Khóa luận Tìm hiểu giá trị nội dung và nghệ thuật truyện Phan Trần
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Tìm hiểu giá trị nội dung và nghệ thuật truyện Phan Trần", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- khoa_luan_tim_hieu_gia_tri_noi_dung_va_nghe_thuat_truyen_pha.pdf
Nội dung text: Khóa luận Tìm hiểu giá trị nội dung và nghệ thuật truyện Phan Trần
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA: NGỮ VĂN LÊ THỊ TÂY TÌM HIỂU GIÁ TRỊ NỘI DUNG VÀ NGHỆ THUẬT TRUYỆN PHAN TRẦN KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Văn học Việt Nam HÀ NỘI – 2016
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA: NGỮ VĂN LÊ THỊ TÂY TÌM HIỂU GIÁ TRỊ NỘI DUNG VÀ NGHỆ THUẬT TRUYỆN PHAN TRẦN KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Người hướng dẫn khoa học TS. NGUYỄN THỊ VIỆT HẰNG HÀ NỘI – 2016
- LỜI CẢM ƠN Khóa luận được hoàn thành dưới sự hướng dẫn của TS. Nguyễn Thị Việt Hằng, em xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cô cùng các thầy cô giáo trong khoa Ngữ văn đã tận tình giúp đỡ hướng dẫn em trong suốt quá trình triển khai đề tài. Hà Nội, ngày 05 tháng 05 năm 2016 Sinh viên Lê Thị Tây
- LỜI CAM ĐOAN Em xin cam đoan luận văn là kết quả nghiên cứu của bản thân dưới sự hướng dẫn của TS. Nguyễn Thị Việt Hằng. Kết quả luận văn không trùng khớp với các công trình nghiên cứu khác, nếu sai sót, em xin hoàn toàn chịu trách nhiệm. Hà Nội, ngày 05 tháng 05 năm 2016 Sinh viên Lê Thị Tây
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 1. Lí do chọn đề tài 1 2. Lịch sử vấn đề 1 3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu 3 3.1. Mục đích của khóa luận: 3 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu: 3 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3 4.1. Đối tượng nghiên cứu: 3 4.2. Phạm vi nghiên cứu 3 5. Phương pháp nghiên cứu 4 6. Đóng góp của khóa luận 4 7. Bố cục của khóa luận 4 NỘI DUNG 5 CHƯƠNG 1 5 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG 5 1.1. Tình hình văn hóa, tư tưởng thế kỉ XVIII đến nửa đầu thế kỉ XIX 5 1.2. Truyện Nôm và Truyện Phan Trần 8 CHƯƠNG 2 17 TRUYỆN PHAN TRẦN CA NGỢI TÌNH YÊU ĐÔI LỨA 17 2.1. Tình yêu và sự sắp đặt của khuôn khổ lễ giáo phong kiến 17 2.2. Tình yêu và sự phá vỡ rào cản của lễ giáo phong kiến 28 CHƯƠNG 3 38 TRUYỆN PHAN TRẦN VÀ MỘT SỐ PHƯƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT 38 3.1. Kết cấu 38 3.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật 41 3.3. Không gian, thời gian 48 3.4. Ngôn ngữ 50 KẾT LUẬN 59 TÀI LIỆU THAM KHẢO
- MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Có thể nói trong văn học Việt Nam trung đại, truyện Nôm giữ vị trí khá quan trọng không chỉ bởi số lượng tác phẩm còn được giữ gìn cho đến ngày nay mà còn bởi chất lượng và sức hấp dẫn của nó đối với nhiều thế hệ độc giả. Với kho tàng khá đồ sộ ấy, việc nghiên cứu tường tận từng tác phẩm đã lần lượt được giới khoa học lưu tâm, song vẫn còn những sáng tác chưa được đào sâu khai thác. Truyện Phan Trần là một ví dụ. Dân gian vẫn lưu truyền câu: “Làm trai chớ kể Phan Trần / Làm gái chớ kể Thúy Vân,Thúy Kiều”. Sở dĩ là như vậy, có lẽ là bởi sức hấp dẫn của câu chuyện tình yêu táo bạo và nồng cháy ngay chốn Thiền môn của đôi lứa. Trong khi Truyện Kiều được mổ xẻ đến từng chi tiết nhỏ thì Truyện Phan Trần dường như vẫn còn ở phía xa xăm đối với người đọc hiện đại. Điều này đòi hỏi cần có những công trình nghiên cứu riêng về tác phẩm, đưa nó về gần với những người quan tâm tới văn học truyền thống. Là một sinh viên khoa Ngữ văn học theo chương trình tín chỉ, thời gian trên lớp ngắn ngủi không đủ để có thể đi đến tận cùng mọi giá trị của mọi tác phẩm văn học Việt Nam trung đại. Việc nghiên cứu giá trị nội dung và nghệ thuật của Truyện Phan Trần là công việc vô cùng quan trọng góp phần bổ sung kiến thức của cá nhân. Những tiền đề khoa học và thực tiễn đã thôi thúc người viết lựa chọn đề tài: Tìm hiểu giá trị nội dung và nghệ thuật Truyện Phan Trần cho khóa luận của mình. 2. Lịch sử vấn đề Truyện Phan Trần là truyện Nôm khuyết danh được lưu truyền khá rộng rãi trong dân gian. Có nhiều công trình của các nhà nghiên cứu liên quan đến Truyện Phan Trần như vấn đề biên khảo, khía cạnh nội dung, 1
- nghệ thuật, vấn đề tôn giáo, tác giả, tác phẩm. Có thể kể đến một số công trình nghiên cứu như sau: Năm 1957, Hoài Thanh qua bài giảng ở đại học Hà Nội đã đưa ra những nhận xét, đánh giá sâu sắc về nội dung Truyện Phan Trần, trong đó xoáy sâu vào cốt truyện và tâm lý nhân vật. Góc độ ghi chép và khảo cứu, có thể kể tới công trình của Hội nghiên cứu văn học thành phố Hồ Chí Minh với Phan Trần truyện Nôm khuyết danh xuất bản năm 1998. Công trình nghiên cứu này đã cung cấp cho người đọc những thông tin bổ ích về phiên âm chữ Nôm và bản dịch chữ Quốc ngữ thông qua bảng so sánh sự khác nhau giữa bản tiếng Việt và bản chữ Nôm, để chúng ta có thể đối chiếu khi cần thiết. Giáo sư Trần Nghĩa với Truyện Phan Trần, xuất bản năm 2009 có thể xem là công trình nghiên cứu hoàn chỉnh cả về mặt văn bản và nội dung tác phẩm. Ông đã có những nghiên cứu sâu về nguồn gốc và những mặt sáng tạo của Truyện Phan Trần so với Ngọc Trâm ký của Trung Quốc. Bùi Giáng với công trình Một vài nhận xét về Truyện Kiều – Phan Trần – Thúy Vân – Chinh Phụ Ngâm – Quan Âm Thị Kính – Bà Huyện Thanh Quan đã đề cập tới một số khía cạnh của Truyện Phan Trần. Theo ông: “Tác giả Phan Trần đã rất thành công trong việc tạo nên một cuốn tiểu thuyết ý nghĩa. Nhân vật đưa ra không phải để ta thán phục mà để cho ta nhận rõ hình ảnh con người. Con người phù phiếm mà thiết tha, sâu xa mà vẫn cứ hời hợt. Con người trong khuôn phép còn giữ được sự trong sáng của tình cảm, còn cho phép tình cảm trào lộng đôi lần, tràn ra ngoài cương vực của lí trí, để thực hiện cái nguyện vọng hầu như thiêng liêng của kiếp người phù chi! [3,tr89] 2
- Nguyễn Cẩm Thúy và Nguyễn Phạm Hùng với Văn thơ Nôm thời Tây Sơn có đề cập đến Truyện Phan Trần, tuy nhiên, chỉ dừng lại ở mức độ nghiên cứu thể loại, chưa đề cập đến nội dung, nghệ thuật của tác phẩm. Giáo sư Nguyễn Lộc với Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỉ XVIII đến nửa đầu thế kỉ XIX đã bàn về khía cạnh tình yêu đôi lứa trong câu chuyện. Nhưng chỉ dừng lại ở mức độ so sánh, đối chiếu với tác phẩm khác cùng thời để thấy được khát vọng tìm đến một tình yêu tự do của đôi trai gái trong truyện. Có nhiều hướng khác nhau nghiên cứu về Truyện Phan Trần, tuy vậy chưa có công trình nào khái quát về giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm. Song, đây sẽ là những cơ sở quan trọng và cần thiết cho quá trình nghiên cứu của chúng tôi trong việc đi sâu khai thác tác phẩm ở mặt nội dung và nghệ thuật. 3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích của khóa luận: Nghiên cứu khái quát về giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm Truyện Phan Trần. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu: Làm rõ vấn đề tác giả và tác phẩm Phân tích những khía cạnh cơ bản về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu: Tác phẩm Truyện Phan Trần - Ở đây chúng tôi sử dụng văn bản trong cuốn Kho tàng truyện Nôm khuyết danh Việt Nam tập 1 – NXB văn học năm 2000 4.2. Phạm vi nghiên cứu Trong khuôn khổ của đề tài, chúng tôi tiến hành nghiên cứu giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm Truyện Phan Trần. 3
- 5. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp nghiên cứu văn học Sử - Phương pháp liên ngành - Phương pháp thống kê phân loại - Cùng các thao tác chứng minh, lập luận, phân tích tổng hợp. 6. Đóng góp của khóa luận Bổ sung vào tư liệu nghiên cứu Truyện Phan Trần một đề tài về giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm 7. Bố cục của khóa luận Khóa luận được triển khai theo ba phần: Mở đầu, Nội dung và Kết luận. Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, phần Nội dung được chia theo bố cục ba chương: - Chương 1: Những vấn đề chung - Chương 2: Truyện Phan Trần ca ngợi tình yêu đôi lứa - Chương 3: Truyện Phan Trần và một số phương diện nghệ thuật. 4
- NỘI DUNG CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG 1.1. Tình hình văn hóa, tư tưởng thế kỉ XVIII đến nửa đầu thế kỉ XIX Truyện Phan Trần ra đời trong giai đoạn văn học từ thế kỉ XVIII đến nửa đầu thế kỉ XIX. Đây là giai đoạn tổng khủng hoảng một cách toàn diện và sâu sắc. Các tập đoàn phong kiến liên tiếp thay thế nhau thống trị đất nước chỉ trong một thời gian ngắn, vua Lê mất, chúa Trịnh diệt vong, Nguyễn Huệ lên ngôi. Sự biến động này đã dẫn tới mâu thuẫn trong nội bộ triều chính, những cuộc nội chiến kéo dài và nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân đã nổ ra chống lại triều đình ở cả hai miền Nam, Bắc chống lại giai cấp thống trị cực đoan, tàn ác. Đỉnh cao là phong trào Tây Sơn – cuộc khởi nghĩa của người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ đã giành được những thắng lợi vẻ vang: đánh đổ ba tập đoàn phong kiến thống trị trong nước, đánh tan 20 vạn quân Thanh xâm lược, lập nên một vương triều phong kiến mới với nhiều chính sách tiến bộ, xây dựng nên một nước Việt độc lập, tự chủ, dân giàu, nước mạnh, nhân dân được hưởng thái bình. Chính vì vậy, “thế kỷ XVIII được giới sử học mệnh danh là thế kỷ của chiến tranh nông dân” [30,tr5]. Sự khủng hoảng của chế độ phong kiến đã ảnh hưởng sâu sắc tới nhiều phương diện và trong đó văn hóa - tư tưởng là vấn đề đầu tiên. Thời kì này, Nho giáo mặc dù vẫn là hệ tư tưởng chính thống song cũng bị đả kích, lung lay, các chính sách và đạo lí Nho giáo dưới một chế độ mục ruỗng như thế không còn như trước. Tam cương, ngũ thường của người quân tử bị đảo lộn, mọi kỷ cương bị phá vỡ, chúa hiếp đáp vua, con âm mưu lật đổ cha, bề tôi nhiều người phản trắc, đồng tiền và quyền lực mới là mục đích tối cao quan lại, nho sĩ biến chất. Điều này có thể thấy trong Hoàng Lê nhất thống chí của Ngô Gia Văn Phái. Bọn vua chúa có lối sống ích kỷ, tiêu cực, Lê Hiển Tông “40 năm ở ngôi chỉ biết khoanh tay rủ áo tìm trò mua vui”, 5
- không bận tâm đến cảnh đất nước bị chia cắt “Trời xui nhà chúa phò ta. Chúa gánh cái lo, ta hưởng cái vui. Mất chúa tức là cái lo lại về ta, ta còn vui gì?”. Hay như việc Trịnh Sâm say đắm, mải mê sắc đẹp của Đặng Thị Huệ mà gây ra sai lầm nghiêm trọng trong việc lựa chọn Trịnh Cán quanh năm ốm yếu làm thế tử; Trịnh Tông vì tham vọng làm chúa mà trái mệnh cha, mưu đồ phản loạn. Ngay cả đạo quần thần cũng bị chà đạp, Tuần huyện Nguyễn Trang đã nộp chúa Trịnh Tông cho Tây Sơn, không chỉ vậy, hắn còn bộc lộ trắng trợn quan điểm của mình trước thầy học Lí Trần Quán “Sợ thầy chưa bằng sợ giặc, yêu chúa chưa bằng yêu thân mình, tôi không để quan lớn để cho lầm lỡ đâu”. Trong bối cảnh này, tầng lớp trí thức Nho học bị rơi vào sự khủng hoảng, hầu hết đều rơi vào tâm trạng chán trường do mất niềm tin vào chính quyền, Nguyễn Du viết trong Tạp thi: Tráng sĩ bạch đầu bi hướng thiên Hùng tâm sinh kế lưỡng mang nhiên Cao Bá Quát với Bệnh trung: Trắc thân thiên địa bi cô chưởng Hồi thủ yên tiêu khuất tráng đồ Tình hình xã hội ngày càng đi vào khủng hoảng, bế tắc, đời sống chính trị ngày càng rối ren thì “con người không có cách nào khác là đi tìm tín ngưỡng tôn giáo để cứu cánh” [4,tr83]. Nếu như Phật giáo và Đạo giáo trước đây suy thoái (thế kỷ XVI) thì đến giai đoạn này lại có điều kiện phục hồi, tuy nhiên không bằng giai đoạn trước đó. Đạo Phật lúc này được coi trọng trở lại, nó phát triển trong lúc các tín ngưỡng dân gian ngày càng được mở rộng, nhiều chùa, quán được xây dựng, một số chùa được trùng tu lại. Phật giáo tồn tại, gắn bó, ăn sâu vào tiềm thức tâm linh của con người và có ảnh hưởng sâu sắc đến tư tưởng, tâm lí, nếp sống của nhân dân và. Đạo giáo cũng có những ảnh hưởng nhất 6
