Khóa luận Tư tưởng dung thông tam giáo của Nguyễn Dữ trong tác phẩm Truyền kỳ mạn lục

pdf 70 trang thiennha21 15/04/2022 4931
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Tư tưởng dung thông tam giáo của Nguyễn Dữ trong tác phẩm Truyền kỳ mạn lục", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfkhoa_luan_tu_tuong_dung_thong_tam_giao_cua_nguyen_du_trong_t.pdf

Nội dung text: Khóa luận Tư tưởng dung thông tam giáo của Nguyễn Dữ trong tác phẩm Truyền kỳ mạn lục

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN, ĐHQGHN KHOA TRIẾT HỌC Nguyễn Thị Hồng Tâm TƯ TƯỞNG DUNG THÔNG TAM GIÁO CỦA NGUYỄN DỮ TRONG TÁC PHẨM TRUYỀN KỲ MẠN LỤC KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC NGÀNH TRIẾT HỌC Hệ đào tạo: Chính quy Khóa học: QH-2015-X Người hướng dẫn: PGS.TS. Nguyễn Thanh Bình HÀ NỘI, 2019
  2. LỜI CẢM ƠN Hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này, trước hết tôi xin chân thành cảm ơn sự dạy dỗ nhiệt tình của các thầy cô giáo trong khoa Triết học, trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội trong suốt thời gian tôi học tập tại khoa, tại trường. Đặc biệt, tôi xin chân thành cảm ơn PGS. TS. Nguyễn Thanh Bình, người đã trực tiếp hướng dẫn tận tình và chu đáo trong quá trình thực hiện và hoàn thiện khóa luận tốt nghiệp này. Mặc dù đã rất cố gắng, nhưng chắc chắn khóa luận sẽ không tránh khỏi những hạn chế và thiếu sót. Vì vậy, tôi rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy, các cô, cùng toàn thể các bạn để khóa luận này được hoàn thiện hơn. Hà Nội, ngày 29 tháng 5 năm 2019 Nguyễn Thị Hồng Tâm
  3. MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 NỘI DUNG 7 CHƯƠNG 1: ĐIỀU KIỆN VÀ TIỀN ĐỀ CƠ BẢN CHO SỰ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG DUNG THÔNG TAM GIÁO CỦA NGUYỄN DỮ 7 1.1. Bối cảnh lịch sử, tình hình kinh tế, chính trị - xã hội và văn hóa thế kỷ XVI 7 1.2. Tiền đề cơ bản cho sự hình thành tư tưởng dung thông tam giáo của Nguyễn Dữ 10 1.3. Cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Dữ 20 CHƯƠNG 2: NỘI DUNG TƯ TƯỞNG DUNG THÔNG TAM GIÁO CỦA NGUYỄN DỮ 24 2.1. Tư tưởng dung thông tam giáo thể hiện trong thế giới quan của Nguyễn Dữ 24 2.2. Tư tưởng dung thông tam giáo thể hiện trong nhân sinh quan của Nguyễn Dữ 31 2.3. Tư tưởng dung thông tam giáo thể hiện trong quan niệm về đạo đức của Nguyễn Dữ 40 CHƯƠNG 3: ĐẶC ĐIỂM VÀ GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ TƯ TƯỞNG DUNG THÔNG TAM GIÁO CỦA NGUYỄN DỮ 50 3.1. Một số đặc điểm chủ yếu trong tư tưởng dung thông tam giáo của Nguyễn Dữ 50 3.2. Giá trị và hạn chế trong tư tưởng dung thông tam giáo của Nguyễn Dữ 57 KẾT LUẬN 63 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 65
  4. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Nho giáo, Phật giáo và Đạo giáo là ba hệ thống học thuyết triết học có vị trí quan trọng, chi phối mạnh mẽ đến hệ tư tưởng văn hóa Việt Nam suốt một ngàn năm quân chủ chuyên chế. Sự kết hợp nhuần nhuyễn, dung hợp giữa Nho giáo, Đạo giáo và Phật giáo đã tạo nên một nền văn hóa Việt Nam rực rỡ và tinh hoa. Đó là sự kết hợp của gam màu văn hóa dân gian với văn hóa bác học cung đình, sự hòa hợp giữa chính trị và đời sống tôn giáo tâm linh. Tuy các học thuyết trên có vị thế khác nhau trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể, song chính quá trình tiếp biến nói trên đã tạo nên mối quan hệ tam giáo với tính chất không đồng nhất với mối quan hệ tam giáo ở Trung Quốc và các nước đồng văn khác của khu vực. Xu hướng dung thông tam giáo tại Việt Nam đã có xuất hiện ở Việt Nam rất sớm nhưng nội dung, đặc điểm và tính chất dung thông Nho, Phật, Đạo ở mỗi thời kỳ đều có những nét đặc sắc riêng biệt. Có thể nói rằng, thế kỷ XVI mở ra một giai đoạn lịch sử diễn ra hết sức phức tạp với việc tranh giành quyền lực giữa các tập đoàn phong kiến và các cuộc nội chiến xảy ra liên tục. Tư tưởng và các giá trị đạo đức của Nho gia dường như bất lực trước bối cảnh rối ren này và thời kỳ khủng hoảng chế độ phong kiến Việt Nam trong suốt ba thế kỷ XVI - XVIII. Nho giáo không đủ sức để thay đổi và cải thiện tình trạng khủng hoảng này, trong bối cảnh đó các nhà tư tưởng, mà chủ yếu là Nho sĩ đã tìm đến Phật và Đạo như một lối đi mới để giải quyết sự khủng hoảng trong tư tưởng của chính mình. Và đó là nguyên nhân khiến lịch sử tư tưởng Việt Nam xuất hiện xu hướng mới trong quan hệ tam giáo. Nguyễn Dữ là một trong những đại diện của xu hướng này. Là một nhà Nho tiêu biểu của thế kỷ XVI đầy sóng gió và biến động của xã hội và chế độ phong kiến Việt Nam, nhưng tiếc rằng các tác phẩm của Nguyễn Dữ không còn được bảo tồn và lưu giữ, Truyền kỳ mạn lục là tài liệu duy nhất của ông còn được lưu giữ đến ngày nay. Truyền kỳ mạn lục là một trong những tác phẩm tiêu biểu của văn học Việt Nam thế kỷ XVI. Vũ Khâm Lân đời nhà Lê khi nói về tác phẩm này đã khen rằng đây là một “thiên cổ kỳ bút”. Truyền kỳ mạn lục được đánh giá cao như vậy là bởi nó không chỉ là một tác phẩm văn học thuần túy mà ẩn sâu trong đó còn là những giá trị về mặt tư tưởng, đạo đức, lối sống mà Nguyễn 1
  5. Dữ muốn gửi gắm đến người đọc. Thế nhưng, cho đến nay, Nguyễn Dữ và tác phẩm này của ông chỉ được nghiên cứu nhiều dưới góc độ văn học, văn hóa học. Còn từ góc độ triết học và lịch sử tư tưởng thì nghiên cứu về Nguyễn Dữ và đặc biệt là tư tưởng dung thông tam giáo của ông chưa dành được quan tâm đúng với giá trị, ý nghĩa của nó. Chính vì vậy, chúng tôi cho rằng việc nghiên cứu về tư tưởng triết học, đặc biệt là tư tưởng dung thông tam giáo của Nguyễn Dữ là một việc làm cần thiết, có ý nghĩa trong học tập, nghiên cứu về tư tưởng Việt Nam nói chung và tư tưởng Việt Nam thế kỷ XVI nói riêng. Trên cơ sở đó, chúng tôi lựa chọn vấn đề “Tư tưởng dung thông tam giáo của Nguyễn Dữ trong tác phẩm Truyền kỳ mạn lục” làm đề tài để nghiên cứu trong khóa luận tốt nghiệp cử nhân ngành Triết học của mình. 2. Tổng quan về tình hình nghiên cứu Qua những công trình nghiên cứu về tư tưởng Nguyễn Dữ nói chung và tư tưởng dung thông tam giáo của ông nói riêng từ trước đến nay, có thể khái quát một số kết quả nghiên cứu chủ yếu sau đây: Thứ nhất, nhóm các công trình nghiên cứu về Nguyễn Dữ nói chung Trong số các công trình nghiên cứu về Nguyễn Dữ thì đáng chú ý nhất là công trình Truyền kỳ mạn lục (tái bản năm 2018) của tác giả Trúc Khê dịch và giới thiệu, NXB Hội nhà văn, Hà Nội. Trong tác phẩm này, ngoài việc Trúc Khê biên dịch thì ông có giới thiệu khát quát về cuộc đời, sự nghiệp của Nguyễn Dữ. Cuốn sách có viết rằng Nguyễn Dữ là một nhà nho sống dưới đời nhà Lê, ông vốn hiếu học, thông minh từ nhỏ và là học trò của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ông có làm quan tại huyện Thanh Toàn nhưng chán nản trước thời cuộc nên xin từ chức, về quê nuôi mẹ. Trong cuốn sách cũng đề cập đến Truyền kỳ mạn lục là tác phẩm duy nhất của Nguyễn Dữ còn lại cho đến ngày nay. Cuốn sách gồm 20 truyện, viết bằng chữ Hán theo thể loại truyền kỳ. Cốt truyện Truyền kỳ mạn lục chủ yếu lấy từ những câu chuyện lưu truyền trong dân gian, nhiều trường hợp xuất phát từ truyền thuyết các vị thần mà đến thời hiện nay vẫn còn. Trúc Khê cho rằng Nguyễn Dữ viết bộ truyện này nhằm ghi lại những câu chuyện truyền thuyết linh dị, kì bí từ thời Lý – Trần đến thời ấy. Trúc Khê cũng đánh giá Truyền kỳ mạn lục 2
  6. là một tuyệt tác, nó vừa có giá trị về mặt văn chương, vừa thể hiện sự đặc sắc về mặt tư tưởng. Bên cạnh 20 truyện trong Truyền kỳ mạn lục, nhiều nhà nghiên cứu cũng đặc biệt quan tâm đến 19 Lời bình trong tác phẩm. Tuy nhiên, về vấn đề này thì đến nay vẫn có nhiều nhà nghiên cứu tranh cãi về nguồn gốc và tác giả của 19 Lời bình trên. Trong bản dịch của Ngô Văn Triện và Trúc Khê, họ cho rằng những lời bình là là những đánh giá, nhận xét của Nguyễn Dữ về những vấn đề trong đời sống, xã hội đương thời. Tuy nhiên, cũng có nhiều tác giả đưa nhận định trái ngược, điển hình như trong bài Bàn thêm về tác giả - tác phẩm Truyền kỳ mạn lục (2002), Lại Văn Hùng lại khẳng định Nguyễn Dữ chỉ là người viết lời bình. Ông cho rằng giữa phần truyện và lời bình của Truyền kỳ mạn lục có nhiều điểm mâu thuẫn với nhau, bởi phần lời bình cho thấy rõ những quan điểm, nhận định, lập trường của một nhà Nho, song trong phần chính truyện, tác giả lại đưa ra nhiều quan niệm, tư tưởng phi Nho. Từ sự mâu thuẫn trên, Lại Văn Hùng khẳng định rằng Nguyễn Dữ không phải tác giả của Truyền kỳ mạn lục mà chỉ đưa ra nhận xét của mình về những truyện ấy thông qua phần Lời bình. Cũng nhận thấy được những mâu thuẫn về mặt tư tưởng trong chính tác phẩm Truyền kỳ mạn lục, song Bùi Duy Tân lại cho rằng đây chính là biểu hiệu rạn nứt của ý thức hệ phong kiến. Ông có nhận xét về Nguyễn Dữ như sau: “Nguyễn Dữ đã phản ánh hiện thực mục nát của chế độ phong kiến một cách có ý thức. Toàn bộ tác phẩm thấm sâu tinh thần và màu sắc của cuộc sống, phạm vi phản ánh của tác phẩm tương đối rộng rãi, khá nhiều vấn đề của xã hội, con người được đề cập tới. Tư tưởng chủ đạo của Nguyễn Dữ là tư tưởng Nho gia Tuy nhiên Truyền kỳ mạn lục không phải chỉ thể hiện tư tưởng nhà nho, mà còn thể hiện sự dao động của tư tưởng ấy trước sự rạn nứt của ý thức hệ phong kiến” [13,tr.1125]. Trong cuốn “Truyền kỳ mạn lục Giải âm”(2019) do Nguyễn Quang Hồng phiên âm và chú giải, đã đề cập đến việc so sánh và đối chiếu giữa tác phẩm Truyền kỳ mạn lục và Tiễn đăng tân thoại, ông có khát quát một số điểm giống cũng như những nét đặc sắc riêng của từng tác phẩm. Đặc biệt, ở cuốn sách này, trong quá trình phiên âm đã giữ nguyên các cấu trúc, quy tắc dùng từ của người 3
  7. Việt trong thời kỳ trung đại. Bên cạnh việc phiên âm, tác giả còn tiến hành chú giải các điển tích, điển cố và từ ngữ trong sách. Bởi vậy, tập truyện có giá trị cao về học thuật, không giống các bản Truyền kỳ mạn lục đang lưu hành chỉ đơn thuần là dịch từ Hán văn sang tiếng Việt hiện đại. Thứ hai, nhóm các công trình nghiên cứu về tư tưởng dung thông tam giáo của Nguyễn Dữ Nhìn chung các công trình đề cập đến tư tưởng tam giáo nói chung và tư tưởng dung thông Nho, Phật, Đạo của Nguyễn Dữ khá ít. Trong đó, Hệ thống tam giáo trong Truyên kỳ mạn lục (1972) của tác giả Thạnh Trung Giả là một công trình tiêu biểu, theo tác giả trong số hai mươi truyện ngắn tạo thành tác phẩm Truyền kỳ mạn lục, thấy được sự ảnh hưởng sâu sắc của Nho, Phật, Đạo trong đời sống văn hóa, tinh thần của nhân dân Việt Nam. Thạch Trung Giả ở bài viết này, đã liệt kê những chi tiết truyện mang tư tưởng của tam giáo, đồng thời sắp xếp chúng một cách hệ thống, logic. Ông cũng chỉ ra những đánh giá, nhận định và lý giải của mình về những chi tiết truyện ấy. Tuy nhiên, bài viết mới chỉ dừng lại ở việc phân tích tư tưởng tam giáo trong tác phẩm Truyền kỳ mạn lục, chưa cho thấy được bối cảnh, tiền đề đã tạo nên sự dung hợp giữa tam giáo và nguyên nhân vì sao trong tư tưởng của Nguyễn Dữ lại bị ảnh hưởng bởi cả Nho, Phật và Đạo giáo. Trong Luận án tiến sĩ Tư tưởng dung thông Nho, Phật, Đạo của Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phùng Khắc Khoan và Nguyễn Dữ, tác giả Vũ Phú Dưỡng đã nêu ra được những điều kiện, bối cảnh kinh tế xã hội và tiền đề tư tưởng tạo nên tư tưởng triết học nói chung của Nguyễn Dữ. Trong đó, đặc biệt nhấn mạnh đến sự ảnh hưởng, tác động của Nguyễn Bỉnh Khiêm đến tư tưởng triết học và cuộc đời của Nguyễn Dữ. Ông khẳng định, tư tưởng dung thông tam giáo của Nguyễn Dữ là sự kế thừa và phát triển những tư tưởng về dung thông tam giáo của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Tuy nhiên, Luận án chưa làm rõ, nổi bật được những nội dung, đặc điểm riêng biệt trong tư tưởng của Nguyễn Dữ nói chung và tư tưởng dung thông tam giáo của ông nói riêng. Ngoài các công trình nói trên đề cập tới tư tưởng dung thông tam giáo của Nguyễn Dữ, còn có các bài viết của các nhà khoa học trên các tạp chí chuyên ngành, tạp chí triết học như Tam giáo đồng nguyên và tính đa nguyên trong truyền 4
