Khóa luận Tìm hiểu giá trị thơ văn yêu nước của Phan Văn Trị

pdf 52 trang thiennha21 16/04/2022 4160
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Tìm hiểu giá trị thơ văn yêu nước của Phan Văn Trị", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfkhoa_luan_tim_hieu_gia_tri_tho_van_yeu_nuoc_cua_phan_van_tri.pdf

Nội dung text: Khóa luận Tìm hiểu giá trị thơ văn yêu nước của Phan Văn Trị

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA NGỮ VĂN PHAN THỊ THU HOÀI TÌM HIỂU GIÁ TRỊ THƠ VĂN YÊU NƯỚC CỦA PHAN VĂN TRỊ KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Người hướng dẫn khoa học ThS. AN THỊ THÚY HÀ NỘI - 2017
  2. LỜI CẢM ƠN Em xin bày tỏ lời cảm ơn chân thành sâu sắc của mình tới Th.S An Thị Thúy, người đã tận tình giúp đỡ, hướng dẫn em hoàn thành khóa luận này. Em xin chân thành cảm ơn các thầy giáo, cô giáo trong tổ văn học Việt Nam - Khoa Ngữ Văn - Trường đại học sư phạm Hà Nội 2 đã tạo điều kiện thuận lợi cho em trong quá trình học tập, nghiên cứu. Xin cảm ơn bạn bè đã luôn động viên giúp đỡ em hoàn thành khóa luận. Hà Nội, ngày 4 tháng 5 năm 2017 Sinh viên Phan Thị Thu Hoài
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là kết quả nghiên cứu của cá nhân tôi. Đề tài nghiên cứu này không trùng với công trình nghiên cứu của tác giả nào khác. Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm. Hà Nội, ngày 4 tháng 5 năm 2017 Sinh viên Phan Thị Thu Hoài
  4. MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 1. Lí do chọn đề tài. 1 2. Lịch sử vấn đề 2 3. Nhiệm vụ nghiên cứu 4 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 5 5. Phương pháp nghiên cứu 5 6. Cấu trúc khóa luận 5 NỘI DUNG 6 Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG 6 1.1. Bối cảnh lịch sử xã hội và tư tưởng thời đại 6 1.1.1. Bối cảnh lịch sử xã hội 6 1.1.2. Tư tưởng thời đại 8 1.2. Cuộc đời và sự nghiệp văn chương 10 1.2.1. Cuộc đời 10 1.2.2. Sự nghiệp văn chương 13 1.3. Vị trí của Phan Văn Trị trong dòng văn học yêu nước Nam Bộ nửa cuối thế kỉ XIX. 14 Chương 2. GIÁ TRỊ THƠ VĂN YÊU NƯỚC CỦA PHAN VĂN TRỊ 16 2.1. Thơ văn yêu nước của Phan Văn Trị nhìn từ phương diện nội dung. 16 2.1.1. Chỉ trích bọn quan lại bán nước hại dân 16 2.1.2. Bày tỏ chí hướng và tâm sự của nhà thơ 20 2.1.3. Cuộc bút chiến giữa Phan Văn Trị và Tôn Thọ Tường 27 2.2.Thơ văn yêu nước của Phan Văn Trị nhìn từ phương diện nghệ thuật 37 2.2.1. Bút pháp 38 2.2.2. Thể thơ 41
  5. 2.2.3. Ngôn ngữ 42 KẾT LUẬN 45 TÀI LIỆU THAM KHẢO
  6. MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Việt Nam là lịch sử của dân tộc kiên cường bất khuất với bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước, gian khổ mất mát đau thương nhưng rất đỗi hào hùng. Chúng ta cùng ngược dòng thời gian trở về với những biến cố lịch sử để thấy khí thế quật cường của cha ông, vượt qua bao khó khăn gian khổ từ buổi đầu chống Pháp đến khi toàn thắng. Triều đình Huế bấy giờ nhu nhược, hèn nhát đã đầu hàng giặc. Nhân dân yêu nước không can tâm chịu mất nước mà đứng lên khởi nghĩa. Phong trào diễn ra mạnh như vũ bão, tuy chưa đủ sức “Nhấn chìm bọn bán nước và cướp nước” (Hồ Chí Minh) nhưng đó chính là tiếng súng báo hiệu một thời kì bão táp cách mạng sẽ diễn ra sôi nổi. Đứng trước hoàn cảnh nước nhà như vậy văn học chống Pháp ra đời đã kế thừa một cách tốt đẹp truyền thống yêu nước của dân tộc, qua những áng văn thơ của một bộ phận sĩ phu yêu nước đương thời như: Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Quang Bích, Nguyễn Xuân Ôn, Nguyễn Thông Hòa chung vào dòng văn học yêu nước cuối thế kỉ XIX nhà thơ Phan Văn Trị đã góp lên một tiếng nói vô cùng mạnh mẽ và sôi nổi. Thơ ca là sự rung cảm kì diệu của tâm hồn người nghệ sĩ. Bởi vậy, thơ ca chính là nơi gửi gắm tâm sự, nỗi lòng, cảm xúc của thi nhân. Những nỗi niềm sâu kín, những băn khoăn trăn trở là nguyên nhân bên trong khiến người nghệ sĩ tìm đến với văn chương. Chúng ta từng cảm nhận được nỗi buồn trong thơ Ức Trai, Nguyễn Du, Tú Xương hay nỗi niềm chua xót thân phận trong thơ Hồ Xuân Hương Theo đó, văn chương là mảnh đất màu mỡ nuôi dưỡng tâm hồn người nghệ sĩ. Vì vậy, tìm hiểu thơ Phan Văn Trị, chúng ta thấy rõ hơn một tấm lòng trung trinh với nước, nặng lòng với dân tộc của nhà thơ. 1
  7. Khi nghiên cứu về đề tài Tìm hiểu giá trị thơ văn yêu nước của Phan Văn Trị, đã giúp chúng ta hiểu thêm về hoàn cảnh lịch sử, xã hội, tư tưởng thời đại cũng như cuộc đời và sự nghiệp văn chương của Phan Văn Trị. Đồng thời ta thấy hiện lên trên trang thơ của ông là bản cáo trạng đanh thép về tội ác của chế độ thực dân nửa phong kiến, ở đó còn là nơi kí thác gửi gắm tâm sự của thi nhân. Hơn nữa tìm hiểu về những sáng tác của nhà thơ, ta thấy rõ một cuộc bút chiến bằng thơ dữ dội giữa Phan Văn Trị và Tôn Thọ Tường. Như vậy khi đi nghiên cứu về đề tài: Tìm hiểu giá trị thơ văn yêu nước của Phan Văn Trị đã góp phần cho chúng ta hiểu rõ hơn về giá trị nội dung và tài năng nghệ thuật trong thơ văn yêu nước của nhà thơ. Đó chính là lí do khiến chúng tôi lựa chọn để nghiên cứu đề tài này. 2. Lịch sử vấn đề Phan Văn Trị là một trong những tác giả tiêu biểu, một nhà thơ, nhà trí thức nho học có tên tuổi trong khuynh hướng văn học yêu nước chống Pháp nửa cuối thế kỉ XIX. Chính vì vậy cho đến nay đã có khá nhiều người đề cập đến cuộc đời và sự nghiệp của ông. Chúng tôi có thể điểm qua một số cuốn sách và công trình nghiên cứu viết về ông như sau: 2.1. Nguyễn Đăng Na, Giáo trình văn học trung đại Việt Nam. Các tác giả đã đi tìm hiểu tình hình sáng tác chung của các tác giả có những tác phẩm tiêu biểu sáng tác trong giai đoạn này. Trong đó có Phan Văn Trị nhưng nhìn chung thì đó chỉ là những nét cơ bản nhất chứ chưa đi vào tìm hiểu cụ thể tác phẩm của ông: “Cuộc tranh luận nảy lửa giữa Phan Văn Trị và Tôn Thọ Tường là một ví dụ khá tiêu biểu. Lập luận của Tôn Thọ Tường rất đặc trưng cho tư tưởng của kẻ chủ hòa, sợ hi sinh tự ti dân tộc, khiếp đảm trước thanh thế của giặc nhưng lại không muốn cho người khác thấy được tim đen của mình nên ra sức tìm cách che đậy. Người ta viện dẫn cả sử sách kim cổ để lấp 2
  8. liếm, biện bạch. Đáp lại Phan Văn Trị đã rành rẽ chỉ ra chân tướng của những kẻ phản quốc ” [6;267] 2.2. Nguyễn Khắc Thuần, Nguyễn Quảng Tuân, Phan Văn Trị cuộc đời và tác phẩm. Ở cuốn này các tác giả nghiên cứu khá công phu, là một trong những quyển sách mới nhất về cuộc đời và thân thế của Phan Văn Trị. Nội dung của sách xoay quanh về cuộc đời sự nghiệp, những giai thoại về nhà thơ và cả những sáng tác của ông. Nhưng tác giả chỉ đưa ra phần phiên âm, khảo dị và phần chú thích chứ chưa chỉ ra nội dung của từng tác phẩm: “Sau Nguyễn Đình Chiểu, Phan Văn Trị xông xáo tiến lên đánh địch như một dũng sĩ. Ngòi bút trong tay ông trở thành ngọn giáo nhằm thẳng vào bọn bán nước, đánh rất trúng, rất đau, khiến đối phương không cựa được không phải thơ của Phan Văn Trị chỉ có những bài thơ được chú ý nhiều qua cuộc bút chiến với Tôn Thọ Tường. Những bài thơ trữ tình như: Mất Vĩnh Long, Bến An Giang những bài thơ ngụ ý châm biếm như: Con mèo, Con muỗi, Con rận ”[7;12] 2.3. Ban thường vụ huyện ủy huyện Phong Điền, Biên khảo lịch sử Phong Điền Cần Thơ. Ở đây các nhà biên khảo đã đưa ra những nét chung nhất về cuộc đời và sự nghiệp của Phan Văn Trị, nhưng nhìn chung đó chỉ là những nét sơ bộ về con người đã làm dạng danh cho mảnh đất Phong Điền- Cần Thơ. “Với những bài thơ bút chiến. Phan Văn Trị xứng đáng là một nhà nho yêu nước một chí sĩ trong mặt trận văn hóa chống ngoại xâm. Những bài thơ của ông đã khơi dậy tinh thần bất khuất chống thực dân Pháp của nhân dân Nam Bộ. Mặc dù cả Nam Kì là thuộc địa của Pháp nhưng những vần thơ có lửa của Phan Văn Trị đã nhen nhóm trong lòng mọi người ý chí và niềm tin ở tương lai nước nhà sẽ được độc lập, tự chủ ”[1;64] 2.4. Đặng Duy Khôi Trăm năm vẫn sáng ngời đạo nghĩa, báo điện tử Cần Thơ. Bài báo đã tổng hợp một loạt bài viết nghiên cứu về cuộc đời và sự 3
  9. nghiệp của Phan Văn Trị. Bên cạnh đó bài báo còn trích dẫn một số bài thơ của Phan Văn Trị. “Không quá trữ tình dạt dào như thơ văn cụ Đồ Chiểu nhưng thơ cụ Cử Trị đánh không khoan nhượng vào thực dân và bè lũ tay sai. Trong cảnh nước mất nhà tan thơ của cụ Phan Văn Trị không đơn thuần là miêu tả mà còn mang tính chiến đấu kiên cường ”[4] Trong các công trình nghiên cứu trên, các tác giả đã phần nào nhìn nhận ở nhiều góc độ về con người và sự nghiệp của Phan Văn Trị. Kế thừa những khám phá tìm tòi của những người đi trước, coi đó là những định hướng quan trọng, chúng tôi tiếp tục tìm hiểu về con người và thơ văn của Phan Văn Trị. Nói tóm lại khi Tìm hiểu giá trị thơ văn yêu nước của Phan Văn Trị đã có khá nhiều người đã đi ngiên cứu nhưng nhìn chung ở các công trình này các tác giả chỉ dừng lại ở khía cạnh nghiên cứu chung về cuộc đời và các tác phẩm của Phan Văn Trị chứ chưa đi sâu vào tìm hiểu giá trị nội dung và nghệ thuật trong các sáng tác của nhà thơ. Ở đề tài này chúng tôi mạnh dạn đưa ra những ý kiến của mình, hi vọng góp được một tiếng nói nhằm hiểu sâu hơn về giá trị thơ văn yêu nước của nhà thơ Phan Văn Trị. 3. Nhiệm vụ nghiên cứu Nghiên cứu đề tài này, khóa luận hướng tới những nhiệm vụ sau: - Góp phần hiểu thêm về hoàn cảnh lịch sử xã hội, tư tưởng thời đại cũng như cuộc đời, sự nghiệp văn chương của Phan Văn Trị. - Góp phần làm phong phú vốn tri thức về thơ văn yêu nước chống Pháp nửa cuối thế kỉ XIX nói riêng và văn học chống ngoại xâm của dân tộc nói chung. Góp phần tích cực cho công tác giảng dạy văn học sau này. Đối với bản thân, khắc sâu tinh thần yêu nước, lòng tự hào tự tôn dân tộc. 4