- định đến đời sống tâm hồn của người dân, nó được coi là “thứ thuốc chỉ thống cho các vết thương tâm hồn” [13,tr51]. Đạo giáo “thấm nhuần tư tưởng lãng mạn, chủ trương trở về với tự nhiên, thoát li đời sống xã hội, phản kháng những lễ nghi, bổn phận Đạo khổng tạo ra ” [13,tr50]. Dựa trên nền tảng của luận lý xã hội lúc bấy giờ, cụ thể là trên tinh thần Nho – Phật – Đạo, là quy phạm cương thường của người quân tử, lòng từ bi bác ái của con người, là triết lý sống hòa hợp với tự nhiên để được dân gian hóa, trở nên quen thuộc với người dân Việt Nam. Ba tôn giáo Nho – Phật – Đạo có sự dung hòa với nhau, còn gọi là triết lý tam giáo đồng nguyên, “nhà chùa là nơi đào tạo ra những sư tăng đồng thời là những trí thức thời đại. Những trí thức Phật giáo này đã nối liền Phật giáo với Nho giáo và Đạo giáo. Chính họ là người đặt nền cho chính sách tam giáo đồng nguyên.” [33,tr177]. Triết lý này đã ảnh hưởng sâu sắc tới nhiều tác giả và các sáng tác văn chương của họ. Tiêu biểu là Ngô Thì Nhậm, ông từng bày tỏ trong Đáp Lại thị Hải Phái Đoàn hầu, thuật tiền ý: Cửu ai Trúc Lâm thiền thú lạc Từ bào vị hứa tạo sam đan Dịch: Từ lâu ưa cái thú thiền nơi Trúc Lâm Nhưng áo bào tía chưa cho mặc áo đen nơi giường thiền Ngô Thì Nhậm dường như bỏ cả tâm huyết cho chính trị nhưng lòng Thiền vẫn luôn đau đáu, việc đi theo Phật là ý niệm đã được ông nung nấu, ấp ủ đã từ lâu. Hay Toàn Nhật Thiền Sư (1750? – 1832?) cũng là nhà nho theo đòi nghiên bút, theo đạo Thiền. Ông là tác giả chú ý phát biểu nhiều vấn đề “dung hòa tam giáo” với: Hứa Sứ truyện vãn, Xuất gia tối lạc tỉnh thế tu hành vãn, Tam giáo nguyên lưu ký, Bát nhã ngộ đạo vãn, Ngay cả Nguyễn Công Trứ 7
- cũng không ngoại lệ, ông đề cao sự xuất hiện tất yếu của đạo Phật bên cạnh đạo Nho: Bạng y thiên lý hành tương khứ, Đô tự nhân tâm tố xuất lai. Bát khang trang chẳng chút chông gai, Cùng nghiêng ngả một dòng Hà lạc, Trong nhật dụng sao rằng đạo khác. Giai đoạn này, mọi giá trị, mọi ràng buộc con người của lễ giáo phong kiến đều bị phá vỡ và điều này tất yếu có ảnh hưởng tới sáng tác văn chương. Văn chương sáng tác theo khuynh hướng văn học mới – khuynh hướng nhân văn, nhân đạo chủ nghĩa, hướng tới việc tố cáo bản chất tàn bạo của xã hội phong kiến; bày tỏ sự cảm thông với những thân phận nhỏ bé, bất hạnh; đề cao con người, khát vọng sống tự do, hạnh phúc. Truyện Phan Trần ca ngợi tình yêu tự do của đôi lứa, trở thành một minh chứng cho việc phá vỡ những ràng buộc của xã hội lúc bấy giờ. 1.2. Truyện Nôm và Truyện Phan Trần 1.2.1. Quá trình hình thành và phát triển của Truyện Nôm Trong văn học trung đại, truyện Nôm là một thể loại khá độc đáo, thể loại văn học này đã được giới nghiên cứu định danh theo những cách khác nhau, đó là: truyện thơ Nôm, truyện thơ, truyện dài, Trong đó, tên gọi truyện Nôm hoặc truyện thơ Nôm là phổ biến hơn cả. Dương Quảng Hàm định nghĩa: “Truyện Nôm là tiểu thuyết bằng văn vần” [6,tr137], Đặng Thanh Lê xếp chúng vào hệ thống tự sự - tiểu thyết, Đinh Thị Khang định nghĩa: “truyện Nôm là loại hình tác phẩm tự sự phản ánh cuộc sống xã hội thông qua sự trình bày, miêu tả có tính chất hoàn chỉnh vận mệnh, tính cách nhân vật bằng một cốt truyện với hệ thống biến cố, sự kiện” [21,tr112]. Trong Từ điển thuật ngữ văn học, truyện Nôm là “thể loại tự sự bằng thơ dài rất tiêu biểu cho văn 8
- học cổ điển Việt Nam, nở rộ vào cuối thể kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX, do viết bằng tiếng Việt, ghi bằng chữ Nôm nên được gọi là truyện Nôm” [20,tr372]. Truyện Nôm có tác phẩm được viết bằng thể thơ Đường luật như Vương Tường, Lâm tuyền kì ngộ, nhưng phổ biến nhất là tác phẩm viết bằng thể lục bát như Phạm Tải Ngọc Hoa, Lí Công, Phan Trần, Đoạn trường tân thanh, Nó là một thể loại truyền thống của dân tộc nên người viết có thể vận dụng và thiết lập các dạng tiểu đối trong câu thơ chẵn để tạo nên nhạc điệu, âm hưởng trữ tình cho câu thơ, đặc biệt, thơ lục bát dễ đọc, dễ thuộc. Truyện Nôm có một khối lượng tác phẩm tương đối lớn và có tầm ảnh hưởng sâu sắc đến tinh thần của quần chúng nhân dân lao động. Giá trị của nó đã được khẳng định qua thời gian mà nó tồn tại trong lòng độc giả qua nhiều thế hệ. Hình thức đầu tiên của các truyện Nôm là những bài hát tự sự của các nghệ nhân hát rong (hiện tượng hát rong xuất hiện ở nước ta từ thế kỷ nào thì chưa xác định được, chỉ biết rằng khi có các đô thị thì đã có nhiều người sống bằng nghề này, nhất là sau thế kỷ XV). Những bài hát tự sự này phần lớn được các nghệ nhân sáng tác hoặc dựa trên cơ sở của truyện cổ dân gian, hoặc rút ra từ một truyện Nôm đã có trước. Càng về sau, những bài hát này càng được bồi bổ thêm về mặt nội dung cũng như nghệ thuật và đến một lúc nào đố bài hát đã được ghi vào trong sách, từ đó chính thức trở thành một truyện Nôm (lọai này có thể kể đến truyện: Trương Chi, Tấm Cám). Ngoài ra, truyện Nôm còn được biết đến thông qua những bài thuyết giáo của các nhà sư về đạo Phật. Ðể tuyên truyền đạo Phật cho các tín đồ mà phần đông là không biết chữ, một số nhà sư có học đã nghĩ ra cách diễn Nôm một số sự tích trong kinh phật, hình thức này ngày càng phát triển và nhiều truyện Nôm đã xuất hiện theo con đường này. Cho đến nay vẫn chưa xác định được truyện Nôm viết xuất hiện vào thời gian nào và sự phát triển của nó trong lịch sử văn học. Bởi vì cho đến nay 9
- hầu hết các truyện Nôm còn lại đều không có tên tác giả và thời điểm sáng tác. Các nhà nghiên cứu đã căn cứ vào mối quan hệ giữa nội dung tác phẩm và hiện thực đời sống xã hội, căn cứ vào tài liệu cấm đoán của giai cấp thống trị, căn cứ vào hình thức ngôn từ và thể loại mà đi đến một nhận định sơ bộ về sự phát triển của bộ phận văn học này như sau: Chính giai đoạn lịch sử từ thế kỷ XV đến thế kỷ XIX là giai đoạn bộ phận văn học này ra đời và phát triển, thời kỳ cực thịnh của nó là thế kỷ XVIII đến thế kỷ XIX. Phần lớn các truyện Nôm lưu hành hiện nay cũng ra đời trong hai thế kỷ này. Sang đầu thế kỷ XX việc sáng tác truyện Nôm dần dần chấm dứt vì thể loại văn xuôi mới ra đời đã đủ sức thay thế nó trên thi đàn văn học. Truyện Nôm thường được cấu trúc theo kết cấu: Hội ngộ – tai biến – đoàn tụ, mở đầu câu chuyện là sự gặp gỡ của đôi trai tài gái sắc được miêu tả hấp dẫn theo nhiều cách khác nhau. Các câu chuyện thường được xây dựng trên cơ sở của tình yêu và khát vọng hạnh phúc lứa đôi. Tình yêu và hạnh phúc thường được thử thách bởi sự khắc nghiệt của lễ giáo phong kiến. Đây là vấn đề trọng tâm đặt ra trong hầu hết các tác phẩm. Ngoài nội dung phản ánh tình yêu, hạnh phúc gia đình và bảo vệ nhân phẩm, truyện Nôm còn tập trung xoáy sâu vào tố cáo bộ mặt thối nát, tàn bạo của giai cấp thống trị trong xã hội phong kiến, đề cao những phẩm chất tốt đẹp của quần chúng lao động và đưa ra những cách giải quyết tích cực các vấn đề xã hội. Bên cạnh những đặc điểm về nội dung, truyện Nôm cũng có những đặc điểm riêng về nghệ thuật về kết cấu cốt truyện, nhân vật và phương pháp sáng tác. Cốt truyện thể loại này thường được triển khai theo trình tự: Hội ngộ - tai biến – đoàn tụ. Phần lớn các truyện Nôm đều mượn kết cấu, cốt truyện của truyện cổ dân gian và bảo lưu khuôn dạng của truyện cổ. Cơ sở cốt truyện là xung đột xã hội, xung đột giữa thiện, ác nhưng chỉ biểu hiện ở góc độ bảo vệ tình yêu, hạnh phúc; chống lại sự thống trị của giai cấp phong kiến; kết cấu 10
- theo đường thẳng; kết thúc có hậu; tình tiết phát triển theo sự phát triển của nhân vật chính. Tuy nhiên so với văn học dân gian, truyện Nôm cũng có một số nét khác biệt thể hiện của một thể loại có khả năng phản ánh hơn truyện cổ như tác giả đã chú ý mô tả một số cảnh sinh hoạt xã hội và con người, yếu tố trữ tình ít nhiều đã có vị trí đáng kể, thỉnh thoảng có tác giả đã chú ý miêu tả tâm trạng và khai thác đời sống nội tâm của nhân vật. Ngoài ra truyện Nôm cũng không còn những lời bình luận, triết lý về cuộc đời của tác giả ở đầu hay cuối truyện như ở truyện cổ. Nhân vật trong truyện Nôm thường là những bậc giai nhân – tài tử. Nhà văn quan tâm đến việc dựng câu chuyện, đến hành động chứ không chú ý đến hoặc rất ít chú ý đến tâm lý nhân vật. Xây dựng nhân vật phản diện thường thành công hơn nhân vật chính, nhiều nhân vật còn rất đơn giản mặc dù đã đúng về bản chất. Truyện Nôm thường sử dụng nhiều các điển tích, điển cố, các hình ảnh tượng trưng, ước lệ và hệ thống dày đặc từ Hán Việt, không chỉ vậy mà còn đưa thơ ca bác học nguồn thi liệu quý giá của tục ngữ, ca dao góp phần tạo nên tính uyên bác, tao nhã, tinh tế cho tác phẩm. Truyện Nôm có sự kết hợp chặt chẽ giữa yếu tố hiện thực và lãng mạn để phản ánh một cách chân thực quá trình phát triển biện chứng của nhân vật và tinh tiết, diễn biến cốt truyện. Truyện Nôm là một bộ phận văn học có giá trị, là vốn quý trong gia tài văn hóa chung của dân tộc. Bộ phận văn học này đã đóng góp tiếng nói vào loại hình tự sự của nền văn học nước nhà. 1.2.2. Vấn đề tác giả và tác phẩm Truyện Phan Trần Trong văn học thời trung đại, truyện Nôm là một bộ phận văn học khá độc đáo và có giá trị của nền văn học phong kiến Việt Nam. Bộ phận văn học này có một số lượng khá lớn và có vị trí quan trọng trong đời sống tinh thần 11
- của quần chúng lao động. Giá trị của truyện Nôm đã được khẳng định qua thời gian tồn tại của nó và lòng hâm mộ của quần chúng ở nhiều thế hệ. Theo thời gian truyện Nôm (truyện thơ Nôm) đã bị mất mát khá nhiều do những nguyên nhân khách quan và chủ quan. Thứ nhất, bởi tâm lý coi thường các sáng tác bằng chữ Nôm của các nhà Nho. Tâm lý này đã ảnh hưởng đến nhiều tầng lớp khác nhau trong xã hội kể cả những người sáng tác. Do bị coi thường (bị coi là loại văn học nhảm nhí, nôm na, mánh qué) cho nên khi các sáng tác bằng chữ Nôm ra đời tác giả của chúng không được chú ý và dần dần bị quên lãng. Thứ hai là do sự cấm đoán, thái độ thù địch của giai cấp thống trị. Để tránh búa rìu của bọn chúng, nhiều tác giả đã không dám lưu danh trong sáng tác. Đây là một nguyên nhân quan trọng khiến truyện Nôm khuyết danh. Nguyên nhân văn học trước khi được ghi chép bằng chữ quốc ngữ, truyện Nôm được lưu hành trong nhân dân chủ yếu bằng miệng từ người này sang người khác, từ vùng này sang vùng khác, nhiều truyện Nôm dần dần mất tên tác giả ban đầu và trở thành tác phẩm khuyết danh, có truyện đã trở nên gần gũi với các truyện cổ dân gian. Bởi những nguyên nhân trên nên truyện Nôm chỉ còn lại một số lượng đáng kể và hơn nữa lại do nhiều tầng lớp khác nhau sáng tác nên nội dung cũng như nghệ thuật của nó đều không đồng nhất. Để tiện cho việc nghiên cứu người ta đã tiến hành phân loại bộ phận văn học này. Dựa theo những căn cứ khác nhau mà có những cách phân loại khác nhau. Có thể phân loại theo ba cách sau: Thứ nhất, dựa vào nguồn gốc đề tài có ba loại: Loại lấy đề tài từ các truyện cổ dân gian (Trương Chi, Tấm Cám, Thạch Sanh ); Loại lấy đề tài, cốt truyện từ văn học Trung Quốc (Truyện Hoa Tiên, Nhị độ mai, Phan 12
- Trần, ); Loại lấy đề tài, cốt truyện từ những sáng tác chữ Hán hoặc những sự tích có thật ở Việt Nam (Tống Trân - Cúc Hoa, Bích Câu kỳ ngộ, ) Thứ hai, dựa vào nội dung và hình thức, có hai loại: truyện Nôm bình dân (do các nho sĩ bình dân sáng tác) và truyện Nôm bác học (do các nhà nho thuộc tầng lớp trên sáng tác). Thứ ba, dựa vào mối quan hệ với tác giả, có hai loại: truyện Nôm hữu danh (còn tên tác giả) và truyện Nôm khuyết danh (không còn tên tác giả). Tuy nhiên, cả ba hình thức phân loại trên chỉ có tính chất tương đối. Tương truyền Truyện Phan Trần do tài nữ Đoàn Thị Điểm dịch, kỳ thực do ông Đỗ Hữu Khác (tên khác là Cận), tiến sĩ triều Lê là người “chấp bút đầu tiên”. Nhưng hiện nay, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng Truyện Phan Trần nên xếp vào loại tác giả khuyết danh, niên đại để ngỏ, như thực trạng trong các bản Nôm cho thấy. Theo Nguyễn Đăng Na Truyện Phan Trần thuộc truyện Nôm bác học, vậy thì tác giả Truyện Phan Trần là những nhà nho thuộc tầng lớp trên sáng tác, còn cụ thể là ai, tên họ gì, tuổi tác thì cho đến nay vẫn chưa thể xác định được. Như đã nói ở trên, Truyện Phan Trần là truyện Nôm, hơn nữa là truyện Nôm khuyết danh, ra đời trong giai đoạn thế kỉ XVIII – nửa đầu thế kỉ XIX, khi chế độ phong kiến Việt Nam rơi vào khủng hoảng trầm trọng, phong trào đấu tranh giai cấp, đấu tranh giải phóng dân tộc diễn ra sôi nổi và quyết liệt. Trước sự biến động ấy của xã hội, văn học nói chung và bộ phận truyện Nôm nói riêng vẫn không ngừng phát triển. Tuy nhiên, giai cấp phong kiến lại không đề cao truyện Nôm, họ quan niệm truyện Nôm chỉ là thứ dâm thư, yêu ngôn. Chúa Trịnh từng ban bố một quan niệm về truyện Nôm: Cùng là truyện cũ nôm na, Hết tập thơ ấy, lại ca khúc này 13