  8. thống văn hóa Việt Nam của tác giả Nguyễn Tài Đông, Tạp chí Khoa học Xã hội Việt Nam, số 5; Bàn thêm về vấn đề tác giả - tác phẩm Truyền kỳ mạn lục của Lại Văn Hùng, Tạp chí Văn học, số 10 hay bài viết Lại bàn về tam giáo đồng nguyên của Lê Văn Quán được đăng trên Tạp chí Hán Nôm số 5; Những bài viết trên đều khái quát chung về xu hướng dung thông tam giáo trong lịch sử Việt Nam trong giai đoạn XVI, trong đó chỉ ra nguyên nhân của quá trình dung thông và đặc điểm của nó, Nguyễn Dữ được nhắc đến với tư cách là một đại diện tiêu biểu cho xu hướng này. Công trình đáng chú ý nhất là bài viết Vấn đề tam giáo trong Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ của Trần Nguyên Việt. Trong bài viết của mình tác giả cũng đã làm rõ quan điểm của Nguyễn Dữ về vai trò của từng học thuyết trong tam giáo đối với ý thức của người Việt nói chung, của giới trí thức nói riêng trong thế kỷ XVI – XVII. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích của khóa luận Trình bày có hệ thống tư tưởng dung thông tam giáo của Nguyễn Dữ, thể hiện trong thế giới quan, nhân sinh quan và quan niệm về đạo đức của ông. Và từ đó, chỉ ra những đặc điểm chủ yếu của tư tưởng dung thông tam giáo của Nguyễn Dữ. 3.2. Nhiệm vụ của khóa luận Để đạt được mục đích trên, nhiệm vụ của khóa luận là: - Phân tích, khái quát các điều kiện và tiền đề cho sự hình thành tư tưởng triết học nói chung và tư tưởng dung thông tam giáo nói riêng của Nguyễn Dữ. - Phân tích, làm rõ những nội dung và đặc điểm của tư tưởng dung thông tam giáo của Nguyễn Dữ trong tác phẩm Truyền kỳ mạn lục. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu của khóa luận: Nội dung tư tưởng dung thông tam giáo được thể hiện trong thế giới quan, nhân sinh quan và quan niệm về đạo đức của Nguyễn Dữ ( qua nghiên cứu tác phẩm Truyền kỳ mạn lục). 4.2. Phạm vi nghiên cứu của khóa luận: Bối cảnh kinh tế, xã hội và lịch sử tư tưởng Việt Nam thế kỷ XVI và tư tưởng dung thông tam giáo của Nguyễn Dữ trong tác phẩm Truyền kỳ mạn lục. 5
  9. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận: Khóa luận được thực hiện trên cơ sở vận dụng những nguyên lý cơ bản của triết học Mác – Lênin và quan điểm của Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về xã hội và con người. 5.2. Phương pháp nghiên cứu: Khóa luận chủ yếu vận dụng phương pháp biện chứng duy vật trong triết học Mác – Lênin, phương pháp nghiên cứu lịch sử triết học và kết hợp một số phương pháp nghiên cứu khoa học khác như: phương pháp logic kết hợp với phương pháp lịch sử, phân tích và tổng hợp, đối chiếu và so sánh, v.v. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của khóa luận Khóa luận không chỉ làm rõ hơn nội dung, đặc điểm, giá trị và hạn chế trong tư tưởng dung thông tam giáo của Nguyễn Dữ mà còn góp phần vào việc học tập, nghiên cứu tư tưởng của Nguyễn Dữ, tư tưởng Việt Nam thế kỷ XVI. 7. Kết cấu của khóa luận Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận gồm 3 chương, 8 tiết. 6
  10. NỘI DUNG CHƯƠNG 1: ĐIỀU KIỆN VÀ TIỀN ĐỀ CƠ BẢN CHO SỰ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG DUNG THÔNG TAM GIÁO CỦA NGUYỄN DỮ 1.1. Bối cảnh lịch sử, tình hình kinh tế, chính trị - xã hội và văn hóa thế kỷ XVI Sau thời kỳ thịnh trị của Lê Thánh Tông, triều đại phong kiến nhà Lê sơ bước vào giai đoạn suy thoái. Triều đình phong kiến nhà Lê sơ xuất hiện các ông “vua quỷ”, “vua lợn” như vua Uy Mục (1505 - 1509), Tương Dực (1509 - 1516), còn hệ thống quan lại thì ngang ngược hoành hành. Bên cạnh nhà vua hoang dâm vô độ, cho xây dựng nhiều đền đài, cung điện thì việc các quan trong triều đình lợi dụng chức quyền, vơ vét tài sản, tham ô công quỹ đã làm gia tăng mâu thuẫn giữa triều đình phong kiến với nhân dân. Dưới thời Lê Thánh Tông trị vì (1460 – 1497), nhà nước phong kiến Việt Nam về cơ bản đã tạo ra và duy trì một xã hội tương đối ổn định và phát triển. Bước sang thế kỷ XVI, bộ máy triều đình không thể cải thiện tình trạng mâu thuẫn này, đồng thời những mâu thuẫn mới tiếp tục nảy sinh càng cho thấy rõ sự lạc hậu, bất lực của chế độ. Nhà nước phong kiến đã trở thành đối tượng đấu tranh của các phong trào nông dân khởi nghĩa. Họ đều là những người bị bóc lột thậm tệ bởi nhà nước phong kiến đương thời, chính chế độ ấy đã khiến họ trở nên bần cùng hóa và buộc phải đấu tranh để tự giải thoát chính mình. Ở giai đoạn này, nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân diễn ra trên khắp cả nước nhưng cuối cùng đều thất bại. Tuy không thể lật đổ triều đình Lê sơ nhưng những cuộc khởi nghĩa đó một mặt cho thấy sự suy yếu của nhà nước phong kiến đương thời, mặt khác thể hiện được nhu cầu, khát khao của nhân dân về một xã hội thái bình, thịnh trị. Lợi dụng sự suy yếu, rối loạn của triều đình Lê sơ, Mạc Đăng Dung (1483 – 1541) ủ mưu lật đổ nhà Lê để giành lấy quyền chấp chính. Năm 1526 Mạc Đăng Dung giết vua Lê Chiêu Tông (1516 – 1522), tháng 6 năm 1527 bắt ép vua Lê Cung Hoàng (1522 - 1527) nhường ngôi cho mình. Việc Mạc Đăng Dung lật đổ nhà Lê, thành lập nhà Mạc đã gây nên làn sóng phản đối dữ dội từ đội ngũ trí thức Nho gia, đặc biệt là những vị công thần và sĩ phu khoa bảng lúc bấy giờ như Nguyễn Thái Bạt, Lê Tuấn Mậu, Đàm Thuận Huy, Nguyễn Duy Tường, Hình thành trong một 7
  11. bối cảnh danh không chính, ngôn không thuận đồng thời vấp phải sự phản đối mạnh mẽ từ đội ngũ nhà Nho, nhà Mạc phải tìm biện pháp để bảo vệ được ngôi vị của mình. Chính vì thế, triều đình nhà Mạc đã tìm đến nhà Minh (Trung Quốc) để kêu gọi sự hậu thuẫn đồng thời tìm cách đối phó với những người trung thành với triều đình cũ. Bên cạnh đó, nhà Mạc cũng chú trọng đến vấn đề giáo dục khoa cử nhằm đào tạo ra đội ngũ trí thức Nho học để từ đó tìm ra những hiền tài trung thành với nhà Mạc, trở thành trụ cột cho triều đình. Dù có nhiều sự thay đổi nhưng về cơ bản, bộ máy chính trị nhà Mạc sử dụng để xây dựng, quản lý xã hội vẫn là mô hình nhà nước phong kiến trung ương tập quyền giống như triều đại trước. Sự ra đời của vương triều nhà Mạc đã làm cho các tập đoàn phong kiến khác lấy danh nghĩa “phù Lê diệt Mạc” để thành lập ra triều đại mới là Lê Trung hưng (ở Thanh Hóa). Sự xung đột giữa nhà Mạc và nhà Lê Trung hưng là nguyên nhân hình thành nên Bắc triều (nhà Mạc thống trị ở Bắc Bộ) và Nam triều (họ Trịnh dưới danh nghĩa phù Lê quản lý vùng đất Thanh Hóa trở vào). Từ năm 1546 đến 1592, trên lãnh thổ nước ta đã diễn ra 38 chiến dịch lớn nhỏ giữa Lê – Trịnh và Mạc nhằm tranh giành quyền lực nhưng không bên nào giành được thắng lợi cuối cùng. Mãi đến năm 1592, Nam triều thắng Bắc triều, nhà Mạc chạy lên Cao Băng và tồn tại ở đó được khoảng hơn 60 năm thì tan rã. Khi cuộc xung đột giữa nhà Mạc và Lê – Trịnh kết thúc, thì xã hội Việt Nam lại xuất hiện cuộc xung đột mới Trịnh – Nguyễn. Sự phân chia và quản lý đất nước do các tập đoàn phong kiến Mạc, Trịnh, Nguyễn là nét nổi bật nhất trong tình hình chính trị của xã hội Việt Nam lúc bấy giờ. Tuy nhiên, các tập đoàn phong kiến Đàng Trong và Đàng Ngoài đều có điểm chung là theo mô hình cũ từ thời Lê sơ – nhà nước quan liêu ngày càng nặng nề và phức tạp và đang trở thành một lực cản trở sự phát triển của xã hội. Các nhân tố kinh tế, chính trị thời kỳ này đã góp phần quy định bộ mặt đời sống văn hóa tư tưởng của xã hội Việt Nam thế kỷ XVI, đầu thế kỷ XVII. Thời kỳ này Nho giáo vẫn được các tập đoàn phong kiến sử dụng là công cụ chính để xây dựng, củng cố chính quyền và thành lập, củng cố trật tự xã hội. Giáo dục và thi cử Nho giáo cũng như dưới thời Lê sơ, vẫn lấy nội dung trong Tứ thư và Ngũ Kinh. Sự củng cố giáo dục khoa cử trong các tập đoàn phong kiến được tăng cường chủ yếu nhằm tạo ra tầng lớp sĩ phu mới để phục vụ cho các tập đoàn phong kiến này. Tuy 8
  12. nhiên, nếu Nho sĩ - những người trí thức ở thế kỷ XV là những nhà tư tưởng tiêu biểu của xã hội, thì bước sang thế kỷ XVI và thế kỷ XVII, các nhà Nho sĩ phải đối diện với đất nước triền miên trong loạn lạc, trong chiến tranh, trong sự chia cắt. Thực tiễn đó đã đặt ra cho các nhà Nho lúc đó là làm sao đất nước trở về một mối, xã tắc được yên vui, nhân dân được sống trong cảnh thái bình, thịnh trị, có trật tự, có kỷ cương, v.v. Thế kỷ XVI và thế kỷ XVII, do sự suy thoái của chế độ quân chủ chuyên chế, trung ương tập quyền, sự tranh chấp giữa các thế lực, phe phái phong kiến và do ảnh hưởng ngày càng tăng của quan hệ hàng hóa – tiền tệ, Nho giáo đã thể hiện sự bất lực trước các vấn đề của xã hội. Tôn ti trật tự xã hội không còn như trước và sự suy đồi ấy biểu hiện trong mọi mặt của xã hội, ví như: Giáo dục vốn là một vấn đề luôn được triều đình coi trọng, đề cao nhưng nay ngày càng xuống cấp. Trong các kì thi Nho học, các quan chấm thi ở trường thi Hương soạn sẵn 4 – 5 đề thi, ra đi ra lại; những thầy đồ giỏi cũng dựa vào đó để trục lợi bằng cách soạn sẵn đáp án, đem đến quan trường bán cho các thí sinh dự thi. Thậm chí, các bộ Ngũ Kinh, Tứ Thư còn được tóm tắt, người đi thi chỉ cần học thuộc bản tóm tắt đấy là đủ. Nạn mua quan bán chức cũng là một điển hình tiêu biểu cho sự rối loạn của triều đình phong kiến. Sự suy đồi của Nho giáo diễn ra trong chính hàng ngũ những người lấy Nho học làm nền tảng tri thức và có nhiệm vụ truyền bá học thuyết này. Trước tình hình trên, những nhà Nho chân chính - những người còn trách nhiệm với đất nước, họ đã nhận thấy được sự bế tắc của Nho giáo trong việc xử lý các vấn đề thực tiễn xã hội. Do vậy, để khắc phục sự suy yếu, bất lực của Nho giáo, khôi phục lại địa vị và vai trò của Nho giáo như thời Lê sơ, đồng thời lập lại trật tự, kỷ cương và sự ổn định của xã hội thì vấn đề đặt ra cho nhiều nhà Nho là theo Nho, theo Phật hay theo Đạo. Chỉ theo một đạo hay kết hợp các đạo lại với nhau là tốt nhất chính là một câu hỏi mà đội ngũ tri thức lúc bấy giờ được đặt ra. Nho giáo không còn là tư tưởng chủ đạo mà khuynh hướng chính lúc này là tư tưởng kết hợp tam giáo là một xu hướng phát triển trong giai đoạn này. Trong đó, khuynh hướng kết hợp Nho giáo với Đạo Lão – Trang có Nguyễn Bỉnh Khiêm là một đại diện tiêu biểu, còn ở một số nhà Nho khác như Nguyễn Dữ thì khuynh hướng kết hợp giữa Nho giáo với Đạo giáo lại được biểu lộ rõ ràng hơn. 9
  13. Tóm lại, cả Nho, Phật, Đạo đều có một phương diện cần thiết cho con người, cho xã hội lúc bấy giờ. Sự xuất hiện chủ trương kết hợp Nho, Phật, Đạo như trên cũng không phải là điều mới mẻ trong lịch sử tư tưởng Việt Nam. Trong giai đoạn Lý – Trần, sự kết hợp này cũng đã xuất hiện. Tuy nhiên, trong hai thế kỷ XVI và XVII thì sự kết hợp Nho, Phật, Đạo trong tư tưởng của các nhà Nho Việt Nam có nội dung và tính chất khác so với các thời kỳ trước đó. 1.2. Tiền đề cơ bản cho sự hình thành tư tưởng dung thông tam giáo của Nguyễn Dữ 1.2.1. Tam giáo và sự du nhập, phát triển của tam giáo đến thế kỷ XVI Thứ nhất, Nho giáo và sự du nhập, phát triển của Nho giáo ở Việt Nam đến thế kỷ XV: Nho giáo là một học thuyết chính trị, xã hội, đạo đức được Khổng Tử (551 – 479 tr.CN) sáng lập và sau đó được các môn đệ của ông phát triển qua các giai đoạn phát triển của Nho gia. Những nội dung cơ bản của Nho giáo được thể hiện rõ trong các tác phẩm kinh điển như: Tứ Thư (gồm: Luận ngữ, Đại học, Trung Dung, Mạnh Tử) và Ngũ Kinh (gồm Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Dịch, Kinh Lễ và Kinh Xuân Thu). Nho giáo có nội dung tư tưởng triết học chính về thế giới, con người và xã hội, trong đó những vấn đề luân lý đạo đức, thể chế và đường lối cai trị, quản lý xã hội được chú trọng hàng đầu. Trong Quan niệm về thế giới, Nho giáo có hai khuynh hướng chủ yếu là duy tâm và duy vật. Với quan điểm duy tâm, xuất phát từ quan niệm trời là gốc của vạn vật “vạn vật bản hồ thiên”, các nhà Nho cho rằng trời là một thực thể có ý chí, có sức mạnh tối thượng và có quyền uy tuyệt đối, quy định sự sinh thành, phát triển, tiêu vong của mọi sự vật, hiện tượng trong xã hội. Vì vậy, cuộc đời con người hay các hiện tượng trong cuộc sống thì đều chịu sự quy định của mệnh trời. Đến Đổng Trọng Thư (thời hán), ông còn bổ sung thêm quan niệm này khi cho rằng mọi hiện tượng của tự nhiên đều biểu lộ cảm xúc của trời hoặc mang ý nghĩa như một lời cảnh báo của trời đối với nhà vua, đất nước. Nếu nhà vua thực hiện đúng ý trời, dùng “đức” để cai trị thì trời sẽ cho mùa màng bội thu, còn nếu nhà vua làm trái với ý trời thì trời sẽ giáng thiên tai xuống để cảnh cáo, trừng phạt. Bên cạnh quan điểm 10