  10. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Là thơ văn yêu nước của Phan Văn Trị lấy trong cuốn, Phan Văn Trị cuộc đời và tác phẩm của Nguyễn Khắc Thuần và Nguyễn Quảng Tuân – Nhà xuất bản trẻ thành phố Hồ Chí Minh năm 2000 - Phạm vi nghiên cứu: Giá trị nội dung và nghệ thuật của thơ văn yêu nước Phan Văn Trị 5. Phương pháp nghiên cứu Khi nghiên cứu, tìm hiểu đề tài này, chúng tôi sử dụng kết hợp một số phương pháp sau: - Phương pháp thống kê, phân loại - Phương pháp phân tích, so sánh - Phương pháp tổng hợp 6. Cấu trúc khóa luận Ngoài phần mục lục, mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, nội dung khóa luận được triển khai theo 2 chương Chương 1. Những vấn đề chung Chương 2. Giá trị nội dung và nghệ thuật trong thơ văn yêu nước của Phan Văn Trị 5
  11. NỘI DUNG Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG 1.1. Bối cảnh lịch sử xã hội và tư tưởng thời đại 1.1.1. Bối cảnh lịch sử xã hội Dân tộc Việt Nam có truyền thống lịch sử bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước. Tổ quốc Việt Nam tuy nhỏ bé nhưng đã trải qua biết bao cuộc đấu tranh xâm lược anh dũng, hào hùng. Chính những năm tháng lịch sử đầy biến động ấy, con người Việt Nam càng trở nên đẹp hơn bao giờ hết. Trong tiến trình vận động của lịch sử Việt Nam, năm 1858 là mốc thời gian có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Cuộc xâm lăng do thực dân Pháp phát động đánh dấu một bước ngoặt của lịch sử dân tộc. Sự kiện này kéo theo những biến động ghê gớm, những đổi thay sâu sắc và toàn diện trên mọi lĩnh vực của đời sống cộng đồng. Kế thừa truyền thống yêu nước bất khuất từ ngàn đời nay, con người Việt Nam đứng lên đấu tranh với tư cách là một người dân mất nước, quyết chiến với kẻ thù để giữ gìn độc lập, hòa bình, tự do của Tổ quốc. Trước sự dòm ngó của chủ nghĩa đế quốc xâm lược và mâu thuẫn bên trong xã hội phong kiến Việt Nam, vương triều nhà Nguyễn được ví như ngọn đèn bùng cháy lần cuối cùng để rồi tắt hẳn. Trong khí thế đấu tranh sôi nổi của nhân dân chống Pháp thì triều đình Huế hoàn toàn không dám dựa vào nhân dân để chống giặc mà chỉ kháng cự một cách yếu ớt rồi đầu hàng. Ngay từ những ngày đầu thực dân Pháp đánh vào Đà Nẵng, trong khi triều đình còn lúng túng, chưa biết xử trí ra sao thì lòng dân đã sục sôi như dầu trong chảo nóng. Ở ngay kinh thành, cuộc nổi dậy của Đoàn Trưng, Đoàn Trực được binh lính, thợ và dân phu xây lăng Tự Đức ủng hộ chống nhà vua. Ngoài Bắc, đốc học Phạm Văn Nghị chiêu mộ quân sĩ trợ chiến cho Quảng 6
  12. Nam và khi nhà Nguyễn kí kết hàng ước cắt các tỉnh miền Đông Nam Kỳ giao cho quân cướp nước, để tranh thủ đàn áp phong trào nông dân ở Bắc, thì nhân dân cùng với những sĩ phu yêu nước ở Nam Kỳ tiếp tục phản kháng một cách tự phát chống quân xâm lăng. Kế thừa truyền thống đấu tranh của ông cha, nhân dân Nam Kì đã đầu tiên, hứng mũi chịu sào, chiến đấu với phong ba bão táp kéo dài suốt mười mấy năm dài, tên tuổi các sĩ phu yêu nước đáng được đề cao trong lịch sử như: Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Thông, Nguyễn Quang Bích, Nguyễn Xuân Ôn, Phan Văn Trị Phong trào chống thực dân Pháp sôi nổi, rầm rộ khắp cả nước, khi kinh thành Huế thất thủ. Vua Hàm Nghi ra sơn phòng xuống chiếu Cần Vương. Hưởng ứng lời kêu gọi đó các cuộc khởi nghĩa của nhân dân và sĩ phu nổ ra khắp nơi tiêu biểu như cuộc khởi nghĩa của Mai Xuân Thưởng, Bùi Điền ở Bình Định; Trần Văn Dự, Nguyễn Huy Hiệu ở Quảng Nam; Phan Đình Phùng, Lê Ninh ở Hà Tĩnh; Nguyễn Xuân Ôn, Lê Doãn Nha ở Nghệ An; Đinh Công Tráng, Phạm Bành, Tống Duy Tân ở Thanh Hóa Nhân dân cả nước quật cường nhưng thế nước không sao cứu vãn nổi. Mặc dù cuộc chiến tranh của nhân dân ta là chính nghĩa nhưng do nhiều nguyên nhân cuối cùng đều thất bại. Thực dân Pháp đã kí với triều đình nhà Nguyễn nhiều hiệp ước, thương ước xác lập sự có mặt hợp pháp của chúng trên đất nước ta. Đặc biệt, hai hàng ước 1883 và 1884 đã chính thức công nhận nền đô hộ của thực dân Pháp trên toàn lãnh thổ Việt Nam. Sau khi bình định trên toàn cõi Việt Nam, thực dân Pháp tiến hành củng cố toàn bộ máy chính quyền, thực hiện chương trình khai thác thuộc địa. Từ đây, một xã hội thực dân nửa phong kiến hình thành dần thay thế hình thái xã hội phong kiến. Tiếng súng Cần Vương tắt dần, cuộc chiến đấu không có phương hướng, nhưng lòng yêu nước của nhân dân ta không bao giờ tắt, không bốc 7
  13. lên thành ngọn lửa thì nó cháy âm ỉ trong lòng, để chờ một ngọn gió mới nó lại bùng lên mạnh mẽ. Đó là ngọn lửa từ Trung Hoa, Nhật Bản thổi đến, đặc biệt là từ nước Nga cách mạng tháng mười thổi về và cuộc chiến đấu của dân tộc bước sang một giai đoạn mới. 1.1.2. Tư tưởng thời đại Giai đoạn cuối thế kỉ XIX là giai đoạn lịch sử Việt Nam có những biến đổi hết sức to lớn. Thực dân Pháp xâm lược và biến nước ta thành xã hội thuộc địa nửa phong kiến. Chế độ phong kiến Việt Nam cùng với hệ tư tưởng Nho giáo ngày càng tỏ ra bất lực trước yêu cầu của công cuộc chống giặc ngoại xâm vì nền độc lập dân tộc. Sự biến đổi về tình hình xã hội kéo theo sự biến đổi về tư tưởng thời đại. Lúc này, ở Việt Nam diễn ra sự va chạm giữa hai nền văn minh Á - Âu giữa văn hóa Nho giáo và văn hóa Kitô giáo, giữa tư tưởng Nho giáo với các triết thuyết và khoa học phương Tây. Trước sự va chạm đó, đời sống tư tưởng của Việt Nam mang nhiều đặc trưng riêng so với tư tưởng của các giai đoạn trước đó. Đồng thời có tác động mạnh mẽ đến đời sống tinh thần của nhân dân. Triều đại nhà Nguyễn lên ngôi đã đưa Nho giáo lên vị trí là hệ tư tưởng thống trị độc tôn trong đời sống tinh dân tộc. Triều đình tôn sùng Nho học, xem Nho giáo là quốc giáo, lợi dụng tôn giáo là công cụ để thống trị xã hội Khổng, Mạnh, Trình, được xem là những vị thánh. Sách vở của họ là thiên kinh địa nghĩa. Học trò đi thi chỉ học thuộc một số câu, đoạn trong sách vở Điều này làm hạn chế óc sáng tạo của con người. Đời sống văn hóa hết sức lạc hậu. Vua và triều đình chỉ biết có Tứ thư, Ngũ kinh, cho rằng bất luận vấn đề lớn nhỏ nào cũng được giải đáp trong đó. Ngoài nho giáo, thì Đạo giáo, Phật giáo và các tín ngưỡng khác ngày càng suy giảm và đi vào đời sống nhân dân trên phương diện tôn giáo. Điều đó khiến cho đời sống tư tưởng chính thống có phần nghèo nàn hơn so với thế 8
  14. kỉ trước. Và đến cuối thế kỉ XIX, cuộc xâm chiếm bành trướng của thực dân Pháp vào Việt Nam đã khiến cho bức tường thành ý thức hệ Nho giáo bị lung lay tận gốc rễ. Nho giáo tỏ ra bất lực trong vai trò và đường lối dẫn dắt dân tộc bảo vệ đất nước trước một kẻ thù hoàn toàn mới về ý thức hệ và nền văn hóa. Do tác động của bối cảnh lịch sử, những vấn đề được đặt ra là vấn đề về chính trị tôn giáo với xã hội mới, giữa đường nối bảo thủ với canh tân. Khuynh hướng bảo thủ là khuynh hương chính thống của nhà vua và một số quan lại trong triều đình. Họ kiên quyết bác bỏ và lên án mọi sự “đổi mới”. Một bộ phận trí thức, quan lại sau khi tiếp xúc với văn minh phương Tây, đã đề cao xu hướng cải cách, mở cửa tiêu biểu là Nguyễn Trường Tộ, Phạm Phú Thứ, Nguyễn Lộ Trạch Đặc biệt cuối thế kỉ XIX, hệ tư tưởng Nho học suy vi cực độ. Biểu hiện qua những chủ trương chính sách phản động của triều đình nhà Nguyễn muc nát không thể cứu vãn nổi. Trong bối cảnh lịch sử lúc bấy giờ hệ tư tưởng Nho giáo chính thống có sự rạn nứt nghiêm trọng. Một bên là tư tưởng đầu hành, một bên là tư tưởng chiến đấu giữ nước. Phong kiến Việt Nam đã yếu đuối không giám dựa vào sức dân nên đã thất bại thảm hại. Khuynh hướng tích cực của các nhà canh tân bị vùi trong quên lãng đó là nguyên nhân khiến Việt Nam mất nước. Tóm lại trong thời đại suy vi của chế độ phong kiến, hệ tư tưởng phong kiến lâm vào tình trạng phân tán thành nhiều khuynh hướng khác nhau, thậm chí đối lập nhau, tiêu diệt lẫn nhau để cuối cùng đi đến tan rã. Hệ tư tưởng thời đại đã có tác động không nhỏ đến quan điểm sáng tác cũng như nội dung phản ánh trong các tác phẩm văn học nghệ thuật. Và Phan Văn Trị nhà thơ yêu nước đương thời tất nhiên cũng không tránh khỏi những ảnh hưởng của tư tưởng thời đại ấy. 9
