Khóa luận Tương tác tâm lý trong hoạt động học tập của sinh viên trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh

pdf 98 trang thiennha21 16/04/2022 3021
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Tương tác tâm lý trong hoạt động học tập của sinh viên trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfkhoa_luan_tuong_tac_tam_ly_trong_hoat_dong_hoc_tap_cua_sinh.pdf

Nội dung text: Khóa luận Tương tác tâm lý trong hoạt động học tập của sinh viên trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH KHOA TÂM LÝ HỌC NGUYỄN THỊ TUYẾT NHUNG TƯƠNG TÁC TÂM LÝ TRONG HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP Hồ Chí Minh, 2018
  2. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH KHOA TÂM LÝ HỌC NGUYỄN THỊ TUYẾT NHUNG TƯƠNG TÁC TÂM LÝ TRONG HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS. KIỀU THỊ THANH TRÀ TP. Hồ Chí Minh, 2018
  3. LỜI CAM ĐOAN Người nghiên cứu xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng người nghiên cứu. Các số liệu sử dụng phân tích trong đề tài có nguồn gốc rõ ràng, đã công bố theo đúng quy định. Các kết quả nghiên cứu trong đề tài do người nghiên cứu tự tìm hiểu, phân tích khách quan. Các kết quả này chưa từng được công bố trong bất kỳ đề tài nghiên cứu nào khác. Tác giả
  4. MỤC LỤC Trang phụ bìa Mục lục Danh mục các kí hiệu, chữ viết tắt Danh mục các bảng MỞ ĐẦU 1 1. Lý do chọn đề tài 1 2. Mục đích nghiên cứu 2 3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu 2 4. Giả thuyết nghiên cứu 2 5. Nhiệm vụ nghiên cứu 3 6. Giới hạn đề tài 3 7. Phương pháp nghiên cứu 3 CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TƯƠNG TÁC TÂM LÝ TRONG HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN 4 1.1 Tổng quan các công trình nghiên cứu về tương tác tâm lý trong hoạt động học tập của sinh viên 4 1.2. Một số khái niệm cơ bản 16 1.3. Một số đặc điểm tâm lý của thanh niên sinh viên 36 1.4. Tương tác tâm lý trong hoạt động học tập của thanh niên sinh viên 43 Tiểu kết chương 1 48 Chương 2: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG TƯƠNG TÁC TÂM LÝ TRONG HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 49 2.1 Thể thức nghiên cứu 49 2.2. Kết quả nghiên cứu sự tương tác tâm lý trong hoạt động học tập của sinh viên trường Đại học Sư phạm TP. HCM 58
  5. Tiểu kết chương 2 78 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 79 Kết luận 79 Kiến nghị 80 TÀI LIỆU THAM KHẢO 82 PHỤ LỤC 85
  6. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT STT Chữ viết tắt Nội dung 1 ĐLC Độ lệch chuẩn 2 ĐTB Điểm trung bình 3 TP. HCM Thành phố Hồ Chí Minh
  7. DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ STT Tên bảng Số trang 1 Bảng 1.1. Đối chiếu khác biệt giữa Học và Hoạt động học 33 (tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học sư phạm) 2 Bảng 2.1. Đặc điểm khách thể nghiên cứu 49 3 Bảng 2.2. Phân tích hệ số tin cậy 51 4 Bảng 2.3. Mức độ biểu hiện sự tương tác tâm lý trong hoạt 57 động học tập của sinh trường đại học Sư phạm TP. HCM 5 Bảng 2.4. Mức độ biểu hiện sự tương tác tâm lý trong hoạt 58 động học tập của sinh trường đại học Sư phạm TP. HCM 6 Bảng 2.5. Biểu hiện nổi bật ở sự tương tác tâm lý trong hoạt 60 động học tập của sinh viên trường đại học Sư phạm TP. HCM 7 Bảng 2.6. Mức độ biểu hiện ở mặt nhu cầu ở sự tương tác 62 tâm lý trong hoạt động học tập của sinh viên trường đại học Sư phạm TP. HCM 8 Bảng 2.7. Biểu hiện nổi bật ở mặt nhu cầu trong hoạt động 63 học tập của sinh viên với sinh viên trường đại học Sư phạm TP. HCM 9 Bảng 2.8. Mức độ biểu hiện ở mặt tương hợp và ảnh hưởng 64 tâm lý ở sự tương tác tâm lý trong hoạt động học tập của sinh viên trường đại học Sư phạm TP. HCM 10 Bảng 2.9. Biểu hiện nổi bật ở mặt tương hợp và ảnh hưởng 65 tâm lý ở sự tương tác tâm lý trong hoạt động học tập của sinh viên trường đại học Sư phạm TP. HCM 11 Bảng 2.10. Mức độ biểu hiện ở mặt tần số tương tác ở sự 67 tương tác tâm lý trong hoạt động học tập của sinh viên trường đại học Sư phạm TP. HCM
  8. 12 Bảng 2.11. Biểu hiện nổi bật ở mặt tần số tương tác ở sự 68 tương tác tâm lý trong hoạt động học tập của sinh viên trường đại học Sư phạm TP. HCM 13 Bảng 2.12. Mức độ biểu hiện ở sự thay đổi nhận thức, thái 70 độ, hành vi ở sự tương tác tâm lý trong hoạt động học tập của sinh viên trường đại học Sư phạm TP. HCM 14 2.13. Biểu hiện nổi bật ở sự thay đổi nhận thức, thái độ, 71 hành vi ở sự tương tác tâm lý trong hoạt động học tập của sinh viên với sinh viên trường đại học Sư phạm TP. HCM 15 Bảng 2.14. Mức độ tương tác tâm lý trên lớp học giữa sinh 71 viên và sinh viên qua các biểu hiện tương tác 16 Bảng 2.15. Tương quan giữa các biểu hiện tương tác tâm lý 73 trong hoạt động học tập của sinh viên trường đại học Sư phạm TP. HCM 17 Bảng 2.16. So sánh tương tác tâm lý trong hoạt động học 75 tập của sinh viên theo năm học 18 Bảng 2.17. So sánh tương tác tâm lý trong hoạt động học 76 tập của sinh viên theo giới tính 19 Bảng 2.18. So sánh tương tác tâm lý trong hoạt động học 76 tập của sinh viên theo khối ngành
  9. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài K. Marx từng nói: “Con người là tổng hòa các mối quan hệ”. Con người sống trong xã hội luôn có sự tương tác với cá nhân, với nhóm, hình thành các mối quan hệ xã hội, mối quan hệ liên nhân cách thông qua sự tương tác lẫn nhau. Thật vậy, con người sống trong xã hội không thể thiếu đi sự tương tác với người khác. Sự tương tác xã hội là điều kiện không thể thiếu để một nhân cách hình thành và phát triển. Ở bất cứ nơi đâu, con người đều cần sự tương tác với người khác. Trường học cũng không ngoại lệ. Sự tương tác trong phạm vi trường học có những tính chất đặc thù nhất định. Nhờ vào sự tương tác mà hoạt động dạy và hoạt động học mới được diễn ra và đạt được mục đích. Hiện nay ở hầu hết các trường đại học, việc học tập theo học chế tín chỉ được nhân rộng, đây là phương pháp học tập tiên tiến với những ưu điểm nổi trội như tính mềm dẻo, tính chủ động cao của người học, đáp ứng nhu cầu học tập của người học. Tuy nhiên cũng phát sinh nhiều vấn đề như quản lý mục