  14. duy tâm, Nho giáo cũng có những quan điểm duy vật để giải thích cho sự vận hành của thế giới như quan điểm về âm dương, ngũ hành, Ở Quan niệm về bản chất, bản tính của của con người. Các nhà Nho chủ yếu tập trung bàn về vấn đề bản tính của con người. Nếu Khổng Tử và Mạnh Tử cho rằng con người sinh ra vốn mang tính thiện, tính ngay thẳng thì Tuân Tử lại cho rằng, bản chất của con người là vô lại, bởi con người luôn bị dục vọng chi phối nên không có việc ác nào mà con người không làm. Tuy có cách lý giải khác nhau về bản tính con người nhưng Khổng Tử, Khổng Tử, Tuân Tử đều hướng đến mục đích hướng thiện cho con người và họ đều đề cao việc tu dưỡng đạo đức của mỗi cá nhân. Từ Đổng Trọng Thư trở đi, một quan niệm nữa về bản tính của con người xuất hiện, nhiều nhà Nho cho rằng ở con người tồn tại cả thiện và ác. Họ đưa ra quan điểm về tính tam bậc, trong đó, toàn thiện chỉ có ở bậc thánh nhân, quân tử - đây là những người làm nhiệm vụ cai trị xã hội và giáo hóa con người. Vừa thiện vừa ác thì xuất hiện ở tầng lớp trung gian như tầng lớp trí thức, thương nhân, Còn những người toàn ác chính là hạng tiểu nhân, đây là đối tượng của giáo dục, giáo hóa. Tóm lại, trong quan niệm của Nho giáo, con người con bản tính và tính ấy do trời quy định, phú cho con người nhưng tính người có thể thay đổi dựa vào việc tự tu dưỡng đạo đức của mỗi con người. Từ quan niệm về bản tính của, các nhà Nho đưa ra quan niệm về vai trò của con người đối với trời và trong các mối quan hệ. Đối với trời, họ cho rằng con người phải “Tri thiên mệnh, úy thiên mệnh”. Nghĩa là con người trước hết phải thành tính, tôn thờ và sợ trời để từ đó suy nghĩ, hành động theo ý trời, mệnh trời. Còn trong những mối quan hệ xã hội, Nho giáo phân chia thành 5 mối quan hệ cơ bản (ngũ luân), gồm có: vua – tôi, cha – con, chồng – vợ, anh – em, bạn – bè. Trong quan hệ vua – tôi thì đề cao “Quân nhân, thần trung”, nhà vua là người có quyền lực tối thượng, được trời ủy quyền cai quản xã hội nhưng nhà vua ấy phải là người có đạo đức, là tấm gương và thực hiện các chính sách để kiến tạo ra một xã hội có đạo đức. Vua phải thương yêu bề tôi như bậc làm cha, làm mẹ. Con bề tôi cũng cần tuyệt đối trung thành và thực hiện mọi mệnh lệnh của nhà vua đồng thời can gián những hành vi trái với đạo của nhà vua, giúp vua sửa đức và cai trị xã hội. Trong mối quan hệ cha còn thì coi trọng “Phụ từ, tử hiếu” nghĩa là người cha có trách 11
  15. nhiệm dạy dỗ con thành người có đạo đức, còn người con có hiếu thì quan trọng nhất là thái độ thành kính. Trong mối quan hệ vợ chồng thì đề cao trách nhiệm yêu thương, chăm sóc lẫn nhau nhưng người chồng có vị trí, vai trò cao hơn, còn người vợ thì phải tuân theo đạo tam tòng, tứ đức. Còn trong mối quan hệ bạn bè thì đề cao sự tương đồng trong lối sống, giữa bạn bè cần có sự thành thật, thành tâm và giúp đỡ lẫn nhau để sửa đức. Từ việc chỉ ra vai trò của con người trong những mối quan hệ xã hội, Nho giáo muốn hướng tới việc xây dựng một xã hội thái bình, thịnh trị. Nho giáo cũng nhấn mạnh vai trò của con người là vô cùng quan trọng bởi con người cùng trời hóa sinh vạn vật nhưng con người trước hết phái có đạo đức. Nho giáo là một hình thức văn hóa ngoại lai được du nhập vào Việt Nam từ thời Bắc thuộc với hai phương thức chủ yếu, theo gót chân xâm lược của các thế lực phong kiến phương Bắc và thông qua quá trình giao lưu văn hóa. Từ năm 179 tr.CN, khi nhà nước Âu Lạc rơi vào ách đô hộ của nhà Triệu, mở đầu một thời kỳ Bắc thuộc. Năm 111 tr.CN, nhà Hán thôn tính Nam Việt và biến Âu Lạc thành thuộc địa của nhà Hán. Từ thời Tây Hán, chính quyền đô hộ truyền bá Nho giáo vào nước ta để nô dịch nhân dân ta về mặt tư tưởng. Chúng có âm mưu biến Việt Nam thành một quận đồng thời Hán hóa dân ta về mặt tư tưởng, nhằm xóa bỏ văn hóa Việt Nam. Lúc nay, Nho giáo được sử dụng như một công cụ xâm lược nên bị phản đối gay gắt từ phía nhân dân Việt Nam, chống Nho giáo cũng đồng nghĩa với việc chống quân xâm lược. Chính vì lý do trên, trong thời Bắc thuộc, Nho giáo chưa có chỗ đứng trong xã hội Việt Nam. Ngoài con đường áp đặt, “cưỡng bức” văn hóa, Nho giáo cũng được du nhập thông qua những trí thức, lái buôn, nông dân Trung Quốc Những tầng lớp này vì nhiều lý do khác nhau mà chuyển đến định cư tại nước ta đồng thời đem theo văn hóa của người Hán, trong đó có Nho giáo được biểu lộ trong lối sống, lối sinh hoạt của họ. So với Nho giáo được truyền tải trong sách vở thì Nho giáo đã được dân gian hóa này dễ dàng được nhân dân Việt Nam tiếp nhận hơn. Tuy nhiên, nó cũng không để lại nhiều dấu ấn trong ý thức hệ của nước ta, mà ngược lại, bộ phận những người phương Bắc định cư tại Việt Nam để thích nghi với thiên nhiên và xã hội, họ buộc phải thay đổi và tiếp nhận những nét văn hóa, lối sinh hoạt của nhân dân ta. 12
  16. Từ sau thế kỷ VI, cùng với sự trưởng thành trong ý thức độc lập của dân tộc, sự tiếp thu những giá trị phù hợp của Nho giáo trở thành một nhu cầu thực tế của đất nước, tầng lớp trí thức bắt đầu nhận ra được sự cần thiết của tri thức Nho giáo đối với sự phát triển của xã hội nói chung và con người nói riêng. Lúc này, Nho giáo được sử dụng như một biện pháp chống quân xâm lược và sau là xây dựng, bảo vệ bộ máy nhà nước phong kiến Việt Nam. Sau chiến thằng Bạch Đằng, nhà nước phong kiến Việt Nam về cơ bản là một bộ máy nhà nước phong kiến trung ương tập quyền. Tuy nhiên, cơ sở kinh tế xã hội chưa tạo điều kiện phát triển thuận lợi cho Nho giáo. Hơn nữa chế độ thi cử Nho học chưa được áp dụng nên đội ngũ tri thức Nho giáo cũng chưa xuất hiện trong giai đoạn này. Sau Bắc thuộc, nhiệm vụ chủ yếu của dân tộc là khôi phục đất nước qua việc phát triển kinh tế nên Nho giáo cũng không được chú trọng. Đồng thời, trình độ và tầm hiểu biết của các vị vua nhà Ngô - Đinh - Tiền Lê còn nhiều hạn chế, nên họ chưa hiểu được tầm quan trọng của việc phát triển Nho giáo đối với bộ máy chính trị đương thời. Đến thời Lý – Trần, từ những chuyển biến về mặt kinh tế, xã hội, khả năng đáp ứng những nhu cầu xây dựng, tổ chức, quản lý xã hội và đặc biệt là nhu cầu phát triển văn hóa, giáo dục, Nho giáo ngày càng thể hiện rõ hơn vai trò mình đối với triều đình phong kiến và đời sống tinh thần của nhân dân. Để có thể xây dựng, duy trì sự ổn định, phát triển của đất nước đồng thời đè bẹp những âm mưu xâm lược từ phía bên ngoài, các triều đình phong kiến buộc phải lựa chọn một lý luận, một hệ tư tưởng soi đường, làm chỗ dựa trong việc cai trị, quản lý đất nước. So với Phật và Đạo giáo, Nho giáo là học thuyết phù hợp nhất, có hiệu quả nhất để có thể đáp ứng những nhu cầu trên. Chính vì vậy mà, các triều đại phong kiến Lý – Trần và cả các triều đại phong kiến về sau đã lựa chọn Nho giáo với tư cách là học thuyết chính trị, xã hội để cai trị, quản lý đất nước và phát triển chế độ phong kiến về mọi mặt. Tuy nhiên, sự ảnh hưởng của Nho giáo đối với đời sống chính trị, xã hội, phong tục và nếp sống của nhân dân Việt Nam vẫn diễn ra hết sức chậm chạp. Đến thời nhà Trần, trong điều kiện phải củng cổ quyền lực nhà nước và tổ chức cuộc khảng chiến chống quân Nguyên – Mông, triều đình đề cao những quan niệm về đạo cương thường, nghĩa quân thần, trật tự trên dưới, nên việc học tập và thi cử Nho học được triển khai khá rầm rộ. Số lượng Nho sĩ gia tăng và chiếm phần đông 13
  17. trong bộ máy tri thức Việt Nam đương thời. Trái ngược với sự phát triển của Nho giáo, Phật giáo bắt đầu biểu lộ những mặt hạn chế, nhiều nhà Nho đã đứng lên để phê phán sự duy đồi về mặt đạo đức của một bộ phận tăng ni, sự xa hoa, lãng phí tiền của và sức lực của nhân dân trong việc xây dựng nhà chùa và các nghi lễ tôn giáo. Đến thời nhà Hồ, Hồ Quý Ly đã mạnh tay công kích Phật giáo và suy tôn Nho giáo. Số lượng trường dạy Nho học gia tăng nhanh chóng và được mở đến tận cấp châu, huyện trong giai đoạn này. Chính vì thế nên sang đến thế kỷ XV, khi nhà nước Lê sơ được thành lập thì Nho giáo đã giành được vị trí độc tôn trong đời sống chính trị và tinh thần của dân tộc ta. Hệ tư tưởng Nho giáo được thể hiện trong nhiều chủ trương, chính sách của nhà nước phong kiến, qua đó thấm vào mọi lĩnh vực văn hóa, đạo đức của xã hội đương thời. Nó làm thay đổi cách ứng xử, giao tiếp và đưa ra những yêu cầu chặt chẽ, quy củ cho các nghi lễ, phong tục của cộng đồng làng xã Việt Nam. Thứ hai, Phật giáo và quá trình du nhập, phát triển của Phật giáo ở Việt Nam đến thế kỷ XVI: Phật giáo là một trào lưu triết học – tôn giáo xuất hiện vào khoảng cuối thế kỷ thứ VI TCN ở bắc Ấn Độ. Theo sử sách ghi lại, người sáng lập ra là Tất Đạt Đa, thái tử của vua Tịnh Phạn thuộc bộ tộc Sakiya. Tư tưởng Phật giáo mang nặng tính triết lý, đạo đức và nó đã ảnh hưởng sâu sắc đến văn hóa phương Đông nói chung và văn hóa Việt Nam nói riêng. Trước hết, trong quan niệm về bản thể của thế giới, khác với các hệ thống tư tưởng khác, Phật giáo cho rằng bản thể của thế giới chính là “tâm”. Ban đầu, cái “tâm” của Phật giáo mang trạng thái tĩnh, không có sự vận động và chính vì cái “tâm” ấy tĩnh nên cũng không có vũ trụ, vạn vật. Sự sinh thành của mọi sự vật, sự việc và hiện tượng trong thế giới này là do cái “tâm” đã chuyển sang trạng thái động. Theo quan niệm Phật giáo, thế giới này là luôn vận động, biến đổi, các biến đổi diễn ra nhanh như chớp mắt, và thế giới thì không có trước, không có sau, vô thủy, vô chung. Đó chính là lẽ vô thường, tức không có gì là tồn tại cố định, mọi thứ luôn biến đổi nhanh chóng và không ai có thể lường trước được những sự biến đổi ấy. Tuy nhiên những biến đổi này không phải tự dưng mà có, nó đều tuân theo luật nhân quả, nghiệp báo. 14
  18. Nhân sinh quan Phật giáo xuất phát từ quan niệm cho rằng đời là bể khổ, bởi vì con người có sinh, lão, bệnh, tử. Hơn thế nữa, theo quan niệm luân hồi thì cuộc đời con người là một vòng tuần hoàn, liên tiếp từ kiếp này sang kiếp khác. Vậy nên, sau khi con người qua đời thì sẽ tái sinh, trải qua một kiếp sống khác để trả nợ cho cái nghiệp mà họ tạo ra ở kiếp trước. Sự luân hồi chỉ kết thúc khi con người trả hết nghiệp nhưng con người lại bị chi phối bởi những ham muốn nhục dục, tham, sân, si và để thỏa mãn cho những dục vọng đó, con người không ngừng tạo ra nghiệp. Cuộc đời còn là bể khổ do không biết thỏa mãn với những gì mình đang có, con người không thể sống thảnh thơi mà luôn bị dằn vặt bởi sự ham muốn, tham lam. Giáo lý của Phật giáo đã dùng thuyết Tứ Diệu Đế để lý giải về sự khổ trong cuộc đời con người. Trong đó, Khổ đế là chân lý về sự khổ, Tập đế là chân lý về nguyên nhân của sự khổ, Diệt đế là chân lý về sự chấm dứt các nỗi khổ và Đạo đế là chân lý về con đường diệt khổ. Để thoát khỏi sự khổ đau, đạt tới cõi niết bàn thì Phật giáo khuyên con người tu tập theo Bát chính đạo, gồm có: chính kiến, chính tưduy, chính ngữ, chính nghiệp, chính mệnh, chính tịnh tiến, chính niệm, chính định. Bát chính đạo là con đường Đức Phật đã chỉ ra để con người có được trí tuệ diệt trừ vô minh, phá vòng luân hồi sinh tử, vừa thực hành tu tập diệt trừ tham dục, đạt đến sự giải thoát. Về thời điểm Phật giáo truyền vào Việt Nam, đến nay tuy chưa có những cứ liệu chính xác, song hầu hết các học giả đều cho rằng, Phật giáo truyền vào Việt Nam khá sớm, khoảng thế kỷ II sau Công nguyên. Phật giáo truyền bá vào nước ta chủ yếu theo hai nguồn: Một, từ các vị sư Trung Hoa sang lánh nạn ở miền Bắc nước ta khi Hán triều có nội loạn ở thế kỷ thứ II và thế kỷ thứ III; Hai, từ các thiền sư từ Ấn Độ trực tiếp sang truyền đạo và lập nên các thiền phái ở nước ta từ thế kỷ thứ II và III kéo dài nhiều đời. Phật giáo bắt đầu xuất hiện ở nước ta trong thời Bắc thuộc, đây là thời kỳ nhân dân ta phải sống dưới ách đô hộ, áp bức và bóc lột của nhà nước phong kiến phương Bắc. Vậy nên người dân Việt Nam có ý thức sâu sắc về nỗi khổ của con trong thế tục, đây chính là điểm tương đồng với nhân sinh quan Phật giáo. Hơn thế nữa, Phật giáo du nhập vào nước ta với tinh thần từ bi, hỷ xả, cứu khổ cứu nạn, các nhà sư là người truyền giáo đồng thời làm công việc cứu tế, chữa bệnh cho dân chúng. Chính điều ấy khiến cho Phật giáo nhanh chóng nhận 15
  19. được thiện cảm từ phía nhân dân Việt Nam và dễ dàng hòa nhập vào đời sống văn hóa, tinh thần của dân tộc. Trong thời kỳ Bắc thuộc, Phật giáo dần lan tỏa trong đời sống tinh thần của nhân dân, được biểu lộ trong các câu chuyện cổ tích về một vị Bụt, người luôn xuất hiện để cứu giúp những người gặp phải hoàn cảnh đau khổ, bất công. Sang đến triều đại nhà Đinh và Tiền Lê, khi nền độc lập còn non trẻ, các vị vua tuổi đời và trình độ học thức cũng không cao đã mời các Thiền sư uyên bác, đạo pháp cao thâm vào triều làm cố vấn chính trị và ngoại giao. Những thiền sư tiêu biểu của giúp sức cho các nhà vua Đinh – Tiền Lê gồm có Khuông Việt, Ngô Chân Lưu, Pháp Thuận, Phật giáo thời kỳ được suy tôn và truyền bá rộng rãi trên khắp cả nước, nó lan rộng về mặt không gian cũng như sự thấm sâu trong đời sống tinh thần của người Việt, bước đầu chiếm được vị trí vững chắc trong xã hội thế kỷ X. Thời kỳ Lý – Trần là thời kỳ phát triển đỉnh cao của Phật giáo tại Việt Nam tuy nhiên đến cuối thời nhà Trần, Phật giáo bắt đầu cho thấy sự suy yếu và mặt hạn chế của mình thông qua những biểu hiện xa hoa, lãng phí và đặc biệt là sự xuống cấp về mặt đạo đức của một bộ phận nhà sư. Từ đây, Phật giáo dần nhường chỗ cho Nho giáo trong lĩch vực chính trị và tồn tại với tư cách là một tôn giáo trong đời sống tinh thần, đời sống tâm linh của nhân dân Việt Nam. Thứ ba, Đạo giáo và quá trình du nhập, phát triển của Đạo giáo ở Việt Nam đến thế kỷ XVI: Đạo giáo là một nhánh triết học và tôn giáo Trung Quốc, nó là một trong Tam giáo tồn tại từ thời Trung Quốc cổ đại, song song với Nho giáo và Phật giáo. Cũng như Nho và Phật giáo, Đạo giáo đã ảnh hưởng sâu sắc đến nền tảng văn hoá dân tộc của nhiều nước phương Đông, tiêu biểu nhất là Trung Quốc, Việt Nam, Hàn Quốc và Nhật Bản. Trong quan niệm của Đạo giáo về vũ trụ, vạn vật thì bản nguyên của vũ trụ và vạn vật là Đạo. Đạo là thể vô hình vô tướng, không sinh không diệt, hằng hữu đời đời. Sở dĩ người ta không thấy được Đạo là vì nó là những nguyên tố rời rạc, chưa kết thành hình tượng. Đạo sinh một, một sinh hai, hai sinh ba, ba sinh vạn vật. Trong đó, một là Thái cực, hai là Âm Dương, ba là Tam Thiên Vị. Âm và Dương vừa xung đột vừa hòa hợp với nhau, tạo thành trời đất, vũ trụ và vạn vật. Vậy nên 16
