Khóa luận Nhu cầu tin và khả năng đáp ứng thông tin cho người khiếm thị tại thư viện Hà Nội

pdf 54 trang thiennha21 15/04/2022 3650
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Nhu cầu tin và khả năng đáp ứng thông tin cho người khiếm thị tại thư viện Hà Nội", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfkhoa_luan_nhu_cau_tin_va_kha_nang_dap_ung_thong_tin_cho_nguo.pdf

Nội dung text: Khóa luận Nhu cầu tin và khả năng đáp ứng thông tin cho người khiếm thị tại thư viện Hà Nội

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN, ĐHQGHN KHOA THÔNG TIN - THƢ VIỆN NGUYỄN CHÍ TRUNG NHU CẦU TIN VÀ KHẢ NĂNG ĐÁP ỨNG THÔNG TIN CHO NGƢỜI KHIẾM THỊ TẠI THƢ VIỆN HÀ NỘI KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC NGÀNH THÔNG TIN - THƢ VIỆN Hệ đào tạo: Chính quy Khóa học: QH-2007-X NGƯỜI HƯỚNG DẪN: PGS. TS. TRẦN THỊ QUÝ HÀ NỘI, 2011 Bàn Thị Năm K52 Thông tin – Thư viện 1
  2. TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN, ĐHQGHN KHOA THÔNG TIN - THƢ VIỆN NGUYỄN CHÍ TRUNG NHU CẦU TIN VÀ KHẢ NĂNG ĐÁP ỨNG THÔNG TIN CHO NGƢỜI KHIẾM THỊ TẠI THƢ VIỆN HÀ NỘI KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC NGÀNH THÔNG TIN - THƢ VIỆN Hệ đào tạo: Chính quy Khóa học: QH-2007-X NGƯỜI HƯỚNG DẪN: PGS. TS. TRẦN THỊ QUÝ HÀ NỘI, 2011 PHẦN MỞ ĐẦU Bàn Thị Năm K52 Thông tin – Thư viện 2
  3. 1. Tính cấp thiết của đề tài Hà Nội - thủ đô anh hùng, thành phố vì hòa bình, trái tim của đất nước đã bước qua 1000 năm lịch sử. Hà Nội - trung tâm chính trị, kinh tế, khoa học và giáo dục của cả nước. Là thành phố có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, trình độ dân trí cao và nhu cầu hưởng thụ văn hóa lớn. Hà Nội là nơi tập trung nhiều cơ quan của trung ương, các bộ ngành, các viện và trung tâm nghiên cứu .Là thành phố đang trên đà công nghiệp hóa, hiện đại hóa mạnh mẽ, để có thể làm chủ máy móc, các trang thiết bị hiện đại và làm chủ quá trình lao động sản xuất, người lao động nói riêng và người dân nói chung cần phải đọc để hiểu biết. Từ xa xưa cho đến nay, Hà Nội cũng nổi tiếng là mảnh đất hiếu học, vì thế, nhu cầu đọc và nắm bắt thông tin qua sách báo là rất cao. Hà Nội cũng là nơi tập trung nhiều cơ quan thông tin và thư viện hàng đầu của đất nước, trong đó có Thư viện Hà Nội. Hiện nay, Thư viện Hà Nội phục vụ các nhóm đối tượng khác nhau như: trí thức, học sinh - sinh viên, người cao tuổi, người lao động, trong đó có người khiếm thị. Người dùng tin khiếm thị là một trong những nhóm người dùng tin đặc biệt của hoạt động thông tin - thư viện. Người dùng tin đặc biệt là những người hạn chế về thể chất hoặc về mặt xã hội có nhu cầu tin và sử dụng thông tin để thỏa mãn nhu cầu của mình. Trong quá trình thỏa mãn nhu cầu của mình, họ cần sự quan tâm của xã hội. Người dùng tin đặc biệt bao gồm những người như: người khiếm thị, người già, bệnh nhân, tù nhân, tội phạm, các đối tượng đang được cải tạo. Người dùng tin khiếm thị là một trong những nhóm bạn đọc mà hệ thống thư viện, đặc biệt là Hệ thống thư viện công cộng có trách nhiệm phục vụ. Tại điều 6, khoản 4 Pháp lệnh Thư viện đã khẳng định quyền được sử dụng các tài liệu phù hợp với đặc thù bệnh của người khiếm thị trong các thư viện như sau: “Người khiếm thị được tạo điều kiện sử dụng tài liệu thư viện bằng chữ nổi hoặc các vật mang tin đặc biệt”[2;4]. Đồng thời tại điều 2, khoản 4 trong Nghị định của Chính phủ Quy định chi tiết việc thi hành Pháp lệnh Thư viện cũng xác định rõ trách nhiệm của Thư viện trong việc phục vụ người dùng tin khiếm thị: “Thư viện công cộng có trách nhiệm phối hợp với Hội người mù xây dựng bộ phận sách, báo bằng chữ nổi và các dạng tài liệu đặc biệt khác phục vụ người khiếm thị”[1;2]. Trong thời kỳ bùng nổ thông tin và công nghệ thông tin phát triển mạnh mẽ thì nhu cầu thông tin của người dùng tin nói chung và người khiếm thị nói riêng thay đổi nhanh chóng. Nếu nguồn lực thông tin không ngừng cập nhật, các sản phẩm dịch vụ thông tin và thư Bàn Thị Năm K52 Thông tin – Thư viện 3
  4. viện chậm đổi mới, không chú trọng đa dạng hóa thì hiệu quả đáp ứng nhu cầu tin cho người dùng tin nói chung và người khiếm thị nói riêng sẽ không đạt hiệu quả cao. Vì vậy, việc tìm hiểu nhu cầu tin của người khiếm thị và thực trạng khả năng đáp ứng nhu cầu tin cho người khiếm thị của Thư viện Hà Nội ra sao để từ đó đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả phục vụ cho đối tượng người dùng tin này có ý nghĩa về cả lý luận và thực tiễn. Do đó, tôi đã chọn đề tài “Nhu cầu tin và khả năng đáp ứng thông tin cho người khiếm thị tại Thư viện Hà Nội” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp đại học của mình. 2. Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu nhu cầu tin và khả năng đáp ứng nhu cầu tin cho người khiếm thị tại Thư viện Hà Nội nhằm có cơ sở khoa học để đề xuất những giải pháp nâng cao khả năng đáp ứng nhu cầu tin cho đối tượng người dùng tin đặc biệt này. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tƣợng nghiên cứu Là nhu cầu tin và khả năng đáp ứng nhu cầu tin cho người dùng tin khiếm thị của Thư viện Hà Nội. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Thực trạng nhu cầu tin của người dùng tin khiếm thị tại Thư viện Hà Nội. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu 4.1. Cơ sở phƣơng pháp luận Cơ sở phương pháp luận của của đề tài là phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; các quan điểm của Đảng và Nhà nước về công tác thông tin và thư viện. 4.2. Các phƣơng pháp nghiên cứu cụ thể Để hoàn thành công trình nghiên cứu này, tôi đã sử dụng bốn phương pháp nghiên cứu cụ thể là: phương pháp nghiên cứu, tập hợp và phân tích tài liệu; phương pháp điều tra nhu cầu tin bằng bảng hỏi; phương pháp khảo sát điều tra thực tế; phương pháp trao đổi mạn đàm. 5. Tình hình nghiên cứu theo hƣớng đề tài Qua quá trình nghiên cứu, tác giả nhận thấy công tác phục vụ người khiếm thị được các tác giả nghiên cứu và đề cập từ nhiều góc độ và từng mức độ khác nhau. Theo hướng đề tài có những tài liệu tập trung vào việc nghiên cứu về người khiếm thị nhưng chung chung, hoặc công tác phục vụ người khiếm thị tại thư viện khác; hoặc nhóm tài liệu nghiên cứu về Thư viện Hà Nội nhưng không nghiên cứu về người khiếm thị mà tập trung Bàn Thị Năm K52 Thông tin – Thư viện 4
  5. nghiên cứu các đối tượng khác như: phát triển nguồn tin, tin học hóa, bộ máy tra cứu tin, công tác bảo quản vốn tài liệu Gần đây, do những đòi hỏi bức thiết từ thực tiễn công tác phục vụ thông tin cho người khiếm thị, nhiều đơn vị đã có một số đề tài, hội thảo nghiên cứu và trao đổi về nhiều khía cạnh khác nhau của công tác phục vụ người khiếm thị. Có thể nêu một số bài báo khoa học, công trình nghiên cứu, niên luận của một số tác giả nghiên cứu về những khía cạnh khác nhau như: Bài báo khoa học của tác giả Nguyễn Ngọc Nguyên “Thư viện dành cho người khiếm thị” đăng trong Tập san Thư viện số 4 năm 2001, Niên luận “Tìm hiểu hoạt động một số phòng đọc sách tiêu biểu dành cho người khiếm thị ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh” của tác giả Nguyễn Thị Đào hoàn thành tháng 3 năm 2003. Đặc biệt là Hội thảo khoa học do Vụ Thư viện thuộc Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tổ chức với nội dung về “Tăng cường và nâng cao chất lượng các dịch vụ thư viện công cộng phục vụ người khiếm thị” diễn ra vào tháng 11/2008, Hội nghị “Tổng kết 10 năm hợp tác giữa Việt Nam và Quỹ Force giai đoạn 2000 - 2010” vào tháng 11/2010. Bên cạnh đó là cuốn sách “Dịch vụ thư viện cho người khiếm thị: Cẩm nang thực hành tốt nhất” do tác giả Nguyễn Thị Bắc chủ trì biên soạn năm 2005. Tài liệu nghiên cứu về Thư viện Hà Nội nhưng không nghiên cứu cụ thể về đối tượng người dùng tin khiếm thị như: Khóa luận tốt nghiệp của tác giả Hồ Thị Thúy Chinh “Tìm hiểu nhu cầu tin và việc đảm bảo thông tin tại Thư viện Thành phố Hà Nội” năm 2007. Có thể thấy, việc nghiên cứu vẫn chỉ dừng lại sự bao quát, chưa tìm hiểu sâu từng khía cạnh cụ thể của đối tượng nghiên cứu. Phần lớn các đề tài, bài báo khoa học, khóa luận tốt nghiệp, cũng như các bài viết đăng trong kỷ yếu hội thảo chỉ đề cập một phần nào đó về việc nâng cao chất lượng và dịch vụ phục vụ người khiếm thị, chứ chưa đi sâu vào việc nghiên cứu chính xác nhu cầu tin của người khiếm thị cũng như khả năng đáp ứng của Thư viện Hà Nội thông qua các phiếu hỏi. Chính vì vậy đề tài “Nhu cầu tin và khả năng đáp ứng thông tin cho người khiếm thị tại Thư viện Hà Nội” là hoàn toàn mới, không trùng lặp với các công trình nào đã công bố trước đó. 6. Đóng góp về lý luận và thực tiễn của đề tài 6.1. Đóng góp về mặt lý luận Góp phần hoàn thiện những vấn đề lý luận về người dùng tin đặc biệt và nhu cầu tin tại thư viện người dùng tin đặc biệt nói chung và người dùng tin khiếm thị nói riêng trong hoạt động thông tin - thư viện. 6.2. Đóng góp về mặt thực tiễn Bàn Thị Năm K52 Thông tin – Thư viện 5
  6. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu nhu cầu tin của người khiếm thị; tìm hiểu khả năng đáp ứng nhu cầu tin cho người khiếm thị tại Thư viện Hà Nội để đưa ra một số kiến nghị nhằm tăng cường khả năng đáp ứng nhu cầu tin cho đối tượng này. Đây cũng chính là tài liệu tham khảo dùng cho những người làm công tác thông tin - thư viện tại Việt Nam nói chung và những người làm công tác phục vụ người khiếm thị nói riêng tại Việt Nam. 7. Bố cục khóa luận Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phần phụ lục, khóa luận được trình bày trong ba chương: - Chƣơng 1: Những vấn đề chung về người khiếm thị tại Thư viện Hà Nội. - Chƣơng 2: Nhu cầu tin và khả năng đáp ứng nhu cầu tin cho người khiếm thị tại Thư viện Hà Nội. - Chƣơng 3: Một số nhận xét và giải pháp đáp ứng nhu cầu tin của người khiếm thị tại Thư viện Hà Nội. CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGƢỜI KHIẾM THỊ TẠI THƢ VIỆN HÀ NỘI Bàn Thị Năm K52 Thông tin – Thư viện 6
  7. 1.1. Những khái niệm chung 1.1.1. Khái niệm nhu cầu, nhu cầu tin và các khái niệm liên quan 1.1.1.1. Khái niệm nhu cầu Các nhà kinh điển của Chủ nghĩa Mác - Lê Nin thì cho rằng: Nhu cầu là đòi hỏi khách quan của con người với một đối tượng nhất định, trong những điều kiện nhất định, đảm bảo duy trì cho sự sống và sự phát triển của con người. Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam: “Nhu cầu là sự phản ánh một cách khách quan các đòi hỏi về vật chất, tinh thần và xã hội của đời sống con người phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội trong từng thời kì. Nhu cầu hình thành và phát triển trong quá trình lịch sử. Mức độ nhu cầu và phương thức thoả mãn nhu cầu về cơ bản phụ thuộc vào trình độ phát triển của xã hội, trước hết là trình độ phát triển kinh tế”. [21] Nhu cầu là động lực mạnh mẽ thúc đẩy sản xuất và toàn xã hội phát triển. Đặc điểm nhu cầu của các tầng lớp nhân dân được hình thành tuỳ theo địa vị của họ trong nền sản xuất xã hội, tuỳ thuộc vào những đặc trưng về nhân khẩu, chủng tộc, dân tộc về các điều kiện kinh tế, xã hội, tự nhiên. Nhu cầu nảy sinh do kết quả tác động qua lại của hoàn cảnh bên ngoài, trong đó quan trọng nhất là tác động của sản xuất vật chất với các trạng thái riêng của chủ thể. Trong mối quan hệ đó, hoàn cảnh bên ngoài đóng vai trò quyết định. Xã hội càng phát triển, nhu cầu có xu hướng đa dạng, phong phú hơn cả về nội dung đối tượng thỏa mãn và phương thức thỏa mãn. Nhu cầu được hình thành trên cơ sở sự tác động qua lại của hai loại phản xạ: phản xạ có điều kiện và phản xạ không điều kiện. Khi nhu cầu mới xuất hiện, chủ thể chưa nhận thức được những nhu cầu khi được nhận thức sẽ trở thành yếu tố thúc đẩy hoạt động của con người. Trong nhu cầu luôn có sự thống nhất giữa chủ quan và khách quan. Trong đời sống xã hội có nhiều loại nhu cầu tồn tại và phát triển. Tâm lý học Mác xít phân chia nhu cầu thành hai loại cơ bản: Nhu cầu vật chất (nhu cầu ăn, ở, mặc, sinh lý) và nhu cầu tinh thần (nhu cầu nhận thức, thẩm mỹ và nhu cầu giao tiếp). Hai loại nhu cầu này có mối quan hệ biện chứng, chi phối lẫn nhau, trong đó nhu cầu tinh thần là nhu cầu bậc cao, thể hiện trình độ phát triển của con người. Cơ cấu nhu cầu biến động khác nhau theo giai cấp, theo các tầng lớp cư dân, các vùng lãnh thổ, tuỳ theo thời kì phát triển kinh tế - xã hội. Xác định nhu Bàn Thị Năm K52 Thông tin – Thư viện 7