  15. 1.2. Cuộc đời và sự nghiệp văn chương 1.2.1. Cuộc đời Là một nhân vật lịch sử xuất hiện trong giai đoạn Tây - Tàu lẫn lộn, tình hình chính trị trong nước rất rối ren nên cuộc đời và sự nghiệp của Phan Văn Trị cũng vô cùng phức tạp. Non một thế kỉ đã trôi qua đã không ít tác phẩm viết về Phan Văn Trị nhưng những câu hỏi rất căn bản, đại loại như Phan Văn Trị mất năm nào? quê quán ở đâu? thì chưa có tác phẩm nào trả lời đầy đủ và chính xác. Đó là một khiếm khuyết đáng tiếc, mà nếu trước kia vấn đề thực sự không có gì khó khăn lắm, thì ngày nay lại là một việc làm không dễ giải quyết. Hiện nay có rất nhiều ý kiến khác nhau về năm sinh năm mất cũng như quê quán của nhà thơ Phan Văn Trị. Theo cuốn Phan Văn Trị cuộc đời và tác phẩm của Nguyễn Khắc Thuần, Nguyễn Quảng Tuân - Nhà xuất bản trẻ thành phố Hồ Chí Minh xuất bản năm 2000 đưa ra một số ý kiến sau: Trước hết là về năm sinh năm mất của nhà thơ có 2 ý kiến được đưa ra. Ý kiến thứ nhất được bắt đầu của Nhất Tâm cho rằng Phan Văn Trị (1830- 1910) có thể chỉ là kế thừa mà không xem xét lại. Ý kiến thứ 2 là Huỳnh Minh là người duy nhất viết có khác chút ít về năm mất của Phan Văn Trị. Trong Gia Định xưa và nay, ông nói Phan Văn Trị sinh năm 1930 và mất năm 1908 nhưng cũng chưa đưa ra được căn cứ cụ thể Từ 2 ý kiến trên đều cho thấy là con số 1908 của Huỳnh Minh hay con số 1910 của Nhất Tâm đều không phải là con số chính xác nhất (và một số người khác sao chép lại) cũng đều không có sức thuyết phục. Vậy Phan Văn Trị sinh và mất năm nào? Theo chúng tôi khi chưa có một tài liệu nào đủ sức thuyết phục thì nên chưa vội kết luận. Nhưng cho dù Phan Văn Trị có ra đời trước năm 1930 nhiều, cho dù ông có được hưởng thọ hơn người, qua đời 10
  16. không phải vào năm 1910 mà là sau đó lâu hơn, thì trước và sau ông cũng thể hiện một cách trọn vẹn là con người của nửa sau thế kỉ XIX. Về vấn đề quê quán của Phan Văn Trị cũng có rất nhiều ý kiến khác nhau. Ý kiến thứ nhất, đây là ý kiến xuất hiện sớm nhất mà chủ xướng là các tác giả tham gia khảo cứu về thơ Phan Văn Trị trên 3 chục năm trước đây cho rằng ông sinh ra ở làng Hưng Thịnh (hoặc Hưng Thạch) tổng Bảo An, tỉnh Vĩnh Long. Ý kiến thứ 2: Phan Văn Trị sinh tại làng Thanh Hồng, tỉnh Gia Định. Chủ xướng ý kiến này là Nhất Tâm. Trong Lược truyện các tác gia Việt Nam, Trần Văn Giáp và nhóm biên soạn do ông chủ biên cũng nhắc lại tương tự và bổ sung thêm: làng Thanh Hồng, thuộc tổng Bảo An. Đối chiếu với bảng danh mục tên các làng xã ở đồng bằng sông Cửu Long từ thế kỷ XIX trở về trước, chúng tôi thấy rằng ý kiến này hoàn toàn không chính xác. Trước hết, trên toàn đất Gia Định lúc bấy giờ không hề có một làng nào là Thanh Hồng. Ý kiến thứ 3: cho rằng Phan Văn Trị sinh tại làng Hanh Hồng, tỉnh Gia Định người nêu lên ý kiến này là Thuần Phong tiếp đó là Bảo Định Giang và sau đó là tập thể các tác giả biên soạn Thơ văn yêu nước Nam Bộ nửa sau thế kỉ XIX, còn bổ sung thêm: Làng Hanh Thông thuộc huyện Bảo An, tỉnh Gia Định. Thực ra, tỉnh Gia Định chẳng hề có một huyện nào tên là huyện Bảo An. Làng Hanh Thông là một làng có thật có ít nhiều gắn bó với cuộc đời Phan Văn Trị, nhưng rõ ràng đó không phải là nơi của ông sinh ra. Ý kiến thứ 4: cho rằng Phan Văn Trị sinh tại Long Tuyền, Bình Thủy, Cần Thơ. Chủ xướng ý kiến này là ông Nguyễn Sanh Kim và cũng giống như nhiều người khác, ông chỉ nêu ý kiến mà không nêu cơ sở tư liệu cho ý kiến của mình. Chúng ta cũng có thể nói Cần Thơ là quê hương thứ hai của Phan Văn Trị, nhưng nếu phải chỉ rõ hơn, cụ thể hơn thì điểm chỉ định ấy phải là 11
  17. Phong Điền chứ không phải là Bình Thủy. Phan Văn Trị từng nhiều lần qua lại Bình Thủy, nhưng Bình Thủy không phải là nơi chôn nhau cắt rốn của ông. Một nhân vật nổi danh của đất Nam kì mà có tới bốn quê hương, bốn nguồn gốc khác nhau thật là một điều đáng tiếc. Vậy đâu mới là nguồn gốc thật cho quê quán Cử Trị? Theo như Quốc triều hương khoa lục của Cao Xuân Dục thì Phan Văn Trị quê ở làng Hưng Thạch, tổng Bảo An tỉnh Vĩnh Long, cũng theo sách này thì: Phan Văn Trị đỗ cử nhân khoa Kỷ Dậu năm Tự Đức thứ 2 (1849). Đây là khoa thi đặc biệt, vì chỉ có trường Gia Định thi còn các trường khác thì phải hoãn đến năm Canh Tuất (1850) vì cả nước bị bệnh dịch hoành hành dữ dội. Trong khoa thi này, trường Gia Định có tất cả 17 người đỗ cử nhân, Phan Văn Trị đỗ thứ 10. Có thể nói, đây là tài liệu đáng tin cậy. Bởi vì, chế độ thi cử nói chung và hệ thống học vị nói riêng ở nước ta đã trở nên chặt chẽ và chính quy từ nhiều thế kỉ trước. Những quy định như, “Bảo kế hương thí” (nghĩa là, các nhà chức sắc địa phương phải chịu trách nhiệm trước nhà nước về tư cách và phẩm chất đạo đức của thí sinh). “Cung khai tam đại” (nghĩa là phải khai rõ lí lịch 3 đời) và “Thông thân cước sắc” (giống như chứng minh thư nhân dân ngày nay của chúng ta, nhưng xưa nay “thông thân cước sắc” chỉ cấp cho những người đỗ cử nhân để họ cầm đi dự thi hội) được đảm bảo thực hiện thường xuyên trong đời Lê. Theo Phan Huy Chú thể chế thi cử thời Nguyễn bao hàm tất cả những quy định bổ sung đời Lê trung hưng và những điều khoản mới, do chính triều Nguyễn đặt ra. Trong khuân khổ của một chế độ thi cử chặt chẽ như vậy, lý lịch vắn tắt của Phan Văn Trị ghi trong Quốc triều hương khoa lục phải đảm bảo chính xác hoàn toàn. Điều đáng nói là sau khi đỗ đạt, nếu triều đình phát hiện ra sự man trá, thì chẳng những tên tuổi bị xóa mà chính bản thân họ cũng bị nghiêm trị. Trường hợp này đã xảy ra đối với cử nhân Phạm Duy Hàn, đỗ khoa Tân Sửu, năm Thiệu Trị thứ nhất (1841) mà không hề xảy ra với Phan Văn Trị. 12
  18. Tóm lại, Phan Văn Trị sinh ra tại thôn Hưng Thạch huyện Bảo An, phủ Hoàng An, trấn Vĩnh Thanh .Đến năm 1932 vua Minh Mạng đổi thành tỉnh Vĩnh Long, nay là xã Thịnh Phú Đông, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre. Thứ 3 về gia đình của Phan Văn Trị. Theo cuốn Biên khảo lịch sử Phong Điền Cần Thơ do ban huyện ủy huyện Phong Điền chịu trách nhiệm xuất bản năm 2007 có viết: Phan Văn Trị lập gia đình với một người con gái làng Nhơn Ái tên Đinh Thị Thanh là em cô cậu của Lê Quang Chiểu học trò của Phan Văn Trị. Ông bà Cử Trị sống trong ngôi nhà lá đơn sơ cất nhờ trên đất của dòng họ Lê Quang bên dòng rạch Cái Tắc cuộc sống đạm bạc. Ông bà sinh được 4 người con là Phan Thị Đào, Phan Văn Tòng, Phan Văn Đương và Phan Thị Mai. Cuộc sống của gia đình Cử Trị chật vật thiếu thốn bà Hai Cử thường đi giã gạo giúp cho các gia đình lân cận để kiếm gạo nuôi sống cả nhà, Cử Trị thì dạy học bốc thuốc độ nhật. 1.2.2. Sự nghiệp văn chương Là một nhà nho chính thống tưởng rằng sáng tác của nhà thơ Phan Văn Trị khá nhiều nhưng cho đến nay giới nghiên cứu mới sưu tầm được khoảng hơn 50 bài thơ Nôm (tính cả những bài tồn nghi). Có nhiều bài thơ ngụ ý châm biếm, mượn cảnh, mượn vật để bộc lộ thái độ khinh bỉ, phê phán kịch liệt đối với những kẻ tham lam vô liêm sỉ, hút máu dân lành để vinh thân phì gia (Con muỗi, Con rận), những kẻ hèn nhát chỉ giỏi nghề sách nhiễu nhân dân (Đồn lính trong làng), những kẻ lợi dụng thời cơ bám gót giày quân giặc để tàn hại đồng bào: Con cào cào, Đá cá lia thia, Kiến hôi cắn kiến vàng Ông cũng làm thơ để bày tỏ chí hướng, tâm sự của nhà thơ như : Hột lúa, Cái cối xay Thơ thể hiện sự bất mãn trước thời thế của Phan Văn Trị phần lớn làm sau khi thực dân Pháp xâm lược Nam kì, nói lên những nỗi uất hận của những người yêu nước trước thái độ hèn nhát của triều đình (Mất Vĩnh Long), nỗi đau xót trước tình thế đất nước tang thương, khẳng định lập 13
  19. trường chiến đấu và lòng tin vào sự nghiệp cứu nước của nhân dân (Cảm hoài, Bến An Giang, Chùa hư) Những bài thơ như: Hột lúa, Cái cối xay, Con cóc, Quán nước, Thợ may, Con mèo, Con cào cào, Mất Vĩnh Long, Bến An Giang, Tôn phu nhân quy Thục, Tự thuật, Cảm hoài, Tuyệt đại bộ phận thơ ca của Phan Văn Trị đều được viết theo thể thất ngôn bát cú. Tuy nhiên gần đây có nhiều sách báo cho rằng ông còn là tác giả của bài phú Gia Định thất thủ phú, nhưng chưa có dữ liệu chắc chắn nên người viết không tiện đưa vào. Và trong các tác phẩm của mình ông chỉ sử dụng duy nhất một thể loại chữ viết đó là chữ Nôm. Có lẽ vì thế mà thơ ông dễ đi vào lòng người và được đông đảo quần chúng đón nhận. Thơ Phan Văn Trị giản dị mà khỏe khoắn, hừng hực khí thế mà cũng thật trữ tình. Ông ít dùng những điển cố khó hiểu, thường vận dụng ngôn ngữ bình dân gần với lời ăn tiếng nói của nhân dân đậm chất Nam Bộ. Qua những bài thơ của mình Phan Văn Trị đã tỏ rõ là người có tầm nhận thức đầy đủ và sâu sắc về những vấn đề có ý nghĩa mấu chốt của thời đại. Thơ là vũ khí đánh giặc của ông. 1.3. Vị trí của Phan Văn Trị trong dòng văn học yêu nước Nam Bộ nửa cuối thế kỉ XIX Cuộc đời và tác phẩm của Phan Văn Trị đã gắn liền với giai đoạn lịch sử bi hùng của Nam Bộ nói riêng và của dân tộc ta nói chung trước sự xâm lăng của thực dân Pháp. Sự nhân nhượng cầu an của triều đình phong kiến đã tạo điều kiện cho giặc Pháp chiếm đóng Nam kì lục tỉnh, sao đó đánh vào Hà Nội và cuối cùng triều đình Huế phải đầu hàng nước ta trở thành thuộc địa của Pháp. Nhân dân bị triều đình bỏ rơi đã tự vũ trang chống giặc như: Trương Định, Nguyễn Trung Trực, Nguyễn Hữu Huân, Phan Liêm, Phan Tôn, Đinh Sâm Nếu như những người anh hùng nông dân khởi nghĩa cầm súng trực tiếp đánh giặc thì những sĩ phu yêu nước đã dùng ngòi bút của mình đã 14
