường xuyên chú trọng tăng cường các nguồn lực và phương tiện cho hoạt động văn hoá, bảo đảm phát triển văn hoá gắn liền với sự tăng trưởng kinh tế. Lãnh đạo Tỉnh chủ động mở rộng quan hệ hợp tác văn hóa với các khu vực địa phương lân cận, thực hiện đa dạng các hình thức văn hóa, làm phong phú thêm văn hóa của người dân địa bàn” [10, tr.2]. Bên cạnh đó, Tỉnh thực hiện Chỉ thị 05 - CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” và phong trào “Toàn dân đoàn kết, xây dựng đời sống văn hoá” với tiêu chí của Đảng Cộng Sản Việt Nam đã đưa ra trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI, Nghị quyết số 33 về “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”, ngày 09 tháng 06 năm 2014 là: “Xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến Chân - Thiện - Mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. “Trong thời kỳ mới, tỉnh Thái Bình xây dựng và phát triển văn hóa phải góp phần làm cho mỗi người không chỉ ý thức được quyền lợi, trách nhiệm, nghĩa vụ của bản thân mình; mà còn phải thực thi trách nhiệm đó một cách tốt nhất trong mọi lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội. Việc chú trọng phát triển văn hóa phải gắn kết chặt chẽ với chính trị và kinh tế; phải thường xuyên quan tâm và biết cách xây dựng văn hóa trong kinh tế” [10, tr.1]. Đồng thời, Tỉnh thực hiện yêu cầu của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành Trung 23
  29. ương Đảng khóa XI, Nghị quyết số 33 về “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”, ngày 09 tháng 06 năm 2014 đã khẳng định: “Phải làm cho văn hóa góp phần ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, công chức, đảng viên, tất cả vì sự phát triển lâu dài của đất nước”. + Trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe cho nhân dân: Đây là một vấn đề nhận được khá nhiều sự quan tâm của Tỉnh. Trong những năm vừa qua, tỉnh Thái Bình đã đưa ra Quyết định của Ủy ban nhân dân về chăm sóc sức khỏe cho người dân tỉnh Thái Bình như: “Quyết định 3574/QĐ - Ủy ban nhân dân 2017 chăm sóc sức khỏe cho người cao tuổi giai đoạn từ năm 2017 đến năm 2025 do nhận thấy tốc độ già hóa dân số ở Thái Bình đang diễn ra rất nhanh, kéo theo số lượng người cao tuổi chiếm tỷ lệ ngày càng cao” [9, tr.1]. Tuy nhiên, số người có cơ hội tiếp cận với những dịch vụ chăm sóc dành cho người cao tuổi còn quá thấp. Trước thực trạng này, “Trung tâm dưỡng lão tỉnh Thái Bình tiến hành triển khai nhiều chương trình, hoạt động nhằm đưa các dịch vụ y tế đến tận cơ sở, góp phần nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe người cao tuổi. Tiêu biểu là trung tâm dưỡng lão An Thái, huyện Vũ Thư đã tổ chức các buổi thăm khám, cấp thuốc miễn phí cho người cao tuổi xã Tự Tân, huyện Vũ Thư do trung tâm dưỡng lão An Thái phối hợp với Hội Chữ thập đỏ và phòng Lao động thương binh xã hội huyện tổ chức. Tại đây, hơn 250 người cao tuổi được các y bác sĩ khám sàng lọc các bệnh thường gặp như tim mạch, huyết áp, hô hấp, Đồng thời, người dân được tư vấn sức khỏe, hướng dẫn kiến thức, kỹ năng phòng ngừa bệnh tật, dinh dưỡng hợp lý an toàn. Những buổi khám bệnh miễn phí này là hoạt động nằm trong chương trình khám bệnh nhân đạo và chăm sóc sức khỏe người cao tuổi tại cộng đồng năm 2017 do Trung tâm dưỡng lão An Thái thực hiện, với mục đích giúp người cao tuổi có điều kiện được khám phát hiện sớm bệnh tật, điều trị bệnh kịp thời. Từ tháng 6 đến nay, trung tâm đã tổ chức 6 buổi khám bệnh nhân đạo với trên 1.200 người cao tuổi tham gia. Trung tâm dưỡng lão An Thái cũng đang tăng cường tuyên truyền về mục đích, ý nghĩa của chương trình khám bệnh, cấp thuốc miễn phí 24
  30. cho người cao tuổi; tiếp tục tổ chức thêm nhiều hoạt động hướng tới người cao tuổi đạt hiệu quả cao, góp phần làm tốt công tác chăm sóc người cao tuổi trên địa bàn” [9, tr.1]. Một số thành tựu tiêu biểu của tỉnh Thái Bình trong việc đảm bảo đời sống văn hóa, giáo dục, y tế cho người dân còn được thể hiện qua các sự kiện, hoạt động nhân ái: “Tháng 2/2018, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng về thăm và làm việc tại Thái Bình, dự lễ kỷ niệm 110 năm ngày sinh đồng chí Nguyễn Đức Cảnh. Tháng 11/2018, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân về dự ngày hội đại đoàn kết toàn dân tộc tại thôn Nam Ô Trình, xã Thụy Trình, huyện Thái Thụy; dâng hương tại đền thờ Liệt sĩ tỉnh, đền thờ Bác Hồ, Khu lưu niệm đồng chí Nguyễn Đức Cảnh. Trong chuyến thăm và làm việc tại Thái Bình, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân làm việc với Ban Thường vụ Tỉnh ủy; đến thăm hỏi, động viên, tặng quà các hộ gia đình nghèo trên địa bàn Tỉnh” [9, tr.1]. “Nhằm mục đích nâng cao chất lượng, cải thiện cuộc sống của con người mới Xã hội chủ nghĩa, trong năm qua, Thái Bình thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội. Toàn Tỉnh cấp miễn phí trên 71.000 thẻ bảo hiểm y tế cho người nghèo và cận nghèo; hỗ trợ hơn 4.000 hộ nghèo, cận nghèo vay vốn tín dụng với kinh phí gần 96 tỷ đồng, miễn giảm học phí cho 8.300 lượt học sinh. Năm 2018 là năm diễn ra nhiều hoạt động nhân đạo, từ thiện vì người nghèo. Báo Thái Bình đã phối hợp với Hội Bảo trợ người khuyết tật và trẻ mồ côi tỉnh, Hội Doanh nhân nữ của Tỉnh tổ chức chương trình giao lưu “Trái tim nhân ái” lần thứ II huy động được nguồn ủng hộ gần 4 tỷ đồng chăm lo cho người khuyết tật, trẻ mồ côi. Năm 2018, tỷ lệ hộ nghèo toàn Tỉnh giảm còn 3,35%” [9, tr.1]. Như vậy, tỉnh Thái Bình đã đưa ra các chủ trương, chính sách, biện pháp nhằm đảm bảo đời sống văn hóa, giáo dục, y tế cho người dân Thái Bình. Tuy nhiên Tỉnh vẫn gặp phải một số khó khăn, bất cập trong khi thực hiện những đề án trên.Đối với lĩnh vực văn hóa, sự phát triển của xã hội kéo theo sự hòa nhập của văn hóa thường dễ dẫn tới lối sống lai căng, hòa tan văn hóa cho nên một số giải pháp giữ gìn bản sắc văn hóa của con người Việt Nam nói chung và người dân Thái Bình nói riêng 25