- Tiếng dâm dễ khiến người say Chớ cho in bán hại nay thói thuần. Triều Nguyễn cũng không thua kém: Làm trai chớ kể Phan Trần Làm gái chớ kể Thúy Vân Thúy Kiều. Do quá trình giao lưu văn hóa, văn học khu vực nên văn học Việt thời trung đại thường có đặc điểm là hiện tượng “vay mượn” đề tài, cốt truyện. Nguồn gốc đề tài cốt truyện truyện Nôm rất đa dạng, có thể khái quát và chia thành ba nhóm chính: Sử dụng cốt truyện dân gian (truyện cổ tích, thần tích, ) lưu hành từ lâu trong đời sống dân gian và sáng tác dân gian; Mượn cốt truyện trong kho tàng tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc – chủ yếu là Minh Thanh; Những tác phẩm có cốt truyện bắt nguồn từ đời sống thực tại xã hội. Truyện Phan Trần là một truyện Nôm khuyết danh bắt nguồn từ vở kịch Ngọc Trâm Ký của Trung Quốc do tác giả Cao Lâm viết dưới thời Vạn Lịch – nhà Minh (đầu thế kỉ XVII). Một tác giả Việt Nam (chưa rõ là ai) chuyển thành truyện Nôm và phổ biến dân gian. Truyện được viết bằng chữ Nôm theo thể loại thơ lục bát, gồm 930 câu thơ lục bát. Mauria Durand có phiên dịch, chú giải bằng Pháp văn Truyện Phan Trần, Paris 1962. Bài văn gồm: chữ Nôm, quốc ngữ, chú thích bằng Pháp văn và bản dịch ra Pháp văn. Truyện Phan Trần là câu chuyện lấy từ sự tích của hai gia đình họ Phan và họ Trần thời Tống Tĩnh Khang và Thiệu Hưng nhà Tống (1126 – 1147). Hai nhân vật chính là Phan Tất Chính và Trần Kiều Liên được cha mẹ đính ước nhân duyên từ lúc còn tượng hình trong bào thai. Khi chưa kịp khôn lớn, gặp thời buổi loạn ly, tưởng phải dở dang nhưng tơ duyên trùng phùng, vu quy cùng với vinh quy một ngày, kết thúc có hậu, câu chuyện rất mỹ mãn. 14
- Truyện Phan Trần được xây dựng trên cơ sở của tình yêu và khát vọng hạnh phúc lứa đôi, tình yêu và hạnh phúc lứa đôi được thử thách bởi sự khắc nghiệt của lễ giáo. Truyện có thể tóm tắt như sau: Phan công và Trần công là đôi bạn thâm giao, cùng học một thầy, đỗ đạt một khoa, làm quan một triều và hai phu nhân cùng hoài thai một lúc. Họ bèn kết thông gia cùng nhau nếu bên này sinh con trai và bên kia sinh con gái. Họ Trần trao trâm ngọc, họ Phan trao quạt ngà làm kỷ vật đính ước. Đúng như ước vọng họ Phan Sinh con trai với: “Hai vai chính chện, ba đình nở nang”, đặt tên là Tất Chính (tức Phan Sinh). Họ Trần sinh con gái đặt tên là Kiều Liên. Khi hai người con này một lớn không thì hai người cha đã già yếu và xin về hưu tiện bề chăm lo cho gia đình và dạy dỗ con cái. Nhờ sự rèn cặp của cha, Phan Tất Chính dùi mài kinh sử và chuẩn bị thi Hương. Sau khi đỗ Thủ khoa (giải Nguyên), Phan Sinh báo tin về gia đình và chuẩn bị thi Hội. Nhưng “lòng trời còn dấm tài ba, Phan Sinh chẳng may bị trượt tứ trường, một phần hổ thẹn, phần vì sĩ diện cá nhân chàng không về nhà mà quyết tâm ở lại kinh lý “dùi mài khinh sử để chờ khoa sau”, đồng thời cũng tự an ủi mình “Ba thu thấm thoát có là bao lâu”. Trong khi ấy, Trần công mất, Đàm Châu có giặc, Kiều Liên cùng mẹ chạy loạn, nhân đi chạy loạn hai mẹ con lạc nhau mỗi người mỗi ngả. Trong lúc “con tìm mẹ, mẹ tìm con” Kiều Liên tình cờ gặp được người họ Trương. Thương tình “thân gái hạt mưa” không nơi nương tựa, người họ Trương đưa nàng đến tu tại chùa Nữ Trinh ở Kim Lăng lấy pháp danh là Diệu Thường. Khi ở chùa nàng tưởng nhớ đến mẹ và vị hôn phu nên thường tỏ ra ủ rũ, buồn rầu, nhờ có sự khuyên giải của sư thầy mà nàng cũng nguôi dần. Trong khi học ở Thành đô, Phan Sinh chợt nhớ có người cô tu ở Kim Lăng, bèn đến thăm. Tại đây Phan Sinh tình cờ gặp được Diệu Thường, thấy ni cô là người “tầm thước trẻ trung” nên đem lòng mến mộ. Chàng mượn bà 15
- vãi Hương công làm mối nhưng bị nàng cự tuyệt, chàng thất vọng thành ra ốm tương tư, chẳng có phương nào chữa trị được. Phan Sinh đang ốm tương tư được Diệu Thường vì nể sư cô tới thăm thi “mười phần phiền não, chín phần đổ sông”. Tối hôm đó, Phan Sinh đánh bạo đến gõ cửa phòng Diệu Thường để ngỏ lời cảm ơn. Lúc đầu nàng từ chối nhưng về sau sợ Phan Sinh làm liều nên đành phải mở cửa cho chàng vào. Qua mấy lời trao đổi, hàn huyên, họ đem trâm, quạt ra so và nhận ra nhau. Nhưng vẫn giữ kín, trong chùa không ai biết. Từ đó mái tam quan trở thành nơi bí mật hẹn hò của đôi trai gái: “Ngày người đất Bụt, đêm người động tiên”. Đông qua rồi xuân lại về, Phan Sinh xin phép sư cô và tạm biệt Diệu Thường lên đường trở lại Thành đô dự kỳ thi Hội. Khoa thi này Phan Sinh đỗ Thám hoa. Trên đường về vinh qui, chàng trở lại chùa và đem thực tình bạch với sư cô. Sư cô bàn làm hôn lễ tại nhà họ Trương rồi cùng nhau vinh qui bái tổ. Trần phu nhân sau khi chạy loạn “lỡ bước long đong” tìm đến nhà Phan công làm nơi nương náu. Bấy giờ gặp nhau đủ mặt hai họ, hạnh phúc không sao tả xiết. Rồi Phan Sinh được triệu về kinh nhận chức, lại được cử đi dẹp giặc. Sau khi thắng trận trở về, chiến công rực rỡ, cả hai vợ chồng đều được phong thưởng, vinh quang. Tiểu kết chương 1 Truyện Phan Trần là truyện Nôm khuyết danh, nội dung tác phẩm phản ánh sự biến động về văn hóa, tư tưởng của thời đại bấy giờ. Đây là một tác phẩm có đề tài hấp dẫn, mới lạ đối với độc giả và có giá trị đối với nền văn học dân tộc. 16
- CHƯƠNG 2 TRUYỆN PHAN TRẦN CA NGỢI TÌNH YÊU ĐÔI LỨA 2.1. Tình yêu và sự sắp đặt của khuôn khổ lễ giáo phong kiến Như đã nói ở trên, vào thể kỷ XVIII đến nửa đầu thế kỷ XIX, chế độ phong kiến rơi vào khủng hoảng trầm trọng, Nho giáo đã lung lay từ cội rễ, mọi giá trị cương thường bị đảo lộn song không vì thế mà nó biến mất hoàn toàn. Nó vẫn tồn tại và vẫn là khuôn khổ trói buộc tư tưởng con người một cách mạnh mẽ. Xã hội phong kiến tỏa chiết tình cảm con người trong những mối quan hệ nam nữ, yêu đương, không chấp nhận con người có quyền tự do cả trong tình yêu và hôn nhân. Những quan niệm “trọng nam khinh nữ”, “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”, “áo mặc sao qua nổi đầu”, đã chi phối tư tưởng của con người, đưa họ vào những khuôn phép khắc nghiệt. Điều này thể hiện rõ trong Truyện Phan Trần. Trong tác phẩm, lễ giáo phong kiến đã trói buộc tình yêu, hôn nhân của hai nhân vật: Phan Tất Chính và Trần Kiều Liên. Ngay từ phần đầu tác phầm đã mở ra trước mắt người đọc cảnh hai gia đình sắp xếp việc hôn nhân định sẵn từ khi đôi lứa ấy mới là bào thai chưa thành hình. Đó là một biểu hiện của lễ giáo phong kiến quan niệm về việc hôn nhân là do “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”, “áo mặc sao qua khỏi đầu”, là quan niệm hà khắc về hôn nhân của lễ giáo phong kiến. Quan niệm này thường xuất hiện ở các sáng tác truyện Nôm bác học, hầu hết các nhân vật đều thuộc tầng lớp phong kiến, nhiều nhân vật xuất thân từ tầng lớp cấp cao. Sở dĩ vậy là bởi trong truyện Nôm bình dân, con người ở tầng lớp bình dân tự do trong chuyện tình yêu, hôn nhân. Trong ca dao có rất nhiều câu nói đến việc trai gái tự do bày tỏ tình cảm của mình, chẳng hạn: Hôm qua tát nước đầu đình, Bỏ quên chiếc áo trên cành hoa sen. Em lượm thì cho anh xin, Hay là em để làm tin trong nhà? 17
- Đó là lời ngỏ của chàng trai đối với cô gái, nhưng không chỉ có các chàng trai chủ động chuyện ngỏ lời mà các cô gái cũng rất táo bạo: Vào vườn hái quả cau xanh, Bổ ra làm sáu mời anh xơi trầu. Trầu này têm những vôi tàu, Giữa đệm cát cánh, hai đầu quế cay. Trầu này ăn thiệt là say, Dù mặn, dù nhạt, dù cay, dù nồng. Dùng chăng nên đạo vợ chồng, Xoi dăm ba miếng kẻo lòng nhớ thương! Trong truyện Nôm bình dân, tác giả còn xây dựng những câu chuyện tình yêu, hôn nhân của những người không cùng đẳng cấp, hầu hết các cô gái trong loại truyện này được giới thiệu là con vua, con quan, nghĩa là những người thuộc đẳng cấp quý tộc lại yêu những anh học trò nghèo, có nguồn gốc từng cao quý nhưng sa cơ lỡ vận phải thất thế, nuôi chí công danh và tương lai làm quan to. Ở truyện Nôm bác học lại không xây dựng chuyện tình yêu như vậy như vậy, dưới sự sắp đặt của lễ giáo phong kiến, con người không được tự quyết định hôn nhân của mình, sự quyết định ấy là của cha mẹ, nếu trái lời thì đó được coi là sự bất hiếu. Hơn thế nữa “việc hôn nhân tuy là của hai người nhưng kéo theo việc xác lập quan hệ giữa hai gia tộc” [28,tr143] mà “lựa chọn một dòng họ, một gia đình phải xem cửa nhà hai bên có tương xứng không, có môn đăng hộ đối không” [28,tr143]. Có thể nói rằng gia đình họ Phan và họ Trần là hai gia đình “môn đăng hộ đối”, đều có truyền thống nho học, Phan công và Trần công hơn nữa lại vừa là chỗ thân tình, đồng niên, đồng môn và cùng “làm phủ doãn một tòa hiển vinh”. Và rồi hai phu nhân cùng hoài thai một lúc “Hai nhà chính thất một kỳ thụ thai”. Họ bèn kết thông gia cùng nhau nếu bên này sinh con trai và bên kia sinh con gái: 18
- Trỏ thề trên thẳm dưới khơi, Cùng nhau chỉ dạ định nhời thông gia. Hai ta đồng học, đồng khoa, Đồng niên, đồng cán, một nhà đồng thân. Đổi trao ngọc Tấn tơ Tần, Họ Phan thì quạt, họ Trần thì trâm. Mai ngày dành để đeo cầm. Kẻo quên ước cũ kẻo nhầm duyên xưa. (25-32) Họ Trần trao trâm ngọc, họ Phan trao quạt ngà làm kỷ vật đính ước. Đúng như ước vọng họ Phan sinh con trai với: “Hai vai chính chện, ba đình nở nang”, đặt tên là Tất Chính (tức Phan sinh). Họ Trần sinh con gái đặt tên là Kiều Liên. Khi hai người con này một lớn không thì hai người cha đã già yếu và xin về hưu tiện bề chăm lo cho gia đình và dạy dỗ con cái. Phan Sinh và Kiều Liên được cha mẹ hai bên đính ước từ khi còn trong hình hài là thai nhi chưa được sinh ra đời, chưa biết khi lớn tính cách ra sao, không cần biết hai đứa trẻ ấy khi trưởng thành tình cảm ra sao, có đồng ý không. Hai bên gia đình liền trao kỷ vật đính ước là trâm - quạt. Trâm là vật tượng trưng cho người con gái, quạt tượng trưng cho người con trai, khi nhìn thấy vật là nhận ra nhau bởi họ chưa một lần gặp mặt. Phan công và Trần công khi có tuổi, họ xin về quê để nuôi dạy con cái cho tốt, cũng từ đây hai gia đình “Chia tay Nam Bắc băng ngàn”. Với gia đình Phan công: Phan thời về dọn lầu thơ, Khuyên con gióng giả sớm trưa học tràng. Ôn đặt gối, Đóng vây màn, Sớm ôn kinh sử tối bàn văn chương. (67-70) 19
- Phan công dạy con từ nhỏ cần chăm chỉ học hành không chỉ để nối nghiệp nhà “Nhà ta nghiệp học hành xưa nay” mà ông còn nói với Phan Sinh rằng: Bây giờ cha tuổi đã già, Mong con gặp hội rồng mây kịp người. Chớ tham tửu sắc chơi bời, Lụy mình và lại thế cười người chê. Rày nghe thu tuyến đến kỳ, Bút nghiên gióng giả vào thi họa là. Gặp thời thu nguyệt xuân hoa, Lám sao trọn một quyết khoa thời làm. Bõ công luyện tập mới am, Đừng nghe anh yến chớ nhàm nước mây. (79-88) Không chỉ Phan Sinh mà tất cả những bậc nam nhi thời bấy giờ đều chịu sự chi phối lễ giáo phong kiến về tư tưởng. Trong quan niệm chính thống thời đại phong kiến, đã làm trai thì “đầu đội trời, chân đạp đất”, phải có “chí”, “công danh”, có khát vọng để theo đuổi ước mơ, hoài bão. Bậc nam nhi phải luôn đặt mình trong những mối quan hệ với quốc gia, dân tộc, đi liền với đó là những mục tiêu và hành động tương xứng: “Nam nhi khoa cử đỗ đạt thành danh chấp chính là mẫu người lý tưởng của thời trung đại” [24, tr42]. Chí làm trai vừa mang tính tích cực, vừa mang tính tiêu cực của Nho giáo: lập đức, lập công (có công danh sự nghiệp), lập danh (có danh tiếng tốt đẹp), nam nhi phải vẫy vùng tứ bể, phải cống hiến sức trai phục vụ non sông, đất nước và như một tất yếu, công danh được coi là món nợ phải trả của kẻ làm trai. Hình tượng nam nhi đã trở thành đề tài hấp dẫn đối với các nhà thơ, sức hấp dẫn của hình tượng ấy còn kéo dài đến cả thể kỉ XVIII-XIX. Nói đến hình tượng nam nhi trong văn học trung đại giai đoạn này, có thể nhắc tới Nguyễn Công Trứ: 20
- Trong vũ trụ dã đành phận sự Phải có danh mà đối với non sông (Chí nam nhi) Đã mang tiếng ở trong trời đất Phải có danh gì với núi sông (Nợ tang bồng) Trong Truyện Phan Trần, chí nam nhi cũng được thể hiện rõ ràng. Phan Sinh ngay từ nhỏ đã thấm nhuần tư tưởng này, dưới sự rèn cặp của cha, chàng học hành chăm chỉ, cần cù. Khi lớn lên, chàng quyết tâm dùi mài kinh sử, chuẩn bị thi Hương, sau khi đỗ Thủ khoa (giải Nguyên) tiếp tục lên đường thi Hội: Phun châu nhả ngọc đua tài, Giải nguyên tên đã dự bài bốn phương. Đưa tin về tới nhà hay, Túc thì lại trỏ đường mây tếch chừng. Bảng xuân may đã dự mừng, Muôn hồng nghìn tía tưng bừng đón ai. Qua dặm liễu khỏi đường mai, Ướm đào hỏi mặn tới vời thần kinh. (105-112) Thế nhưng “thi phận học tài”, “bảng người thì bốn, tên mình có ba”, thi hương có bốn kỳ người ta vào được cả bốn, Phan Sinh chỉ lọt có ba kỳ. “Lòng giời còn rấm tài hoa”, Phan Sinh chẳng may thi Hội bị hỏng, một phần hổ thẹn, phần vì sĩ diện cá nhân chàng không về nhà mà quyết tâm ở lại kinh lý “dùi mài kinh sử để chờ khoa sau”, đồng thời cũng tự an ủi mình: Chẳng bằng ta lập chí ta, Ba thu thấm thoát có là bao lâu. (125-126) 21
