Khóa luận Vai trò của tư duy trong việc giáo dục kỹ năng mềm cho sinh viên

pdf 62 trang thiennha21 15/04/2022 3072
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Vai trò của tư duy trong việc giáo dục kỹ năng mềm cho sinh viên", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfkhoa_luan_vai_tro_cua_tu_duy_trong_viec_giao_duc_ky_nang_mem.pdf

Nội dung text: Khóa luận Vai trò của tư duy trong việc giáo dục kỹ năng mềm cho sinh viên

  1. TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN, ĐHQGHN KHOA TRIẾT HỌC === VŨ THANH HẰNG VAI TRÒ CỦA TƢ DUY TRONG VIỆC GIÁO DỤC KỸ NĂNG MỀM CHO SINH VIÊN KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC NGÀNH TRIẾT HỌC Hệ đào tạo: Chính quy Khóa: QH – 2015 – X Hà Nội, 2019
  2. TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN, ĐHQGHN KHOA TRIẾT HỌC === VŨ THANH HẰNG VAI VAI TRÒ CỦA TƢ DUY TRONG VIỆC GIÁO DỤC KỸ NĂNG MỀM CHO SINH VIÊN KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC NGÀNH TRIẾT HỌC Hệ đào tạo: Chính quy Khóa: QH – 2015 – X Ngƣời hƣớng dẫn: PGS.TS. Nguyễn Anh Tuấn Hà Nội, 2019
  3. LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành khóa luận tốt nghiệp với đề tài: Vai trò của tư duy trong việc giáo dục kỹ năng mềm cho sinh viên, ngoài sự cố gắng của bản thân, em xin chân thành cảm ơn quý thầy cô Khoa Triết học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia Hà Nội đã đóng góp ý kiến để em hoàn thành khóa luận này. Đặc biệt, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS. Nguyễn Anh Tuấn, thầy là người trực tiếp hướng dẫn em trong suốt thời gian em thực hiện đề tài này. Mặc dù đã cố gắng hết sức, tuy nhiên khóa luận của em không thể tránh khỏi những điều thiếu sót về cả nội dung và hình thức. Chính vì vậy, em rất mong nhận được ý kiến đóng góp của các thầy cô để khóa luận của em được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, ngày 7 tháng 5 năm 2019 Sinh viên Vũ Thanh Hằng
  4. MỤC LỤC MỤC LỤC 1 MỞ ĐẦU 4 CHƢƠNG 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ TƢ DUY VÀ GIÁO DỤC KỸ NĂNG MỀM . 10 1.1. Khái niệm “Tƣ duy” và “Giáo dục kỹ năng mềm” 10 1.1.1. Khái niệm “Tư duy” 10 1.1.2. Khái niệm “Giáo dục kỹ năng mềm” 17 1.2. Các yếu tố hợp thành công tác Giáo dục kỹ năng mềm cho sinh viên 22 1.2.1. Đối tượng và mục đích giáo dục kỹ năng mềm cho sinh viên 22 1.2.2. Các loại chủ thể giáo dục kỹ năng mềm cho sinh viên 23 1.2.3. Các hình thức giáo dục kỹ năng mềm 24 1.2.4. Các phương pháp giáo dục kỹ năng mềm 27 1.2.5. Yếu tố tác động đến kỹ năng mềm và giáo dục kỹ năng mềm 28 Tiểu kết chương 1 30 CHƢƠNG 2. VAI TRÒ CỦA TƢ DUY TRONG GIÁO DỤC KỸ NĂNG MỀM CHO SINH VIÊN – THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP (XÉT TRƢỜNG HỢP TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHXH&NV HÀ NỘI) 31 2.1. Vai trò của tư duy đối với giáo dục sinh viên về kỹ năng mềm ở Trường Đại học KHXH&NV Hà Nội 31 2.1.1. Về vai trò của tư duy 31 2.1.2. Vài nét về Trường Đại học KHXHNV và đặc điểm của sinh viên 35 2.2. Thực trạng vai trò của tư duy trong giáo dục kỹ năng mềm 37 2.2.1. Thành tựu vận dụng tư duy trong giáo dục kỹ năng mềm 37 2.2.2. Những hạn chế của vận dụng tư duy trong giáo dục kỹ năng mềm 40 2.3. Giải pháp nâng cao vai trò của tư duy trong giáo dục kỹ năng mềm cho sinh viên . 45 1
  5. 2.3.1. Nâng cao nhận thức cho các loại chủ thể về vai trò và tầm quan trọng của tư duy trong việc GD KNM 45 2.3.2. Rèn luyện KNM cho SV theo một quy trình khoa học, chặt chẽ và xây dựng chương trình, kế hoạch GD KNM cho SV phù hợp với điều kiện thực tiễn. 47 2.3.3. Đổi mới, đa dạng hóa các hình thức tổ chức giáo dục KNM cho SV, tạo lập môi trường thuận lợi cho GD, rèn luyện và phát triển KNM của SV 49 2.3.4. Giải pháp giúp tăng kĩ năng tư duy cho sinh viên trong giáo dục KNM 52 Tiểu kết chương 2 54 KẾT LUẬN 55 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 57 2
  6. DANH MỤC CÁC CỤM TỪ VIẾT TẮT GD Giáo dục GV Giảng viên KN Kỹ năng KNM Kỹ năng mềm SV Sinh viên 3
  7. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Nhân loại đang sống trong thế kỷ XXI, khi quá trình hợp tác để phát triển giữa các quốc gia trên thế giới đã trở thành một nhu cầu tất yếu. Trong sự hợp tác có tính toàn diện đó, hợp tác về giáo dục là chìa khóa cho mọi thành công. Sự thay đổi để tiến đến hoàn thiện nền giáo dục ở mỗi quốc gia chính là sự thay đổi về chất lượng đào tạo. Giáo dục nói chung và giáo dục đại học nói riêng hiện nay ở các nước cần hướng đến đáp ứng nhu cầu phát triển toàn diện con người. Đó là vấn đề cốt lõi nhất. Không chỉ vậy, trong thời đại Công nghiệp 4. , nền kinh tế Việt Nam đang hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, dẫn đến sự chuyển biến sâu sắc mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội. Điều này đòi hỏi các ngành, các lĩnh vực kinh tế - xã hội cũng phải không ngừng phát triển, thay đổi toàn diện từ tư duy nhận thức đến hành động. Trong không khí sôi động chung đó, giáo dục đào tạo là một trong những lĩnh vực cần thích nghi và có sự thay đổi tích cực sớm nhất để vừa bắt kịp vừa đón đầu trước những thay đổi lớn lao của đất nước và thế giới. Sản phẩm của giáo dục đào tạo là những người lao động vừa có khả năng sâu về chuyên môn được đào tạo, làm việc; kỹ năng nghề nghiệp và đặc biệt là những kỹ năng mềm cần thiết giúp cho họ dễ thích ứng phù hợp với môi trường làm việc mới vốn thường xuyên thay đổi và phát triển không ngừng. Để làm được điều này ngoài kiến thức chuyên môn đòi hỏi họ phải có khả năng tạo lập mối quan hệ tốt trong công việc, khả năng hợp tác làm việc hiệu quả, không ngừng sáng tạo với tình trạng thể lực tốt để có khả năng làm việc với áp lực công việc cao. Tuy nhiên, hiện nay trong chương trình đào tạo ở các trường đại học còn thiếu một nội dung quan trọng, cần thiết cho sinh viên, đó là hệ thống những kỹ năng mềm. Xã hội hiện đại ngày càng đòi hỏi sinh viên (nguồn nhân lực chất lượng cao tương lai) phải được trang bị toàn diện những kỹ năng mềm để thực hiện đầy đủ các chức năng tham gia vào cuộc sống lao động sản xuất và sinh hoạt hằng ngày. Để đáp ứng đòi hỏi ấy, nền giáo dục Việt Nam nói chung và hệ 4
  8. thống trường đại học nói riêng cần phải không ngừng nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đặc biệt là phải quan tâm giáo dục, đào tạo kỹ năng mềm cho sinh viên. Trong đó, tư duy giữ vai trò hết sức quan trọng trong hoạt động thực tiễn cũng như nghiên cứu khoa học. Hơn nữa, đây còn là một trong những phương pháp chủ yếu để tiến tới các chân lý khoa học; không có tư duy thì việc tìm kiếm nguồn tri thức mới, vượt qua định kiến, cách suy nghĩ theo thói quen, giáo điều, v.v sẽ gặp những khó khăn; quá trình học tập, nghiên cứu khoa học và trong cuộc sống không đạt được những hiệu quả nhất định. Thực tế cho thấy không ít sinh viên có học lực xuất sắc và giỏi, nhưng ra trường lại gặp rất nhiều khó khăn trong công việc cũng như trong cuộc sống. Điều đó cho thấy rằng học giỏi là “điều kiện cần”, nhưng chưa phải là “điều kiện đủ” để thành công. Phải chăng trong nền kinh tế cạnh tranh toàn cầu hiện nay, với sự thay đổi nhanh chóng của khoa học – công nghệ, thị trường, yêu cầu của công việc cũng như thực tiễn cuộc sống, luôn đòi hỏi con người – là chủ thể của nền kinh tế cần phải có một khả năng thích ứng tốt, chứ không chỉ dừng lại là những “sản phẩm” tốt. Ở đây, giá trị then chốt để làm nên “điều kiện đủ” chính là các kỹ năng mềm, tuy nhiên yếu tố này vẫn chưa được coi trọng đúng mức trong cách hiểu của nhiều người, đặc biệt là với các bạn sinh viên trong các trường Đại học, Cao đẳng. Với tất cả những yêu cầu đó dường như trong đào tạo truyền thống nhà trường đã quá chú trọng đến đào tạo chuyên môn (kỹ năng cứng) mà xem nhẹ hay bỏ qua các kỹ năng mềm cần thiết để đào tạo một cách toàn diện. Thay vào đó chúng ta phải nhận thức đầy đủ tầm quan trọng của việc trang bị kỹ năng mềm cần thiết, phù hợp với nội dung đào tạo chuyên môn, kỹ năng làm việc cho sinh viên. Bởi vậy, để làm rõ hơn về vấn đề này, em chọn vấn đề Vai trò của tư duy trong việc giáo dục kỹ năng mềm cho sinh viên làm đề tài khóa luận tốt nghiệp ngành triết học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu 2.1. Tư duy từ lâu đã trở thành đối tượng nghiên cứu của nhiều nhà khoa học thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau. Hiện nay, trước những yêu cầu của công 5
  9. cuộc đổi mới trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế thì việc nghiên cứu về tư duy và vai trò của tư duy trong việc giáo dục kỹ năng mềm là điều vô cùng cần thiết. Đã có nhiều tài liệu, cuốn sách, bài báo, công trình nghiên cứu khoa học, các cuộc tọa đàm, hội thảo, đề cập đến vấn đề này ở nhiều góc độ khác nhau. Những tác phẩm của các nhà kinh điển như Luận cương về Phoiơbắc (C.Mác, 1845), Hệ tư tưởng Đức (C.Mác và Ph.Ăngghen, 1845 - 1846), Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản (C.Mác và Ph. Ăngghen; 1848), Bộ Tư bản (C.Mác và Ph.Ăngghen, 1867, 1884, 1894), Biện chứng của tự nhiên (Ph.Ăngghen; 1886), Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán (V.I.Lênin; 1909), và Bút kí triết học (V.I.Lênin; 1915 - 1916) đã thể hiện rõ quan điểm nhìn nhận tư duy như thành tố không thể tách rời của hoạt động sống con người, và cùng với sự vận động của đời sống ấy, tư duy luôn vận động sản sinh ra những quan niệm mới, tư tưởng mới về hiện thực. Nhà triết học Xô Viết E.V. Ilencov trong công trình Lôgic học biện chứng đã làm rõ các quan điểm khác nhau trong lịch sử triết học và nhất là quan điểm duy vật biện chứng về nguồn gốc, bản chất của tư duy. Trong cuốn Phương pháp 3, nhà triết học Pháp đương đại Edgar Morin đã cắt nghĩa (mặc dù không đi sâu) khái niệm tư duy, tư duy sáng tạo và các loại tư duy. Còn trong cuốn Phương pháp 4: Tư tưởng ông đã luận chứng cho sự tồn tại đặc thù của tư tưởng, mặc dù không tách khỏi chủ thể nhưng tư tưởng luôn được “khách thể hóa” tạo thành một hiện thực đặc thù – “một thiên nhiên thứ hai” như cách nói của C.Mác. Bài viết Góp thêm một cách hiểu về tư duy của tác giả Nguyễn Thị Thúy Vân đã phân tích bản chất và đặc trưng của tư duy ở những chiều cạnh sâu sắc. Tác giả Hồ Bá Thâm trong bài viết Bàn về năng lực tư duy đã coi tư duy như một năng lực vừa “có sẵn” vừa là sản phẩm của lịch sử. Các bài viết trong cuốn Khoa học tư duy từ nhiều tiếp cận khác nhau do GS. Tô Duy Hợp chủ biên đã phân tích tư duy từ nhiều góc nhìn, trên nhiều phương diện và phân tách tư duy thành một số loại hình. 6
  10. Tác giả Trần Đình Thỏa trong bài viết Một số vấn đề tư duy biện chứng mácxít đã khái quát và chỉ ra đặc điểm của một số loại hình tư duy. Liên quan đến các vấn đề tư duy còn có một số công trình như Ảnh hưởng của tư duy kinh nghiệm đối với công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay của tác giả Trần Thị Thuận Vũ; Tư duy lý luận và bản chất của nó của Phạm Hồng Quý, Tư duy lý luận: Một số vấn đề cần quan tâm của Nguyễn Thị Bạch Vân. Trong đó các tác giả đều tập trung làm rõ điểm khác biệt giữa hai trình độ tư duy kinh nghiệm và lý luận khoa học cùng mối quan hệ giữa chúng. 2.2. Nghiên cứu về kỹ năng mềm, giáo dục kỹ năng mềm thì chưa có nhiều công trình, mà mới chỉ có một số bài tạp chí, luận văn thạc sĩ như Bài viết Tăng cường giáo dục, rèn luyện kỹ năng làm việc nhóm cho sinh viên yêu cầu cấp bách của đổi mới giáo dục đại học của Bùi Loan Thủy. Trong đó tác giả phân tích thực trạng sử dụng kỹ năng làm việc nhóm của SV Việt Nam, những lợi ích đối với SV khi sử dụng tốt kỹ năng này. Trên cơ sở đó, bài viết đưa ra biện pháp nâng cao hiệu quả làm việc nhóm đối với nhà trường, giảng viên và bản thân sinh viên. Luận văn Thạc sỹ Tâm lý học Kỹ năng giao tiếp của sinh viên sư phạm Trường Cao đẳng Sư phạm Cần Thơ của tác giả Lê Thị Thảo (2010) thực hiện tại Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh gần 1 năm trước. Luận văn thạc sỹ Quản lý giáo dục Kỹ năng sống cho học sinh các trường trung học cơ sở huyện Văn Lâm, Hưng Yên trong bối cảnh hiện nay của tác giả Nguyễn Hồng Thanh thực hiện năm 2 12. Có thể nói, các công trình nghiên cứu khoa học, các bài viết về tư duy và kỹ năng mềm kể trên đã góp phần làm phong phú hơn những tri thức về tư duy và kỹ năng mềm nói chung, chúng có giá trị không nhỏ trong việc định hướng giáo dục nâng cao năng lực tư duy và kỹ năng mềm trong xã hội hiện nay. Tuy nhiên, chưa có nhiều công trình nào bàn riêng về vai trò của tư duy con người trong việc giáo dục kỹ năng mềm cho sinh viên. Đây cũng là một trong những lý do thôi thúc em chọn vấn đề này làm đề tài khóa luận của mình. 7