tiêu đào tạo, quản lý hoạt động của giảng viên, hoạt động học tập của sinh viên, Đối với vấn đề về quản lý hoạt động học tập của sinh viên, việc phải theo dõi và có những cách thức hỗ trợ sinh viên giúp cho việc tương tác tốt hơn nhằm đạt hiệu quả đào tạo là một vấn đề cấp thiết. Ngày nay, giáo dục đào tạo được chú trọng không phải về số lượng mà về chất lượng. Trong khi đó, thời gian học tập của sinh viên không nhiều. Việc học theo học chế tín chỉ khiến cho sinh viên tiếp xúc với nhiều cá nhân, nhiều nhóm khác nhau, một mặt giúp sinh viên có thể giao lưu với nhiều nhóm bạn nhưng chính điều này lại hạn chế sự tương tác của sinh viên đối với nhau và đối với nhóm bạn cũ. Việc hình thành nên sự tương tác khi phải thay đổi quá nhiều nhóm bạn có thể gây cản trở nhất định đến sự hình thành các mối quan hệ bạn bè, đặc biệt là đối với những cá nhân hạn chế về khả năng thích nghi, giao tiếp, Cùng với yêu cầu và mục đích của việc học tập theo học chế tín chỉ khi đòi hỏi tính chủ động cao của người học, việc tương tác tâm lý càng trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Khi việc tương tác trong hoạt đọng học 1
  10. tập của sinh viên được nghiên cứu để biết rõ thực trạng cũng như có những cách thức tác động cải thiện nó phù hợp thì mới góp phần nâng cao hiệu quả đào tạo. Hiện nay, đã có những nghiên cứu liên quan đến vấn đề tương tác của sinh viên. Tuy nhiên, sự tương tác mới chỉ dừng lại trong hoạt động dạy là chủ yếu, việc nghiên cứu về vấn đề tương tác giữa sinh viên với sinh viên vẫn là một mảng đề tài bị bỏ ngỏ, hiện nay có rất ít công trình nghiên cứu về vấn đề này. Vì thế, người nghiên cứu chọn đề tài “Tương tác tâm lý trong hoạt động học tập của sinh viên trường Đại học Sư phạm TP. HCM” nhằm nghiên cứu sự tương tác tâm lý giữa sinh viên và sinh viên trong môi trường đại học. 2. Mục đích nghiên cứu Khảo sát thực trạng tương tác tâm lý trong hoạt động học tập của sinh viên trường Đại học Sư phạm TP. HCM. 3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Tương tác tâm lý trong hoạt động học tập của sinh viên trường Đại học Sư phạm TP. HCM. 3.2. Khách thể nghiên cứu Sinh viên trường Đại học Sư phạm TP. HCM. 4. Giả thuyết nghiên cứu - Tương tác tâm lý trong hoạt động học tập của sinh viên trường Đại học Sư phạm TP. HCM ở mức trung bình trở lên; - Tương tác tâm lý trong hoạt động học tập của sinh viên trường Đại học Sư phạm TP.HCM biểu hiện ở tần số tương tác là cao nhất; - Không có sự khác biệt ý nghĩa khi so sánh tương tác tâm lý trong hoạt động học tập của sinh viên trường Đại học Sư phạm TP. HCM theo các tham số nghiên cứu. 5. Nhiệm vụ nghiên cứu 2
  11. 5.1. Nghiên cứu lý luận - Tìm hiểu các công trình nghiên cứu trước đây về tương tác tâm lý giữa sinh viên với sinh viên trong hoạt động học tập - Làm rõ khái niệm: tương tác, tương tác tâm lý, hoạt động học tập. 5.2. Nghiên cứu thực tiễn - Khảo sát thực trạng tương tác tâm lý trong hoạt động học tập của sinh viên sư phạm trường Đại học Sư phạm TP. HCM trên các mặt: sự tương hợp tâm lý; sự tương hợp, ảnh hưởng tâm lý; tần số tương tác và sự thay đổi nhận thức, thái độ, hành vi giữa sinh viên với sinh viên. 6. Giới hạn đề tài 6.1. Về đối tượng nghiên cứu Đề tài chỉ nghiên cứu tương tác tâm lý trong hoạt động học tập giữa sinh viên với sinh viên, không nghiên cứu tương tác tâm lý giữa sinh viên với các lực lượng khác trong nhà trường. Đề tài chỉ nghiên cứu tương tác tâm lý trong hoạt động học tập của sinh viên xét trên một số khía cạnh: nhu cầu tương tác; sự tương hợp và ảnh hưởng tâm lý; tần số tương tác và sự thay đổi nhận thức, thái độ, hành vi. 6.2. Về khách thể nghiên cứu - Khách thể nghiên cứu: 300 sinh viên trường Đại học Sư phạm TP. HCM. 7. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp nghiên cứu lý luận: đọc sách, báo, tạp chí, phân tích, tổng hợp, khái quát hóa tài liệu. - Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: phương pháp quan sát; phương pháp điều tra bằng bảng hỏi; phương pháp toán thống kê. 3
  12. CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TƯƠNG TÁC TÂM LÝ TRONG HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN 1.1 Tổng quan các công trình nghiên cứu về tương tác tâm lý trong hoạt động học tập của sinh viên 1.1.1. Trên thế giới 1.1.1.1. Mối quan hệ liên nhân cách - Mối quan hệ xã hội - Tương tác tâm lý - Mối quan hệ liên nhân cách Lên quan đến mối quan hệ liên nhân cách, trên thế giới đã có những nghiên cứu về nó. B.G. Ananhev đưa ra vấn đề thuộc nguyên tắc về tính chất hoạt động các mối quan hệ của nhân cách với thế giới và ông phân bố kiểu mẫu của nhân cách theo quá trình phát triển trong quá trình sống. Ông đã hoàn thiện và vượt qua một cách triệt để từ vấn đề về cấu trúc các yếu tố tâm lý trong nhân cách đến vấn đề về cách tổ chức nhân cách của các mối quan hệ với thế giới, chú ý tới quá trình tiến triển của các thuộc tính cuối cùng. Tuy nhiên, việc thử thực hiện tiếp cận mang tính hệ thống đến việc nghiên cứu nhân cách đã mâu thuẫn với phương thức tĩnh tại của các kết cấu phân tích từng đoạn trong cuộc sống của dạng xã hội tâm lý trong tâm lý học xã hội (Dẫn theo Cao Thị Nga, 2016). Robert C. Liden và Sandy J. Wayne (2000) đã có nghiên cứu “Nghiên cứu về vai trò trung gian của sự trao quyền tâm lý đối với mối quan hệ giữa việc làm, mối quan hệ liên cá nhân và kết quả làm việc”. Mục đích của cuộc điều tra là xây dựng và thử nghiệm một mô hình trao quyền cho phép kết hợp đặc điểm công việc và các mối quan hệ trao đổi xã hội trong việc giải thích các kết quả công việc (Robert & Sandy, 2000). Các nhà nghiên cứu đã xác định mối quan hệ giữa các cá nhân với các đồng nghiệp như là một yếu tố quan trọng trong hành vi làm việc, có ảnh hưởng tích cực đến kết quả công việc. Những kết quả này chỉ ra rằng mặc dù thái độ về bản thân công trình có thể bị chi phối bởi các nhận thức về đặc điểm công việc (khi chúng hoạt động thông qua trao quyền), nhưng các mối quan hệ giữa các cá nhân có ý nghĩa quan trọng đối với việc tổ chức và thực hiện công việc, trong đó sự hỗ trợ và hướng dẫn mà người 4