  8. cầu là vấn đề có ý nghĩa rất quan trọng trong việc hoạch định chính sách phát triển kinh tế và quản lí kinh tế. 1.1.1.2. Khái niệm nhu cầu tin Theo quan điểm của tâm lý học Mác xít, có thể coi nhu cầu tin là đòi hỏi khách quan của con người (cá nhân, nhóm, xã hội) đối với việc tiếp nhận và sử dụng thông tin nhằm duy trì hoạt động sống của con người. Khi đòi hỏi về thông tin trở nên cấp thiết thì nhu cầu tin xuất hiện. Nhu cầu tin là một dạng của nhu cầu tinh thần, nhu cầu bậc cao của con người. Nhu cầu tin nảy sinh trong quá trình thực hiện các loại hoạt động khác nhau của con người. Thông tin về đối tượng hoạt động, về môi trường và phương tiện hoạt động là yếu tố quan trọng tạo nên hiệu quả hoạt động của con người. Bất cứ hoạt động nào muốn có kết quả tốt đẹp cũng cần phải có thông tin đầy đủ. Hoạt động càng phức tạp bao nhiều thì nhu cầu được cung cấp thông tin càng cao bấy nhiêu. Có thể nói, nhu cầu tin là yếu tố quan trọng tạo nên động cơ của hoạt động thông tin và thư viện. Vì thế, có thể coi nhu cầu tin là nguồn gốc tạo ra hoạt động thông tin. Nhu cầu tin có vai trò định hướng cho hoạt động thông tin - thư viện, đồng thời luôn biến đổi, phát triển dưới ảnh hưởng của nhiều yếu tố, đặc biệt là ảnh hưởng của môi trường sống và nghề nghiệp của người dùng tin. Nhu cầu tin còn phản ánh sự cần thiết thông tin của một cá nhân/ tập thể trong quá trình thực hiện một hoạt động nào đó. Nhu cầu tin có thể thay đổi tùy theo công việc và nhiệm vụ mà người dùng tin phải thực hiện.Vì thế, nắm vững đặc điểm nhu cầu tin sẽ góp phần định hướng công tác xây dựng và phát triển nguồn tin, nâng cao chất lượng phục vụ. Nhu cầu tin có thể chia làm 3 giai đoạn chủ yếu trong vòng đời của con người: - Nhu cầu tin ở tuổi chưa đến trường: là sự khởi đầu của giao tiếp với môi trường xung quanh. - Nhu cầu tin trong quá trình được đào tạo (phổ thông, đại học và sau đại học) - Nhu cầu tin trong quá trình làm việc Trong thông tin học, người ta chia nhu cầu tin ra thành 3 nhóm chủ yếu. Đó là: Nhu cầu tin cá nhân, nhu cầu tin tập thể và nhu cầu tin cộng đồng. Nhu cầu tin cá nhân là sự phản ánh một phần cụ thể của nhu cầu tin tập thể và nhu cầu tin cộng đồng. Nhu cầu tin của tập thể và cộng đồng không tồn tại bên ngoài hoặc bên cạnh nhu cầu tin cá nhân. Bàn Thị Năm K52 Thông tin – Thư viện 8
  9. Như vậy, từ những quan điểm nêu trên, có thể thấy rằng: Nhu cầu tin là loại nhu cầu tinh thần đặc biệt mang tính khách quan, không phụ thuộc vào ý thức chủ quan của con người và là động lực để thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Các nhu cầu tin của người dùng tin thường nảy sinh khi họ nắm bắt được những kết quả của một lĩnh vực mà họ quan tâm, khi họ cần nắm bắt được các thông tin dữ kiện, những số liệu và phương pháp cần cho công việc của họ. Các nhu cầu tin này thay đổi tuỳ theo bản chất công việc và nhiệm vụ mà người dùng tin phải hoàn thành. 1.1.1.3. Một số khái niệm liên quan đến nhu cầu tin + Yêu cầu tin: Yêu cầu tin là sự thể hiện bằng lời hoặc bằng văn bản một phần nhu cầu tin của người dùng tin đối với hệ thống thông tin tại thời điểm nhất định. Hay nói khác đi, yêu cầu tin là sự biểu hiện cụ thể của nhu cầu tin dưới dạng một loại thông tin nhất định. Trong công tác phục vụ thông tin, chu trình “Nhu cầu tin - yêu cầu tin” xảy ra 2 trường hợp: - Nhu cầu tin trùng khớp với yêu cầu tin (nghĩa là người dùng tin có khả năng diễn đàn đầy đủ nhu cầu tin trong yêu cầu tin). - Yêu cầu tin chỉ phản ánh được một phần (nghĩa là người dùng tin không có khả năng diễn đạt hết nhu cầu tin của mình). Thường trong trường hợp này, người dùng tin phải nhờ sự hỗ trợ của cán bộ. - Trong nhiều trường hợp, nhu cầu tin của người dùng tin cụ thể thường được thể hiện qua các yêu cầu tin cụ thể. Có 4 loại yêu cầu tin chủ yếu: + Thư mục: yêu cầu cung cấp chỉ dẫn các tài liệu về một vấn đề nào đó + Tài liệu: yêu cầu liên quan đến nội dung tài liệu + Dữ kiện: yêu cầu cung cấp số liệu về những dữ kiện cụ thể + Kỹ thuật: yêu cầu tư vấn, môi giới + Sở thích tin: Sở thích tin là nhu cầu tin thể hiện qua ý thức chủ quan của con người. Nhu cầu tin và sở thích tin có sự tương đồng nhưng không thống nhất. Quá trình chuyển hóa nhu cầu tin thành sở thích tin có sự chế định của ý thức chủ quan của mỗi cá nhân. Sở thích tin là nhu cầu tin được biểu thị dưới sắc thái tình cảm. Sở thích tin có vai trò quan trọng trong việc tiếp nhận và sử dụng thông tin của người dùng tin. Sở thích tin có tác dụng định hướng quá trình tìm kiếm và là chất xúc tác nâng cao hiệu quả lĩnh hội thông tin cho mỗi chủ thể. Bàn Thị Năm K52 Thông tin – Thư viện 9
  10. Trong hoàn cảnh khách quan và chủ quan của mỗi con người mối quan hệ giữa nhu cầu tin và sở thích tin cũng có thể xảy ra 2 trường hợp: + Nhu cầu tin trùng khớp với sở thích tin + Sở thích tin chỉ biểu đạt một phần nhu cầu tin Thông qua 2 trường hợp trên có thể thấy rằng: Nếu con người có sở thích tin thì chắc chắn có nhu cầu tin. Nhưng nếu con người có nhu cầu tin thì chưa chắc có sở thích tin. Đây chính là kết luận có ý nghĩa quan trọng đối với các cơ quan thông tin và thư viện trong quá trình phục vụ và đáp ứng thông tin cho các đối tượng người dùng tin. 1.1.2. Khái niệm ngƣời dùng tin Người dùng tin là thuật ngữ dùng phổ biến thay cho bạn đọc, khách hàng. Người dùng tin là cá nhân, nhóm cá nhân, tập thể, cơ quan, tổ chức sử dụng tài liệu và các dịch vụ của thư viện nhằm mục đích học tập, nghiên cứu hoặc giải trí. Người dùng tin là người sử dụng thông tin để thỏa mãn nhu cầu của mình. Người dùng tin là người có nhu cầu tin, là chủ thể của nhu cầu tin. Giá trị của mỗi con người thể hiện ở nhân cách của họ. Người dùng tin là yếu tố cơ bản của mọi hệ thống thông tin. Đó là đối tượng phục vụ của công tác thông tin tư liệu. Người dùng tin vừa là khách hàng của các dịch vụ thông tin, đồng thời họ cũng là người sản sinh ra thông tin mới. Người dùng tin giữ vai trò quan trọng trong các hệ thống thông tin. Họ như là yếu tố tương tác hai chiều với các đơn vị thông tin. Người dùng tin luôn là cơ sở để định hướng các hoạt động của đơn vị thông tin. Người dùng tin tham gia vào hầu hết các công đoạn của dây chuyền thông tin. Họ biết các nguồn thông tin và có thể thông báo hoặc đánh giá các nguồn tin đó. Trong hoạt động thông tin - thư viện, chính sách bổ sung phụ thuộc vào yêu cầu của người dùng tin. 1.1.3. Khái niệm ngƣời khiếm thị Theo Bách khoa toàn thư Wikipedia: “Người khiếm thị là người sau khi được điều trị hoặc điều chỉnh khúc xạ mà thị lực bên mắt tốt vẫn còn từ dưới 3/10 đến trên mức không nhận thức được sáng tối, và bệnh nhân vẫn còn khả năng tận dụng thị lực này để lên kế hoạch và thực thi các hoạt động hàng ngày”. [20] Theo Tiến sĩ Gillian Burrington - nguyên giảng viên chính Khoa Thông tin - Thư viện của Trường Đại học Bách khoa Manchester, người đã viết và điều hành nhiều chương trình tập huấn về công tác quản lý, trong đó có cả vấn đề người khuyết tật cho rằng: “Thuật ngữ khiếm Bàn Thị Năm K52 Thông tin – Thư viện 10
  11. thị dùng để mô tả tình trạng thị lực không thể điều chỉnh bằng kính thuốc hay phẫu thuật. Nó bao gồm những người mắc bệnh thị lực chỉ còn một phần và những người bị mù hoàn toàn. Một số người khiếm thị khó nhìn thấy những vật ngay trước mặt nhưng có thể nhìn thấy những vật trên sàn nhà hoặc ở hai bên, một số người khác lại có thể thấy rõ ràng những vật ngay trước mắt nhưng không thấy gì ở hai bên. Một số trường hợp bệnh lý có thể gây thị lực chỉ nhìn lốm đốm từng vùng, một số bệnh lý khác ảnh hưởng đến sự nhận biết màu sắc hoặc khả năng nhận biết khoảng cách. Cũng có một số người thì rất khó khăn khi gặp ánh nắng chói chang và một số người khác có thể không nhìn thấy gì cả khi gặp ánh sáng yếu”. [8;29] Có thể coi đây là khái niệm hoàn chỉnh nhất, bao quát nhất về người khiếm thị. Khái niệm này cho ta một hình dung về người khiếm thị, cũng như những dạng khiếm thị cụ thể của con người. Như vậy, thông qua các khái niệm, quan điểm nêu trên, chúng ta có thể nhìn nhận rằng: người mù và người khiếm thị là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau bởi người mù hoàn toàn không có khả năng nhận thức sáng tối. Để chỉ chung người khiếm thị và người mù người ta thường dùng thuật ngữ người mù lòa (visually impaired) mà đôi khi còn có tên khác là người suy giảm thị lực. Hay nói khác đi, người khiếm thị không hẳn là người mất hẳn khả năng nhìn. Chẳng hạn, một số người có thị lực chỉ còn một phần vẫn có khả năng đọc sách có kích thước chữ bình thường mà không cần sử dụng bất kỳ dụng cụ phóng to nào. Vì vậy, các thư viện phải chú ý tới hai đối tượng khiếm thị này để phục vụ tốt nhu cầu tin của họ, đặc biệt là các nhu cầu về hình thức tài liệu cũng như thói quen sử dụng các dịch vụ. 1.2. Các yếu tố ảnh hƣởng tới nhu cầu tin của ngƣời khiếm thị 1.2.1. Yếu tố hoàn cảnh lịch sử - xã hội Nhu cầu tin được hình thành và phát triển trong quá trình phát triển của xã hội, chịu ảnh hưởng của điều kiện lịch sử - xã hội cụ thể. Hoàn cảnh lịch sử, xã hội thể hiện trên hai phương diện là chế độ chính trị - xã hội và sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật. Hiện nay, khoa học kỹ thuật càng phát triển thì nhu cầu tin càng phong phú và đa dạng. Đối với người khiếm thị, yếu tố hoàn cảnh lịch sử - xã hội cũng tác động tới nhu cầu tin của họ như những người dùng tin bình thường khác. Trong xã hội hiện đại, khi khoa học và công nghệ phát triển, khi sự công bằng và phúc lợi xã hội được đề cao, người khiếm thị được quan tâm tới đời sống văn hóa tinh thần nhiều hơn thì nhu cầu tin của họ cũng được kích thích, hình thành và phát triển. 1.2.2. Yếu tố nghề nghiệp Bàn Thị Năm K52 Thông tin – Thư viện 11
  12. Nghề nghiệp là hoạt động lao động chủ yếu của con người trong xã hội, đòi hỏi con người cần có kỹ năng, kỹ xảo riêng để đáp ứng yêu cầu của công việc. Đối với người khiếm thị, để nâng cao trình độ, họ luôn có nhu cầu tin đến các thông tin phù hợp với nghề nghiệp của mình. Nghề nghiệp khác nhau để lại những dấu ấn khác nhau trong nội dung nhu cầu tin và tập quán sử dụng thông tin của mỗi người. Lĩnh vực hoạt động nghề nghiệp của người khiếm thị cũng thường chi phối đến nhu cầu tin. 1.2.3. Yếu tố trình độ học vấn Trình độ học vấn có ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống tinh thần của người khiếm thị. Trình độ văn hoá chứng tỏ sự phát triển trong đời sống tinh thần, người hiểu biết càng cao thì nhu cầu đọc càng lớn, nhu cầu thông tin càng sâu và rộng. Đối với người khiếm thị, yếu tố này tác động rất mạnh mẽ, đa phần người khiếm thị đều có trình độ học vấn hạn chế, khả năng tìm kiếm thông tin phục vụ nhu cầu của mình là rất hạn chế. 1.2.4. Yếu tố lứa tuổi Người dùng tin bình thường nói chung và người khiếm thị nói riêng cũng chịu sự tác động của yếu tố này. Tuổi tác có ảnh hưởng đến năng lực nhận thức, tâm lý của con người, do đó nó có ảnh hưởng đến nhu cầu tin của người dùng tin. Người khiếm thị càng lớn tuổi thì nhu cầu tin của họ càng lớn, họ luôn có trong đầu những nhu cầu tin đa dạng, phong phú. 1.2.5. Yếu tố giới tính Đặc điểm về giới tính được hình thành bởi các yếu tố như: Cấu trúc sinh lý, năng lực, tâm lý. Những đặc điểm đó có ảnh hưởng đến nhu cầu tin của con người. Nhu cầu tin của nam giới khác với nữ giới bởi nam giới có tính cách mạnh mẽ, tự tin, thích tìm tòi cái mới theo tư duy logic , còn nữ giới dịu dàng, mềm mại, tế nhị và thích các biểu lộ tình cảm Có thể thấy các đặc điểm giới tính cũng được biểu thị trong các sắc thái nội dung và cách thức thỏa mãn nhu cầu tin của mỗi người. 1.2.6. Yếu tố sở thích cá nhân Sự tác động của môi trường đến mỗi con người không giống nhau, sự tiếp thu của từng người đọc trước tác động của các nhân tố khách quan cũng khác nhau. Bởi vậy sở thích cá nhân khác nhau ở từng người dùng tin khiếm thị cụ thể, dẫn đến nhu cầu tin của mỗi người lại khác nhau. 1.3. Tính chất của nhu cầu tin nói chung và nhu cầu tin của ngƣời khiếm thị nói riêng 1.3.1. Tính xã hội Bàn Thị Năm K52 Thông tin – Thư viện 12
  13. Nhu cầu tin xuất hiện và phát triển dưới ảnh hưởng của các nhân tố xã hội như điều kiện đời sống tinh thần, vật chất và các quan hệ xã hội. Hay nói khác đi nhu cầu tin của con người mang tính xã hội. Xã hội luôn luôn biến động, biến đổi và phát triển không ngừng, nhu cầu tin luôn luôn phản ánh trình độ phát triển của xã hội. Con người sống trong những cộng đồng khác nhau cũng có nhu cầu tin khác nhau. 1.3.2. Tính cơ động Sự thay đổi linh hoạt của nhu cầu tin đồng thời cũng là một biểu hiện về tính cơ động đặc biệt của nó. Nhu cầu tin có thể thay đổi, sinh ra và mất đi trong những điều kiện nhất định. Nhu cầu mất đi khi đối tượng không được đáp ứng hoặc liên tục không được đáp ứng. Có thể nói, cũng như các loại nhu cầu tinh thần khác của con người, nhu cầu tin có tính cơ động cao hơn, dễ biến đổi hơn so với nhu cầu vật chất. 1.3.3. Tính bền vững Nhu cầu tin khi được hình thành sẽ tồn tại trong những điều kiện nhất định và trong khoảng thời gian nhất định. Điều đó có nghĩa là sự bền vững của nhu cầu tin phụ thuộc vào điều kiện bên trong và các yếu tố bên ngoài tác động vào nó, trong đó có yếu tố mức độ thỏa mãn nhu cầu tin. Nhu cầu tin tồn tại và phát triển theo chu kỳ nhất định, nhưng độ dài của chu kỳ nhu cầu tin không bền vững, phụ thuộc khá lớn vào điều kiện bên ngoài, đặc biệt là vào khả năng đáp ứng của môi trường. Nếu được thỏa mãn tới mức tối đa, chu kỳ ngày càng rút ngắn. Nhưng nếu không được thỏa mãn đầy đủ, chu kỳ sẽ kéo dài hơn. 1.4. Khái quát về Thƣ viện Hà Nội 1.4.1. Sơ lƣợc lịch sử hình thành và phát triển Thư viện Hà Nội là một trong những hệ thống thư viện tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Thư viện được thành lập ngày 15/10/1956 với tên gọi ban đầu “Phòng đọc sách nhân dân”. Thư viện đã qua nhiều lần thay đổi địa điểm. Đến tháng 1/1959, thư viện chính thức đóng tại 47 Bà Triệu và mang tên “Thƣ viện nhân dân Hà Nội”, nay là Thư viện Hà Nội. Số lượng cán bộ trong những ngày đầu mới thành lập chỉ có 4 người, với vốn sách nhỏ bé vài ngàn cuốn được chuyển từ kháng chiến về, ngoài ra là một số báo, tạp chí, cơ sở vật chất của thư viện còn nghèo nàn. Tuy nhiên, cán bộ của thư viện đã tìm mọi cách khắc phục khó khăn để từng bước đưa thư viện thành phố Hà Nội đi lên. Bàn Thị Năm K52 Thông tin – Thư viện 13