  11. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích: Phân tích làm rõ những nội dung chủ yếu của vấn đề tư duy, giáo dục kỹ năng mềm và vai trò của tư duy trong việc giáo dục kỹ năng mềm cho sinh viên. Từ đó Khóa luận đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao vai trò của tư duy trong công tác giáo dục kỹ năng mềm. Nhiệm vụ: Thứ nhất, phân tích và làm rõ những nội dung chính liên quan đến vấn đề tư duy và giáo dục kỹ năng mềm. Thứ hai, trình bày thực trạng của việc vận dụng tư duy trong giáo dục kỹ năng mềm và một số giải pháp giúp nâng cao vai trò của tư duy trong giáo dục kỹ năng mềm cho sinh viên. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu: Vai trò của tư duy logic trong việc giáo dục kỹ năng mềm cho sinh viên. Phạm vi nghiên cứu: khóa luận tập trung làm rõ các vấn đề chính của tư duy, giáo dục kỹ năng mềm và vai trò của tư duy con người trong việc giáo dục kỹ năng mềm cho sinh viên trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn. 5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu - Cơ sở lý luận: khóa luận được thực hiện dựa trên quan điểm triết học mácxit về tư duy, về giáo dục. - Phương pháp nghiên cứu: Để thực hiện khóa luận tác giả sử dụng phương pháp luận biện chứng duy vật với các phương pháp thống nhất lịch sử và lôgic, phân tích, tổng hợp, khái quát hóa và hệ thống hóa 6. Ý nghĩa của đề tài nghiên cứu Khóa luận góp phần hệ thống hóa, khái quát hóa, làm rõ một số vấn đề triết học cơ bản, chung về tư duy, kỹ năng mềm và vai trò của tư duy trong giáo dục kỹ năng mềm cho sinh viên. Ngoài ra, kết quả của đề tài có thể được dùng làm tài liệu tham khảo cho sinh viên học tập và những ai quan tâm nghiên cứu về lĩnh vực này. 8
  12. 7. Cấu trúc của khóa luận Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, Khóa luận gồm 2 chương, 5 tiết. 9
  13. CHƢƠNG 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ TƢ DUY VÀ GIÁO DỤC KỸ NĂNG MỀM 1.1. Khái niệm “Tƣ duy” và “Giáo dục kỹ năng mềm” 1.1.1. Khái niệm “Tư duy” Tư duy là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học khác nhau như tâm lý học, triết học, ngôn ngữ học, giáo dục học, xã hội học, kinh tế học, nghệ thuật học, v.v Nhưng những vấn đề chung nhất về tư duy luôn là đối tượng nghiên cứu của triết học. Tùy theo cách tiếp cận khác nhau mà có thể có các cách hiểu khác nhau về tư duy. Nhà tâm lý học Liên Xô nổi tiếng A.N. Leonchiev ngay từ năm 1934 đã nhấn mạnh “Tư duy là mắt xích trung tâm của hoạt động sáng tạo” và chỉ rõ tư duy đóng một vai trò cực kì quan trọng, cần thiết, trọng tâm trong sáng tạo. Quả thực như vậy, nếu không có tư duy thì không có sáng tạo, tư duy đóng vai trò cốt yếu trong hoạt động sáng tạo. Tư duy được quan niệm là hoạt động nhận thức, phản ánh ở trình độ cao của chủ thể, có một số định nghĩa sau biểu hiện điều này: Tác giả Phạm Thành Nghị định nghĩa: “Tư duy là một quá trình tâm lý phản ánh những thuộc tính bản chất, những mối liên hệ có tính quy luật của sự vật, hiện tượng trong hiện thực khách quan”[24,tr.202]. Ở cuốn Phương pháp 3. Tri thức về tri thức. Nhân học về tri thức, Edgar Morin – người đầu tiên sử dụng thuật ngữ Tư duy phức hợp – nhìn nhận tư duy dưới góc độ cá nhân và xã hội, đã coi tư duy là cách thức tổ chức cao nhất của tinh thần trong việc hình thành tư tưởng về thế giới: “Tư duy là phương thức cao nhất của những hoạt động tổ chức của tinh thần, mà bằng và qua ngôn ngữ, nó thiết lập quan niệm về thực tại và về cách nhìn thế giới của nó” [22,tr.286]. Quan niệm Tư duy không chỉ là hoạt động phản ánh, nhận thức mà còn là hoạt động giải quyết vấn đề, thực sự đã là một bước tiến trong quan niệm về “tư duy”. Một số định nghĩa hợp thành quan niệm này như sau: Từ điển Triết học viết: “Tư duy là quá trình tích cực qua đó, thế giới khách quan được phản ánh trong các khái niệm, phán đoán, lý thuyết, và nó 10
  14. gắn với việc giải quyết các vấn đề, là sản phẩm cao nhất của dạng vật chất được tổ chức một cách đặc biệt, đó là bộ não”[dẫn theo 10,tr.8]. Trong định nghĩa này, tư duy không chỉ là sự phản ánh thế giới mà còn gắn với việc giải quyết vấn đề. Theo V.A. Lektorski, “Tư duy là quá trình giải quyết các vấn đề, đó là quá trình chuyển dịch từ các điều kiện tạo lập vấn đề đến việc thu nhận các kết quả giải quyết vấn đề đặt ra. Tư duy định hướng hoạt động kiến thức tích cực nhằm kiến tạo lại những dữ liệu ban đầu bằng các thao tác phân tích, tổng hợp, bổ sung” [dẫn theo 10,tr.8]. Như vậy, định nghĩa nêu rất rõ tư duy là hoạt động giải quyết vấn đề đặt ra, hơn nữa, tư duy còn định hướng trong hoạt động nhận thức. Trong cuốn Đặc điểm tư duy và lối sống của con người Việt Nam hiện nay: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn (Nguyễn Ngọc Hà chủ biên, 2 11), tư duy được tiếp cận là một phức hợp các đặc trưng cơ bản. “Tư duy thuộc phạm trù tâm lý, hay là chức năng tâm lý của cơ thể con người; - Tư duy thuộc cấp độ ý thức, hữu thức của hoạt động tâm lý (đó là tâm trí, trí năng, lý trí, trí tuệ); - Tư duy là năng lực nhận thức lý tính với các hình thức cơ bản của nó là: Khái niệm, phán đoán, nhận định, lập luận; - Tư duy là quá trình phản ánh tinh thần, hoạt động trí óc bao gồm các quá trình sản xuất, trao đổi, phân phối, sử dụng tri thức và tư tưởng” [10,tr.9]. Chẳng hạn, các tác giả Lê Hữu Nghĩa, Phạm Duy Hải quan niệm: tư duy là giai đoạn cao, trình độ cao của quá trình nhận thức thế giới của con người, là sự phản ánh có tính chất gián tiếp, trừu tượng và khái quát sự vật, hiện tượng bằng các khái niệm, phạm trù, phán đoán, suy luận, v.v và nhờ đó mà phản ánh những mặt, những mối liên hệ chung, bản chất, có tính tất yếu của các khách thể nhận thức [23, tr.10]. Trên cơ sở thế giới quan duy vật biện chứng và kế thừa các định nghĩa nêu trên, tư duy trong Khóa luận này được hiểu là một quá trình tinh thần gồm những thao tác, cách thức liên kết, biến đổi dữ kiện tinh thần của não bộ (có sự ảnh hưởng trực tiếp ít nhiều của các yếu tố tâm lý, sự phối hợp của hoạt động cơ 11
  15. thể trong một số trường hợp) nhằm hình thành ý tưởng, lời giải của vấn đề đặt ra. Theo quan điểm duy vật biện chứng, thứ nhất, tư duy là quá trình phản ánh hiện thực khách quan vào não bộ con người trên cơ sở thực tiễn. Khi phê phán quan điểm của Hêghen về tư duy: “Đối với Hêghen, quá trình tư duy - mà ông ta thậm chí còn biến thành một chủ thể độc lập dưới cái tên gọi ý niệm – chính là vị thần sáng tạo ra hiện thực” [15; 35], C.Mác cho rằng: “Ý niệm chẳng qua chỉ là vật chất được di chuyển vào trong đầu óc con người và được cải biến đi ở trong đó” [15; 35]. Thuật ngữ “ý niệm” C.Mác dùng ở đây chính là nói về tư duy. Quan điểm này cho thấy, tư duy là sản phẩm của cơ quan vật chất sống có tổ chức cao là bộ não người và mọi nội dung phản ánh của tư duy suy đến cùng đều có nguồn gốc từ hiện thực khách quan và dựa trên cơ sở hoạt động thực tiễn. Hoạt động tư duy phụ thuộc vào hoạt động và tổ chức của bộ não người. Não động vật không tư duy dù cho có được đặt trong trình độ văn minh phát triển cỡ nào chăng nữa. Chỉ có não người với tư cách là sản phẩm tiến hóa cao nhất của tự nhiên với hàng tỷ nơron thần kinh, hàng tỷ các mối dây liên kết giữa chúng mới có thể tư duy. Tuy nhiên, tư duy không đồng nhất với não, tư duy không thể thiếu bộ não người nhưng trong bộ não được hiểu một cách sinh học thuần túy không thể có tư duy. Bộ não người – cơ quan vật chất của tư duy, chỉ là một trong những yếu tố cơ sở cho sự sinh thành của tư duy. Thế giới khách quan là đối tượng của tư duy, quyết định tư duy của con người; tư duy chẳng qua chỉ là sự phản ánh hiện thực, sáng tạo lại hiện thực dưới dạng các hình ảnh tinh thần. Do vậy, đối tượng của tư duy không chỉ là giới tự nhiên như nó vốn có mà còn là thế giới đã được cải biến bởi con người. Tuy nhiên, sự phản ánh đó luôn dựa trên cơ sở thực tiễn. Hoạt động thực tiễn – hoạt động “vật thể - cảm tính” mang tính lịch sử - cụ thể, nơi diễn ra sự tương tác giữa con người với tự nhiên, giữa con người với con người, hoạt động hướng đến cải tạo thế giới khách quan chính là nguồn gốc hình thành, phát triển của tư duy. Thông qua quá trình tác động, cải biến thế giới khách quan, con người phát 12
  16. hiện, nắm bắt bản chất, tính lôgic của sự vật, quá trình tương tác, biến đổi của chúng. Sự phản ánh của tư duy không thể tách rời hoạt động sống của con người xã hội, những nhu cầu thực tiễn, những tương tác giữa con người với con người, những kinh nghiệm lịch sử - xã hội đã được tích lũy. Như vậy, tư duy là một hiện tượng gắn liền với con người không chỉ theo nghĩa con người với não bộ phát triển mà còn là con người trong các mối quan hệ xã hội, trong quá trình hoạt động thực tiễn cải tạo như nhiên, xã hội. Thứ hai, tư duy phản ánh hiện thực khách quan một cách đặc thù. Tư duy là trình độ cao của quá trình nhận thức, nhờ khả năng trừu tượng hóa và khái quát hóa, sự phản ánh trong tư duy không còn mang tính chất trực tiếp, bề ngoài mà đi sâu khái quát, nắm bắt bản chất, tính quy luật của đối tượng và được thể hiện dưới hình thức ngôn ngữ. Thông qua quá trình phản ánh có tính khái quát, gián tiếp đó, các biểu tượng, hình tượng, khái niệm, phán đoán được hình thành và lưu giữ trong tư duy như những hình ảnh tinh thần về hiện thực khách quan. Là sự phản ánh hiện thực khách quan nhưng giữa tư duy và hiện thực khách quan vừa có sự đồng nhất vừa khác biệt, tức là có sự phân biệt giữa đối tượng được phản ánh và sự phản ánh về đối tượng. Ngay cả khi tư duy ở trình độ lý luận có khả năng phản ánh cái chung, cái bản chất, cái có tính quy luật của hiện thực thì tư duy cũng không hoàn toàn đồng nhất với đối tượng phản ánh. Một mặt, do tư duy là sự phản ánh có biến đổi, cải biến nhờ khả năng trừu tượng hóa, khái quát hóa. Mặt khác, cả tư duy lẫn chủ thể của tư duy đều không ngừng vận động, biến đổi và năng lực nhận thức của chủ thể còn chịu sự tác động của trình độ phát triển của thực tiễn xã hội. Vì vậy, bản chất của tư duy là sự phản ánh các tính quy luật và bản chất của thế giới khách quan nhưng “Đó không phải là sự phản ánh đơn giản, trực tiếp, hoàn chỉnh, mà là một quá trình cả một chuỗi những sự trừu tượng, sự cấu thành, sự hình thành ra các khái niệm, quy luật Con người không thể nắm được = phản ánh = miêu tả toàn bộ giới tự nhiên một cách đầy đủ, “tính chỉnh thể trực tiếp của nó” con người chỉ có thể đi gần mãi đến đó, bằng cách tạo ra những trừu tượng, những khái niệm, những quy luật, một bức tranh khoa học về thế giới” [17; 192 - 193]. 13
  17. Từ những phân tích trên có thể rút ra: tư duy là quá trình phản ánh bản chất của hiện thực khách quan vào bộ não con người trên cơ sở thực tiễn tạo ra các tri thức, tư tưởng. Các yếu tố cấu thành hoạt động tư duy bao gồm: chủ thể tư duy, đối tượng tư duy, sản phẩm của tư duy và điều kiện của tư duy. Chủ thể của tư duy là con người xã hội riêng biệt hoặc tập thể sống động với các đặc điểm sinh lý, tâm lý, trải nghiệm sống, với một cá tính riêng và mỗi đặc điểm đó tác động đến tư duy theo những cách khác nhau. Chủ thể của tư duy vừa là một nhân cách độc đáo, vừa là con người xã hội. Đó là chủ thể sống động với các đặc điểm sinh lý, tâm lý, trải nghiệm sống, với một cá tính riêng và mỗi đặc điểm đó tác động đến tư duy theo những cách khác nhau. Tư duy – năng lực bản chất người mang tính xã hội không được quy về như là đặc tính riêng có của cá nhân, dù là tư duy của thiên tài. Đối tượng của tư duy là toàn bộ hiện thực khách quan từ tự nhiên, xã hội cho đến chính tư duy, đây là nguồn gốc của toàn bộ nội dung phong phú của tư duy. Không chỉ những khách thể thuộc giới tự nhiên chưa được nhận thức mà cả thế giới đã được “người hóa” trong tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại đều là đối tượng tư duy phản ánh. Sản phẩm của tư duy là tri thức, tư tưởng. Là tư tưởng nhưng lại được biểu hiện ra như hình thức của vật trong hoạt động của con người, chúng cấu thành một hiện thực đặc thù tồn tại trong cùng không gian với hiện thực vật chất nhưng không hòa tan vào nó. Thế giới các khách thể đặc biệt đó thể hiện vừa như là sản phẩm, đồng thời là đối tượng, điều kiện của chính tư duy. Điều kiện diễn ra hoạt động tư duy là môi trường tự nhiên, văn hóa – xã hội, trong đó thực tiễn đóng vai trò quyết định. Thực tiễn quy định mục đích, phương hướng phát triển của tư duy, đồng thời là tiêu chuẩn kiểm tra chân lý, tính chân thực và ý nghĩa xã hội phổ quát của các tri thức, tư tưởng. Tiêu chuẩn logic cũng không thể thiếu trong quá trình lập luận, trong việc rút ra những kết luận chân thực, là vô cùng cần thiết cho tư duy đúng đắn. Các tri thức nguồn của tư duy là những tri thức đã có, mà xuất phát từ đó tư duy sẽ tiếp diễn để đạt tới những tri thức mới thường là sâu sắc hơn. Công cụ diễn đạt nội dung của tư duy thường là hệ thống ngôn ngữ được xây dựng một cách chặt chẽ, chính xác, rõ ràng và được sử dụng tương đối thống nhất. Tư 14