  20. tấn công liên tục và không chút khoan nhượng nào với kẻ thù của dân tộc. Ở mặt trận trận này không có tướng chỉ huy nhưng lại có đông đảo những người lính, cam đảm, tài năng và giàu bản lĩnh chiến đấu. Số lượng và chất lượng thơ văn yêu nước trong thời kì này có giá trị như những vì sao sáng hiện lên giữa màn đêm âm u của đất nước. Sau một Nguyễn Đình Chiểu: Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà. (Than đạo) Là một Phan Văn Trị xông xáo tiến lên đánh địch như một dũng sĩ. Ngòi bút trong tay ông trở thành ngọn giáo nhằm thẳng vào bọn bán nước, đánh rất trúng, rất đau, khiến đối phương không cựa được. Đó là những bài thơ trữ tình như: Mất Vĩnh Long, Bến An Giang Những bài thơ ngụ ý châm biếm như: Con rận, Con mèo, Con muỗi Nhưng tên tuổi của ông được người đời nhắc đến phải kể đến cuộc bút chiến nảy lửa bằng thơ giữa Phan Văn Trị là người phát ngôn của lực lượng yêu nước, còn Tôn Thọ Tường là đại diện của bọn bán nước cầu vinh. Ở đây nếu Tôn Thọ Tường bị cô lập cao độ, thì ngược lại, Phan Văn Trị được sự hỗ trợ và tiếp sức mạnh mẽ của đông đảo sĩ phu yêu nước, của phong trào nông dân chống xâm lược. Với cuộc bút chiến này Phan Văn Trị là người tiên phong, mở đầu cho cuộc bút chiến bằng thơ của văn học yêu nước nửa cuối thế kỉ XIX. 15
  21. Chương 2 GIÁ TRỊ THƠ VĂN YÊU NƯỚC CỦA PHAN VĂN TRỊ 2.1. Thơ văn yêu nước của Phan Văn Trị nhìn từ phương diện nội dung 2.1.1. Chỉ trích bọn quan lại bán nước hại dân Văn học là dòng chảy không ngừng của thời gian, các nhà văn, nhà thơ là thư kí trung thành của thời đại. Sự nghiệp giữ nước gian khổ mà vinh quang, và ý thức trách nhiệm của người cầm bút đã đem đến cho văn học trung đại một cảm hứng lớn đó là cảm hứng yêu nước. Nội dung yêu nước như sợi chỉ đỏ xuyên suốt những áng văn thơ từ thời vua hùng dựng nước cho đến ngày hôm nay. Đến nửa cuối thế kỉ XIX khi Pháp sang xâm lược, truyền thống yêu nước vốn là truyền thống lâu đời của dân tộc lại có dịp bùng lên mạnh mẽ. Văn học được huy động nhằm góp sức vào cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc một cách triệt để, sức mạnh của văn chương lại được khai thác sử dụng một cách hữu hiệu, văn học trở thành bài thuốc tinh thần cổ vũ nhân dân đấu tranh. Ta bắt gặp một Nguyễn Đình Chiểu với những khúc ca bi tráng ngợi ca những con người nghĩa dũng trong buổi đầu kháng Pháp. Đồ Chiểu đã xây dựng thành công hình tượng người nông dân rất đỗi chân thực và đầy bi tráng, vừa hào hùng vừa đau thương. Những người nông dân ấy, họ sinh ra đâu phải để làm chàng Gióng Phù Đổng, Lê Lợi, Quang Trung mà họ là những con người quanh năm khoác trên mình màu áo nâu của đất, bình dị và lam lũ họ chính là những người “dân ấp dân lân” quanh năm “côi cút làm ăn, toan lo nghèo khó”. Hay một Nguyễn Xuân Ôn với những áng văn chính luận sắc sảo bác bỏ luận điệu sằng bậy của bọn quan lại, ông đã lên án cả một triều đình hèn 16
  22. đớn, lừa gạt nhân dân, không xứng đáng làm kẻ đại diện cho dân tộc. Đầu tiên là ông lên án bọn quan lại bù nhìn tham sống sợ chết, vô trách nhiệm: Thành trì phó mặc mấy thằng Tây Thế cũng cân đai mũ với giầy. (Cảm tác) Ông còn đả kích cả vua Tự Đức, ông vua chỉ biết ung dung săn bắn giữa lúc dầu sôi lửa bỏng: Bổng thỉ tang hồ chí tứ phương Tòng cầm nhật nhật đáo sơn dương Nha tường cẩm lạm thi lô kính Ngọc luyện kim dư trú thảo đường (Cảm tác) Hòa chung vào dòng văn học yêu nước kháng Pháp, Phan Văn Trị đã để lại một tiếng nói vô cùng sâu sắc. Những bài thơ của ông đã trực tiếp vạch trần bản chất của bọn quan lại bán nước hại dân đây cũng chính là một nội dung lớn trong thơ văn yêu nước của Phan Văn Trị. Trước nay những hình ảnh đưa vào thơ văn của văn học trung đại luôn là những hình ảnh có sức cuốn hút về thẩm mĩ và có sức thuyết phục về ý nghĩa. Nói về cây thường là “tùng, cúc, trúc, mai”, con vật thường là “long, ly, quy, phượng” , nói về con người là những người anh hùng hào kiệt, những tiểu thư khuê các. Vậy mà đi vào trang thơ của nhà thơ Phan Văn Trị là những con vật, những hình ảnh hết sức gần gũi đời thường như: Con mèo, Con rận, Con muỗi, Con cóc, Con cào cào, hay hột lúa, cái cối xay Sự xuất hiện lạ lùng của những hình ảnh xem ra có vẻ không có tính thẩm mĩ này lại kích thích mạnh mẽ trí tò mò của bạn đọc thể hiện một cách rõ nét cái tâm, cái tài của người nghệ sĩ. 17
  23. Ta bắt gặp hình ảnh một con vật tầm thường chuyên đi hút máu đó là con rận trong bài thơ cùng tên của ông, lời thơ mộc mạc chân thật mà hết sức tinh tế sâu cay. Mặt mũi như vầy cũng có râu, Trong đời chẳng biết dụng vào đâu. Hêu đòi trên mão chưa nên mặt, Lúc thúc trong chăn cứ rục đầu. Khuấy ngứa gầy dân chi khác mọt Rán công béo nước chẳng bằng trâu. Uống sanh cho nhộn trong trời đất, Có có không không cũng chẳng cầu. (Con rận) Trong một tác phẩm nghệ thuật, hình ảnh luôn giữ một vai trò quan trọng. Chính nhờ có hình ảnh mà sự vật hiện tượng trong đời sống hiện thực được tái hiện một cách sinh động, thể hiện raõ nét tài năng của người nghệ sĩ đối với con người và cuộc sống. Và trong bài thơ qua hình ảnh hình ảnh Con rận tác giả đã gián tiếp chỉ trích bọn quan lại, tay sai của thực dân Pháp chuyên hút máu dân lành như những con rận chuyên làm nhũng nhiễu nhân dân. Bọn chúng chẳng có tài cán gì, là một lũ vô dụng lúc nào cũng lên mặt với đời để hạch sách nhân dân. Hiện lên trên trang thơ của Cử Trị không chỉ là một hình ảnh con rận chuyên hút máu nhân dân mà còn là một hình ảnh con mèo xu nịnh, vẫn bằng bút pháp vịnh vật lấy con vật để nhằm chỉ một lũ quan nham hiểm thâm độc. Mấy tầng đài các sải chơn leo. Nhảy lẹ chi cho bằng giống mèo Chợt ngảnh mặt hùm nhìn trực thị, Chi cho lũ chuột dám vang reo. Vuốt nanh sẵn có vàng khoe sắc 18
  24. Vằn vện đành không bụi đóng meo Trăm tuổi hồn dầu về chín suối, Nắm lông để lại giúp trò nghèo (Con mèo) Ngòi bút của ông đã mạnh bạo chỉ thẳng vào bọn quan lại bất tài, dốt nát, hám danh hám lợi, bọn chúng chỉ có tài nịnh hót bất chấp tất cả những việc làm xấu xa bỉ ổi để có thể nhảy lên vị thế cao sang. Để đặc tả bức tranh xã hội đang đi vào mục ruỗng quan lại tranh giành quyền lực lân nhau chà đạp lên hai tiếng “đạo đức” để có thể thỏa mãn âm mưu thủ đoạn của mình thì tác giả đã mượn hình ảnh con cá thia thia: Dầm thấm mưa xuân trổ mấy màu Vì tài, vì sắc mới kinh nhau. Đua chen hai nước toan giành trước, Lừng lẫy đôi hơi chẳng chịu sau. Mường tượng rồng đua nơi biển thẳm, Mỉa mai cù dậy dưới sông sâu. Thở hơi sóng dợn nhăn lòng nước, Mắt thấy ai ai cũng cúi đầu. (Cá thia thia) Ta thấy hiện lên trang thơ của ông là hình ảnh con cá thia thia (có vùng người ta gọi là cá lia thia hoặc là cá thia) là một loài cá nước ngọt, vây nhiều màu, người ta bắt nuôi và cho trọi nhau. Trong tình cảnh đất nước đang trong cơn biến loạn, những bậc quan phụ mẫu của nhân dân đáng nhẽ ra chúng phải lo cho vận mệnh của dân của nước ấy vậy mà chúng lại tranh dành quyền lực lẫn nhau mà làm hại đến cả đồng bào, tàn phá quê hương xứ sở của mình, để trục lợi cá nhân. 19
  25. Và mượn hình ảnh con kiến, trong bài Kiến hôi cắn kiến vàng nhà thơ đã đả kích bọn theo Tây, dựa hơi Tây hống hách hại đồng bào: Kiến hôi bay hỡi dám to gan, Dụm miệng cùng nhau cắn kiến vàng Cậy thế quen nhành nên lấn lướt, Nhờ hơi nước đái chớ khoe khoang Nhưng theo Phan Văn Trị, sự thất thế của kiến vàng chỉ là tạm thời. Đến một lúc nào đó, kiến vàng sẽ “đeo hoa giỡn tráí ”: Đây còn thất thế rằng đây dại Đó ý đắc thời gọi đó ngoan Sau đặng đeo hoa cùng giỡn trái Đầu bay đái trả chớ than van ! (Kiến hôi cắn kiến vàng) Nhà thơ có niềm tin dân tộc ta sẽ đánh đuổi quân xâm lược. Quả đúng như lời nhận xét: “Sau Nguyễn Đình Chiểu, Phan Văn Trị xông xáo tiến lên đánh địch như một dũng sĩ. Ngòi bút trong tay ông trở thành ngọn giáo, nhằm thẳng vào bọn bán nước, đánh rất trúng, rất đau, khiến đối phương không cựa quậy được ”[7;12]. Bằng những bài thơ vịnh vật hết sức tinh tế, sâu cay Phan Văn Trị đã tát một cái tát thật dát vào bộ mặt bọn quan lại, bọn tay sai bán nước hại dân. 2.1.2. Bày tỏ chí hướng và tâm sự của nhà thơ Trước khi Pháp xâm lược nước ta, Phan Văn Trị đã đi nhiều nơi và gặp gỡ nhiều bạn bè cùng chí hướng để trang trải nỗi lòng. Ông làm nhiều bài thơ Nôm theo thể thất ngôn bát cú để gửi gắm tâm sự hoài bão và bày tỏ chí hướng của mình. Đó là những bài vịnh cảnh như: Hột lúa, Cái cối xay, Ông táo, Quán nước, Thợ may Qua những bài thơ trên, ta thấy nhà thơ lên án phê phán bọn vua quan phong kiến. Ông coi chốn quan trường là nơi bẩn thỉu, 20
  26. những kẻ làm quan cũng giống như người mò hến, lặn ngụp rồi khi trồi lên đầu cổ dính đầy rong rêu, cứt xáy. Phan Văn Trị đã làm hai câu thơ để vừa tả lại cảnh tượng ông chứng kiến khi đến kinh đô vừa bày tỏ quan điểm của mình về cái gọi là phong lưu, phú quý của vua quan chốn kinh kì đất Trường An. Phú quý Trường An - rong vấn cổ Phong lưu kinh địa - xáy đầy đầu. Chính bởi cái chốn quan trường nhơ bẩn nên tương truyền sau khi đỗ cử nhân khoa Kỷ Dậu (1849) ở trường thi Gia Định, Phan Văn Trị thấy triều đình nhà Nguyễn mục ruỗng nên không chịu ra làm quan, ông về quê bầu bạn cùng nhân dân. Những tháng ngày gần gũi với nhân dân ấy, khiến ông có nhiều cơ hội để được tâm sự với những người cùng chí hướng như ông. Năm 1851-1852, Phan Văn Trị có dịp hội kiến với Phan Thanh Giản người từng làm Nam kì kinh lược phó sứ. Với sự khẳng khái của một người trẻ tuổi, Phan Văn Trị mạnh dặn bày tỏ quan điểm của mình qua việc đọc bài thơ Hột lúa với ngụ ý không màng danh lợi, quyết một lòng vì dân vì nước: Giã từ đồng ruộng dạo xa chơi, Thiên hạ ai mà chẳng biết hơi, Cởi giáp vàng kia phơi chốn chốn, Bày da ngọc nọ rạng nơi nơi Ông cha giúp nước đà ghe thưở, Dòng giống nuôi dân biết mấy đời, Vì thì liều mình cơn nước lửa, Người đà có thấy hỡi người ơi. (Hột lúa) Phan Thanh Giản nghe qua liền thốt lên “Nhữ hà trách triều đình chi thậm” có nghĩa là sao ngươi có vẻ trách móc triều đình quá vậy. Nhưng để viết về triều đình lúc bấy giờ, những vần thơ trên của ông là hoàn toàn hợp lý. 21