- Nam nhi sau khi lập công, lập nghiệp còn phải lập gia đình mới tròn bổn phận. Trước khi Phan Sinh lên đường đi thi Hương người cha không quên dặn: Đừng như Ngô tướng, Từ khanh, Quên bài thuốc dặn, phụ manh áo nguyền. Hãy cho công nghiệp vẹn tuyền, Hóa rồng rồi sẽ rước tiên cũng vừa. (94-97) Phan công nhắc khẽ con rằng “lai kinh ứng thí” tìm kiếm công danh sự nghiệp rồi “rước tiên sum vầy”. Điều này đã chứng tỏ Phan Sinh bị ràng buộc bởi lễ giáo phong kiến với quan niệm người trí thức trước hết phải “tu thân” sau đó “tề gia - trị quốc - bình thiên hạ”. Không chỉ Phan Sinh, Kiều Liên cũng không thoát khỏi sự trói buộc của lễ giáo phong kiến. Kiều Liên xuất thân trong gia đình quyền quý, không chỉ là giai nhân tuyệt sắc với vẻ đẹp mày ngài, nụ cười, làn da, hình dáng không khác gì tiên giáng thế mà còn là con người tuyệt tài, nàng tài cầm, kì, thi, họa giống như văn nhân tài tử. Nhưng dù tài năng như vậy Kiều Liên vẫn không có cơ hội để thi thố như các trang tài tử, văn nhân. Bởi mang chữ nữ nhi nên đành khép mình trong khuôn khổ định kiến xã hội. Chính bởi định kiến hà khắc “trọng nam khinh nữ” đã khiến tài năng của những nữ giai nhân tài hoa đành nén lại, nén xuống và chỉ xuất hiện thấp thoáng, mờ nhạt. Nguyễn Du đã khái quát số phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến qua hai câu thơ sau trong Truyện Kiều: Đau đớn thay phận đàn bà Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu? Kiều cũng là một tuyệt sắc giai nhân, Kiều và Kiều Liên đều “gồm hay thi lễ, làu thông cầm kỳ” nhưng trong xã hội phong kiến người phụ nữ có tài không dám khẳng định với người, với đời: Vi sinh làm kiếp đàn ông Xông tìm nước thẳm, non cùng quân chi 22
- Bởi vì sinh phận nữ nhi Nghĩ thì càng tủi, nhớ thì luống thương (219-222) “Bởi vì sinh phận nữ nhi” nên đành phải chịu thiệt thòi, dù có muốn xông pha tìm mẹ, dù muốn thể hiện tài năng, trí tuệ cũng không thể. Chính cái hạn chế này đã khiến bao người phụ nữ tài năng bị vùi dập. Quan niệm về người phụ nữ đẹp trong văn học trung đại là người phụ nữ có vẻ đẹp toàn diện cả bên trong lẫn bên ngoài. Đó là sự kết hợp hài hòa của nhan sắc và đức hạnh “tam tòng tứ đức”. Kiều Liên không chỉ là người có tài sắc mà còn là người có những phẩm chất tốt đẹp. Kiều Liên là người con hiếu thảo, khi gia đình có biến: cha mất, quê nhà loạn lạc bởi giặc hai mẹ con Kiều Liên đi chạy loạn, nhân đi chạy loạn hai mẹ con lạc nhau mỗi người mỗi ngả: Con tìm mẹ, mẹ tìm con, Cỏ cây man mác, nước non lạ lùng. (169-170) Trong lúc “con tìm mẹ, mẹ tìm con” Kiều Liên tình cờ gặp được người họ Trương. Thương tình “thân gái hạt mưa” không nơi nương tựa, người họ Trương đưa nàng đến tu tại chùa Nữ Trinh ở Kim Lăng lấy pháp danh là Diệu Thường. Diệu Thường đến với cửa thiền môn có thể coi là giải pháp cho nhiều người phụ nữ bất hạnh, mong tìm thấy một chốn nương tựa bình an. Thế nhưng những ngày sống ở cửa Phật, dường như Diệu Thường vẫn là con người của trần thế, của gia đình. Điều đó cho thấy mối dây hồng trần vẫn khiến nàng không hẳn để lòng mình nguôi ngoai những mối dây liên hệ với cuộc đời vẫn không thể cắt bỏ. Khi ở chùa nàng nàng không lúc nào khôn nguôi nhớ về mẹ hiền: Mẹ già bóng ngã cành dâu, Phòng khi sốt mặt, vàng dầu cậy ai. (263-264) 23
- Nỗi lo lắng người mẹ luôn luôn là niềm day dứt, nỗi trăn trở khôn nguôi trong lòng người sư vãi Diệu Thường. Mẹ già lớn tuổi không biết ở phương trời nào, khi bệnh hoạn, khi đói khát ai là người chăm sóc. Càng suy nghĩ, càng nhớ về mẹ, những giọt nước mắt càng đẫm trên mặt Kiều Liên, đó là những giọt châu, giọt ngọc toát ra từ tâm hồn của người con chí hiếu. Mặc dù đã đi tu nhưng những phiền não trong Kiều Liên vẫn còn, không chỉ nhớ thương mẹ mà nàng còn nhớ tới vị hôn phu của mình, nàng luôn ý thức rõ hôn nhân của mình đã được cha mẹ sắp đặt: Chốn Lam Kiều cách nước mây, Bùi Hàng kia dễ biết đây nẻo nào. Non Thiên Thai mấy trượng cao, Lưu Lang chưa dễ tìm vào tới nơi. (235-238) “Lam Kiều, Bùi Hàng, Thiên Thai, Lưu Lang” đều được tác giả sử dụng để diễn tả nỗi nhớ của nàng Kiều Liên khi đã vào chùa tu, cách biệt cõi tục biết bao giờ mới gặp được Tất Chính - vị hôn phu của nàng để cùng “Chỉ Tần tơ Tấn” ghép duyên. Kiều Liên không chỉ là người con hiếu thảo mà còn là người phụ nữ có tấm lòng chung thủy. Nàng đinh ninh về mối tình ấy và vẫn luôn chờ đợi: Nghĩ xa thôi lại nghĩ gần, Chạnh lòng xây nhớ Châu Trần nghĩa xưa. Dãi dầu kể mấy nắng mưa, Thề phai, nguyền lạnh, bây giờ cậy ai. Quạt này hãy để cho nhau, Phong phong, mở mở gượng sầu làm khuây. (229-234) Những vần thơ chứa đựng biết bao nhiêu nỗi niềm băn khoăn, lo lắng và ấp ủ cả một chân trời hy vọng. Nhớ nhung, mơ tưởng, đó là quy luật tất yếu của tình yêu, của con tim, và rằng đã là quy luật thì không ai hay không có gì 24
- có thể ngăn cản được. Nhưng ở đây, mối tình của Kiều Liên và Tất Chính ở đây là sự ghép duyên của cha mẹ và trước khi nhận ra nhau, tình cảm của Kiều Liên dành cho người đính ước với mình chỉ là cái nghĩa “ba sinh”. Bởi lễ giáo phong kiến “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”, “áo mặc sao qua nổi đầu”. Điều đó cũng chứng tỏ tấm lòng của nàng đối với cha mẹ. Kiều Liên là người luôn khát vọng yêu thương, nhưng do hoàn cảnh đưa đẩy khiến nàng phải chấp nhận đi tu. Giống như nàng Kiều trong Truyện Kiều của Nguyễn Du phải đi tu bất đắc dĩ, nhưng sự bất đắc dĩ ấy của Kiều đến ba lần: Sự đời đã tắt lửa lòng, Còn chen vào chốn bụi hồng làm chi. Dở dang nào có hay gì, Đã tu, tu trót qua thì thì thôi! Kiều Liên mặc dù đã đi tu nhưng tâm vẫn còn những phiền não, khát vọng tình yêu, hạnh phúc, tâm nàng còn bị chi phối bởi cảnh giới bên ngoài, tất nhiên là còn biết người thân vì cảm xúc yêu thương này của Phật là cảm xúc yêu thương chúng sinh. Kiều Liên buồn rầu, ủ rũ nhớ tới mẹ, lo lắng cho mẹ, và không chỉ vậy, nàng còn nhớ tới vị hôn phu, mong ước ngày được ghép duyên. Thân đi tu, sống trong mái đình nhà chùa mà nàng còn nhớ nhung tình cảm yêu đương, biết vậy, nàng cố gắng khuôn mình trong khuôn khổ của lễ giáo: Kiếp này tu nguyện bồ đề, Lòng son bảy mối, tóc thề mười phương. Một đèn, một nến, một hương, Dám còn để mối tơ vương bên lòng. (511-514) Khi biết Phan Sinh có tình cảm với mình ở chùa Nữ Trinh, Kiều Liên từ cự tuyệt mạnh mẽ và dứt khoát. Nàng làm vậy, một phần cũng bởi trong thâm tâm, nàng luôn tâm niệm rằng mình đã có một cuộc hôn nhân mà cha mẹ đã 25
- sắp đặt, nàng đã được đính ước từ trước đó và nhất nhất rằng người đàn ông đó là người phu quân của mình và cũng bởi nàng thân đi tu không thể để bản thân phạm phải những quy tắc của Phật. Dứt khoát với chàng không được, nàng nài nỉ, kể lể: Van rằng: Đành nỗi bèo mây Phận này ngỡ được chốn này là yên. Đâu ngờ quá kiếp xui nên, Một thân thiếu nữ truân chuyên mấy lần. Đã lời tình thật ân cần, Chẳng thương mà dạy nợ nần trăng hoa. Phỏng khi sư phụ biết ra, Người là thân thích, ta là ngược xuôi. Gió đưa lời thế xa xôi, Thời ta hầu dễ đứng ngồi được đây? Âu là chịu bạc cùng thầy Liệu đường mà giã cảnh này cho xong. Phận bèo bao quán long đong, Thời mình lánh trước, hơn lòng lụy sau. (549-562) Nàng còn dài lời tâm sự với chàng: Dù chàng ép trúc, nài mai, Tìm nơi giếng cạn thấy người hồng nhan. Để ai ngọc nát hoa tàn, Giải oan, chàng phải lập đàn cho nhau. (727-730) Dường như, trước tình cảm của chàng Phan Sinh, nàng Kiều Liên đã rung động, nhưng sự rung động nhẹ ấy chưa đủ đề giúp nàng vượt qua được những giàng buộc của lễ giáo phong kiến, nàng phải giữ trọn nghĩa với người xưa, không thể đi theo tiếng gọi của trái tim đang lỗi nhịp. Nàng chối từ tình 26
- cảm và kể lể sự tình cuộc đời mình cho Tất Chính hiểu, rồi tùy chàng định liệu thế nào cho phải. Nếu chàng còn cứ thúc ép thì nàng sẽ ra đi để lòng khỏi lụy tình, tình khỏi kết thành dây oan. Trước lời lẽ ấy, Tất Chính sao làm khó được nàng nữa, nếu chàng còn thúc ép thì chẳng khác nào phường ong bướm trêu hoa. Sống trong chùa, Kiều Liên nghe theo lời dạy bảo và lời khuyên nhủ của sư vãi Hương, nàng chăm chỉ tụng kinh, dâng hoa quả, lòng thanh thản hơn: Muối dưa đắp đổi ít nhiều, Sớm khua mõ cá, tối khêu chuông kình. Vầng giăng bạc, ngọn đèn xanh, Dâng hương ngũ vị, tụng kinh tạm thừa. (283-286) Phật giáo giúp giải thoát cho con người khỏi biển khổ, tu hành theo Phật giáo là thoát khỏi bể khổ để đến cõi Niết bàn hoàn toàn thanh tịnh, tìm ra một hướng đi mới, một con đường mới cho con người. Văn học thời kì này thường viết về những người đẹp, những trang tuyệt thế giai nhân, những bậc anh hùng hào kiệt, những trang thư sinh nho nhã, những cuộc tình lâm li, những hạnh phúc keo sơn, gieo vào lòng người một ước mơ về xã hội tốt đẹp. Có thể thấy rằng, Truyện Phan Trần được xây dựng trên cơ sở của tình yêu và khát vọng hạnh phúc lứa đôi, tình yêu và hạnh phúc của cặp “giai nhân - tài tử”. Nàng Kiều Liên tuyệt sắc giai nhân, chàng Phan sinh thư sinh nho nhã, tình yêu và hạnh phúc của hai người được thử thách bởi sự khắc nghiệt của lễ giáo phong kiến. Ở khía cạnh nội dung, tác giả đã cho ta thấy sự chi phối sâu sắc của lễ giáo phong kiến đối với đời sống của con người. Bên cạnh sự tích cực mà lễ giáo phong kiến đem lại thì ở giai đoạn này, chế độ phong kiến Việt Nam đã rơi vào khủng hoảng, những ảnh hưởng tiêu cực chiếm phần lớn hơn so với phần tiêu cực. Lễ giáo phong kiến đã kìm kẹp, khép con người trong những khuôn khổ của mình, cuộc sống, tương lai, tình yêu của họ dường như đã 27
- được sắp xếp từ trước. Kiều Liên và Tất Chính, việc hôn nhân của họ cũng vậy, “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”. Quan niệm “trọng nam khinh nữ” khiến cho những người phụ nữ có tài nhưng không được thi thố tài năng với nam văn nhân tài tử, dù có giỏi đến mấy cũng thua kém nam nhi. Trong khuôn khổ của lễ giáo, mọi thứ đều được sắp đặt, khuôn khổ ấy cứng nhắc, giáo điều khiến cho con người bị kèm kẹp và nghẹt thở. Tác giả Truyện Phan Trần thể đã xây dựng một câu chuyện tình yêu trước những thử thách của lễ giáo phong kiến. Những khuôn phép của lễ giáo phong kiến ấy nó như bức thành trì kiên cố giam hãm, giàng buộc con người một cách mạnh mẽ. Những cái lạc hậu, thiết chế hẹp hòi, khắc nghiệt, những bất công đã tồn tại lâu đời trong xã hội và tư tưởng đã chi phối con người, khiến con người phải cúi đầu cam chịu. Từ đó, các tác phẩm truyện Nôm nói chung và Truyện Phan Trần nói riêng thể hiện khát vọng giải phóng để tìm đến một tình yêu tự do, khát vọng ấy không chỉ của riêng Tất Chính và Kiều Liên mà còn là mong ước của quần chúng nhân dân. Đồng thời còn thể hiện mong ước một cuộc sống bình đẳng, công bằng hơn. 2.2. Tình yêu và sự phá vỡ rào cản của lễ giáo phong kiến Văn học muốn phát triển thì phải tìm cách phá vỡ khuôn khổ cứng nhắc, khô khan, mang tính quy phạm của lễ giáo phong kiến. Các nhà tư tưởng lớn, các nghệ sĩ lớn đã tìm cách thoát khỏi cái khuôn khổ đó để tìm kiếm cảm quan tự nhiên, cảm quan nhân sinh. Trước cuộc sống bị chi phối bởi những khuôn khổ khắc chế của lễ giáo phong kiến, con người không được hưởng hạnh phúc, tư do và khát khao được giải phóng ra khỏi những khuôn phép ấy để có một tình yêu tự do, được hạnh phúc và sống cuộc sống bình đẳng. Để được như vậy, tất yếu con người sẽ đấu tranh để chiếm lĩnh những điều ấy bằng cách vượt ra khỏi những quy phạm của lễ giáo phong kiến. Điều này ứng với trào lưu văn học của giai đoạn này. 28