  18. duy khoa học cần có và phải được xây dựng trên một hệ thống từ vựng phong phú, đa dạng, với những cấu trúc ngôn ngữ phức tạp và tinh tế. Về bản chất, tư duy là sản phẩm của bộ óc người, là quá trình phản ánh hiện thực khách quan bởi bộ óc con người; là sản phẩm của sự phát triển đa dạng, phong phú của đời sống xã hội. Sự xuất hiện của tư duy đánh dấu bước phát triển căn bản của nhận thức con người khi nhận thức đạt tới trình độ có thể nắm bắt được bản chất, quy luật của hiện thực khách quan; phản ánh được những thuộc tính bản chất, những mối liên hệ, quan hệ bên trong có tính quy luật của sự vật, hiện tượng trong thế giới hiện thực. Các hình thức cơ bản của tư duy gồm: khái niệm, phán đoán và suy luận. Trong tư duy khoa học, khái niệm đóng vai trò hết sức quan trọng. Khái niệm phản ánh những mối liên hệ và thuộc tính bản chất, phổ biến của một tập hợp các sự vật, các hiện tượng; là phương tiện để con người tích lũy thông tin, suy nghĩ và trao đổi tri thức với nhau. Khi các khái niệm được hình thành, con người liên kết chúng để khẳng định hoặc phủ định một thuộc tính hay một mối liên hệ nào đó của hiện thực khách quan, đó chính là phán đoán. Xuất phát từ một hay nhiều phán đoán đã biết làm tiền đề người ta rút ra phán đoán mới làm kết luận, đó chính là suy luận. Mỗi một hình thức của tư duy thực hiện nhiệm vụ của mình trong quá trình nhận thức. Nếu một nhiệm vụ nào đó không được thực hiện thì sẽ không có cơ sở để hoàn thành nhận thức khoa học. Mọi quá trình tư duy luôn phải sử dụng các khái niệm, phán đoán, suy luận. Không có các hình thức cơ bản này, con người không thể có tư duy đang nhận thức. Việc xây dựng và vận dụng các hình thức này trong hoạt động nhận thức và thực tiễn có ý nghĩa rất quan trọng để có thể nhận thức được hiện thực khách quan, cũng như vận dụng các tri thức có được vào cuộc sống. Đồng thời, việc xây dựng các hình thức này cũng phải tuân theo các quy tắc nhất định. Khái niệm, phán đoán, suy luận, hình ảnh, biểu tượng diễn ra trực tiếp trong não bộ. Đây là hình thức biểu hiện trực tiếp của tư duy. Trong sự biểu hiện này, bộ máy của tư duy đang hoạt động là dấu hiệu quan trọng nhất để nhận biết chủ thể đang tiến hành tư duy. Ngôn ngữ dưới dạng lời nói và chữ viết, hình 15
  19. ảnh, hình vẽ, truyền tải nội dung tư tưởng của tư duy. Đây là hình thức biểu hiện gián tiếp nội dung tư tưởng của tư duy. Các sản phẩm do con người chế tạo ra, ở hình thức này, tư duy chỉ biểu hiện ra ở góc độ kết quả của tư duy trong đó nội dung tư tưởng của tư duy hòa với những tính chất của chính những vật thể là sản phẩm. Do vậy, nội dung của tư duy không được biểu hiện độc lập mà có sự kết hợp đan xen với nội dung vật chất của vật thể. Tư duy là đối tượng phức tạp, nhiều chiều cạnh, phản ánh hiện thực ở nhiều cấp độ, tầng diện khác nhau. Cách tiếp cận hệ thống - cấu trúc - chức năng về bản chất của tư duy sẽ đưa lại cơ sở phân loại tư duy một cách hợp lí để thấy ra mối liên hệ thống nhất giữa các loại hình của nó. Dưới đây là một số cách phân loại tư duy theo định hướng của tác giả nhằm tìm ra những gì cần thiết từ vai trò của tư duy cho kỹ năng của sinh viên. * Dựa vào năng lực thực hiện các thao tác có thể phân chia tư duy thành: - Tư duy phân tích: là tư duy của chủ thể nhất định sử dụng một cách đúng đắn, hiệu quả thao tác phân tích trong quá trình giải quyết vấn đề. - Tư duy tổng hợp: là tư duy của chủ thể nhất định sử dụng một cách đúng đắn, hiệu quả thao tác tổng hợp trong quá trình giải quyết vấn đề. - Tư duy khái quát: là tư duy của chủ thể nhất định sử dụng một cách đúng đắn, hiệu quả thao tác khái quát trong quá trình giải quyết vấn đề. - Tư duy trừu tượng: là tư duy của chủ thể nhất định sử dụng một cách đúng đắn, hiệu quả quá trình tư duy tưởng tượng, trừu tượng hóa trong quá trình giải quyết vấn đề. * Dựa vào Bộ nguyên tắc, phương pháp mà tư duy sử dụng trong quá trình giải quyết vấn đề, nó được phân chia thành: Tư duy biện chứng: là tư duy sử dụng một cách hiệu quả những nguyên tắc, phương pháp của phép biện chứng (một cách tự giác hay tự phát) trong quá trình giải quyết vấn đề. Ở đây nổi lên các loại hình đáng chú ý đối với đề tài là tư duy phê phán, tư duy phản biện, tư duy sáng tạo. 16
  20. Tư duy siêu hình: là tư duy sử dụng một cách hiệu quả nguyên tắc “cô lập” - tách, “tĩnh tại” - dừng đối tượng để nhận diện nó một cách tường minh, chính xác hơn nhằm giải quyết vấn đề một cách tốt nhất. Tư duy hệ thống: là tư duy sử dụng một cách hiệu quả các nguyên tắc, phương pháp hệ thống. Tư duy logic: là tư duy sử dụng một cách hiệu quả các nguyên tắc, phương pháp của logic học hình thức (một cách tự giác hoặc tự phát). Trong tất cả các loại hình tư duy nêu trên, theo tác giả các loại hình tư duy cần thiết cho sinh viên đó là: tư duy phê phán, tư duy phản biện, tư duy sáng tạo. Việc nắm bắt tốt các loại tư duy này sẽ là nền tảng giúp sinh viên rèn luyện, phát triển các kỹ năng mềm cho bản thân một cách hiệu quả nhất. Các loại tư duy này sẽ có sự bổ trợ, tác động lẫn nhau trong quá trình rèn luyện kỹ năng mềm của sinh viên. 1.1.2. Khái niệm “Giáo dục kỹ năng mềm” Trước tiên, cần phải hiểu thế nào là kỹ năng. Kỹ năng liên quan đến các cử chỉ, hành động và áp dụng kiến thức. Đó là những hành động khi thực hiện cho phép thực hiện thành công công việc tổ chức, lập kế hoạch, quản lý nhóm làm việc. Kỹ năng làm việc là một trong những yếu tố quyết định đến sự thành công trong sự nghiệp của cá nhân người lao động và tác động trực tiếp đến kết quả sản xuất, kinh doanh của từng cơ quan, doanh nghiệp. Bên cạnh thuật ngữ “kỹ năng sống” được phổ biến một cách rộng rãi trong lĩnh vực giáo dục và xã hội thì thuật ngữ “kỹ năng mềm” (Soft Skills) cũng là một trong những vấn đề được quan tâm - nhất là đối với sinh viên. Ngày nay, trình độ học vấn và bằng cấp chưa đủ cho việc quyết định tuyển dụng lao động của nhiều doanh nghiệp và người sử dụng lao động. Nhà tuyển dụng còn căn cứ vào yếu tố cá nhân như sự nhạy bén khi xử lý công việc và giao tiếp của mỗi người lao động, , các yếu tố này thường được gọi là “kỹ năng mềm”. Hiện nay, dù kỹ năng mềm đã chứng minh được sức ảnh hưởng to lớn đến sự thành bại trong sự nghiệp và cuộc sống của mỗi cá nhân, nhưng tầm quan 17
  21. trọng của nó lại chưa được nhiều người (trong đó có sinh viên) quan tâm đúng mức. Có khá nhiều quan niệm khác nhau hay định nghĩa khác nhau về kỹ năng mềm tuỳ theo lĩnh vực nghề nghiệp, góc nhìn chuyên môn, ngữ cảnh phát biểu và thậm chí là việc đặt thuật ngữ này bên cạnh những thuật ngữ nào. Hiểu một cách đơn giản kỹ năng mềm là những kỹ năng con người tích luỹ được để làm cho mình dễ dàng được chấp nhận, làm việc thuận lợi và đạt được hiệu quả. Tác giả Nguyễn Thị Mỹ Lộc [18-21] cho rằng kỹ năng mềm là thuật ngữ dùng để chỉ các kỹ năng thuộc về trí tuệ cảm xúc (EQ) của con người như: một số nét tính cách (quản lý thời gian, thư giãn, vượt qua khủng hoảng, sáng tạo và đổi mới), sự tế nhị, kỹ năng ứng xử, thói quen, sự lạc quan, chân thành, kỹ năng làm việc theo nhóm Đây là những yếu tố ảnh hưởng đến sự xác lập mối quan hệ với người khác. Những kỹ năng này là những thứ thường không được học trong nhà trường, ít liên quan đến kiến thức chuyên môn, không thể sờ nắm, nhưng không phải là kỹ năng đặc biệt mà phụ thuộc chủ yếu vào cá tính của từng người. Kỹ năng mềm quyết định bạn là ai, làm việc thế nào và là thước đo hiệu quả cao trong công việc. Kỹ năng mềm (soft skills) là một thuật ngữ xã hội học dùng để chỉ các kỹ năng tinh thần hay những kỹ năng tâm lý – xã hội, giúp cho mỗi cá nhân tồn tại và thích ứng tốt với cộng đồng, cuộc sống. Kỹ năng mềm là một khái niệm có nội hàm khá bất định nên ngoại diên có thể được xác định rất rộng, có rất nhiều kỹ năng cụ thể. Kỹ năng mềm thường liên quan đến việc sử dụng ngôn ngữ, khả năng hòa nhập xã hội, thái độ và hành vi ứng xử được sử dụng trong việc giao tiếp giữa người với người như: kỹ năng giao tiếp, kỹ năng lãnh đạo, kỹ năng phản biện, kỹ năng phán xét, kỹ năng làm việc theo nhóm, kỹ năng quản lý thời gian, kỹ năng sáng tạo và đổi mới, kỹ năng tư duy sáng tạo Như vậy, theo cách định nghĩa trên thì thuật ngữ kỹ năng mềm dùng để chỉ các kỹ năng quan trọng trong cuộc sống của con người. Đó chính là hành vi ứng xử của mỗi người, là cách tương tác, cách làm việc với bạn bè, đồng nghiệp. Tồn tại song song với những yêu cầu về mặt chuyên môn thì kỹ năng mềm cũng là nhân tố có vai trò rất quan trọng trong việc quyết định thành công hay thất 18
  22. bại, hiệu quả hay chất lượng yếu kém trong công việc và hoạt động thực tiễn. Đa phần sinh viên hiện nay thiếu các kỹ năng cần thiết như: kỹ năng phản biện, kỹ năng kỹ năng giao tiếp, kỹ năng đàm phán, kỹ năng xác định mục tiêu công việc, kỹ năng quản lý thời gian hiệu quả, kỹ năng làm việc nhóm, kỹ năng tư duy sáng tạo, kỹ năng làm chủ bản thân, Như vậy, với khái niệm kỹ năng mềm có nhiều cách tiếp cận khác nhau, bằng cách tổng – tích hợp chúng, khóa luận sử dụng khái niệm Kỹ năng mềm theo nghĩa là hệ thống các kỹ năng cơ bản được thực hiện tự giác dựa trên tri thức về công việc, khả năng hòa nhập xã hội, thái độ và hành vi ứng xử hay tương tác với xã hội, cộng đồng, bạn bè, đồng nghiệp, đối tác, tổ chức của mỗi cá nhân nhằm phát huy tối đa hiệu quả công việc và thành đạt trong cuộc sống. Bản chất của KNM được hiểu như sau: Thứ nhất, KNM là hệ thống những kỹ năng cơ bản, đòi hỏi mỗi cá nhân phải vận dụng đồng bộ, sáng tạo trong mọi công việc. KNM không phải là bẩm sinh hay sản phẩm tự nhiên mà nó được hình thành do con người được học tập và tự rèn luyện, trải nghiệm trong môi trường học tập, công việc và xã hội. Thứ hai, KNM không phải là KN chuyên môn, nhưng nó có mối liên hệ hữu cơ với KN chuyên môn. KN chuyên môn có vai trò định hướng và hình thành điều kiện, tiền đề cho KNM trong hoạt động thực tiễn của con người. Đồng thời trong hoạt động thực tiễn KNM tạo điều kiện để KN chuyên môn được thực hiện và phát triển. Thứ ba, KNM nói lên khả năng hòa nhập xã hội, hành vi ứng xử của mỗi con người, cách thức tương tác với bạn bè, đồng nghiệp, đối tác, tổ chức Khi xã hội và nghề nghiệp thay đổi thì cá nhân cũng phải thay đổi KNM để thích ứng và phát triển. Vì vậy việc học tập, bồi dưỡng, hoàn thiện, nâng cao KNM là công việc thường xuyên, liên tục đối với mỗi cá nhân, đặc biệt là sinh viên. Kỹ năng mềm khác với kỹ năng cứng (hard skills, để chỉ trình độ chuyên môn, trình độ học vấn hay bằng cấp và chứng chỉ chuyên môn. Kỹ năng cứng sẽ được thể hiện trên lý lịch, hồ sơ xin việc). Như tên gọi, kỹ năng cứng mang tính cứng nhắc, còn kỹ năng mềm mang tính mềm dẻo, linh động tùy thuộc vào hoàn cảnh, môi trường và tương tác giữa người và người trong cuộc sống, công việc. 19
  23. Do vậy, các kỹ năng cứng thường liên quan, gắn kết nhiều hơn đến sự phát triển của bán cầu não trái, trong khi kỹ năng mềm chịu ảnh hưởng lớn hơn của bán cầu não phải. Kỹ năng cứng có thể được học tại trường, còn kỹ năng mềm thường được lĩnh hội qua trải nghiệm thực tế, các khóa học ngoại khóa Kỹ năng mềm không thể hiện dưới dạng hữu hình có thể đo đếm được hay được chứng nhận thông qua bằng cấp như năng lực chuyên môn mà nó được thể hiện thông qua thái độ, cách thể hiện cũng như khả năng tư duy, nhìn nhận vấn đề của con người. Việc xác lập định nghĩa về kỹ năng mềm là một việc làm hết sức khó khăn, vì vậy phân tích các đặc điểm của kỹ năng mềm càng không phải là vấn đề đơn giản. Tuy vậy, vẫn có thể nhấn mạnh đến những đặc điểm cơ bản sau: Kỹ năng mềm không phải là yếu tố thuộc về bẩm sinh của con người và cũng không chỉ là biểu hiện của trí tuệ cảm xúc. Ở một vài định nghĩa đã đề cập cũng như quan điểm của một số tác giả, kỹ năng mềm liên quan chặt chẽ đến khả năng tương tác với người khác và được xem là biểu hiện của chỉ số trí tuệ cảm xúc (EQ – Emotional Quotient). Mỗi cá nhân đều có trí tuệ cảm xúc, nhưng trí tuệ cảm xúc đó phải đạt đến một mức độ cụ thể nào đó mới có thể được gọi là kỹ năng. Kỹ năng mềm được hình thành bằng con đường trải nghiệm đích thực chứ không phải là sự “nạp” kiến thức đơn thuần. Kỹ năng mềm không thể “cố định” - như nhau ở những ngành nghề khác nhau. Mỗi ngành nghề khác nhau sẽ có một mô hình kỹ năng nghề khác nhau. Chính trong việc xác định kỹ năng nghề thì những kỹ năng cơ bản và đặc trưng mang tính chuyên môn - nghiệp vụ và những kỹ năng mềm cũng chưa được phân định rạch ròi. Nhưng một thực tế không thể phủ nhận là ở mỗi một nghề nghiệp sẽ có những kỹ năng nghề nghiệp cơ bản và những kỹ năng hỗ trợ nghề nghiệp theo hướng giúp chủ thể nghề nghiệp thích ứng - thích nghi, dễ hoà nhập với môi trường mang tính “xã hội”, chủ động và linh hoạt để vận dụng - triển khai kỹ năng nghề nghiệp, đó chính là kỹ năng mềm. Tiếp theo là khái niệm Giáo dục KNM, GD KNM là quá trình tác động có mục đích, có kế hoạch đến người học nhằm hình thành các thói quen và thay đổi 20