  27. Bốn câu thơ đầu cho thấy tấm lòng dũng cảm trong sạch ngọc ngà của nhà thơ. Những câu thơ trên cho thấy ông đã từng sống thanh sạch đến nhường nào. Bốn câu thơ tiếp theo cho bạn đọc thấy công trạng hiển hách của dòng họ ông: Ông cha giúp nước đà ghe thuở, Dòng giống nuôi dân biết mấy đời Vì thế liều mình cơn nước lửa, Người đà có thấy hỡi người ơi. (Hột lúa) Tác giả đã mượn “Hột lúa” để kí thác tâm sự đồng thời để trách triều đình đã đối xử tệ bạc với dòng họ ông, một dòng họ đã “nuôi dân biết mấy đời” khi đất nước hiểm nguy sẵn sàng “liều mình cơn nước lửa” trải qua biết bao giông tố thăng trầm. Ở bài thơ này câu cuối tác giả đã hạ vần“ơi”. Hầu hết các bản dịch đều chép là “si”. Bản của Lê Quang Chiểu chép là: “Người đà nghe thấy hỡi người si” Chữ “người si” ở đây có nghĩa là “người ngu”. Tác giả trách móc triều đình là không biết đến công ơn của dòng họ ông. Giữa chốn quan trường tranh giành đoạt lợi, đấu đá lẫn nhau, Phan Văn Trị đã chọn cho mình một lối đi riêng đó là về chốn quê nhà, nơi có bầu rượu túi thơ, nơi có những người bạn cùng chung chí hướng, nhà thơ thả hồn mình trong những thú vui tao nhã như câu cá để quên đi muộn phiền. Người hỡi Nghiêm lăng có biết chăng Lòng ta ý gã đố ai bằng Nửa cần thú vị trờ trời nước, Một sợi phong lưu gió gió trăng. Thao lược đã đành ngàn dặm bủa, Giang san tóm nốc một tay phăng. 22
  28. Xưa nay cũng một lòng sông vị. Mơ tưởng xe Châu biếng nói rằng. (Đi câu) Nếu như Nguyễn Khuyến mượn thú đi câu để vẽ nên một bức tranh làng cảnh Việt Nam tuyệt đẹp. Qua đó thấy được tấm lòng nhà nho nặng tình với quê hương đất nước. Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt Ngõ trúc quanh co khách vắng teo Tựa gối ôm cần lâu chẳng được Cá đâu đớp động dưới chân bèo (Thu điếu) Thì Phan Văn Trị cũng hòa mình vào thiên nhiên, tâm sự cùng thiên nhiên nơi đó có: gió thổi, có trời, có nước, có hồ, có trăng. Quả thật thiên nhiên là nơi thanh lọc tâm hồn con người, nơi xua đi bao mưu toan tính toán, nơi hỗn loạn xô bồ. Qua bài thơ “Đi câu” người đọc thấy một cuộc đời thanh bạch, một tâm hồn thanh cao đáng trọng, không màng đến danh lợi của Cử Trị trước thời cuộc lúc bấy giờ. Từ khi Pháp nổ súng vào Đà Nẵng bắt đầu chiến tranh xâm lược nước ta (1858) cho đến khi Nam Kì lục tỉnh rơi vào tay Pháp (1867) Phan Văn Trị đã dùng ngòi bút của mình nói lên tâm sự đau xót trước cảnh nước mất nhà tan qua các bài như: Nước mất nhà tan, Bến An Giang, Mất Vĩnh Long, Nước lụt, Chùa hư Trong bài Mất Vĩnh Long ông viết: Tò le kèn thổi tiếng năm ba. Nghe lọt vào tai dạ xót xa . Uốn khúc sông Rồng mờ mịt khói, Vắng hoe thành phụng ủ sầu hoa. 23
  29. Tan nhà cám lỗi câu ly hận. Cắt đất thương thay cuộc giảng hòa. Gió bụi đòi cơn xô ngã cỏ , Ngậm cười hết nói nỗi quan ta. (Mất Vĩnh Long) Ngày 28 /3/1862, sau khi chiếm đóng ba tỉnh miền Đông Nam kì, giặc Pháp tấn công tỉnh Vĩnh Long và chiếm luôn tỉnh này. Sau vì cuộc điều đình của triều đình Huế, triều đình Huế đã nạp chiến phí cho Pháp và cũng vì một số khó khăn khác, Pháp đã rút khỏi Vĩnh Long. Nhưng 5 năm sau, ngày 20/6/1867 Pháp tấn công Vĩnh Long lần thứ 2 và chiếm hẳn miền đất này. Bài thơ đã thể hiện tâm trạng đau xót trước cảnh nước mất nhà tan của nhân dân cũng như chính của bản thân tác giả phải chứng kiến tận mắt cảnh nước nhà cắt đất trao giặc nỗi đau xót ấy không thể kìm nén Cử Trị đã phải thốt ra thành lời. Tâm trạng ngổn ngang trăm mối khi phải chứng kiến cảnh nước nhà đang hưởng cuộc sống yên bình thì nay bị kẻ thù xâm lược, hơn mọi lời Phan Văn Trị đã cất lên thành tiếng gọi đến những “đấng trung trinh”: Cõi Nam chung hướng hội thanh bình, Trời đất gây nên cuộc chiến tranh. Xe ngựa nhộn nhàng xe ngựa khách, Nước non vun quén nước non mình. Những trang dụng thế đành ngơ mặt, Mấy kẻ trung quân nỡ phụ tình Bao thuở đem về cơ nhất thống, Ngàn thu bia tạc đấng trung trinh.” (Cảm hoài I) 24
  30. Nước Việt ta có lịch sử ngàn năm dựng nước và giữ nước đầy gian lao nhưng vô cùng vẻ vang bất khuất. Chúng ta có quyền tự hào vì những gì ông cha ta đã gây dựng nên bằng biết bao xương máu, mồ hôi và nước mắt để rồi cũng có ngày “Cõi Nam chung hướng hội thanh bình” nhưng khi đang được hưởng cuộc sống thanh bình thì giặc Pháp xâm lược nước ta hơn bao giờ hết chúng ta rất cần những có đức có tài đứng lên giúp nước giúp đời. Vậy mà trong khi nước nhà lâm nguy, “Những trang dụng thế đành ngơ mặt - những đấng trung trinh nỡ phụ tình”. Phan Văn Trị đã cất lên lời kêu gọi tới những anh hùng hào kiệt. Bao thuở đem về cơ nhất thống Ngàn thu bia tạc đấng trung trinh (Cảm hoài I) Nước ta trải qua biết bao biến cố thăng tầm nhưng tình yêu nước luôn sục sôi trong huyết quản của những người con đất Việt, quyết chiến đấu hi sinh để lưu lại tiếng thơm muôn đời, như Đồ Chiểu từng viết: “Thác mà trả nước non rồi nợ, danh thươm đồn sáu tỉnh chúng đều khen, thác mà ưng đình miếu để thờ, tiếng ngay trải đời ai cũng mộ” (Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc) Cả Nguyễn Đình Chiểu và Phan Văn Trị đều nói đến quy luật sống chết ở đời “chết vinh còn hơn sống nhục”, “chết vinh” là cái chết vẫn giữ được sự trong sáng của tâm hồn, giữ trọn được khí tiết, thanh danh, được người đời tôn vinh nhớ mãi, “sống nhục” là hèn hạ, nhục nhã, phản bội, đầu hàng, bán rẻ lương tâm cho “ quỷ dữ”, làm điều ô uế,để lại tiếng nhơ bị người đời khinh bỉ. Lời tâm sự giăng kín nỗi lòng của một nhà nho yêu nước đã biến thành lời trách cứ tới những kế sách không hợp lí của những người cầm quân. Ông viết: Tay nâng há dám một mình đây Kẻ Bắc người Nam bấn dạ này 25
  31. Thế sự băng xăng cờ trúng nước, Nhân tình tráo chác gió rung cây. Giao hò bởi sợ mưu mô cạn, Cắt đất nên kiên trí lực dày. Ướm hỏi những người trên cõi Việt, Tấm lòng thiết thạch há như vầy. (Cảm hoài V) Bài thơ mang ý nói kế sách không thống nhất của triều đình nhà Nguyễn, khiến nhân dân như rắn mất đầu, giao động lung lay và đặc biệt bài thơ nói đến tư tưởng chủ hòa thắng thế lúc bấy giờ của triều đình, làm cho khí thế sẵn sàng đương đầu với kẻ thù của nhân dân, bỗng chốc bị nhấn chìm trong tư tưởng chủ hòa của vua quan điều này được chứng minh qua hàng loạt các hiệp ước liên tiếp được kí kết (1862, 1864, 1867) và thừa nhận quyền cai trị của Pháp tại Nam Kì. Trong 10 bài liên hoàn Cảm hoài của Phan Văn Trị đến bài Cảm hoài X đã thể hiện tâm sự cũng như chí hướng của người đang ẩn nhẫn chờ đợi thời cơ mới, giữ vững niềm tin vào tiền đồ tươi sáng của dân tộc. Môi khua khéo học dạng cầu vinh Tiêu trưởng cơ trời dễ dám khinh. Ấn hổ xa ban miền Bắc khuyết, Cờ chiên an dẹp mé Nam minh. Trăm năm bởi gặp khi nguy biến, Bốn biển chưa gậy cuộc diễm tình. Nhà nước một mai xoay vận thới, Cõi Nam chung hưởng hội thanh bình. (Cảm hoài X) 26
  32. Bài thơ như một niềm hi vọng sau bao biến cố thăng trầm, sự biến chuyển không ngừng của tự nhiên, của đất trời, nước nhà sẽ có ngày được độc lập, nhân dân được hưởng cuộc sống thái bình. “Cõi Nam chung hưởng hội thanh bình”. Qua việc bày tỏ chí hướng và tâm sự của nhà thơ cho ta hiểu hơn về tấm lòng trắng trong của một nhà thơ yêu nước luôn nặng lòng với dân tộc. Phan Văn Trị xứng đáng là một nhà nho yêu nước mẫu mực, một chiến sĩ kiên trung trong mặt trận văn hóa chống ngoại xâm. 2.1.3. Cuộc bút chiến giữa Phan Văn Trị và Tôn Thọ Tường Trong lịch sử văn học nước ta có rất nhiều cuộc bút chiến nảy lửa đã xảy ra, nhằm đấu tranh cho những quan điểm tư tưởng học thuật tiến bộ được nhiều người biết đến như: cuộc bút chiến giữa Ngô Đức Kế, Huỳnh Thúc Kháng với Phạm Quỳnh Luận về chính học cùng tà thuyết diễn ra vào giai đoạn 1924-1930 Cuộc bút chiến giữa nhà văn Mác Xít Hải Triều - Nguyễn Khoa Văn với Phan Khôi về Duy tâm hay duy vật và nhóm Hải Triều,Hải Khánh, Hải Phân, Hồ Xanh, Lâm Mộng Quang, Bùi Công Trừng với nhóm Hoài Thanh, Thiếu Sơn, Lưu Trọng Lư, Thiền Quang, Lư Tràng Kiều Dưới triều vua Tự Đức, khi thực dân Pháp chiếm Nam kì lục tỉnh, trên vùng đất Gia Định (Sài Gòn) cũng đã từng xảy ra một cuộc bút chiến nẩy lửa “một mất, một còn” giữa hai phe có quan điểm, tư tưởng đối địch. Một bên là sĩ phu yêu nước đại diện là Phan Văn Trị ủng hộ hết lòng cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta, một bên là bọn bồi bút bán nước đại diện là Tôn Thọ Tường. Tôn Thọ Thường sinh năm 1925, lớn hơn Phan Văn Tự 5 tuổi,nhưng đến năm 1955 mới thi hương mà không đỗ, Tôn Thọ Tường ra Huế xin lập ấp làm quan văn, triều đình lại bổ nhiệm y làm quan võ nên bất mãn bỏ về. Khoảng năm 1856-1857 Cử Trị cùng với Tường sang lập ra nhóm Bạch Mai 27