  14. Trong hoàn cảnh hoà bình vừa lập lại một nửa, đất nước bước vào giai đoạn phục hồi kinh tế, thư viện đã tập trung sách báo phục vụ nhân dân thủ đô, đồng thời chú trọng phát triển mạng lưới các thư viện cơ sở, từ một thư viện thành phố sau này phát triển thêm các thư viện Quận (huyện) phục vụ nhân dân nội và ngoại thành. Đến năm 1973, phòng Thông tin - Thư mục địa chí của Thư viện Hà Nội được thành lập và tổ chức hoạt động với mục đích phục vụ bạn đọc tìm hiểu, nghiên cứu về Thủ đô. Có thể nói, đây là quyết định đúng đắn của thư viện, nó đánh dấu bước ngoặt phát triển mới của hoạt động thư viện Thủ đô. Với mặt bằng khiêm tốn, sau nhiều lần được thành phố đầu tư nâng cấp đến nay công trình tòa nhà của thư viện được đầu tư xây dựng hiện đại, gồm 8 tầng nổi và 1 tầng hầm, cao 29.7m, diện tích sàn 6.161m2 với hệ thống trang thiết bị đồng bộ, phụ trợ tốt cho hoạt động phục vụ người đọc. Sau gần 55 năm hoạt động, Thư viện Hà Nội đã góp phần đáng kể vào sự nghiệp xây dựng, phát triển và bảo vệ thủ đô cũng như “nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”. Vì thế, Thư viện Hà Nội đã vinh dự được Đảng và Nhà nước trao tặng nhiều phần thưởng cao quý như: Huân chương lao động (1991,1996, 2001); Huân chương Độc lập hạng ba (2006), được Thủ tướng Chính phủ tặng Bằng khen ba năm liền (1977, 1978, 1979). Bên cạnh đó, Thư viện Hà Nội cũng được Bộ Văn hóa - Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) và Ủy ban nhân dân (UBND) Thành phố tặng 5 cờ thi đua xuất sắc dẫn đầu (1997, 2000, 2002, 2004 và 2005) và nhiều bằng khen khác. Thư viện đang lưu giữ một kho tàng thư tịch khá đồ sộ của Thủ đô và nhân loại, nhiều loại hình tài liệu cho người sáng và người khiếm thị; có phòng tra cứu, phòng địa chí về Thăng Long - Hà Nội. Năm 2008, Quốc hội thông qua Nghị quyết điều chỉnh mở rộng địa giới hành chính Thủ đô Hà Nội. Với hơn 3.300 km2, Hà Nội được lọt vào hàng ngũ các thành phố, thủ đô có diện tích lớn nhất thế giới. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng khẳng định: "Việc mở rộng địa giới hành chính vừa bảo đảm không gian cho Hà Nội phát triển bền vững trong giai đoạn trước mắt cũng như trong tương lai lâu dài, vừa tạo điều kiện cho Hà Nội phát triển toàn diện, xứng đáng là trung tâm đa chức năng là yêu cầu cấp thiết hiện nay”. Vì vậy, từ ngày 1/8/2009, Thư viện Hà Nội chính thức được hợp nhất với Thư viện tỉnh Hà Tây. Hiện tại, thư viện có 2 cơ sở: 47 Bà Triệu (Quận Hoàn Kiếm) và 2B Quang Trung (Quận Hà Đông). Bàn Thị Năm K52 Thông tin – Thư viện 14
  15. Thư viện Hà Nội là thư viện công cộng lớn nhất của Thủ đô, trung tâm thông tin văn hóa, giáo dục quan trọng của thành phố, là trung tâm đầu ngành của mạng lưới thư viện ở Thủ đô. Trải qua hơn nửa thế kỷ xây dựng và trưởng thành, thư viện đã không ngừng lớn mạnh, xứng đáng là địa chỉ văn hóa quen thuộc và đáng tin cậy cho bạn đọc Thủ đô và cả nước. Cũng vì lẽ đó mà Thư viện Hà Nội có vị trí đặc biệt, vì thế nên được quy định chức năng và nhiệm vụ vô cùng quan trọng. 1.4.2. Chức năng và nhiệm vụ Thư viện Hà Nội có những chức năng chủ yếu như sau: - Thư viện là trung tâm thu thập, tàng trữ, luân chuyển các loại hình sách báo, tài liệu về tất cả mọi lĩnh vực phục vụ bạn đọc Hà Nội. - Thư viện đồng thời là trung tâm nghiên cứu địa chí về Hà Nội. Đây là công tác đặc thù, thư viện tiến hành thu thập, lưu trữ, tổ chức, bảo quản và phục vụ bạn đọc các tài liệu địa chí từ nhiều nguồn khác nhau. - Thư viện biên soạn và phổ biến các loại thư mục, nhất là thư mục địa chí nhằm phục vụ tích cực các nhu cầu nghiên cứu, tìm hiểu về Thủ đô và phục vụ đắc lực cho sự phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội của Thủ đô, cũng như của đất nước. Đặc biệt, Thư viện Hà Nội còn là trung tâm hướng dẫn nghiệp vụ cho thư viện cơ sở trên địa bàn Hà Nội. Thư viện kiểm tra và thường xuyên mở các lớp tập huấn bồi dưỡng nghiệp vụ, nâng cao trình độ cán bộ thư viện cơ sở trên địa bàn nhằm đẩy mạnh phong trào đọc sách của nhân dân địa phương. Với những chức năng nêu trên, để thực hiện công tác điều hành, hoạt động, thư viện có các nhiệm vụ như sau: - Thư viện Hà Nội có nhiệm vụ thỏa mãn nhu cầu đọc sách, nghiên cứu, giải trí của đông đảo bạn đọc Hà Nội. Cung cấp cho cán bộ lãnh đạo nhà nước, các nhà nghiên cứu, sản xuất và nhân dân Thủ đô những thành tựu khoa học tiến bộ của nhân loại. - Tuyên truyền, giới thiệu tài liệu cho bạn đọc, tổ chức hướng dẫn bạn đọc đọc những tài liệu bổ ích, có giá trị và loại bỏ những nhu cầu đọc không lành mạnh. Bàn Thị Năm K52 Thông tin – Thư viện 15
  16. - Thu thập, xử lý, phân loại, lưu trữ các di sản văn hóa thành văn, các loại bản đồ, bản nhạc, tài liệu nghe nhìn và các dạng tài liệu khác. Bảo quản và bổ sung các loại hình sảch báo cũ và mới xuất bản trong nước, cũng như ngoài nước, phù hợp với đặc điểm và phương pháp phát tiển kinh tế, văn hóa của địa phương, phục vụ nhu cầu nghiên cứu, góp phần nâng cao kiến thức văn hóa cho quần chúng. - Không ngừng phổ biến, tuyên truyền các thành tựu khoa học công nghệ. Tổ chức luân chuyển sách báo, thường xuyên tiến hành soạn thảo các thư mục sách mới. - Thường xuyên tổ chức các lớp đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn và nghiệp vụ cho các cán bộ cơ quan và hướng dẫn nghiệp vụ cho thư viện cơ sở. - Nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác thư viện. 1.4.3. Cơ cấu tổ chức và đội ngũ cán bộ - Về cơ cấu tổ chức: Hiện tại Thư viện Hà Nội được cơ cấu như sau: Ban giám đốc, Hội đồng khoa học và 5 phòng là: Phòng Hành chính - Tổng hợp, Phòng Bổ sung và xử lý kỹ thuật, Phòng tin học, Phòng Địa chí và Thông tin thư mục (TTTM), Phòng Phục vụ bạn đọc (PVBĐ), Phòng Nghiệp vụ và Phong trào cơ sở (NV&PTCS). 5 phòng nêu trên chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Ban giám đốc Thư viện Hà Nội. Khi có bất cứ thông tin gì liên quan đến kỹ thuật, nghiệp vụ, phục vụ người dùng tin, Ban giám đốc sẽ chuyển thông báo xuống các phòng ban để triển khai về cho phòng mình. Đối với các phòng như: Báo - Tạp chí, Đọc tổng hợp, Mượn, Khiếm thị, Thiếu nhi và Đọc chuyên biệt thuộc khối Phòng Phục vụ bạn đọc. Các phòng thuộc khối phục vụ bạn đọc sẽ chịu trách nhiệm hỗ trợ lẫn nhau mỗi khi có những công việc liên quan như. Minh họa dưới đây, cho ta thấy các quan hệ chỉ đạo (với mũi tên ), quan hệ phối hợp (với mũi tên ) giữa các phòng ban trong Thư viện Hà Nội. Hội đồng khoa học Ban giám đốc Bàn Thị Năm K52 Thông tin – Thư viện 16
  17. P. Hành chính - P. Bổ sung và xử P. Tin P. Địa chí P. P. Tổng hợp lý kỹ thuật học và TTTM PVBĐ NV&PTCS P. Báo P. Đọc P. P. P. P. Đọc chuyên biệt - Tạp chí tổng hợp Mượn Khiếm thị Thiếu nhi - Về đội ngũ cán bộ: Hiện nay thư viện có 69 cán bộ. Trong đó có 50 cán bộ thuộc diện biên chế, 19 cán bộ thuộc diện hợp đồng. Trình độ đội ngũ cán bộ cụ thể như sau: STT Trình độ Số lƣợng 1. Tiến sỹ 01 2. Thạc sỹ 04 3. Đại học ngành thông tin - thư viện 46 4. Đại học ngành công nghệ thông tin 07 5. Đại học ngành ngoại ngữ 01 6. Đại học ngành khác 03 7. Trung cấp 01 8. Chưa qua đào tạo 06 Có thể thấy, đội ngũ cán bộ của Thư viện Hà Nội đều là những người có trình độ cao. Thư viện thường xuyên chú trọng đến việc nâng cao trình độ cho cán bộ như: cử cán bộ đi học cao học về thông tin - thư viện, cử cán bộ đi học các lớp đào tạo về tiếng Anh, Tin học, hoặc cử đi trao đổi, học tập ở các cơ sở trong và ngoài nước. 1.4.4. Đặc điểm cơ sở vật chất Năm 2008, trụ sở 47 Bà Triệu được khánh thành và đi vào hoạt động gồm 8 tầng nổi và 1 tầng hầm, cao 29,7m, diện tích sàn 6.161m2 với hệ thống trang thiết bị đồng bộ, phụ trợ tốt cho hoạt động phục vụ người đọc. Với trụ sở mới, cơ sở vật chất của thư viện được đồng bộ hơn. Hệ thống phòng phục vụ của thư viện bao gồm: - Phòng đọc báo và tạp chí có 50 chỗ ngồi - Phòng đọc mở có 350 chỗ ngồi Bàn Thị Năm K52 Thông tin – Thư viện 17
  18. - Phòng đọc sách ngoại văn có 40 chỗ ngồi - Phòng đọc địa chí và thông tin thư mục có 10 chỗ ngồi - Phòng đọc thiếu nhi có 30 chỗ ngồi - Phòng đọc khiếm thị có 20 chỗ ngồi Về trang thiết bị, thư viện hiện có các loại máy móc như: máy hút bụi, máy hút ẩm, máy điều hòa, hệ thống tự động phòng chống hỏa hoạn, các trang thiết bị về ánh sáng, quạt thông gió. Tất cả các trang thiết bị này đều được trang bị ở tất cả các phòng. Về ứng dụng công nghệ thông tin, thư viện có khoảng 40 máy tính dùng cho cán bộ thư viện lưu trữ cơ sở dữ liệu, phục vụ bạn đọc tra cứu tài liệu và truy cập Internet. Thư viện trang bị 4 máy in, trong đó có 3 máy in lazer và một máy in kim phục vụ việc in văn bản, in phích, nhập worksheet, xây dựng và quản lý cơ sở dữ liệu. Thư viện hiện đang sử dụng phần mềm Libol thống nhất ở hai cơ sở. Bên cạnh đó, thư viện còn có 8 máy điện thoại, 2 máy photocopy phục vụ sao in tài liệu cho bạn đọc có nhu cầu. Từ năm 2005, thư viện tiến hành nối mạng Internet phục vụ bạn đọc và xây dựng trang Web của thư viện, tuy nhiên ở thời điểm này, trang Web vẫn còn nghèo nàn. 1.4.5. Đặc điểm nguồn lực thông tin Về nguồn tài liệu truyền thống, thư viện có hơn 600.000 cuốn sách, 450 loại báo và tạp chí trong và ngoài nước. Về nguồn tài liệu điện tử, thư viện đã tạo lập 6 cơ sở dữ liệu với hơn 174.000 biểu ghi. Về tài liệu địa chí, thư viện hiện đang lưu giữ 13.510 tài liệu địa chí Hà Nội (trong đó có 154 cuốn sách tiếng Pháp, 68 cuốn sách tiếng Anh). Mảng tài liệu địa chí nhiều nhất là tiếng Việt với 7.759 cuốn có các tài liệu đặc biệt quý hiếm như: - Hương ước: 475 bản - Thư tịch Hán Nôm: 850 cuốn - Văn bia Hà Nội: trên 1682 bản - Bản đồ: 55 tờ - Báo, tạp chí về Hà Nội đóng bìa: 1263 cuốn - Bên cạnh đó, thư viện đã hoàn thiện và cho ra mắt “Tủ sách Thăng Long” với 1159 tài liệu đúng dịp Đại lễ 1000 năm Thăng Long - Hà Nội. Về tài liệu phục vụ người khiếm thị, thư viện hiện có nguồn lực như sau: Bàn Thị Năm K52 Thông tin – Thư viện 18
  19. - Với tài liệu chữ nổi, thư viện có 2531 cuốn và thường xuyên tiến hành đặt Thành hội người mù Hà Nội sản xuất với giá thành: 3000đ/trang. Tính bình quân 01 trang sách tương đương 04 trang chữ nổi. - Với nguồn sách nói, thư hiện có 70 đĩa CD-ROM, 1911 cuộn băng cassette bằng hình thức thư viện tự sản xuất và thông qua nguồn biếu tặng. Trong hai năm chuyển trụ sở sang Thành cổ nên đã không sản xuất tiếp và không có kinh phí hoạt động. 1.5. Vai trò của việc nghiên cứu nhu cầu tin nói chung và nhu cầu tin của ngƣời khiếm thị nói riêng 1.5.1. Vai trò của nghiên cứu nhu cầu tin của ngƣời dùng tin nói chung Hệ thống thông tin muốn đạt được hiệu quả kinh tế và khoa học thì phải nghiên cứu kỹ nhu cầu tin của người dùng tin. Việc nghiên cứu nhu cầu tin của người dùng tin nói chung có ý nghĩa và vai trò hết sức quan trọng, bởi các lý lẽ sau: - Giúp các thư viện tạo ra nguồn tin phù hợp với từng đối tượng người dùng tin, từng mức độ người dùng tin. - Nghiên cứu nhu cầu tin để các thư viện tổ chức xây dựng các sản phẩm thông tin, dịch vụ thông tin, thiết kế mối quan hệ thông tin, hệ thống thông tin và xây dựng các công cụ thông tin tương ứng phù hợp với từng đối tượng người dùng tin để đảm bảo cho hệ thống thông tin đạt kết quả cao. - Việc nghiên cứu nhu cầu còn giúp thư viện xây dựng chương trình đào tạo người dùng tin, đảm bảo cho họ có những kiến thức sâu rộng về thông tin và sử dụng thành thạo các phương tiện hiện đại. 1.5.2. Vai trò của nghiên cứu nhu cầu tin của ngƣời khiếm thị Như đã trình bày ở trên, người khiếm thị là một trong những đối tượng đặc biệt, họ bị hạn chế ở nhiều mặt. Cụ thể là: Họ luôn có tâm lý mặc cảm, vì vậy họ ngại giao tiếp. Do hạn chế về thị lực nên việc đi lại đối với họ là rất khó khăn. Hơn nữa, cũng chính vì khiếm thị nên họ không tự mình tìm tòi, quan sát để tìm ra những phương pháp tra cứu, tìm tài liệu thích hợp và có hiệu quả. Mặt khác, sự hạn chế trong giao lưu và hoạt động xã hội của họ cũng chính là rào cản để họ nảy sinh nhu cầu thông tin. Vì vậy, hơn đối tượng người dùng tin khác, thư viện tiến hành nghiên cứu nhu cầu tin của họ có vai trò và ý nghĩa vô cùng to lớn. Chính việc nghiên cứu nhu cầu tin của người khiếm thị là thể hiện sự quan tâm của xã hội, cộng đồng, là nguồn động viên họ nảy sinh nhu cầu tin, tiếp cận tri thức của nhân loại, nâng cao chất lượng cuộc sống về văn hóa, tinh thần cho người khiếm thị, giúp họ hòa nhập với cộng đồng dễ dàng Bàn Thị Năm K52 Thông tin – Thư viện 19