  24. hành vi người học, tác động vào nhận thức, làm nảy nở thái độ cầu tiến trong ý thức bản thân của mỗi cá nhân để từ đó tự điều khiển thái độ hành vi giao tiếp giữa người với người. Giáo dục KNM bao gồm hệ thống phương pháp, cách thức của nhà GD dùng để tác động đến nhận thức, thái độ người học đồng thời kết hợp huấn luyện cho người học những hoạt động, hành vi tương ứng nhằm hình thành kỹ năng. Trong cách hiểu nêu trên, cần lưu ý một số vấn đề sau về GD KNM: Thứ nhất: GD KNM là quá trình tác động đến người học về mặt kỹ năng, tinh thần, thái độ, đảm bảo cho quá trình thích ứng của con người với con người, con người với công việc nhằm duy trì tốt mối quan hệ tích cực, biết ứng xử linh hoạt trong công việc, trong cuộc sống và hỗ trợ thực hiện công việc chuyên môn đạt hiệu quả cao. Thứ hai: GD KNM có các ý nghĩa sau đây: giúp con người đạt được hiệu quả sử dụng ngôn ngữ, khả năng hòa nhập xã hội, thái độ và hành vi ứng xử áp dụng vào việc giao tiếp giữa người với người; giúp từng cá thể riêng biệt biết cách hòa mình vào cuộc sống hay tương tác với xã hội, cộng đồng, tập thể hoặc tổ chức và hướng đến hiệu quả hay đỉnh cao của việc làm hay nghề nghiệp. GD KNM hướng đến phát triển năng lực hành vi mà đặc biệt là những kỹ năng cá nhân hay kỹ năng con người, gắn liền với những thể hiện của tính cách cá nhân trong một tương tác cụ thể, đó là kỹ năng chuyên biệt rất “người” của con người. Thứ ba: Hoạt động GD KNM phải được tổ chức rất linh hoạt, mềm dẻo giúp người học có cơ hội học tập theo nhu cầu, điều kiện và khả năng của mình. Người học có thể tham gia trọn vẹn một khóa học tập, huấn luyện tại các trung tâm huấn luyện KNM trong khoảng thời gian nhất định; cũng có thể tự rèn luyện thông qua quá trình học tập ở trường ĐH hoặc thông qua hoạt động đoàn thể, phong trào hoặc tự rèn luyện qua trải nghiệm ngoài thực tiễn xã hội. Quá trình học tập, rèn luyện KNM có thể diễn ra suốt đời, mọi lúc, mọi nơi trong thực tiễn cuộc sống và công việc. Trong đó, yếu tố tự GD đóng vai trò cốt lõi, quyết định đến sự thành công của đối tượng được GD. 21
  25. 1.2. Các yếu tố hợp thành công tác Giáo dục kỹ năng mềm cho sinh viên 1.2.1. Đối tượng và mục đích giáo dục kỹ năng mềm cho sinh viên Đối tượng giáo dục kỹ năng mềm trong khóa luận chính là sinh viên, cụ thể là sinh viên trường Đại học KHXH&NV. Sinh viên được hiểu là người học tập tại các trường đại học, cao đẳng. Ở đó họ được truyền đạt kiến thức bài bản về một ngành nghề, chuẩn bị cho công việc sau này. Họ được xã hội công nhận qua bằng cấp đạt được sau quá trình học tập. Giáo dục KNM cho SV nhằm mục tiêu tạo ra sản phẩm đào tạo (lao động trình độ cao) có phẩm chất và năng lực đáp ứng yêu cầu xã hội, thích ứng nhanh với môi trường làm việc cạnh tranh có tính quốc tế cao hiện nay. Góp phần nâng cao chất lượng đào tạo của nhà trường. Mục tiêu của GD KNM tập trung vào các điểm sau: Giúp SV nắm bắt được lý thuyết cơ bản về các KNM cần thiết phục vụ cho công việc và bản thân, đóng góp vào sự phát triển của tổ chức và xã hội. Trang bị cho sinh viên các KN giúp phát triển tiềm năng bản thân, phát triển các kỹ năng mềm thiết yếu cho SV. Rèn luyện cho sinh viên khả năng thích ứng, biết cách ứng phó trước những tình huống căng thẳng, khó khăn trong hoạt động hàng ngày; biết cách thích nghi với người khác trong phối hợp làm việc. Tạo ra cho sinh viên những cơ hội, hướng suy nghĩ, hướng đi tích cực và tự tin cũng như giúp SV tự có quyết định và chọn lựa đúng đắn trong các vấn đề liên quan đến công việc, cuộc sống Tạo lập môi trường phát triển KNM để SV phát huy tối đa năng lực học tập, nghiên cứu khoa học và lập nghiệp; góp phần vào quá trình nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực. Nội dung GD KNM phải tập trung đào tạo kỹ năng thực hành, coi trọng giáo dục nhận thức, rèn luyện kỹ năng thích ứng theo yêu cầu của từng ngành nghề, nâng cao kỹ năng vận dụng các kiến thức chuyên môn áp dụng vào thực tiễn công việc. Ngoài ra công tác giáo dục kỹ năng mềm cho sinh viên còn giúp đạt được các mục tiêu sau: Thứ nhất, về kiến thức: giúp sinh viên hiểu được khái niệm kỹ năng mềm nói chung và từng kỹ năng mềm nói riêng cũng như sự cần thiết, cách biểu hiện các kỹ năng trong cuộc sống và công việc. Thứ hai, về thái độ: sinh 22
  26. viên có thái độ tích cực trong quá trình học tập và rèn luyện kỹ năng mềm từ đó có thái độ phù hợp trước các vấn đề trong cuộc sống và công việc. Thứ ba, về kỹ năng mềm: sinh viên biết vận dụng các kỹ năng mềm trong cuộc sống và công việc, liên tục rèn luyện để phát triển. 1.2.2. Các loại chủ thể giáo dục kỹ năng mềm cho sinh viên Chủ thể giáo dục là bộ phận then chốt quyết định sự thành bại của công việc. Chủ thể GD KNM cho sinh viên bao gồm: Nhà trường (đội ngũ cán bộ, giảng viên, các phòng chức năng, Ban giám hiệu, Đoàn thanh niên, Hội sinh viên, ); xã hội; gia đình và bản thân sinh viên. Muốn phát triển kỹ năng mềm cho sinh viên đòi hỏi tất cả các loại chủ thể nêu trên phải hoạt động tích cực trong sự phối hợp tương tác với nhau, trong đó sinh viên là tự chủ thể thể cần phát huy nhiều nhất tính chủ động tích cực trong việc học hỏi, nâng cao các kỹ năng mềm. Thứ nhất, đội ngũ tổ chức triển khai hoạt động GD KNM Đội ngũ tổ chức triển khai hoạt động GD KNM cho SV ở các trường ĐH gồm các bộ phận sau: Chủ thể là các giảng viên môn học chuyên môn của các khoa, giảng viên chủ nhiệm lớp, cố vấn học tập, bộ phận xây dựng kế hoạch, đội ngũ GV dạy KNM, đội ngũ cán bộ Đoàn Thanh niên, Hội Sinh viên trong nhà trường. Tất cả các đội ngũ nói trên phải có năng lực về lĩnh vực GD KNM, phải có ý chí quyết tâm vượt khó vì hoạt động GD KNM là hoạt động có tính chất đặc thù, không ít khó khăn trong quá trình thực hiện. Với lý do trên có thể nhận thấy rằng đội ngũ trực tiếp làm công tác GD KNM cho SV ở trường ĐH nếu có năng lực và ý chí quyết tâm cao thì hoạt động GD KNM sẽ đạt hiệu quả và tất nhiên đây cũng nhân tố quan trọng góp phần vào hiệu quả hoạt động GD KNM ở trường Đại học. Thứ hai, khả năng tự GD và rèn luyện KNM của SV Ngoài các chủ thể trên còn có một chủ thể khác cũng góp không kém phần quan trọng nếu như không nói là phần quan trọng nhất vào việc giáo dục KNM cho SV, đó chính là bản thân sinh viên. Trong trường hợp này, sinh viên 23
  27. vừa là đối tượng, vừa là chủ thể của quá trình giáo dục đó. Bởi vì giáo dục học hiện đại xác định sinh viên vừa là đối tượng giáo dục vừa là chủ thể của quá trình giáo dục và lấy người học làm trung tâm, giáo viên là chủ đạo trong mối tương tác vốn có của quá trình giáo dục và coi một nền giáo dục chân chính là nền giáo dục biết biến quá trình giáo dục thành tự giáo dục. Hoạt động GD KNM sẽ đạt hiệu quả cao khi SV hình thành ý thức tự GD và rèn luyện KNM cho bản thân. KNM không thể có được nếu SV chỉ tham gia các khóa đào tạo, huấn luyện KNM của GV vì việc hình thành KN phải trải qua quá trình rèn luyện được lặp đi, lặp lại nhiều lần thì mới hình thành KN. Khả năng tự GD sẽ ảnh hưởng rất lớn và tác động trực tiếp đến quá trình tự rèn luyện nhằm mục tiêu hình thành KNM cho bản thân thông qua hoạt động học tập chính khóa trên lớp, hoạt động phong trào, hoạt động ngoại khóa. Thứ ba, nguồn lực hỗ trợ hoạt động GD KNM Doanh nghiệp có vai trò quan trọng trong việc phổ biến, truyền đạt những yêu cầu về KNM mà doanh nghiệp đang cần ở người lao động hiện nay. Những kiến thức này mang tính thực tiễn và tính cấp thiết rất cần cho SV. Đặc biệt, nếu đại diện doanh nghiệp có thể trực tiếp tham gia GD - huấn luyện KNM cho SV thì càng nâng cao hiệu quả GD KNM ở trường Đại học. Nói cách khác là doanh nghiệp cùng tham gia vào quá trình ĐT với nhà trường. Các hoạt động phong trào trong nhà trường do tổ chức Đoàn, Hội ở trường ĐH tổ chức có liên quan trực tiếp đến GD KNM cho SV vì nó đóng vai trò hỗ trợ rất hiệu quả cho quá trình hình thành, rèn luyện và phát triển KNM cho SV trong thời gian học tại trường. Việc thay đổi tư duy nhận thức là một việc làm khó khăn, đòi hỏi nhiều thời gian và sự kiên trì. Động lực thay đổi bắt nguồn từ yêu cầu thực tế của cuộc sống, đó là câu hỏi day dứt "tồn tại hay không tồn tại"; nó đòi hỏi thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp với quyết tâm cao của nhiều đối tượng và chủ thể liên quan: sinh viên, nhà trường, xã hội 1.2.3. Các hình thức giáo dục kỹ năng mềm a) GD KNM cho SV qua các lớp chuyên đào tạo KNM 24
  28. Các khóa học chuyên đào tạo KNM cho SV chính là hình thức quan trọng nhất để SV hình thành và phát triển KNM. Tuy nhiên, đối với các khóa đào tạo KNM cho SV cần phải được tổ chức đúng phương pháp, cách thức thì mới phát huy tác dụng. Riêng đối với SV cũng phải có sự quyết tâm, nỗ lực của bản thân trong quá trình rèn luyện thì mới có thể gặt hái được thành công bởi vì KNM không phải chỉ học bình thường như những môn chuyên môn khác mà người học phải trải qua quá trình rèn luyện, tương tác, trải nghiệm thì mới có thể thành công. Trong các lớp chuyên đào tạo KNM chủ yếu GV truyền đạt phương pháp, cách thức rèn luyện KNM; việc còn lại là quá trình rèn luyện phải do tự thân SV thực hiện. b) GD KNM cho SV qua tích hợp vào quá trình dạy học Thông qua dạy học, GV có thể tạo điều kiện, môi trường giúp SV hình thành KNM. Tuy nhiên muốn làm được điều đó, GV cần phải áp dụng các phương pháp dạy học cải tiến, người học - đối tượng của hoạt động dạy học đồng thời là chủ thể của hoạt động học tập - được cuốn hút vào các hoạt động học tập một cách chủ động do GV tổ chức và hướng dẫn, thông qua đó người học tự lực khám phá những điều mình chưa rõ chứ không phải thụ động tiếp thu những tri thức đã được GV sắp đặt. Đối với phương pháp giảng dạy tiên tiến, SV được đặt vào những tình huống của đời sống thực tế, được trải nghiệm, được trực tiếp quan sát, thảo luận, giải quyết vấn đề đặt ra theo cách suy nghĩ của mình, vừa thông qua làm việc cá nhân, vừa phải làm việc theo nhóm, từ đó đạt được kiến thức mới, kỹ năng mới, phát huy tiềm năng sáng tạo. Trên cơ sở đó, SV có điều kiện tự rèn luyện và hình thành KNM cho bản thân. c) GD KNM cho SV thông qua tổ chức hoạt động trải nghiệm lao động nghề nghiệp Các hoạt động trải nghiệm lao động nghề nghiệp được tổ chức đảm bảo các yêu cầu sư phạm là cơ hội tốt để SV tiếp cận với môi trường làm việc thực tế; vận dụng thực hành các kỹ năng (KN cứng, KNM), đồng thời học hỏi những kinh nghiệm, hình thành những KN mới trong lao động nghề nghiệp. 25
  29. Sự trải nghiệm lao động nghề nghiệp sẽ giúp SV củng cố kiến thức, thực hành KN, có những thao tác phù hợp để hoàn thiện các KN (KN nghề nghiệp, KNM). d) GD KNM cho sinh viên thông qua hoạt động giáo dục ngoại khóa, qua các hoạt động Đoàn, Hội, sinh hoạt tập thể Tổ chức lớp ngoại khóa về rèn luyện các KNM gắn với môn học, chuyên ngành đào tạo. Nội dung được thiết kế theo chủ đề và được tổ chức hoạt động tương tác, tích cực tạo điều kiện cho SV được hoạt động trong môi trường thuận lợi để rèn luyện và phát triển KNM. Tất cả các trường ĐH hiện nay đều có tổ chức Đoàn Thanh niên, Hội Sinh viên. Đây là hai tổ chức đoàn thể gắn bó chặt chẽ với SV trong suốt thời gian học tại trường ĐH và có chức năng tổ chức các hoạt động phong trào, hoạt động ngoại khóa, các hoạt động vì cộng đồng, tạo sân chơi lành mạnh cho SV tham gia sinh hoạt, vui chơi. Chính quá trình tham gia các hoạt động phong trào ở nhà trường cũng là quá trình SV phát huy hết khả năng của bản thân; tự điều chỉnh nhận thức và hành vi của bản thân; học tập những điều hay từ người khác, kích thích tính năng động, sáng tạo, trải nghiệm thực tiễn và tự tin thể hiện mình trong mọi tình huống. Tất cả những hoạt động vừa nêu chính là con đường để SV tự hình thành và phát triển KNM của bản thân. GD KNM cho SV thông qua tổ chức các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp là hình thức quan trọng giúp SV trải nghiệm, rèn luyện và phát triển KNM. e) GD KNM qua quá trình tự rèn luyện của SV Tự rèn luyện là yếu tố quyết định đến quá trình hình thành và phát triển KNM của SV bởi vì đặc trưng của KNM là phải qua trải nghiệm, tương tác, tiếp xúc giữa con người với con người mới được hình thành. Đối với KNM, SV không thể học thuộc lòng lý thuyết là có KN mà cần phải tự rèn luyện, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn và bổ sung liên tục cho bản thân. Khi tự rèn luyện KNM, sinh viên sẽ biết được bản thân mình đang thiếu những kỹ năng mềm nào và cần bổ sung, rèn luyện, nâng cao các KNM cho bản thân bằng cách gì và thông qua hình thức nào cho phù hợp với điều kiện học tập, sinh hoạt của 26