  31. chưa thực sự hiệu quả. Tỉnh vẫn tồn tại một số văn hóa đạo đức chưa tốt đẹp như thờ ơ với người gặp nạn, vứt rác bừa bãi nơi công cộng, Ngoài ra, ở một số đối tượng thanh thiếu niên có cách ăn mặc chưa phù hợp với lứa tuổi và văn hóa của người Việt như mặc hở bạo, đua xe đánh võng ngoài đường phố, Dân số tỉnh Thái Bình đầu năm 2019 là 1,942 triệu người và vẫn tiếp tục gia tăng. Một số tệ nạn xã hội vẫn còn xảy ra như: trộm cắp, ma túy, bài bạc, mê tín dị đoan Bên cạnh đó, ý thức người dân chưa tốt trong lĩnh vực bảo vệ và giữ gìn tài nguyên môi trường dẫn đến một số khu vực bị ô nhiễm như ô nhiễm nguồn nước biển ở hai bãi biển Cồn Vành và Đồng Châu. Trong lĩnh vực giáo dục của Tỉnh cũng còn gặp các vấn đề bất cập chưa được giải quyết triệt để như: lương giáo viên không đáp ứng nhu cầu sống của họ; cơ sở vật chất ở một số trường học vùng nông thôn còn hạn chế, khó khăn; các vấn đề thi cử chưa thực sự chặt chẽ, nghiêm túc để tồn tại gian lận, không minh bạch hay phát triển giáo dục chưa đồng đều ở một số địa bàn nghèo như Quỳnh Phụ, Thái Thụy, Hưng Hà. Vấn đề chăm sóc sức khỏe cho người dân Thái Bình tồn tại một số khó khăn về thiếu thốn cơ sở y tế, máy móc trang thiết bị hiện đại và đội ngũ y, bác sĩ có kĩ thuật giỏi, tay nghề, chuyên môn cao, Hai là, trong việc phát triển kinh tế ở tỉnh Thái Bình: Trong những năm từ năm 1986 đến năm 2018 vừa qua, tỉnh Thái Bình đã ban hành các quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội như: “Quy hoạch tổng thể phát triển bền vững kinh tế - xã hội tỉnh Thái Bình đến năm 2020 định hướng đến năm 2030; kế hoạch phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa giai đoạn 2013 - 2015 tỉnh Thái Bình; quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Thái Bình đến năm 2020, ” [11, tr.1]. Do vậy, một số thành tựu về kinh tế tỉnh Thái Bình đạt được khá ấn tượng: “Tỉnh xuất sắc đạt và vượt hầu hết các chỉ tiêu kế hoạch của năm 2018 đặt ra; là năm thứ ba liên tiếp kinh tế của Tỉnh đạt mức tăng trưởng hai con số, vượt kế hoạch đề ra và là một trong ba Tỉnh, Thành phố có tốc độ tăng trưởng cao nhất vùng đồng bằng sông Hồng. Trong đó, tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) ước tăng 10,58%, giá trị sản xuất tăng 12,26% so với năm 2017; thu ngân sách địa phương 10 tháng năm 2018 Tỉnh đạt 12.340 tỷ đồng, vượt 6% dự toán (thu nội địa 26
  32. đạt 4.853 tỷ đồng, bằng 76% dự toán; thu thuế xuất, nhập khẩu đạt 1.100 tỷ đồng, tăng 30% so với dự toán). Tổng vốn đầu tư phát triển trên địa bàn cả năm ước đạt hơn 50,5 nghìn tỷ đồng, tăng 17,1% so với năm 2017 và cao gấp hai lần chỉ tiêu kế hoạch, ” [11, tr.1]. “Cơ cấu kinh tế của Tỉnh chuyển dịch tích cực: Tỷ trọng Nông, lâm, thủy sản - Công nghiệp, Xây dựng - Thương mại, Dịch vụ tương ứng đạt 25,7% - 36,8% - 37,5%. Thái Bình là một trong những Tỉnh đi đầu trong công cuộc xây dựng nông thôn mới, dự kiến hết năm 2018, toàn Tỉnh có 234 xã (bằng 88%) và 1/7 huyện được công nhận đạt chuẩn quốc gia nông thôn mới; 100% xã, phường, thị trấn có nước sạch phục vụ nhân dân. Dự kiến hai năm nữa Thái Bình có thể hoàn thành chương trình xây dựng nông thôn mới” [11, tr.1]. Ngoài ra, “Tỉnh đạt kết quả tích cực trong việc thu hút đầu tư và phát triển doanh nghiệp với 135 dự án được chấp thuận đầu tư mới và điều chỉnh tăng vốn đầu tư với số vốn đăng ký đạt hơn 6.500 tỷ đồng, tăng 14,4% so với cùng kỳ năm trước; có thêm 830 doanh nghiệp, chi nhánh, văn phòng đại diện được thành lập mới. Hiện Thái Bình đứng thứ hạng trung bình trong thu hút đầu tư (đứng thứ 34/64 tỉnh, thành phố), tăng 6 bậc so với các năm trước” [11, tr.1]. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực và thành tựu về kinh tế Tỉnh đã đạt được vẫn còn tồn tại một số hạn chế nhất định cần khắc phục như: “Mức độ tăng trưởng kinh tế của Tỉnh tuy đã đạt mức hai con số nhưng vẫn đang chững lại; các dịch vụ du lịch của Tỉnh còn nhiều bất cập. Thu nhập bình quân đầu người của Tỉnh còn thấp so với cả nước. Đặc biệt là thu hút đầu tư nước ngoài chưa cao, chưa thực sự tương xứng với tiềm năng và lợi thế của Tỉnh. Tỉnh chưa có những dự án mang tính chất quy mô lớn trên địa bàn; chất lượng nguồn nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế và xã hội của Tỉnh; một số chỉ số hành chính của Tỉnh xếp thứ hạng thấp so với cả nước, .” [11, tr.1]. Ba là, trong thực hiện “sự nghiệp trồng người”: “Lãnh đạo tỉnh Thái Bình luôn quan tâm chú trọng đặc biệt đến công tác giáo dục ý thức cho người dân Thái Bình thông qua các hoạt động như phát thanh, 27
  33. hưởng ứng, tuyên truyền ý thức về các lĩnh vực như: bảo vệ môi trường, hưởng ứng tháng an toàn giao thông, giữ gìn tài sản quốc gia ở bảo tàng tỉnh Thái Bình; cảnh giác người dân trước các tệ nạn xã hội nghiêm trọng đang ngày một gia tăng như ma túy, trộm cắp, mê tín dị đoan, bắt cóc trẻ em, Đảng ủy tỉnh Thái Bình đề cao sự nghiệp Giáo dục - Đào tạo, rèn luyện con người thông qua các kế hoạch “trồng người” ở hệ thống các trường Mầm non, Tiểu học, Trung học cơ sở, Trung học phổ thông và các trung tâm bồi dưỡng Dạy nghề, Cao đẳng, Đại học Thái Bình” [4, tr.1]. Vận dụng tư tưởng xây dựng con người mới phát triển toàn diện cả về thể lực, tâm lực, trí lực và bản lĩnh, có đạo đức xã hội của chủ tịch Hồ Chí Minh, “Thái Bình tiếp tục đầu tư phát triển con người đồng đều về mọi mặt. Bên cạnh việc chú trọng nâng cao chất lượng Giáo dục - Đào tạo, Thái Bình tổ chức nhiều hoạt động thể thao, vui chơi, giải trí bổ ích phát huy tối đa tiềm năng của con người, qua đó phát hiện, trọng dụng và bồi dưỡng nhân tài cho quốc gia. Tiêu biểu, năm 2018, tại Đại hội thể thao châu Á lần thứ 18, các vận động viên của Thái Bình: Tạ Thanh Huyền và Phạm Thị