  13. ta nhận được từ cấp trên và đồng nghiệp có ý nghĩa quan trọng (Robert & Sandy, 2000). Kết quả của nghiên cứu cũng cho thấy các đồng nghiệp có những tác động tích cực đến hiệu suất làm việc của một cá nhân. Trong một môi trường mà ảnh hưởng của việc ra quyết định đã được chuyển từ các nhà quản lý chính thức sang các thành viên trong nhóm làm việc, sự hỗ trợ và hướng dẫn từ đồng đội đã hỗ trợ các cá nhân trong việc đạt được hiệu suất cao hơn. Điều thú vị là sự hỗ trợ và hướng dẫn của cấp trên trực tiếp không liên quan đến việc thực hiện công việc (Robert & Sandy, 2000). Như vậy, mối quan hệ liên nhân cách chủ yếu được tiếp cận trên 2 khía cạnh chính: thứ nhất là nghiên cứu về bản chất các mối quan hệ liên nhân cách; thứ 2 là gắn mối quan hệ liên nhân cách với các yếu tố khác để mô tả sự ảnh hưởng, tác động qua lại giữa chúng. - Mối quan hệ xã hội Trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu liên quan đến mạng lưới mối quan hệ xã hội. Nhà tâm lý học J. L. Moreno được coi là người có công đầu tiên phát minh ra phương pháp phân tích mạng lưới quan hệ xã hội bằng việc đề xuất phương pháp và kĩ thuật trắc lượng xã hội ngay từ tác phẩm “Ai sẽ là người sống sót” (Who Shall Survive, 1934). Sau khi phương pháp trắc lượng xã hội ra đời, các nhà nghiên cứu đã không ngừng phát triển các phương pháp phân tích mạng lưới quan hệ xã hội mới. Có thể kể đến các lý thuyết tiêu biểu trong phân tích mạng lưới quan hệ xã hội như lý thuyết “sức mạnh của liên kết yếu” của Granovetter, lý thuyết “lỗ hổng cấu trúc” của Ronald Burt, lý thuyết “tính đồng dạng” của Miller McPherson, Lynn Smith-Lovin và James M. Cook, (Dẫn theo Nguyễn Quý Thanh & Cao Thị Bắc Hải, 2015). 5
  14. Một số nghiên cứu khác liên quan đến mối quan hệ xã hội như: Một số nghiên cứu khác về mối quan hệ xã hội như: nghiên cứu “Quan hệ xã hội và sức khỏe” của James S. House, Karl R. Landis, Debra Umberso; “Mối quan hệ và vai trò của nó trong việc sử dụng hệ thống quản lý tri thức”, Như vậy, quan hệ xã hội là một vấn đề được quan tâm nghiên cứu trên thế giới. Mối quan hệ xã hội được tiếp cận bằng cách đề ra các phương pháp nghiên cứu, đồng thời có những công trình nghiên cứu cụ thể về mối quan hệ xã hội, gắn nó với một nhiệm vụ thực tiễn cần giải quyết. Tương tác tâm lý * Nghiên cứu tương tác ở một số lý thuyết Thuyết hành vi nghiên cứu về tương tác của cá nhân với môi trường dưới dạng sự tác động qua lại giữa các kích thích của tác nhân bên ngoài với phản ứng của cá thể theo cơ chế S - R. Các nhà tâm lý học theo trường phái này hầu như không quan tâm đến tâm lý, ý thức của chủ thể mà chỉ quan tâm đến hành vi tồn tại của con người. Hành vi được xem là tổ hợp các phản ứng của cơ thể trước các kích thích của môi trường bên ngoài. Hành vi được quy gọn vào cặp đôi duy nhất: Kích thích (S) - Phản ứng (R) để giải thích bản chất, cơ chế của sự phát triển tâm lý của con người và động vật. Sự phát triển của tâm lý học hành vi đưa đến các nhánh hành vi khác nhau trong lý thuyết hành vi (Cao Thị Nga, 2016, tr.7). Đối với thuyết nhận thức, J. Piaget (1896 -1980) và các cộng sự của ông là những người sáng lập ra thuyết tâm lý học nhận thức theo nguyên lý cân bằng hóa. Cân bằng tâm lý chính là sự bù trừ do các hoạt động của chủ thể trả lời các kích thích từ ngoài vào. Khi cơ thể có một nhu cầu nào đó, con người rơi vào trạng thái mất cân bằng. Khi đó, chủ thể phải nỗ lực để tạo ra sự cân bằng mới. Trong đời sống tâm lý cũng vậy, muốn làm cho trẻ nhận thức, tư duy, suy nghĩ tích cực thì phải đặt trẻ vào trạng thái mất cân bằng hay còn gọi là tình huống có vấn đề để trẻ giải quyết, tạo ra sự cân bằng về nhận thức. Theo lý thuyết này, tương tác là quá trình điều chỉnh các chức năng tâm lý của cá nhân theo cơ chế đồng hóa và điều ứng. Đồng hóa là quá trình chủ thể tiếp nhận kích thích từ khách thể vào cấu trúc hoạt động đã có (xử lý các 6
  15. tác động bên ngoài nhằm đạt một mục tiêu nào đó). Điều ứng là quá trình chủ thể đem cấu trúc hoạt động đã được tạo ra trước đó thích ứng theo kích thích của khách thể. Trong các nghiên cứu của mình, J. Piaget cũng nhấn mạnh đến sự tương tác và chuyển giao xã hội. Đặc biệt, trong nghiên cứu quá trình phát triển trí tuệ trẻ, học thuyết nhấn mạnh cơ chế phát triển các cấu trúc nhận thức và trí tuệ của trẻ qua các giai đoạn lứa tuổi là kết quả của sự tương tác giữa trẻ với thế giới đồ vật và xã hội (Cooley, 1902). Trong quá trình nghiên cứu tâm lý con người, nhà tâm lý học nhân văn C. Rogers (1902 – 1987) nhấn mạnh đến quá trình thiết lập, tạo lập mối tương giao. Ông quan niệm, tương tác giữa các cá nhân sẽ thuận lợi, hiệu quả khi tạo được mối tương giao. Mối tương giao với ông, nghĩa là khi ta tạo được điều kiện thuận lợi để người tương tác có thể truyền thông cho ta những tình cảm, thế giới nội tâm của họ; là khi ta biết lắng nghe họ nói để hiểu họ, đồng cảm, chia sẻ được với họ, thì ta càng đạt tới hiệu quả của quá trình tương tác. Lý thuyết của ông được ứng dụng hiệu quả trong tâm lý trị liệu cũng như hữu ích với mọi mối tương giao như cha mẹ - con cái; giảng viên - sinh viên (Rogers, 1995). Trong quá trình nghiên cứu về sự phát triển tâm lý con người, E. Erikson quan niệm rằng, con người là sản phẩm của xã hội và cho rằng, con người trong quá trình phát triển thường xuyên phải đối mặt với các khủng hoảng là do không thiết lập được sự cân bằng trong quá trình tương tác giữa cá nhân với xã hội. Ông nổi tiếng với thuyết khủng hoảng tính đồng nhất; tám khủng hoảng cuộc sống. Trong nghiên cứu của mình, ông đã chia sự phát triển đời sống tâm lý con người thành 8 giai đoạn gắn liền với quá trình tương tác của cá nhân với xã hội (Cao Thị Nga, 2016, tr.9). 7