  20. hơn, giúp họ tự tin trong cuộc sống, góp phần cống hiến vào sự phát triển chung của đất nước, của cộng đồng. Ngoài ra, việc nghiên cứu nhu cầu tin của người khiếm thị là vô cùng cần thiết và quan trọng, nó giúp các thư viện thực hiện các nhiệm vụ sau: - Trên cơ sở thực trạng nhu cầu tin của người khiếm thị để xây dựng chiến lược bổ sung tài liệu, chuyển dạng tài liệu để tạo ra nguồn tài liệu, nguồn tin ngày càng phong phú cho người khiếm thị, giúp họ gắn bó hơn và hòa nhập hơn với cộng đồng. - Nghiên cứu nhu cầu tin của người khiếm thị sẽ nắm bắt được thói quen tra cứu, sử dụng tài liệu, khả năng khai thác tri thức trong tài liệu để các thư viện xây dựng các sản phẩm và cải tiến dịch vụ phục vụ người khiếm thị ngày càng tốt hơn. Đồng thời, học hỏi kinh nghiệm và sáng kiến của các thư viện khác trong việc phục vụ người khiếm thị. - Việc nghiên cứu nhu cầu còn giúp thư viện xây dựng chương trình đào tạo người khiếm thị, giúp họ nắm bắt được nhiều hơn, mở mang trình độ kiến thức và năng lực của bản thân. - Nghiên cứu nhu cầu tin của người khiếm thị để nâng cao hiệu quả hoạt động của thư viện và góp phần triển khai Luật “Người khuyết tật” mới được Quốc hội thông qua đi vào cuộc sống thực tiễn. CHƢƠNG 2. NHU CẦU TIN VÀ KHẢ NĂNG ĐÁP ỨNG NHU CẦU TIN CỦA NGƢỜI KHIẾM TẠI THƢ VIỆN HÀ NỘI 2.1. Khái quát về ngƣời khiếm thị tại Việt Nam nói chung và Thủ đô Hà Nội nói riêng 2.1.1. Khái quát về ngƣời khiếm thị tại Việt Nam Theo thống kê của Bộ Lao động - Thương binh và xã hội năm 2010, cả nước 1 triệu người bị đa khuyết tật. Tham khảo các báo cáo kết quả điều kiều của Bộ Lao động - Thương binh và xã hội và các tài liệu khảo sát có liên quan, ta có thể thấy thực trạng về người tàn tật trong đó có người khiếm thị ở Việt Nam có thể được phản ánh như sau: Các dạng tật chủ yếu: Nguồn: [8;50] Dạng Vận động Thị giác Thính giác Ngôn ngữ Trí tuệ Thần kinh Tỉ lệ 35.46% 15.70% 9.21% 7.92% 9.11% 13.93% Nguyên nhân của các dạng tật : Nguồn: [8;51] Tỉ lệ % so ngƣời tàn tật TT Nguyên nhân Tỉ lệ Nam Nữ Bàn Thị Năm K52 Thông tin – Thư viện 20
  21. 1. Bẩm sinh 34.15% 30.44% 40.61% 2. Bệnh tật 35.75% 29.75% 46.11% 3. Tai nạn lao động 1.98% 2.36% 1.32% 4. Tai nạn giao thông 5.52% 6.75% 3.38% 5. Tai nạn chiến tranh 19.07% 27.07% 5.14% 6. Nguyên nhân khác 3.55% 3.63% 3.44% Qua bảng thống kê trên, có thể thấy người tàn tật cơ quan vận động chiếm tỉ lệ cao nhất (chiếm 35.46%), sau đó là thị giác (chiếm 15.70%) và thần kinh (chiếm 13.93%). Nguyên nhân dẫn tới tàn tật là do: bẩm sinh (chiếm 34.15%), bệnh tật (chiếm 35.75%) và tai nạn chiến tranh (chiếm 19.07%). Riêng với nguyên nhân tai nạn chiến tranh thì tỉ lệ nam tàn tật cao hơn nữa. Nói về hiện trạng người tàn tật có liên quan tới mắt: Theo thống kê của Bộ Lao động - Thương binh và xã hội, có khoảng 5.1 triệu người có khuyết tật về mắt, chiếm khoảng 6% dân số. Trong xã hội cũ, người tàn tật nói chung và người khiếm thị nói riêng bị đặt ra ngoài lề xã hội, trên 95% bị mù chữ, đa đa số chỉ sống với nghề hát xẩm, tẩm quất, hoặc lang thang ăn xin ở các bến tàu, bến xe. Từ sau Cách mạng Tháng Tám đến nay, nhờ được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, sự dìu dắt của Hội Người mù nên đời sống của người khiếm thị cơ bản được thay đổi. Hội người mù Việt Nam từ khi ra đời đã xây dựng được tổ chức ở 43 tỉnh, thành phố và 365 Quận (huyện). Với chức năng chăm sóc mọi mặt tinh thần và đời sống vật chất cho hội viên, Hội người mù Việt Nam đã tổ chức nhiều lớp dạy chữ, dạy nghề cho hội viên làm cho trình độ học vấn của hội viên ngày càng được nâng cao. Bên cạnh đó, người khuyết tật nói chung và người khiếm thị Việt Nam nói riêng rất vui mừng khi được Đảng, Nhà nước quan tâm tới các chính sách hỗ trợ cho mình. Việc ban hành Pháp lệnh về người tàn tật đã cho thấy rõ điều này. Hiện nay, có rất nhiều chính sách và biện pháp của Chính phủ Việt Nam được thực hiện để hỗ trợ người khiếm thị, cải thiện mức sống và tăng cường việc hội nhập xã hội. Đặc biệt, có thể kể đến chính sách đảm bảo của các cơ quan, xí nghiệp phải sử dụng tối thiểu 2% lực lượng lao động của mình là người khuyết tật. Tính đến năm 2010 đã có hơn 400 cơ sở sản xuất, kinh doanh lần lượt sử dụng hơn 20.000 người khuyết tật. Chính phủ đã có quy định về tiêu chuẩn xây dựng, bảo đảm cho người khuyết tật phải tiếp cận được. Bàn Thị Năm K52 Thông tin – Thư viện 21
  22. Trong lĩnh vực giáo dục, Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng đã có chỉ thị cho việc áp dụng các chương trình và cơ sở giáo dục hội nhập, các chương trình giáo dục bán hội nhập và đặc biệt dành sự quan tâm cho đối tượng người khiếm thị. Chữ Braille cũng được tuyên bố là ngôn ngữ chính thức trong trường phổ thông và sách giáo khoa bằng chữ nổi cũng đã được Bộ Giáo dục và Đào tạo in ấn. 2.1.2. Khái quát về ngƣời khiếm thị tại Thủ đô Hà Nội Tại Hà Nội, theo số liệu thống kê của Thành hội người mù, số lượng người khiếm thị của Thủ đô là 12.000 người trên tổng số 60.052 hội viên cả nước (số liệu: 12/2010). Họ bị khiếm thị do nhiều nguyên nhân nhưng chủ yếu là bị bẩm sinh, do tai nạn, hoặc do chi chứng của chiến tranh hoặc do bệnh tật như: bệnh đục thuỷ tinh thể (chiếm 57.1%); các bệnh bán phần sau nhãn cầu (chiếm 13.6%); bệnh glôcôm và teo nhãn cầu (chiếm 9.8%) Bên cạnh việc làm kinh tế gia đình bằng chăn nuôi trồng trọt, hay làm những công việc để mưu sinh như xoa bóp, sản xuất tăm chổi .Người khiếm thị ở Hà Nội đã được dạy chữ, dạy nghề và được tạo điều kiện để thu nhập ngày càng tăng lên. Tuy vậy, đặc điểm đời sống của người khiếm thị nhìn chung còn nghèo, việc tìm đến sách để thỏa mãn nhu cầu của mình còn gặp nhiều khó khăn, mặc dù nhu cầu tiếp cận của họ vô cùng phong phú. Về trình độ học vấn, họ có trình độ ngày càng cao. Số lượng người có trình độ trung học cơ sở đến sau đại học chiếm đa số (khoảng 25 - 30%). Toàn Thành hội người mù Hà Nội có khoảng 40 người có trình độ đại học. Theo số liệu thống kê chưa đầy đủ, trên địa bàn Hà Nội có khoảng 600 người có nhu cầu thường xuyên đọc sách báo, trên 100 người có khả năng truy cập Internet. Những con số này cho thấy một lượng cầu không nhỏ đối với công tác phục vụ cộng đồng người khiếm thị của các thư viện công cộng trên địa bàn. 2.2. Đặc điểm nhu cầu tin của ngƣời khiếm thị tại Thƣ viện Hà Nội Với số lượng bạn đọc khiếm thị tăng lên theo từng năm cùng với sự tăng trưởng kinh tế, phát triển về văn hóa, sự tăng nhanh và phong phú các xuất bản phẩm và các công tác tuyên truyền giới thiệu sách báo đã tạo điều kiện để nhu cầu tin tăng lên. Để có cơ sở khoa học cho việc nắm bắt đặc điểm nhu cầu tin của người khiếm thị của Thư viện Hà Nội, tác giả đã tiến hành điều tra 110 người khiếm thị thông qua phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi, kết hợp với phương pháp phỏng vấn sâu. - Số phiếu phát ra: 110 phiếu - Số phiếu thu về: 110 phiếu (Tỉ lệ 100%) Bàn Thị Năm K52 Thông tin – Thư viện 22
  23. - Số lượng các câu hỏi trong phiếu điều tra: 11 câu và đề cập tới những nội dung chính sau: + Quý độc giả tiếp cận tới vốn tài liệu thư viện với mục đích gì? + Quý vị thường dành bao nhiêu thời gian cho việc đọc tài liệu? + Quý độc giả có nhu cầu đọc tài liệu có nội dung thuộc lĩnh vực nào? + Quý vị thường có nhu cầu sử dụng loại hình tài liệu nào dưới đây? + Quý vị có nhu cầu sử dụng tài liệu bằng hình thức nào? + Ngôn ngữ tài liệu quý vị có nhu cầu sử dụng? + Vốn tài liệu của thư viện phục vụ cho Quý vị như thế nào? + Quý vị thường tìm được tài liệu thông qua hình thức nào dưới đây? + Quý vị có nhu cầu được thư viện hướng dẫn tìm tin? + Theo quý vị, thái độ phục vụ của cán bộ thư viện như thế nào? + Quý vị cho biết mức độ cần ưu tiên cho các giải pháp trong thời gian tới của thư viện? Và dưới đây, tác giả sẽ lần lượt làm rõ đặc điểm nhu cầu tin của người khiếm thị tại Thư viện Hà Nội. Trước tiên là bảng tổng hợp đặc điểm lứa tuổi và trình độ học vấn của người khiếm thị Thủ đô Hà Nội thông qua phiếu khảo sát. Bảng 1: Đặc điểm lứa tuổi và trình độ văn hóa của người khiếm thị Trình độ học vấn Lứa tuổi Mù Tiểu Sau Tỉ lệ THCS THPT ĐH chữ học ĐH Dưới 18 tuổi 0 0 10 0 0 0 10 9.09% Từ 18 đến 25 tuổi 2 7 8 8 2 1 28 25.45% Từ 26 đến 45 tuổi 2 8 10 18 8 0 46 41.82% Bàn Thị Năm K52 Thông tin – Thư viện 23
  24. Từ 46 đến 60 tuổi 3 5 9 3 2 0 22 20% Trên 60 tuổi 2 2 0 0 0 0 4 3.64% Tổng cộng 9 22 37 29 12 1 110 100% Như vậy phân theo nhóm sẽ là: - Nhóm người dưới 18 tuổi chiếm 9.09% - Nhóm người từ 18 đến 25 tuổi chiếm 25.45% - Nhóm người từ 26 đến 45 tuổi chiếm 41.82% - Nhóm người từ 46 đến 60 tuổi chiếm 20% - Nhóm người trên 60 tuổi chiếm 3.64% Thông qua bảng khảo sát, có thể thấy ở các lứa tuổi khác nhau sẽ có các trình độ học vấn khác nhau. Lứa tuổi có trình độ học vấn cao nhất là lứa tuổi từ 26 đến 45 tuổi (chiếm 41.82%). Điều này có thể giải thích rằng đây là lứa tuổi chiếm đa số ở các cơ sở người mù hiện nay, xu hướng những người trẻ bị khiếm thị cũng đang gia tăng bởi trước khi bị khiếm thị, họ phải thực hiện nhiều công việc nguy hiểm có liên quan trực tiếp đến mắt, hoặc do bị tai nạn nghiêm trọng 2.2.1. Mục đích sử dụng tài liệu * Với lứa tuổi dƣới 18 tuổi: Tác giả tiến hành nghiên cứu 10 người dùng tin của Thư viện Hà Nội là học sinh trường PTCS Nguyễn Đình Chiểu. Mặc dù trường PTCS Nguyễn Đình Chiểu có thư viện riêng nhưng số lượng tài liệu còn nghèo nàn và Thư viện Hà Nội đôi lúc “chưa chú trọng” đến đối tượng này. Bảng 2: Mục đích sử dụng tài liệu của lứa tuổi dưới 18 tuổi Trình độ Mục đích SL học vấn Học tập Nghiên cứu Công việc Giải trí THCS 10 10 100% Kết quả điều tra cho thấy: 100% có số người được hỏi đều sử dụng tài liệu với mục đích học tập. Điều này chỉ ra rằng: Ở lứa tuổi này, nhu cầu tiếp cận tri thức là rất cao, và hầu hết tri thức này đều nằm trong sách giáo khoa, sách tham khảo và thông qua kiến thức thầy cô giảng trên lớp. Lứa tuổi dưới 18 là lứa tuổi đến trường, không phải chỉ có người khiếm thị mới có nhu cầu học tập, mà cả những người bình thường ở độ tuổi này đều có nhu cầu “làm chủ” tri thức để phục vụ các công việc trong tương lai của mình. Một nghiên cứu đã chỉ ra rằng: Trẻ em Việt Nam ngày nay được hưởng nền giáo dục tốt hơn. Khoảng 95% trẻ trong độ tuổi đi học được đến trường. Các cơ hội tăng cường sự tham gia của trẻ em ngày càng được mở rộng. Việt Bàn Thị Năm K52 Thông tin – Thư viện 24
  25. Nam ngày càng quan tâm tới việc xây dựng môi trường an toàn và lành mạnh cho mọi trẻ em cũng như ngăn ngừa và đẩy lùi các nguy cơ xâm hại trẻ em. Cách tiếp cận dựa trên các quyền cơ bản của trẻ em ngày càng được chú trọng. * Với lứa tuổi từ 18 đến 25 tuổi: Kết quả phiếu điều tra được tổng hợp sau: Bảng 3: Mục đích sử dụng tài liệu của lứa tuổi từ 18 đến 25 tuổi Trình độ Mục đích SL học vấn Học tập Nghiên cứu Công việc Giải trí Mù chữ 2 2 100% Tiểu học 7 4 57.14% 3 42.86% THCS 8 8 100% 4 50% 2 25% 2 25% THPT 8 8 100% 4 50% 4 50% 4 50% Đại học 2 2 100% 1 50% 1 50% 1 50% Sau ĐH 1 1 100% Qua kết quả điều tra cho thấy: + 100% người có trình độ văn hóa mù chữ tiếp cận tới tài liệu với mục đích học tập. Điều này có thể hiểu rằng: Họ chưa được tiếp cận tới tri thức nên việc tìm đến tài liệu để học tập, nâng cao hiểu biết và coi sách trở thành “người bạn” là điều tất yếu. + Những người có trình độ Tiểu học tiếp cận tới tài liệu với mục đích học tập (chiếm 57.14%), mục đích nghiên cứu (chiếm 42.86%). Có thể thấy, việc họ tiếp cận tài liệu với mục đích trên là vô cùng hợp lý để thỏa mãn nhu cầu nâng cao tri thức và sự hiểu biết. + Những người có trình độ Trung học cơ sở tiếp cận tài liệu với mục đích học tập (chiếm 100%), mục đích nghiên cứu (chiếm 50%), mục đích công việc (chiếm 25%), mục đích giải trí (chiếm 25%). Việc có sự đồng đều này là do họ còn trẻ nên mục đích sử dụng tài liệu phục vụ cho việc tìm hiểu, nghiên cứu toàn diện là cần thiết và hợp lý. + Những người có trình độ Trung học phổ thông và Đại học là đối tượng có mục đích sử dụng tài liệu giống nhau. 100% họ tiếp cận tới tài liệu để học tập, 50% với mục đích nghiên cứu, giải trí và công việc. Những đối tượng này có trình độ cao nên khả năng tổng hợp, phân tích tài liệu, chọn lọc sách cũng có quy củ và khoa học. + Đối tượng có trình độ Sau đại học nghiên cứu tài liệu với mục đích học tập. Điều này càng chứng tỏ: Dù học cao đến đâu nhưng khả năng của con người tiếp cận với thế giới tri Bàn Thị Năm K52 Thông tin – Thư viện 25