Thảo giành huy chương vàng môn đua thuyền; vận động viên Bùi Trường Giang giành huy chương bạc môn Wushu. Trong năm, hai cầu thủ Đoàn Văn Hậu, Trần Minh Vương góp phần vào thành tích giành ngôi á quân giải U23 châu Á, vào bán kết môn bóng đá nam ASIAD 18. Tại AFF SUZUKI Cup 2018, cầu thủ Đoàn Văn Hậu thi đấu xuất sắc góp phần cùng đội tuyển bóng đá Việt Nam giành chức vô địch. Trong năm 2018, Thái Bình tổ chức thành công Đại hội thể dục thể thao lần thứ VIII; cử 11 đoàn vận động viên tham gia Đại hội thể dục thể thao toàn quốc. Các đoàn vận động viên của Thái Bình tham gia thi đấu 28 giải quốc gia, 11 giải quốc tế, đạt 35 huy chương vàng, 36 huy chương bạc, 43 huy chương đồng” [4, tr.1]. Vận dụng quan điểm của Hồ Chí Minh về thực hiện “sự nghiệp trồng người”, đặc biệt đối với thế hệ trẻ, tỉnh Thái Bình luôn đặt nhiều sự quan tâm đối với thế hệ trẻ, thế hệ thanh thiếu niên của Tỉnh: “Tiêu biểu là Thái Bình ưu tiên đầu tư cho giáo dục ở một số trường học đã được trang bị máy móc thiết bị hiện đại, tiên tiến phục vụ cho hoạt động dạy và học. Quy mô mạng lưới trường lớp được nâng cấp; 28
  34. cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy và học tiếp tục được bổ sung, hoàn thiện. Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục phát triển cả về số lượng và chất lượng. Công tác quản lý giáo dục và đào tạo có chuyển biến nhất định. Chất lượng giáo dục tiếp tục được nâng lên, số học sinh giỏi các cấp ngày càng tăng; kết quả thi tốt nghiệp Trung học phổ thông, thi Đại học, Cao đẳng luôn ở thứ hạng cao. Tỉnh liên tục cập nhật, đổi mới sách giáo khoa, phương pháp dạy học đa dạng, phong phú phù hợp với thực tế giáo dục” [4, tr.1]. Ngoài ra, “Tỉnh còn có một số chính sách thi đua, khen thưởng đối với những em học sinh, sinh viên có thành tích cao trong học tập và các lĩnh vực thể dục - thể thao khác hay những em có hoàn cảnh gia đình khó khăn, Tỉnh tạo mọi điều kiện để những em học sinh nghèo vượt khó có cơ hội đến trường và phát huy tất cả tài năng của các em. Bên cạnh đó, kỷ cương, nề nếp trong các nhà trường được duy trì, nhiều cơ sở giáo dục đã phát huy tốt lợi thế, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị, đáp ứng sự mong đợi của các cấp ủy đảng, chính quyền, sự tin cậy của nhân dân.Tỉnh còn tổ chức một số trường Dạy nghề đào tạo kĩ năng, chuyên môn nghiệp vụ cho thế hệ thanh thiếu niên được học tập, bồi dưỡng, tìm kiếm công ăn việc làm nuôi sống bản thân, góp phần xây dựng quê hương Thái Bình” [4, tr.1]. “Các nguồn kinh phí của ngành Giáo dục - Ðào tạo được Tỉnh thực hiện nghiêm túc, hiệu quả. Ðề án quy hoạch mạng lưới trường học tỉnh Thái Bình được thực hiện tích cực; các phòng giáo dục, các trường trực thuộc đã tích cực tham mưu cho các cấp Ủy đảng, chính quyền trong việc mở rộng diện tích đất theo tiêu chuẩn của trường chuẩn quốc gia, trường học nông thôn mới; xây dựng trường Trung học cơ sở liên xã, dồn điểm trường Mầm non, giảm điểm lẻ trường Tiểu học. Công tác quản lý có tiến bộ, đội ngũ giáo viên cơ bản đạt chuẩn, trên 60% giáo viên các cấp có trình độ trên chuẩn. Cơ sở vật chất, trang thiết bị được tăng cường theo hướng chuẩn hóa - hiện đại hóa. Ðến nay số trường đạt chuẩn quốc gia ở các cấp học, bậc học như sau: Mầm non 235/302 trường (đạt 77,8%), Tiểu học 288/295 trường (đạt 97,6%), Trung học cơ sở 183/269 trường (đạt 68%), Trung học phổ thông 16/39 trường (đạt 41%). Các trường chuyên nghiệp đã mở rộng mã ngành đào tạo, quy mô tuyển sinh tăng, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho địa phương và đất nước” [4, tr.1]. 29
  35. Tiếp nối những thành công đã đạt được, thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4 tháng 11 năm 2013 của Ban Chấp hành Trung ương Ðảng (khóa XI) về “Ðổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”, “Tỉnh đã xây dựng những mục tiêu và giải pháp cụ thể, từng bước thực hiện thành công Nghị quyết Ban Chấp hành Trung ương Ðảng đã đề ra. Tiếp tục nghiên cứu, quán triệt Nghị quyết đại hội Đảng các cấp, đẩy mạnh công tác học tập và noi theo tấm gương tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; coi trọng giáo dục đạo đức, nhân cách, lối sống cho cán bộ, giáo viên, học sinh, sinh viên. Triển khai thực hiện tốt các kế hoạch, đề án trong chương trình hành động, tích cực đổi mới căn bản, toàn diện Giáo dục - Đào tạo trên địa bàn Tỉnh, hòa chung với sự đổi mới, phát triển Giáo dục và Đào tạo của cả nước” [4, tr.2]. Ngoài ra, “Tỉnh còn xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục của Thái Bình đáp ứng được chương trình và sách giáo khoa mới sau năm 2018. Hoàn thiện cơ chế quản lý, có sự phân công, phân cấp và phối hợp tốt giữa quản lý chuyên môn theo ngành và quản lý nhà nước về giáo dục theo địa bàn; tích cực cải cách hành chính, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin qua mạng quản lý giáo dục diện rộng của Tỉnh. Kiểm tra, rà soát, đào tạo lại và bồi dưỡng để không có cán bộ quản lý và giáo viên xếp loại trung bình và yếu. Ðẩy nhanh tiến độ thực hiện quy hoạch mạng lưới trường lớp gắn với quy hoạch cán bộ quản lý. Kịp thời sắp xếp, điều động, luân chuyển cán bộ quản lý sau khi có kết quả đánh giá xếp loại hàng năm. Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện và hiệu quả hoạt động giáo dục trong các nhà trường. Tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị và tăng nguồn lực đầu tư cho giáo dục. Tập trung xây dựng trường chuẩn quốc gia, hỗ trợ tích cực cho sự nghiệp xây dựng nông thôn mới của địa phương. Nhân rộng những điển hình tiên tiến trong toàn ngành” [4, tr.2]. “Các đơn vị của Tỉnh tiếp tục tăng cường kỷ cương, nề nếp dạy và học; tích cực học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh bảo đảm khắc phục những tiêu cực trong giáo dục. Đồng thời đổi mới cách dạy, cách học, cách kiểm tra đánh giá theo hướng phát triển phẩm chất, năng lực người học gắn với định 30