  16. * Tương tác trong nghiên cứu của các nhà tâm lý học xã hội, xã hội học Các nhà Tâm lý học xã hội, xã hội học như: G. Mead, Ch. H. Cooley (1863 - 1929), G. H. Goffmen (1922 - 1982), Herber Blumer (1900 - 1987) lại nghiên cứu tương tác trong mối quan hệ giữa cá nhân với cá nhân; cá nhân với nhóm xã hội. Điển hình, Ch. H. Cooley đã quan tâm nghiên cứu sự hình thành hành vi cá nhân trong các mối tương tác xã hội. Từ các quan sát và thực nghiệm về sự tương tác xã hội giữa các cá nhân và giữa cá nhân với nhóm, Ch. H. Cooley đã hình thành lý thuyết tương tác nổi tiếng: “Tôi soi gương” hay là “cái tôi nhìn trong gương”. Theo đó, sự hình thành “cái tôi”, tức là ý thức bản ngã của mỗi người là kết quả của sự tri giác người khác, đọc được nhận thức, thái độ của người khác trước các tác động của mình (Cooley, 1902), (Mead, 1934). Geogre Herbert Mead, nhà tâm lý học hành vi xã hội người Mỹ là một trong những người sáng lập ra thuyết “tương tác biểu trưng”. Ông đã xây dựng và phát triển khái niệm “cái tôi”, “nhân cách”, “tương tác”, “biểu tượng” để nghiên cứu đặc điểm và tính chất đặc thù của mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội. Theo hướng nghiên cứu này G. Mead đã phát hiện ra vai trò của sự thấu hiểu hành vi của người khác và thông qua sự thấu hiểu đó, cá nhân thay đổi nhận thức, hành vi ứng xử cho phù hợp, từ đó hình thành và phát triển ý thức bản ngã (cái tôi) thông qua sự tương tác xã hội với người khác (Cao Thị Nga, 2016, tr.10). Tương tác ở các nhà tâm lý học Liên Xô: Lý thuyết này được khởi xướng bởi các nhà tâm lý học Liên xô trước đây mà đại diện là L. X. Vưgotxki (1896–1934), A. N. Leonchiep (1903–1979), X. L. Rubinstein (1889 - 1960), B. Ph. Lomov, Lý thuyết này quan niệm con người là tồn tại xã hội; khi xem xét hành vi tâm lý phải xét trong hoạt động, hoạt động là chìa khóa để tìm hiểu, đánh giá, hình thành, phát triển tâm lý; ý thức được sản sinh trong quá trình con người hoạt động, giao lưu với xã hội (Dẫn theo Lomov, 2001). L. X. Vưgotxki - nhà tâm lý học vĩ đại với học thuyết lịch sử - văn hoá về các chức năng tâm lý cấp cao ở người, đã chỉ ra, tương tác xã hội là quy luật tất yếu của sự hình thành và phát triển các chức năng tâm lý, văn hóa của cá nhân. Trong đó, yếu 8
  17. tố quan trọng là sự thấu hiểu nghĩa khách quan của hành động do người khác tác động và từ đó hình thành ý chủ quan của mình. Cũng từ nghiên cứu của mình, ông đã chỉ ra khái niệm “vùng phát triển gần nhất”, tạo cơ sở khoa học vững chắc cho dạy học tương tác, dạy học phát triển và dạy học tích cực (Cao Thị Nga, 2016, tr.10). B. Ph. Lomov cho rằng, tương tác là hình thái đặc trưng của sự tác động qua lại giữa người này với người khác, trong quá trình tương tác diễn ra sự trình diễn thế giới nội tâm giữa các chủ thể. Theo ông, cùng với hoạt động có đối tượng, tương tác giữa chủ thể với chủ thể là phương thức tồn tại và biểu hiện lối sống của mỗi cá nhân (Dẫn theo Lomov, 2001). * Tương tác tâm lý trong hoạt động dạy - hoạt động học Ngay từ thời cổ đại, Heraclitus (540 - 480 TCN) nhà hiền triết Hy Lạp cổ đại đã đưa ra quan điểm: “Giáo dục, dạy học không phải là rót kiến thức vào đầu người học như người ta rót chất lỏng vào chai, thông qua cái phiễu. Thực chất giáo dục là thắp lên ngọn đuốc để soi sáng, để người học nhận ra những con đường, tự mình chọn lấy cho mình một con đường, rồi tự bước đi trên con đường đã chọn, dưới ánh sáng của ngọn đuốc ấy” (Cao Thị Nga, 2016, tr.11). Từ những thập niên 70, nhất là những năm 90 trở lại đây, dạy học nhấn mạnh mối tương tác giữa người học - người học (dạy học hợp tác) được nghiên cứu nhiều và rất phổ biến. Có thể kể đến các tác giả với các công trình nghiên cứu theo hướng này như E. Aronson, R. E. Slavin, J. Cooper, D. W. Johnson và R. T. Johnson E. Aronson (Mỹ) với mô hình lớp học Jigsaw đầu tiên (1978) đã có những đóng góp lớn trong việc hoàn thiện các hình thức dạy học hợp tác. Nhiều công trình nghiên cứu của ông cho thấy, thành tích cá nhân cũng như tập thể luôn cao hơn khi mọi người tương tác với nhau. Với rất nhiều công trình nghiên cứu từ 1981 đến 1989 về dạy học hợp tác D. W. Johnson, R. T. Johnson và các cộng sự của mình đã nhận thấy rằng dạy học hợp tác có nhiều khả năng tạo nên thành công hơn các hình thức dạy học khác. Theo D. W. Johnson và R. T. Johnson: học tập hợp tác là toàn bộ những hoạt động học tập mà người học thực hiện cùng nhau trong các nhóm nhỏ với sự hướng dẫn của giáo viên nhằm tối ưu hóa việc học của các thành viên trong nhóm. D. W. Johnson, R. T. 9
  18. Johnson, R. E. Slavin cùng với nhiều nhà nghiên cứu khác đã phát triển dạy học hợp tác thành một trong những phương pháp dạy học hiện đại nhất hiện nay (Cao Thị Nga, 2016, tr.11). Tóm lại, vấn đề tương tác tâm lý đã được quan tâm từ rất lâu trên thế giới. Tương tác tâm lý đã được tiếp cận từ nhiều góc độ khác nhau, từ Tâm lý học cho đến Xã hội học, từ hoạt động dạy cho đến hoạt động học. Đã có rất nhiều lý thuyết về vấn đề tương tác tâm lý được đặt ra, mỗi người lại có những quan điểm khác nhau về sự tương tác. Trong suốt quá trình nghiên cứu về sự tương tác tâm lý trong hoạt động dạy - hoạt động học đã chỉ ra rằng, sự tương tác tâm lý ảnh hưởng rất lớn đến thành tích học tập của học sinh. Vì thế cho nên, việc tìm hiểu thực trạng và đề ra những biện pháp nâng cao sự tương tác tâm lý, đặc biệt là tương tác người học - người học là vấn đề cấp thiết nếu muốn nâng cao chất lượng học tập. 1.1.1.2. Hoạt động học tập của sinh viên Khổng Tử (551- 479 TCN) là bậc hiền tài, ông đề cao vai trò của học sinh, rất coi trọng tính tích cực nhận thức của người học. Người thầy ở vị trí khai mở, hướng dẫn, còn mọi vấn đề do người học tìm ra. Socrate (469 - 399), triết gia người Hy Lạp, ông quy tụ được thanh niên và dạy học bằng phương pháp đàm thoại, nâng cao vai trò của hoạt động học qua trao đổi, góp ý. “Tôi biết tôi không biết gì cả”, ông cho thấy việc học là vô cùng, liên tục và kéo dài. Sự nhận thức của con người qua việc nhận ra, hiểu biết và ý thức đều cho thấy rằng còn người còn thiếu hiểu biết (Cao Thị Nga, 2016, tr.11). Nhà sư phạm vĩ đại J. A. Comenxki (1592-1670), người sáng lập ra hình thức tổ chức dạy - học lớp bài, đặt nền móng và chính thức tách Giáo dục học ra khỏi Triết học để trở thành một ngành khoa học riêng biệt, khi bàn về vấn đề học đã đưa ra những yêu cầu cải tổ nền giáo dục theo hướng phát huy tính tích cực, độc lập, sáng tạo của người học. Theo ông, dạy học phải làm như thế nào để người học tự tìm tòi, suy nghĩ để tự nắm bắt lấy bản chất của sự vật và hiện tượng (Dẫn theo Cao Thị Nga, 2016). 10