  33. thi Xã chọn Gò Lây Mai ở Gia Định làm nơi tụ họp những khoa bảng như tiến sĩ Phan Hiển Đạo, thủ khoa Bùi Hữu Nghĩa, cử nhân Huỳnh Mẫn Đạt, tú tài Nguyễn Đình Chiểu để cùng nhau ngâm vịnh và trao đổivăn chương. Đến năm 1862, sau khi chiếm Gia Định xong, Pháp kêu gọi sự hợp tác của các sĩ phu, Tôn Thọ Tường nắm lấy cơ hội ra mặt, được Pháp trọng dụng cho làm Tri phủ rồi sau đó leo lên chức Đốc phủ sứ. Tôn Thọ Tường có thể ngồi xe song mã để dạo chơi quanh các phố phường sầm uất ở Sài Gòn, và có thể thưởng thức mỹ vị cao lương, nhưng chính lúc ấy họ Tôn bị bao vây bốn phía và cô lập giữa nhân dân yêu nước, giữa rừng bút nhọn tua tủa xung quanh. Sự phản kháng mạnh mẽ của Phan Văn Trị với Tôn Thọ Tường được sự ủng hộ của rất nhiều bằng hữu cùng chí hướng với ông. Tương truyền có lần Cử Trị gặp Đồ Chiểu (Cụ đồ lớn hơn Cử Trị 8 tuổi) cả hai người cùng dùng cơm với mắm sống. Phan Văn Trị nói: “Thằng Tường làm quan lớn cho Tây , thiên hạ có người bảo rằng nó coi vậy mà khôn. Còn tôi như vầy, có kẻ lại bảo tôi khùng. Anh nghĩ coi: khùng thì khùng chớ . Di Tề nào Khứng giúp Châu. Một mình một núi ai hầu hơn ai!”[1;52] Nghe Phan nói dặm lại hai câu thơ trong truyện Lục Vân Tiên của mình, Nguyễn Đình Chiểu cười xòa. Sẵn đang gắp con mắm ông giơ lên: “Tây đâu biết ăn mắm sống. Thằng Tường theo Tây đã quen mùi bơ sữa với bánh mì rượu chát chắc không còn ăn mắm sống như chúng ta nữa đâu. Còn ăn mắm sống là không theo Tây được” [1;52] Ngòi bút của Phan Văn Trị rất đanh thép, liên tiếp tấn công Tôn Thọ Tường qua các bài họa lại những bài thơ do Tôn làm ra để biện minh cho thái độ và hành động theo giặc của mình như bài Từ thứ quy Tào, Tôn phu nhân quy thục và mười bài tự thuật. 28
  34. Có lẽ, cả cuộc đời Phan Văn Trị, người mà ông căm giận và “ghét cay, ghét đắng” chính là Đốc phủ sứ Tôn Thọ Tường. Ngoài cuộc bút chiến nổi tiếng trên văn đàn nửa sau thế kỉ XIX giữa cụ Phan Văn Trị và Tôn Thọ Tường với 10 bài tự thuật, thì trong các bài thơ độc lập, cụ Cử cũng “chửi xối xả” tên “bán nước cầu vinh” này. Phan Văn Trị đã dùng hình ảnh con trâu chỉ có sức mạnh mà không có trí óc, dễ bị người khác sai khiến làm điều ngu dại mà ngẫm chỉ Tôn Thọ Tường: Mắc mưu đốt đít tơi bời chạy Làm lễ bôi chuông dớn dát sầu Nghé ngọ ra đời quen nghé ngọ Năm dây đàn khẩy biết nghe đâu.” (Con trâu) Phan Văn Trị dùng điển tích Trung Quốc “mắc mưu đốt đít”. Điền Đan là tướng nhà Tề đã dung “hỏa ngưu trận” để đánh nước Yên đeo gươm vào sừng, buộc cỏ khô vào đuôi trâu rồi đốt.Trâu bị nóng, lồng lộn xông vào trận chém, húc điên cuồng. Cụ Cử cho rằng Tôn Thọ Tường cũng bị Pháp dùng như vậy. Tôn Thọ Tường ra làm tay sai cho Pháp, có ý bào chữa cho mình, nên ông đã làm mười bài thơ liên hoàn với nhan đề là Tự thuật: Phan Văn Trị đã họa lại và đã vạch mặt kẻ phản nước, làm tôi tớ cho địch. Giang san ba tỉnh hãy còn đây, Trời đất chi xui đến nỗi này. Chớp nhoáng thắng bn dây thép kéo, Mây tuôn đen kịt khói tàu bay. Xăng văng chậm tính thương đòi chỗ, Khấp khởi riêng lo biết những ngày. Miệng cọp hàm rồng chưa dễ chọc, 29
  35. Khuyên đàn con trẻ chớ thày lay. (Bài tự thuật 1) Hơn thua chưa quyết đó cùng đây, Chẳng đã nên ta phải thế này Bén Nghé quản bao cơn lủa cháy, Cồn Rồng mặc muội tro bay. Nuôi muộng giết thơ còn chờ thuở Buổi lưới săn nai cũng có ngày. Đừng mượn hơi hùm rung nhát khí Lòng ta gang đá há lung lay. (Bài họa bài tự thuật 1) Phan Văn Trị đã làm cho Tôn Thọ Tường lộ mặt là tiểu nhân, không đáng mặt trượng phu, thấy bọn xâm lực Pháp mạnh vội quy phục, lúc đất nước tan hoang vì súng đạn của giặc thì chỉ biết tìm sự sống cho bản thân bất kể thân danh: Kể chi danh phận lúc tan hoang Biên rộng trời cao nghĩ lại càng. Lên núi bắt hùm chưa dễ láo Và song đánh cá há rằng oan. Người trương mắt ngáo đôi tròng bạc Kẻ ưa gan trung bảy lá vàng Chiu chít thương bầy gà mất mẹ Cũng là dám khổ gắng khoe khoang” (Tự thuật IV) Tôn Thọ Tường muốn thanh minh rằng, ông cho rằng việc ông ra làm việc cho Pháp chẳng qua là thương dân như thương bầy gà mất mẹ, những luận điệu xảo trá ấy liền bị Phan Văn Trị họa lại rằng: Thân danh chẳng kể thiệt thằng hoang 30
  36. Đốt sáp nên tro lụy chẳng càn Hai cửa tram anh xô sấp ngửa, Một nhà danh giáo xáo tan oan Con buôn khấp khởi chưa từng ngọc Người khó xăng văng mới gặp vàng. Thương kẻ đồng văn nên phải nhắc Dễ ta đâu dám tiếng khoe khoang. (Bài họa số IV) Tôn Thọ Tường cứ nghĩ rằng tung hỏa mù bằng những luận điệu quanh co, lấp lửng có thể làm cho đối thủ không lần được mối, có thể che đậy tất cả những việc làm sai trái của mình nhưng Phan Văn Trị đã lần lượt bẻ gãy tất cả những gì mà họ Tôn giương ra. Giọng điệu Tôn Thọ Tường càng xảo quyệt bao nhiêu thì ngòi bút cả Phan Văn Trị càng đanh thép, sắc sảo bấy nhiêu: Hãy chớ bôn chôn việc cửa nhà, Sau này còn nghĩ lỗi đàng xa Ma duồng cơn ngặt lung hai trẻ Trời mỏn long thương xót một già Lái đã vững vàng cơn sóng lượn Thoi toan đan dệt lúc mưa xa Ở đời há dễ quên đời nặng Tính thiệt so hơn cũng gọi là. (Bài tự thuật VI) Ý Tôn Thọ Tường nói là tình hình đã đến lúc nguy ngập, vậy đừng nên làm những việc không thể làm được đó mới là hiểu biết và biết toan tính trong đời. Những luận điệu ấy liền bị Phan Văn Trị họa lại, ông coi Tôn Thọ Tường như ếch ngồi đáy giếng: Bôn chôn cũng bởi bận vì nhà 31
  37. Dám trách người xưa chẳng tính xa Hăm hở hãy đang hăng sức trẻ Chìu lòn e cũng mởn hơi già Nồi thơm cá quý câu không nhạy Cung yếu chim cao bắn chẳng sa Đáy giếng trông trời trương mắt ếch Làm người như vậy cũng rằng là. (Bài họa VI) Và đặc biệt trong bài “Tôn phu nhân quy thục” Tôn Thọ Tường đã mượn tâm sự của người con gái đất Giang Đông đi lấy chồng ở đất Thục, để phân trần việc ông ra hợp tác với Pháp: Cật ngựa thanh gươm vẹn chữ tùng, Ngàn năm rạng tiết gái Giang Đông. Lìa Ngô bịn rịn chòm mây bạc, Về Hán trau tria mảnh má hồng. Son phấn thà đem dày gió bụi, Đá vàng chi để thẹn non sông. Ai về nhắn với Châu Công Cẩn, Thà mất lòng anh đặng bụng chồng. (Bài xướng của Tôn Thọ Tường Tôn phu nhân quy Thục) Mấy chữ “Cật ngựa thanh gươm” trong câu thơ trên, Tôn Thọ Tường làm cho ta hình dung lại cảnh Tôn Phu Nhân cầm gươm lên ngựa lìa bỏ đất Ngô để về Linh Châu với Lưu Bị. Những chữ này cũng nhắc việc Tôn Phu Nhân đứng ra ngăn cản quân Ngô, phá tan mưu kế của Châu Du để cứu chồng. “Ngàn thu rạng biết gái Giang Đông”, hành động như thế, Tôn phu nhân là theo lẽ phải, đúng với giáo lí tam tòng của đạo Nho. Danh tiết của người con gái đất Giang Đông nhờ đó được sáng chói muôn đời. “Lừa ngô 32
  38. bịn rịn chòm mây bạc”. Ra đi theo chồng để làm tròn bổn phận làm vợ trong một hoàn cảnh rất éo le, bảo sao Tôn Phu Nhân không nhớ đến quê hương, lìa mẹ già và người anh đáng kính đẻ theo chồng về đất Thục. Tôn Phu Nhân không dằn được nỗi nhớ nhung, luyến tiếc “Về Hán trau tria mảnh má hồng”. Trong cảnh não lòng ấy, nhưng Tôn Phu Nhân vẫn phải lo tròn bổn phận của người “sửa túi nâng khăn” dù biết rằng đức ông chồng của mình là một người thù của anh, của quê hương mình: Son phấn thà đem dày gió bụi, Đá vàng chi để thẹn non song. Đã trao thân gửi phận cho Lưu Bị rồi thì sướng khổ cùng chịu, theo chồng về đất Thục dù có nhan sắc có tàn phai theo năm tháng, Tôn Phu Nhân không thể nào lỗi đạo làm vợ được: Ai về nhắn với Châu Cồng Cẩn Thà mất lòng anh đặng bụng chồng. Tôn phu nhân lại nhắn với kẻ tạo ra cuộc tình duyên bất ngờ ấy là Châu Công Uẩn rằng: “Thà mất lòng anh, chứ không thể phụ nghĩa chồng” Dùng điển tích Tôn Phu Nhân để thanh minh việc làm của mình và để giới sĩ phu đương thời hiểu rõ tâm trạng của mình Tôn Thọ Tường đã chia ra một đề tài trái hẳn với chủ đích của ông. Dù hắn có cố mượn lớp “phấn son” của người con gái đất Giang Đông “ngàn thu rạng tiết” để bào chữa cho việc theo Pháp của ông cũng không đựơc mọi người tán thành. Vì một lẽ rất đơn giản và dễ hiểu Tôn Phu Nhân không thể là ông Đốc phủ sứ Tôn Thọ Tường dù cả hai cùng họ. Đã là kẻ sĩ, Tôn Thọ Tường tất nhiên phải hiểu rõ nhiệm vụ của bậc sĩ phu trong cơn quốc biến. Trong khi toàn dân đang nỗ lực chống xâm lăng thì Tôn Thọ Tường lại ra hợp tác với Pháp, bán nước cầu vinh, thì không thể có lí do gì để biện bạch cho hành động của mình. 33
  39. Họa lại nguyên văn bài “Tôn phu nhân quy thục” của Tôn Thọ Tường, Phan Văn Trị châm biếm và mỉa mai hành động ra hàng người Pháp của họ Tôn. Đứng về phương diện đạo lý Phan Văn Trị tán thành việc làm của người con gái đất Giang Đông, theo chồng để vẹn đạo tòng phu, tròn danh tiết Phan Văn Trị đã xướng họa: Cài trâm sửa trắp vẹn câu tùng Mặt giã trời chiều biệt cõi Đông. Ngút tỏa vầng Ngô un sắc trắng, Duyên về đất Thục đượm màu hồng. Hai vai tơ tóc bền trời đất, Một gánh cang thường nặng núi sông. Anh hỡi Tôn Quyền anh có biết, Trai ngay thờ chúa, gái thờ chồng. (Bài họa Tôn phu phân quy Thục) Phan Văn Trị có dụng ý muốn cho Tôn Thọ Tường biết là bà Phu nhân họ Tôn cũng như bao nhiêu người con gái khác “xuất giá tòng phu” thì phải “cài trâm sửa áo”chứ không thể “Cật ngựa thanh gươm”, Cử Trị đã ngầm bảo với họ Tôn, ông đã theo người Pháp, chịu hàng kẻ thù thì nên “chỉnh tề khăn áo” chứ có oai vệ nỗi gì mà “cưỡi ngựa đeo gươm”. Phan Văn Trị cho ta thấy Tôn Phu Nhân từ giã quê hương vào một buổi chiều tà, bị bao trùm một màu ảm đạm thê lương. Dùng những chữ “Mặt ngả trời chiều”. Tác giả muốn nói đến cảnh đau thương của dân tộc đang đắm mình trong khói lửa chiến tranh. Cử Trị muốn cho họ Tôn nhớ rằng người con gái đất Giang Đông đã lìa quê hương trong một hoàn cảnh đau buồn chứ không phải được “rạng tiết gái” cũng như họ Tôn đã đang tâm theo Pháp trong khi nước non suy tàn, như vậy sao gọi là rạng rỡ: Ngút tỏa đồi Ngô un sắc trắng 34