  36. hướng nghề nghiệp. Tích cực chuẩn bị hệ điều kiện để thực hiện chương trình giáo dục phổ thông tổng thể sau năm 2018. Bên cạnh đó, Tỉnh đẩy mạnh việc thực hiện đổi mới quản lý, đổi mới phương pháp dạy học bằng nhiều hình thức phong phú, thiết thực như: tổ chức hội thảo, hội giảng, hội nghị chuyên đề ở tổ, khối trong trường, cụm trường. Đồng thời, Tỉnh ưu tiên tạo điều kiện cho đội ngũ cán bộ, giáo viên tích cực tự học tập, rèn luyện; nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ; nghiên cứu ứng dụng công nghệ thông tin. Các phòng Giáo dục và Đào tạo của Tỉnh đã tập trung triển khai kế hoạch bồi dưỡng số giáo viên chưa đạt chuẩn; tăng cường đào tạo nâng chuẩn; sử dụng hợp lý, phát huy hiệu quả số lượng, chất lượng các nhà giáo hiện có” [4, tr.3]. Tỉnh tiếp tục nỗ lực phấn đấu thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ mà Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII và Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIX đã đề ra: “Tăng cường đoàn kết thống nhất, xây dựng Đảng bộ và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; giữ vững ổn định chính trị - xã hội; huy động mọi nguồn lực, phát triển kinh tế nhanh và bền vững, đẩy mạnh phát triển văn hóa - xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân; tạo nền tảng để xây dựng tỉnh Thái Bình sớm có nền nông nghiệp, công nghiệp theo hướng hiện đại”. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực, Tỉnh vẫn còn tồn tại một số hạn chế trong thực hiện “sự nghiệp trồng người” như: “Ngân sách đầu tư cho giáo dục của Tỉnh còn gặp nhiều bất cập. Chi đầu tư xây dựng cơ bản rất thấp so với nhu cầu đầu tư cơ sở vật chất, mua sắm thiết bị dạy học, phòng thí nghiệm. Do đó, khó đáp ứng được yêu cầu đổi mới phương pháp và nâng cao chất lượng dạy học. Đây là một trong những thách thức đang đặt ra đối với lộ trình thực hiện các kế hoạch của Tỉnh về đổi mới chương trình và sách giáo khoa giáo dục phổ thông. Đặc biệt, quy mô diện tích của nhiều trường quá nhỏ, tình trạng thiếu phòng học, giảng đường, phòng máy tính, phòng học ngoại ngữ, thư viện, bể bơi, sân vận động khá phổ biến. khó đảm bảo điều kiện học tập có chất lượng cũng như việc thực hành, thực tập của học sinh, sinh viên, Ngoài ra, vẫn còn tồn tại những hình thức gian lận trong thi cử, kiểm tra, đánh giá cần được khắc phục triệt để nhằm đảm bảo sự công bằng” [4, tr.3]. 31
  37. 2.2.2. Nguyên nhân của thực trạng xây dựng con người mới ở tỉnh Thái Bình hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh 2.2.2.1. Nguyên nhân của thành tựu Một là, Đảng ủy và lãnh đạo tỉnh Thái Bình rất “chú trọng quan tâm đến đời sống của người dân Thái Bình trên tất cả các phương diện từ đời sống văn hóa, chính trị, kinh tế, xã hội đến các nhu cầu phong phú hàng ngày của họ và luôn cố gắng đáp ứng những nhu cầu thiết yếu đó” [10, tr.1]. Hai là, lãnh đạo tỉnh Thái Bình chú trọng tới vấn đề đưa ra các “nghị quyết, chính sách, biện pháp” nhằm đảm bảo đáp ứng nhu cầu thiết thực của người dân Thái Bình giúp họ thỏa mãn được những mong muốn tích cực trong đời sống hàng ngày. Ba là, tỉnh Thái Bình là một những địa bàn có truyền thống hiếu học và tôn sư trọng đạo. Người dân Thái Bình rất đề cao lĩnh vực giáo dục, luôn dành sự ưu đãi, đầu tư ngân sách cho giáo dục, “cho sự nghiệp, công tác xây dựng con người mới ở địa bàn Tỉnh” [10, tr.1]. Bốn là, xuất phát từ chính phẩm chất của người dân Thái Bình - là những con người ham học hỏi, luôn cố gắng trau dồi kiến thức, chăm chỉ, cần cù trong lao động sáng tạo và không ngại đổi mới, không ngừng vươn lên hướng tới những điều tích cực, tốt đẹp trong cuộc sống hàng ngày. Người dân Thái Bình luôn khát khao cống hiến nhằm đưa đất nước Việt Nam nói chung và địa bàn Tỉnh nói riêng tiến nhanh và bền vững. Người dân Thái Bình đã trải qua nỗi nhục bị giặc ngoại xâm đô hộ trong lịch sử, điều đó trở thành “động lực tác động mạnh mẽ vào tâm trí của con người Việt Nam nói chung và người dân Thái Bình nói riêng, thúc đẩy họ phải phát triển và tích cực đổi mới để sánh vai với các cường quốc năm châu” [10, tr.1]. Năm là, tỉnh Thái Bình có một đội ngũ lãnh đạo tài năng, giàu trí tuệ và luôn đặt lợi ích của người dân Thái Bình lên trước hết. Dưới sự lãnh đạo tài tình của hàng ngũ lãnh đạo, tỉnh Thái Bình ngày càng phát triển lớn mạnh đặc biệt trong lĩnh vực “xây dựng con người mới” theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Sáu là, “xu thế ngày càng mạnh của toàn cầu hóa đem đến những thuận lợi và khó khăn cho sự nghiệp đẩy mạnh Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa đất nước, đặt đất nước vào trạng thái vừa hợp tác vừa đấu tranh”. Điều này cũng ảnh hưởng 32
  38. tới vấn đề xây dựng con người mới ở tỉnh Thái Bình bởi đó là “xu thế hòa bình, hợp tác và phát triển; là sự phát triển nhanh hơn rất nhiều của Khoa học - Công nghệ so với tất cả các thời kỳ cách mạng kỹ thuật trước đây (cách mạng công nghiệp 4.0)” [10, tr.1]. 