  19. Hai nhà giáo dục Ấn Độ S. D. Sharma và Shakti R. Ahmed, trong tác phẩm “Phương pháp dạy học ở trường đại học” đã trình bày hoạt động tự học trên lớp như một hình thức dạy học có hiệu quả (Dẫn theo Cao Thị Nga, 2016). Từ thời cổ đại, hoạt động học tập đã là vấn đề được quan tâm. Các nhà nghiên cứu đã có những quan niệm khác nhau về vấn đề học và dạy học. Đồng thời họ còn đưa ra các phương pháp khác nhau để nâng cao hiệu quả dạy và học. Nhìn chung đều xuất phát từ quan điểm phát huy tính tích cực, chủ động từ người học, từ đó đưa ra các phương pháp phù hợp. 1.1.2. Ở Việt Nam 1.1.2.1. Mối quan hệ liên nhân cách - Mối quan hệ xã hội - Tương tác tâm lý - Mối quan hệ liên nhân cách Năm 2002, tác giả Võ Thị Ngọc Châu đã có công trình “Nghiên cứu về kiểu nhân cách, kiểu quan hệ liên nhân cách và ảnh hưởng của nó tới bầu không khí tập thể sinh viên sư phạm”. Công trình nghiên cứu kiểu quan hệ liên nhân cách và kiểu nhân cách ảnh hưởng như thế nào đến bầu không khí tâm lí của nhóm, từ đó ảnh hưởng tới hiệu quả lao động của nhóm. Dựa trên cơ sở kết quả nghiên cứu của đề tài nhằm xây các kiểu nhân cách và quan hệ liên nhân cách sao cho khi ở trong nhóm, làm cho nhóm phát triển ở mức độ cao. Tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu như phương pháp quan sát, trò chuyện, phương pháp điều tra và phương pháp trắc nghiệm. Kết quả nghiên cứu cho thấy có sự khác biệt giữa kiểu nhân cách giữa nam và nữ sinh viên, sự khác biệt giữa sinh viên năm I và năm III, giữa khối ngành tự nhiên và xã hội, bầu không khí tâm lý trong nhóm cũng có sự khác biệt tương tự (Võ Thị Ngọc Châu, 2002). Liên quan đến vấn đề liên nhân cách, tác giả Nguyễn Thúy Nga với công trình “Xây dựng quan hệ liên nhân cách trong lớp học như là một con đường nâng cao hiệu quả công tác giáo viên chủ nhiệm” năm 1993. Tác giả đề cập đến thực trạng quan hệ liên nhân cách của học sinh trong lớp (lớp 6, 7 tại nội thành Hà Nội), công tác của người giáo viên chủ nhiệm đối với việc xây dựng mối quan hệ liên nhân cách và nêu ra những biện pháp cơ bản xây dựng mối quan hệ liên nhân cách tích cực giữa 11
  20. học sinh trong lớp bằng các phương pháp nghiên cứu như trắc đạt xã hội, điều tra bằng bảng hỏi và phương pháp thực nghiệm. Kết quả nghiên cứu thu được khi thực hiện các biện pháp cải thiện mối quan hệ liên nhân cách là có sự cải thiện rõ như số lượng nhóm phong phú hơn, các em thấy hài lòng với bầu không khí tâm lý trong lớp, các em quan tâm và có trách nhiệm với nhau hơn (Nguyễn Thị Thúy Nga, 1993). Cũng tiếp cận mối quan hệ liên nhân cách như các nghiên cứu trên thế giới, nghiên cứu về mối quan hệ liên nhân cách tại Việt Nam cũng tiếp cận dưới góc độ bản chất các mối quan hệ liên nhân cách và gắn mối quan hệ liên nhân cách với các yếu tố khác để mô tả sự ảnh hưởng, tác động qua lại giữa chúng. - Mối quan hệ xã hội Năm 2014, Phạm Huy Cường với đề tài “Mạng lưới quan hệ xã hội với việc làm của sinh viên tốt nghiệp”. Tác giả khảo sát trên 1073 sinh viên trường đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn nhằm mô tả cụ thể mối quan hệ giữa mạng lưới quan hệ xã hội đến khía cạnh kinh tế và phi kinh tế trong kết quả tìm kiếm việc làm của những sinh viên mới tốt nghiệp với tư cách là một nhóm lao động đặc thù trong thị trường lao động. Kết quả nghiên cứu cho thấy các mối quan hệ xã hội và các nguồn lực cá nhân có thể huy động từ đó có những mối quan hệ rõ rệt đến kết quả tìm kiếm việc làm và các đặc điểm công việc của các ứng viên tham gia khảo sát. Phân tích sâu hơn từng kiểu kết nối trong mạng lưới quan hệ xã hội đã được sử dụng cho thấy những ảnh hưởng rõ rệt trong từng loại mối quan hệ xã hội. Các quan hệ với thầy cô, trường học và bạn bè đồng nghiệp có ảnh hưởng tích cực giúp sinh viên tốt nghiệp sớm có được việc làm hơn tìm kiếm thông qua các mối quan hệ trong gia đình (Phạm Huy Cường, 2014). Năm 2012, Nguyễn Quý Thanh và Cao Thị Hải Bắc đã có nghiên cứu về “Quan hệ xã hội và vốn xã hội: Nghiên cứu so sánh giữa Việt Nam và Hàn Quốc” nhằm làm rõ mạng quan hệ xã hội của người Việt Nam và Hàn Quốc trên các khía cạnh quy mô mạng quan hệ xã hội, đặc tính mạng quan hệ xã hội và vốn xã hội trên các khía cạnh hoạt động làm ăn kinh doanh, về lĩnh vực tìm kiếm việc làm và về lĩnh vực chia sẻ tâm sự (Nguyễn Quý Thanh & Cao Thị Bắc Hải, 2012). 12
  21. Năm 2015, Nguyễn Quý Thanh, Cao Thị Bắc Hải đã có công trình nghiên cứu “Nguyên lý đồng dạng: Nghiên cứu khám phá cơ chế định hình mạng lưới xã hội ở Việt Nam”. Dựa trên cơ sở dữ liệu khảo sát 1430 đại diện hộ gia đình tại 5 tỉnh/thành thuộc 3 miền Bắc, Trung và Nam Bộ. Nghiên cứu đã đưa ra một số khám phá định lượng ban đầu về nguyên lý đồng dạng như một cơ chế hình thành mạng lưới quan hệ xã hội của người Việt Nam. Theo đó, nguyên lý đồng dạng tương đối phổ biến với nhiều người Việt Nam khi họ kết bạn. Có những bằng chứng thực nghiệm ban đầu cho thấy, người Việt Nam quan tâm xây dựng quan hệ bạn thân với người tương đồng về đặc tính giới, đồng học, đồng hương và ngang cấp/tương đương về vị trí công việc (Nguyễn Quý Thanh & Cao Thị Bắc Hải, 2015). Cũng năm 2015, hai tác giả Nguyễn Quý Thanh và Cao Thị Bắc Hải tiếp tục nghiên cứu về “Quy mô lõi mạng lưới quan hệ xã hội của người Việt Nam và một số yếu tố ảnh hưởng”. Theo đó, mục đích nghiên cứu nhằm khảo sát quy mô mạng lưới quan hệ xã hội, các yếu tố ảnh hưởng đến quy mô mạng quan hệ xã hội ở Việt Nam. Kết quả nghiên cứu chỉ ra: về quy mô lõi mạng quan hệ xã hội, người Việt có mạng lưới quan hệ xã hội tương đối rộng, tức là số bạn thân khá nhiều nếu so với một số kết quả của các quốc gia khác. Quy mô lõi mạng quan hệ xã hội của người Việt Nam khác biệt theo các đặc điểm giới, vùng miền, tỉnh thành, Rõ nét nhất là một số khác biệt như nam giới thường có nhiều bạn thân hơn phụ nữ; những người sống ở miền Bắc có nhiều bạn thân hơn các đồng bào sống ở miền Trung và miền Nam; những người theo tín ngưỡng thờ cúng ông bà tổ tiên (xu hướng truyền thống) lại có quy mô mạng quan hệ xã hội rộng hơn những người không theo tín ngưỡng này, ; các yếu tố gây ảnh hưởng nhiều nhất đến quy mô mạng quan hệ xã hội bao gồm yếu tố giới tính và tự đánh giá về sự thành công trong sự nghiệp/quyền lực và tự đánh giá về sự thành công trong hôn nhân/gia đình. Theo đó, càng là nam giới và càng thành công trong sự nghiệp/quyền lực thì quy mô mạng quan hệ càng tăng. Ngược lại, càng thành công trong hôn nhân/gia đình thì quy mô mạng quan hệ xã hội càng giảm (Dẫn theo Nguyễn Quý Thanh & Cao Thị Bắc Hải, 2015). 13