  30. mình. Điều này sẽ giúp SV luôn không ngừng cố gắng, trau dồi để hoàn thiện các KNM cho bản thân, giúp cho quá trình học tập, nghiên cứu khoa học, làm việc sau này của SV đạt nhiều hiệu quả. Quá trình tự rèn luyện KNM của SV chỉ thật sự hiệu quả khi SV có nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của KNM đối với bản thân, có ý thức và trách nhiệm với việc hình thành KNM ngay trong thời gian học tập tại trường Đại học. 1.2.4. Các phương pháp giáo dục kỹ năng mềm Sử dụng các phương pháp phát huy tính tích cực, chủ động của SV. Tùy theo yêu cầu, điều kiện, hoàn cảnh mà nhà giáo dục vận dụng, phối hợp các phương pháp để đạt hiệu quả tối ưu. Các phương pháp chiếm ưu thế nhằm phát triển KNM cho SV có thể là: Lấy người học làm trung tâm Đây là phương pháp đặt sinh viên vào vị trí trung tâm của giáo dục. Phương pháp này bắt đầu với việc tìm hiểu các môi trường giáo dục liên quan mà sinh viên xuất phát. Sau đó giảng viên hướng dẫn tiếp tục đánh giá tiến độ học của sinh viên so với mục tiêu học, bằng cách giúp cho người học có được các kỹ năng cơ bản để học tập. Phương pháp này tạo nền tảng cho việc học suốt đời, vì vậy sinh viên phải có trách nhiệm với việc học của bản thân. Phương pháp kỹ thuật tạo ra ý tưởng Mục đích chính của phương pháp này là giúp người học thoát ra khỏi tư duy theo lối mòn và tạo ra một loạt các ý tưởng mới. Phương pháp này áp dụng phù hợp với nhóm sinh viên. Phương pháp này có rất nhiều sự khác biệt so với phương pháp truyền thống. Trong đó sự khác biệt cơ bản nhất là vai trò của người học và người dạy. Sự thay đổi này đã biến quá trình học của sinh viên từ thụ động sang chủ động, từ việc nghe giảng sang hoạt động tư duy, làm việc độc lập, làm việc theo nhóm và kích thích khả năng sáng tạo của SV. Phương pháp dự án Đây là mô hình lấy người học làm trung tâm và hòa nhập với những vấn đề thực tiễn của thế giới thực tại. Mục tiêu của phương pháp học theo dự án là để sinh viên học nhiều hơn về một chủ đề chứ không phải là tìm ra những câu 27
  31. trả lời đúng cho những câu hỏi được giáo viên đưa ra. Phương pháp này yêu cầu sinh viên cộng tác với các bạn cùng lớp trong một khoảng thời gian nhất định để giải quyết những vấn đề và cuối cùng trình bày công việc mình đã làm trước giảng viên và các sinh viên khác. Phương pháp này cũng đòi hỏi các sinh viên phải đặt câu hỏi, đồng thời tìm kiếm những mối liên hệ và giải pháp để giải quyết vấn đề. Việc áp dụng phương pháp giảng dạy này sẽ làm thay đổi môi trường học của sinh viên từ chỗ nghe giảng viên nói sang chủ động làm việc, tư duy. Phương pháp học theo nhóm: Đối với phương pháp này, sinh viên sẽ tổ chức thành một nhóm học tập để chia sẻ những kiến thức, hiểu biết và kinh nghiệm để trao đổi, thảo luận, học hỏi lẫn nhau. Phương pháp học này có ưu điểm là các thành viên có thể linh động về mặt thời gian và học hỏi được sự trải nghiệm của các thành viên khác cũng như không phải tốn quá nhiều chi phí. Tuy nhiên, nếu không có người thủ lĩnh nhóm đủ uy tín, không có những quy định cụ thể và sự liên kết giữa các thành viên trong nhóm không chặt chẽ thì sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả học tập của mỗi cá nhân. Ngoài ra cũng có thể kể đến một vài phương pháp giáo dục KNM khác như: Nêu và giải quyết vấn đề; nghiên cứu tình huống; Semina, thảo luận, trò chơi Nên sử dụng linh hoạt, lồng ghép các phương pháp GD KNM với nhau nhằm tạo hứng thú học tập cho SV, giúp cho công tác GD KNM cho SV đạt hiệu quả cao. 1.2.5. Yếu tố tác động đến kỹ năng mềm và giáo dục kỹ năng mềm Các yếu tố tác động đến kỹ năng mềm và giáo dục kỹ năng mềm bao gồm: quá trình học tập của sinh viên, gia đình, môi trường xã hội (kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế, ) đặt ra yêu cầu cần phải nâng cao các kỹ năng mềm cần thiết và hoạt động của các chủ thể nêu trên. Quá trình học tập của SV có những ảnh hưởng ít nhiều đến quá trình rèn luyện KNM của SV như: Về yếu tố gia đình: có thể thấy, thời gian SV ở nhà sẽ nhiều hơn so với thời gian SV học tập trên lớp. Bởi vậy gia đình cũng là một môi trường thích hợp để 28
  32. SV rèn luyện, nâng cao các KNM. Có những gia đình SV với nền tảng bố mẹ, anh chị em đã có vốn KNM nhất định, phong phú, điều này là một lợi thế giúp những SV này có cơ hội tiếp thu, rèn luyện các KNM cho bản thân một cách tối ưu. Tuy nhiên, cũng có những SV có hoàn cảnh gia đình khó khăn, ngoài học trên lớp thì thời gian còn lại phải đi làm thêm kiếm thêm thu nhập lo cho bản thân và phụ giúp gia đình, vì thế mà không còn thời gian để rèn luyện, học tập KNM. Về quá trình học tập của SV: trong lớp khóa học hoặc trong các lớp học phần của sinh viên, sẽ có những SV khác đã có vốn KNM phong phú, đa dạng, điều này sẽ giúp cho SV tự học hỏi lẫn nhau, trau dồi những KN mà bản thân còn thiếu. Khi thấy bạn mình có những cách xử lý, giải quyết mọi vấn đề thông qua những KNM cơ bản, SV sẽ tự nhìn nhận ra được mình cần học tập, nâng cao thêm những gì, từ đó có những phương pháp, kế hoạch rèn luyện KNM một cách cụ thể, khoa học. Môi trường văn hóa – xã hội có ảnh hưởng và tác động rất lớn đến việc hình thành KNM của mỗi SV. Yếu tố văn hóa – xã hội là một hệ thống các giá trị và tiêu chuẩn được hình thành gắn liền với bản sắc, phong tục văn hóa vùng miền, yếu tố truyền thống dân tộc, yếu tố tôn giáo. Chính văn hóa – xã hội là yếu tố bắt nguồn, là cơ sở đầu tiên để hình thành tâm lý, tính cách của mỗi con người và nó ăn sâu vào mỗi con người từ thuở ấu thơ. Yếu tố văn hóa – xã hội chi phối mạnh mẽ toàn bộ đến văn hóa ứng xử, giao tiếp, cách thức tương tác với người khác. Chính vì thế, đối với những SV sớm tiếp cận ở những môi trường văn hóa – xã hội mà ở đó có những điều kiện thuận lợi như diễn ra hoạt động giao lưu, tương tác giữa người này với người khác, thường xuyên giao lưu, tiếp xúc với nhiều người thì sẽ có nhiều cơ hội hình thành KNM hơn so với những n ơi khác SV không có những điều kiện này. Chính vì thế môi trường văn hóa – xã hội nơi SV đang sinh sống, lao động, học tập sẽ có tác động rất lớn đến việc hình thành KNM của SV; đồng thời môi trường văn hóa – xã hội cũng có tác dụng quan trọng “nuôi dưỡng” quá trình tự GD, rèn luyện KNM của SV. Cùng với xu hướng toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ trên Thế giới, Việt 29
  33. Nam ngày càng hội nhập sâu rộng hơn vào mọi mặt của đời sống. Sự phát triển của khoa học và công nghệ đã làm thay đổi cơ cấu ngành trong nền kinh tế, cơ cấu ngành nghề của nhân lực lao động trong xã hội, đòi hỏi giáo dục và đào tạo phải điều chỉnh cơ cấu ngành nghề và cơ cấu trình độ đào tạo sao cho phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế. Trong quá trình hội nhập hiện nay và những năm tới, thị trường lao động (nhu cầu việc làm) tiếp tục phát triển theo chiều hướng đổi mới công nghệ; nâng cao năng lực quản lý; phát triển quy mô sản xuất kinh doanh, quy mô doanh nghiệp tạo nhiều chỗ làm mới thu hút lao động với nhiều ngành nghề đa dạng. Do đó, bên cạnh chuyên môn, kỹ năng mềm đặc biệt quan trọng để được nhà tuyển dụng chấp nhận. Tiểu kết chƣơng 1 Trong chương 1, tác giả đã tập trung trình bày và làm rõ những nội dung lý luận chủ yếu của tư duy và giáo dục kỹ năng mềm, cùng với các yếu tố hợp thành công tác giáo dục kỹ năng mềm và các yếu tố tác động đến kỹ năng mềm và giáo dục kỹ năng mềm. Tư duy là một quá trình nhận thức quan trọng giúp con người có thể nhận thức được thế giới khách quan, đặc biệt tư duy cũng có vai trò quan trọng đối với sinh viên trong hoạt động học tập, nghiên cứu khoa học và nhất là trong việc rèn luyện, nâng cao các kỹ năng mềm cho bản thân. Có thể thấy rằng, kỹ năng mềm trang bị cho mỗi sinh viên lẽ sống, thái độ sống, hành vi cá nhân, khả năng giao tiếp, ứng xử, làm việc nhóm, Tuy nhiên, để việc giáo dục kỹ năng mềm cho sinh viên đạt được những hiệu quả nhất định thì rất cần đến vai trò của tư duy. Tư duy và kỹ năng mềm của mỗi người là khả năng có thể và cần được trau dồi, nâng cao qua quá trình học tập và rèn luyện. KNM không do tư chất của cá nhân quyết định mà được hình thành, phát triển và ngày càng hoàn thiện thông qua quá trình học tập và rèn luyện, trải nghiệm nghề nghiệp và hoạt động thực tế cuộc sống. Nói cách khác, tư duy trong việc giáo dục kỹ năng mềm là vô cùng cần thiết và quan trọng trong hoạt động dạy và học, nhất là đối với môi trường xã hội nhân văn. 30
  34. CHƢƠNG 2. VAI TRÒ CỦA TƢ DUY TRONG GIÁO DỤC KỸ NĂNG MỀM CHO SINH VIÊN – THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP (XÉT TRƢỜNG HỢP TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHXH&NV HÀ NỘI) 2.1. Vai trò của tƣ duy đối với giáo dục sinh viên về kỹ năng mềm ở Trƣờng Đại học KHXH&NV Hà Nội 2.1.1. Về vai trò của tư duy Tư duy là quá trình ý thức phản ánh hiện thực khách quan một cách gián tiếp và khái quát, là sự phản ánh những thuộc tính chung và bản chất, tìm ra những mối liên hệ, quan hệ có tính quy luật của sự vật, hiện tượng mà ta chưa từng biết. Tư duy là một quá trình nhận thức quan trọng giúp con người có thể nhận thức được thế giới khách quan, đặc biệt tư duy cũng có vai trò quan trọng đối với sinh viên trong hoạt động học tập, nghiên cứu khoa học và trong hoạt động rèn luyện, nâng cao kỹ năng mềm. Khi nghe giáo viên giảng bài hay khi tự đọc giáo trình, sinh viên cần phải tư duy, suy luận để nhận thức được bài học. Nếu sinh viên không tư duy sẽ gặp nhiều khó khăn trong quá trình học tập, nghiên cứu khoa học, không thể có hiểu biết về những vấn đề mà mình đang tiếp cận. Khả năng tư duy của mỗi người sẽ quyết định xem người đó có tiếp thu được bài học và áp dụng vào trong thực tế một cách đúng đắn và đạt hiệu quả cao hay không. Tuy nhiên tư duy là một kỹ năng mà mỗi người đều có thể học tập và rèn luyện được. Vì vậy, việc nâng cao khả năng tư duy là một nhiệm vụ cần thiết đối với sinh viên. Tư duy giúp sinh viên vượt ra khỏi cách suy nghĩ theo khuôn mẫu, thói quen có sẵn; hướng đến cái mới; tìm hiểu, phát hiện những ý tưởng, giá trị mới của vấn đề; tạo tâm thế sẵn sàng tiếp nhận cái mới, cái tiến bộ trong suy nghĩ và hành động; có ý thức nhìn nhận mọi vấn đề dưới góc nhìn mới, đưa lại kết quả mới, kích thích khả năng tư duy sáng tạo. Tư duy còn giúp sinh viên suy nghĩ một vấn đề theo nhiều hướng khác nhau với những cách giải quyết khác nhau; khắc phục tình trạng nhìn nhận vấn đề một chiều, phiến diện, chủ quan, duy ý chí; suy nghĩ để giải quyết vấn đề 31
  35. theo hướng xem xét kỹ ở mọi góc độ, khía cạnh, đưa ra nhiều phương án khác nhau và lựa chọn phương án tối ưu với những lập luận có cơ sở vững chắc; ý thức rõ ràng hơn trong việc lắng nghe và tôn trọng ý kiến người khác khi tranh luận, lắng nghe ý kiến khác với ý kiến của mình và cố gắng tìm hiểu bản chất của vấn đề trước khi đưa ra kết luận; dám thừa nhận cái chưa đúng, sẵn sàng thừa nhận cái đúng của người khác và vì vậy, dễ dàng thiết lập mối quan hệ tốt đẹp với mọi người. Không những vậy, tư duy sẽ giúp SV nâng cao năng lực sáng tạo trong xử lý và giải quyết các tình huống đặt ra trong cuộc sống. Giúp sinh viên nhìn nhận những vấn đề trong cuộc sống theo cách riêng của mình, tìm ra những hướng giải quyết tối ưu nhất trước những vấn đề thực tiễn đặt ra. Trong cuộc sống, hình thành và rèn luyện khả năng tư duy giúp sinh viên có điều kiện giúp đỡ nhau trong mọi hoàn cảnh, tu dưỡng và rèn luyện nhân cách, hình thành các kỹ năng mềm cần thiết; xây dựng được bầu không khí tâm lý, thoải mái, vui vẻ, đoàn kết, có cơ hội xây dựng tập thể sinh viên thành một tập thể thân ái và biết chia sẻ; phát triển tư duy vì đời sống và hoạt động trong nhóm, tập thể có sự hợp tác, các ý tưởng của mỗi người được bộc lộ; nhanh chóng thích ứng với hoạt động nghề nghiệp ngay sau khi ra trường. Đối với sinh viên, để đạt được kết quả cao trong học tập thì phải phải luôn tư duy và làm chủ kiến thức. Phải luôn biết khái quát mọi vấn đề, kiến thức trên lớp học để có thể dễ dàng hiểu rõ bản chất và ghi nhớ. Khi đã nắm được bản chất của vấn đề thì gặp phải trường hợp cần vận dụng, SV hoàn toàn dễ dàng thực hiện. Để nâng cao năng lực tư duy cho sinh viên, phải chú ý phát huy nỗ lực, cố gắng, sự sáng tạo của chính sinh viên; phải làm cho sinh viên tự nhận thức đúng vị trí, vai trò, tầm quan trọng của tư duy trong đời sống và học tập, rèn luyện bản thân. Vì vậy, để nâng cao hiệu quả học tập đòi hỏi sinh viên phải phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo, phải biết suy nghĩ theo nhiều chiều hướng khác nhau khi tiếp nhận, xử lý thông tin một cách có căn cứ, lý lẽ trong hệ thống tri 32