  20. trong vạn vật đều có Âm và Dương. Theo Đạo giáo, trước khi vũ trụ thành hình, trong khoảng không gian hư vô bao la, có một chất sinh rất huyền diệu, gọi là Đạo. Đạo biến hóa ra Âm – Dương, Âm - Dương tạo ra vũ trụ và vạn vật. Vạn vật được hóa sinh ra, tác động với nhau, phồn thịnh với nhau, rồi cuối cùng tan rã để trở về trạng thái không vật không hình, tức là trở về nguồn gốc của nó là Đạo. Về nhân sinh quan, Đạo giáo cho rằng, đạo trời không thân ai, không sợ ai. Trời Đất sinh ra muôn vật, cây cỏ, chim muông, nhân loại cốt để các sinh vật khắc chế lẫn nhau, nuôi dưỡng nhau, bổ trợ nhau để cùng tồn tại. Theo Đạo giáo, con người không nên ham mê danh lợi, quá coi trọng cái xác thịt của mình mà hãy sống một cách bình thản, vô lo, vô nghĩ, thuận theo tự nhiên. Chính từ quan niệm đó, Đạo giáo khuyên con người chọn lối sống vô vi, bất tranh để hòa hợp với thiên nhiên, vạn vật. Khi nói về sự du nhập của Đạo giáo vào Việt Nam, không có tài liệu nào chỉ ra thời gian cụ thể tôn giáo này được truyền bá tại nước ta, chỉ có thể biết rằng Đạo giáo bắt đầu xuất hiện dưới thời Bắc thuộc. Đạo giáo truyền sang Việt Nam, chia thành hai phái: Đạo giáo Phù thủy dùng pháp thuật trừ tà, trị bệnh giúp người dân quê khỏe mạnh, và Đạo giáo Thần tiên dạy tu tiên, luyện thuốc trường sinh bất tử cho giới quí tộc. Ngay từ khi đạo Nho chưa có cơ sở xã hội ở nước ta, thì Đạo Phù thủy nhờ sự tương đồng với các ma thuật phù phép địa phương, nên đã bắt đầu phát triển rộng rãi từ đời Tiền Lê. Thời xa xưa, người Việt ta thường dùng bùa chú, họ tin rằng có thể trị tà ma, chữa bệnh, sai âm binh, tàng hình, v.v. Một số nhà sư cũng phải học phù phép, chữa bệnh, đuổi tà nhằm tạo uy tín, lòng tin với dân chúng để có thể truyền bá Phật giáo dễ dàng. Ở thời Đinh – Tiền Lê, Đạo giáo cũng được tôn trọng và đề cao giống như Nho giáo. Bên cạnh các thiền sư thì nhà vua cũng cho mời các vị đạo sĩ uyên bác vào triều đình để giúp sức cho vua. Đến ưới thời Lý - Trần, hình thức khoa thi tam giáo chứng tỏ rằng các tư tưởng của Đạo giáo cũng được coi trọng như Phật giáo và Nho giáo. Trong đó, Đạo giáo ảnh hưởng chủ yếu đến các nhà tư tưởng bởi học thuyết của nó có hàm lượng triết học cao, đó là những vấn đề bản thể luận, nhận thức luận về “Đạo” và “Đức”, về quy luật vận động và biến đổi của các sự vật hiện tượng trong thế giới. Bên cạnh các quan niệm của Đạo giáo về bản thể luận, vũ trụ 17
  21. quan thì hai hình thức khác của nó là phù thủy và thần tiên đã gắn bó với những yếu tố huyền bí bản địa trong đời sống tâm linh và tâm sinh lý của con người Việt Nam. 1.2.2. Mối quan hệ tam giáo trước thế kỷ XVI Trong thời kỳ Bắc thuộc, Nho giáo được truyền bá và Việt Nam cùng gót giày của các thế lực phong kiến phương Bắc xâm lược. Chính vì vậy, Nho giáo ngay từ đầu và từ thời Bắc thuộc đã gặp phải sự bài trừ của nhân dân ta. Bên cạnh đó, Phật giáo lại nhanh chóng dung nhập và văn hóa của người Việt cổ bởi học thuyết được truyền bá bởi những nhà sư đến từ Ấn Độ hoặc Trung Quốc với triết lí cứu khổ cứu nạn, từ bi hỷ xả. Đạo giáo cũng được nhân dân tiếp nhận một cách dễ dàng bởi quan niệm về một thế giới đa thần gần gũi với tín ngưỡng dân gian vốn có. Ở giai đoạn này, tam giáo tồn tại một cách khá độc lập và không có sự liên hệ, tác động nhiều đến nhau. Vai trò của tam giáo đối với đời sống chính trị, văn hóa và tinh thần của đất nước chưa được thể hiện rõ nét. Đến thời kỳ Đinh - Tiền Lê, sự tác động của tam giáo đến xã hội Việt Nam ngày càng trở nên rõ nét hơn. Theo sự trưởng thành trong ý thức độc lập của dân tộc, nhân dân ta, đặc biệt là tầng lớp trí thức bắt đầu nhìn nhận Nho giáo với một thái độ khách quan hơn, họ nhận ra được vai trò và hiệu quả của Nho giáo là cần thiết đối với quá trình xây dựng, phát triển bảo vệ và duy trì độc lập của dân tộc. So với Phật và Đạo, rõ ràng Nho học phù hợp hơn và có thể đáp ứng nhu cầu cấp thiết là xây dựng một mô hình nhà nước mới nhằm bảo vệ chủ quyền và phát triển đất nước. Tuy nhiên sự phát triển của Nho giáo lại phải phụ thuộc vào Phật giáo bởi những người tham gia truyền bá Nho giáo của giai đoạn này lại chính là những nhà sư, đạo sĩ vì vậy nên tư tưởng Nho giáo trongnày ít nhiều đều bị ảnh hưởng bởi lăng kính của Phật và Đạo giáo. Đạo giáo và đặc biệt là Phật giáo có vai trò vô cùng quan trọng trong thời kỳ này, đội ngũ trí thức – nền tảng trí tuệ cho triều đình phong kiến nhà Đinh – Tiền Lê đều là những thiền sư, đạo sĩ có kiến thức uyên bác. Một số thiền sư kiêm nhà chính trị, nhà ngoại giao tiêu biểu như thiền sư Vạn Hạnh, thiền sư Ngô Chân Lưu, thiền sư Pháp Thuận, có nhiệm vụ cố vấn cho nhà vua, giúp cho nhà vua kiến thiết và phát triển nhà nước phong kiến trung ương tập quyền. Không chỉ có vai trò trong lĩnh vực chính trị, Phật giáo và Đạo giáo tiếp tục 18
  22. tồn tại, phát triển và đi sâu vào đời sống tín ngưỡng, tâm linh của nhân dân Việt Nam. Đến thời kỳ nhà Lý, vào những năm 70 của thế kỷ XI, triều đình nhà Lý đã có những hoạt động nhằm phát triển Nho học lúc bấy giờ như: thành lập Văn Miếu vào năm 1070, Minh kinh bác học và Nho học tam trường 1075, xây dựng Quốc tử giám vào năm 1076, mở khoa thi tam giáo đầu tiên năm 1195, Có thể nói đây là một tiền đề cho việc Nho giáo từng bước vươn lên xác lập vị thế của nó trên lĩnh vực chính trị, đáp ứng sự đòi hỏi của xã hội. Hệ thống khoa cử theo lối Nho học xuất hiện, nó đã sản sinh thêm đội ngũ trí thức Nho học bên cạnh những thiền sư Phật giáo và đạo sĩ của Đạo giáo. Lúc này, nhà Nho có thể tự đứng ra để truyền bá và phát triển Nho giáo, chính vì thế những ảnh hưởng của Phật, Đạo đối với Nho giáo dần mờ nhạt. Ở Việt Nam, xu hướng “sùng Phật ngưỡng Nho” bắt đầu có từ thời Lý - Trần trở đi, nhà cầm quyền lúc này, họ tôn sùng Phật giáo phần nhiều trên lĩnh vực đời sống tâm linh. Trong công việc chính sự, khi cần họ đều tham kiến những thiền sư tài cao học rộng tuy nhiên, Phật giáo không phải học thuyết chính trị, mà là hệ tư tưởng về tôn giáo, đạo đức nên nó không có hệ thống quan điểm về luật phát, chính quyền, cơ chế tuyển dụng nhân tài cho đất nước, chính vì vậy, các nhà vua đã kết hợp cả những tư tưởng của Nho giáo và sử dụng đội ngũ trí thức Nho học cho việc cai trị và quản lý bộ máy triều đình. Dưới thời Lý – Trần, về mặt vị trí, Phật giáo vẫn là hệ tư tưởng chính thống, chiếm vị thế chủ đạo được các vua đề cao, coi trọng nhưng Nho giáo đã có sự bứt phá, vươn lên và đạt được vị trí gần như ngang hàng với Phật giáo trong lĩnh vực chính trị. Về mặt vai trò, Phật giáo vẫn ảnh hưởng đến đường lối cai trị của Nhà nước, biểu hiện qua những chính sách thân dân, khoan dung và đối trọng với nó là tư tưởng của Nho giáo, nó bổ sung cho sự thiếu hụt quan niệm về bộ máy nhà nước, chính trị của Phật giáo. Đến cuối đời nhà Trần, tầng lớp Nho sĩ ngày càng phát triển, họ dần tham chính, năm giữ các chức vụ, trọng trách mà trước đây chỉ dánh cho tầng lớp quý tộc, tông thất. Sự phát triển của Nho giáo dần lấn át Phật, Đạo giáo. Hơn thế nữa, Nho giáo ngày càng chiếm ưu thế trong hệ thống chính trị, mà Phật giáo về bản chất chủ trương xuất thế, cầu giải thoát, về lâu dài không thể đảm đương, gánh vác các công việc xã hội, xây dựng chế độ quân chủ. Chính vì vậy, bộ phận trí thức Nho học 19
  23. muốn vươn lên giữ vị trí chính thống, chủ đạo. Đến thế kỷ XIII trở đi, những biểu hiện lãng phí, xa hoa và sự xuống cấp đạo đức của một bộ phận tăng ni đã trở thành đối tượng phê phán của nhiều nhà Nho. Từ thế kỷ XV trở đi, giai cấp thống trị ngày càng chú trọng phát triển Nho giáo bởi mục đích xây dựng nhà nước phong kiến tập quyền ngày càng cao. Thời Lê sơ, Nho giáo được đặc biệt coi trọng. Nửa cuối thế kỷ XV, dưới triều đại Lê Thánh Tông, Nho giáo hoàn toàn chiếm vị trí chủ đạo trên lĩnh vực chính trường. Từ đây Phật giáo và Đạo giáo lui về địa bàn làng xã và ảnh hưởng chủ yếu trong dân gian theo nhu cầu tinh thần của nhân dân, trong đó có cả trí thức Nho học. Thời kỳ này, Phật và Đạo tồn tại như những nhân tố bổ sung trong đời sống tâm linh khiến cho các nhà Nho thường ít bàn luận về hai học thuyết này. 1.3. Cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Dữ Theo sử sách ghi lại, Nguyễn Dữ là người xã Đoàn Lâm, huyện Gia Phúc, thuộc Hồng Châu xưa nay là huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương. Nguyễn Dữ không rõ sinh và mất năm nào. Ông sinh ra trong một gia đình có truyền thống Nho học. Cha Nguyễn Dữ là Nguyễn Tường Phiêu - người đã đỗ tiến sĩ khoa Bính Thìn niên hiệu Hồng Đức thứ 17 năm 1486, làm quan đến Thừa Tuyên sứ, hàm Thượng thư. Từ những dữ liệu trên, có thể xác định Nguyễn Dữ sinh ra vào cuối thế kỷ XV và sống chủ yếu vào nửa đầu thế kỷ XVI. Đây là giai đoạn xã hội Việt Nam có nhiều sóng gió và biến động. Sau thời Lê Thanh Tông trị vì, triều đại phong kiến Việt Nam bắt đầu suy yếu, đặc biệt là sự xuống cấp về đạo đức của bộ máy vua quan triều đình. Nguyễn Dữ là một trong những học trò xuất sắc của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Từ nhỏ, ông đã nổi tiếng thông minh, hiếu học và có tài văn chương kiệt xuất. Sau khi đậu kì thi Hương, Nguyễn Dữ được bổ nhiệm làm quan tại huyện Thanh Thuỷ. Tại nhiệm được một năm, chán nản trước sự xuống cấp của bộ máy triều đình, ông xin từ chức về quê, phụng dưỡng mẹ già cho toàn đạo hiếu. Từ đó, Nguyễn Dữ sống xa lánh thế tục, ở ẩn tại vùng núi Thanh Hoá. Ông lựa chọn lối sống an nhiên, tự tại, hang ngày làm bạn với thiên nhiên, núi rừng. Chính vì lẽ đó mà Nguyễn Dữ có thể tập trung vào thú vui văn chương, chữ nghĩa. Và Truyền kỳ mạn lục được Nguyễn Dữ sáng tác trong giai đoạn này. Bộ truyện gồm 20 truyện, 20
  24. sau khi tiếp xúc với tác phẩm Tiễn đăng tân thoại của tác giả Trung Hoa - Cù Tông Cát (1347 - 1433), Nguyễn Dữ đã trực tiếp chịu ảnh hưởng của tác phẩm truyền kỳ này. Truyền kỳ mạn lục là tác phẩm duy nhất còn lại của Nguyễn Dữ. Truyền kỳ mạn lục được nguyễn Dữ viết vào khoảng vào nửa đầu thế kỷ XVI (khoảng những năm 20 – 30). Thời điểm ra đời của Truyền kỳ mạn lục là vào lúc triều đại nhà Lê trên đà suy vi với các ông vua nổi tiếng hoang, dâm tàn bạo như Uy Mục (1505 - 1509), Tương Dực (1509 - 1516). Trong một số truyện của Truyền kỳ mạn lục đã in đậm dấu ấn đau thương của thời đại đó. Cốt truyện Truyền kỳ mạn lục chủ yếu lấy từ những câu chuyện lưu truyền trong dân gian, nhiều trường hợp xuất phát từ truyền thuyết các vị thần mà đến thời hiện nay vẫn còn. Nguyễn Dữ viết bộ truyện này nhằm ghi lại những câu chuyện truyền thuyết linh dị, kì bí từ thời Lý – Trần đến thời ấy. Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ gồm 20 truyện, chia làm 4 quyển, được viết theo thể loại truyền kỳ. Khi viết Truyền kỳ mạn lục, Nguyễn Dữ đã dựa chủ yếu vào những câu chuyện đã lưu truyền trong dân gian, có nhiều trường hợp lấy từ truyền thuyết về các vị thần mà hiện nay vẫn còn đền thờ như đền thờ Vũ Thị Thiết ở Hà Nam, Nhị Khanh ở Hưng Yên và Văn Dĩ Thành ở làng Gối, Hà Nội. Nguyễn Dữ viết Truyền kỳ mạn lục bằng văn xuôi chữ Hán có xen những bài thơ, ca, từ, biền văn, cuối mỗi truyện đều có lời bình thể hiện rõ chính kiến của tác giả, trừ truyện 19 Kim Hoa thi thoại ký là không có lời bình. Hầu hết các truyện trong Truyền kỳ mạn lục, đều được tác giả lấy bối cảnh ở các thời Lý, Trần, Hồ, thuộc Minh, Lê sơ và trên địa bàn từ Nghệ An trở ra Bắc. Những câu chuyện kỳ lạ trong dân gian được Nguyễn Dữ đưa vào trong Truyền kỳ mạn lục thực chất là những câu chuyện mang tính chất phản ánh xã hội đương thời. Thông qua tác phẩm Truyền kỳ mạn lục, tác giả đã bộc lộ tâm tư, hoài bão và cả những nhận thức của mình về nhiều vấn đề trong xã hội đương thời với thái độ nghiêm khắc, khách quan. TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 Thế kỷ XVI là giai đoạn triều đình phong kiến Việt Nam bắt đầu xuất hiện những dấu hiệu suy thoái, trì trệ và tình trạng này tiếp tục kéo dài trong suốt ba thế kỷ sau đó. Sự tranh giành quyền lực giữa các phe phái chính trị và sự xuống cấp của 21