  22. Như vậy, mối quan hệ xã hội được nghiên cứu tại Việt Nam ở nhiều đối tượng khác nhau, đặc biệt còn có những công trình nghiên cứu so sánh với các nước khác để thấy rõ một số đặc điểm đặc trưng trong mối quan hệ xã hội lõi tại Việt Nam. Tuy nhiên, việc nghiên cứu mối quan hệ trên sinh viên còn hạn chế, đặc biệt là trong hoạt động học tập của sinh viên. - Tương tác tâm lý Dưới góc độ Xã hội học, các tác giả Phạm Tất Dong, Lê Ngọc Hùng, trong tác phẩm Xã hội học, đã đề cập đến vấn đề tương tác xã hội và giới thiệu nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này trên thế giới. Theo các tác giả này thì tương tác xã hội có thể được coi là quá trình hành động đáp lại của một chủ thể này với một chủ thể khác (Phạm Tất Dong & Lê Ngọc Hùng, 2001). Dưới góc độ Tâm lý học, từ thập niên 90 của thế kỉ XX, tác giả Vũ Dũng đã nghiên cứu vấn đề cơ sở tâm lý học của ê kíp lãnh đạo. Sau nhiều năm nghiên cứu, tác giả đã xác định được hai thành tố cơ bản của một ê kíp lãnh đạo là sự tương hợp tâm lý và sự phối hợp hành động giữa các thành viên của nhóm lãnh đạo, là tiêu chí quan trọng để đánh giá sự tương tác giữa các thành viên trong nhóm. Các tác giả Nguyễn Quang Uẩn, Trần Quốc Thành, Trần Hữu Luyến đều đề cập đến tương tác dưới góc độ hoạt động cùng nhau, hoạt động giao tiếp giữa các cá nhân. Các tác giả cho rằng ở một góc độ nhất định, giao tiếp cũng là tương tác (Nguyễn Quang Uẩn, Trần Hữu Luyến, Trần Quốc Thành, 2003). Một số nghiên cứu về sự tương tác khác như công trình nghiên cứu: Một số tác giả khác như Phạm Quang Tiệp với “Dạy học dựa vào tương tác trong đào tạo giáo viên Tiểu học trình độ đại học”; Đặng Thành Hưng với công trình “Tương tác hoạt động thầy – trò trên lớp học”; Vũ Lệ Hoa với “Một số kĩ năng dạy học tăng cường tương tác góp phần nâng cao hiệu quả dạy học môn học ở đại học”. Đặc biệt tác giả Tạ Quang Tuấn với “Tổ chức dạy học dựa vào tương tác người học - người học ở trường cao đẳng” (Phạm Quang Tiệp, 2013), (Vũ Lệ Hoa, 2007), (Tạ Quang Tuấn, 2010). 14
  23. “Dạy học dựa vào tương tác trong đào tạo giáo viên tiểu học trình độ đại học” tác giả Phạm Quang Tiệp (2013): tác giả đã đề xuất 5 mô hình dạy học dựa vào tương tác và các kĩ thuật dạy học tương ứng, đây được xem là một bước cụ thể hóa chiến lược dạy học dựa vào tương tác từ bình diện lí thuyết thành hiện thực. Trong mô hình này, người học thực hiện chủ yếu các tương tác với bạn học và nhất là tương tác nội tâm để giải quyết vấn đề và nhiệm vụ học tập (Dẫn theo Phạm Quang Tiệp, 2013). Nghiên cứu về sự tương tác tâm lý đã sớm được tiếp cận dưới nhiều góc độ như xã hội học, tâm lý học và dưới nhiều khía cạnh khác nhau như giao tiếp, dạy học, và được tiếp cận ở nhiều độ tuổi khác nhau từ người trẻ cho tới người cao tuổi. Tuy nhiên, vấn đề tương tác trong hoạt động học tập giữa sinh viên với sinh viên hiện nay vẫn chưa được quan tâm nghiên cứu. 1.1.2.2. Hoạt động học tập của sinh viên Nhiều nhà giáo dục, nhà nghiên cứu như: Trần Kiểm, Phan Bích Ngọc, Đặng Vũ Hoạt, Hà Thế Ngữ, Bùi Trọng Liễu, Hoàng Tụy, Nguyễn Trọng Bảo và Hà Thị Đức, đã có nhiều công trình nghiên cứu về hoạt động học và tự học. Trong các công trình nghiên cứu, các tác giả đã nghiên cứu sâu vào tổ chức hoạt động học, quản lý hoạt động học nhằm phát huy tính chủ động sáng tạo của người học nhằm nâng cao chất lượng dạy và học của nhà trường. Bên cạnh đó, có nhiều nhà nghiên cứu khác tiếp cận hoạt động học tập dưới góc độ quản lý hoạt động học tập như: Nguyễn Văn Đức, Phạm Trung Thành, Các nghiên cứu hoạt động học tập theo bốn chức năng quản lý và quản lý theo các thành tố của hoạt động học; nghiên cứu thực trạng quản lý của hiệu trưởng về một số hình thức học tập, Hướng tiếp cận khác trong hoạt động học tập ở sinh viên là tiếp cận ở các khía cạnh khác nhau của hoạt động học tập như nghiên cứu về ý chí trong hoạt động học tập của tác giả Nguyễn Văn Lượt (2007) hay nghiên cứu sự thích ứng trong học tập của tác giả Nguyễn Văn Trình (2015), Tác giả Nguyễn Thị Thúy Hạnh trong luận án tiến sĩ “Kỹ năng học tập hợp tác của sinh viên sư phạm” đã ít nhiều đề cập đến tương tác khi cho rằng “Học tập 15
  24. hợp tác là sự phối hợp, giúp đỡ lẫn nhau trong hoạt động học tập theo nhóm để hoàn thành mục đích học tập chung là lĩnh hội tri thức, kĩ năng, kĩ xảo tương ứng và thúc đẩy cao nhất hoạt động học tập của mỗi cá nhân”. Tác giả cũng chỉ ra rằng trong học tập hợp tác để đạt hiệu quả phải có sự tương tác trực diện giữa các thành viên trong nhóm. Nghĩa là, diễn ra tương tác liên nhân cách giữa các thành viên trong nhóm, có sự tương tác tâm lý. Tác giả đã lý giải sự tương tác trong học tập hợp tác được biểu hiện cụ thể qua việc giải thích cho nhau, kiểm tra mức độ hiểu bài lẫn nhau, thảo luận về nội dung học tập, thậm chí ủng hộ, khích lệ, tạo điều kiện, giúp nhau phát triển. Tuy nhiên, tác giả không đi vào làm rõ quá trình tương tác trong học tập hợp tác mà chỉ đề cập tới tương tác với vai trò giúp làm rõ kĩ năng học tập hợp tác của sinh viên (Dẫn theo Nguyễn Thị Thúy Hạnh, 2012). Như vậy, hoạt động học tập được tiếp cận dưới góc độ của người quản lý, người dạy đến người học. Ứng với mỗi góc độ sẽ có các hướng tiếp cận khác nhau. Tuy nhiên, tương tác tâm lý trong hoạt động học tập ở sinh viên với sinh viên hầu như chưa có một công trình nghiên cứu nào tiếp cận theo hướng này. 1.2. Một số khái niệm cơ bản 1.2.1. Tương tác 1.2.1.1. Khái niệm Về thuật ngữ, có nhiều quan điểm khác nhau về sự tương tác: Trong tiếng Anh, “Interaction” được hiểu là sự nối kết các hành động, sự hợp tác, tác động lẫn nhau, ảnh hưởng qua lại lẫn nhau (Interaction, 2018). Trong tiếng Việt, có nhiều định nghĩa khác nhau về sự tương tác: Theo Vũ Dũng, tương tác là sự tác động qua lại, tác động lẫn nhau (Vũ Dũng, 2008). Trong đại từ điển tiếng Việt, tương tác được hiểu là sự tác động qua lại lẫn nhau có mối liên hệ trao đổi thông tin với nhau (Nguyễn Thị Như Ý, 2000). Theo Nguyễn Khắc Viện, tương tác là một khái niệm thuộc về ứng xử: “cái này tác động lên cái kia, cái kia tác động trở lại cái này, hai cái ảnh hưởng lẫn nhau, chứ không thể ảnh hưởng một chiều” (Nguyễn Khắc Viện, 2001). 16