  26. thức vẫn là nhỏ bé. Học tập và tìm hiểu sâu các lĩnh vực khoa học vẫn là nhiệm vụ suốt đời để tránh cho con người không bị lạc hậu. * Với lứa tuổi từ 26 đến 45 tuổi: Kết quả phiếu điều tra được tổng hợp như sau: Bảng 4: Mục đích sử dụng tài liệu của lứa tuổi từ 26 đến 45 tuổi Mục đích Trình độ SL Học tập Nghiên cứu Công việc Giải trí Mù chữ 2 2 100% 1 50% Tiểu học 8 7 87.5% 2 25% 1 12.5% THCS 10 7 70% 5 50% 4 40% 4 40% THPT 18 15 83.33% 15 83.33% 6 33.33% 4 22.22% Đại học 8 7 87.5% 7 87.5% 7 87.5% 7 87.5% Kết quả điều tra cho thấy: + 100% người có trình độ học vấn mù chữ ở lứa tuổi này tiếp cận tới tài liệu với mục đích học tập, trong số đó có 50% tiếp cận với mục đích nghiên cứu. Điều này có thể là “quá sức” với họ nhưng việc nghiên cứu để từ đó áp dụng vào thực tế cuộc sống là minh chứng sự hữu ích của tài liệu đối với người dùng tin. + Những người có trình độ tiểu học tiếp cận tới tài liệu chủ yếu với mục đích học tập (chiếm 87.5%). + Những người có trình độ trung học cơ sở tiếp cận tài liệu chủ yếu cũng với mục đích học tập (chiếm 70%), mục đích nghiên cứu (chiếm 50%), mục đích công việc (chiếm 40%), mục đích giải trí (chiếm 40%). + Những người có trình độ trung học phổ thông chiếm Tỉ lệ cao nhất ở lứa tuổi này, họ sử dụng tài liệu với mục đích học tập (chiếm 83.33%), mục đích nghiên cứu (chiếm 83.33%), mục đích công việc (chiếm 33.33%), mục đích giải trí (chiếm 22.22%). + Những người có trình độ đại học tiếp cận tới tài liệu với tất cả các mục đích: học tập, nghiên cứu, giải trí và công việc. Đây là những đối tượng có trình độ cao và có nhu cầu tìm hiểu tài liệu để tăng cường mức độ nắm bắt thông tin ở các lĩnh vực. Bàn Thị Năm K52 Thông tin – Thư viện 26
  27. * Với lứa tuổi từ 46 đến 60 tuổi: Bảng 5: Mục đích sử dụng tài liệu của lứa tuổi từ 46 đến 60 tuổi Mục đích Trình độ SL Học tập Nghiên cứu Công việc Giải trí Mù chữ 3 3 100% Tiểu học 5 3 60% 2 40% 1 20% THCS 9 3 33.33% 8 88.89% 2 22.22% 3 33.33% THPT 3 2 66.67% 2 66.67% 2 66.67% 1 33.33% Đại học 2 2 100% 1 50% 1 50% 1 50% Kết quả điều tra cho thấy: + 100% người có trình độ văn hóa mù chữ ở lứa tuổi này tiếp cận tới tài liệu với mục đích giải trí. + Những người có trình độ tiểu học tiếp cận tới tài liệu chủ yếu với mục đích học tập (chiếm 60%). Có thể thấy nhu cầu nâng cao hiểu biết có họ là vẫn cần thiết, không chỉ phục vụ cho mình mà còn cho những người trong gia đình mình. + Những người có trình độ trung học cơ sở tiếp cận tài liệu chủ yếu với mục đích nghiên cứu (chiếm 88.89%). + Những người có trình độ đại học tiếp cận tài liệu với mục đích học tập (chiếm 100%). Họ say mê với học tập để nâng cao trình độ hiểu biết và khả năng giải thích những hiện tượng của xã hội. Điều này càng chứng tỏ “Tri thức là quyển sách không trang cuối cùng”. * Với lứa tuổi trên 60: Qua kết quả điều tra cho thấy: 100% đối tượng người khiếm thị trên 60 tuổi sử dụng tài liệu với mục đích giải trí. Điều này lý giải rằng: Ở độ tuổi này, khi không còn vướng bận tới công việc, hay những lo lắng trong đời sống, họ thường có nhu cầu nghỉ ngơi và việc tìm tới tài liệu để giải trí là vô cùng cần thiết. Bảng 6: Mục đích sử dụng tài liệu của lứa tuổi trên 60 Mục đích Trình độ SL Học tập Nghiên cứu Công việc Giải trí Mù chữ 2 2 100% Bàn Thị Năm K52 Thông tin – Thư viện 27
  28. Tiểu học 2 2 100% 2.2.2. Thời gian dành cho việc sử dụng tài liệu Bảng tổng hợp kết quả điều tra xác định thời gian dành cho việc sử dụng tài liệu như sau: Bảng 7a: Thời gian dành cho việc sử dụng tài liệu của người khiếm thị Thời gian dành cho việc sử dụng tài liệu Lứa tuổi SL Không có Từ 1h - 2h Từ 2h - 3h Dưới 18 tuổi 10 1 10% Từ 18 đến 25 tuổi 28 1 3.57% 7 25% 3 10.71% Từ 26 đến 45 tuổi 46 4 8.70% 13 28.26% 5 10.87% Từ 46 đến 60 tuổi 22 6 27.27% 3 13.64% Trên 60 tuổi 4 1 25% Bảng 7b: Thời gian dành cho việc sử dụng tài liệu của người khiếm thị Thời gian dành cho việc sử dụng tài liệu Lứa tuổi SL Từ 3h - 4h Từ 4h trở lên Dưới 18 tuổi 10 8 80% 1 10% Từ 18 đến 25 tuổi 28 10 35.72% 7 25% Từ 26 đến 45 tuổi 46 20 43.47% 4 8.70% Từ 46 đến 60 tuổi 22 8 36.36% 5 22.73% Trên 60 tuổi 4 2 50% 1 25% Qua kết quả nêu trên có thể thấy: Với mỗi lứa tuổi khác nhau thì thời gian dành cho việc sử dụng tài liệu cũng khác nhau và đa số đối tượng người khiếm thị được hỏi đều dành từ 3h - 4h cho việc đọc tài liệu. Cụ thể: + Lứa tuổi dưới 18 chiếm 80%, chiếm đa số bởi vì lứa tuổi này là lứa tuổi ham hiểu biết và muốn khám giá. + Lứa tuổi từ 18 đến 25 tuổi chiếm 35.72% + Lứa tuổi từ 26 đến 45 tuổi chiếm 43.47% + Lứa tuổi từ 46 đến 60 tuổi chiếm 36.36% + Lứa tuổi trên 60 chiếm 50%, chiếm vị trí thứ hai bởi đây là lứa tuổi nghỉ ngơi, thư giãn với con cháu ở gia đình. Bàn Thị Năm K52 Thông tin – Thư viện 28
  29. Tóm lại, thông qua các kết quả trên, có thể giải thích rằng: người khiếm thị là những người hạn chế trong việc đi lại, nên việc dành nhiều thời gian cho đọc tài liệu là vô cùng cần thiết đối với họ. Sách báo và tài liệu khác thật sự là công cụ cần thiết đối với người khiếm thị. 2.2.3. Thói quen tra cứu của ngƣời khiếm thị Thói quen tra cứu tài liệu để phục vụ nhu cầu của mình đã có sự phân hóa rõ rệt theo lứa tuổi của người khiếm thị Bảng 8: Thói quen tra cứu tài liệu của người khiếm thị Nhu cầu tìm tài liệu Lứa tuổi SL Nhờ cán bộ thƣ Nhờ ngƣời sáng Tự tìm tài liệu viện (bạn bè) Dưới 18 tuổi 10 10 100% Từ 18 đến 25 tuổi 28 16 57.14% 14 50% 3 10.71% Từ 26 đến 45 tuổi 46 21 45.65% 25 54.35% 9 19.57% Từ 46 đến 60 tuổi 22 12 54.55% 9 40.91% 3 25% Trên 60 tuổi 4 4 100% Qua bảng số liệu trên có thể thấy: + Những người có độ tuổi dưới 18 chủ yếu nhờ tới người sáng (có thể là bạn bè) (chiếm 100%).Ở lứa tuổi này, học sinh được học hòa nhập với người sáng nên việc nhờ bạn bè, người sáng tìm tài liệu sao cho nhanh chóng và chính xác nhất là nhu cầu cần thiết. + Những người có độ tuổi từ 18 đến 25 thường từ tìm tài liệu chủ yếu thông qua việc thư viện gửi danh mục sách tới các cơ sở người mù (chiếm 57.14%). Có thể được lý giải rằng: Họ còn trẻ và khả năng cảm nhận, nắm bắt thông tin rất nhanh nhạy và nhạy bén. Họ có thể tự tìm tài liệu cho bản thân mình mà không cần đến những người khác. + Những người có độ tuổi từ 26 đến 45 thường từ tìm tài liệu chủ yếu thông qua việc nhờ cán bộ thư viện (chiếm 54.35%). + Những người có độ tuổi từ 46 đến 60 thường từ tìm tài liệu chủ yếu thông qua việc thư viện gửi danh mục sách tới các cơ sở người mù (chiếm 57.14%). Điều này có thể lý giải rằng: Lứa tuổi này là lứa tuổi trung niên, thời gian rảnh rỗi của họ nhiều hơn, họ có thể chủ động định hướng nhu cầu đọc của mình và tự lựa chọn được những nội dung tài liệu phù hợp với lứa tuổi của họ. Tuy nhiên, cũng phải kể đến khoảng 40.91% số người cũng nhờ tới sự định hướng của cán bộ thư viện. Bàn Thị Năm K52 Thông tin – Thư viện 29
  30. + Những người có độ tuổi trên 60 chủ yếu nhờ tới cán bộ thư viện (chiếm 100%). Có thể là do họ đã lớn tuổi, khả năng cảm nhận, nắm bắt không còn được nhạy bén và cần phải có sự trợ giúp của những người xung quanh. 2.2.4. Nhu cầu về nội dung tài liệu * Với lứa tuổi dƣới 18: Qua quá trình khảo sát, chúng ta có thể thấy nội dung tài liệu mà lứa tuổi này quan tâm là không nhiều. Thông qua quá trình khảo sát bằng phiếu điều tra, tác giả tổng hợp được nhu cầu tin của lứa tuổi này như sau: Bảng 9: Nội dung tài liệu của lứa tuổi dưới 18 tuổi Nội dung tài liệu Trình SL Giáo dục Bảo vệ độ Văn hóa Lịch sử Văn học giới tính sức khỏe THCS 10 8 80% 10 100% Với kết quả trên, 100% số người được hỏi đều có nhu cầu đọc các tài liệu liên quan tới văn học; 80% có nhu cầu đọc các tài liệu liên quan tới lịch sử. Thông qua việc phỏng vấn sâu một số đối tượng, tác giả được biết: Ngoài những nội dung lĩnh vực nêu trên, lứa tuổi này còn có nhu cầu sử dựng tài liệu thuộc lĩnh vực khoa học tự nhiên (chiếm 75%) và khoa học ứng dụng (chiếm 15%) .hay những tài liệu, những cuốn truyện cười trong những thời gian nhàn rỗi với mục đich giải trí. Những tài liệu với mục đích học tập nêu trên chủ yếu thông qua sách giáo khoa, sách tham khảo, sách ôn luyện và kiến thức của thầy cô trên lớp thông qua hoạt động giảng dạy. Có thể thấy, đây là đối tượng đang tuổi đến trường, nên việc lựa chọn và sử dụng tài liệu đôi lúc cũng gặp khó khăn. * Với lứa tuổi từ 18 đến 25 tuổi: Ta có bảng tổng hợp kết quả như sau: Bảng 10: Nội dung tài liệu của lứa tuổi từ 18 đến 25 tuổi Nội dung tài liệu Trình độ SL Giáo dục Bảo vệ Văn hóa Lịch sử Văn học giới tính sức khỏe Mù chữ 2 2 100% Tiểu học 7 3 42.86% 2 28.57% 2 28.57% 1 14.29% THCS 8 3 37.5% 5 62.5% 4 50% 5 62.5% 3 37.5% THPT 8 4 50% 5 62.5% 4 50% 7 87.5% 5 62.5% Đại học 2 1 50% 1 50% 1 50% 1 50% 2 100% Bàn Thị Năm K52 Thông tin – Thư viện 30
  31. Sau ĐH 1 1 100% Ta nhận thấy rằng: Ở lứa tuổi này, người khiếm thị trẻ với những trình độ khác nhau sẽ có nhu cầu đọc và chọn sách khác nhau. Tuy nhiên, có thể thấy rằng: + Những người có trình độ học vấn trung học cơ sở thường có nhu cầu đọc những loại tài liệu nói về bảo vệ sức khỏe (chiếm 62.5%), lịch sử (chiếm 62.5%), giáo dục giới tính (chiếm 37.5%), văn học (chiếm 37.5%). Điều này có thể lý giải rằng: Họ có nhu cầu ở tất cả các lĩnh vực, có nghĩa là muốn vươn đến tri thức toàn diện để có thể nhận biết và giải quyết những vấn đề phát sinh trong quá trình sống và làm việc. + Những người có trình độ học vấn trung học phổ thông trở lên thường có nhu cầu sử dụng tài liệu thuộc về lĩnh vực Văn học và Lịch sử. Điều này có thể lý giải rằng: Họ là những người có trình độ văn hóa cao nên khả năng tiếp nhận tài liệu, phân tích và tổng hợp thông tin phục vụ mục đích của mình là vô cùng cần thiết. * Với lứa tuổi từ 26 đến 45 tuổi: Ta có bảng tổng hợp kết quả như sau: Bảng 11: Nội dung tài liệu của lứa tuổi từ 26 đến 45 tuổi Nội dung tài liệu Trình độ SL Giáo dục Bảo vệ Văn hóa Lịch sử Văn học giới tính sức khỏe Mù chữ 2 2 100% 1 50% 1 50% Tiểu học 8 2 25% 2 25% 2 25% 2 25% THCS 10 6 60% 6 60% 3 30% 6 60% 5 50% THPT 18 14 77.77% 14 77.77% 7 38.88% 11 61.11% 9 50% Đại học 8 6 75% 7 87.5% 6 75% 5 62.5% 6 75% Ta nhận thấy rằng: + Với những người có trình độ mù chữ, họ chủ yếu sử dụng tài liệu về nội dung văn hóa (chiếm 100%), nội dung lịch sử và văn học (đều chiếm 50%) + Với những người có trình độ học vấn trung học phổ thông và Đại học, từ mục đích sử dụng tài liệu kể trên thì nội dung đọc cũng có độ bao quát nhất định ở các lĩnh vực. Đối với trình độ trung học phổ thông, họ có nhu cầu lớn nhất ở nội dung đọc các tài liệu về giáo dục giới tính (chiếm 77.77%), bảo vệ sức khỏe (chiếm 77.77%). Bàn Thị Năm K52 Thông tin – Thư viện 31
  32. * Với lứa tuổi từ 46 đến 60 tuổi: Ta có bảng tổng hợp kết quả như sau: Bảng 12: Nội dung tài liệu của lứa tuổi từ 46 đến 60 tuổi Nội dung tài liệu Trình độ SL Giáo dục Bảo vệ Văn hóa Lịch sử Văn học giới tính sức khỏe Mù chữ 2 2 100% 1 50% 1 50% Tiểu học 7 2 28.57% 3 42.86% 1 14.29% THCS 8 4 50% 7 87.5% 6 75% 3 37.5% 2 25% THPT 8 2 25% 3 37.5% 1 12.5% 2 25% 2 25% Đại học 2 1 50% 1 50% 1 50% 1 50% 2 100% Kết quả cho thấy với mục đích sử dụng tài liệu như trên thì nội dung đọc tài liệu chủ yếu thuộc các lĩnh vực như bảo vệ sức khỏe (chiếm 100% với trình độ mù chữ), lĩnh vực văn hóa (chiếm 42.86% với trình độ tiểu học), lĩnh vực bảo vệ sức khỏe (chiếm 87.5% với trình độ trung học cơ sở; chiếm 37.5% với trình độ trung học phổ thông), lĩnh vực văn học (chiếm 100% với trình độ đại học). * Với lứa tuổi trên 60: Như phân tích ở trên, việc tiếp cận tài liệu với mục đích giải trí chiếm 100% nên nội dung đọc thường liên quan tới lĩnh vực bảo vệ sức khỏe hay những tác phẩm văn học của Việt Nam hoặc nước ngoài (chiếm 100%). Bảng 13: Nội dung tài liệu của lứa tuổi trên 60 Nội dung tài liệu Trình độ SL Giáo dục Bảo vệ Văn hóa Lịch sử Văn học giới tính sức khỏe Mù chữ 2 2 100% Tiểu học 7 7 100% 7 100% 2.2.5. Nhu cầu về ngôn ngữ tài liệu Kết quả phân tích phiếu điều tra đã cho thấy: 92.73% đối tượng người khiếm thị ở các trình độ học vấn có nhu cầu sử dụng tài liệu được viết bằng tiếng Việt. Trong khi đó, có 13.64% số người khiếm thị có nhu cầu sử dụng tài liệu được viết bằng tiếng Anh, còn lại 3.64% có nhu cầu sử dụng tài liệu bằng ngôn ngữ tiếng Nga và tiếng Trung. Điều này chứng tỏ tiếng Việt vẫn thông dụng nhất đối với người khiếm thị. Chính vì vậy khi chuyển dạng tài liệu, Thư viện Hà Nội cần lựa chọn số lượng tài liệu tiếng Việt là chủ yếu. Bảng 14: Nhu cầu về ngôn ngữ tài liệu cần sử dụng Bàn Thị Năm K52 Thông tin – Thư viện 32