- Ở giai đoạn văn học từ nửa cuối thế kỉ XVIII- nửa đấu thế kỉ XIX, khuynh hướng văn học thời kì này là nhân văn, nhân đạo chủ nghĩa. Các sáng tác của các nhà thơ, nghệ sĩ thời kì này thể hiện mơ ước về một xã hội công bằng, con người sống có hạnh phúc và nhân phẩm, tài năng được tôn trọng và đề cao. Tuy ngoài nói đến Nho giáo, các sáng tác còn đề cập tới cả Phật giáo và Đạo giáo nhưng không phải chủ nghĩa khổ hạnh của Phật giáo, không phải thái độ siêu thoát tiêu cực hay an nhiên, tự tại của Đạo giáo. Với triết lí đời là bể khổ và kêu gọi con người thoát ra khỏi thế tục, cõi trần làm bạn với gió trăng được thể hiện rõ ràng trong Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều: Lấy gió mát trăng thanh kết nghĩa, Mượn hoa đàm đuốc tuệ làm duyên. Thoát trần một gói thiên nhiên, Cái thân ngoại vật là tiên trong đời. Truyện Phan Trần là một trong các sáng tác nằm trong khuynh hướng văn học của giai đoạn này, tác phẩm hướng tới ca ngợi tình yêu tự do của đôi lứa và được tác giả viết một cách rất táo bạo, đó là một mối tình đẹp xảy ra ngay trước bàn thờ Phật. Trong khi học ở Thành đô, Phan Sinh chợt nhớ có người cô tu ở Kim Lăng, bèn đến thăm. Tại đây Phan Sinh tình cờ gặp được Diệu Thường (Kiều Liên), Phan Sinh đã động lòng thương mến: Ấy ai tầm thước, trẻ trung, Chực hầu sư phụ đứng trong giảng đường? Bấy giờ e lệ chưa tường, Lâu lâu lại lấp lánh gương ả Hằng. (361-364) Mục đích của chàng tới đây là để thăm người cô, ấy vậy mà dường như chàng đã quên rằng mình đang đứng ở đâu, đem lòng thương mến ai. Chàng Phan cũng đã quên mất việc bút nghiên của mình mà ngã vào tình yêu, “Bút nghiên chí nản” mà “Son phấn tình nồng”. Đây là mô típ quen thuộc của 29
- truyện Nôm, các chàng trai khi có tình cảm với cô gái nào đó họ sẽ ngã vào tình yêu mà tạm thời quên đi chuyện bút nghiên, sau khi đạt kết quả cao trong tình yêu thì mới quay lại chuyện thi cử và cuối cùng thì đỗ đạt. Phan Sinh cũng vậy, chàng đang trên con đường học hành, thi cử, chàng là một nho sĩ, nhưng khi gặp tình yêu chàng tạm thời đặt bút nghiên sang một bên, khi có được tình yêu, chàng quay lại chuyện thi cử và cũng đỗ đạt làm quan. Trước Kiều Liên, Phan Sinh hình như đã quên hết tất cả, trước mắt chỉ thấy nàng, vậy lí do gì khiến chàng mê mẩn Kiều Liên đến vậy? Nếu như Thúy Kiều Nguyễn Du với sắc đẹp”nghiêng nước nghiêng thành” thì Kiều Liên trong Truyện Phan Trần sắc đẹp được sánh ngang với Hằng Nga và nàng có một nét đẹp khác là khi sắp chào đời: Trần phu nhân mới hé then động đào. Một nàng tiên nữ xinh sao, Mày ngang bán nguyệt, miệng cười tram hoa. Mỹ miều cung quế Hằng Nga, Trần Công mới đặt tên là Kiều Liên. (44-48) “Hé then động đào” tức là động hoa đào, một chốn thần tiên và báo hiệu cho sự ra đời của một nàng tiên nữ, báo hiệu cho sự xuất hiện một tuyệt sắc giai nhân. Kiều liên có vẻ đẹp “mỹ miều” - một nét đẹp không chỉ thoát ra từ hình thức bên ngoài mà còn từ bên trong của tầm hồn, mỹ miều của nhan sắc, mỹ miều của tâm hồn mới làm nên một nàng tiên, một Hằng Nga. Tuy cuộc đời có chút trắc trở song lại hạnh phúc bội phần. Chỉ qua vài câu thơ mà tác giả đã phác họa nên Kiều Liên với vẻ đẹp của một tuyệt sắc giai nhân. Dù vẻ đẹp “nghiêng nước nghiêng thành” của Thúy Kiều hay vẻ đẹp sánh bằng tiên nữ, Hằng Nga của Kiều Liên giống hay khác nhau, hơn hay kém nhau hay không thì ta thấy điều đó không quan trọng mà quan trọng hơn ở đây chính là ta thấy được thái độ trân trọng của tác giả đối với người phụ nữ. 30
- Mặc dù gửi thân nương nhờ cửa Phật, nhưng với “tầm thước trẻ trung”, “e lệ”, gương mặt toát lên sự thanh tú, Kiều Liên (Diệu Thường) đã khiến chàng thư sinh Phan Tất Chính phải mê mẩn, mơ màng, không biết mình đang lạc giữa cõi trần hay xứ sở thần tiên. Trước mắt chàng là sự xuất hiện của một nàng tiên nữ, Hằng Nga, của một Quan Âm tái thế: Xa xa phảng phất dạng hình, Đức Quan Âm đã giáng sinh bao giờ. (391-392) Vẻ đẹp của Kiều Liên không chỉ sánh bằng tiên nữ, Hằng Nga mà còn được so sánh với Phật bà Quan Âm, Phan Sinh còn ngỡ tưởng rằng có phải Quan Âm hiện lên. Cử chỉ của nàng cũng thật e lệ: Nghiêng mình hé bức rèm sương, Chiều thanh khép nép, tiếng vành khoan thai. (615-616) Nàng chỉ “nghiêng mình” một cái cũng đủ làm nghiêng lòng quân tử, khiến cho chàng phải thổn thức trăm bề. Bởi người con gái có sức hấp dẫn và quyến rũ đến vậy đứng trước mắt, những lời Phan Công căn dặn từ trước lúc chàng đi thi đều tan thành tro bụi. Emanuel Kant đã nói rằng: “Cái đẹp không nằm trên đôi má của người thiếu nữ mà nằm trong đôi mắt của kẻ si tình”. Câu nói này thật đúng với Phan Tất Chính, chàng quên hết mọi chuyện thế gian mà chỉ hướng tầm mắt về phía nàng, trong mắt chàng giờ đây chỉ còn có nàng mà thôi. Phan Sinh luôn thấy Kiều Liên đẹp, nàng đẹp ở mọi lúc, mọi nơi, đẹp ở nhan sắc, không chỉ như “tiên nữ”, “Hằng Nga” mà còn sánh với “Đức Quan Âm” và ở cả tâm hồn. Đó là nét đẹp mụ mị của người đang yêu, vì khi yêu người mình yêu là đẹp nhất, hoàn hảo nhất, nhưng đúng là nàng đẹp thật, một vẻ đẹp say đắm lòng người. Phan Sinh không những đã đem lòng cảm mến Diệu Thường, chàng còn to gan mượn bà vãi Hương công làm mối, ấy vậy vãi Hương nhận lời giúp 31
- Phan Sinh. Theo lẽ thông thường, nhà sư sao có thể giúp làm mối, mà mối ai không mối lại mối với Diệu Thường cũng tu ở chùa. Nghe thật trái ngược, vô lí. Tuy nhiên, nhà sư ở đây không phải là người theo quan niệm từ bi bác ái thông thường của tôn giáo này mà trở thành một nhà nhân đạo chủ nghĩa hết sức thông cảm với mối tình của đôi trai gái. Và hơn nữa, vãi Hương lại là cô của Phan Sinh, hình ảnh vãi Hương hiện ra ở đây là người cô thương cháu hơn là hình ảnh nhà sư. Đây là một minh chứng hùng hồn cho sự phá vỡ rào cản của lễ giáo phong kiến. Vãi Hương giúp Phan Sinh, đã mấy lần bà qua nói chuyện với nàng nhưng đều bị nàng cự tuyệt: Chốn này chẳng khá dạy lời ong ve! Kiếp tu đã nguyện bồ đề, Lòng son bảy mối, tóc thề mười phương. Một đèn, một sách, một hương, Dám còn để mối tơ vương bên lòng. Và người là đấng thư trung, Tấc mây mà nỡ để lòng gương thu. Bao dung xin hãy xét cho, Từ rày những tiếng nhỏ to gác ngoài. (510-518) Kiều Liên ứng xử thật khéo léo, vừa từ chối nhưng lại không khiến người bị từ chối mà phải vì vậy mà tổn thương, lại có thể thông cảm được nỗi khổ của mình. Cách từ chối của nàng kín đáo, nhẹ nhàng, tế nhị, nhưng dứt khoát, dửng dung trước tấm chân tình của một người có tình cảm sâu sắc với nàng. Sau khi nghe xong những lời từ chối của Kiều Liên, chàng thất vọng, “Như nung gan sắt, như bào lòng son” đâm ra tự trách mình trước sự kiên quyết của Kiều Liên. Chàng như bất lực, rồi trách cứ lòng ai sao không hiểu được lòng chàng, sao lại dứt khoát, dửng dung với chàng đến vậy: 32
- Vẻ chi hai chữ tình duyên, Vẽ danh tài tử, nặng phiền giai nhân. Đem mình van thiết mấy lần, Mười phần mà chẳng một phần o e. (529-532) Qua lời tỏ tình thứ ba của Tất Chính, Kiều Liên đã thay đổi thái độ cứng rắn, kiên quyết, dửng dưng sang nài nỉ, kể lể nỗi khổ của mình đồng thời giảng giải sự tình cho người hiểu rồi tùy người định liệu thế nào cho phải. Bị từ chối, Tất Chính thành ra ốm tương tư. Dưới đây là “Bài thơ tương tư của Phan Sinh”: Hai chữ công danh hãy đợi thời Sắt cầm lẩn thẩn áng thiền trai Lòng quê vò võ lần mây ngúi, Nghĩa trước bùi ngùi bóng nguyệt khơi. Non nước luống ghi niềm tử tại, Lửa hương khôn thấu dạ Như Lai. Anh hùng còn chắc kiền khôn rộng, Mười ước lo sao vẹn cả mười. Phan Sinh ốm tương tư, mà ngay cả “liên nhục liên kiều” cũng không chữ khỏi được: Có chăng liên nhục liên kiều, Dùng phương đồng nữ mới tiêu bệnh chàng. (605-606) Có chăng phương thuốc trị được bệnh tương tư cho Phan Sinh chính là người con gái chàng yêu - Diệu Thường, nhưng nàng lại cự tuyệt chàng, vậy còn phương thuốc nào có thể cứu được chàng nữa. Chàng còn toan tự vẫn trước mặt nàng vì thế dân gian mới có câu “Làm trai chớ kể Phan Trần” là như vậy. 33
- Thế nhưng, nữ nhi có cứng rắn đến đâu thì trái tim rồi cũng động lòng trắc ẩn. Khi Phan Sinh ốm tương tư, Diệu Thường vì nể sư cô đã tới thăm Phan Sinh và tối hôm đó Phan Sinh đánh bạo đến gõ cửa phòng Diệu Thường để ngỏ lời cảm ơn. Lúc đầu nàng từ chối, nhưng về sau sợ Phan Sinh làm liều nên đành phải mở cửa cho chàng vào. Qua mấy lời trao đổi, hàn huyên, họ đem trâm, quạt ra và nhận ra nhau. Trước khi nhận ra Phan Sinh, Kiều Liên luôn gửi tấm lòng thủy chung, thương nhớ về người chồng đã đính ước chưa biết mặt của mình. Nhưng khi đứng trước tình yêu, nàng trở nên bối rối, trong suy nghĩ có sự mâu thuẫn giữa nghĩa và tình. Trong lòng nàng hình như tình cảm của nàng đã dành cho chàng thư sinh này, tình cảm ấy không biết có từ khi nào. Nàng không còn thái độ dửng dưng mà trở nên nhỏ nhẹ, tỉ tê, tâm sự: Dù chàng ép trúc, nài mai, Tìm nơi giếng cạn thấy người hồng nhan. Để ai ngọc nát hoa tàn, Giải oan, chàng phải lập đàn cho nhau. (727-730) Kiều Liên và Tất Chính dường như đã có mối linh cảm từ trước, mà có thể linh cảm được chỉ có thể là họ có duyên nợ với nhau. Rung động trước tình yêu, Kiều Liên khó cưỡng lại được. Dù khước từ tình cảm nhưng ta vẫn thấy trong đó ẩn chứa muôn vàn nao núng của nữ nhi trước mối tình của khách văn nhân tài mạo. Nghĩa và tình cứ mãi đấu tranh trong tâm hồn nàng, nhưng may thay, việc so trâm quạt đã giúp họ nhận ra nhau. Phan Sinh nhận ra Diệu Thường chính là Kiều Liên, còn Kiều Liên nhận ra chàng thư sinh ngày đêm thương nhớ mình chính là Phan Sinh: Bấy lâu mơ tưởng đêm ngày, Ai ngờ Phan đấy Trần đây mà lầm, Tri âm chưa tỏ tri âm, Thì xin bên quạt, bên trâm sóng vào. 34
- Vội vàng mở tráp tay trao, Nhìn xem nào có chút nào là sai? Cành trâm chiếc quạt chữ bài, Rành rành tên tuổi hai người song song. (733-740) Nghĩa và tình không còn mâu thuẫn, đối lập, đấu tranh gay gắt với nhau mà nghĩa, tình bắt tay nhau đem lại hạnh phúc trọn vẹn cho lứa đôi. Dường như việc so tram, quạt chỉ là cái cớ để Kiều Liên đi theo tiếng gọi của tình yêu. Nhận ra nhau, đôi lứa vui mừng khôn xiết: Mừng nhau lần kể sự lòng, Gian nan ngày trước lạnh lùng bấy nay. Biên lời đấy, chép lời đây, Bút hoa dẫu vạn, tờ mây dẫu nghìn. Sa vàng lẫn áo hồng chiên, Hết bên sầu não tới bên vui mừng. (741-746) Nhờ tài năng của tác giả, người đọc như được chứng kiến chuyện tình của đôi trai gái vượt ra khỏi khuôn khổ của lễ giáo mà vẫn đúng trong vòng khuôn phép. Sau khi nhận ra nhau, họ vẫn giữ kín, trong chùa không ai biết. Từ đó mái đình tam quan trở thành nơi bí mật hẹn hò của đôi trai gái: Thông thông, trúc trúc, mai mai, Ngày người đất bụt, đêm người động tiên. (759-760) Phan Sinh và Kiều Liên ý thức được họ đang sống trong cảnh nhà chùa nên ban ngày họ phải giữ phép nhà chùa, nhưng đêm đến thì hai người lại gặp nhau chuyện trò ái ân, có ai biết được rằng bên trong những nguyên tắc của Phật giáo đã bị phá vỡ. Dường như tác giả cũng muốn chia 35
- vui với đôi tình nhân, nhưng tác giả còn khẽ nhắc họ việc quan trọng hơn là “lai kinh ứng thí”: Nàng rằng: Chàng quyết học khoa, Tỏ ngày áo gấm xem hoa sẽ về. Ở đây nương cửa bồ đề, Đăm đăm một tấm lòng quỳ hướng dương. (771-774) Sau đó Phan Sinh xin phép sư cô và tạm biệt Diệu Thường lên đường trở lại Thành đô dự kì thi Hội. Khoa thi này Phan Sinh đỗ Thám hoa. Trên đường về vinh qui, chàng trở lại chùa và đem thực tình bạch với sư cô. Sư cô vun vén cho đôi lứa, bàn làm hôn lễ tại nhà họ Trương: Sư rằng: Phận đẹp duyên ưa, Mừng cho đôi lứa đã vừa đồng cân. Gần đây đã có một người, Đưa nàng đến chốn Phật đài ngày xưa Cậy người làm lễ ông tơ, Xin hầu sang đấy mà đưa nàng về. Mừng hầu phi chí nam nhi, Vinh quy cùng với vu quy một ngày (815-824) Phan Sinh và Kiều Liên cuối cùng họ cũng cùng nhau vinh qui bái tổ. Về việc Trần phu nhân sau khi chạy loạn “lỡ bước long đong” tìm đến nhà Phan Công làm nơi nương náu. Bấy giờ gặp nhau đủ mặt hai họ, hạnh phúc không sao tả xiết. Rồi Phan Sinh được triệu về kinh nhận chức, lại được cử đi dẹp giặc. Sau khi thắng trận trở về, chiến công rực rỡ, cả hai vợ chồng đều được phong thưởng, vinh quang, phú quí ai bì: Đồng hưu rờ rỡ thẻ khuyên, Công khi các phượng tên truyền đài nhân. Nhà chung đỉnh, cửa đai cân, 36
- Vinh phong sắc “Quận phu nhân” cho nàng. Móc mưa nhuần gội ơn sang, Nên nhân cây đức, bày hàng quế sang. Trăm năm duyên đẹp phượng loan, Tao khang hai chữ Trần, Phan chuyện đời Ngẫm xem tác hợp cơ giời, Quốc âm chấp chánh mấy lời làm ghi (921-930) Trước bức tường thành kiên cố của lễ giáo phong kiến, đôi trai gái đã dùng sức mạnh của tình yêu để vượt qua bức tường ấy để có được tình yêu và hạnh phúc. Phan Sinh và Trần Kiều Liên dù hôn nhân đều do cha mẹ quyết định, nhưng về sau việc họ đến với nhau là do tự nguyện, khi hai trái tim đã cùng chung nhịp đập, những dòng cảm xúc yêu thương đã gắn kết hai tâm hồn lại với nhau, đồng thời tạo nên một câu chuyện tình hết sức lãng mạn. Mối tình của Tất Chính và Kiều Liên là một mối tình rất đẹp xảy ra ở chùa mà không lễ giáo phong kiến nào có thể ngăn cản nổi. Tình yêu chính là sức mạnh phi thường giúp con người vượt ra khỏi những lễ giáo khắt khe để có được cuộc sống hạnh phúc và tốt đẹp. Nó trở thành thứ vũ khí sắc bén, góp phần lên án thế lực phong kiến đen tối tàn bạo đang bóp nghẹt những khát vọng dân chủ và chà đạp lên quyền sống của con người. Tiểu kết chương 2 Truyện Phan Trần mang nội dung sâu sắc và đậm chất nhân văn, nhân đạo chủ nghĩa, thể hiện sự sáng tạo của tác giả trong việc xây dựng câu chuyện tình yêu trước sự ràng buộc, chi phối mạnh mẽ của lễ giáo phong kiến nhưng cuối cùng với sự mạnh mẽ hơn cả tình yêu đã chiến thắng. Tình yêu ở đây vừa mang nét hiện đại, vừa mang nét truyền thống. 37