  25. tầng lớp vua quan đã làm mất đi trật tự xã hội vốn có. Mâu thuẫn giữa nhà nước phong kiến với nhân dân cũng ngày càng trở nên sâu sắc, hàng loạt các cuộc khởi nghĩa nông dân nổ ra nhưng đều thất bại. Đời sống nhân dân vô cùng khổ cực, dưới ách thống trị của những vị “vua quỷ”, “vua lợn”, họ bị bóc lột thậm tệ và nặng nề. Trong tình trạng đó, dân chúng và đặc biệt là đội ngũ những nhà tri thức đã đánh mất niềm tin vào triều đình, rơi vào cuộc khủng hoảng tư tưởng. Những giá trị tốt đẹp của Nho giáo về chính trị, đạo đức bị sụp đổ bởi cuộc tranh giành quyền lực giữa các phe phái. Trong xã hội bấy giờ, quan niệm về giá trị đồng tiền bị đề cao thái quá, thậm chí nhiều người vì danh lợi mà đánh mất cả nhân tính. Trước tình hình đó, Nho giáo không còn đóng vai trò là hệ tư tưởng đúng đắn, có hiệu quả trong việc duy trì trật tự, kỷ cương và sự ổn định của xã hội phong kiến, chế độ phong kiến Việt Nam lúc bấy giờ. Dung thông tam giáo là một biện pháp nhiều nhà Nho đã lựa chọn trong bối cảnh xã hội ấy. Nhưng đây không phải lần đầu tiên biện pháp này xuất hiện tại Việt Nam. Tam giáo Nho, Phật, Đạo là ba học thuyết được du nhập vào Việt Nam từ bên ngoài, trải qua một quá trình tiếp biến văn hóa giữa tam giáo và với các yếu tố bản địa đã làm hình thành nên những đặc điểm riêng của tư tưởng dân tộc ta. Ngay từ thời Bắc thuộc, sự du nhập và tiếp biến của Nho, Phật, Đạo ở Việt Nam mang sắc thái “cạnh tranh” để giành vị trí ảnh hưởng của mỗi giáo đến đời sống tinh thần của người Việt. Sang thời kỳ đầu độc lập (từ thế kỷ X – đầu thế kỷ XV), do nhu cầu xây dựng và củng cố nhà nước phong kiến trung ương tập quyền, vấn đề quản lý xã hội cần phải có một học thuyết chủ đạo và phù hợp nên Nho giáo ngày càng trở nên quan trọng hơn. Với mô hình nhà nước mô phỏng phương Bắc, nhà Lý và tiếp đó đến Trần và Hồ phải quan tâm đến vấn đề giáo dục, đào tạo con người của Nho giáo. Chính vì vậy, Phật giáo và Đạo giáo từng bước nhường chỗ cho Nho giáo trong lĩnh vực giáo dục – khoa cử cũng như quản lý xã hội. Mối quan hệ tam giáo thời kỳ này là thống nhất trong đa dạng vì mục tiêu xây dựng nhà nước phong kiến trung ương tập quyền và xây dựng, phát triển đất nước về mọi mặt. Thế kỷ XV, Nho giáo chiếm lĩnh địa hạt chính trị, Phật giáo và Đạo giáo lui về địa bàn làng xã và ảnh hưởng tới đời sống tinh thần cư dân ở đây như dưới thời Bắc thuộc. Sang thế kỷ XVI, Nho giáo không còn đủ khả năng để khắc phục tình trạng rối loạn trong xã hội 22
  26. phong kiến và cũng không thể đủ năng lực để giải quyết có hiệu quả nhiều vấn đề nảy sinh từ thực tiễn xã hội và chế độ phong kiến đương thời. Vì thế một lần nữa, mối quan hệ giữa tam giáo đã có sự điều chỉnh để giải quyết những vấn đề trên. Đây chính là nguyên nhân chủ yếu dẫn dến sự dung thông tam giáo Nho – Phật – Đạo ở thế kỷ XVI nói chung và ở Nguyễn Dữ nói riêng. 23
  27. CHƯƠNG 2: NỘI DUNG TƯ TƯỞNG DUNG THÔNG TAM GIÁO CỦA NGUYỄN DỮ 2.1. Tư tưởng dung thông tam giáo thể hiện trong thế giới quan của Nguyễn Dữ Trong lịch sử tư tưởng Việt Nam, Nho giáo là một trong những hệ tư tưởng đầu tiên du nhập vào nước ta. Theo gót chân xâm lược của các triều đại phong kiến phương Bắc, Nho giáo được truyền vào Việt Nam và sau này, trong quá trình giao lưu văn hóa, Nho giáo đã có những sự biến đổi để phù hợp, thích nghi và có vai trò trong đời sống xã hội mà từ đó tồn tại, ăn sâu, bám rễ và trở thành một trong những nét văn hóa đặc trưng của dân tộc ta. Ban đầu, Nho giáo được giai cấp phong kiến Việt Nam sử dụng vào quá trình xây dựng nhà nước phong kiến với vai trò của một hệ thống tư tưởng chính trị. Chính từ nguyên nhân này mà Nho giáo nhanh chóng có một vị trí đặc biệt quan trọng trong kiến trúc thượng tầng của xã hội phong kiến Việt Nam. Những nội dung, tư tưởng về đạo đức của nó thâm nhập và tác động vào mọi tầng lớp trong xã hội, đặc biệt là đội ngũ các nhà Nho – những người có uy tín và có vai trò nhất định trong chế độ phong kiến Việt Nam. Với tư cách là một hệ thống tư tưởng về chính trị và đạo đức, Nho giáo không chỉ tác động mạnh mẽ vào tư duy chính trị, triết lý nhân sinh, đạo đức mà còn ảnh hưởng sâu sắc đến thế giới quan của đội ngũ tri thức Việt Nam, đặc biệt trong quan niệm về trời đất, về mệnh trời, con người và mối quan hệ giữa con người với trời đất. Quan niệm xem “trời” như là một lực lượng siêu nhiên thần bí, là nguồn gốc sinh thành ra mọi sự vật, hiện tượng là một điểm chung dễ thấy trong quan niệm của đa số các nhà Nho Việt Nam thời phong kiến. Điển hình như: nhà Nho Nguyễn Phi Khanh (1335-1428) đời Trần đã viết: “Trời là gì? Là cái chí thanh, chí hư, chí đại đó thôi, bốn mùa thành năm mà không tỏ ra có công, vạn vật chịu ơn mà không lộ rõ dấu vết” [38, tr.496 – 497] hay Nguyễn Trãi (1380 -1442) từng khẳng định rằng, “trên có trời đất quỷ thần” [36, tr.122] và vạn vật sinh sôi là do ơn tạo hóa của trời đất. Nguyễn Bỉnh Khiêm – thầy của Nguyễn Dữ cũng đưa ra quan điểm trời sinh ra vạn vật, đồng thời tạo nên nguyên tắc tồn tại của vạn vật một cách đương nhiên: “Trời nẻo có sinh thì có dưỡng. Dễ hầu nằm giữa mất phần chăn?” [28, tr.1565]. 24
  28. Trong thế giới quan của Nguyễn Bỉnh Khiêm, ta thấy ông có sự nghiên cứu sâu về các nguyên lý của Kinh Dịch. Các quan điểm thế giới quan của ông xuất hiện rất nhiều trong thơ ca về đề tài tự nhiên, thế sự và cuộc đời. Trong các bài thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm, quá trình hình thành vũ trụ và các hiện tượng, nguyên tắc của đời sống xã hội đều được lý giải dựa trên các quy luật của tự nhiên. Nguyễn Bỉnh Khiêm viết “Thái cực sơ triệu phân, Tam tài định quyết vị. Khinh thanh thướng vi thiên, Địa trọc há vi địa. Trung tụ nhi vi nhân, Bẩm thụ thị nhất khí.” (Dịch nghĩa: Thái cực lúc mới phân chia, Vị trí của tam tài đã định. Trong và nhẹ bay lên thành trời, Đục và nặng lắng xuống thành đất. Tụ hội ở giữa thì thành người, Bẩm thụ đều là một khí) [28, tr.1344-1354]. Trong quan niệm của Nguyễn Bình Khiêm,thái cực là bản thể của vũ trụ tồn tại dưới dạng “khí”. Mọi sự vật, hiện tượng vận động, chuyển hóa, biến đổi là kết quả của sự kết hợp giữa hai loại khí âm và dương [7, tr.90]. Trong tác phẩm Truyền kỳ mạn lục, tuy Nguyễn Dữ rất hiếm khi đưa ra luận giải của mình về thế giới nhưng qua những phần đối đáp giữa các nhân vật, ta có thể thấy được phần nào quan điểm của ông về trời đất, về sự hình thành nên vũ trụ. Qua các tư tưởng đó của Nguyễn Dữ, ta thấy ông đã có sự tiếp thu quan điểm của Nho giáo Trung Quốc và nhiều nhà Nho đi trước, đặc biệt chịu ảnh hưởng trực tiếp từ người thầy của mình – Nguyễn Bỉnh Khiêm. Trong Truyền kỳ mạn lục có viết “Phục văn huyền hoàng triệu phán, phân dương thanh âm trọc chi hình” (Dịch nghĩa: Trời, đất gây dựng, chia ra thành âm đục dương trong). Đến đây, ta có thể khẳng định rằng, Nguyễn Dữ có chung quan điểm với Nguyễn Bỉnh Khiêm khi cho rằng “khí” là bản thể của vũ trụ. Trong đó, loại khí trong và nhẹ (khí dương) bay lên cao tạo nên trời, còn loại khí nặng đục (khí âm) lắng xuống tạo nên đất. Nhờ hai loại khí tác động với nhau mà vũ trụ không ngừng vận động, biến đổi, các sự vật, hiện tượng cũng từ đó mà sinh thành. Và hiển nhiên, sự sinh thành đó mang tính khách quan và không phụ thuộc vào mong muốn của con người, nó thuận theo quy luật sẵn có của tự nhiên. Hơn thế nữa, âm dương không chỉ tạo ra trời mà còn quy định sự vận động của “đạo trời”, bởi vậy trong Truyền kỳ mạn lục mới có câu: “Thiên hữu âm dương, thiên đạo dĩ chi nhi bị, Nhân hữu phu phụ, nhân đạo dĩ chi nhi thành” [5, tr.215] 25
  29. Có nghĩa là: “Trời có khí âm dương, đạo trời lấy đấy mà đủ Người có nghĩa vợ chồng, đạo người lấy đấy mà nên” [5, tr.360] Như vậy, trong quan niệm của Nguyễn Dữ, âm dương kết hợp tạo nên lẽ vận hành của trời đất, của giới tự nhiên và xã hội, trong đó có cả con người, ấy chính là cái được gọi là “đạo trời”. Âm và dương vốn là hai mặt trái ngược, đối lập nhau nhưng chính sự đối lập ấy lại tạo nên chu trình vận động tuần hoàn và sự cân bằng cho vạn vật. Và trong quá trình ấy thì vạn vật biến đổi khôn lường. Trong thế giới quan Phật giáo cũng khẳng định rất rõ ràng rằng, thế giới này luôn nằm trong trạng thái biến chuyển không ngừng và vì vậy mà các sự vật, hiện tượng trong thế giới trở nên “vô thường”. Ngoài ra, Nguyễn Dữ cũng chịu ảnh hưởng của Đạo giáo, đó là luật thừa trừ đắp đổi, là trong sự vận động gồm hai mặt đối lập thì cái thừa sẽ bù vào cái thiếu, cái thái quá sẽ san sẻ cho cái bất cập để tạo nên một thế cân bằng cần thiết. Ở đây, có thể thấy rằng Nguyễn Dữ đã sử dụng quy luật của tự nhiên tạo hóa để giải thích cho “đạo trời”, “đạo người”. Và không chỉ Nguyễn Dữ mà còn nhiều nhà Nho khác như Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phùng Khắc Khoan (1528 -1613) cũng có cái nhìn tương tự. Tuy nhiên, chính vì đồng nhất quy luật tự nhiên với quy luật xã hội nên họ không thể giải thích cặn kẽ các hiện tượng trái ngược với “cương thường” trong xã hội Việt Nam đương thời. Cùng với quan niệm xem trời như là đấng tạo hóa của muôn vật, các nhà Nho trong xã hội phong kiến Việt Nam còn nhìn nhận “trời” như một vị thần tối cao, có ý chí, có tình cảm, có thể có thể phù hộ, giám sát và trừng phạt con người. Trong Truyện tướng Dạ Xoa có viết: “Trời dùng đức chứ không dùng uy, ưa sinh chứ không ưa giết” [5, tr.247]. Như vậy, chịu ảnh hưởng của Nho giáo, Nguyễn Dữ tin ông trời cũng có nhân cách, tình cảm hơn nữa nhân cách ấy còn cao đẹp vô cùng. Trong Truyện người nghĩa phụ ở Khoái Châu, có nàng Nhị Khanh vì muốn giữ tấm lòng son sắt mà tuẫn tiết, Nguyễn Dữ cho rằng: “trời thương là oan uổng bèn ra ân chỉ”, cho nàng “lệ thuộc vào tòa đền và coi giữ sớ văn tấu đối” cho quan ở thiên đình [5, tr.33]. Có lẽ, vì “trời” sinh ra vạn vật nên “trời” cũng yêu thương vạn vật như tấm lòng của cha mẹ trong thiên hạ dành cho con cái. Nhưng không vì thương mà trời mất đi sự chí công và vô tư, mà theo Nguyễn Dữ “đạo trời 26
  30. công minh như cái cân cái gương, có thần minh để gây dấu vết, có tạo hóa để giữ công bằng” [5, tr.51]. Cái gương thì không soi riêng ai và “đạo trời” không bỏ sót người nào cũng như lưới trời tuy thưa mà khó lọt. Bất kể là ai, lứa tuổi nào, giới tính ra sao thì đứng dưới “đạo trời” đều sẽ được phân xử thiện ác rõ ràng. Thế nên “trời giúp người lành, ban cho phúc trạch” [5; tr195] còn kẻ làm điều ác thì sẽ bị phạt nghiêm, ấy chính là sự công bằng của trời đất. Ở phần Chuyện gã Trà đồng giáng sinh có viết: “làm thiện ở người, giáng phúc cho người thiện ở trời, sự cảm ứng ở giữa khoảng trời và người thật là sâu mờ vậy thay” [5, tr.53]. Xuất phát từ quan niệm xem trời như là vị thần tối cao có ý chí, có nhân cách, như nhiều nhà Nho khác trong xã hội phong kiến Việt Nam, Nguyễn Dữ đã đi đến tư tưởng về mệnh, mệnh trời. Theo ông, mệnh hay mệnh trời chính là ý chí, sức mạnh của trời chi phối trật tự xã hội, tự nhiên và số phận của con người. Trong phần Truyện người con gái Nam Xương có ghi, khi Vũ Nương buồn khổ vì bệnh tình của mẹ chồng, bà có khuyên nàng rằng: “Ngắn dài có số, tươi héo bởi trời”, “song tuổi thọ có chừng, số trời khó tránh. Dầu khan bức hết, số tận mình cùng”. Ở đoạn này, Nguyễn Dữ mượn lời người mẹ để thể hiện quan niệm của nhân dân đương thời về số mệnh, họ tin tưởng mãnh liệt vào mệnh trời, ý trời và hiểu rõ được quy luật sinh tử là không thể tránh khỏi. Chính vì điều ấy mà thái độ trước cái chết của họ không bi quan, ủ rũ mà bình tĩnh, thản nhiên. Và đây cũng chính là quan niệm của Phật giáo về sự sinh – tử của con người. Từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII, cục diện nội chiến, chia cắt, chiến tranh loạn lạc của đất nước đã ảnh hưởng mạnh đến tư tưởng của các nhà Nho. Sự thay thế của các vương triều và sự biến đổi nhanh chóng của số phận con người làm cho các nhà Nho thời kỳ này, như Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Dữ, Phùng Khắc Khoan, Ngô Thì Sĩ (1726 - 1780), Ngô Thì Nhậm (1746 - 1803) cảm thấy bất lực trước thời cuộc và do đó, họ càng tin tưởng vào ý trời, mệnh trời và sự phụ thuộc của con người vào mệnh trời. Họ còn dựa vào các luật biến dịch, tuần hoàn trong Kinh Dịch - cơ sở của Lý học thời Tống - để giải thích sự biến đổi xã hội, sự thịnh suy của thời cuộc. Trong quan niệm của Nguyễn Bỉnh Khiêm, tất cả là do số, do mệnh, do trời chi phối, con người không thể làm gì được: “Được thua phú quý đều thiên mệnh. Chen lấn làm chi cho nhọc nhằn” [38, tr.132]. 27