2.2.2.2. Nguyên nhân của hạn chế Một là, tỉnh Thái Bình đang đứng trước “những thách thức và nguy cơ hết sức to lớn do toàn cầu hóa đặt ra như: Vấn đề sinh thái, ô nhiễm môi trường, cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên; các vấn đề về dân số và sức khỏe cộng đồng; sự phân hóa giàu nghèo, tệ nạn xã hội và các loại tội phạm nguy hiểm. Về mặt chính trị, đây có thể xem là những thách thức to lớn đối với địa bàn Tỉnh và ảnh hưởng tới cả phẩm chất và năng lực của người dân Thái Bình” [2, tr.1]. Hai là, Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng diễn ra vào tháng 1 năm 1994 đã chỉ ra bốn thách thức và đồng thời cũng là bốn nguy cơ lớn trong quá trình phát triển của đất nước, ảnh hưởng tới tỉnh Thái Bình: “Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới do điểm xuất phát thấp, nhịp độ tăng trưởng chưa cao và chưa vững chắc, lại phải đi lên trong môi trường cạnh tranh gay gắt; nguy cơ chệch hướng Xã hội chủ nghĩa nếu không khắc phục được những lệch lạc trong chủ trương, chính sách và chỉ đạo thực hiện; nguy cơ về nạn tham nhũng và tệ quan liêu; nguy cơ diễn biến hòa bình của các thế lực thù địch. Các nguy cơ đó có liên quan mật thiết với nhau, tác động lẫn nhau” [2, tr.1]. Ba là, “nền kinh tế của tỉnh Thái Bình xuất phát điểm thấp, chịu tác động của khủng hoảng chính trị, kinh tế thế giới và khu vực. Sản xuất nông nghiệp chịu ảnh hưởng bất lợi của những vấn đề như: thời tiết, thiên tai, dịch bệnh và biến đổi khí hậu. Ngân sách hạn hẹp, thiếu vốn cho đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, trong khi đó phải dành nhiều nguồn lực khắc phục hậu quả do cơn bão số 8 năm 2012 gây ra” [2, tr.1]. Bốn là, Tỉnh đứng trước yêu cầu về “sự phát triển như vũ bão của Khoa học - Công nghệ, đặc biệt là Công nghệ thông tin mang đến nhiều hệ lụy làm cho con 33
  39. người phải nhanh chóng thích ứng trong không gian cạnh tranh sinh tồn; buộc họ phải điều chỉnh, thay đổi cách thức giao tiếp, ứng xử phù hợp với chuẩn mực đánh giá đạo đức, nhân cách, lối sống và năng lực làm việc” [2, tr.1]. Năm là, xuất phát từ nguyên nhân chủ quan: “Nhận thức của người dân tỉnh Thái Bình về yêu cầu, nhiệm vụ của cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng chưa đầy đủ. Định hướng phát triển các ngành công nghiệp chưa có chiến lược rõ ràng, nhất là những ngành trọng tâm, trọng điểm; thiếu gắn kết chặt chẽ, đồng bộ giữa Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa với đô thị và xây dựng nông thôn mới. Sự hướng dẫn, phối hợp của một số ngành cấp Tỉnh, cấp Huyện đối với cơ sở còn hạn chế; việc thanh tra, kiểm tra, giám sát chưa kịp thời; một số cán bộ công chức, viên chức còn hạn chế về trình độ, năng lực, chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ ” [2, tr.1]. Sáu là, “sự suy thoái về mặt đạo đức, tư cách, lối sống của một bộ phận không nhỏ các cán bộ, đảng viên của tỉnh Thái Bình đến thanh thiếu niên và người dân lao động. Nạn tham nhũng, chạy chức chạy quyền diễn biến ngày càng phức tạp và tinh vi, ảnh hưởng nghiêm trọng đến uy tín của Đảng ủy tỉnh Thái Bình và sự trong sạch, nghiêm minh của bộ máy lãnh đạo. Đây là một trong những nguy cơ mà trong nhiều văn kiện, chỉ thị, nghị quyết của Tỉnh đã đề cập, cảnh báo” [2, tr.1]. Từ tất cả những nguyên nhân trên, để có thể xây dựng hình ảnh người dân Thái Bình với những đặc điểm như: thân thiện, văn minh, lịch sự, mến khách; có bề dày truyền thống lịch sử - văn hóa lâu đời, địa bàn có tình hình chính trị ổn định, thì việc quan tâm chăm lo xây dựng những con người mới - những chủ nhân của đất nước phải được tiến hành đồng bộ với chương trình, mục tiêu cụ thể, lâu dài, bảo đảm cho sự phát triển bền vững. 2.3. Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả xây dựng con ngƣời mới ở tỉnh Thái Bình hiện nay theo tƣ tƣởng Hồ Chí Minh “Hội nghị Trung ương 9 khóa XI, Nghị quyết số 33 - NQ/TW ngày 09 tháng 06 năm 2014 về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam nói chung và người dân tỉnh Thái Bình nói riêng đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước, nhấn mạnh vai trò, vị trí đặc biệt quan trọng của chiến lược xây dựng, phát triển con người; coi phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong những khâu đột 34
  40. phá để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn hiện nay. Nghị quyết đề ra mục tiêu cụ thể là” [7, tr.12]: “Hoàn thiện các chuẩn mực giá trị văn hóa và con người Việt Nam, tạo môi trường và điều kiện để phát triển về nhân cách, đạo đức, trí tuệ, năng lực sáng tạo, thể chất, tâm hồn, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, ý thức tuân thủ pháp luật; đề cao tinh thần yêu nước, tự hào dân tộc, lương tâm, trách nhiệm của mỗi người với bản thân mình, với gia đình, cộng đồng, xã hội và đất nước” [7, tr.12]. Trong đó, “trọng tâm của nhiệm vụ xây dựng văn hóa là vì sự hoàn thiện nhân cách con người, chăm lo xây dựng con người có nhân cách, lối sống tốt đẹp, với các đặc tính cơ bản: yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo” [7, tr.12]. Để phát huy những điểm mạnh, những nhân tố tích cực, đồng thời hạn chế, khắc phục những yếu kém của người dân Thái Bình cần thực hiện một số giải pháp sau: 2.3.1. Tiếp tục hoàn thiện các chủ trương, chính sách trong phát triển con người “Thái Bình cần tập trung các nguồn lực xây dựng bộ tiêu chí con người Việt Nam như tại Đại hội XII của Đảng cũng đã nêu lên một số nội dung về xây dựng con người Việt Nam trong giai đoạn mới” [8, tr.126]. Chẳng hạn: Xây dựng “con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học” [8, tr.126], coi đó là “một mục tiêu của chiến lược phát triển” [8, tr.126]; “Phát triển về nhân cách, đạo đức, trí tuệ, năng lực sáng tạo, thể chất, tâm hồn, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, ý thức tuân thủ pháp luật” [8, tr.127]; “Mọi người Việt Nam đều hiểu biết sâu sắc, tự hào, tôn vinh lịch sử, văn hóa dân tộc. Khẳng định, tôn vinh cái đúng, cái tốt đẹp, tích cực, cao thượng; nhân rộng các giá trị cao đẹp, nhân văn. Đấu tranh phê phán, đẩy lùi cái xấu, cái ác, thấp hèn, lạc hậu; chống các quan điểm, hành vi sai trái, tiêu cực ảnh hưởng xấu đến xây dựng nền văn hóa, làm tha hóa con người” [8, tr.127]; đối với đội ngũ đảng viên: “Tăng cường rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, thực dụng” [8, tr.47]; “Chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, bè phái, “lợi ích nhóm”, nói không đi đôi 35