- CHƯƠNG 3 TRUYỆN PHAN TRẦN VÀ MỘT SỐ PHƯƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT 3.1. Kết cấu Kết cấu là hệ thống những yếu tố, những mối quan hệ, liên hệ giữa bộ phận và tổng thể. Kết cấu tác phẩm gắn liền với văn bản, ngôn từ, quan hệ không gian, thời gian, quan hệ nhân quả với các phương thức riêng biệt, tạo nên thế giới nghệ thuật mới mẻ. Kết cấu là sự sắp xếp, tổ chức các thành tố của văn bản thành một đơn vị thống nhất, hoàn chỉnh và ý nghĩa. Như bản thiết kế cần thiết cho việc xây dựng một ngôi nhà, bất kì một văn bản nào cũng có một kết cấu nhất định hàm chứa dụng ý của tác giả sao cho phù hợp với nội dung văn bản. Kết cấu là toàn bộ tổ chức phức tạp và sinh động của tác phẩm. Nó sắp xếp, gắn kết toàn bộ các yếu tố, thành phần để tạo nên một sinh thể nghệ thuật toàn vẹn. Không có kết cấu, những yếu tố, những thành phần chỉ là những mảnh vụn rời rạc. Như vậy, kết cấu là một phương tiện cơ bản của sáng tác nghệ thuật. Có nhiều hướng khi nghiên cứu mô hình kết cấu truyện thơ Nôm, trong các hướng nghiên cứu, trong các công trình, mô hình kết cấu truyện thơ Nôm, giới khoa học đã nhất trí với kết luận: thứ nhất, cách kể chuyện theo tình tự tuyến tính của thời gian; thứ hai, kết cấu cốt truyện theo ba sự kiện lớn: Hội ngộ - lưu lạc - đoàn tụ; thứ ba là chiều hướng kết thúc có hậu. TS. Nguyễn Thị Nhàn đã có công trình nghiên cứu về mô hình kết cấu truyện thơ Nôm, công trình này đã có hướng nghiên cứu mới, đó là: mô hình kết cấu cốt truyện truyện thơ Nôm theo trình tự thời gian và mô hình kết cấu cốt truyện truyện thơ Nôm không theo trình tự thời gian, trong đó lại chia nhỏ thành nhiều loại. Truyện Nôm là tác phẩm tự sự và dường như “các truyện Nôm đều cho thấy một cấu trúc truyện tương đồng” [23,tr19]. Theo quan niệm truyền 38
- thống, kết cấu truyện Nôm được xây dựng theo mô hình ổn định của hệ thống cốt truyện với ba sự kiện cơ bản: Gặp gỡ- tai biến- đoàn tụ, song kết cấu của Truyện Phan Trần có chút đặc biệt. Nếu như ở Truyện Kiều, sự kiện tai biến kéo dài kể về cuộc đời mười lăm năm lưu lạc của Thúy Kiều với hai lần rơi vào lầu xanh, hai lần đi trốn, ba lần định tử tự, ba lần đi tu thì ở Truyện Phan Trần sự kiện kéo dài lại là gặp gỡ. Phan Sinh và Kiều Liên đã được cha mẹ định hôn từ khi còn trong bào thai nhưng loạn lạc đã khiến hai người khó có thể gặp lại nhau và rồi như duyên đã định, họ gặp nhau trong hoàn cảnh đặc biệt – nơi cửa chùa. Người gặp loạn lạc, người đi thi hỏng đều nương thân nhờ cửa Phật, Phan Sinh gặp và yêu đến si mê Kiều Liên dù biết nàng đã xuất gia, năm lần bảy lượt nàng chối từ tình cảm của chàng. Bị khước từ tình cảm, Phan Sinh ốm tương tư, thậm chí còn định tìm đến cái chết, sư cô Diệu Thường đành sang thăm và rồi hai người trò chuyện, giãi bày tâm sự. Cuối cùng họ mang quạt, trâm ra so mới nhận ra nhau: Cành trâm chiếc quạt chữ bài, Rành rành tên tuổi hai người song song. (739-740) Sự kiện gặp gỡ đến đây vẫn chưa kết thúc, đôi lứa nhận ra nhau, sức mạnh của tình yêu đã giúp họ vượt qua mọi ràng buộc của tôn giáo, mái đình tam quan trở thành nơi hẹn hò, thiên đường tình ái của đôi trẻ: Thông thông, trúc trúc, mai mai, Ngày người đất bụt, đêm người động tiên. (759-760) Sự kiện tai biến được tính từ lúc Phan Sinh chia tay lên đường đi thi sau ba năm ở lại chùa. Đây cũng là lúc kết thúc sự kiện gặp gỡ. Như đã nói ở trên, sự kiện này trong Truyện Kiều của Nguyễn Du kéo dài, suốt mười lăm năm lưu lạc của nàng Kiều thì ở tác phẩm này dường như sự kiện tai biến không hề 39
- xảy ra, bởi đôi trẻ chỉ tạm thời chia li trong chốc lát rồi nhanh chóng đoàn tụ. “Sự kiện tai biến ở đây chỉ là cái cớ ngụy trang cho câu chuyện yêu đương của đôi bạn trẻ” [23,tr177]. Sự kiện đoàn tụ được tác giả xây dựng vô cùng viên mãn, đôi lứa sum họp bên nhau trong sự sum họp của cả hai gia đình. Truyện khép lại bằng một kết thúc đẹp. Kiều Thu Hoạch có nhận xét như sau: “Về mặt xây dựng cốt truyện, hình thái cấu trúc của truyện Nôm cũng vẫn là truyện cổ tích, tức là cấu trúc theo mô hình kết thúc có hậu”. Ở đây, Truyện Phan Trần cũng là truyện Nôm với kết thúc tác phẩm là một cái kết có hậu như đã nói ở trên. Phần lớn các truyện Nôm đều mượn kết cấu, cốt truyện của truyện cổ dân gian hay các sự tích, truyện cổ bên Trung Quốc và bảo lưu khuôn dạng của truyện cổ. Cơ sở cốt truyện là xung đột xã hội, xung đột giữa thiện - ác hay chỉ biểu hiện ở góc độ bảo vệ tình yêu, hạnh phúc, chống lại sự thống trị của giai cấp phong kiến. Truyện Phan Trần là một truyện Nôm khuyết danh bắt nguồn từ vở kịch Ngọc Trâm Ký của Cao Liêm đời Minh bên Trung Quốc, truyện được xây dựng trên cơ sở cốt truyện của tác phẩm này, biểu hiện góc độ bảo vệ tình yêu, hạnh phúc. Đó là tình yêu của đôi trai gái Tất Chính- Kiều Liên, một tình yêu vượt lễ giáo nhưng vẫn nằm trong vòng khuôn phép. Kết cấu của tác phẩm gắn liền với chất trữ tình, chuyện của Phan Sinh - Kiều Liên là ái tình say đắm. Kết cấu của tác phẩm đã thể hiện được tài năng và sáng tạo của tác giả vô danh. Nhờ sự sáng tạo ấy, tình huống truyện được dựng lên như vừa có chủ tâm nghệ thuật, vừa có ngẫu nhiên, đơn giản. Với cách kết cấu như vậy, tác giả đã khiến cho mạch kể của tác phẩm nhanh chóng phát triển theo khuynh hướng của nó đồng thời tạo ra độ gấp khúc. Tác phẩm kết thúc có hậu thể hiện chính mong ước, khát vọng mãnh liệt của nhân dân về một tình yêu tự do, cuộc sống hạnh phúc, công bằng. 40
- 3.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật Nhân vật văn học là những con người được miêu tả trong tác phẩm bằng phương tiện văn học. Những con người này có thể được miêu tả kỹ hay sơ lược, sinh động hay không rõ nét, xuất hiện một hay nhiều lần, thường xuyên hay từng lúc, giữ vai trò quan trọng nhiều, ít hoặc không làm ảnh hưởng nhiều lắm đối với tác phẩm. Bettong Brecht cho rằng: “Các nhân vât của tác phẩm nghệ thuật không phải đơn giản là những bản dập của những con người sống mà là những hình tượng được khắc họa phù hợp với ý đồ tư tưởng của tác giả”. Để xây dựng thành công một nhân vật văn học, nhà văn phải có khả năng đồng cảm, phát hiển những đặc điểm bền vững ở nhân vật. Điều này đòi hỏi nhà văn phải hiểu đời, hiểu người. Nhưng có một điều không kém phần quan trọng là nhà văn phải miêu tả, khắc họa nhân vật ấy ra sao cho có sức thuyết phục mạnh mẽ đối với người đọc. Đây là vấn đề liên quan trực tiếp đến những biện pháp xây dựng nhân vật trong tác phẩm văn học. Nhân vật trong Truyện Phan Trần có số lượng như sau: Nhân vật chính: 3 gồm Phan Sinh, Kiều Liên, Sư trụ trì (Hương). Nhân vật trung tâm: 2 gồm Phan Sinh, Kiều Liên. Nhân vật phụ: 3 gồm Phan công, Trần công, người phụ nữ họ Trương. Số lượng nhân vật trong tác phẩm rất ít, tuy vậy nhưng không làm giảm sự hấp dẫn của tác phẩm bởi tác giả đã xây dựng câu chuyện với những tình tiết hay và mới lạ. Nếu như trong Truyện Kiều, Nguyễn Du chia nhân vật của mình theo hai tuyến: tuyến nhân vật chính diện tả theo bút pháp ước lệ, tuyến nhân vật phản diện tả theo bút pháp tả thực thì Truyện Phan Trần tác giả lại không chia giống như vậy. Sở dĩ vậy là bởi trong Truyện Phan Trần không có tuyến nhân vật phản diện mà các nhân vật trong tác phẩm đều là những 41
- nhân vật chính diện. Thông thường trong truyện Nôm khi miêu tả nhân vật là người tốt sẽ là những người có dung mạo đẹp, có học vấn và ăn nói văn hoa, cử chỉ, hành động thì đoan trang, mực thước. Các nhân vật chính diện ấy được tác giả tả theo bút pháp ước lệ tượng trưng, bút pháp quen thuộc của văn chương trung đại, không chỉ có tác giả của Truyện Phan Trần mới sử dụng mà hầu hết các nhà thơ, nghệ sĩ của văn học trung đại đều sử dụng đến. Tác giả đã sử dụng bút pháp ước lệ tượng trưng để miêu tả nhân vật của mình từ ngoại hình đến cử chỉ, hành động mà ở đây là Phan Sinh và Kiều Liên. Ngay từ đầu tác phẩm, tác giả đã giới thiệu cho người đọc một trang văn nhân tài mạo, với tầm thước đĩnh đạc hơn người: Ôi nao thằng đỏ tốt lành, Hai vai chính chện, ba đình nở nang. Đành hay phi chí bồng tang, Đặt cho Tất Chính rõ ràng là tên. (39-42) Chỉ bằng vài nét vẽ, dăm ba từ ngữ chấm phá tác giả đã làm hiện lên một chàng thư sinh có tướng hiền quý. Hình ảnh Tất Chính tượng trưng cho một “trang văn nhân tài tử” nên tác giả đã sử dụng bút pháp ước lệ tương xứng “hai vai chính chện, ba đình nở nang”. Đó là một vẻ đẹp cân đối, hài hòa, tỏ rõ chí nam nhi, một người vừa có sức vóc, vừa có tài năng, nhân tài này sẽ làm nên được việc lớn. Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du cũng đã sử dụng bút pháp ước lệ khi miêu tả Từ Hải: Râu hùm hàm én mày ngài, Vai năm thước rộng thân mười thước cao. 42
- Từ Hải được nhà thơ xây dựng giống như hình tượng người anh hùng trong xã hội lúc bấy giờ. Đó là người anh hùng với dáng hình “vai năm thước rộng, thân mười thước cao”. Có thể nói qua câu thơ miêu tả của Nguyễn Du về hình dáng của Từ Hải ta thấy được một hình ảnh người anh hùng thứ thiệt, mang tầm vóc ngang tàn, hoành tráng của những anh hùng thời xưa. Đó chính là nét đẹp phương phi của những người anh hùng thời xưa mà qua đây chúng ta biết thêm về nét đẹp ấy. Từ Hải được miêu tả với những vẻ đẹp của người anh hùng thì Kim Trọng lại được miêu tả là một văn nhân với phong thái trang nhã, lịch sự: Trông chừng thấy một văn nhân, Lòng buông tay khấu bước lần dặm băng. Đề huề lưng túi gió trăng, Sau lưng theo một vài thằng con con. Tuyết in sắc ngựa câu dòn, Cỏ pha mùi áo nhuộm non da trời. Bên cạnh nhân vật Phan Sinh, Kiều Liên được tác giả miêu tả theo bút pháp ước lệ, tượng trưng với tần số lớn hơn. Tác giả dùng bút pháp ước lệ tượng trưng để miêu tả vẻ đẹp của Kiều Liên. Văn học trung đại thường sử dụng bút pháp ước lệ tượng trưng để miêu tả vẻ đẹp của người phụ nữ, lấy thiên nhiên làm thước đo vẻ đẹp con người. Chẳng hạn, Nguyễn Du đã miêu tả vẻ đẹp của chị em Thúy Kiều: Vân xem trang trọng khác vời, Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang. Hoa cười ngọc thốt đoan trang, Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da. Kiều càng sắc sảo mặn mà, So bề tài sắc lại là phần hơn. Làn thu thủy nét xuân sơn, Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh. 43
- Với Nguyễn Du, “nét ngài nở nang” là nét đẹp hài hòa, duyên dáng, là cân đối, phù hợp với “khuôn trăng đầy đặn” của Thúy Vân. Với vẻ đẹp đoan trang, báo hiệu cho nàng một cuộc sống an nhàn, hạnh phúc. Vẻ đẹp của Thúy Vân tưởng chừng không ai sánh được, nhưng Thúy Kiều lại có vẻ đẹp vượt trội “sắc sảo mặn mà” hơn Thúy Vân, vẻ đẹp ấy khiến “hoa ghen”, “liễu hờn”. Một vẻ đẹp khiến tạo hóa phải ghen tị báo hiệu cho một cuộc bể dâu của kiếp hồng nhan. Thúy Vân, Thúy Kiều của Nguyễn Du có vẻ đẹp như vậy thì Kiều Liên của Truyện Phan Trần cũng có vẻ đẹp không thua kém: Một nàng tiên nữ xinh sao Mày ngang bán nguyệt, miệng cười trăm hoa. Mỹ miều cung quế Hằng Nga Trần Công mới đặt tên là Kiều Liên (45-48) Tác giả đã sử dụng hai từ “bán nguyệt”, “trăm hoa” để miêu tả Kiều Liên. Hai từ đó không chỉ đơn thuần dùng để miêu tả nét mày ngài và nụ cười duyên của người con gái, mà ta thấy nét ngài ở đây minh bạch, rõ ràng, uốn cong, thanh tú của nàng còn là sự đầy đặn, mỹ mãn của số phận, của cuộc đời nàng. Hai chữ “nguyệt”, “hoa” dùng chỉ thiên nhiên và cũng chính là tạo hóa sẽ cùng cộng hưởng tô điểm nét đẹp như “tiên nữ” cho nàng Kiều Liên. Vẻ đẹp của Kiều Liên còn được sánh bằng Hằng Nga: Ấy ai tầm thước trẻ trung Chực hầu sư phụ đứng trong giảng đường? Bấy giờ e lệ chưa tường, Lâu lâu lại lấp lánh gương ả Hằng. (361-364) 44