  25. Theo Vũ Dũng: “Tương tác là sự tác động qua lại, tác động lên nhau.” (Vũ Dũng & Nguyễn Thị Mai Lan, 2013, tr.973). Theo Phạm Tất Dong và Lê Ngọc Hùng cho rằng: “Tương tác có thể được coi là quá trình hành động và hành động đáp lại của một chủ thể này với một chủ thể khác.” (Phạm Tất Dong & Lê Ngọc Hùng, 2001, tr.144-145). Theo tài liệu tâm lý học xã hội, tương tác là sự tác động lẫn nhau của các cá nhân nhằm thực hiện những hoạt động đồng thời với mục đích nào đó của nhóm (Vũ Dũng, 2000, tr.48). Như vậy, về nguyên nghĩa và ở mức khái quát nhất, tương tác là sự tác động qua lại tương ứng lẫn nhau gây ảnh hưởng nhau giữa các sự vật, hiện tượng trong hiện thực khách quan. 1.2.1.2. Phân loại Tương tác được nhắc đến trong nhiều ngành khoa học khác nhau như tương tác vật lý, tương tác sinh học, tương tác xã hội, tương tác tâm - vật lý, tương tác tâm lý, - Tương tác vật lý: Sự tác động giữa các lực, các năng lượng. Tương tác vật lý được nhắc đến với rất nhiều dạng khác nhau như tương tác cơ bản, tương tác điện, tương tác hấp dẫn, tương tác phân tử, tương tác trao đổi, - Tương tác sinh lý: Là sự tác động qua lại giữa các cơ thể hữu cơ. Trong tương tác sinh lý diễn ra những biến đổi chức năng của một số cơ quan dưới tác động ảnh hưởng của một hay nhiều cơ quan khác. Sự tác động qua lại của các cơ quan cũng còn biểu hiện ra trong những trường hợp chúng hoạt động cùng nhau, đem đến cho chủ thể một thông tin đầy đủ, nhiều chiều về thế giới khách quan mà trong cùng một điều kiện hoạt động, một cơ quan không thể làm được. - Tương tác tâm - vật lý: Là sự tác động qua lại giữa các hiện tượng tâm - vật lý. Ngay từ thế kỷ XVII, dưới ảnh hưởng của cơ giới luận đã xuất hiện hai cách lý giải về mối quan hệ tâm - vật lý. R. Descartes cho rằng, vật bên ngoài tác động lên ý thức làm nảy sinh ra các hiện tượng tâm lý như cảm giác, tri giác. Quan điểm thứ hai có tên gọi là: “Song hành tâm - vật lý”. Cái tâm lý và cái vật lý đồng thời diễn ra. Theo nghiên cứu của các nhà tâm lý học Gestalt: M. Werthermer, W. Kohler và K. 17
  26. Koffka, bản chất hiện tượng tâm lý đều có tính cấu trúc, vì vậy nghiên cứu phải theo xu hướng tổng thể với một cấu trúc chỉnh thể. Nghiên cứu của các nhà Gestalt hướng đến việc hình thành các cấu trúc tâm lý (cấu trúc tri giác và tư duy) theo cơ chế tương tác giữa các kích thích vật lý với hoạt động của hệ thần kinh. Quan điểm này cho rằng, trong trạng thái hoạt động, não bộ luôn tạo ra một lực trường. Khi các kích thích vật lý (dữ liệu giác quan) đi vào vừa làm biến đổi lực trường đã có, vừa bị biến đổi bởi chúng. Hình ảnh tinh thần (biểu tượng, khái niệm ) là kết quả của sự tương tác (Dẫn theo Lê Minh Nguyệt, 2010). - Tương tác xã hội: Đó là sự tác động qua lại và ảnh hưởng lẫn nhau giữa người với người với tư cách là các thành viên xã hội. Nói cách khác, tương tác xã hội là tương tác giữa các vai trò xã hội mà cá nhân đang đảm trách. Tương tác xã hội chỉ có ở con người, trong xã hội người. Tâm lý, ý thức của con người được hình thành, phát triển thông qua các tương tác tâm lý và tương tác xã hội. Đó là tương tác giữa các cá nhân với các cá nhân, giữa cá nhân với các nhóm trong xã hội. - Tương tác tâm lý: Là sự tiếp xúc, tác động về phương diện tâm lý giữa các cá nhân với nhau. Tương tác tâm lý được biểu hiện thông qua các tác động tâm lý, xúc cảm tình cảm, của các chủ thể với nhau, gây tác động, ảnh hưởng lẫn nhau (Cao Thị Nga, 2016, tr.22). - Trong xã hội hiện đại, tương tác còn có một hình thái khác, đó là tương tác trực tuyến. Tương tác trực tuyến là kiểu tương tác thông qua các trang mạng xã hội, người dùng tác động qua lại lẫn nhau một cách gián tiếp bằng cách đăng tải nội dung, bình luận, chia sẻ với những người dùng khác. Kiểu tương tác này có đặc trưng là người dùng giao tiếp một cách gián tiếp thông qua các trang mạng xã hội để trao đổi cảm xúc, thông tin. Tương tác trực tuyến được áp dụng trong rất nhiều lĩnh vực, trong đó phải kể đến giáo dục. Hiện nay có nhiều các khóa học trực tuyến mở ra đáp ứng được nhu cầu học tập của người mà không còn phụ thuộc vào khoảng cách. Chỉ cần trước mặt có một thiết bị kết nối mạng, bạn có thể học ở bất kì đâu một cách rất tiện dụng. Chính kiểu tương tác này mở ra một hướng đi mới cho việc học và tương tác của sinh viên. 18
  27. Trong giới hạn đề tài nghiên cứu, chúng tôi xem xét tương tác giữa cá nhân với cá nhân. 1.2.2. Tương tác tâm lý 1.2.2.1. Khái niệm Từ khái niệm đã phân tích ở trên, tương tác là sự tác động qua lại tương ứng lẫn nhau gây ảnh hưởng nhau giữa các sự vật, hiện tượng trong hiện thực khách quan. Xét trên khía cạnh mối quan hệ giữa con người với con người, tương tác tâm lý chính là sự tác động lẫn nhau về phương diện tâm lý giữa hai hay nhiều cá nhân dẫn đến ảnh hưởng về mặt tâm lý đến cá nhân đó. Như vậy, tương tác tâm lý chính là sự tác động qua lại về mặt tâm lý giữa hai hoặc nhiều cá nhân, từ đó biến đổi về mặt tâm lý giữa các chủ thể. Tương tác tâm lý có đặc điểm khác với các loại tương tác khác đó chính là có sự giao cảm trực tiếp về mặt cảm xúc. Thông qua sự giao cảm đó, con người dần xóa đi rào cảm về mặt tâm lý, tạo nên sự gắn kết, hòa hợp, thấu hiểu trong các mối quan hệ. Từ đó, các hoạt động được tiến hành một cách nhanh chóng, thuận lợi và đạt được hiệu quả cao. Chẳng hạn, trong các nghiên cứu của H. F. Harlow, M. K. Harlow, J. Bowlby và của Klaus và Kennell về sự gắn bó giữa mẹ và con trong quá trình phát triển của trẻ nhỏ, các nhà khoa học này đã phát hiện sự gắn bó mẹ con giữa trẻ và người mẹ là nhằm thỏa mãn nhu cầu gắn bó của cả trẻ nhỏ và người mẹ, nhu cầu tránh sự hẫng hụt và cảm giác cô đơn. Đồng thời, sự gắn bó mẹ con là kết quả của sự tác động qua lại, hay là sự tương tác tâm lý giữa người mẹ với con (Dẫn theo Trần Thị Minh Đức, 2008). Một cách hiểu khác, dưới góc độ quy chiếu giá trị, chuẩn mực xã hội, tương tác tâm lý giữa các cá nhân còn được hiểu là tương tác liên nhân cách, tương tác liên cá nhân. Cụ thể, theo tác giả Vũ Dũng: tương tác liên nhân cách (liên cá nhân) theo nghĩa rộng, là sự tiếp xúc tâm lý của hai hay nhiều người, kết quả là làm thay đổi hành vi, hoạt động, thái độ, tâm thế của các bên. Theo nghĩa hẹp, tương tác liên nhân cách là hệ thống các hoạt động của các cá nhân do có sự tiếp xúc tâm lý của các bên. 19