  40. Duyên về đất Thục đượm màu hồng. Hình ảnh những đám mây trắng vào một buổi chiều thu nắng nhạt gợi nên trong lòng người ly hương mối sầu viễn xứ. Tác giả muốn ám chỉ việc họ Tôn theo Pháp trong lúc đất nước điêu tàn, nhân dân lầm than trước họa xâm lăng để hưởng sự vui sướng cho thân mình. Phan Văn Trị nói thẳng với họ Tôn Thọ Tường rằng: “Tôn Phu Nhân đã vẹn hai vai tơ tóc” và chọn đạo thờ chồng. Còn ông, ông theo về phái giặc có giữ được “gánh cương thường” không? Nếu không, ông đã bất trung với Vua, bất nghĩa đối với dân tộc, vậy còn khoe khoang đạo nghĩa làm gì? Ông là người bất chính và khẳng định với Tôn Thọ Tường rằng: Anh hỡi Tôn Quyền anh có biết, Trai ngay thờ chúa, gái thờ chồng. Phan Văn Trị đã khen Tôn Phu Nhân đã giữ chọn đạo nghĩa và trực tiếp chê trách Tôn Thọ Tường. Gái tiết hạnh phải làm tròn bổn phận người vợ hiền, trai ngay phải trọn đạo làm tôi với chúa. Sau đó Tôn Thọ Tường lại làm một bài ngụ ý nữa, tự ví mình như Từ Thứ bất đắc dĩ phải theo Tào, nhưng không theo thật lòng nên chỉ ngậm miệng không giúp Tào bất cứ việc gì. Thảo đâu dám sánh kẻ cày voi Muối xát lòng ai nấy mặn mòi Giúp Hớn hãy nhiều trang cột cả, Về Tào chi sá một cây còi, Bâng khuâng nhớ mẹ khôn nâng chén, Bát ngát thương vua biếng giở roi. Chẳng đặng khôn Lưu thà dại Ngụy, Thân này chi sá ngoại vòng thoi. (Bài xướng của Tôn Thọ Tường Từ Thứ quy Tào) 35
  41. Ý Tôn Thọ Tường nói tuy không giám bảo mình yêu nước như ai, song nước nhà còn nhiều người xứng đáng, thì một người xoàng như mình có theo Tây thì cũng chẳng đi đến đâu. Tuy theo Tây nhưng vẫn cho là mình vẫn nhớ đến nước đến vua. Họ Tôn nghĩ rằng chẳng được khôn với ở nước mình thì về Tây làm kẻ dại, từ nay xin đứng ngoài vòng quốc sự. Phan Văn Trị đáp lại ngay: Quá bị trên đầu nhát búa voi, Kinh luân đâu nữa để khoe mòi. Xăn văn ruổi Ngụy mây ùn đám, Dáo dác xa Lưu gió thổi còi. Đất Hứa nhớ thân sa ngọt tủi, Thành Tương mến chúa nhẹ tay roi. Về Tào miệng ngậm như bình kín, Trân trọng lời vàng đáng mấy thoi. (Bài họa Từ Thứ Quy Tào) Các ông đã theo Pháp ùn ùn như mây kéo, vận nước nghiêng ngả các ông tránh xa đầu hàng theo giặc lại còn mượn cớ ngụy biện. Phan Văn Trị đã đẩy Tôn Thọ Tường lùi sát vách, làm cho tên tráo trở này lúng túng hắn không thể chối quanh co được nữa, và cuối cùng đã phải tự thú: Trâu ngựa dẫu kêu chi cũng chịu Thân còn chẳng kể, kể chi danh Có thể nói rằng trong cuộc bút chiến có một không hai diễn ra trong thời điểm ba tỉnh miền Đông Nam Kì đã lọt vào tay giặc Pháp, Phan Văn Trị đã dành toàn thắng về phía mình, quật ngã Tôn Thọ Tường trước nhân dân và lịch sử. Đây không chỉ là một sự kiện văn học đầy ý nghĩa mà còn là một sự kiện chính trị quan trọng làm sáng danh tấm lòng cao đẹp trong những ngày nước mất nhà tan. 36
  42. Phan Văn Trị xứng đáng là người đại diện cho chính nghĩa của dân tộc. Thắng lợi của ông là thắng lợi của lòng yêu nước, chí căm thù quân cướp nước và bán nước cao độ, ông thắng còn bởi tinh thần dũng cảm của một chiến sĩ cầm bút không hề biết khuất phục trước bất cứ uy vũ, thế lực nào. Với phạm vi bài viết, không thể dẫn hết các bài xướng họa trong cuộc bút chiến này, nhưng qua đây chúng ta cũng thấy phần nào mức độ sâu rộng của cuộc bút chiến, cũng như tấm lòng của nhà thơ yêu nước Phan Văn Trị trước vận nước lâm nguy. Nội dung thơ văn yêu nước của Phan Văn Trị, như chúng tôi đã phân tích là tư tưởng, tình cảm, thái độ của Phan Văn Trị trước thời cuộc, là tấm lòng của thi nhân với Tổ quốc với nhân dân. Dù không tránh khỏi những tâm trạng đau đớn, xót xa nhưng hơn hết đó là tiếng nói mạnh mẽ dứt khoát của một sĩ phu yêu nước nhiệt thành, ông đã đánh một đòn thật đau vào bọn quan lại bán nước hại dân. Cùng với các sáng tác của tầng lớp sĩ phu yêu nước đương thời như: Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Quang Bích, Nguyễn Xuân Ôn, Nguyễn Thông Nội dung thơ văn yêu nước của Phan Văn Trị đã góp phần tạo nên khuynh hướng thơ văn tiến bộ mà soi qua đó, người đọc hôm nay thấy được bức tranh của đời sống tinh thần dân tộc trong buổi đầu chống thực dân Pháp xâm lược. 2.2. Thơ văn yêu nước của Phan Văn Trị nhìn từ phương diện nghệ thuật Tác phẩm văn học là một chỉnh thể thống nhất giữa nội dung và hình thức. Theo Kkrapchenko “Tác phẩm nghệ thuật đích thực, nhất là tác phẩm ngôn từ, bao giờ cũng là một phát minh về hình thức và một khám phá về nội dung” [5;204] . Hay G.N. Pospelev cũng viết: “Nội dung và hình thức của tác phẩm văn học là sự thống nhất của các mặt đối lập. Nội dung của tác phẩm thuộc về phạm vi đời sống và hoạt động tinh thần của con người, còn hình thức tác phẩm lại là một hiện tượng vật chất” [2;115]. Bởi vậy khi xem xét, 37
  43. tìm hiểu văn chương nói chung và thơ văn yêu nước của nhà thơ Phan Văn Trị nói riêng, chúng ta nên nhìn nhận từ hai góc độ nội dung và hình thức. Thơ văn yêu nước của Phan Văn Trị thuộc phạm trù văn học trung đại nên chịu ảnh hưởng của hệ thống thi pháp văn học trung đại. Trong khóa luận này chúng tôi xin trình bày giá trị nghệ thuật của thơ ca yêu nước Phan Văn Trị trên ba phương diện. 2.2.1. Bút pháp Bằng tinh thần yêu nước sâu sắc, dùng bút thay gươm xả thân vì nước. Phan Văn Trị cùng với những ngòi bút lừng danh đất Nam Kì đã để lại cho đất nước bao chiến công trên phương diện văn chương, họ đã đem đến cho dân tộc những đóa hoa thơm ngát nở rộ giữa những ngày thời tiết âm u, mưa to gió lớn, không ánh sáng mặt trời. Thơ Phan Văn Trị là một trong những đóa hoa đẹp nhất xuất hiện trong hoàn cảnh lịch sử tối tăm ấy. Là một nhà thơ với tâm hồn đầy nhiệt huyết, nặng lòng với nhân dân gắn bó với xã hội như Phan Văn Trị không thể dửng dưng trước những sự việc xảy ra xung quanh mình, không thể không nói lên tư tưởng, tình cảm của mình trước sự việc đó vì thế bút pháp ông sử dụng chủ yếu là bút pháp hiện thực. Ở bút pháp hiện thực Phan Văn Trị đã trực tiếp thể hiện nỗi đau của người dân mất nước trong nhiều bài “Cảm hoài” man mác tâm sự của nhà thơ. Âm thanh tiếng kèn Tây xa lại báo hiệu những đổi thay tang tóc hãi hùng trên quê hương. Nhà thơ vừa xót xa cho Tổ quốc vừa trực tiếp trách những kẻ quan lại vô trách nhiệm của triều đình phong kiến, để nhân dân phải rơi vào cảnh lầm than khổ cực: Tò te kèn thổi tiếng năm ba Nghe lọt vào tai dạ xót xa Uốn khúc sông rồng mù mịt khói, Vắng hoe thành phụng ủ sầu hoa. Tan nhà cám lỗi câu ly hận 38
  44. Cắt đất thương thay cuộc giảng hòa, Gió bụi đòi cơn xiên ngã cơ Ngậm cười hết nói nỗi quan ta. (Thất tỉnh Vĩnh Long) Hoặc cảnh An Giang sau khi lọt vào tay thực dân Pháp: Lênh đênh bèo nước biết là đâu Đậu bến An Giang thấy những rầu Bảy Núi mây liền chim nhíp cánh Ba dòng nước chảy có vênh râu, Có rau nơi quạnh dân xanh mặt. Không trái bần khô khỉ bạc đầu Xem hết phong tình rồi nghì nghị, Thú vui chỉ có một thuyền câu. (Bến An Giang) Tác giả đã dùng hình ảnh “Dân xanh mặt”, “Khỉ bạc đầu” để miêu tả hiện thực tiêu điều đói khổ của một vùng nông thôn bị giặc đến chiếm đóng và tàn phá, thật là đặc sắc. Trong kho tàng thơ văn yên nước những câu thơ như thế có thể nói là tuyệt bút. Bên cạnh ngòi bút hiện thực diễn tả sâu sắc hiện thực đen tối của đất nước lúc bấy giờ thì bút pháp trào phúng châm biếm như chiếc gậy đánh thẳng vào mặt bọn đầu trâu mặt ngựa, bọn phản bạn lừa thầy, ông đã lột mặt nạ giả dối của chúng , buộc chúng phải hiện nguyên hình đó là một đóng góp mang ý nghĩa thời đại to lớn của nhà thơ. Mắc mưu đốt đít tơi bời chạy Làm lễ bôi chuông dớn dát sầu Nghẹ ngọ già đời quen nghé ngọ Năm dây đàn gảy biết nghe đâu” 39
  45. (Con trâu) Thú chơi đá cá lia thia là một thú chơi dân dã, quen thuộc của người dân Nam Bộ được Phan Văn Trị đưa vào thơ. Nhìn cảnh đồng loại cắn xé nhau nhà thơ đau lòng thốt lên: Đồng loại sao ngươi chẳng ngỡ ngàng, Hay là một lứa phải nung gan Trương vi so đọ vài gang nước, Đấu miệng hơn thua nửa tấc gang (Đá cá thia thia) Nhà thơ đã mượn hình ảnh cá thia thia để chỉ trích bọn bán nước, bám gót thực dân, quay lại tàn sát, mưu hại đồng bào, tàn phá quê hương xứ sở. Ngòi bút trào phúng châm biếm của Phan Văn Trị đã chỉ thẳng vào mặt lũ quan tham, chuyên bóc lột dân nghèo. Nhà thơ ví chúng như lũ cào cào chuyên đi phá hoại mùa màng. Hại lúa bởi ngươi nên cắc cớ, Nhọc lòng cho kẻ đuổi lao xao Lời ngay giám hỏi quan lương thú Đuổi đó phòng toan tới chốn nào? (Con cào cào) Hình ảnh con muỗi hút máu con người cũng được dùng để ám chỉ bọn bán nước, bọn quan lại triều đình không đoái hoài đến sự đói khổ cùng cực của nhân dân: Béo miệng chẳng thương con trẻ dại Cành hông nào đoái chúng dân nghèo. (Con muỗi) Bằng bút pháp hiện thực và trào phúng châm biếm đã diễn tả một cách chân thực về bối cảnh nước ta cuối thế kỉ XIX, và đồng thời thơ Phan Văn Trị 40