- Kiều Liên không chỉ mang vẻ đẹp của nàng tiên nữ, Hằng Nga mà nàng chính là một tuyệt thế giai nhân, nhìn dáng hình thấp thoáng xa xa đã thấy nàng đẹp: Xa xa phảng phất dáng hình, Đức Quan Âm đã giáng sinh bao giờ. (391-392) Dáng hình mới chỉ thấp thoáng xa xa mà đã thấy đẹp đên mức như Quan Âm tái thế, đẹp đến vậy chỉ có thể là nhan sắc của một tuyệt thế giai nhân: Kể từ đến cảnh Bồng Lai, May thay đã trộm thấy người tiên cung. (395-396) Không phải đơn thuần mà vẻ đẹp của Kiều Liên được so sánh với tiên nữ, Hằng Nga, Quan Âm, đây chính là nét đặc sắc của bút pháp trung đại. Văn học thời kì này thường viết về những người đẹp, những trang tuyệt thế giai nhân. Tác giả không chỉ dừng lại ở việc khắc họa chân dung vẻ đẹp Kiều Liên, mà còn chú ý cả việc xây dựng cử chỉ, tiếng nói, ánh mắt, nụ cười của nhân vật khi đã đi tu theo Phật: Nghiêng mình hé bức rèm sương, Chiều thanh khép nép, tiếng vàng khoan thai. (615-616) Chính cử chỉ nhẹ nhàng, e lệ, đoan trang ấy đã vô tình khiến chàng trai Phan Sinh si mê, chỉ một cái “Nghiêng mình” cũng đủ làm nghiêng lòng quân tử, khiến cho “khách phòng trai” phải thổn thức trăm bề. Khi nói năng nàng chỉ “rón rén”, nhỏ nhẹ, từ tốn. Khi đi đứng thì nhẹ nhàng, giọng nói khoan thai, cử chỉ thì khép nép. Ngay cả khi nàng khóc, tác giả cũng sử dụng những từ mỹ lệ miêu tả giọt nước mắt cửa nàng, “hạt 45
- châu, hạt ngọc” hay “phấn trôi quyên má”, khi khóc nàng trông vẫn duyên dáng và xinh đẹp. Tác giả xây dựng nàng Kiều Liên không chỉ đẹp ở ngoại hình mà nàng còn là người có tài: “Gồm hay Thi, Lễ, làu thông cầm kỳ”, hai chữ “làu thông” đã nhấn mạnh trí tuệ thiên bẩm và tài năng của nàng Kiều Liên. Nó không chỉ khắc họa tính cách nhân vật và là cả một nhân cách. Kiều Liên không chỉ đẹp mỹ miều, duyên dáng, nàng còn sở hữu một vẻ đẹp vừa rực rỡ, vừa hấp dẫn, vừa có hồn, vừa chiếm được cảm tình với bạn đọc. Không phải vì vẻ “sắc nước hương trời”, tài năng hiếm có của nàng mà chủ yếu là về phẩm cách tuyệt vời, một trí tuệ hơn người. Truyện Nôm thường ít khi miêu tả nội tâm nhân vật, nếu có thì chỉ là một vài dòng tâm lí. Tiêu biểu cho số ít truyện Nôm miêu tả nội tâm nhân vật chính là Truyện Kiều của Nguyễn Du, chẳng hạn với đoạn trích Trao duyên, nỗi đau xót của Thúy Kiều cao trào ở hai câu cuối: Ôi kim lang! hỡi kim lang! Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây! Tác giả Truyện Phan Trần cũng xây dựng nhân vật của mình, tiêu biểu là nhân vật Kiều Liên với những nét tâm lý. Trước hết là những dòng miêu tả tâm trạng nhớ thương khôn nguôi về mẹ hiền: Ra chiều ủ liễu phai đào, Hạt châu lai láng quyện bào chưa phai. (245-246) Mẹ già bóng ngã cành dâu, Phòng khi sốt mặt, váng đầu cậy ai. (263-264) Khi chưa nhận ra Phan Sinh, Kiều Liên luôn gửi gắm tấm lòng nhớ mong, chờ đợi tình quân của mình. Nhưng khi đứng trước tiếng gọi của tình 46
- yêu, dù biết trái tim đã đập lỗi nhịp nhưng nàng vẫn giữ trọn nghĩa với người xưa. Khi tiếng gọi của tình yêu càng réo, tâm hồn nàng càng mâu thuẫn, dằn vặt giữa nghĩa và tình. Giữa một bên là nghĩa, một bên là tình, hai bên mâu thuẫn, xung đột gay gắt với nhau khiến nàng không còn bình tĩnh được nữa. Nàng băn khoăn, nếu nghe theo chàng thì phụ nghĩa xưa, trở thành đứa con bất hiếu cãi lời cha mẹ, nếu vẹn nghĩa xưa thì chàng đau đớn, xót xa mà nàng cũng không đành lòng. Vì thế mà khi lần thứ nhất, thứ hai nàng kiên quyết từ chối tình cảm của chàng nhưng đến lần thứ ba nàng nhỏ nhẹ: Dù chàng ép trúc nài mai, Tìm nơi giếng cạn thấy người hồng nhan. Để ai ngọc nát hoa tàn, Giải oan chàng phải lập đàn cho nhau. (727-730) Chính sự xung đột giữa tình và nghĩa trong tâm hồn Kiều Liên đã tạo nên nét đặc sắc trong tâm lý nhân vật. Trong lúc nghĩa và tình đang xung đột gay gắt, may thay hai người so trâm, quạt mà nhận ra nhau vui mừng khôn xiết “mừng nhau lần kể sự lòng”. Ngoài Phan Sinh và Kiều Liên còn phải kể tới nhân vật sư trụ trì Hương ở chùa Nữ Trinh, sư cô được xây dựng trong tác phẩm là người truyền lại lời Phật dạy, truyền dạy đạo lí Phật giáo cho các tiểu tăng. Người tu hành theo đạo Phật cũng phải tuân theo những quy tắc, thế nhưng sư cô Hương ở đây không chỉ được xây dựng là nhân vật với vai trò truyền dạy đạo lí của nhà Phật mà còn là “bà mối”. Sau khi Phan Sinh nài nỉ giúp ngỏ lời sư cô Hương đã đồng ý qua khuyên nhủ Kiều Liên, tuy nhiên, việc sư cô làm không phải là trái ngược với đạo lí nhà Phật, điều đó thể hiện sự từ bi đối với đôi trai gái bởi bà hiểu hoàn cảnh của Kiều Liên, hiểu được tấm chân tình của Phan Sinh. Sư cô Hương là con người của cửa thiền và có tấm lòng từ bi hỉ xả theo tinh thần 47
- của nhà Phật. Từ điển thuật ngữ văn học nhận định: “nhà sư ở đây có tính cách như một nhà nhân đạo chủ nghĩa, sẵn sàng thông cảm với tâm sự của đôi trai gái, giúp họ có điều kiện gần gũi nhau, thông cảm với nhau để yêu nhau” [8,tr397]. Còn một nhân vật nữa tuy không xuất hiện nhiều nhưng không thể không nói tới ở đây, đó là người đàn bà họ Trương, người đã gặp và giúp đỡ Kiều Liên khi gặp nạn, đưa nàng tới chùa Nữ Trinh và hơn nữa còn là người giúp nàng cùng Phan Sinh “làm lễ ông tơ”. Có thể nói, cả sư vãi Hương và người họ Trương đều là những người có tấm lòng nhân ái, tấm lòng từ bi hỉ xả. Bằng việc sử dụng bút pháp ước lệ tượng trưng, tác giả đã thành công trong việc xây dựng hình tượng nhân vật lý tưởng, nhân vật chính diện có vẻ đẹp hài hòa giữa thể chất và tâm hồn, trở thành người đại diện cho những phẩm chất đạo đức tốt đẹp. 3.3 Không gian, thời gian Mỗi tác phẩm đều chứa đựng trong nó rất nhiều yếu tố để tạo nên tác phẩm, trong đó không thể không nhắc tới yếu tố không gian và thời gian trong tác phẩm văn học. Đó không phải là không gian, thời gian thông thường vì khi vào tác phẩm nó trở thành không gian và thời gian nghệ thuật. Không gian nghệ thuật là hình thức tồn tại của hình tượng nghệ thuật, đó là không gian tồn tại, sinh hoạt của nhân vật, là bối cảnh để thể hiện suy nghĩ, hành động. Nó còn là nền, là cảnh cho sự kiện, Không gian nghệ thuật tồn tại trong Truyện Phan Trần không gian chùa chiền và đó cũng là không gian của tình yêu đôi lứa. Trước hết ta nói tới không gian chùa chiền - không gian tịnh đường. Không gian như hiện lên trước mắt người đọc: Mới hay sơn thủy hữu tình, Có hoa đón khách, yến anh đưa người. 48
- Cửa chùa phơi phới gần nơi, Nhác trông cửa Bụt bầu giời lạ sao. Chập chừng quán thấp lầu cao, Hương nghi ngút tỏa, hương ngào ngạt bay. Chuông rền, mô ruổi, khánh lay Thông già điểm trống, trúc gầy khua sênh. (315-322) Trong tâm thức người Việt Nam, chùa là nơi tĩnh lặng, linh thiêng, là nơi mọi người đến nương nhờ Đức Phật để cầu bình an, hạnh phúc. Vì thế mà Kiều Liên lưu lạc nương nhờ cửa Phật, Phan Sinh thấy tĩnh lặng, thoáng đãng nên xin cô ở lại cho tiện việc đèn sách. Không gian chùa chiền ở đây không phải không gian tịnh đường như thông thường mà là “không gian tịnh đường được trần tục hóa, lãng mạn hóa” [10,tr93]. Không gian này cũng chính là không gian của đôi lứa gặp gỡ và yêu nhau, Phan Sinh và Kiều Liên gặp nhau trong không gian đặc biệt. Chàng Phan khi thi Hội hỏng, phần vì hổ thẹn, phần quyết tâm năm sau thi lại nên không về nhà mà tới ở ngôi chùa người cô tu ở Kim Lăng, tại đây, chàng đã gặp Diệu Thường và đem lòng cảm mến tương tư. Ban đầu, Diệu Thường chưa có tình cảm với Phan Sinh nhưng rồi sau đó lại yêu lúc nào không hay. Đôi trai gái yêu nhau ngay trong không gian chùa chiền, “Ngày người đất bụt, đêm người động tiên”, ban ngày họ giữ phép tắc của chùa nhưng đến đêm họ hò hẹn nhau không ai biết. Thời gian nghệ thuật là “hình thức nội tại của hình tượng nghệ thuật, thể hiện tính chỉnh thể của nó”. Thời gian nghệ thuật trong Truyện Phan Trần là thời gian tuyến tính nên người đọc dễ dàng theo dõi, đó là từ khi Phan Sinh và Kiều Liên chưa sinh ra đã được đính ước đến khi hai người trưởng thành và cuối cùng khi hai người cùng bên nhau hưởng cuộc sống vinh quang, phú quý. 49
- Trong Truyện Phan Trần, tác giả không chỉ sử dụng bút pháp ước lệ để xây dựng nhân vật mà thời gian cũng được ước lệ: Ba trăng nấn ná thiền quan Hay: Khúc cầm thông mới dạo sương, Chào oanh sớm đã sỗ sàng tin mai. (763-764) “Ba trăng” ở đây tức là ba tháng ròng Phan sinh ở lại chùa và đem làng nhớ thương sư vãi Diệu Thường. Ba mùa trăng trôi đi không khiến tình cảm ấy tan đi mà lại góp phần thổi bừng ngọn lửa tình. “Dạo sương” chỉ thời tiết chuyển sang mùa đông và “tin mai” báo tin hoa mai đã nở, thời tiết chuyển sang mùa xuân. Nhà thơ đã khéo léo dàn trải cái thời gian chuyển tiết để nói đến sự quấn quýt của đôi trai gái yêu nhau nơi cửa chùa. Không gian của tình yêu đôi lứa là không gian chùa chiền vì thế đôi trai gái hò hẹn nhau chủ yếu là ban đêm chứ không phải ban ngày để tránh làm náo loạn không gian u tịch cửa khổng, và ban đêm cũng là không gian khiến cấu chuyện tình yêu trở nên lãng mạn hơn. Dường như mọi phép tắc của nhà chùa được thực hiện rất chuẩn chỉnh nhưng thực ra sau đó mọi phép tắc đã bị phá vỡ, không gì có thể trở thành rào cản bước chân tình yêu của đôi lứa. Tác giả đã khéo léo xây dựng câu chuyện tình yêu của đôi lứa dưới không gian của mái đình tam quan cùng khoảng thời gian đặc biệt đêm khuya, điều đó đã góp phần tạo nên câu chuyện tình yêu vượt khỏi lễ giáo phong kiến nhưng vẫn trong khuôn phép. 3.4. Ngôn ngữ Trong Truyện Phan Trần, tác giả sử dụng vốn ngôn ngữ phong phú và đa dạng được biểu hiện rõ ràng và cụ thể nhất qua hệ thống ngôn ngữ thể hiện nội dung Phật giáo và sử dụng nhiều điển cố, điển tích và sử dụng chất liệu 50
- dân gian, chính điều này đã làm nên những giá trị nghệ thuật to lớn của truyện Nôm này. Trong tác phẩm, chúng tôi đã thống kê ngôn ngữ có nội dung Phật giáo, được thể hiện dưới bảng sau: Từ, cụm từ (câu thơ số) Từ, cụm từ (câu thơ số) Am (752) Kệ (290, 297) Am mây (193) Kim thằng (436) Bạch sư (296) Kinh (290) Bảo cái (812) Kinh Di Đà (204) Bể Phạn (282) Kinh Tam thừa (286) Bồ tát (888) Kinh sách (826) Mõ cá (284) Khổ hạnh tương cà (253) Muối dưa (283,598) Lễ Phật (9296) Mục Liên (276) Lòng từ (298) Mùi đạo (478) Nem chanh (202) Nam vô (208, 540) Nguyện bồ đề (511) Bình tĩnh thủy (300) Nhà chùa (437) Cành dương chi (300) Nhà sư (840) Bụt (215, 542) Nhân quả (204) Cảnh chân chân (817) Như Lai (211, 678) Cảnh màu (189) Nước cành dương (639) Chiền (835) Phật (198, 683, 883) Chốn Phật Đài (820) Phật bà (434) Chùa (190, 770, 780, 782) Phật tiền (696) Chuông kình (284) Phép bụt (533) Chuông reo mõ nối (811) Phòng thiền (210) Cơ thiền (274) Quyển kinh (242) 51
- Cửa bồ đề (773) Quyển vàng (363) Cửa bụt (190, 317, 765, phần thư) Quy y (368) Cửa chiền (794) Rừng thiền (498, 719) Cửa chùa (317) Sắc không (397) Cửa độ bi từ (200) Sắc sắc không không (259) Cửa già (792, 900) Sư (196, 198, 199, 355, 401, 613, 620, Cửa không (810) 644, 814, 815) Cửa Phật (443) Sư cô (332) Cửa từ (435) Tam đồ (207) Cứu khổ (266) Tam quy ngũ giới (203) Dưa muối (193, 202, 427) Tạng Vương (673) Đạo chân như (199) Tăng (215) Đạo từ bi (369) Tăng già (818) Đèn hạnh (197) Thiên Trúc (292) Đồng phan (812) Thiền môn (195, 527) Độ sinh (266) Thiền quan (463,527) Địa Tạng (275) Thiền tăng (449) Đức từ bi (279) Thiền trai (201) Đức Quan Âm (392) Tiếng kệ câu kinh (572) Đức Thế Tôn (800) Tiếng kệ tiếng kinh (896) Già chiền (424) Tiếng kinh (756) Hỉ xả từ bi (635) Tiểu tăng(192, 668) Huyền Trang (571) Tĩnh đường(212, 448) Hương mầu (197) Tu (273, 312) Hương (242) Tu hành (448) Hàng ngũ vị (286) Vách chiền (356) Xuất gia (191) 52
- Có thể thấy, ngôn ngữ thể hiện nội dung Phật giáo trong tác phẩm xuất hiện với mức độ dày đặc, trong đó có những đoạn thơ dày đặc những từ chỉ nội dung Phật giáo, chẳng hạn: Sư rằng: Này đạo chân như, Viển vông cửa độ bi từ ghè ai. Đã rằng thụ giáo thiền trai, Chớ nề dưa muối, chớ nề nem chanh. Tam qui, ngũ giới chứng tình, Xem câu nhân quả, niệm kinh Di đà. (199-204) Đây là đoạn thơ mà sư vãi Hương khuyên dạy Kiều Liên trước khi xuất gia theo đạo lí nhà Phật, đoạn thơ chỉ có sáu câu thơ lục bát nhưng có đến tám từ là ngôn từ Phật giáo. Bởi Truyện Phan Trần nội dung chính là câu chuyện tình yêu đôi lứa, chính vì thế ngôn ngữ Phật giáo xuất hiện trong tác phẩm chỉ mang màu sắc khái niệm, hiện tượng là chủ yếu, bên cạnh đó cũng đề cập tới những triết lí của đạo Phật. Tác giả đã rất linh hoạt trong việc sử dụng ngôn từ Phật giáo, chẳng hạn để chỉ cửa Phật, tác giả đã sử dụng một loạt các từ cùng nghĩa nhưng vỏ ngôn từ lại không giống nhau: cửa chùa (317), cửa Phật (443), cửa từ (435), cửa bồ đề (câu 773), cửa chiền (779), cửa không (810), chốn Phật đài (câu 820), ; nhiều từ chỉ Đức Phật như: Đức Thế Tôn (800), Phật (198, 683, 833), Phật bà (434), ; những từ ngữ chỉ triết lý nhà Phật, ví dụ “sắc không”: “sắc” chỉ thế giới vật chất, “không” là khái niệm bản thể; “tam quy ngũ giới”: ba điều theo (quy y Phật, quy y pháp, quy y tăng), năm điều cấm (cấm sát sinh, cấm trộm cắp, cấm tà dâm, cấm nói bậy, cấm uống rượu). Sở dĩ Truyện Phan Trần sử dụng nhiều ngôn từ Phật giáo là bởi tác phẩm câu chuyện tình yêu xảy ra ngay chốn Phật đường, đôi lứa gặp gỡ và 53