  36. thức đa dạng, phong phú đó; có như vậy quá trình rèn luyện, nâng cao KNM của sinh viên mới mang lại hiệu quả cao, tạo nền tảng vững chắc cho công việc trong tương lai. Có thể phân chia tư duy thành các loại (hay các hình thức) khác nhau, trong khóa luận này tác giả tập trung vào vai trò của một số loại tư duy như: tư duy phản biện, tư duy sáng tạo, tư duy phê phán Vai trò của tư duy sáng tạo trong quá trình học tập, rèn luyện KNM của SV được biểu hiện trên những nội dung sau: Thứ nhất, tư duy sáng tạo góp phần định hướng, điều chỉnh, nâng cao trình độ nhận thức và rèn luyện phương pháp tư duy khoa học của sinh viên. Trong quá trình học tập, sinh viên được trang bị những tri thức toàn diện như: tri thức khoa học cơ bản, tri thức khoa học cơ sở, tri thức khoa học xã hội và nhân văn, Những tri thức này trực tiếp góp phần hình thành và cũng cố kiến thức, kỹ năng, giúp SV giải quyết tốt được các vấn đề trong học tập cũng như trong cuộc sống. Tuy nhiên, trong quá trình học tập để người học lĩnh hội, tiếp thu tri thức có hiệu quả, cần hình thành cho SV phương pháp tư duy sáng tạo, tức là người học phải vừa tư duy bằng trực quan, cụ thể, cảm tính và vừa phải tư duy bằng tư duy trừu tượng mang tính khái quát cao. Thứ hai, tư duy sáng tạo giúp SV phát triển tư duy độc lập, nâng cao năng lực sáng tạo trong xử trí và giải quyết các tình huống đặt ra trong quá trình học tập, cuộc sống. Hiện nay, do trình độ phát triển của thực tiễn, biến đổi nhanh chóng và phức tạp, đòi hỏi mỗi SV phải có kiến thức toàn diện, biết tích lũy kinh nghiệm; có sức mạnh của ý chí và óc sáng tạo; có trình độ tư duy khoa học, hiểu biết các quy luật vận động; có khả năng dự báo khoa học, linh hoạt, nhạy cảm với cái mới, biết ứng biến, phân tích, tổng hợp, phán đoán, suy luận để có quyết định đưa ra phương án xử trí chính xác, kịp thời các tình huống Thứ ba, tư duy sáng tạo góp phần hình thành ở SV phản xạ linh hoạt, quyết đoán, kịp thời, chính xác trước những vấn đề thực tiễn đặt ra. Quá trình học tập và rèn luyện tại các nhà trường SV phải thường xuyên tiếp xúc và giải quyết các tình huống cấp bách, những tình huống này luôn chứa đựng những 33
  37. mâu thuẫn và luôn vận động, biến đổi không ngừng. Tiếp theo có thể kể đến vai trò của tư duy phản biện. Trước tiên tư duy phản biện được hiểu như sau: Tư duy phản biện là loại hình tư duy nhằm khẳng định hoặc phủ định một kết quả nhận thức; là sự suy nghĩ, xem xét lại một tình huống, một vấn đề để qua đó chủ thể đưa ra sự đánh giá, kết luận về chúng theo quan điểm của mình trên cơ sở vận dụng một cách chủ động, sáng tạo những tri thức và phương pháp nhất định. Vai trò của nó cũng được biểu hiện như sau: Một là, tư duy phản biện là công cụ sắc bén giúp cho sinh viên có khả năng sử dụng toàn bộ kiến thức đã được tích lũy và trí tuệ của mình để đào sâu suy nghĩ và nắm vững kiến thức chuyên môn. Ở nhà trường, sinh viên tiếp nhận hệ thống tri thức hết sức phong phú, bao gồm: tri thức cơ bản, tri thức cơ sở của chuyên ngành, tri thức chuyên ngành và tri thức công cụ, cùng với hệ thống kỹ năng, kỹ xảo tương ứng về một lĩnh vực khoa học, kỹ thuật, văn hoá nhất định. Hai là, tư duy phản biện giúp cho sinh viên vượt ra khỏi cách suy nghĩ có tính khuôn mẫu, lối mòn đã được định hình từ bậc học phổ thông để rèn luyện phương pháp tư duy mở , tư duy độc lập phục vụ cho nghề nghiệp trong tương lai. Học tập của sinh viên chủ yếu là quá trình tự học, tự nghiên cứu dưới sự hướng dẫn của giảng viên. Đặc điểm học tập này tự nó đòi hỏi sinh viên phải phát triển khả năng tư duy phản biện một cách cao độ để làm chủ tri thức trong suốt quá trình học tập và cả khi ra trường. Ba là, tư duy phản biện giúp cho sinh viên rèn luyện khả năng phát hiện, phân tích và giải quyết những tình huống, những mâu thuẫn nảy sinh trong học tập và nghiên cứu khoa học. Bốn là, tư duy phản biện giúp cho sinh viên biết suy nghĩ một cách tích cực, đa chiều, biết lắng nghe ý kiến người khác và biết tôn trọng sự khác biệt; biết phát hiện ra hạn chế, khắc phục định kiến, giáo điều trong việc tiếp nhận, xử lý và phản bác thông tin theo hướng mở, đa chiều; biết chọn lựa thông tin một cách cẩn thận mà không tự thỏa mãn, tự bằng lòng với bất cứ kết luận nào trong các giả định, giả thiết của bất cứ quá trình tư duy nào trước đó. Với phong cách tư duy này buộc sinh viên phải động não, suy luận và biết đánh giá; biết lắng 34
  38. nghe và tôn trọng những ý kiến khác biệt, loại bỏ mọi định kiến có thể có. Năm là, tư duy phản biện giúp cho sinh viên biết lựa chọn những thông tin cần thiết, đáng tin cậy, có giá trị làm nền tảng cho nghề nghiệp trong tương lai. Ngoài ra, có thể kể đến vai trò của tư duy phê phán, tư duy phê phán được hình thành và phát triển qua quá trình rèn luyện trí tuệ về các khả năng: phân tích thực tiễn, tổng quan và hệ thống tổ chức các ý tưởng, đối chiếu, so sánh điểm tương đồng và dị biệt, nhận thức và cân nhắc thận trọng một sự kiện, một hiện tượng, lập luận kết hợp với chứng minh đầy đủ để có sức thuyết phục cao, để đánh giá các suy nghĩ, lập luận, đưa ra phán đoán, rút ra kết luận, tự đánh giá và tự điều chỉnh nhằm vươn tới sự hoàn thiện mình. Tư duy phê phán có vai trò quan trọng trong cả đời sống và học tập. Tư duy phê phán sẽ giúp cho người học luôn tìm được hướng đi mới trong suy nghĩ và hành động, tránh dập khuôn, máy móc. Khoa học luôn có tính kế thừa và phát triển, do vậy, tư duy phê phán không chỉ là suy nghĩ mà là suy nghĩ tự cải thiện, tức là có sự tiến bộ trong suy nghĩ qua cách đánh giá tư duy thích hợp. 2.1.2. Vài nét về Trường Đại học KHXHNV và đặc điểm của sinh viên Trường Đại học KHXH&NV, ĐHQGHN có sứ mệnh đi đầu trong đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, trình độ cao; nghiên cứu, sáng tạo và truyền bá tri thức về Khoa học xã hội và nhân văn, phục vụ sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và hội nhập quốc tế. Với mục tiêu chung là phát triển Trường ĐHKHXH&NV theo định hướng một đại học nghiên cứu, tiếp tục khẳng định vị trí hàng đầu trong nghiên cứu, đào tạo các ngành khoa học xã hội và nhân văn của Việt Nam, với các mục tiêu cụ thể như sau: Đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, trình độ cao, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế Tạo điều kiện thuận lợi trong việc khơi dậy các tiềm năng sáng tạo, tư duy và tinh thần khởi nghiệp, tạo dựng môi trường học thuật cởi mở, thân thiện, gắn bó để đội ngũ trí thức, người học và xã hội tham gia vào sự nghiệp phát triển 35
  39. Nhà trường và góp phần xây dựng Xã hội học tập. Nhà trường coi việc duy trì và không ngừng nâng cao chất lượng đào tạo, đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học trình độ cao có tinh thần tự chủ, sáng tạo cao trong giảng dạy và nghiên cứu khoa học là nhiệm vụ trọng tâm đồng thời là “giải pháp chiến lược” trong định hướng phát triển lâu dài. Nghiên cứu khoa học chất lượng cao phục vụ sự nghiệp xây dựng, phát triển và bảo vệ Tổ quốc Xác định một số hướng nghiên cứu ưu tiên thuộc thế mạnh của Nhà trường và gắn liền với yêu cầu phát triển của Việt Nam về truyền thống lịch sử, văn hóa, xã hội, đất nước và con người Việt Nam; mô hình, con đường phát triển đặc thù của Việt Nam; vai trò, vị thế của Việt Nam trong các mối quan hệ khu vực và quốc tế; chủ quyền, an ninh đất nước trong đó tập trung nghiên cứu về biên giới, biển đảo, về quá trình lãnh thổ, v.v Phát triển các nguồn lực, thực hiện văn hóa chất lượng Thực hiện phương châm: “Con người là trung tâm của chiến lược phát triển đồng thời là chủ thể của sự phát triển”, Nhà trường có cơ chế và giải pháp mạnh mẽ trong đào tạo cán bộ đặc biệt là đào tạo đội ngũ chuyên gia giỏi, các nhà khoa học đầu ngành cho các lĩnh vực khoa học của Nhà trường. Tăng tỷ lệ giảng viên để đảm bảo nguồn lực thực hiện nhiệm vụ, đáp ứng yêu cầu mở rộng quy mô đào tạo, cơ cấu tổ chức của một số đơn vị. Ưu tiên đầu tư để nâng cao chất lượng đội ngũ, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đào tạo, nghiên cứu khoa học trong bối cảnh hội nhập sâu rộng và định hướng phát triển đại học nghiên cứu, tự chủ, sáng tạo, kết nối và khởi nghiệp. Đội ngũ cán bộ, giảng viên của Nhà trường là những người có bản lĩnh, giàu năng lực và tư duy sáng tạo trong giảng dạy, nghiên cứu; nắm vững các phương pháp, quan điểm, cách thức tiếp cận tiên tiến trong giảng dạy, nghiên cứu. Giảng viên của Nhà trường vừa có năng lực chuyên môn giỏi vừa có thể sử dụng ngoại ngữ thành thạo để tham gia vào các chương trình giảng dạy, trao đổi học thuật, phối hợp nghiên cứu và đối thoại khoa học quốc tế. Tăng cường văn hóa chất lượng từ tiến độ đến hiệu quả trong tất cả các 36
  40. lĩnh vực hoạt động của Nhà trường, chuyên nghiệp hóa các hoạt động quản lý, đào tạo, nghiên cứu; xây dựng tinh thần cộng đồng, cùng gánh vác, chia sẻ trách nhiệm trong việc giải quyết các công việc chung vì sự phát triển của Nhà trường. Đặt chất lượng phù hợp với chiến lược và mục tiêu lên hàng đầu; tiến tới thực hiện kiểm định chất lượng nhà trường theo tiêu chuẩn Mạng lưới các trường đại học Đông Nam Á (AUN-QA). Khác với một số trường Đại học trong khối các trường Đại học của ĐHQGHN cũng như các trường Đại học khác, sinh viên trường Đại học KHXH&NV chiếm đa phần là sinh viên nữ, đến từ hầu khắp các tỉnh thành trên đất nước, có những điều kiện gia đình, trình độ nhận thức, suy nghĩ khác nhau, nên khả năng tư duy cũng như việc tiếp nhận, nâng cao các KNM ở mỗi đối tượng SV là hoàn toàn khác nhau. Phần lớn sinh viên Đại học KHXH&NV xuất thân từ những gia đình có điện kiện kinh tế khá khó khăn, đây là một trong những ngôi trường có tỉ lệ miễn giảm học phí, hỗ trợ học phí lớn trong khối các trường Đại học ở Việt Nam. Tuy nhiên, đa phần sinh viên đã ý thức được hoàn cảnh gia đình và ngành nghề của mình, nên luôn không ngừng cố gắng, một mặt giải quyết được vấn đề việc làm đồng thời còn có đóng góp thiết thực vào sự phát triển chung của xã hội. Tất cả những đặc điểm này ít nhiều cũng ảnh hưởng đến quá trình rèn luyện, học tập, rèn luyện, nâng cao kỹ năng mềm cũng như công tác giáo dục KNM cho SV trong nhà trường hiện nay. 2.2. Thực trạng vai trò của tƣ duy trong giáo dục kỹ năng mềm 2.2.1. Thành tựu vận dụng tư duy trong giáo dục kỹ năng mềm Tư duy giúp nâng cao năng lực sáng tạo trong xử lý và giải quyết các tình huống đặt ra trong cuộc sống. Giúp sinh viên nhìn nhận những vấn đề trong cuộc sống theo cách phù hợp với mình, tìm ra những hướng giải quyết tối ưu nhất những vấn đề thực tiễn đặt ra. Việc vận dụng tư duy trong việc rèn luyện kỹ năng mềm đã giúp sinh viên có phương pháp tư duy độc lập, nhìn ra những hạn chế, sai lầm dễ mắc phải trong quá trình tư duy của mình, từ đó đưa ra những nhận định, phán đoán đúng đắn; có suy nghĩ tích cực; khám phá những tiềm năng vốn có của bản thân, tạo 37
  41. động lực vượt lên chính mình, tự khẳng định mình, hình thành nhân cách tự chủ, độc lập và sáng tạo; nỗ lực cập nhật, chắt lọc những thông tin cần thiết, có giá trị, bổ ích cho nghiên cứu, cho bản thân; nâng cao kỹ năng tiếp cận và xử lý thông tin; trình bày vấn đề một cách sáng tạo; đưa ra luận điểm/luận cứ một cách rõ ràng; tăng cường khả năng suy nghĩ theo hướng mở, đáng tin cậy. Trong quá trình học tập và rèn luyện KNM, sinh viên đã bước đầu hình thành được một số khả năng kết nối các thao tác tư duy với nhau nhằm xuất phát từ những dữ liệu ban đầu tìm ra các kết quả mong muốn. Khả năng tư duy của sinh viên trong việc xử lý thông tin đã được thể hiện rõ nét trong việc phân loại và kết hợp những thông tin cần thiết để rút ra những nhận xét khá chuẩn xác về vấn đề cần nhận thức. Điều quan trọng ở đây là sinh viên đã có nhiều nỗ lực phấn đấu tự hoàn thiện những tri thức cơ sở, cơ bản và chuyên ngành. Đặc biệt, đa số sinh viên đã có ý thức tự giác đào sâu tri thức nghề nghiệp của ngành mình đang học. Đồng thời, sự tham gia và kết quả nghiên cứu khoa học đạt được chứng tỏ sinh viên đã từng bước biết tạo ra sự thống nhất giữa tri thức, kỹ năng và phương pháp tư duy để giải quyết những tình huống khác nhau. Điều đó còn thể hiện việc sinh viên bước đầu đã có khả năng vận dụng thói quen tư duy vào công việc chuyên môn. Về phương pháp, hình thức tổ chức: Để tổ chức hoạt động GD KNM cho sinh viên, trường ĐH KHXH&NV đã tiến hành bằng khá nhiều hình thức phong phú thông qua các hoạt động ngoại khóa, tổ chức các cuộc giao lưu, hội thi. Đoàn Thanh niên, Hội Sinh viên tổ chức các hoạt động: văn nghệ, thể thao; câu lạc bộ SV (SV thanh lịch; nhóm nhảy, ca hát văn nghệ, tiếng anh, ), tổ chức các cuộc thi thuyết trình, hùng biện. Tham gia các hoạt động của Đoàn thanh niên, Hội Sinh viên tổ chức SV được phát huy khả năng, tố chất cá nhân, tự điều chỉnh nhận thức, hành vi, trao đổi kinh nghiệm, phát huy mặt tích cực, ngăn chặn, sửa chữa các biểu hiện tiêu cực, lạc hậu, kích thích tính chủ động sáng tạo và tự tin thể hiện mình trong mọi tình huống. Rèn luyện, GD KNM cho SV thông qua tổ chức các hoạt động ngoại khóa, hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp là con đường quan trọng giúp SV trải nghiệm, rèn luyện và phát triển KNM. 38