  31. Sống dưới triều Mạc và Lê Trung Hưng, Nguyễn Dữ vừa chịu ảnh hưởng từ thầy, vừa chịu ảnh hưởng của Phật giáo và Đạo giáo, nên thế giới quan của ông thể hiện rõ nét tính chất duy tâm thần bí. Theo Nguyễn Dữ, trong cuộc đời của mỗi con người, mệnh trời quy định cả sự thành hay bại, sang giàu hay đói rách của con người, vì vậy nên “Phú quý không thể cầu, nghèo cùng do tựsố” [5, tr.251]. Nguyễn Dữ còn cho rằng, “cái gì không làm mà nên là do trời, không vời mà đến là do mệnh” [5, tr.252] nên con người phải biết thuận thiên, hiểu được vị trí vốn có của mình và làm tròn cái bổn phận ấy. Không chỉ có quan điểm về sinh tử, sang hèn mà đối với các nhà Nho, mọi việc diễn ra từ việc lớn đến việc nhỏ, từ việc xã hội, của đất nước đến việc của mỗi người đều là do trời chi phối. Cũng như các bậc tiền bối, Nguyễn Dữ cũng tin vào mệnh trời, vào uy quyền của trời. Với ông, sự biến đổi của một triều đại, sự thịnh suy của một đất nước đều liên hệ đến trời. Nguyễn Dữ đưa ra quan điểm về việc nhà vua phải biết tuân theo “mệnh trời”, nghĩa là phải tuân theo đường lối nhân nghĩa – dung đức để trị dân. Và do vậy, theo ông, nếu kẻ cầm quyền biết tuân theo mệnh trời thì đất nước thịnh, làm trái mệnh trời thì đất nước suy. Xét đến cùng thì sự hưng thịnh của xã tắc đều từ ý trời mà ra cả. Như Chuyện ở đền Hạng vương, khi trò chuyện cùng Hồ Tôn Thốc thì Hạng Vương có nói: “Đứng đầu Chư hầu là quân nước Sở, làm chúa Tam Tần là tướng nước Sở. Thiên hạ theo về nước Sở, có thể ngồi mà sai khiến được. Nhưng rồi Sở đến phải chết vì Hán, há chẳng phải là bởi trời ư? Vậy thì khi trời định giúp Hán, dù kẻ thổi kèn, dệt chiếu, cũng đủ để thành công; khi trời định diệt Sở, dù người cất vạc, nhổ núi cũng không hề nói giỏi” [5, tr.15] và “sự hưng vong của Hán, Sở, chỉ là do sự may rủi của trời mà thôi, há nên lấy thành bại mà so bì” [5, tr.16]. Tin vào mệnh trời, tin vào tiền định nhưng niềm tin của Nguyễn Dữ không phải một niềm tin mù quáng, thiếu lý trí, như khi ông lý giải về chữ “mệnh” như sau: Tuân theo mệnh trời nghĩa là thực hiện năm điều Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín. Vậy nên đối với bậc quân vương, phải theo con đường vương đạo – nghĩa là dùng đức để cai trị dân chúng: “Phàm xoay cái thế thiên hạ, ở trí chứ không phải ở sức, thu tấm lòng thiên hạ, ở nhân chứ không phải ở bạo” [5, tr.17]. Ở đây còn cho chúng ta thấy rằng, trong quan điểm của Nguyễn Dữ, bởi kẻ cai trị không chỉ trên 28
  32. thuận theo mệnh trời mà còn phải dưới hợp lòng người. Như vậy, mệnh trời và lòng người dường như có sự dung hợp, thuận thiên cũng chính là thuận theo ý dân mà đi ngược lại với nguyện vọng của dân cũng tức là nghịch lại mệnh trời. Từ quan điểm đó, Nguyễn Dữ đã viết lời bình ở cuối Chuyện ở đền Hạng vương để lý giải về chuyện sụp đổ của nhà Sở như sau: “So Sở với Hán thì Hán hơn, sánh Hán với bậc vương đạo, Hán còn xa lắm. Sao vậy? Hồng Môn nổi giận, Thái công tha về, những việc ấy, Sở không phải là bất nhân; nhưng nhân nông mà ác sâu. Làm cỏ Dĩnh Xuyên, giết hại công thần, những việc ấy, Hán không phải là không có lỗi, nhưng lỗi ít, tốt nhiều. Sở đã đành trái với nhân nghĩa, nhưng Hán cũng chỉ là giống với nhân nghĩa” [5, tr.21]. Theo Nguyễn Dữ, bậc quân vương chỉ có nhân nghĩa thì chưa đủ. Ngoài nhân nghĩa với tính cách là phẩm chất tất yếu, bậc quân vương cần phải duy trì vương nghiệp sao cho thể chế của nhà nước phong kiến được bền vững, trị bình, phải học lối trị nước – hành đạo của các ông vua huyền thoại Nghiêu Thuấn. Cuối cùng, ông cho rằng, “Kẻ trị thiên hạ nên tiến lên đến đạo thuần vương” [5, tr.15]. Bên cạnh các quan niệm trên, cũng như Nguyễn Bỉnh Khiêm và nhiều nhà Nho đương thời, thế giới quan triết học của Nguyễn Dữ cũng chịu nhiều ảnh hưởng của thế giới quan Phật giáo. Trước hết, có thể nói đến quan điểm về “vô thường” . Trong Phật giáo, vô thường là một trong ba pháp ấn và nó tồn tại ở mọi sự vật, hiện tượng, đây được xem là một đặc tính chung của mọi sự. Giáo lý vô thường rất quan trọng cho toàn bộ cơ sở triết lý và thực hành trong Phật giáo. Có thể hiểu vô thường là sự hợp thành và mất đi của các sự vật, hiện tượng diễn ra theo một quy luật nhất định của giới tự nhiên, của xã hội, chúng có thể đến bất kì lúc nào và ra đi khi chúng ta không thể ngờ đến. Không có một sự vật hay sự việc nào tồn tại bất biến, mà tất cả đều luôn luôn chuyển động, nó như là đặc tính cố hữu hiện diện trong các sự vật, hiện tượng. Và quan niệm vô thường của Phật giáo xuất hiện với tần suất dày đặc trong các câu chuyện ngắn của Truyền kỳ mạn lục. Như trong Truyện người con gái Nam Xương, nàng Vũ Thị Thiết cùng chồng là Trương Sinh vốn cảnh đoàn viên sum họp nhưng bất ngờ lại xảy ra binh biến, Trương Sinh bị ghi tên trong sổ trai tráng nên đành phải ra chiến trường. Vũ Nương nết na, thùy mị, trên chăm mẹ già dưới dưỡng con nhỏ, một lòng son sắt chờ chồng. Vốn tưởng khi Trương về, 29
  33. nàng sẽ có một mái ấm trọn vẹn nhưng ngờ đâu vì một hiểu lầm không đáng có mà nhà tan cửa nát, nàng phải trầm mình tại sông Hoàng Giang. Nguyễn Dữ cho rằng sự kết hợp giữa âm dương tạo nên sự hình thành và vận động của mọi sự vật hiện tượng trên thế gian. Nhưng đồng thời, ông cũng ít nhiều chịu ảnh hưởng bởi quan niệm về “duyên khởi” trong Phật giáo. Vạn vật đều vô thường. Theo đó, vạn vật đều được tập hợp lại mà thành, đều do nhân duyên chi phối tạo thành. Duyên hợp thì vạn vật tồn tại, hiện hữu, duyên tan thì vạn vật không tồn tại, không hiện hữu, vạn vật bị huỷ hoại. Tiếp thu và chịu ảnh hưởng của quan điểm ấy, Nguyễn Dữ lý giải các mối quan hệ trong cuộc sống đều được tạo nên bởi chữ “duyên”. Chẳng hạn như trong Truyện Từ Thức lấy vợ tiên, chàng Từ Thức vì có duyên nên mới được gặp Giáng Hương tại tòa chùa, lại vì có duyên nên vô tình lạc vào động tiên rồi cùng Giáng Hương nên nghĩa vợ chồng. Nhưng thời khắc chàng ngỏ ý muốn về thăm quê thì cũng là lúc duyên đã cạn, chính vì vậy mà trong bức thư của Giáng Hương có viết: “Kết lứa phượng ở trong mây, duyên xưa đã hết, tìm non tiên ở trên bể, dịp khác còn đâu” [5, tr.126]. Ngoài những tư tưởng trên thì quan niệm của Phật giáo về luân hồi, nghiệp báo, nhân quả cũng được đề cập nhiều lần trong tác phẩm Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ. Bên cạnh hệ tư tưởng Nho, Phật, ta thấy được Nguyễn Dữ cũng chịu ảnh hưởng của thế giới quan Đạo giáo (chủ yếu là trường phái Đạo phù thủy và Tu tiên). Trong đó, Nguyễn Dữ thừa nhận sự tồn tại của ba thế giới (giới trời, giới người và giới âm), các vị thần đạo giáo và phép thuật. Điều này được đề cập đến nhiều lần trong các câu chuyện của Truyền kỳ mạn lục, ví như trong Truyện tướng Dạ Xoa, Dĩ Thành tính tình hào hiệp, cương nghị nên sau khi qua đời, được Diêm Vương tin tưởng phong cho làm tướng lĩnh coi quản bọn quân ôn dịch. Hay như trong Truyện cây gạo, Trung Ngộ và Nhị Khanh sau khi chết còn tác oai tác quái, làm hại người dân vì vậy nên bị vị đạo nhân lập một đàn tràng cúng tế, làm phép nhờ các thần linh đến bắt giữ và trừng trị. Tuy trong truyện Truyền kỳ mạn lục, có thể thấy rằng thế giới mà Nguyễn Dữ miêu tả có nhiều tình tiết linh dị, huyền bí nhưng thực chất thì Đạo giáo không phải yếu tố đóng vai trò chủ đạo trong tư tưởng triết học nói chung và thế giới quan nói riêng của ông. Xét đến cùng, Nguyễn Dữ có xuất phát điểm là một nhà Nho nên 30
  34. ông dùng nhãn quan của Nho giáo để nhìn nhận, đánh giá mọi vấn đề trong cuộc sống. Và tư tưởng của Nho giáo mới là yếu tố quan trọng nhất để hình thành nên thế giới quan của Nguyễn Dữ cũng như định hướng cho lối sống, lối suy nghĩ của ông. Có thể thấy rằng, trong tư tưởng dung thông tam giáo của Nguyễn Dữ, các tư tưởng của Phật hay Đạo chỉ mang tính chất bổ sung cho những điểm còn thiếu sót mà Nho giáo chưa có cách lý giải đầy đủ và phù hợp. Như đã trình bày, Nguyễn Dữ là một nhà Nho sinh sống vào giai đoạn cuối thế kỷ XV đầu thế kỷ XVI, đây là một giai đoạn vô cùng đặc biệt. Bởi từ khi được du nhập vào Việt Nam và trở thành hệ thống tư tưởng trụ cột cho triều đình phong kiến thì từ thế kỷ XVI trở đi, Nho giáo dần bộc lộ rõ yếu kém, lạc hậu so với trước đó và bất lực trong việc giải quyết những yêu cầu của thời đại lúc bấy giờ. Các quan niệm về chính trị, đạo đức của nhà Nho đã không còn đủ sức duy trì trật tự, kỷ cương trong triều đình đến ngoài xã hội. Cuộc tranh giành lợi ích giữa các tập đoàn phong kiến đã làm sụp đổ niềm tin về “cương thường”, “chính danh” của các nhà Nho. Và chính trong bối cảnh đó, cuộc khủng hoảng chính trị đã đẩy các nhà Nho vào cuộc khủng hoảng tư tưởng của chính mình. Bất lực trước một xã hội trái ngược với lý tưởng tu - tề - trị - bình, đầy rẫy sự thối nát và mục rữa, Nho giáo lại không đủ sức để lý giải về các hiện tượng bất ổn trong đời sống thực tại, Nguyễn Dữ đã tìm đến Phật, Đạo để phần nào giải tỏa đi sự bối rối và khỏa lấp đi những điểm còn thiếu sót trong tư tưởng của Nho gia. 2.2. Tư tưởng dung thông tam giáo thể hiện trong nhân sinh quan của Nguyễn Dữ Cùng với các quan niệm về trời, mệnh trời và bản thể của thế giới thì vấn đề về con người là lĩnh vực mà các nhà Nho trong xã hội phong kiến Việt Nam hết sức quan tâm. Theo họ, sự sinh thành, biến đổi của con người và xã hội loài người cũng không nằm ngoài sự biến hóa của trời, đất. Thầy của Nguyễn Dữ - Nguyễn Bỉnh Khiêm trong bài “Cảm hứng” có viết như sau: “Thái cực sơ triệu phân, Tam tài định quyết vị. Khinh thanh thướng vi thiên, Địa trọc há vi địa. Trung tụ nhi vi nhân, Bẩm thụ thị nhất khí.” (Dịch nghĩa: Thái cực lúc mới phân chia, Vị trí của tam tài đã định. Trong và nhẹ bay lên thành trời, Đục và nặng lắng xuống thành đất. Tụ hội ở giữa thì thành người) [28, tr.1344-1345]. Như vậy, cũng như Nho giáo và quan 31
  35. niệm của nhiều nhà Nho, theo Nguyễn Bỉnh Khiêm, con người được sinh ra do sự giao hòa của trời và đất, sự xuất hiện của con người được xem như là sự kết tinh tại một vị trí trung gian giữa trời và đất. Tiếp thu nhiều quan điểm của Nho giáo nói chung và Nguyễn Bỉnh Khiêm nói riêng, Nguyễn Dữ cũng cho rằng, trời đất là nguồn gốc sinh ra mọi sự sống trên thế gian, trong đó có cả con người. Nhưng địa vị của con người không phải tương đồng với các loài vật khác và địa vị đó lại vô cùng đặc biệt và quan trọng. Nếu ví trời đất là cha mẹ thì chắc hẳn con người chính là đứa con cưng của trời. Bởi con người là “giống khôn thiêng”, được trời ưu ái phú cho suy nghĩ và tình cảm. Về vấn đề này, ở phần Lời bình của Truyện bữa tiệc đêm ở Đà Giang, Nguyễn Dữ có viết: “Than ôi! Trời đất sinh ra mọi loài mà riêng hậu đối với loài người, cho nên con người ta là giống khôn thiêng hơn muôn vật. Tuy phượng hoàng là giống chim thiêng, kỳ lân là giống thú nhân, cũng chỉ là loài vật mà thôi” [5, tr.162]. So với các loài khác, kể cả phượng hoàng hay kì lân, dù là giống vật thiêng nhưng vẫn xếp ở vị trí sau con người bởi theo Nguyễn Dữ là do trời phú cho con người trí khôn để biết phân biệt phải trái đúng sai. Còn các loài vậy khác dù hiếm như kì lân, phượng hoàng thì cũng “chỉ là loài vậy mà thôi” [5, tr.192]. Hơn thế nữa, trong Truyện kỳ ngộ ở trại Tây, nàng Nhu Nương và Hồng Nương vốn là hai loài cây, sau khi tu luyện thì mới có dáng vẻ của con người. Hay trong Truyện bữa tiệc đêm ở Đà Giang, loài vượn và loài cáo thành tinh cũng hóa thành hai tú tài để vào hành cung. Những chi tiết này cho thấy được, trong quan niệm của Nguyễn Dữ, con người đứng đầu trong muôn loài hơn nữa còn trở thành một chuẩn mực chung, là hình tượng mà muôn loài ao ước muốn có được. Tuy các loài khác phải tu hành khổ luyện nhưng chúng cũng không thể trở thành con người thật sự mà chỉ khoác lên trên mình dáng vẻ giống con người mà thôi. Chịu ảnh hưởng của Nho giáo cho rằng, con người được sinh ra từ trời đất, là phần kết tinh, phần trung gian giữa trời và đất nên giữa chúng có một mối liên hệ chặt chẽ với nhau, nhiều nhà Nho trong xã hội phong kiến Việt Nam đều khẳng định, trời và người không phải tách rời nhau như hai thực thể đối lập mà có liên hệ mật thiết với nhau, có thể thấu hiểu, giúp đỡ hoặc hóa giải tai ương cho con người nếu con người thật sự có thành ý và chân thành khấn xin làm cho trời cảm động. 32