  41. với làm” [8, tr.47]. Bởi vậy, đây là một giải pháp quan trọng giúp tỉnh Thái Bình nhanh chóng hoàn thiện các chủ trương, chính sách trong phát triển con người và nhanh chóng áp dụng những chính sách, chủ trương đó vào thực tế phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của địa bàn Tỉnh: Một là, “về xây dựng tư tưởng, đạo đức, lối sống: Tỉnh Thái Bình cần chăm lo xây dựng con người Thái Bình phát triển toàn diện với các đặc điểm như: Tinh thần yêu nước; lòng tự hào, tự tôn dân tộc; có đạo đức, nhân cách và lối sống tốt đẹp. Người dân Thái Bình đa số đều có sự hiểu biết sâu sắc, tôn vinh lịch sử, giữ gìn và phát triển văn hóa của địa phương. Tỉnh cần chú trọng xây dựng người dân thái Bình có thế giới quan khoa học đúng đắn, luôn biết hướng tới Chân - Thiện - Mỹ; có thái độ sống tích cực; luôn hướng về những điều tốt đẹp, lạc quan. Ngoài ra, Tỉnh cần kết hợp xây dựng, rèn luyện đạo đức với thực hiện quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; nâng cao trí lực, bồi dưỡng tri thức cho người dân địa bàn đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế” [10, tr.1]. Mặt khác, “Tỉnh cần đúc kết và xây dựng hệ giá trị chuẩn cho người dân Thái Bình thời kỳ Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa và hội nhập quốc tế”; rèn luyện lối sống "Mỗi người vì mọi người, mọi người vì mỗi người". Từ đó, “hình thành lối sống có ý thức tự trọng, tự chủ; luôn sống và làm việc theo Hiến pháp và Pháp luật; bảo vệ môi trường; kết hợp hài hòa tính tích cực cá nhân và tính tích cực xã hội; đề cao trách nhiệm cá nhân đối với bản thân, gia đình và xã hội. Bên cạnh đó, người dân Thái Bình cần khẳng định, tôn vinh cái đúng, cái tốt đẹp, tích cực, cao thượng; nhân rộng các giá trị cao đẹp, nhân văn” [10, tr.1]. Hai là, Tỉnh cần “chú trọng vấn đề an ninh con người, với những nhiệm vụ cụ thể như: Người dân Thái Bình biết đấu tranh phê phán, đẩy lùi cái xấu, cái ác, thấp hèn, lạc hậu kết hợp chống các quan điểm, hành vi sai trái, tiêu cực ảnh hưởng xấu đến xây dựng nền văn hóa, làm tha hóa con người địa phương” [27, tr.3]. Từ đó, “tìm ra giải pháp ngăn chặn, đẩy lùi sự xuống cấp về mặt đạo đức xã hội, khắc phục những mặt hạn chế của người dân Thái Bình” [27, tr.3]. Ngoài ra, Tỉnh phải “quan 36
  42. tâm xây dựng môi trường văn hóa trong sạch, lành mạnh, phù hợp với bối cảnh phát triển kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế trong hệ thống chính trị của địa phương, trong từng cộng đồng làng, bản, khu phố, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp, khu công nghiệp và mỗi gia đình, góp phần giáo dục, rèn luyện con người về nhân cách, đạo đức, lối sống. Thực hiện chiến lược phát triển gia đình Việt Nam. Phát huy giá trị truyền thống tốt đẹp, xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, văn minh. Xây dựng mỗi trường học thật sự là một trung tâm văn hóa giáo dục, rèn luyện con người. Xây dựng nếp sống văn hóa tiến bộ, văn minh, nhất là trong việc cưới, việc tang, lễ hội” [27, tr.3]. “Nâng cao chất lượng, hiệu quả phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa"; từng bước thu hẹp khoảng cách về hưởng thụ văn hóa giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng, miền và các giai tầng xã hội. Phát huy các giá trị, nhân tố tích cực trong văn hóa tôn giáo, tín ngưỡng” [27, tr.3]. Ba là, Tỉnh cần hình thành những “giá trị nhân văn cho người dân Thái Bình thông qua việc tăng cường giáo dục nghệ thuật; nâng cao năng lực cảm thụ thẩm mỹ cho người dân; đặc biệt là thế hệ thanh thiếu niên ở địa bàn. Từ đó, phát huy vai trò của Văn học - Nghệ thuật trong việc bồi dưỡng tâm hồn, tình cảm của con người; bảo đảm quyền hưởng thụ và sáng tạo văn hóa của mỗi người dân và của cộng đồng” [27, tr.3]. Bốn là, Tỉnh cần “nâng cao thể lực, sức khỏe, tuổi thọ cho người dân, gắn với việc giáo dục thể chất với giáo dục tri thức, đạo đức, kỹ năng sống, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ quê hương thái Bình” [27, tr.3]. Có thể nói, xây dựng phát triển con người là “điều kiện tiên quyết để xây dựng thành công Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”. Bởi “muốn xây dựng Chủ nghĩa xã hội thì trước hết phải có những con người Xã hội chủ nghĩa” như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng căn dặn. Vì thế, việc xây dựng, hình thành nên những người dân Thái Bình có phẩm chất, năng lực, “vừa hồng vừa chuyên” là “nhiệm vụ trọng tâm trong các chương trình, kế hoạch của các cấp, các ngành”. 37
  43. 2.3.2. Tiếp tục quan tâm đầu tư phát triển kinh tế ở Thái Bình “Kinh tế là một trong những nền tảng quan trọng góp phần thúc đẩy sự phát triển của con người và đóng vai trò cần thiết trong việc xây dựng con người mới ở tỉnh Thái Bình hiện nay. Bởi vậy, chỉ đạo của Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Bình cần có sự phối hợp chặt chẽ với các sở, ban, ngành, sự chỉ đạo tập trung của Thành ủy, sự quản lý điều hành đồng bộ các giải pháp mới của Ủy ban nhân dân Thành phố cùng với sự cố gắng của các cấp, các ngành, doanh nghiệp và nhân dân, thành phố Thái Bình để đạt kết quả toàn diện, hoàn thành và hoàn thành tốt các chỉ tiêu kinh tế - xã hội đã đặt ra qua các năm” [11, tr.2]. Một là, “cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững thông qua việc nắm bắt thông tin, xử lỷ các tình huống kinh tế; đảm bảo ổn định thị trường tín dụng; tăng cường quản lý và điều hành ngân sách nhà nước; đẩy mạnh giải ngân, nâng cao hiệu quả đầu tư công và thu hút các doanh nghiệp xuất, nhập khẩu qua địa bàn tỉnh; đẩy mạnh phát triển doanh nghiệp và kinh tế tư nhân” [11, tr.2]. Hai là, “cụ thể hóa ba đột phá chiến lược phù hợp với điều kiện của tỉnh Thái Bình bằng các gải pháp đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến và thực thi pháp luật; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực” [11, tr.2]. Ba là, “xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, tiếp tục tái cơ cấu nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất lao động và sức cạnh tranh của nền kinh tế thông qua việc cơ cấu lại thu, chi ngân sách nhà nước; cơ cấu lại đầu tư, đầu tư công; cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước; cơ cấu lại các đơn vị sự nghiệp công lập; cơ cấu lại nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới; phát triển sản xuất công nghiệp, dịch vụ, du lịch, ” [11, tr.2]. Bốn là, “bảo đảm an sinh xã hội, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, phát triển toàn diện các lĩnh vực văn hóa, xã hội, trong đó đặc biệt chú trọng phát triển văn hóa, thể thao; Giáo dục - Đào tạo và tăng cường bảo vệ và chăm sóc sức khỏe nhân dân; bảo đảm an sinh xã hội; thực hiện tốt công tác bình đẳng giới, chăm sóc người cao tuổi, bảo vệ và chăm sóc trẻ em và phòng chống tệ nạn xã hội; thúc đẩy phát triển Khoa học - Công nghệ” [10, tr.2]. 38
  44. Năm là, “tăng cường quản lý tài nguyên, giữ gìn, xây dựng, bảo vệ môi trường; chủ động phòng chống thiên tai, thích ứng với biến đổi khí hậu” [10, tr.2]. Sáu là, “đẩy mạnh cải cách hành chính; siết chặt kỷ luật, kỷ cương hành chính xây dựng Chính phù điện tử phục vụ người dân gắn với sắp xếp tổ chức bộ máy tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả; đẩy mạnh phòng, chống tham nhũng, lãng phí; giải quyết khiếu nại, tố cáo” [10, tr.2]. Bảy là, “tăng cường quốc phòng, an ninh; bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, cứu hộ, cứu nạn; nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại” [10, tr.2]. 2.3.3. Tiếp tục quan tâm đầu tư phát triển giáo dục ở Thái Bình “Văn kiện Đại hội XII đặt nhiệm vụ lớn lao, nặng nề đó cho toàn xã hội, song, trước hết cho lĩnh vực được khẳng định là quốc sách hàng đầu - đó là Giáo dục - Đào tạo”: “Nhằm thực hiện được mục tiêu nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, Đại hội yêu cầu một sự chuyển hướng quan trọng nhất đối với giáo dục là “chuyển mạnh quá trình giáo dục chủ yếu từ trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học. Tư tưởng này đòi hỏi ngành Giáo dục phải đổi mới sâu sắc, toàn diện tư duy, năng lực chỉ đạo và tổ chức lĩnh vực giáo dục, vượt qua những “căn bệnh” đã tồn tại từ lâu trên lĩnh vực này như: chất lượng, hiệu quả giáo dục còn thấp, chưa chú trọng đúng mức việc giáo dục đạo đức, lối sống và kỹ năng làm việc, nặng lý thuyết, nhẹ thực hành, ” [8, tr.115]. “Giáo dục - Đào tạo phải đảm bảo cho sự phát triển của con người, đặc biệt của thế hệ trẻ, thông qua quá trình giáo dục nhằm phát huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo, phẩm hạnh, nhân cách của mỗi cá nhân, tạo ra những thế hệ con người Việt Nam: yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào, sống tốt và làm việc hiệu quả” [8, tr.115]. Bởi vậy, tỉnh Thái Bình cần tiếp tục đầu tư phát triển giáo dục, coi đó là “vấn đề quan trọng, là quốc sách hàng đầu”. Có thể nói, đầu tư cho Giáo dục là đầu tư có lãi nên đây được coi là giải pháp hết sức cần thiết cho vấn đề xây dựng con người mới của Tỉnh. “Tỉnh Thái Bình cần chú trọng đầu tư phát triển Giáo dục không chỉ bởi Giáo dục được xem là quốc sách hàng đầu, mà còn bởi Giáo dục chính là sinh mệnh 39
  45. chính trị của dân tộc” [4, tr.1]: “Muốn dự đoán tương lai đất nước, hãy nhìn vào giáo dục, muốn đánh giá nền giáo dục, hãy nhìn vào đãi ngộ đối với nhà giáo” [4, tr.1]. “Trên thế giới ngày nay, những người giàu nhất thế giới chẳng có ai không tốt nghiệp phổ thông, không ai mù chữ lại có thể trở thành chính khách, như ý kiến của bà Olga Yurievna, Bộ trưởng Bộ Giáo dục Liên bang Nga cho rằng” [4, tr.1]: “Bộ trưởng quan trọng nhất trong chính phủ là Bộ trưởng Bộ Giáo dục. Bộ trưởng Bộ Y tế tồi cùng lắm chỉ gây khó khăn cho người dân khám chữa bệnh và ảnh hưởng tới sức khỏe. Bộ trưởng Bộ Kinh tế tồi cùng lắm là làm chậm sự phát triển kinh tế. Nhưng Bộ trưởng Bộ Giáo dục tồi thì phá hoại cả tương lai của đất nước và của quốc gia” [4, tr.1]: “Những năm 60 của thế kỷ XX, trước thành tựu khoa học và kỹ thuật vượt trội của Liên Xô, Tổng thống Mỹ John Kennedy cho rằng: “Chúng ta thua người Nga bắt đầu từ ghế nhà trường” [4, tr.1]. Trên đây là một số vấn đề đặt ra đối với việc xây dựng con người mới ở tỉnh Thái Bình đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh và bền vững của địa bàn. Người dân Thái Bình đang đứng trước sứ mệnh vinh quang nhưng đầy khó khăn, thách thức, đó là làm sao đưa tỉnh Thái Bình đi lên về mọi mặt, góp phần xây dựng một thành phố văn minh mà ở đó những giá trị về con người được coi trọng, được phát triển toàn diện. 40
  46. Tiểu kết chương 2 Thái Bình là một tỉnh trọng điểm trong các tỉnh ở khu vực phía Bắc. Vì vậy, “vấn đề con người là vấn đề được tỉnh nhà đặc biệt quan tâm trong thời kì hiện nay”. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt đã đạt được và những ưu điểm như: “Đầu tư chính sách phát triển cho con người; phát triển kinh tế đối với tỉnh Thái Bình; đầu tư phát triển văn hóa, y tế đối với tỉnh Thái Bình thì Tỉnh nhà vẫn còn tồn tại một số hạn chế, bất cập nhất định. Thực trạng đó đòi hỏi Thái Bình cần phải thực hiện đồng bộ các giải pháp: Tiếp tục hoàn thiện các chủ trương, chính sách trong phát triển con người; tiếp tục quan tâm đầu tư phát triển kinh tế ở Thái Bình; tiếp tục đầu tư phát triển giáo dục ở Thái Bình. Tất cả những chính sách, giải pháp này nhằm đảm bảo cho sự phát triển của con người tỉnh Thái Bình đạt được hiệu quả cao”. 41