  33. Trình độ học vấn Ngôn ngữ Mù Tiểu Tỉ lệ THCS THPT ĐH Sau ĐH chữ học Tiếng Anh 0 2 4 6 2 1 13.64% Tiếng Nga 0 0 0 1 0 0 0.91% Tiếng Pháp Tiếng Việt 9 21 33 27 12 0 92.73% Tiếng Trung 0 0 3 0 0 0 2.73% Khác 2.2.6. Nhu cầu về loại hình tài liệu Đây chính là “công cụ” để họ có thể tiếp cận tới tri thức. Có nhiều sản phẩm thông tin - thư viện để họ tiếp cận, tuy nhiên, những sản phẩm chính mà người khiếm thị hay sử dụng nhất chủ yếu là sách chữ nổi (chiếm 86.4%). Bảng 15: Nhu cầu về sử dụng loại hình tài liệu căn cứ trên lứa tuổi Loại hình tài liệu Tỉ lệ Sách chữ nổi 80.4% Sách chữ đại 0 Sách nói 19.6% Thư mục 0 Điều này có thể hiểu rằng: Đây chính là sản phẩm thông dụng nhất mỗi khi ta nhắc tới người khiếm thị. Bên cạnh đó, trong thời điểm hiện nay, khi công nghệ nội dung đang phát triển thì việc tiến hành số hóa tài liệu thành nhiều dạng giúp bạn đọc tiếp cận cũng đang được chú ý. Kết quả khảo sát cũng cho thấy 63.6% người khiếm thị cũng lựa chọn hình thức sử dụng sách nói. 2.2.7. Nhu cầu về hình thức phục vụ Đây là đặc điểm có thể phân chia được theo lứa tuổi. Bởi đây là một trong những nhu cầu của đại đa số các trình độ văn hóa. Qua bảng tổng hợp ở dưới, chúng ta có thể thấy dù ở lứa tuổi nào thì họ cũng đều có nhu cầu phục vụ bằng hình thức thư viện lưu động Từ 18-25 tuổi: 50%; Từ 26-45 tuổi: 43.48%; Từ 46-60 tuổi: 50%; Trên 60 tuổi: 75%. Riêng đối với đối tượng dưới 18 tuổi thì 100% người khiếm thị ở độ tuổi này có nhu cầu phục vụ bằng hình thức mượn về nhà. Bàn Thị Năm K52 Thông tin – Thư viện 33
  34. Bảng 16: Nhu cầu về hình thức phục vụ của người khiếm thị Hình thức phục vụ Lứa tuổi SL Đọc Mƣợn Nơi TV lƣu động tại chỗ về nhà khác Dưới 18 tuổi 10 1 10% 10 100% Từ 18 đến 25 tuổi 28 6 21.43% 9 32.14% 14 50% Từ 26 đến 45 tuổi 46 8 17.40% 19 41.30% 20 43.48% Từ 46 đến 60 tuổi 22 3 13.64% 9 40.91% 11 50% Trên 60 tuổi 4 1 25% 1 25% 3 75% Điều này có thể lý giải rằng: Người khiếm thị hạn chế về đi lại nên việc đưa tài liệu tới tay họ để họ sử dụng trực tiếp tại cơ sở Hội người mù là việc làm cần thiết và hợp lý. Khi tài liệu tới tay cơ sở Hội người mù, thông qua các câu lạc bộ nghe băng đọc báo họ sẽ được tiếp cận tới tài liệu thường xuyên thông qua các đợt luân chuyển sách của thư viện. Đối với các em học sinh dưới 18 tuổi, do điều kiện không cho phép nên việc sử dụng hình thức mượn về nhà chiếm ưu thế. Các em khiếm thị tại trường PTCS Nguyễn Đình Chiểu được ở trong những khu ký túc xá nên việc mượn tài liệu về nhà dường như là giải pháp tối ưu hơn các hình thức nêu trên. Trên đây là đặc điểm nhu cầu tin của người khiếm thị tại Thư viện Hà Nội thông qua 110 phiếu điều tra nhu cầu. Tuy nhiên, nếu xét tổng thể tất cả những đối tượng người dùng tin khác mà Thư viện Hà Nội đang phục vụ thì đây là đối tượng chiếm số lượng không cao, nhưng để làm tốt chức năng của thư viện là thư viện công cộng phục vụ mọi tầng lớp nhân dân thì Thư viện Hà Nội cũng phải chú trọng và nâng cao chất lượng để nhằm tạo cho bạn đọc sự thích thú và “đem ánh sáng tri thức” phục vụ tốt hơn cho họ. Thông tin nói chung đều đóng vai trò hết sức quan trọng trong đời sống của con người, kể cả người khiếm thị. Sự tiếp nhận thông tin của họ khó khăn hơn nhiều lần so với người bình thường. Họ tiếp nhận thông tin dưới hai hình thức: nghe và đọc. Chính vì thế, thông tin (hay nói cụ thể hơn là sách, báo) có vai trò hết sức quan trọng đối với người khiếm thị. Qua sách báo, họ có thể tiếp nhận thông tin để học tập, lao động, vui chơi giải trí, tạo cho họ có điều kiện hòa nhập cộng đồng. 2.3. Khả năng đáp ứng thông tin cho ngƣời khiếm thị tại Thƣ viện Hà Nội Để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người khiếm thị, các cơ sở người mù tại Thành hội và Quận (huyện) hội đã thành lập và xây dựng các câu lạc bộ văn nghệ, câu lạc bộ thường Bàn Thị Năm K52 Thông tin – Thư viện 34
  35. xuyên nghe băng đọc báo. Nhưng nhìn chung, nhiệm vụ trọng tâm của các cơ quan, tổ chức, Thành hội người mù Hà Nội và các Quận (huyện) hội vẫn là tập trung chăm lo giải quyết đời sống vật chất cho hội viên. Trước năm 2000, các hình thức đáp ứng thông tin, nhu cầu tin của người khiếm thị là hạn chế, tuy không có con số thống kê chính xác nhưng cũng có thể thấy khả năng đáp ứng không được cao: - Các nhà xuất bản không sản xuất bất kỳ loại tài liệu nào dành cho người khiếm thị và hầu như không tham gia vào việc thỏa mãn nhu cầu của đối tượng này. - Hội người mù Việt Nam chỉ có một tờ báo “Đời mới” hoạt động trên 30 năm. Dự án thư viện chữ nổi cho người mù Việt Nam ngoài việc cung cấp sách báo cho độc giả mượn và đọc tài liệu tại chỗ còn có nhiệm vụ biên soạn, in sách bằng chữ nổi và sản xuất sách nói những số lượng không nhiều và chất lượng không tốt. - Hệ thống trường Nguyễn Đình Chiểu, cho đến trước năm 2000, chủ yếu xuất bản và lưu hành “nội bộ” sách chữ nổi, chủ yếu là sách giáo khoa phục vụ học sinh khiếm thị. Sách tham khảo, sách văn hóa, giải trí thông thường rất ít và hầu như không có. Hình thức xuất bản thực chất là chuyển từ sách giáo khoa. - Các tổ chức và cá nhân từ thiện cũng có những chương trình và dự án phục vụ người khiếm thị, tuy nhiên thời gian hoạt động không thường xuyên. Nhìn chung, trước năm 2000, việc cung cấp thông tin và thỏa mãn nhu cầu tin của người khiếm thị là vô cùng hạn chế. Nhận thức được tầm quan trọng của việc đưa “ánh sáng tri thức” tới người khiếm thị, thư viện khiếm thị của Thư viện Hà Nội đã ra đời và ngay lập tức trở thành sự kiện đối với người khiếm thị, góp phần đáng kể vào việc đáp ứng nhu cầu tìm hiểu, cải thiện đời sống văn hoá, giáo dục cho người khiếm thị. Đặc biệt là năm 2000 khi quỹ FORCE hợp tác với Thư viện Hà Nội trong việc tăng cường tiếp cận thông tin cho người khiếm thị, công tác đáp ứng cho người khiếm thị ngày càng có nhiều khởi sắc. Từ khi ra đời đến nay, để giúp người khiếm thị có thể khai thác tối đa nguồn tin, thư viện đã tiến hành tạo dựng và làm phong phú các loại hình sản phẩm và dịch vụ. - Sản phẩm thông tin - thư viện gồm có: sách chữ nổi, băng sách nói, các loại đĩa CD- VCD, máy đọc Victor Reader, máy nhược thị và các bản thư mục bằng chữ Braille. - Dịch vụ thông tin - thư viện gồm có: đọc tại chỗ, mượn về nhà, phục vụ lưu động. Như đã đề cập ở trên, người khiếm thị có nhu cầu tin hết sức đa dạng và phong phú. Vấn đề đáp ứng nhu cầu tin cho người khiếm thị luôn là bài toán đặt ra cho Ban giám đốc. Để Bàn Thị Năm K52 Thông tin – Thư viện 35
  36. đánh giá được khả năng đáp ứng của thư viện tới nhu cầu tin của người khiếm thị, chúng tôi đã nghiên cứu bốn vấn đề quan trọng, đó là: mức độ đáp ứng về thông tin tài liệu, mức độ đáp ứng về trang thiết bị - cơ sở vật chất, mức độ đáp ứng các sản phẩm cho người khiếm thị và mức độ đáp ứng các dịch vụ cho người khiếm thị 2.3.1. Mức độ đáp ứng về thông tin tài liệu 2.3.1.1. Về sách nói - CD-ROM: Số lượng 70 đĩa - Băng cassette: 1911 băng bằng hình thức thư viện tự sản xuất và thông qua nguồn biếu tặng. Trong hai năm chuyển trụ sở sang Thành cổ nên đã không sản xuất tiếp và không có kinh phí hoạt động. Tuy nhiên, đến năm 2010 khi tiếp nhận trụ sở mới, Thư viện Hà Nội đã thí điểm chuyển dạng từ đĩa sang băng, tiết kiệm được kinh phí và cũng góp phần đáp ứng được nhu cầu những người thích nghe băng. Dự kiến đến hết năm 2011, thư viện sẽ chuyển dạng toàn bộ số đĩa đã sản xuất sang băng để phục vụ cho người khiếm thị. 2.3.1.2. Về sách chữ nổi Thư viện hiện có 2531 cuốn và thường xuyên tiến hành đặt Thành hội người mù Hà Nội sản xuất với giá thành: 3000đ/trang. Tính bình quân 01 trang sách tương đương 04 trang chữ nổi. Nội dung kho tài liệu chữ nổi: Chủ yếu là các tác phẩm văn học cổ điển và hiện đại của Việt Nam và thế giới (chiếm 60%), các tài liệu thuộc các lĩnh vực lịch sử trong và ngoài nước (chiếm 10%), văn hóa (chiếm 15%) và giáo dục giới tính (chiếm 15%). Năm 2010, quỹ ADB đã tài trợ cho phòng khiếm thị 51 cuốn sách chữ Braille bằng tiếng Anh. Tuy nhiên, do nên những tài liệu bằng tiếng nước ngoài không được đưa ra cho bạn đọc sử dụng, mặc dù nhu cầu của bạn đọc muốn được đọc những tài liệu này là tương đối cao (chiếm 13.6%). 2.3.2. Mức độ đáp ứng về trang thiết bị - cơ sở vật chất Ngay từ khi ra đời thư viện khiếm thị, Thư viện Hà Nội đã chú trọng đầu tư trang thiết bị và cơ sở vật chất để đáp ứng việc người khiếm thị tới thư viện sử dụng tài liệu. Bàn Thị Năm K52 Thông tin – Thư viện 36
  37. Về cơ sở vật chất, Thư viện đã dành một phòng rộng 50m2 tại tầng một và một khu nhỏ tại tầng hai (dùng chung với phòng Báo - Tạp chí) để phục vụ bạn đọc tới thư viện. Về trang thiết bị, tháng 11/2008, Quỹ FORCE đã tài trợ cho thư viện một Studio sản xuất sách nói cho người khiếm thị. Bao gồm: - 1 phòng thu chuyên dụng, gồm 2 phòng: phòng thu và phòng xử lý bảo đảm tiêu chuẩn cách âm, nhiệt độ. - 2 máy tính với phần mềm chuyên dụng: Sound Forge, Nuendo 3 - 1 đầu sao chép đĩa chuyên dụng - 1 bộ thu âm chuyên dụng: mixer, mic, loa đạt tiêu chuẩn - 2 máy Victor Reader Bên cạnh đó, thư viện đã đầu tư thêm loa, tai nghe cho cán bộ xử lý. Với Studio này, thư viện đã làm đĩa để phục vụ bạn đọc mượn về nhà. Trong thời gian tới, nếu Studio vận hành tốt thì thư viện sẽ chuyển tải các file vào Ipod theo yêu cầu của bạn đọc, hoặc xây dựng thư viện sách nói trên website của thư viện, hoặc có thể trao đổi tài liệu với các địa phương khác trong toàn quốc để tăng cường vốn tài liệu, tiết kiệm kinh phí. 2.3.3. Mức độ đáp ứng về các sản phẩm cho ngƣời khiếm thị Các sản phẩm cho người khiếm thị mà thư viện đang tiến hành phục vụ gồm: sách chữ nổi, sách nói, các loại đĩa CD-VCD, máy đọc Victor Reader, máy nhược thị và các bản thư mục bằng chữ Braille. Tuy nhiên, thư viện chưa xây dựng được hoàn chỉnh hệ thống tra cứu tin – một trong những sản phẩm thông tin quan trọng cho người khiếm thị. Để thuận tiện cho việc sử dụng tài liệu, thư viện đã tiến hành biên soạn danh mục sách để bạn đọc tra cứu. Danh mục này được biên soạn dưới cả hai dạng: dạng giấy và dạng file mềm. Với dạng file mềm, danh mục sẽ được gửi qua Email tới các cơ sở Hội người mù để người khiếm thị lựa chọn tài liệu. Người khiếm thị sẽ download về, dùng phần mềm hỗ trợ như JAWS, Saomai để đọc. Danh mục này thường được gửi trước mỗi lần luân chuyển sách của thư viện. Với dạng giấy, sau khi hoàn chỉnh danh mục sách, cán bộ thư viện sẽ in ra và để tại phòng đọc của thư viện. Khi bạn đọc tới thư viện, cán bộ sẽ nêu lên danh mục sách mới để bạn đọc nghe và lựa chọn tài liệu. Danh mục này là chữ sáng nên rất bất tiện trong việc người khiếm thị tiếp cận. 2.3.4. Mức độ đáp ứng về các dịch vụ cho ngƣời khiếm thị Bàn Thị Năm K52 Thông tin – Thư viện 37
  38. Hiện tại, thư viện đang phục vụ các loại dịch vụ cho người khiếm thị như sau:  Với dịch vụ phục vụ tại chỗ thông qua đọc - mượn: Hình thức được đánh giá là chu đáo và tận tình. Cán bộ thư viện trực tiếp trao đổi với bạn đọc xem họ có nhu cầu gì: nghe băng/đĩa hay đọc sách chữ nổi. Nếu cần thiết, cán bộ thư viện sẵn sàng ngồi kể chuyện hay tóm tắt câu chuyện, cuốn sách, hoặc trao đổi với người khiếm thị về sách báo và những vấn đề mà họ quan tâm. Số lượng thẻ mượn tính đến năm 2010 là 200 thẻ. Bình quân trong một năm có khoảng 2400 lượt bạn đọc. Từ năm 2006 đến năm 2008, với điều kiện làm việc xa trung tâm, thư viện chỉ tổ chức cho mượn, không có chỗ triển khai phòng đọc tại chỗ cho người khiếm thị. Đây là những lý do ảnh hưởng đến số lượng bạn đọc và lượng sách luân chuyển. Số lượng bạn đọc đến thư viện và lượt luân chuyển sách giảm 2/3. Khi chuyển sang trụ sở mới từ năm 2010, mặc dù đã có phòng khang trang, thuận tiện cho việc đi lại, nhưng số lượng bạn đọc tới thư viện không nhiều. Thông qua quan sát cho thấy, chủ yếu người khiếm thị tới mượn tài liệu về nhà, còn việc đọc tại chỗ dường như không tồn tại. Điều này có thể giải thích rằng: trong quá trình sang trụ sở mới, thư viện chưa liên hệ và quảng bá rộng rãi việc phục vụ trở lại này cho bạn đọc khiếm thị thông qua Hội người mù các cơ sở nên hầu hết người khiếm thị đều chưa biết được rằng thư viện đã tiến hành phục vụ đọc tại chỗ trở lại.  Với dịch vụ phục vụ lưu động: Một trong những khó khăn đối với người khiếm thị là việc đi lại, đặc biệt là tình trạng giao thông như hiện nay. Để giúp bạn đọc khắc phục khó khăn này, bắt đầu từ năm 2010, thư viện duy trì việc phối hợp với Thành hội người mù Hà Nội bằng cách luân chuyển sách xuống các cơ sở người mù (15 cơ sở - 3/2011). Bình quân khoảng một quý, thư viện tiến hành xuống đổi sách một lần. Tuy nhiên, trước khi sách được luân chuyển xuống cơ sở người mù, thư viện sẽ tiến hành biên soạn danh mục các sách sẽ luân chuyển trong quý để cơ sở người mù và độc giả khiếm thị lựa chọn sách. Việc lựa chọn và xác định số sách có nhu cầu sẽ được thực hiện qua thư điện tử. Tùy vào số hội viên, khả năng đọc và yêu cầu của bạn đọc mà cán bộ thư viện sẽ lựa chọn và cân đối tài liệu cho từng tủ sách. Có những đơn vị được nhận 8 tên sách/1 lần phục vụ (tương đương 50 cuốn, đối với cơ sở của hội viên đọc tốt), hoặc 4-5 tên sách/1 lần phục vụ (tương đương 30 cuốn đối với các cơ sở có hội viện đọc khá). Bên cạnh việc phục vụ đọc sách, thư viện còn cùng với Thành hội Người mù Hà Nội hàng tháng, hàng quý tổ chức các buổi nói chuyện chuyên đề về “Kinh tế thế giới”, “Thời sự Bàn Thị Năm K52 Thông tin – Thư viện 38