- yêu nhau dưới mái đình tam quan. Tuy nhiên đây không phải là tác phẩm viết về Phật giáo nên chưa diễn tả sâu sắc triết lý đạo Phật. Ngôn ngữ Phật giáo góp phần thể hiện nội dung tác phẩm ngắn gọn, súc tích, gây ấn tượng trong lòng người đọc. Qua đây thể hiện sự tài tình và tài năng của tác giả trong việc sử dụng ngôn ngữ. Không chỉ mang đậm dấu ấn Phật giáo, Truyện Phan Trần cũng giống như các tác phẩm văn học đương thời, mang đậm dấu ấn của từ ngữ Hán Việt, những điển cố, điển tích. Việc tác giả sử dụng những điển cố, điển tích từ văn học cổ Trung Quốc là một trong những khía cạnh thể hiện sự tài hoa của tác giả trong việc lựa chọn, sắp xếp các hình ảnh, câu chuyện. Có thể người đọc đọc qua không hiểu được điển cố nhưng do tương quan về văn cảnh nên vẫn có thể hiểu được ý của câu thơ, chẳng hạn: Đổi trao chỉ Tấn tơ Tần Họ Phan thời quạt, họ Trần thời trâm (29-30) “Chỉ Tấn tơ Tần” là được lấy từ câu chuyện của hai vua nước Tần - Tấn vào thời Xuân thu, đã có mấy đời kết thông gia với nhau. Dựa vào tích đó, Truyện Phan Trần muốn đề cập đến việc kết thông gia của họ Phan - Trần và mở đầu cho chuyện kết nhân duyên của đôi trai gái trong câu chuyện. Tác giả còn vận dụng rất nhiều những điển cố khác nhau vào cùng một đoạn thơ: Chốn Lam Kiều cách nước mây, Bùi Hàng kia dễ biết dây nẻo nào. Non Thiên Thai mấy trượng cao, Lưu Lang chưa dễ tìm vào tới nơi (235-238) 54
- “Lam Kiều, Bùi Hàng, Thiên Thai, Lưu Lang” đều diễn tả nỗi trăn trở nhớ nhung của Kiều Liên khi đã vào tu ở cùa Nữ Trinh, cách biệt cõi tục, biết bao giờ mới gặp được vị hôn phu để cùng “chỉ Tần tơ Tấn” ghép duyên. Đoạn thơ còn cho thấy sự khéo léo của tác giả khi liên kết những điển cổ khác nhau vào cùng đoạn thơ một cách hòa hợp. Hay như điển cố “tơ hồng, lá thắm” trong câu thơ: Tơ hồng lá thắm là duyên Dẫu bao giờ gặp cũng nên bấy giờ (65-66) Đó là điển cố lấy từ câu chuyện đời Đường bên Trung Quốc, ý chỉ mối nhân duyên của Tất Chính và Kiều Liên đã được gắn kết, đợi mai khi hai người lớn khôn sẽ nên duyên nợ cùng nhau. Thông qua việc sử dụng những điển cố, nhà thơ đã làm cho những câu thơ trong bài thơ của mình trở nên hàm súc, cô đọng. Chỉ với đôi ba điển cố được lồng một cách khéo léo trong câu thơ đã có thể bộc lộ những diều cần nói và muốn nói, giúp người đọc dễ dàng nhận ra ý nghĩa và tiếp nhận ý nghĩa của câu thơ cũng như của cả tác phẩm một cách sâu sắc hơn. Ngôn ngữ trong Truyện Phan Trần rất đặc biệt, nó là ngôn ngữ lấy chất liệu từ dân gian như ca dao, tục ngữ, thành ngữ, ngôn ngữ đời thường của quần chúng nhân dân nhưng nó còn có sự kết hợp với ngôn ngữ bác học với các điển cố hàm súc, cô đọng, và những từ Hán Việt trong câu thơ. Ta có thể thấy ngay ở cách gọi “bụt” và “phật”. “Bụt” là từ ngữ dân gian, còn “phật” là từ ngữ bác học”, vậy mà tác giả không ngừng đan xen những câu thơ nói tới cả “bụt” và “phật”: Thênh thênh cửa bụt đâu bằng, Xuất gia tin nữ tiểu tăng ở đầy. Chớ nề dưa muối am mây, 55
- Hãy nương náu khỏi vận này là hơn. Dắt tay nàng đến thiền môn, Bạch sư mới kể hang ôn gót đầu Khêu đèn hạnh, thắp hương màu, Chắp tay lạy phật khấu đầu quy sư. (191-198) Hay: Kìa thì bụt, nọ thì tăng Chẳng hay từ mẫu lạc chừng phương nao. (215-216) Trong tác phẩm có nhiều câu thơ trong tác phẩm được tác giả rút ra trực tiếp từ ca dao: Trương rằng: thân gái hạt mưa Biết đem mình ấy bây giờ cậy đâu (187-188) Nó được rút ra từ câu ca dao: Thân em như hạt mưa sa, Hạt vào đài các hạt ra ruộng cày Hoặc: Thân em như hạt mưa rào Hạt rơi xuống biển, hạt vào đài hoa Hay như trong tác phẩm còn có câu: Miễn nàng tiết sạch giá trong Vàng thông than lửa, sen thông lầy bùn Được rút từ câu ca dao: Vàng thì thử lửa thử than Chim khôn thử tiếng, người khôn thử lời 56
- Còn “sen thông lầy bùn” lại được rút từ ca dao: Trong đầm gì đẹp bằng sen Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng Nhị vàng bông trắng lá xanh Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn Những câu thơ trong Truyện Phan Trần được rút từ ca dao không câu nào mà tác giả sử dụng hoàn toàn mà đều có sự nhào nặn, được tác giả cấu tạo lại để phù hợp với nội dung và hoàn cảnh trong tác phẩm. Nhà thơ còn sử dụng các tục ngữ, thành ngữ để đan cài trong truyện, ví dụ: Thưa rằng: Rừng mạch, vách tai, Đêm hôm chẳng lọ dạm lời nữa chi. (663-664) Tác giả đã sử dụng phép đảo ngữ từ câu thành ngữ “tai vách mạch rừng” thành “rừng mạch, vách tai”. Bằng sự tài tình biến đổi nhào nặn lại, tác giả thật khó có thể khiến người đọc phát hiện được đâu là thành ngữ, tục ngữ. Bên cạnh những câu thơ cụ thể dấu hiệu lấy từ ca dao, Truyện Phan Trần còn có những câu thơ không thấy dấu vết cụ thể là ca dao nhưng ta vẫn cảm nhận được âm hưởng của ca dao: Lân la tháng Bụt ngày trời, Hạ qua, thu tới, đông rồi lại xuân. (765-766) Câu thơ này được lấy từ câu ca dao sau: Đông qua xuân lại đến liền, Hè về rực rỡ, êm đềm thu sang Giờ con chăm học, chăm làm, Thì mai sau sẽ giỏi dang giúp đời 57
- Ca dao, tục ngữ, thành ngữ dân gian đi vào trang thơ Truyện Phan Trần thật tự nhiên, nhẹ nhàng mà tinh tế, hài hòa, cân đối khiến cho trái tim người đọc rung động. Thông qua đó ta thấy được sự tài tình, khéo léo của tác giả. Bằng việc sử dụng ngôn ngữ Phật giáo cùng các điển cố, điển tích, kết hợp chất liệu dân gian đã cho thấy được tài năng và sự am hiểu của tác giả. Tiểu kết chương 3 Với tài năng và sự khéo léo, tác giả đã dựng lên câu chuyện tình yêu đôi lứa chiến thắng những ràng buộc mạnh mẽ của lễ giáo phong kiến, việc sử dụng thể loại truyện Nôm cùng các phương diện nghệ thuật đã khiến câu chuyện trở nên hấp dẫn và gây ấn tượng, để lại nhiều cảm xúc trong lòng độc giả. 58
- KẾT LUẬN Truyện Phan Trần là tác phẩm truyện Nôm tuy chưa rõ tác giả sáng tác nhưng mang những giá trị sâu sắc cả về nội dung và nghệ thuật. Tác phẩm đã gieo vào lòng người đọc những hạt mầm văn chương khiến người đọc yêu thích, say mê và thích thú ngày càng nhiều. Tác phẩm viết về hai nhân vật vượt ra ngoài khuôn khổ để yêu nhau mà vẫn yêu nhau đúng trong vòng khuôn phép, nội dung này có sức hấp dẫn lớn đối với độc giả. Truyện đồng thời phản ánh nội dung khá lớn của thời đại đó là khát vọng chiếm lĩnh hạnh phúc, tình yêu tự do, cá nhân, bảo vệ phẩm chất và giá trị của con người. Truyện Phan Trần đã đánh dấu bước tấn công lớn vào bức tường thành kiên cố của chế độ phong kiến giam hãm con người trong khuôn khổ cứng nhắc, trong những thiết chế hẹp hòi và khắc nghiệt. Ban đầu, con người chưa có sức mạnh để chống trả trước sự chi phối mạnh mẽ ấy nên đành cúi đầu cam chịu và chấp nhận nhưng cuối cùng, bằng tình yêu, ý chí con người đã đứng lên để giành lại những gì mình đáng được hưởng. Tác phẩm không chỉ thành công về phương diện nội dung mà còn đặc sắc ở phương diện nghệ thuật. Truyện Phan Trần có kết cấu chặt chẽ, mạch lạc, ngắn gọn, tác phẩm đã ít nhiều phá vỡ kết cấu nghệ thuật truyền thống của truyện Nôm, đem lại sự mới lạ hấp dẫn cho người đọc. Truyện thành công trong việc xây dựng nhân vật, đặc biệt là xây dựng nhân vật người phụ nữ, xây dựng hình tượng “tài tử - giai nhân”. Tác giả còn sử dụng thành công hệ thống ngôn ngữ thể hiện nội dung Phật giáo, nghệ thuật sử dụng những điển cố, điển tích; sử dụng nhiều hình ảnh ước lệ, tượng trưng; nhiều từ ngữ Hán Việt chải chuốt, nhẹ nhàng; nhiều câu thơ mang âm hưởng của ca dao, tục ngữ, thành ngữ được đan cài, lồng ghép trong tác phẩm một cách khéo léo, nhuần nhị, uyển chuyển giúp câu thơ vừa có sức gợi, vừa có sức tả. Chính vì vậy mà dù tả cảnh hay tả tình đều có những đoạn đặc sắc. Qua tất cả những khía cạnh trên đã chứng tỏ được tài năng và sự sáng tạo tài tình của tác giả. Truyện Phan Trần là một tác phẩm hay và có sức hấp dẫn đối với độc giả và giới nghiên cứu không chỉ hôm nay mà còn mãi về sau. 59
- TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nguyễn Duy Cần (1997), Tinh hoa Phật giáo, Nxb TP. HCM 2. Nguyễn Huệ Chi, Đỗ Đức Hiếu, Trần Hữu Tá (2004), Từ điển văn học, Nxb Thế giới, Hà Nội 3. Nguyễn Du, Truyện Kiều, Nxb văn hóa thông tin Hà Nội 4. Nguyễn Đăng Duy (2001), Đạo giáo với văn hóa Việt Nam, Nxb Hà Nội 5. Bùi Giáng (1998), Một vài nhận xét về Truyện Kiều- Phan Trần- Thúy Vân- Lục Vân Tiên- Chinh phụ ngâm- Quan Âm Thị Kính- Bà Huyện Thanh Quan, Nxb Hội nhà văn Hà Nội, Tp. Hồ Chí Minh 6. Dương Quảng Hàm (1968), Văn học Việt Nam sử yếu, Trung tâm học liệu xuất bản, Bản in lần thứ 10, Sài Gòn. 7. Dương Quảng Hàm (1968), Việt Nam thi văn hợp tuyển (mục Phan Trần), trung tâm học liệu xuất bản, Bản in lần thứ 9, Sài Gòn. 8. Đỗ Đức Hiển, Nguyễn Huệ chi, Phùng Văn Tửu, Trần Hữu Tá chủ biên (2004), Từ điển văn học (bộ mới), Nxb Thế giới. 9. Nguyễn Duy Hinh (1999), Tư tưởng Phật Giáo Việt Nam, NXB KHXH 10. Kiều Thu Hoạch (1993), Truyện Nôm- Nguồn gốc và bản chất thể loại, NXB KHXH&NV, Hà Nội 11. Kiều Thu Hoạch (2007), Truyện Nôm, lịch sử hình thành và thi pháp thể loại, NXBGD 12. Trần Đình Hựu (1999), Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại, NXB Phú Yên. 13. Nguyễn Hiến Lê dịch (1999), Nhân sinh quan và thơ văn, Lâm Ngữ Đường, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội 14. Đoàn Ánh Loan (2003), Điển cố và nghệ thuật sử dụng điển cố, NXB ĐH Quốc gia, TP HCM 15. Nguyễn Lộc (1992), Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII- nửa đầu thế kỷ XIX tập 1, Nxb Đại học và giáo dục chuyên nghiệp, Hà Nội.
- 16. Nguyễn Lộc (1992), Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII- nửa đầu thế kỷ XIX tập 2, Nxb Đại học và giáo dục chuyên nghiệp, Hà Nội. 17. Nguyễn Lộc (1992), Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII- hết thế kỷ XIX tái bản lần 3, Nxb giáo dục, TP. HCM 18. Nguyễn Công Lý (2002), Văn học Phật Giáo thời Lý- Trần: diện mạo và đặc điểm, Nxb ĐH Quốc gia, TP.HCM 19. Nhiều tác giả (2000), Kho tàng truyện Nôm khuyết danh Việt Nam tập I, Nxb văn học 20. Nhiều tác giả (2004), Từ điển văn học (bộ mới), Nxb Thế giới 21. Nguyễn Đăng Na (chủ biên), Văn học trung đại Việt Nam tập 2, NXB ĐHSP 22. Trần Nghĩa (2009), Truyện Phan Trần, Nxb văn học 23. Nguyễn Thị Nhàn (2009), Thi pháp truyện thơ Nôm và Truyện Kiều, Nxb ĐHSP 24. Nguyễn Thị Nhàn (2010), Hành xử của nam nhi khoa cử thành danh và nghệ thuật tự sự truyện Nôm”, Tạp chí khoa học trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2. 25. Vũ Tiến Quỳnh tuyển chọn (1998), Phan Trần- Nhị độ mai- Quan Âm thị kính- Hoàng Trừu- Truyện Lý Công, Nxb văn nghệ TP.HCM 26. Trần Đình Sử (1999), Mấy vấn đề thi pháp văn học trung đại Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội 27. Trần Đình Sử, Lê Bá Hán, Nguyễn Khắc Phi (1992), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội 28. Trần Ngọc Thêm (1999), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục. 29. Nguyễn Cẩm Thúy- Nguyễn Phạm Hùng (1997), Văn thơ Nôm thời Tây Sơn, Nxb KHXH, 30. Nguyễn Khắc Thuần (2006), Đại cương lịch sử văn học Việt Nam, tập IV, Nxb Giáo dục, TP.HCM.
- 31. Lê Trí Viễn (2001), Đặc trưng văn học trung đại Việt Nam, Nxb văn nghệ TP.HCM 32. Trần Ngọc Vương chủ biên (2007), Văn học Việt Năm từ thế kỉ X- thế kỉ XIX, Những vấn đề lý luận và thực tiễn lịch sử, Nxb giáo dục, Hà Nội 33. Trần Quốc Vượng (chủ biên), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục Việt Nam. 34. Hoàng Hữu Yên (1999), Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỉ XVIII- nửa đầu thế kỉ XIX, NXB giáo dục, Hà Nội 35. Lê Thu Yến tuyển chọn (2000), Văn học Việt Nam- Văn học trung đại những công trình nghiên cứu, Nxb Giáo dục, Tp. HCM