  47. KẾT LUẬN 1. “Tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm trường tồn của thời đại, là tài sản vô giá của dân tộc ta. Sở dĩ như vậy là vì tư tưởng của Người không chỉ tiếp thu, kế thừa những giá trị tinh hoa văn hóa, tư tưởng “vĩnh cửu” của loài người, trong đó chủ yếu là chủ nghĩa Mác - Lênin, mà còn đáp ứng nhiều vấn đề của thời đại trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam và Thế giới. Có thể nói, tư tưởng Hồ Chí Minh là ngọn đèn soi sáng con đường giải phóng và phát triển của dân tộc Việt Nam; là nền tảng tư tưởng và kim chi nam cho hành động của cách mạng Việt Nam. Giá trị nhân loại của tư tưởng Hồ Chí Minh góp phần phát triển tư duy lý luận, phản ánh chân lý thời đại, cổ vũ các dân tộc đấu tranh vì những mục tiêu cao cả”. “Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng con người mới có giá trị lý luận và thực tiễn rất quan trọng: Về mặt lý luận, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng con người mới với nội dung sâu sắc và mới mẻ, có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự nghiệp Giáo dục và Đào tạo con người Việt Nam; về mặt thực tiễn, sự phát triển con người đã trở thành tiêu chí ngày càng quan trọng trong việc xếp hạng các nước trên thế giới. Cho đến ngày nay, những tư tường đó của Hồ Chí Minh về xây dựng con người mới vẫn còn nguyên giá trị to lớn trên cả hai phương diện lý luận và thực tiễn”. 2. “Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng con người mới là một nội dung được Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm. Đó là một hệ thống tư tưởng bao gồm những luận điểm cơ bản như: Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người; quan niệm của Hồ Chí Minh về vai trò của con người; quan niệm của Hồ Chí Minh về chiến lược “trồng người”. Hệ thống quan điểm ấy vẫn còn giữ nguyên giá trị lý luận và thực tiễn cho tới thời điểm hiện tại”. 3. “Trước yêu cầu của tình hình mới hiện nay, vấn đề xây dựng con người mới đối với cả nước nói chung và đối với tỉnh Thái Bình nói riêng là một yêu cầu hết sức cần thiết và quan trọng. Hiện nay, thực hiện theo quan điểm của Hồ Chí Minh, vấn đề xây dựng con người mới của tỉnh Thái Bình đã đạt được một số thành tựu cụ 42
  48. thể. Tuy nhiên, bên cạnh đó, tỉnh Thái Bình vẫn gặp một số hạn chế. Để giải quyết thực trạng này, Thái Bình cần phải thực hiện đồng bộ các giải pháp: Tiếp tục hoàn thiện các chủ trương, chính sách trong phát triển con người; tiếp tục quan tâm đầu tư phát triển kinh tế ở Thái Bình; tiếp tục đầu tư phát triển giáo dục ở Thái Bình”. 43
  49. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Ban Tuyên giáo Trung ương, Tổng cục dạy nghề, viện nghiên cứu phát triển phương Đông (2012), Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 2. Ban Chỉ đạo tổng kết lý luận Trung ương (2015), Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 30 năm đổi mới (1986-2016), Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 3. Nguyễn Duy Bắc (2016), “Phát triển văn hóa, con người Việt Nam toàn diện theo tinh thần Đại hội XII của Đảng”, Tạp chí Lý luận chính trị, (6). 4. Đặng Phương Bắc (2019), „„Giáo dục và đào tạo Thái Bình: Nỗ lực đổi mới, căn bản, toàn diện‟‟, tao-thai-binh-no-luc-doi-moi-can-ban-toan-dien-52344, ngày 08/05/2019. 5. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2014), Tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 6. Thành Duy (2011), Chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 7. Đảng Cộng sản Việt Nam (2014), Văn kiện Hội nghị lần thứ XI, Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội. 8. Đảng Cộng Sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội. 9. Thu Hà (2018), „„Thái Bình: Phê duyệt Đề án Chăm sóc sức khỏe người cao tuổi giai đoạn 2017 - 2025‟‟, an- cham-soc-suc-khoe-nguoi-cao-tuoi-giai-doan-2017-2025 20180127091722945.htm, ngày 27/01/2018. 10. Phạm Minh Hạc (2001), Về phát triển toàn diện con người thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 11. Hoàng Thị Hoa (2018), „„Cơ cấu kinh tế của Thái Bình chuyển dịch tích cực‟‟, cuc-505259.html, ngày 17/11/2018. 44
  50. 12. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 1, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 13. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 2, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 14. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 3, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 15. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 4, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 16. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 5, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 17. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 6, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 18. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 7, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 19. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 8, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 20. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 9, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 21. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 10, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 22. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 11, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 23. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 12, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 24. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 13, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 25. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 14, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 26. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 15, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 27. Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Bình (2015), Quyết định về việc xây dựng con người phát triển toàn diện Thái Bình, Thái Bình. 28. Văn phòng Trung ương Đảng (1994), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 29. Văn phòng Trung ương Đảng (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 45