  39. quốc tế”, “Khả năng của người mù” giúp cho người khiếm thị có nhiều điều kiện nghe và trực tiếp tiếp xúc với các nhà văn, nhà thơ, các chuyên gia trong nhiều lĩnh vực, giúp họ mở rộng thêm kiến thức và sự hiểu biết về khoa học xã hội. Chính những hoạt động đáp ứng tài liệu nêu trên, bằng nhiều hình thức khác nhau đã giúp người khiếm thị thêm gắn bó với tài liệu và tiếp nhận được những thông tin hữu ích một cách dễ dàng. Tuy nhiên, để có thể đáp ứng tốt về tài liệu, thư viện đã tiến hành thực hiện công việc bổ sung tài liệu (cả sách chữ nổi và sách nói) căn cứ vào nhu cầu và yêu cầu của người khiếm thị. Thông qua các hình thức trao đổi với người khiếm thị và việc luân chuyển tài liệu xuống các cơ sở, thư viện đã có thể nắm bắt được nhu cầu của họ. Sau khi đã có đủ các thông số cần thiết, cán bộ thư viện sẽ tùy vào kinh phí để đặt mua các tài liệu mới. Công tác bổ sung tài liệu chủ yếu gặp khó khăn ở vấn đề kinh phí. Kết quả điều tra 110 người khiếm thị đánh giá về mức độ đáp ứng tài liệu tại thư viện và thái độ phục vụ của cán bộ thư viện như sau: * Về thái độ phục vụ của cán bộ thƣ viện: Tác giả cũng đã tham khảo ý kiến nhận xét của người khiếm thị về thái độ phục vụ của cán bộ thư viện đối với việc phục vụ người khiếm thị. Kết quả như sau: Bảng 17: Đánh giá thái độ phục vụ người khiếm thị của cán bộ thư viện Thái độ Số lƣợng Tỉ lệ Rất nhiệt tình 54 người 49.10% Nhiệt tình 36 người 32.72% Chưa nhiệt tình 20 người 18.18% Qua kết quả đánh giá nêu trên, chúng ta thấy 49.10% số người được hỏi đánh giá thái độ phục vụ của cán bộ thư viện là nhiệt tình, 32.72% đánh giá nhiệt tình và 18.18% đánh giá chưa nhiệt tình. Mặc dù thư viện đã và đang cố gắng hết sức để đáp ứng tốt hơn người khiếm thị nhưng đội ngũ nhân sự nòng cốt phục vụ người khiếm thị của thư viện còn quá mỏng (1 PGĐ phụ trách, 1 kỹ sư tin học, 1 CBTV kiêm nhiệm) nên việc thỏa mãn người khiếm thị mới chỉ đáp ứng được phần nào. Bàn Thị Năm K52 Thông tin – Thư viện 39
  40. CHƢƠNG 3. MỘT SỐ NHẬN XÉT VÀ GIẢI PHÁP ĐÁP ỨNG NHU CẦU TIN CỦA NGƢỜI KHIẾM THỊ TẠI THƢ VIỆN HÀ NỘI 3.1. Một số nhận xét 3.1.1. Ƣu điểm: Thư viện đã đáp ứng được nhu cầu tin của người khiếm thị ở một số mặt quan trọng. Cụ thể: - Thư viện đã chú trọng và cải tiến công tác phục vụ bạn đọc khiếm thị, từ việc phục vụ tại chỗ thông qua đọc - mượn đến việc tổ chức phục vụ lưu động đến các cơ sở người mù, giúp người khiếm thị trở nên thân thiết hơn với thư viện. Nhiều bạn đọc khiếm thị đã có nhiều năm gắn bó với Thư viện Hà Nội như: bác Bùi Văn Biềng, cô Nguyễn Thị Hiệp, cô Ngô Thị Phượng, chị Đào Thu Hương, anh Nguyễn Việt Anh - Thư viện đáp ứng có hiệu quả nhu cầu sử dụng tài liệu của người khiếm thị thông qua hình thức luân chuyển lưu động làm cho guồng quay của tài liệu không “chết” trong thư viện. Bên cạnh đó, thư viện đã thực hiện quá trình đáp ứng thông tin cho người khiếm thị phù hợp với nhu cầu tin của họ. Các tài liệu văn học chiếm một số lượng lớn trong thư viện, cũng đồng thời là nhu cầu cần thiết của người khiếm thị. - Công tác sản xuất sách nói được thực hiện hàng năm, đảm bảo cho người khiếm thị liên tục được cập nhật các cuốn sách hay. - Đội ngũ cán bộ thư viện phục vụ người khiếm thị tâm huyết với nghề, cảm thông với hoàn cảnh thiệt thòi của người khiếm thị và luôn trăn trở với công tác đáp ứng tốt hơn nữa tài liệu cho người khiếm thị. - Nguồn kinh phí được cấp được sử dụng đúng mục đích, hiệu quả, không lãng phí. 3.1.2. Nhƣợc điểm - Thư viện chưa cung cấp được bộ máy tra cứu tin hoàn chỉnh cho bạn đọc tìm tài liệu, mọi công việc tìm tài liệu vẫn dựa vào danh mục tài liệu gửi các đơn vị hoặc trực tiếp cán bộ thư viện đọc tên sách cho bạn đọc lựa chọn. - Cơ sở vật chất, các sản phẩm và dịch vụ còn nghèo nàn, chưa tương xứng với tiềm năng của một thư viện khoa học tổng hợp lớn của Thủ đô. Các sản phẩm thông tin - thư viện dành cho những đối tượng nhược thị và đối tượng người khiếm thị là thiếu nhi chưa được chú trọng. Hiện tại, thư viện mới chỉ có 01 máy trợ thị nhưng đã bị hỏng và chưa thay thế. Bàn Thị Năm K52 Thông tin – Thư viện 40
  41. - Công tác tuyên truyền, quảng bá cho thư viện chưa tốt nên chưa thu hút đông đảo bạn đọc tới thư viện. Mặc dù thư viện đã chuyển về trụ sở 47 Bà Triệu được một quãng thời gian, tuy nhiên việc thông báo trở lại hình thức đọc tại chỗ tại thư viện chưa được cán bộ ở đây tiến hành, dẫn tới tình trạng một số bạn đọc chưa biết đến hình thức này. - Công tác tổ chức và hoạt động của thư viện khiếm thị ở hai cơ sở còn khập khiễng và chưa đồng nhất, cơ sở chính phải đảm đương toàn bộ hoạt động phục vụ người khiếm thị. Từ những nhận xét nêu trên, cùng với kết quả đánh giá của người khiếm thị về mức độ đáp ứng tài liệu của thư viện, tác giả tổng hợp thành bảng dưới đây: Bảng 18: Đánh giá của người khiếm thị về mức độ đáp ứng tài liệu Chất lƣợng Số lƣợng Tỉ lệ Tốt 61 người 55.46% Đạt yêu cầu 35 người 31.82% Chưa đạt yêu cầu 14 người 12.72% Qua kết quả cho thấy: 55.46% số người được hỏi cho rằng thư viện đã đáp ứng tốt cho nhu cầu của người khiếm thị, 31.82% cho rằng đạt yêu cầu, 12.72% còn lại cho rằng chưa đạt yêu cầu. 3.1.3. Nguyên nhân Với kết quả nêu trên, đa số người khiếm thị đều đánh giá tốt về mức độ đáp ứng tài liệu. Nhưng cũng có một số cho rằng chưa đạt yêu cầu hoặc ở mức độ trung bình. Sở dĩ có sự chênh lệch không lớn bởi vì: - Ngân sách của các thư viện tỉnh, thành phố bổ sung vốn tài liệu phục vụ người khiếm thị còn ít. Kinh phí bổ sung là 30 triệu đồng/năm. Lý do chính việc khai thức vốn tài liệu không nhiều, bạn đọc khiếm thị đến thư viện ít. Vì vậy, sau hơn 10 năm xây dựng, thư viện khiếm thị còn quá hạn hẹp, chỉ đáp ứng được phần nào nhu cầu ngày càng phong phú của bạn đọc. Đó là còn chưa kể đến những loại hình tài liệu, đặc biệt là tài liệu chữ nổi sau một quãng thời gian bị hư hỏng - Việc xây dựng thư viện khiếm thị theo mô hình truyền thống trước đây là phù hợp, Nhưng trong giai đoạn hiện nay, việc ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động thư viện đã khiến những gì xây dựng trước đây đến bây giờ không còn phù hợp nữa. - Việc phát triển thư viện khiếm thị ở hai cơ sở không đồng đều. Thư viện chưa chú trọng đến việc phát triển hoạt động tại cơ sở 2B Quang Trung (Quận Hà Đông). Hiện tại, mọi hoạt động đều do cơ sở 47 Bà Triệu đảm nhận việc hoạt động và phục vụ người khiếm thị trên Bàn Thị Năm K52 Thông tin – Thư viện 41
  42. toàn địa bàn Hà Nội mở rộng. Vì thế, việc luân chuyển tài liệu cho các cơ sở người mù đôi lúc gặp nhiều khó khăn, có cơ sở người mù ở địa bàn Hà Nội mở rộng được đổi sách sau 4 tháng sử dụng. - Công tác xã hội hóa xây dựng thư viện khiếm thị chưa được làm tốt, chưa huy động được “sức mạnh” và sự đóng góp trong toàn dân vào công tác “đưa ánh sáng tri thức” đến với người khiếm thị. Thư viện vẫn chưa tìm được hướng đi mới cho công tác đáp ứng và thỏa mãn nhu cầu tin của người khiếm thị. Việc liên kết, huy động nguồn lực trong toàn dân chưa được triển khai mạnh mẽ. 3.2. Một số giải pháp đáp ứng nhu cầu tin của ngƣời khiếm thị tại Thƣ viện Hà Nội Từ kết quả điều tra, thăm dò ý kiến người khiếm thị về mức độ cần thiết mà thư viện cần thực hiện để đáp ứng nhu cầu tin, tác giả tổng hợp lại như sau: Bảng 19: Mức độ đánh giá của người khiếm thị về các giải pháp Mức độ Nội dung Rất cần thiết Cần thiết Không cần thiết Bổ sung tài liệu chữ nổi 51.8% 46.4% 1.8% Tăng cường sách nói 45.5% 53.6% 0.9% Xây dựng công cụ tra cứu 18.2% 80.9% 0.9% Cải tiến hình thức phục vụ 40% 54.5% 5.5% Tăng thời lượng phục vụ và số 46.8% 51.8% 1.4% lượt luân chuyển sách báo Chú trọng tới đối tượng thiếu nhi 40.9% 59.1% là người khiếm thị Chú trọng việc giới thiệu sách tới 37.3% 62.7% người khiếm thị Xã hội hóa công tác xây dựng thư 39.1% 60.9% viện khiếm thị Qua bảng tổng hợp trên, có thể nhận thấy rõ rằng những nội dung kể trên rất được người khiếm thị cho rằng cần thiết và rất cần thiết. Trong đó, việc xây dựng công cụ tra cứu được cho là việc cần thiết nhất (chiếm 80.9%). Kết hợp với những hiểu biết thêm của bản thân, nhằm nâng cao khả năng đáp ứng nhu cầu tin cho người khiếm thị tại Thư viện Hà Nội trong thời gian tiếp theo, tác giả đưa ra những khuyến nghị và giải pháp như sau: Bàn Thị Năm K52 Thông tin – Thư viện 42
  43. 3.2.1. Chú trọng phát triển nguồn tin Việc phát triển nguồn tin cần được thực hiện dưới những nội dung như: - Về kinh phí: Trong kinh phí tổng thể được cấp của thư viện trong các hoạt động, nguồn kinh phí cho bổ sung tài liệu phục vụ người khiếm thị hàng năm là 30 triệu đồng. Tuy nhiên, nguồn kinh phí này chưa đủ để thực hiện các cômg việc tổ chức và hoạt động phục vụ người khiếm thị, thư viện cần tăng cường thêm kinh phí bổ sung để chuyển dạng các tài liệu chữ sáng sang chữ nổi và kinh phí thu âm tài liệu sách nói. Nguồn kinh phí này cần được huy động từ các nguồn trong nước, nước ngoài hay các nhà hảo tâm - Về nguồn bổ sung, chuyển dạng tài liệu: Thư viện cần tiến hành phối hợp với Thành hội người mù Hà Nội, Trung ương Hội người mù Việt Nam và các tổ chức của người tàn tật khác để nắm bắt nhu cầu tin của người khiếm thị và cùng phối hợp để chuyển dạng tài liệu. Với nguồn tài liệu sách nói, cần phối hợp và thắt chặt mối quan hệ với các tình nguyện viên của các tổ chức tình nguyện có giọng đọc tốt tiến hành thu âm thường xuyên để phục vụ người khiếm thị. - Về nội dung tài liệu: Do trình độ của người khiếm thị khác nhau nên việc đầu tư bổ sung các tài liệu với nhiều nội dung phong phú là cần thiết. Trong thời gian tới, bên cạnh việc làm tốt công tác bổ sung những tài liệu về những nội dung nêu trên, thư viện cần tập trung phát triển thêm một số tài liệu có nội dung liên quan tới lĩnh vực chính trị, lĩnh vực kinh tế, lĩnh vực y học Việc nên bổ sung tài liệu với nội dung nào cần căn cứ thêm những đặc điểm khác như: giới tính, trình độ văn hóa Đặc biệt là bổ sung tài liệu với những nội dung phù hợp với từng lứa tuổi. Cụ thể: + Với lứa tuổi dưới 18: Có thể bổ sung tài liệu có nội dung hướng tới việc hoàn thiện nhân cách; những tài liệu có nội dung tuyên truyền, giới thiệu những tấm gương “người tốt, việc tốt”; hay những tài liệu khoa học thường thức dễ hiểu giúp các em có thể chủ động tìm tòi, học hỏi và tìm ra những điều thú vị xung quanh. + Với các mức độ lứa tuổi từ 18 đến 60 tuổi: Cần chú trọng bổ sung toàn diện các lĩnh vực, bởi đây là độ tuổi có nhu cầu sử dụng tài liệu với hàm lượng chất xám cao, thậm chí có những lứa tuổi có nhu cầu cao trong việc nghiên cứu chuyên sâu, tìm hiểu, học hỏi những kiến thức sâu và rộng để có thể hiểu biết được xã hội và thế giới + Với lứa tuổi trên 60: Cần đặc biệt chú trọng đến tài liệu về bảo vệ sức khỏe, những tài liệu giúp người cao tuổi sống vui - sống khỏe - sống có ích hay những cuốn truyện mang tính chất giải trí, thư giãn Bàn Thị Năm K52 Thông tin – Thư viện 43
  44. - Về loại hình tài liệu: Thư viện có thể phối hợp với Thành hội người mù Hà Nội, Trung ương Hội người mù Việt Nam và các tổ chức của người tàn tật khác để bổ sung các loại hình tài liệu. Đặc biệt cần dành sự quan tâm đặc biệt tới việc bổ sung những loại hình tài liệu dành cho người nhược thị như: tài liệu chữ đại, máy trợ thị 3.2.2. Xây dựng công cụ để bạn đọc tra cứu Tra cứu tin là tập hợp các công đoạn có mục đích, nhằm cung cấp cho người dùng tin những chỉ dẫn hoặc trả lời câu hỏi đột xuất hay thường xuyên của họ. Tra cứu tin là đóng vai trò quan trọng và không thể tách rời trong hoạt động thông tin - thư viện. Đối với người bình thường, việc tra cứu tài liệu trong thư viện thông qua bộ máy tra cứu thực sự rất hữu ích và giúp tiết kiệm thời gian đáng kể. Tuy nhiên, điều này chưa được triển khai với thư viện dành cho người khiếm thị. Trước mắt, thư viện cần xây dựng công cụ tra cứu dưới hình thức truyền thống (có thể là phích/tủ mục lục nhưng phải tồn tại dưới dạng chữ nổi) để bạn đọc tìm tài liệu mỗi khi trực tiếp tới thư viện đọc/mượn tài liệu. Tuy nhiên, cũng cần tuân thủ chuẩn biên mục đã đề ra để đảm bảo tính thống nhất. Bộ máy tra cứu truyền thống này khi được xây dựng nên sẽ giúp cho người khiếm thị có thể tự tra cứu tài liệu, đồng thời giúp cán bộ thư viện giảm bớt công sức trong quá trình phục vụ người khiếm thị, giúp cho người khiếm thị “làm chủ” kho sách mình mong muốn. Trong tương lai, cùng với quá trình hoàn thiện việc chuyển dữ liệu từ phần mềm CDS/ISIS sang phần mềm LIBOL, thư viện cần chú trọng đến công tác xây dựng bộ máy tra cứu điện tử cho người khiếm thị, có thể tham khảo phân hệ ViOPAC của TV KHTH Tp. Hồ Chí Minh đang triển khai áp dụng và tích hợp trong phần mềm LIBOL của thư viện. Dưới đây là minh họa giao diện phân hệ ViOPAC đang được áp dụng trong phần mềm LIBOL của TV KHTH Tp. Hồ Chí Minh: Phân hệ ViOPAC của TV KHTH Tp. Hồ Chí Minh cho phép người khiếm thị có thể tra cứu thông tin trong cơ sở dữ liệu của thư viện như những người bình thường. Người khiếm Bàn Thị Năm K52 Thông tin – Thư viện 44