  36. Trong Lời bình của Truyện gã Trà đồng giáng sinh viết: “Làm thiện ở người, giáng phúc cho người thiện ở trời, sự cảm ứng ở giữa khoảng trời và người thật là sâu mờ vậy thay” [5, tr.53]. Về thực chất, đây cũng chính là nội dung của các thuyết “thiên nhân tương đồng”, “thiên nhân cảm ứng”, "thiên nhân hợp nhất" mà Hán Nho đã đưa ra. Trong Câu chuyện đối đáp với người tiều phu ở núi Na, Nguyễn Dữ một lần nữa khẳng định về mối liên hệ trời và người, ông nói về sự táng bại của nhà Hồ “chẳng qua là nghiệm với lẽ trời, chứng với lòng người” [5, tr.161] mà thôi. Cũng như nhiều nhà Nho Việt Nam, Nguyễn Dữ quan niệm rằng quyền lực của nhà vua là do trời trao cho để thực hiện ý chí của trời, vị vua ấy phải thường xuyên chăm lo công việc trị nước, cai quản muôn dân và quan sát những biến đổi của trời đất để xem việc mình làm có thuận theo ý trời hay không. Nếu việc làm của nhà vua trái với ý trời, trời sẽ hiện ra những điềm tai biến để cảnh báo và vua phải theo đó mà điều chỉnh việc làm của mình. Ví như trong Câu chuyện ở đền Hạng Vương, nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ của nhà Tần là do: “Giữ thói tiết kiệm là đức tốt của người làm vua. Thủy hoàng thì không thế, xây cung ở bên sông, mở đường ở ven núi, đắp nền cho cao bằng những hờn oán của dân, chứa kho cho đầy bằng những máu mỡ của dân” [5, tr.18]. Trong quan niệm về nhân sinh của Nguyễn Dữ, ông cho rằng trời cai quản và quyết định tất cả mọi việc trên thế gian, còn nhà vua là người được giao quyền thực thi ý chí của trời. Trời giám sát mọi hành động của vua thông qua việc đánh giá lòng người, nếu nhà vua có đức thì lòng dân an ổn, còn nếu nhà vua bất nhân thì lòng dân phẫn nộ. Vì thế, người làm vua phải biết quan sát các hiện tượng tự nhiên mà hiểu được ý trời, quan sát cuộc sống của dân và thái độ của dân chúng đối với nhà vua, với triều đại để hiểu được lòng dân. Đây cũng chính là quan điểm về sự tương thông giữa trời đất và con người, giữa mệnh trời và lòng dân trong Nho giáo nói chung mà Nguyễn Dữ đã tiếp thu và chịu ảnh hưởng. Như đã trình bày, Nguyễn Dữ tin tưởng vào mệnh trời và khuyên con người nên tuân theo mệnh trời, sống đúng với bổn phận của mình. Tuy nhiên, thuận mệnh trời trong quan điểm của Nguyễn Dữ không có nghĩa là con người buông thả và không cần phải cố gắng. Ông đặc biệt phê phán việc con người dùng số mệnh để giải thích cho sự thất bại trong cuộc sống của chính mình. Vì thế nên khi khi Hạng 33
  37. Vương nói chuyện thắng thua của Hán, Sở chỉ do sự may rủi của trời mà thôi thì bị Hồ Tôn Thốc phản bác lại rằng: “Lẽ trời việc người, cùng là đầu cuối lẫn nhau. Bảo mệnh ở trời, Thương Trụ vì thế mà mất nước; bảo trời sinh đức, Tân Mãng vì thế mà bỏ mình. Nay nhà vua bỏ việc người mà đi bàn lẽ trời, thì thế đã đến táng bại vẫn không tỉnh ngộ” [5, tr.17]. Trời quyết định số mệnh của con người nhưng đó là việc của trời. Còn sống ra sao và sống như thế nào thì đó còn là việc của con người. Với Nguyễn Dữ, dù tin vào số mệnh nhưng con người vẫn phải sống có trách nhiệm, trách nhiệm ấy được thể hiện qua từng hành động và suy nghĩ của con người. Con người trong quan niệm ông cũng cần có chứng kiến riêng, kiên định và quyết đoán trong hành động. Chính vì thế, cho nên Nguyễn Dữ mới ca ngợi Ngô Tử Văn trong truyện chức phán sự đền Tản Viên: “Người ta vẫn nói: “Cứng quá thì gãy”. Kẻ sĩ chỉ lo không cứng được, còn gãy hay không là việc của trời. Sao nên đoán trước là sẽ gãy mà chịu đổi cứng ra mềm ru!” [5, tr.111]. Nhưng bên cạnh đó, ông cũng khuyên mỗi người không nên vượt quá khuôn khổ, không nên có những suy nghĩ, hành động vượt quá bổn phận của mình. Đều là những học trò của Nguyễn Bỉnh Khiêm nhưng Phùng Khắc Khoan lại có cách nhìn nhận khác về vai trò của con người. Dù cũng thừa nhận có mệnh trời nhưng theo Phùng Khắc Khoan, không phải vì thế mà con người hoàn toàn phải chịu phục tùng ý trời. Ở đây Phùng Khắc Khoan khác với Nguyễn Bỉnh Khiêm và Nguyễn Dữ cũng như nhiều nhà Nho đương thời lúc đó. Ông không vì thừa nhận mệnh trời mà bi quan chán nản rồi từ quan về ở ẩn như thầy dạy Nguyễn Bỉnh Khiêm và bạn học Nguyễn Dữ, trái lại Phùng Khắc Khoan vẫn lạc quan và tin tưởng vào con đường dấn thân của mình. Từ quan điểm cho rằng hoạt động của con người có thể làm thay đổi sự tiền định, ông đi tới việc khẳng định tính tích cực sáng tạo của con người để xoay chuyển tình thế. Cho nên mỗi khi đề cập đến mệnh trời thì đằng sau đó không phải là lời than thở, mà là một nghị lực, một niềm tin xoay chuyển. Chẳng hạn hai câu: “Phú quý vinh hoa mệnh trời đã định sẵn. Xưa nay vẫn có xuất thân nghèo hèn mà làm đến công khanh” (Vinh tiến an bài thiên mệnh định, Cổ lai bạch ốc khởi công danh - Bệnh trung thư hoài) [Dẫn theo: 7, tr.95]. Bên cạnh quan niệm về vai trò của con người thì trong quan niệm của Nho gia, trời không chỉ phú cho con người dáng hình đẹp đẽ mà ngay cả bản tính của 34
  38. con người cũng đã được quy định từ khi mới sinh ra. Vấn đề bản tính của con người cũng là một vấn đề được các Nho sĩ xem trọng và thường xuyên bàn tới. Dù đều có mục đích là giáo hóa con người hướng thiện nhưng chính các bậc thánh nhân như Khổng Tử, Mạnh Tử, Tuân Tử cũng có những sự lý giải khác nhau về bản tính của con người. Trong quan niệm của Khổng Tử thì bản tính của con người là lành, là ngay thằng (dã trực) và nó gần giống nhau ở tất cả mọi người, như sách Luận ngữ có viết: "Tính tương cận giã; tập tương viễn giã" [24, tr.269]. Nghĩa là, con người khi mới sinh ra đều có cái tính trời phú cho là gần giống nhau, đó là lành và ngay thẳng nhưng do quá trình tiếp xúc, học hành mà làm cho họ có sự khác nhau, có kẻ trí, người ngu. Phẩm chất của con người là chất phác, chân thực và đó là điều kiện thuận lợi để trau dồi đức nhân và tất cả các đức khác cũng từ đức nhân mà ra. Bản tính của con người là lành, là ngay thẳng nhưng vì con người quen thói đời, mê vật dục nên mới thấy điều nhân xa mình. Vì vậy, khi con người đã có nhân thì phải luôn giữ lấy điều nhân, đừng bao giờ xa rời nó, dù chỉ trong một khoảnh khắc thời gian. Cũng giống như Khổng Tử, khi bàn về bản tính con người, Mạnh Tử cho rằng, bản tính con người là thiện và tính thiện của con người được thể hiện qua bốn đức lớn: Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí. Bốn đức lớn đó bắt nguồn từ tứ đoan là: Lòng trắc ẩn (biết thương xót), lòng tu ố (biết thẹn ghét), lòng từ nhượng (biết cung kính) và lòng thị phi (biết phân biệt phải trái). Vì vậy, theo Mạnh Tử, không có lòng trắc ẩn thì không phải là người, không có lòng từ nhượng không phải là người, không có lòng thị phi không phải là người. Tứ đoan là bốn cái đầu mối của điều thiện nên còn gọi là tứ thiện đoan. Bên cạnh đó, theo Mạnh Tử, bản tính con người là thiện còn vì các lương năng mà trời phú cho con người. Tuy nhiên, mặc dù cho rằng con người sinh ra sẵn có tính thiện, nhưng theo Mạnh Tử, tính thiện đó không phải là bất biến mà con người có thể đánh mất đi và sa vào con đường bất thiện khi có ngoại cảnh xấu tác động và bị chi phối bởi những ham muốn, dục vọng. Thế nhưng tác động của ngoại cảnh cũng có giới hạn của nó. Khi tâm của con người thật vững vàng không bị chi phối bởi vật dục và luôn học tập, tu dưỡng đạo đức thì con người luôn thiện, luôn có đạo đức. Khác với quan điểm của Khổng Tử và Mạnh Tử, Tuân Tử lại đi từ cái ác để lý giải bản tính của con người. Ông cho rằng con người khi mới sinh ra vốn đã có 35
  39. sẵn lòng ham lợi và dục vọng nên để thoả mãn những ham muốn và dục vọng đó, con người phải hành động thuận theo tính tự nhiên, bản năng của mình. Và, điều đó tất phải dẫn đến sự tranh giành, xâu xé, cướp bóc, chiếm đoạt của nhau. Như Tuân Tử nói: "tính con người, sinh ra là hiếu lợi, thuận theo tính đó thì thành ra tranh đoạt lẫn nhau mà sự từ nhượng không có; sinh ra là đố kỵ, thuận theo tính đó thì thành ra tàn tặc, mà lòng trung tín không có; sinh ra có lòng muốn của tai mắt, có lòng thích về thanh sắc, thuận theo tính đó thì thành ra dâm loạn mà lễ nghĩa, văn lý không có. Như thế thì theo cái tính của người ta, thuận cái tính của người ta, tất sinh ra tranh đoạt, phạm vào cái phận (tức là quyền lợi của nhau), làm loạn cái lý mà phải mắc lỗi tàn bạo. Cho nên phải có thầy, có phép để cải hoá (cái tính) đi, có lễ nghĩa để dẫn dắt nó, rồi sau mới có từ nhượng, hợp văn lý và thành ra trị" [Dẫn theo: 4, tr.86]. Như vậy, với Tuân Tử thì cái tính ban đầu của con người là ác, còn tính thiện là do con người học tập, tu dưỡng đạo đức sau này mới có được. Kế thừa những quan điểm trên, Nguyễn Dữ cho rằng, con người sinh ra là thiện bởi con người được trời phú bẩm cho “thiên lý”. Trong Chuyện Lý tướng quân, ông viết: “Trời, đất gây dựng, chia ra hình âm đục, dương trong, Dân vật bẩm sinh, khác ở chỗ duyên lành, nghiệp dữ. Biết bao sự trạng, khôn xiết kể bày. Bởi trời lấy lý phú cho người, sao được người đều hiển thánh, Người đem mình noi theo tính, khỏi đâu tính hoặc sáng mờ. Cho nên thiên lệch có người, hư tồi lắm kẻ” [5, tr.209 - 210]. Như vậy, giống như Khổng Mạnh, Nguyễn Dữ cũng cho rằng, con người mang tính thiện tiên thiên. Nhưng tính thiện ấy không phải bất biến mà có thể thay đổi được. Thông qua Truyền kỳ mạn lục, có thể thấy rằng, con người được miêu tả dưới ngòi bút của ông gồm có hai phần linh hồn và thể xác. Nếu phần linh hồn đã được trời phú cho lý thì thể xác gồm cơ thể và những giác quan giúp con người có thể cảm thụ thế giới. Các nhà Nho gọi đó là cái mà từ đó hình thành “nhân dục” với ý nghĩa đối lập với “thiên lý”. Nó cũng là toàn bộ nguồn gốc của tham, sân, si, dục vọng của con người. Đó chính là lý do mà tuy con người có tính thiện tiên thiên nhưng theo Nguyễn Dữ thì không phải ai cũng có thể trở thành hiển thánh mà trong xã hội cũng tồn tại nhiều kẻ hư tồi. Như vậy con người trong tư tưởng của Nguyễn Dữ vừa mang tính thiện tiên thiên vừa có cả tính bản năng như động vật. Tính thiện, tính người chính là các yếu tố khiến cho con người khác biệt giữa muôn 36
  40. loài. Nhưng nếu “tâm thuật không chính” thì con người sẽ ngày càng rời xa tính thiện quý giá ấy và bị mê hoặc, lôi kéo, quyến rũ vào những dục vọng cá nhân. Như vậy theo Nguyễn Dữ, “lý” mà trời phú cho con người là tính thiện, mà “tâm” là nơi để con người có thể mở rộng tính thiện ấy. Theo quan niệm của Phật giáo, tính ở đây được gọi là Phật tính. Phật tính là thiện, là trạng thái giác ngộ mà con người nhận thức được sự vật một cách chân thực và đúng đắn nhất. Tại thời điểm đó con người không bị tham, sân, si chi phối làm cho lầm lạc, vô minh. Ảnh hưởng của Phật giáo đối với Nguyễn Dữ được thể hiện thông qua quan niệm về mối quan hệ giữa “Tâm” và “Tính”. “Tâm” theo quan niệm của Phật giáo là cái mang tính bản thể bởi thế giới này vốn là tĩnh, thế giới vận động do cái tâm của con người không tĩnh. Nghĩa là mọi sự vật, hiện tượng trên thế gian này được sinh ra đều từ cái tâm vọng động, trong đó có cả tham, sân, si. Mà tam độc (tham, sân, si) chính là nguồn gốc gây nên việc con người đánh mất đi bản chất thiện vốn có của mình. Trong Nho giáo, Tâm là nơi đạt đến chí, trong Phật giáo, Tâm là trạng thái hư không. Như vậy Nguyễn Dữ đã tìm thấy sự thống nhất của Phật, Nho trong quan niệm về Tâm tính. Bên cạnh quan niệm về vai trò của con người trong thế giới, Nguyễn Dữ cũng đưa ra các quan điểm về cuộc đời. Trước hết, cũng như nhiều nhà Nho khác, Nguyễn Dữ nhận ra rằng, sinh tử là quy luật của cuộc đời. Ông đã sử dụng các quy luật của tự nhiên để lý giải về sinh mệnh con người, như trong Truyện kỳ ngộ ở trại Tây có viết “Người sinh ở đời như cái hoa trên cây, tươi héo có kỳ” [5, tr.67]. Ở đây Nguyễn Dữ đã ví cuộc sống trong người cũng giống như loài cây, cũng sẽ có quá trình sinh thành, phát triển và cuối cùng là tiêu vong. Quy luật sinh tử là quy luật của đời người thế nhưng Nguyễn Dữ tin rằng cái chết không có nghĩa là sự kết thúc mà sau khi chết thì con người lại tiếp tục tái sinh và bắt nguồn một kiếp sống mới. Ở đây, Nguyễn Dữ đã tiếp thu quan điểm về luân hồi của Phật giáo và quan niệm về ba thế giới của Đạo giáo. Thông qua các truyện trong Truyền kỳ mạn lục, cho thấy rằng, trong tư tưởng của Nguyễn Dữ, con người sau khi chết đi thì phần linh hồn vẫn còn tồi tại, sau đó linh hồn của con người sẽ phải tham gia một “tòa án lương tâm”. Tại đây, các vị thần linh sẽ làm nhiệm vụ chỉ ra những điều thiện - ác mà con người đã làm trong cuộc đời, từ đó quyết định thưởng phạt cho người đó. 37
  41. Một điểm đặc biệt nữa mà không thể không nhắc tới trong nhân sinh quan của Nguyễn Dữ chính là tư tưởng về nhu cầu được giải phóng cá nhân, giải phóng các nhu cầu của con người được thể hiện trong tác phẩm Truyền kỳ mạn lục. Theo các tài liệu còn lưu lại, có thể thấy, Nguyễn Dữ sinh sống vào khoảng cuối thế kỷ XV – đầu thế kỷ XVI, đây là thời kỳ đất nước bị chia cắt thành Đàng Trong và Đàng Ngoài, và để đủ sức cạnh tranh mà hai thế lực Trịnh – Nguyễn rất chú trọng vào vấn đề phát triển kinh tế. Nếu Đàng Ngoài có Thăng Long, Phố Hiến thì Đàng Trong có Hội An, Gia Định. Đây đều là những trung tâm kinh tế hết sức nhộn nhịp và phát triển mạnh mẽ của Việt Nam ở giai đoạn này. Dấu hiệu của một nền kinh tế mới mang màu sắc thị dân đang dần được hình thành và xuất hiện. Nó đã thổi một làn gió mới vào đời sống tinh thần nhân dân cùng những ảnh hưởng đến nền văn hóa lâu đời của xã hội phong kiến. Sự giao, lưu buôn bán là một trong những tác nhân thúc đẩy các nét văn hóa phương Tây truyền bá vào Việt Nam trong giai đoạn này. Một cánh cửa mới được mở ra khiến cho một bộ phận nhân dân đương thời không còn hoàn toàn gò bó vào các lễ giáo, quan điểm đạo đức Nho gia mà thay vào đó là lối sống phóng khoáng và tự do hơn. Những điểm mới trong quan niệm về lối sống này vừa tác động tích cực vừa tác động tiêu cực đến nước ta trong thế kỷ XVI. Quan niệm về khát vọng, nhu cầu được sống đúng với bản năng và hạnh phúc cá nhân chính là một điểm mới trong lịch sử tư tưởng Việt Nam ở giai đoạn này. Trước hết, trong tác phẩm Truyền kỳ mạn lục, ta thấy có một điểm khác biệt trong tư tưởng của Nguyễn Dữ với các nhà Nho của thế hệ trước. Nếu như ở giai đoạn trước, các nhà Nho hiếm khi đề cập đến các vấn đề về nhu cầu tâm sinh lý của con người thì ngược lại, trong tác phẩm của mình Nguyễn Dữ lại tập trung vào việc phác họa vào những khát khao, những nhu cầu cá nhân cần được thỏa mãn một cách vô cùng táo bạo. Trong 20 truyện của ông còn xuất hiện những nhân vật đã vượt khỏi quy phạm về đạo đức của xã hội phong kiến, thậm chí là mất đi cả nhân tính. Giả như người chồng trong Người nghĩa phụ ở Khoái Châu, chỉ vì ham tiền và thói ham mê cờ bạc mà sẵn sàng phá bỏ đạo nghĩa vợ chồng. Hay gã phú thương Trình Trung Ngộ trong Chuyện cây gạo vì ái tình mà phải chết. Hoặc như trong Truyện kỳ ngộ ở trại Tây, Hà Nhân vì đắm mình trong sắc dục mà bỏ đi con đường công danh rộng mở. Tất cả những nhân vật trên đều là đại biểu cho một nhóm người trong xã 38