  42. Về chương trình giáo dục KNM cho SV: Mặc dù trường ĐH KHXH&NV chưa đưa GD KNM trở thành môn học chính thức vào hệ thống đào tạo theo tín chỉ, GD KNM chưa được đưa vào chương trình chính khóa để giảng dạy, tuy nhiên trường ĐH KHXH&NV rất chú trọng đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng các nhu cầu xã hội, đồng thời thường xuyên tổ chức các hoạt động góp phần trang bị và rèn luyện KNM cho SV. Nội dung về nâng cao khả năng tư duy cho sinh viên ngày càng phong phú, bao gồm nội dung, hình thức và phương pháp giảng dạy của giảng viên, đến chương trình, giáo trình và phương thức, phương tiện đào tạo của nhà trường, ; từ môi trường chính sách nói chung, chính sách giáo dục nói riêng đến môi trường xã hội, gia đình, cơ sở sở sử dụng lao động ngành nghề; v.v Hình thức phát triển khả năng tư duy cho sinh viên ngày càng đa dạng. Sự đa dạng của các hình thức nâng cao khả năng tư duy của sinh viên được thể hiện một cách phong phú và hiệu quả trong rất nhiều lĩnh vực hoạt động. Trước hết là trong học tập, sinh viên đã biết đặt ra nhiều tình huống, nhiều hướng giải quyết khác nhau trước một vấn đề khoa học. Thậm chí còn có cách đặt vấn đề ngược lại với cách nghĩ thông thường để tìm ra chân lý khoa học. Tiếp đó trong rèn luyện, trong sinh hoạt đoàn thể nhiều sinh viên đã thể hiện được lập trường kiên định, biết sử dụng những tri thức được trang bị từ thực tế cuộc sống và trên ghế nhà trường để đấu tranh bảo vệ những cái hay, cái đẹp trong lối sống, bảo vệ lợi ích của cá nhân gắn liền với lợi ích tập thể. Nhận thức được vai trò quan trọng của GD KNM trong đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, trường ĐH KHXH&NV đã quan tâm tổ chức rèn luyện KNM cho SV qua việc GD nâng cao nhận thức của SV về tầm quan trọng của việc rèn luyện, nâng cao kỹ năng mềm, giúp SV có động lực học tập và rèn luyện các KNM cần thiết; tìm kiếm và liên kết với các doanh nghiệp, nhà tuyển dụng lao động mở các khóa GD, rèn luyện KNM cần thiết cho SV và khuyến khích SV tham gia. Trong cuộc sống, hình thành và rèn luyện khả năng tư duy giúp sinh viên có điều kiện giúp đỡ nhau trong mọi hoàn cảnh, tu dưỡng và rèn luyện nhân 39
  43. cách, hình thành các kỹ năng nghề nghiệp tương lai tốt; xây dựng được bầu không khí tâm lý, thoải mái, vui vẻ, đoàn kết, có cơ hội xây dựng tập thể sinh viên thành một tập thể thân ái và biết chia sẻ; phát triển tư duy vì đời sống và hoạt động trong nhóm, tập thể có sự hợp tác, các ý tưởng của mỗi người được bộc lộ; nhanh chóng thích ứng với hoạt động nghề nghiệp ngay sau khi ra trường. Nhìn chung, quá trình vận dụng tư duy vào công tác giáo dục KNM cho SV hiện nay đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, giúp tăng đáng kể hiệu quả GD, ngoài ra, trình độ tư duy của sinh viên trường ĐH KHXH&NV hiện nay đã có nhiều tiến bộ so với trước đây và được tăng lên cùng với quá trình học tập, rèn luyện trong nhà trường. 2.2.2. Những hạn chế của vận dụng tư duy trong giáo dục kỹ năng mềm Về việc vận dụng tư duy vào công tác giáo dục kỹ năng mềm, sinh viên trường ĐH KHXH&NV đã có sự nhận biết các thao tác cần thực hiện tư duy khi bắt gặp các vấn đề trong hoạt động học tập, cũng như trong cuộc sống nhưng sự chủ động thực hiện các thao tác còn thấp; sự vận dụng chính xác và thuần thục các thao tác đó chưa cao. Bên cạnh đa số sinh viên nỗ lực phấn đấu học tập, rèn luyện, vẫn còn không ít sinh viên chưa chủ động, tự giác trong học tập, rèn luyện; trong việc lĩnh hội kỹ năng chuyên môn, kỹ năng làm việc nhóm, kỹ năng tự học, tự nghiên cứu, kỹ năng giao tiếp nghề nghiệp, kỹ năng giải quyết vấn đề, kỹ năng phê phán, kỹ năng phân tích, tổng hợp, kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, kỹ năng thuyết trình các vấn đề, kỹ năng thu thập và xử lý thông tin phục vụ hoạt động nghề nghiệp trong tương lai; Đây thực sự là một trong những trở ngại lớn đối với việc phát triển khả năng tư duy cho sinh viên, làm ảnh hưởng không nhỏ đến năng suất, hiệu quả, chất lượng công việc của họ trong tương lai. Đánh giá kết quả giáo dục kỹ năng mềm của sinh viên, do hiện nay, trường Đại học KHXH&NV chưa đưa GD KNM cho SV vào đào tạo chính khóa theo hệ thống đào tạo tín chỉ nên công tác kiểm tra, đánh giá KNM cho SV chưa được thực hiện. Việc đánh giá kết quả GD KNM cho SV chủ yếu được thực hiện 40
  44. ở mức độ đạt hoặc không đạt để cấp chứng chỉ khi tham gia các khóa GD KNM do nhà trường tổ chức, thường là cho sinh viên năm cuối trước khi ra trường. Việc kiểm tra, đánh giá kết quả GD KNM của SV không được chấm điểm và cũng không xếp loại. Nhận thức của SV về tư duy, rèn luyện tư duy còn hạn chế: Đa số sinh viên còn chưa nhận thức đúng bản chất, đặc trưng, vai trò và tác dụng của tư duy trong quá trình học tập, tu dưỡng, rèn luyện; hiểu không đúng hoặc không đầy đủ về các nguyên tắc, quan điểm, các loại hình, quy luật của tư duy. Chưa nhận thức đúng vai trò, tác dụng của tư duy và những yếu tố ảnh hưởng tới rèn luyện tư duy. Về cơ bản sinh viên còn chưa biết, chưa hiểu các nguyên tắc, hình thức và phương pháp của tư duy; chưa biết phát hiện và giải quyết những mâu thuẫn trong quá trình học tập, nghiên cứu và rèn luyện năng lực chuyên môn, nghiệp vụ và kỹ năng nghề nghiệp (các kỹ năng ngôn ngữ; sử dụng phương pháp, nắm bắt tâm lý đặc thù của nghề nghiệp, hùng biện, kỹ năng gắn lý luận với thực tiễn, chuyên môn; làm việc nhóm, tự học, tự nghiên cứu, giao tiếp trong nghề nghiệp, giải quyết vấn đề, phê phán, phân tích, tổng hợp, vận dụng kiến thức vào thực tiễn, thuyết trình, thu thập và xử lý thông tin, v.v ). Khả năng tư duy lôgíc trong học tập, rèn luyện nghiệp vụ chuyên môn, nghề nghiệp ở một bộ phận sinh viên còn hạn chế; năng lực phán đoán, suy luận ra tri thức mới chưa đảm bảo tính thuyết phục; năng lực sử dụng hình thức phán đoán, suy luận ra tri thức mới trong quá trình nhận thức và hoạt động thực tiễn còn chưa đáp ứng đòi hỏi của nghề nghiệp; v.v thể hiện ở chất lượng, hiệu quả học tập tại trường cũng như năng lực nghề nghiệp ở sinh viên khi ra trường. Tư duy lôgíc của nhiều sinh viên còn hạn chế, nhiều sinh viên chưa có phương pháp nhận thức khái niệm, phán đoán, việc nhận thức còn thiếu căn cứ, cơ sở khoa học, thậm chí ngụy biện, đánh tráo khái niệm; thiếu dứt khoát trong nhận thức và hành động, hạn chế về khả năng xây dựng, chứng minh giả thuyết khoa học; Biểu hiện là trong thi cử, kiểm tra, thực tập chuyên môn chưa xác 41
  45. định đúng nhiệm vụ phải hoàn thành, chưa biết cách vận dụng tư duy vào ôn tập, dẫn đến kết quả còn thấp, phải học lại, thi lại. Thực tế rèn luyện tư duy của sinh viên còn hạn chế: Trong quá trình học tập, rèn luyện tại trường đại học, phần lớn sinh viên tập trung vào việc học chuyên môn, nghiệp vụ mà xem nhẹ việc học kỹ năng, trong đó có kỹ năng quan trọng như KN phản biện, KN tư duy sáng tạo, Một bộ phận sinh viên còn lúng túng, tự ti, thụ động, chưa năng động, sáng tạo; chưa biết cách vận dụng phương pháp tư duy vào học tập, nghiên cứu khoa học; ngại, lười đọc sách, tham khảo giáo trình, mạng internet, chưa tận dụng triệt để các điều kiện vật chất của nhà trường, gia đình để phục vụ cho việc thu thập thông tin, bổ sung kiến thức, hình thành và phát triển các loại tư duy. Nhiều sinh viên chưa hiểu đúng giá trị và tầm quan trọng của việc học tập các môn học có liên quan đến rèn luyện tư duy như triết học, lôgíc học, SV không dành nhiều thời gian học tập, nghiên cứu nghiêm túc để rút ra ý nghĩa phương pháp luận của nó đối với chuyên môn, nghề nghiệp. Nhiều sinh viên gặp khó khăn khi giải thích, chứng minh các vấn đề đặt ra hay giải các bài tập, nhất là các vấn đề, bài tập đòi hỏi phải có tư duy sáng tạo của người học. Không ít sinh viên chưa biết tìm hiểu các phương án, lời giải khác nhau khi giải quyết một vấn đề đặt ra nào đó, hay giải các bài tập, nhất là vấn đề, bài tập đòi hỏi phải có sự sáng tạo của người học, chưa biết tìm nhiều phương án, lời giải khác nhau khi giải quyết các vấn đề, bài tập hay các tình huống nảy sinh trong học tập. Không ít sinh viên còn vận dụng các nguyên lý, công thức, phương pháp một cách máy móc, chưa biết bám sát từng bài tập, từng đề tài với những đặc điểm, yêu cầu cụ thể để giải thích, chứng minh, luận giải vấn đề theo ý sáng tạo của riêng mình. Năng lực thực hành, vận dụng phương pháp vào nhận thức cũng như giải quyết các vấn đề thực tiễn của sinh viên còn yếu. Về chương trình giáo dục kỹ năng mềm cho sinh viên. Hiện nay, Bộ Giáo dục và Đào tạo chưa có quy định cụ thể đối với việc xây dựng chương trình KNM cho SV các trường Đại học, chính vì vậy ở các trường Đại học chưa có sự 42
  46. thống nhất, việc xây dựng chương trình do từng trường quyết định vì vậy nội dung chương trình GD, đào tạo KNM cho sinh viên ở các trường có sự khác biệt. Một số trường Đại học đã đưa GD KNM vào đào tạo theo hệ thống tín chỉ, trở thành một trong những môn học chính thức do nhà trường đào tạo. Đối với trường ĐH KHXH&NV, nhà trường vẫn chưa có chương trình giáo dục, đào tạo KNM cho sinh viên mà chỉ tổ chức các khóa học và thi kỹ năng mềm để cấp chứng chỉ như một trong các yêu cầu tốt nghiệp cho sinh viên năm cuối. Một số kỹ năng như: Kỹ năng giao tiếp, kỹ năng phỏng vấn tìm việc thành công, kỹ năng tư duy sáng tạo, kỹ năng thuyết trình ấn tượng, kỹ năng quản lý thời gian, Mỗi sinh viên sẽ chọn và đăng ký cho mình 3 kỹ năng, sau khi đăng ký, sinh viên sẽ được cấp một tài khoản online để học trực tuyến cùng 1 buổi thi trên máy tính và học 1 buổi học trên lớp. Hoạt động này được tổ chức cho tất cả các sinh viên (đa phần là sinh viên năm cuối) học để lấy chứng chỉ - một trong những điều kiện tốt nghiệp, tuy nhiên với thời lượng khá ít nên việc tiếp thu và thực hành của sinh viên còn nhiều hạn chế. Trình độ KNM của sinh viên vẫn còn chênh lệch khá nhiều trong lực lượng sinh viên, có những sinh viên bước đầu đã hình thành các KNM nhưng nhìn trên mặt bằng tổng thể thì đa số sinh viên vẫn còn hạn chế về KNM. Về cơ bản, nguyên nhân chủ yếu là do sinh viên chưa nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng của các kỹ năng mềm cũng như chưa có các phương pháp tiếp cận và tư duy trong quá trình rèn luyện, nâng cao kỹ năng mềm. Qua khảo sát thực trạng, đây là hạn chế cần phải có những giải pháp có tính khả thi và triển khai đồng bộ, quyết liệt thì mới cải thiện, khắc phục hạn chế này. Trình độ nhận thức và khả năng tư duy về việc GD KNM của một bộ phận chủ thể còn hạn chế. Trong hoạt động giáo dục KNM cho SV, một số giảng viên, cố vấn học tập chưa dành nhiều sự quan tâm, tâm huyết đến công tác này, cũng như chưa nắm được hết vai trò, tầm quan trọng của việc GD KNM đối với sinh viên. Điều này dẫn đến việc vận dụng tư duy vào giáo dục KNM cho sinh viên sẽ gặp nhiều khó khăn, hiệu quả thấp, ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng giáo dục KNM cho SV. 43
  47. Về hoạt động GD KNM cho SV hiện nay, tuy nhà trường có quan tâm nhưng việc tổ chức thực hiện đa số vẫn còn mang tính đại trà, chưa đi vào chiều sâu thực chất. Đặc biệt đối với những sinh viên vốn dĩ có tính thụ động thì hoạt động GD KNM cho sinh viên hầu như không có tác dụng để cải thiện KNM của sinh viên. Trường Đại học KHXH&NV đã triển khai việc giáo dục KNM cho sinh viên. Tuy nhiên, thời gian qua cho thấy nhiều sinh viên ra trường khó tìm được việc làm phù hợp với chuyên môn đào tạo. Khi xin việc, nhiều sinh viên có kết quả học tập tốt nhưng khi phỏng vấn đã bị loại do thiếu những kĩ năng cần thiết. Một số sinh viên lại lúng túng trong giao tiếp, trao đổi, ứng xử, chưa có kỹ năng xây dựng và phát triển mối quan hệ với người xung quanh nhằm tạo ra sự hợp tác và chia sẻ trong công việc và cuộc sống. Nhận thức được tầm quan trọng của việc giáo dục KNM cho sinh viên nên nhà trường đã rất chú trọng và quan tâm đến hoạt động giáo dục này. Tuy nhiên, hoạt động giáo dục KNM cho sinh viên hiện nay ở trường còn gặp khó khăn, hạn chế, phần nhiều còn thiên về lý thuyết, chưa tạo được môi trường giáo dục KNM hiệu quả cho sinh viên, dẫn đến hiệu quả giáo dục KNM chưa cao. KNM hiện nay cũng chưa được xác định cụ thể và yêu cầu bắt buộc đối với sinh viên nên cả nhà trường và sinh viên vẫn chưa có quyết tâm cao cho mục tiêu GD, rèn luyện KNM của SV. Việc GD KNM cho SV hiện nay chỉ góp phần cải thiện KNM của SV nhưng chưa thật sự “nâng chất” hoạt động GD KNM của nhà trường. Công tác tổ chức các hoạt động nhằm nâng cao nhận thức về tầm quan trọng và sự cần thiết GD KNM cho các chủ thể giáo dục vẫn chưa đạt hiệu quả cao. Chính vì vậy, cả lực lượng GD và SV nhà trường đều chưa có quyết tâm hành động cao trong công tác GD KNM cho SV. Tóm lại, trong quá trình giáo dục kỹ năng mềm cho sinh viên Đại học KHXH&NV, nguyên nhân của mọi nguyên nhân dẫn đến công tác GD KNM cho SV chưa đạt hiệu quả nhất định chính là chưa có tư duy phù hợp trong việc giáo dục kỹ năng mềm. Vì vậy, để nâng cao năng lực tư duy cho sinh viên cũng 44