  45. thị có thể đến tra cứu tại mạng LAN của thư viện hoặc truy cập từ ngoài vào qua mạng Internet Phân hệ được thiết kế đơn giản, sử dụng hoàn toàn bằng phím tắt, người khiếm thị có thể nhập vào nhiều thuật ngữ cần tìm để giới hạn kết quả tìm. Tất cả các thao tác trên máy và kết quả sẽ được phần mềm lướt web phát âm. Các phần mềm hỗ trợ hiện cũng đang được người khiếm thị sử dụng phổ biến là: Sao Mai Browser của Trung tâm Tin học vì Người mù Sao Mai hoặc Web Reader của Trường Phổ thông đặc biệt Nguyễn Đình Chiểu Tp. Hồ Chí Minh. Việc học hỏi, tiếp thu và áp dụng phân hệ này được coi là một giải pháp tối ưu thay thế cho danh mục sách dạng giấy đang tồn tại ở Thư viện Hà Nội. 3.2.3. Cải tiến hình thức phục vụ bạn đọc khiếm thị Công tác phục vụ người dùng tin nói chung đóng vai trò quan trọng trong hoạt động thông tin - thư viện. Công tác này được coi là khâu cuối cùng và là nhiệm vụ cao cả của hoạt động thông tin - thư viện. Công tác phục vụ người dùng tin giúp đánh giá sự luân chuyển tài liệu trong thư viện với người dùng tin. Bên cạnh đó, công tác phục vụ người dùng tin còn giúp đánh giá, kiểm tra lại các khâu của hoạt động thông tin - thư viện. Điều này cũng đúng hơn đối với trường hợp người khiếm thị. Bên cạnh đó, nếu phục vụ người khiếm thị càng nhiều thì tác dụng và ảnh hưởng xã hội càng lớn. Tuy nhiên, để phục vụ bạn đọc khiếm thị được tốt, thư viện cũng cần chú trọng đến việc đầu tư vào các sản phẩm và dịch vụ thư viện, cách thức tổ chức kho và các hình thức phục vụ bạn đọc. Cụ thể: - Đối với các sản phẩm và dịch vụ thông tin - thư viện, thư viện cần chú trọng đầu tư, nâng cấp các sản phẩm phục vụ người khiếm thị, đặc biệt cần nhấn mạnh vào việc đầu tư các sản phẩm dành cho người bị nhược thị, xây dựng và sản xuất nhạc nổi, minh họa nổi dành cho người khiếm thị. - Đối với cách thức tổ chức kho tài liệu, cần bố trí sao cho hợp lý, mỗi khi bạn đọc có yêu cầu về tài liệu, cán bộ thư viện có thể lấy tài liệu một cách dễ dàng. Tài liệu dạng sách chữ nổi và sách nói cần sắp xếp đúng theo số đăng ký cá biệt. - Đối với việc phục vụ bạn đọc khiếm thị, trong thời gian tới, thư viện cần phải cải tiến ở cả ba hình thức phục vụ: đọc tại chỗ, mượn về nhà và lưu động. + Với dịch vụ đọc tại chỗ: Cần xây dựng và bố trí cơ sở vật chất sao cho phòng đọc thoáng mát và bạn đọc có được không gian riêng, yên tĩnh, thoải mái. Bàn Thị Năm K52 Thông tin – Thư viện 45
  46. + Với dịch vụ mượn về nhà: Người khiếm thị là đối tượng khó khăn trong việc di chuyển nên thư viện có thể có hình thức nới rộng thời gian mượn tài liệu cho họ. Tuy nhiên, để bạn đọc khiếm thị có thể tới thư viện sử dụng hình thức đọc tại chỗ và mượn về nhà, thư viện có thể đưa thêm một dịch vụ đặc biệt với đối tượng này nhằm tạo ra sự thân thiện giữa thư viện với người dùng tin. Khi bạn đọc tới thư viện, cán bộ sẽ xuống tận nơi đưa bạn đọc vào phòng phục vụ để bạn đọc có thể lựa chọn tài liệu thỏa mãn nhu cầu của mình. Hình thức này nên được áp dụng với người khiếm thị nói riêng và người khuyết tật sử dụng thư viện nói chung. + Với dịch vụ thư viện lưu động: Hiện nay, thư viện đang tiến hành luân chuyển sách theo hàng quý . Tuy nhiên, để guồng quay tài liệu được liên tục, không gián đoạn, thư viện cần tiến hành luân chuyển theo tháng (có thể rút ngắn xuống 01 tháng/01 lần luân chuyển) để đảm bảo 100% người khiếm thị ở Hội người mù có thể tiếp cận và tài liệu không để quá lâu tại các cơ sở người mù. Tuy nhiên, để hình thức phục vụ người khiếm thị được hiệu quả, thư viện cũng cần có sự phối hợp với trường học và gia đình trong việc định hướng thông tin và nhu cầu đọc cho người khiếm thị. 3.2.4. Mở rộng phục vụ ngƣời khiếm thị ở những cơ sở còn lại của ngƣời khiếm thị trên địa bàn Hà Nội Như ở trên đã đề cập, thư viện hiện đang phục vụ tài liệu tại 15 cơ sở người mù trên tổng số 29 cơ sở người mù và 01 chi hội trực thuộc Thành hội Người mù Hà Nội. Đây chưa phải là con số “l ý tưởng” để thư viện có thể thỏa mãn hết đối tượng người khiếm thị. Nếu phục vụ hết tại các cơ sở người mù thì mới có thể thật sự đem “ánh sáng tri thức” đến cho người khiếm thị và có thể giúp họ nắm bắt thông tin nhanh chóng và dễ dàng. Thư viện Hà Nội cần tiến hành liên hệ với Thành hội Người mù Hà Nội để có được sự phối hợp hiệu quả nhất bằng cách có thể ký biên bản ghi nhớ giữa hai đơn vị trong việc phục vụ người khiếm thị của Thủ đô Hà Nội. Tuy nhiên, để làm tốt được việc mở rộng diện phục vụ như vậy, trong thời gian tới, thư viện cần chú trọng vào việc hình thành phòng khiếm thị tại cơ sở 2B Quang Trung (Quận Hà Đông) để tránh tình trạng cơ sở 47 Bà Triệu bị quá tải, không đủ thời gian để có thể thỏa mãn cùng lúc nhiều cơ sở người mù. Thư viện có thể phân rõ cơ sở 47 Bà Triệu phục vụ người khiếm thị trong nội thành, cơ sở 2B Quang Trung (Quận Hà Đông) phục vụ người khiếm thị tại địa bàn Hà Tây cũ trong cả ba hình thức phục vụ là: đọc tại chỗ, mượn về nhà và phục vụ Bàn Thị Năm K52 Thông tin – Thư viện 46
  47. lưu động. Bên cạnh đó, cùng với mạng lưới thư viện cơ sở, có thể đưa hình thức “túi sách” phục vụ người khiếm thị, bởi đặc thù người khiếm thị rất hạn chế trong việc di chuyển và đi lại. Có thể mô hình hóa việc xây dựng mạng lưới thư viện cơ sở phục vụ người khiếm thị như sau: Ở Thành phố: Cơ sở 47 Bà Triệu Cơ sở 2B Quang Trung Ở Quận/Huyện: Chi nhánh Chi nhánh Chi nhánh Chi nhánh 1 2 1 2 Ở Phường/Xã: Phân hiệu 1 Phân hiệu 2 Việc xây dựng mô hình như trên có thể đảm bảo rằng: Người khiếm thị có thể thuận tiện hơn trong việc đáp ứng nhu cầu và ngày càng được thỏa mãn hơn. 3.2.5. Chú trọng đến đội ngũ cán bộ cả số lƣợng và chất lƣợng Hiện nay số lượng cán bộ tham gia công tác điều hành hoạt động và phục vụ người khiếm thị còn ít, trong khi đó cán bộ được giao làm công tác phục vụ người khiếm thị đôi lúc phải phụ trách thêm phòng khác nên đôi lúc xảy ra tình trạng bạn đọc khiếm thị tới mượn tài liệu thì cán bộ khác không biết cách giải quyết khi có tình huống đột xuất. Trong thời gian tới, thư viện cần chủ động tuyển thêm ít nhất 02 cán bộ chuyên trách làm công tác phục vụ người khiếm thị. Đi đôi với việc tăng về số lượng thì cũng cần chú ý tới chất lượng của cán bộ thư viện. Cán bộ phụ trách phòng khiếm thị của thư viện cần được đào tạo bài bản, phải có lòng yêu nghề và có sự linh hoạt trong việc tổ chức phục vụ người khiếm thị. Ban giám đốc của Thư viện Hà Nội cần thường xuyên chú trọng đến đội ngũ này bằng cách cử đi học hỏi kinh nghiệm từ đơn vị bạn (có thể là Thư viện KHTH TP. HCM) để về áp dụng vào thực tiễn của thư viện mình. 3.2.6. Chú trọng hơn tới đối tƣợng ngƣời khiếm thị thiếu nhi Đối với mỗi quốc gia, thiếu niên, nhi đồng hôm nay là chủ nhân tương lai của đất nước mai sau. Vì thế, việc chăm lo, giáo dục toàn diện cho trẻ em luôn là mối quan tâm hàng đầu của Đảng, Nhà nước và từng thành viên trong xã hội. Đặc biệt điều nay còn có ý nghĩa hơn đối với trẻ em khiếm thị. Việc tạo điều kiện để trẻ em bình thường nói chung và trẻ em khuyết tật Bàn Thị Năm K52 Thông tin – Thư viện 47
  48. nói riêng nhanh chóng hòa nhập cộng đồng, kích thích nhu cầu tiếp cận thông tin, tạo thói quen đọc, sở thích đọc và rèn luyện kỹ năng đọc nhằm hoàn thiện nhân cách cho các em hướng tới chân - thiện - mỹ góp phần phát triển xã hội là vô cùng cần thiết. Việt Nam là nước đầu tiên ở Châu Á và nước thứ hai trên thế giới phê chuẩn Công ước Liên hợp quốc về Quyền trẻ em vào ngày 20 tháng 2 năm 1990. Sau 8 năm, dưới sự chỉ đạo của Bộ Văn hóa - Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) mà trực tiếp là Vụ Thư viện, hệ thống thư viện công cộng - trong đó có Thư viện Hà Nội đã bắt tay triển khai các hoạt động phát triển văn hóa đọc cho người khuyết tật nói chung và trẻ em khiếm thị nói riêng, tuy nhiên kết quả đạt được không có sự nổi bật. Đến nay, thư viện vẫn chưa có sự liên kết chặt chẽ với các cơ sở người mù có trẻ em khiếm thị, tiêu biểu trong số đó như trường PTCS Nguyễn Đình Chiểu, việc phục vụ trẻ em khiếm thị ở nơi đây không triển khai mạnh mẽ, hầu hết vốn sách vẫn là do thư viện của trường PTCS Nguyễn Đình Chiểu quản lý và phục vụ. Để đảm bảo có thể phục vụ tốt cho trẻ em khiếm thị, trong thời gian tới, thư viện nên: - Chủ động phối hợp chặt chẽ với thư viện các trường học, đặc biệt là thư viện trường PTCS Nguyễn Đình Chiểu để cung cấp trang thiết bị và nguồn tài liệu phục vụ trẻ em khiếm thị. - Hợp tác với các tổ chức quốc tế trong việc sản xuất, trao đổi và phổ biến vốn tài liệu có mục đích cổ vũ cho lợi ích xã hội, tinh thần và đạo đức cũng như sức khoẻ về thể chất và tinh thần của trẻ em từ nhiều nguồn văn hoá quốc gia và quốc tế khác nhau. - Sản xuất và phổ biến sách cho trẻ em. Với trẻ em khiếm thị, có thể hợp tác với các đơn vị uy tín trong việc sản xuất đồ họa nổi, nhạc nổi cho trẻ em. Bởi lẽ, không chỉ bị mất thị giác mà hầu hết trẻ em khác đương nhiên được hưởng; nhìn chung trẻ em khiếm thị phải đọc và học trong những cuốn sách, những bản nhạc không có minh họa là chuyện có thể xảy ra. Sách minh họa nổi sẽ giúp trẻ em khiếm thị nắm bắt và mở ra cho trẻ những quan niệm và từ vựng mới, đồng thời giúp đỡ để phát triển kỹ năng sử dụng xúc giác và cung cấp động cơ học đọc, học viết - Thường xuyên tổ chức chia sẻ, giới thiệu tài liệu đến trẻ khiếm thị hoặc đứng ra làm đầu mối tổ chức thi giới thiệu sách trong trẻ khiếm thị bằng cách quảng bá các dịch vụ thông tin phục vụ trẻ em khiếm thị. Đặc biệt nhân các ngày 3/12 - Ngày người khuyết tật Quốc tế, và ngày 18 tháng 4 - Ngày người khuyết tật Việt Nam hoặc ngày 1 tháng 6 - Ngày Quốc tế thiếu nhi, thư viện có thể tổ chức một số hội thi như: “Thiếu nhi khiếm thị tuyên truyền, giới thiệu Bàn Thị Năm K52 Thông tin – Thư viện 48
  49. sách”, “Văn hóa đọc với trẻ em khiếm thị” giúp trẻ em khiếm thị có thể hòa nhập tốt hơn vào cộng đồng và hình thành cho mình thói quen đọc sách. - Chủ động đề nghị với Ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch xây dựng cơ chế, chính sách liên quan đến vấn đề người khiếm thị nói chung và trẻ em khiếm thị nói riêng. 3.2.7. Tổ chức Marketing nguồn tài liệu đến với ngƣời khiếm thị Marketing là thuật ngữ dung chủ yếu trong xã hội hiện đại. Thuật ngữ này được chuyển ngữ trong Tiếng việt là tiếp thị (tiếp cận thị trường). Hiện nay, trên thế giới và ở Việt Nam tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về Marketing nhưng định nghĩa của Philip Kotler về Marketing vẫn được sử dụng phổ biến hơn cả. Ông cho rằng: “Marketing là quá trình mà những cá nhân hoặc tập thể đạt được những gì họ cần và muốn thông qua việc tạo lập, cống hiến, và trao đổi tự do giá trị của các sản phẩm và dịch vụ với nhau”. Marketing thường được xem như là một tập hợp các chiến lược và kỹ thuật của các nhà quản trị kinh doanh. Tuy nhiên, trong hoạt động thông tin và thư viện, tất cả các thư viện đều có liên quan đến quá trình marketing. Marketing được Học viện Marketing Chartered của Anh định nghĩa như sau: “Marketing là quá trình quản lý để xác định, dự báo và đáp ứng các yêu cầu của khách hàng một cách có hiệu quả ”. Do đó bản chất của marketing liên quan đến việc tìm ra nhu cầu của người dùng tin, sau đó thiết lập các dịch vụ sản phẩm để đáp ứng các nhu cầu này. Là cán bộ thư viện, mỗi người cần tham gia vào quá trình đánh giá nhu cầu người dùng và nỗ lực để đáp ứng chúng. Vì vậy, bên cạnh những kinh nghiệm sẵn có, cán bộ thư viện cần phải có kỹ năng Marketing thông tin - thư viện để phục vụ và quảng bá tốt hơn hình ảnh thư viện, nguồn tin của thư viện đến đông đảo người dùng tin, đặc biệt là đối tượng người khiếm thị. Hiện nay đa số người khiếm thị tới thư viện đều chưa hiểu rõ kho tàng, chưa có hình dung cụ thể về vốn tài liệu của thư viện. Vì thế, cần tiến hành marketing tài liệu tới người khiếm thị thông qua các cuộc thi giới thiệu sách, các buổi nói chuyện chuyên đề hoặc tổ chức hay những buổi hội nghị bạn đọc Đây cũng chính là hình thức hiệu quả để Marketing nguồn tài liệu tới người khiếm thị, giúp người khiếm thị biết được nhiều hơn về tài liệu và tự lựa chọn cho mình những tài liệu hay để thỏa mãn nhu cầu của mình. 3.2.8. Thực hiện xã hội hoá công tác phục vụ ngƣời khiếm thị Xã hội hóa là khái niệm thường được dùng để chỉ sự quan tâm cũng như đóng góp của toàn xã hội. Hiện nay, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến những chính sách đồng bộ về Bàn Thị Năm K52 Thông tin – Thư viện 49