  42. hội, họ muốn hưởng lạc từ thú vui vật chất hoặc sắc dục, sẵn sàng phá bỏ đạo đức luân lý thông thường, không tin tưởng vào đạo nhân nghĩa của Nho gia, cũng không sợ nghiệp báo, nhân quả. Họ chỉ mong muốn được hưởng thụ và đạt được tự do, thoát khỏi sự gò bó của lễ giáo phong kiến trong cuộc sống đời thường. Quan niệm về hạnh phúc cá nhân, tình yêu đôi lứa cũng là một trong những vấn đề nhân sinh được Nguyễn Dữ tập trung khai thác trong tác phẩm Truyền kỳ mạn lục. Khác với những nhà Nho trước đó chỉ đề cập đến vấn đề gia đình dưới góc độ tình nghĩa, trách nhiệm giữa vợ và chồng, cha mẹ với con cái, anh với em. Nguyễn Dữ cũng đặc biệt quan tâm đến chủ đề về gia đình nhưng lại tập trung vào khát vọng về tình yêu và hạnh phúc. Đây là nội dung tư tưởng mới mẻ mang tính nhân đạo, nhân văn so với các giai đoạn trước đó. Trong Truyền kỳ mạn lục, Nguyễn Dữ đã cho ta thấy được khát vọng của nhân dân trong cuộc sống đời thường, tiêu biểu có Chuyện người con gái Nam Xương, Truyện Lệ Nương. Trong hai câu chuyện trên, Nguyễn Dữ đã miêu tả những mối tình thuỷ chung, son sắt và khát vọng về tình yêu lứa đôi của các cặp nam nữ. Như trong Truyện Lệ Nương, Nguyễn Dữ thể hiện thái độ trân trọng trước tình yêu của Lệ Nương và Phật Sinh, đó là một tình yêu trong sáng và họ sẵn sàng vượt qua các khó khăn để đến được với nhau. Nhưng mặt khác, ông cũng không đồng tình với việc con người bất chấp tất cả để theo đuổi tình yêu, ông viết về sự sinh tình của Phật Sinh như sau: “Như chàng họ Lý kia, vì mối ân tình giữ bền ước cũ, lưu ly hoạn nạn, vẫn chẳng quên lời, tình thật đáng thương, mà lẽ phải thì chưa ổn. Bởi sao? Cảm tình mà đi tìm thì nên, liều chết mà đi tìm thì không nên, liều chết để đi tìm đã không nên, huống nữa lại thôi không lấy vợ, để đứt dòng giống của tiên nhân phỏng có nên không?” [5, tr.231]. Tác phẩm Truyền kỳ mạn lục đã manh nha xuất hiện những quan niệm mới về nhân sinh quan trong tư tưởng của Nguyễn Dữ. Ở đây, ta cũng thấy được sự mâu thuẫn trong chính tư tưởng của ông. Sự mâu thuẫn này một mặt phản ánh sự mâu thuẫn trong đời sống hiện thực, mặt khác cho thấy sự dao động trong lập trường của một nhà Nho. Toàn bộ tác phẩm thấm sâu tinh thần và thực tế của cuộc sống, phạm vi phản ánh của tác phẩm tương đối rộng rãi, khá nhiều vấn đề của xã hội, con người được đề cập tới. Bất mãn với thời cuộc và bất lực trước hiện trạng, Nguyễn 39
  43. Dữ ẩn dật và đã thể hiện quan niệm sống của kẻ sĩ lánh đục về trong qua Câu chuyện đối đáp của người Tiều phu trong núi Na ở ẩn mà nhà văn vẫn quan tâm đến thế sự, vẫn không quên đời, vẫn nuôi hy vọng ở sự phục hồi của chế độ phong kiến. Đúng như giáo sư Bùi Duy Tân đã nói: “Tư tưởng chủ đạo của Nguyễn Dữ là tư tưởng Nho gia. Ông phơi bày những cái xấu xa của xã hội là để cổ vũ thuần phong mỹ tục xuất phát từ ý thức bảo vệ chế độ phong kiến, phủ định triều đại mục nát đương thời để khẳng định một vương triều lý tưởng trong tương lai, lên án bọn "bá giả" để đề cao đạo "thuần vương", phê phán bọn vua quan tàn bạo để ca ngợi thánh quân hiền thần, trừng phạt bọn người gian ác, xiểm nịnh, dâm tà, để biểu dương những gương tiết nghĩa, nhân hậu, thủy chung. Tuy nhiên Truyền kỳ mạn lục không phải chỉ thể hiện tư tưởng nhà Nho, mà còn thể hiện sự dao động của tư tưởng ấy trước sự rạn nứt của ý thức hệ phong kiến” [13,tr.1125]. 2.3. Tư tưởng dung thông tam giáo thể hiện trong quan niệm về đạo đức của Nguyễn Dữ Truyền kỳ mạn lục là một trong những tác phẩm văn học đặc sắc nhất của thế kỷ XVI. Thế nhưng nó được khen là “thiên cổ kỳ bút” không chỉ vì những giá trị văn chương, mà còn bởi những giá trị về mặt tư tưởng, đạo đức mà Nguyễn Dữ đã truyền tải trong bộ truyện này. Trong bản dịch Truyền kỳ mạn lục của mình, Trúc Khê có nhận xét rằng: “Trong tất cả hai mươi truyện, tuy đều có phần quái hoang đường cả. Song phần nhiều các truyện, tác giả tuy trong khi muốn được thỏa cái ý thích múa mênh ngòi bút phun hoa nhả gấm, nhưng vẫn dụng ý ký thác vào đó một cái ý nghĩa về đạo đức luân lý, hay một lời châm biếm về những chính tục của đương thời” [5, tr.7]. Thật vậy, trong tác phẩm của mình, Nguyễn Dữ tuy rằng không trực tiếp bàn về vấn đề đạo đức, nhưng trong các câu chuyện của ông đều ẩn dấu một triết lý, một bài học về giáo dục đạo làm người. Một mặt, Nguyễn Dữ phê phán xã hội vì coi trọng đồng tiền đã dẫn đến các thói hư, tật xấu và đội ngũ vua quan, trí thức với những biểu hiện trái với luân lý, đạo đức đương thời. Mặc khác, ông biểu dương và thể hiện sự tôn kính với những nhân cách cao cả, lối sống nhân nghĩa và tấm lòng từ bi, yêu thương con người. 40
  44. Trong Truyền kỳ mạn lục, Nguyễn Dữ đã nhiều lần phê phán sự suy thoái đạo đức trong xã hội thông qua nhiều trường hợp và với nhiều đối tượng thuộc các tầng lớp khác nhau. Thế nhưng, một nguyên nhân chung dẫn đến tình trạng ấy, đó là sự tham lam, lòng dục vọng về danh lợi, tiền tài, sắc dục,v.v. đã sai khiến con người làm những điều tội lỗi, phi đạo đức. Họ đã đánh đổi tính thiện mà trời phú cho mình để lấy lòng tham lam và thậm chí là đánh mất cả nhân tính chỉ để thỏa mãn dục vọng cá nhân trước mắt, thấp hèn. Quan phần ghi chép trong Truyện người nghĩa phụ ở Khoái Châu cho chúng ta biết, Đỗ Tam là một tay lái buôn, dù biết rõ Nhị Khanh là vợ của Trọng Quỳ nhưng hắn vẫn tìm mọi cách để chiếm đoạt được nàng. Hiểu được Trọng Quỳ yêu thích tiền bạc lại hay sa đà cờ bạc nên hắn liền lập mưu, lừa Trọng Quỳ đem vợ mình trả nợ. Thông qua nhân vật tay lái buôn Đỗ Tam, Nguyễn Dữ đã miêu tả hạng gian thương lòng dạ bất chính, chúng có thể sử dụng mọi mánh khóe tinh vi để lừa đảo nhằm thỏa mãn tư dục của bản thân. Hơn thế nữa, thương nhân trong cách nhìn nhận của Nguyễn Dữ chỉ là những kẻ xấu xa, không chỉ làm việc bất nghĩa mà còn sử dụng tiền bạc để mua chuộc lòng người, dụ dỗ người ta làm những việc sai trái. Ở đây, chúng ta có thể thấy được, Nguyễn Dữ thể hiện một thái độ vô cùng khắt khe, chán ghét đối với tầng lớp những người làm thương nhân. Có lẽ, ông chịu ảnh hưởng sâu sắc của Nho giáo khi cho rằng những người làm nghề buôn bán đều là người hèn hạ. Cũng theo Nho giáo, trong tứ dân (sĩ, nông, công, thương) thì thương nhân là hạng người được xếp cuối cùng và trong xã hội phong kiến, họ cũng không nhận được sự đánh giá cao, coi trọng. Dù rằng thương nhân là những người đóng góp cho sự giàu mạnh của nước nhà nhưng trong quan niệm người dân Việt Nam thời xưa thì nghề buôn chính là nghề lừa gạt, bất nhân. Vậy nên mới có câu “Phi thương bất phú, vi phú bất nhân”. Ở truyện này, nhân vật Trọng Quỳ vì ham mê tiền bạc mà coi rẻ tình nghĩa vợ chồng, đem vợ mình ra đánh bạc. Từ chi tiết ấy, Nguyễn Dữ muốn miêu tả, vạch trần bộ mặt đáng khinh của một xã hội coi trọng đồng tiền và phê phán những hành vi mất nhân tính, phi đạo đức của một nhóm người trong xã hội nước ta lúc bấy giờ. Sự suy đồi ấy có thể diễn ra ở mọi nơi, trong mọi mối quan hệ kể cả tình nghĩa vợ chồng sâu nặng. Cũng giống như Nguyễn Dữ, Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng đã không 41
  45. ít lần bày tỏ sự thất vọng của mình trước bối cảnh xã hội đương thời. Ôngng viết về thói đời lúc bấu giờ như sau: “Thế gian biến đổi vũng nên đồi Mặn nhạt, chua cay lẫn ngọt bùi Còn bạc, còn tiền còn đệ tử Hết cơm, hết rượu hết ông tôi” Rõ ràng, có thể thấy được rằng, đối với tình hình xã hội nước ta lúc bấy giờ, các nhà Nho đều thể hiện một thái độ vô cùng chán nản và thất vọng. Là những nhà Nho được sinh thành, lớn lên và đào tạo trong cái nôi của Khổng giáo, họ không thể chấp nhận được việc con người đánh mất đi nhân nghĩa vì danh lợi, phú quý. Đó là hành động bất nhân, bất nghĩa và trái với đạo trời, trái với luân lý và đạo đứcmà những nhà Nho hết sức trân trọng, đề cao và gìn giữ. Trong Truyền kỳ mạn lục, giống như quan điểm của đa số các nhà Nho khác khi nói về đạo đức, Nguyễn Dữ đưa ra quan niệm về đạo đức của mình thông qua các mối quan hệ trong xã hội, gồm có: Mối quan hệ giữa quân thần, mối quan hệ giữa chồng vợ, mối quan hệ giữa cha con, mối quan hệ giữa anh em và mối quan hệ giữa bè bạn. Trong khóa luận này, chúng tôi sẽ tập trung phân tích quan niệm đạo đức của Nguyễn Dữ khi ông đề cập đến hai mối quan hệ đầu tiên, đó là mối quan hệ vua – tôi và mối quan hệ chồng – vợ. Về mối quan hệ quân thần. Trước hết, như bao nhà Nho khác, Nguyễn Dữ cho rằng, con người không thể sống ngoài quy luật của trời đất và nhà vua thì phải dựa vào đạo cương thường để trị nước. Trong Chuyện ở Đền Hạng Vương có viết: “Tôi nghe làm người ta không ngoài trời đất để mà sống, làm chính trị không ngoài cương thường để dựng nước” [5, tr.13]. Tuy nhiên, quan niệm của Nguyễn Dữ cũng có điểm khác biệt với quan niệm về cương thương của phái Tống Nho. Nếu như trong quan niệm về quan hệ vua tôi, phái Tống Nho tập trung chú trọng vào nghĩa vụ, thái độ của người làm bề tôi đối với nhà vua thì Nguyễn Dữ lại có xu hướng ngược lại. Ông tập trung nhiều hơn vào thái độ và cách hành xử của bậcquân vương đối với người dưới. Chính vì thế trong Chuyện ở Đền Hạng Vương, khi ông Hồ phê phán Hạng Vương, lão thần họ Phạm mới hỏi ngược lại ông Hồ rằng: “Bầy 42
  46. tôi của Đại vương đây có người tên là Cao1 tiết cứng như tùng, lòng bền tựa đá, sa cơ không chịu sống nhục, liều mình để được thác mà vinh; nếu không phải nhà vua biết cách chống ngự thì sao có sự tử trung ấy!” [5, tr.19]. Đoạn này cho thấy, sự “trung”, sự “lương” của bề tôi phải xuất phát từ cái “lễ”, cái “đức”, cái “nhân” của bậc làm quân vương. Chính vì thế mà những người càng có địa vị cao, càng cần tu sửa mình và cai trị đất nước bằng cái tâm, cái đức ấy. Đó là trong quan hệ quân thần, còn trong quan hệ chồng vợ thì Nguyễn Dữ cũng có đề cập đến như việc Hạng Võ “biết lẽ cư xử với bà họ Ngu” chính vì thế mà vợ của HạngVương là Ngu Cơ mới tuẫn tiết theo chồng, do đó “Dạy vợ nhà trước, sẽ trị nhà nước sau” [5, tr.13-14]. Còn trong quan hệ cha con thì người cha phải biết yêu thương, giáo dục và làm gương cho con thì mới đúng với cái đạo làm cha. Như vậy trong đạo làm người Nguyễn Dữ cũng giống như giống như các nhà Nho khác, đó là đề cao cương thường đạo lý xã hội quan hệ quân thần, chồng vợ được lấy làm tiêu chuẩn để điều chỉnh hành vi của con người. Quan niệm về đạo đức còn được Nguyễn Dữ bộc lộ rõ nét ở hai phần truyện Chuyện người nghĩa phụ ở Khoái Châu và Chuyện người con gái Nam Xương. Hai phần này đều đề cập đến tình nghĩa vợ chồng – một trong năm luân thường của Nho gia. Trước hết, trong Chuyện người nghĩa phụ ở Khoái Châu kể về một cặp vợ chồng tên là Trọng Quỳnh và Nhị Khanh. Trọng Quỳnh là người ham mê cờ bạc lại gặp phải một anh lái buôn thèm muốn vợ của mình. Vì thế bị đặt bẫy, nghe lời dụ dỗ của kẻ gian mà lấy vợ mình ra đánh bạc, thua cược, Trọng Quỳnh phải đem Nhị Khanh trao đổi với tay lái buôn. Khi biết phải từ giã chồng con, Nhị Khanh có ôm con mà khóc, nàng nói: “Cha con bạc tình, mẹ đau lòng lắm. Ly biệt là việc thường thiên hạ, một cái chết với mẹ có khó khăn gì. Nhưng mẹ chỉ nghĩ thương các con mà thôi” [5, tr.30]. Nói xong, nàng lấy đoạn dây tơ thắt cổ tử tự. Ở chi tiết này, việc làm của nàng Nhị Khanh là một hành động chính nghĩa, nàng làm vậy không hẳn vì giữ trọn cái đạo tam tòng, tứ đức mà hơn cả là vì không muốn phải nghe theo sự sắp đặt của người bất chính, phi đạo đức. Cái chết của nàng là để bảo vệ đạo làm người, đạo làm vợ. Chính Nguyễn Dữ cũng đã viết rằng: “Than ôi, người con gái có ba đạo 1 Tào Cao làm Đại tư mã nước Sở, Hạng Vương sai giữ thành ở Thành Cao. Sau vì bại trận, thua quân Hán nên tự vẫn. 43