  48. như các loại chủ thể đã nêu, cần phải chú ý phát huy nỗ lực, cố gắng, sự sáng tạo của chính các chủ thể; phải làm cho họ tự nhận thức đúng vị trí, vai trò, tầm quan trọng của tư duy logic trong đời sống. 2.3. Giải pháp nâng cao vai trò của tƣ duy trong giáo dục kỹ năng mềm cho sinh viên 2.3.1. Nâng cao nhận thức cho các loại chủ thể về vai trò và tầm quan trọng của tư duy trong việc GD KNM Xác định nhận thức là cơ sở quan trọng để đạt được hiệu quả trong hoạt động GD KNM cho sinh viên. Nâng cao nhận thức của các loại chủ thể là tiền đề rất quan trọng để đạt được các mục tiêu đã đặt ra, làm cơ sở cho việc triển khai hệ thống biện pháp, các kế hoạch; xây dựng quyết tâm hành động đối với tất cả tổ chức và cá nhân trong và ngoài nhà trường có liên quan đến hoạt động GD KNM cho sinh viên. Nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệm của đội ngũ giảng viên đối với GD KNM cho SV Đội ngũ giảng viên, cố vấn học tập là những người trực tiếp giảng dạy hằng ngày trên lớp cho sinh viên và cũng chính là những người có tổng lượng thời gian tiếp cận SV nhiều nhất trong suốt quá trình đào tạo sinh viên ở nhà trường. Vì thế, đội ngũ giảng viên và cố vấn học tập có vai trò rất quan trọng trong quá trình giáo dục và nhất là quá trình rèn luyện để hình thành KNM cho SV, tạo cho sinh viên khả năng tư duy tốt để vận dụng vào trong học tập, nghiên cứu khoa học và trong cuộc sống cũng như là rèn luyện, nâng cao các KNM. Giảng viên cần tích cực sử dụng các phương pháp dạy học tích cực vừa kết hợp dạy kiến thức chuyên môn đồng thời tạo điều kiện và môi trường rèn luyện KNM cho SV. Trong suốt thời gian giảng dạy chuyên môn trên lớp cho SV thì GV cần tận dụng mọi điều kiện, cơ hội để kết hợp lồng ghép các phương pháp tư duy để GD KNM cho SV. Bởi GD KNM cho SV là nhiệm vụ song song với nhiệm vụ giảng dạy chuyên môn cho SV. Các môn học như Kinh tế chính trị, Logic học, nên cải tổ theo hướng phát triển các kỹ năng mềm. Nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệm GD KNM cho đội ngũ cán bộ Đoàn Thanh niên, Hội Sinh viên trong nhà trường 45
  49. Đoàn Thanh niên, Hội Sinh viên nhà trường nên tổ chức các hoạt động phong trào hướng đến tích hợp, lồng ghép giáo dục KNM cho sinh viên, qua từng hoạt động phải xác định được sẽ giáo dục được những kỹ năng gì cho sinh viên, giáo dục đến mức độ nào. Đồng thời, lãnh đạo nhà trường cần phân công nhiệm vụ, trách nhiệm cụ thể cho các tổ chức đoàn thể trong công tác GD KNM cho sinh viên của nhà trường. Nâng cao nhận thức tự GD, rèn luyện KNM cho SV Mặc dù KNM đóng vai trò quan trọng đối với sinh viên nhưng đa số sinh viên hiện nay chưa quan tâm đến việc tự rèn luyện, trang bị KNM cho bản thân. Nhiều sinh viên còn cho rằng KNM sẽ tự hình thành, hoàn thiện và đó là khả năng có tính bẩm sinh không cần phải đào tạo. Do những suy nghĩ còn có phần bị hạn chế đó nên hiện nay nhận thức rèn luyện GD KNM chưa cao cần phải được đội ngũ giảng viên tham gia giảng dạy từng bước trang bị nhận thức cho SV về sự cần thiết của KNM để từ đó thúc đẩy quá trình tự rèn luyện, đào tạo KNM mềm của mỗi SV. Nhà trường cần tổ chức nhiều chương trình hội thảo, giao lưu trực tiếp giữa các doanh nghiệp với sinh viên về vấn đề tuyển dụng và các yêu cầu mà doanh nghiệp cần có ở người lao động có trình độ sau khi tốt nghiệp. Đặc biệt, trong hội thảo cần đưa ra minh chứng về sự khác biệt giữa những SV tham gia tuyển chọn, ứng tuyển có KNM tốt và những SV chưa có KNM. Những SV được trang bị KNM thì họ có những thuận lợi gì trong việc tuyển dụng? Gặp thuận lợi gì trên con đường công danh sự nghiệp cũng như trong cuộc sống hằng ngày? Hội thảo cũng cần mời trực tiếp những cựu SV thành đạt trong các vị trí công tác, làm việc khác nhau tham gia. Qua đó sẽ khắc sâu nhận thức của SV về tầm quan trọng của KNM trong thực tiễn cuộc sống, học tập và làm việc sau này. Giảng viên cần chỉ dẫn sinh viên tiếp cận các tài liệu về KNM hoặc các địa chỉ website về KNM trên mạng internet. Đây là biện pháp để sinh viên dần làm quen và sau đó trở thành nhu cầu phải tự mình trang bị KNM cho bản thân. Trang bị nhận thức cho SV theo hướng này GV cần chứng minh và nhấn mạnh tầm quan trọng, sự cần thiết phải trang bị KNM; đặc biệt cần liên hệ tình huống thực tiễn phát sinh trong 46
  50. quá trình học tập, nghiên cứu của SV để các bước tiếp cận, hình thành nhận thức được thực hiện theo quá trình logic. Để tổ chức rèn luyện kĩ năng tư duy cho SV phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, trong đó có các yếu tố chủ quan và khách quan. Các yếu tố chủ quan như: kĩ năng tổ chức của GV; trình độ và kinh nghiệm của SV; sự hứng thú, say mê rèn luyện của SV; nhu cầu, tính tích cực, tự giác rèn luyện kĩ năng tư duy của SV có ảnh hưởng tích cực nhất. Còn các yếu tố khách quan như: các phương tiện cơ sở vật chất; lớp học quá đông; không gian hoạt động để rèn luyện kĩ năng tư duy; giáo trình, tài liệu tham khảo có ảnh hưởng thấp hơn. 2.3.2. Rèn luyện KNM cho SV theo một quy trình khoa học, chặt chẽ và xây dựng chương trình, kế hoạch GD KNM cho SV phù hợp với điều kiện thực tiễn. Kĩ năng mềm cũng có thể được phát triển một cách gián tiếp thông qua các chương trình hỗ trợ như các hoạt động không nằm trong chương trình chính thức. Các hoạt động này tuy không chính thức, nhưng gián tiếp hỗ trợ các sinh viên trong việc phát triển nhân cách của họ. Những chương trình này cho phép sinh viên khám phá sở thích của họ mà có thể được bồi dưỡng bằng cách đăng kí chúng trong các chương trình ngoại khóa và các hoạt động ngoại khóa đó phản ánh sở thích của họ. Nghiên cứu xây dựng chương trình GD KNM cho SV phù hợp với đặc thù ngành nghề đào tạo của SV: Chương trình GD KNM cho SV cần được nghiên cứu xây dựng phù hợp với đặc thù ngành nghề đào tạo SV của nhà trường. Chương trình GD KNM cho SV ở trường ĐH nên được thiết kế ở mức 30 tiết, tương đương 2 tín chỉ, trong đó gồm 1 tín chỉ lý thuyết 15 tiết và 1 tín chỉ thực hành 15 tiết. Về số lượng KNM được đề xuất giảng dạy trong chương trình là từ 5 đến 7 kỹ năng. Nhà trường sẽ đề xuất danh sách các KNM đưa vào giảng dạy phù hợp với thực tiễn đào tạo các ngành nghề của nhà trường cũng như là cần thiết trong bối cảnh kinh tế xã hội hiện nay. Trong tổng số các KNM được đưa vào lựa chọn để giảng dạy, nhà trường nên quy định 2 KNM mềm là bắt buộc dành cho tất cả các SV đều phải học tập (qua nghiên cứu thực tiễn đề xuất 2 KNM bắt buộc là: KN phản biện và 47
  51. KN tư duy sáng tạo), các KNM còn lại do SV tự chọn phù hợp với đặc thù ngành nghề, năng lực và sở trường của SV. Trên cơ sở đó SV sẽ đăng ký các KNM mà mình muốn học và Nhà trường sẽ tổng hợp, tổ chức đào tạo trên cơ sở đáp ứng tối đa nhu cầu của SV. Chương trình GD KNM cho SV cần hướng vào những KNM mang tính phổ quát, ứng dụng rộng rãi cho công việc trong tương lai. Việc thiết kế chương trình phải đảm bảo tính linh hoạt có thể bổ sung hoặc cắt giảm để đảm bảo tính cập nhật liên tục. Về nội dung giảng dạy, cùng với việc cung cấp tri thức khoa học chuyên ngành, cần chú trọng giảng dạy các môn học có liên quan trực tiếp đến phát triển năng lực tư duy của sinh viên như Triết học, Lôgíc học và một số môn học có liên quan như các môn Đường lối cách mạng Việt Nam, Chính trị học, Xã hội học, Tâm lý học, Những môn học này không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến kỹ năng tiếp nhận, xử lý, lựa chọn thông tin mà còn giúp cho sinh viên có nền tảng tư tưởng, phương pháp luận khoa học vững chắc trong việc phản bác lại thông tin sai lệch, xuyên tạc sự thật. Xây dựng và triển khai kế hoạch tổ chức hoạt động GD KNM cho SV Kế hoạch GD KNM cho SV phải được xác định rõ ràng về mục đích, yêu cầu phải đạt được của hoạt động GD KNM cho SV. Cụ thể về mục đích phải nêu rõ được mục đích nâng cao chất lượng đào tạo, đáp ứng chuẩn đầu ra của SV do trường đào tạo. Về yêu cầu hoạt động GD KNM cho SV phải tạo thuận lợi cho người học, đảm bảo điều kiện về cơ sở vật chất, điều kiện về đội ngũ GV dạy KNM. Về thời gian tổ chức dạy KNM cho SV cần tổ chức theo học kỳ trong năm học. Về địa điểm để tổ chức lớp đạo tạo KNM cho SV cần được bố trí ở phòng học có đủ điều kiện đảm bảo về không gian tổ chức hoạt động giảng dạy lý thuyết và huấn luyện thực hành KNM cho SV. Đặc biệt, địa điểm tổ chức cần có các trang thiết bị nghe, nhìn, bảng biểu hỗ trợ hoạt động huấn luyện KNM. Cần phối hợp nhiều đơn vị trong nhà trường để xác định thời gian, địa điểm tổ chức các hoạt động phong trào, hoạt động ngoại khóa của trường nhằm đạt được mục tiêu GD KNM cho SV. Kế hoạch cần nêu rõ trình tự các công việc và phân công trách nhiệm, nhiệm vụ cụ thể cho các phòng ban, đơn vị, cá nhân có liên quan trong việc tổ chức các hoạt 48
  52. động GD KNM cho SV. Bộ phận hoặc đơn vị chịu trách nhiệm chính cần chủ động phối hợp với Phòng ĐT, Phòng Khảo thí, Phòng Quản trị thiết bị để bố trí phòng học, trang thiết bị và lịch học, lịch thi cho các lớp đào tạo KNM. Kế hoạch cần nêu rõ việc thông báo chiêu sinh và quảng bá hoạt động đào tạo KNM cho SV nhằm lan tỏa đến nhiều người về hoạt động này. Quy định cụ thể thời gian đăng ký đối với SV khi tham gia các lớp đào tạo KNM. Kế hoạch cần nêu cụ thể thời gian của khóa học từ ngày bắt đầu đến ngày kết thúc, trong đó các KNM dạy cho SV gồm những KN nào, số tiết dạy của từng KN, số buổi học của mỗi KN, số lớp mở của mỗi KN. Xác định cụ thể thời gian và địa điểm tổ chức kiểm tra, đánh giá KNM cho SV trong từng khóa học. Quản lý việc đăng ký, lập danh sách lớp, hồ sơ các lớp, nhập và tổng hợp điểm, in, cấp phát giấy chứng nhận cho những SV kiểm tra đánh giá đạt yêu cầu. 2.3.3. Đổi mới, đa dạng hóa các hình thức tổ chức giáo dục KNM cho SV, tạo lập môi trường thuận lợi cho GD, rèn luyện và phát triển KNM của SV GD KNM cho SV bằng nhiều con đường khác nhau, để hình thành KNM cho SV một cách nhanh nhất, hiệu quả nhất cần phải phối kết hợp nhiều cách thức GD khác nhau từ chương trình chính khóa cho đến hoạt động ngoại khóa, hoạt động công tác phong trào đoàn thể. Tích hợp GD và rèn luyện KNM cho SV trong các môn học của chương trình đào tạo chuyên môn Đây có lẽ là một cách thiết thực nhất trong việc khắc ghi kĩ năng mềm cho sinh viên, trong khi hầu như không cần thay đổi hoặc thay đổi rất ít cấu trúc khóa học hiện tại. Trong mô hình này, sinh viên phát triển kĩ năng mềm trong suốt toàn bộ thời gian khóa học của họ, có thể chỉ là một số kĩ năng nếu không phải tất cả các kĩ năng được tích hợp trong những môn học được dạy. GV có thể tích hợp phát triển KNM cho SV trong chương trình giảng dạy hiện có. Đây có lẽ là một cách thiết thực nhất trong việc hình thành, phát triển KNM cho SV, trong khi hầu như không cần thay đổi hoặc thay đổi rất ít cấu trúc 49
  53. chương trình đào tạo hiện tại. Trong mô hình này, SV phát triển KNM trong suốt toàn bộ thời gian đào tạo ở trường. Nhiệm vụ của các Khoa là xác định những môn học nào có thể được tích hợp KNM vào nhiều và ít, trên cơ sở đó định hướng cho GV dạy những môn có khối lượng tích hợp KNM nhiều cần phải tập trung đầu tư phương pháp tích hợp cho phù hợp và đạt hiệu quả. GV phải có ý thức trách nhiệm, nghiên cứu các biện pháp thực hiện việc tích hợp KNM vào bài giảng cho hiệu quả và phương pháp đánh giá SV. Trong khi SV cần được thông báo về những yêu cầu gì họ sẽ được đánh giá và đánh giá như thế nào. Ở mô hình này GV đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện và đánh giá các khía cạnh. Phương pháp giảng dạy của GV là lấy SV làm trung tâm, SV sẽ tham gia tích cực vào quá trình học tập, trong khi GV đóng vai trò đảm nhiệm như một người trợ giúp, kích thích, hỗ trợ quá trình học tập, nghiên cứu và rèn luyện của SV. Dạy học dựa trên vấn đề, nghiên cứu trường hợp, và những kĩ thuật giảng dạy và học tập khác như các bài trình bày và làm việc nhóm nên được sử dụng rộng rãi thay cho phương pháp giảng dạy và học tập truyền thống. Các giáo viên cũng nên tìm hiểu xem các kĩ năng mềm được tích hợp trong những trường đại học nước ngoài như thế nào. Ví dụ, tại Curtin Business School, Tây Úc, “Dự án nhỏ kĩ năng nghề nghiệp CBS” được phát triển trong khóa học Quản lý năm thứ 3 để hỗ trợ các sinh viên trong việc phát triển kĩ năng viết và trình bày của họ khi họ được làm việc trong các nhóm với đánh giá theo trọng số 6 % kĩ năng và 40% học thuật. GV của nhà trường cần tăng cường áp dụng các phương pháp dạy học, tư duy tích cực, tạo điều kiện thuận lợi cho SV tự rèn luyện KNM như: - Phương pháp tư duy phân tích tổng hợp: giúp SV trong một thời gian ngắn nảy sinh được nhiều ý tưởng, nhiều giả định về một vấn đề nào đó, trong đó có nhiều ý tưởng sáng tạo. Phương pháp này có thể giúp SV phát triển KN tư duy sáng tạo; KN suy nghĩ và làm việc độc lập. 50