  46. còn đánh không khoan nhượng vào thực dân và bè lũ tay sai bán nước. Trong cảnh nước mất nhà tan, thơ của cụ Phan Văn Trị không đơn thuần là thơ miêu tả mà còn mang tính chiến đấu kiên cường mãnh liệt. Điểm nổi bật trong thơ văn yêu nước của nhà thơ - nhà chí sĩ Phan Văn Trị là tinh thần dân tộc, lòng yêu nước thương dân vô bờ. 2.2.2. Thể thơ Trong quá trình thai nghén và sáng tạo văn học, mỗi nhà văn đều lựa chọn một phương thức biểu hiện phù hợp với đối tượng và năng lực tư duy, cảm thụ thẩm mĩ của mình. Việc nhà văn lựa chọn sáng tạo thể loại nào thì điều căn bản đầu tiên có ý nghĩa quyết định, làm nên sự thành công của tác phẩm chính là việc nắm được những đặc trưng của từng thể loại. Với nhà thơ yêu nước Phan Văn Trị thể loại duy nhất mà ông lựa chọn đó là thể thơ thất ngôn bát cú, một thể thơ thích hợp để bộc lộ tiếng nói, tình cảm, da diết mãnh liệt của nhà thơ trước hiện thực đời sống. Ông đã từng thốt ra những lời thơ đau đớn trước sự bất lực của nhà cầm quyền Việt Nam: Tò le kèn thổi tiếng năm ba, Nghe lọt vào tai dạ xót xa Uốn khúc sông rồng mù mịt khói, Vắng hoe thành phụng ủ sầu hoa, Tan nhà cám lỗi câu ly hận, Cắt đất thương thay cuộc giảng hòa, Gió bụi đòi cơn xiêu ngã cỏ, Ngậm cười hết nói nỗi quan ta. (Thất tỉnh Vĩnh Long) Hay còn là những lời thơ tỏ lòng phất uất về cảnh nước mất nhà tan, chỉ trích những người hợp tác với giặc, bán nước cầu vinh. Cõi Nam chung hưởng hội thăng bình, 41
  47. Trời đất gây nên cuộc chiến tranh. Xe ngựa nhộn nhàng xe ngựa khách, Nước non vun quén nước non mình. Những trang dụng thế đành ngơ mặt, Mấy kẻ trung quân nỡ phụ tình (Cảm hoài) Chúng ta có thể thấy rằng nếu như cùng thời với ông như Nguyễn Đình Chiểu, Huỳnh Mẫn Đạt, Bùi Hữu Nghĩa và cả Nguyễn Thông đều sáng tác với nhiều thể loại khác nhau thì Phan Văn Trị gần như chỉ có duy nhất một thể loại. Tuy nhiên gần đây có nhiều sách báo cho rằng ông còn là tác giả của bài phú Gia Định thất thủ phú, nhưng chưa có cơ sở dữ liệu chắc chắn nên người viết không tiện đưa vào. Với thể thơ thất ngôn bát cú Phan Văn Trị đã đưa những vần thơ yêu nước của mình trở nên đẹp đẽ bởi sự cân đối hài hòa, cùng những hình ảnh thơ gợi tả, tình ý sâu sắc. Điều đó làm cho ngòi bút thơ của ông như một vũ khí sắc bén, đấu tranh chống bọn tay sai mù quáng, hám lợi triều đình hủ bại yếu hèn và kẻ thù ngoại xâm tàn bạo của đồng bào. 2.2.3. Ngôn ngữ Ngôn ngữ thơ văn yêu nước Phan Văn Trị giản dị mà khỏe khoắn, hừng hực khí thế mà cũng thật trữ tình. Ông ít dùng những điển cố khó hiểu, thường vận dụng thứ ngôn ngữ giản dị gần gũi với lời ăn tiếng nói của nhân dân lao động. Ngôn ngữ quần chúng đưa tác phẩm của ông về gần với quần chúng. Nhờ có tiếng nói mang hơi thở và tâm huyết, thơ của ông được đồng bào, bạn tri âm tiếp nhận một cách hứng thú, không bị ngăn cách bởi bức tường điển tích của Trung Quốc. Khi Pháp chiếm Gia Định, Phan Văn Trị về Vĩnh Long với các sĩ phu yêu nước như: Đồ Chiểu, Bùi Hữu Nghĩa, Huỳnh Mẫn Đạt bất hợp tác với 42
  48. giặc. Khi đi qua Vĩnh Long, Trần Bá Lộc cho lính bắt Phan Văn Trị để dăn đe. Lộc bắt ứng khẩu làm một bài thơ. Cử Trị yêu cầu đầu đề, Lộc thô lỗ hống hách buông lời tục tĩu “cục cứt”. Cử Trị ném giận đọc ngay bốn câu. Đương cơn lộn xộn ló đầu ra Người thấy ai mà chẳng sợ va Cậy thế khom lung ngồi dưới đít Biết đâu sắp bị chó liền tha. Bài thơ tả đúng đầu đề không chê vào đâu được nhưng oái oăm thay nó cũng ám chỉ đúng con người của tên tay sai đắc lực cho Pháp là tên Trần Bá Lộc. Hắn nghe xong tái mặt, biết Cử Trị mượn bài thơ chửi xỏ mình xong y không có cách gì buộc tội Cử Trị được nên thét cho lính đuổi về. Cũng chính bởi thứ ngôn ngữ giản dị ấy mà đằng sau những con vật, sự vật tưởng như tầm thường như: con mèo, con rận, con cào cào, hột lúa, cái cối xay là cả một bầu tâm sự nhà thơ muốn gửi gắm. Qua đó Phan Văn Trị đã dùng ngòi bút trực tiếp của mình để phê phán, đánh vào bọn quan lại xu nịnh, chuyên bám gót thực dân để cầu vinh hưởng lộc bán rẻ lương tâm. Không quá trữ tình dạt dào như thơ của cụ Đồ Chiểu nhưng thơ của Phan Văn Trị đánh không khoan nhượng vào thực dân và bè lũ tay sai. Trong cảnh “nước mất nhà tan” thơ Phan Văn Trị là vũ khí chiến đấu đắc lực. Điểm nổi bật trong thơ của nhà thơ, nhà chí sĩ Phan Văn Trị là tinh thần dân tộc, lòng yêu nước thương dân. Ông đã chấp bút viết lên những vần thơ tuy giản dị nhưng gần gũi thân quen với người dân Nam Bộ và nhanh chóng được người đời tán tụng và được lưu truyền rộng rãi. Thơ ông là ngọn roi, là mũi giáo tấn công thực dân Pháp và bè lũ tay sai. Xuất hiện trong những bài thơ của ông là những hình ảnh biểu tượng, đặc trưng của xứ Nam Kì lục tỉnh xưa. Và đặc biệt là đại bộ phận thơ ca của Phan Văn Trị đều được viết bằng chữ Nôm, ngôn ngữ thơ của dân tộc, dễ đọc, dễ nhớ, dễ hiểu và dễ đi vào lòng 43
  49. quần chúng, được quần chúng đón nhận một cách hồ hởi. Không óng ả, mượt mà nhưng rất thực rất trong sáng những: con mèo, con rận, con cào cào, cái cối xay văn chương bác học ít dùng tới thì những hình ảnh ấy lại được tác giả sử dụng một cách tự nhiên để mắng vào mặt vua quan phong kiến tham lam, vô lại chuyên bòn rút của dân chứ không hề biết lo cho dân cho nước: Khuấy ngứa gầy dân chi khác rệp Ra công béo nước chẳng bằng trâu (Con rận) Hay: Mấy tầng đài các sải chon leo, Nhảy lẹ chi cho bằng giống mèo. (Con mèo) Bằng ngôn ngữ thơ vừa mộc mạc chân thành, vừa sâu sắc tinh tế khiến cho những vần thơ nóng bỏng lòng yêu nước và sục sôi căm thù quân bán nước của cụ Cử Trị sống mãi trong lòng nhân dân Nam Bộ nói riêng và nhân dân cả nước nói chung. 44
  50. KẾT LUẬN Phan Văn Trị là một nhà thơ, nhà chí sĩ kiên cường sống trong giai đoạn lịch sử mà xã hội phong kiến Việt Nam đã lung lay tận gốc. Ông đã chứng kiến sự thật lịch sử thực dân Pháp xâm lược và triều đình nhà Nguyễn mục nát không còn chỗ dựa cho nhân dân. Phong trào kháng chiến chống Pháp cuối thế kỉ XIX phát triển sôi nổi một thời gian sau đó rời rạc, lẻ tẻ và không có điều kiện mở rộng. Nhưng điều đáng quý đáng trân trọng là Phan Văn Trị là một trong số ít những nhân vật thời bấy giờ đã vượt hẳn lên đám sĩ phu khoa mục trong quan trường bởi lẽ ông không quyết định làm quan mà sống bằng nghề dạy học và sáng tác thơ văn. Phan Văn Trị đã hòa mình vào cuộc sống của nhân dân, ông đã từng khổ cái khổ của nông dân trong thời bình, và cái khổ của người nông dân trong thời quân Pháp chiếm đóng Nam Kỳ lên ông đã thấm nhuần chủ nghĩa nhân đạo và xuyên suốt các trang thơ của ông là một tình yêu nước, thương dân dồi dào, da diết. Qua việc tìm hiểu, phân tích Tìm hiểu giá trị thơ văn yêu nước của Phan Văn Trị chúng ta thấy được nội dung thơ văn yêu nước của Phan Văn Trị chính là tâm sự, tấm lòng của nhà thơ với quê hương miền Nam trước cảnh “nước mất nhà tan”. Hơn thế nhà thơ còn dựng lên một bức tranh của nước ta cuối thế kỉ XIX đầy lũng đoạn với lũ quan lại chuyên vơ vét, đục khoét, bóc lột sức lao động của nhân dân. Đặc biệt một nội dung lớn trong thơ văn yêu nước của Phan Văn Trị là cuộc bút chiến nảy lửa giữa ông và tên Việt gian bán nước Tôn Thọ Tường. Lựa chọn hình thức nghệ thuật để biểu hiện nội dung thơ văn, Phan Văn Trị chịu sự chi phối của thi pháp văn học trung đại, qua việc sử dụng thể thơ thất ngôn bát cú với những quy định nghiêm ngặt vần đối Và với bút pháp hiện thực và bút pháp trào phúng châm biếm, ngôn ngữ thơ giản dị trong 45
  51. sáng mà đầy tinh tế, ông đã cho bạn đọc cái nhìn tổng quan về xã hội nước ta cuối thế kỉ XIX. Như vậy có thể thấy Phan Văn Trị là một nhà thơ cả cuộc đời không màng danh lợi, chẳng tham bổng lộc chức tước, ông đã có lối sống thanh bần và một tâm hồn thơ dạt dào tình yêu nước. Phan Văn Trị không chỉ là niềm tự hào của nhân dân Nam Bộ mà là niềm tự hào của cả dân tộc Việt Nam. Hàng trăn năm qua, đạo nghĩa và tài năng của nhà thơ, nhà chí sĩ yêu nước Phan Văn Trị mãi là ngọn đuốc sáng soi đường cho thế hệ ngày hôm nay, ngày mai và cả ngày sau nữa. Khi tìm hiểu giá trị thơ văn yêu nước của Phan Văn Trị, chúng tôi có đôi điều tâm sự: Nghiên cứu khoa học là một công việc làm khó đòi hỏi thời gian và trình độ của người tham gia. Là sinh viên khoa Ngữ Văn mới bước đầu tập dượt nghiên cứu khoa học, do đối tượng tiếp cận là nhà thơ chưa có sáng tác đưa vào chương trình phổ thông nên rất khó khăn về mặt tư liệu. Mặt khác về vấn đề thời gian còn hạn chế, khóa luận không thể tránh khỏi những thiếu xót về nội dung. Chúng tôi rất mong nhận được những ý kiến đóng góp, trao đổi của các thầy cô giáo và các bạn sinh viên. Hi vọng những đóng góp đó sẽ giúp chúng tôi sửa chữa khóa luận được hoàn thiện hơn và nhất là có được những kinh nghiệm, bài học trong nghiên cứu khoa học trên bước đường công tác phía trước. 46
  52. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Ban thường vụ huyện ủy huyện Phong Điền (2007), Biên khảo lịch sử Phong Điền Cần Thơ. 2. G. N. Pospelev (1997), Dẫn luận nghiên cứu văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 3. Lê Ngọc Hân (2007), Phan Văn Trị nhà thơ yêu nước bút sáng lòng trong, báo Đồng Khởi. 4. Đặng Duy Khôi (2015), Trăm vẫn sáng ngời đạo nghĩa, báo điện tử Cần Thơ. 5. M. B. Khrapchenko (1985), Sáng tạo nghệ thuật, hiện thực con người, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 6. Nguyễn Đăng Na - Lã Nhâm Thìn - Đinh Thị Khang (2006), giáo trình Văn học trung đại Việt Nam, Nxb Đại Học sư phạm Hà Nội. 7. Nguyễn Khắc Thuần, Nguyễn Quảng Tuân (2000), Phan Văn Trị cuộc đời và tác phẩm, Nxb trẻ thành phố Hồ Chí Minh. 8. Nguyễn Thanh (2016), Mãnh liệt ngòi bút thơ tranh đấu, Báo văn nghệ Việt Nam. 9. Nguyễn Thông (2010), Nhân vật chí tỉnh Vĩnh Long, Đài phát thanh truyền hình Vĩnh Long