  28. Tác giả Lê Minh Nguyệt quan niệm, tương tác tâm lý là sự tiếp xúc tâm lý, tác động về phương diện tâm lý giữa hai hay nhiều cá nhân, kết quả là làm thay đổi nhận thức, thái độ, hành vi của các cá nhân đó (Lê Minh Nguyệt, 2010, tr.11). Như vậy, có thể nhận thấy, tương tác tâm lý qua các công trình nghiên cứu có thể nói là sự tác động về mặt hành vi, các yếu tố tâm lý của chủ thể xuất phát từ nhu cầu tương tác, trong đó diễn ra sự hiểu biết lẫn nhau, sự tương hợp tâm lý giữa các chủ thể dẫn đến sự ảnh hưởng, biến đổi về mặt tâm lý ở các chủ thể đó. Nói một cách khái quát, tương tác tâm lý là sự tác động về mặt tâm lý để tạo ra những nét tâm lý mới. Thông qua một số hình thức như giao tiếp bằng lời, giao tiếp phi ngôn, chữ viết, vật phẩm, Nhờ sự tương tác tâm lý, con người sống trong xã hội một cách có ý nghĩa. Bên cạnh đó, cá nhân trong xã hội tăng vốn hiểu biết về thế giới xung quanh, qua đó điều khiển, điều chỉnh hành vi của bản thân sao cho phù hợp với điều kiện và môi trường sống. Tương tác tâm lý là con đường dẫn đến sự cảm thông, thấu hiểu, sự thông cảm là con đường hiệu quả dẫn đến giải quyết xung đột. Đây cũng chính là mục tiêu giáo dục thế kỉ XXI. Không có tương tác tâm lý sẽ không có khả năng thông cảm. Thông qua tương tác tâm lý, con người có cơ hội hiểu nhau, đó là cơ sở của hòa bình - hợp tác - hữu nghị. Tương tác tâm lý là sự tác động hai chiều với tư cách đồng chủ thể, cùng thực hiện hoạt động, cùng đạt đến mục đích. Từ cách nhìn nhận trên, có thể đưa ra khái niệm tương tác tâm lý như sau: Tương tác tâm lý là sự tiếp xúc tâm lý, tác động về phương diện tâm lý giữa hai hay nhiều cá nhân, kết quả là làm thay đổi nhận thức, thái độ, hành vi của các cá nhân đó. 20
  29. 1.2.2.2. Phân loại Có nhiều cách phân loại các hiện tượng tâm lý, dưới đây là một số cách phân loại phổ biến * Phân loại theo mức độ tiếp xúc tâm lý giữa các cá thể Theo cách phân chia này có thể phân loại thành các loại tương tác: + Sự tiếp xúc tâm lý giữa các cá nhân là: sự tiếp xúc mà ở đó chủ thể có thể hiện sự quan tâm, để ý đến nhau. Sự tiếp xúc này thường diễn ra trong điều kiện các cá nhân hoạt động cùng nhau, sống cùng nhau trong cùng một không gian, thời gian, cùng chung mục đích. Trong quá trình hoạt động chung, các cá nhân tương tác với nhau dẫn đến ảnh hưởng lẫn nhau, sự tương tác trong hoàn cảnh này như là một chất xúc tác tạo ra sự thi đua, tính tích cực, ý thức, tinh thần trách nhiệm của mỗi cá nhân thông qua ý thức thể hiện “cái bản ngã”, “cái tôi”, “siêu tôi” ở mỗi cá nhân để hoàn thành công việc. Cụ thể: Theo nghiên cứu của Triplett về lao động của công nhân trẻ khi làm việc một mình và khi làm việc cùng nhóm bạn cho thấy, trong điều kiện làm việc có sự có mặt của người khác năng xuất lao động cao hơn so với làm một mình (Dẫn theo Lê Minh Nguyệt, 2010). Theo C. Marx, sự tiếp xúc xuất hiện trong hoạt động cùng nhau gây ra sự thi đua, và kích thích năng lượng sống, sự hưng phấn này làm tăng thêm năng xuất lao động. Còn B. Ph. Lomov cho rằng, quá trình tiếp xúc trong hoạt động cùng nhau giữa các cá nhân, có sự bắt chước, ám thị, lây lan cảm xúc giữa các cá nhân, tạo sự hợp tác, cạnh tranh, điều chỉnh hành vi của cá nhân. Đó là sự tiếp xúc tâm lý (các chủ thể có sự quan tâm đến nhau, để ý đến nhau (Lomov, 2001). + Sự tương tác: Chủ thể có hệ thống hành động đáp lại các phản ứng tương tác từ đối tác. + Sự liên hệ xã hội: Trong Đại từ điển Tiếng Việt, liên hệ là có sự dính dáng đến nhau, liên quan đến nhau (Nguyễn Như Ý, 2000). Tác giả Trần Thị Minh Đức cho rằng, liên hệ xã hội là sự tiếp xúc gắn kết giữa các cá nhân trong xã hội. Đó là sự ràng buộc tâm lý giữa con người theo những chuẩn mực pháp lý, dư luận hay tình cảm (Trần Thị Minh Đức, 2008). 21
  30. Liên hệ xã hội được hình thành từ sự tham gia của các cá nhân vào hoạt động nhóm, từ sự gắn bó, là mối liên hệ tình cảm giữa các cá nhân trong các mối quan hệ được thiết lập dựa trên tính chất công việc hoặc sự hấp dẫn lẫn nhau trong quan hệ tình cảm, Trong cuộc sống, mỗi cá nhân đều có những mối dây liên hệ với người khác theo cách nào đó. Chẳng hạn: với bố mẹ, anh em, bạn bè, các thiết chế xã hội, Trong mỗi mối liên hệ đó con người được đưa vào một cấu trúc xã hội phức tạp. Cấu trúc này bao bọc lấy cá nhân, định hướng cho cá nhân hoạt động. Theo Gode Froid J.: “Không có hoặc hầu như không có một ứng xử nào của con người có thể phát triển và biểu hiện tách rời khỏi các thành viên của nhóm” (Gode, 1998). Như vậy, sự liên hệ xã hội trong tương tác thể hiện ở chỗ, để quá trình tương tác diễn ra, các chủ thể phải có sự phối hợp các hành động với nhau. * Phân loại theo chủ thể tác động trong tương tác + Nội tương tác: tương tác giữa các yếu tố tâm lý của chủ thể. Chẳng hạn, sự tương tác giữa kiến thức, hiểu biết của cá nhân với thái độ của cá nhân đó đối với đối tượng; tương tác giữa tình cảm với ý chí, với nhận thức, Trong nội tương tác, tương tác giữa ý thức với các chức năng tâm lý khác là đặc biệt quan trọng. Trong loại tương tác này, ý thức của chủ thể hướng vào trong, nhận thức và đánh giá các yếu tố tâm lý của chính mình. Là quá trình tự nhận thức, tự đánh giá, tự điều chỉnh bản thân. + Ngoại tương tác: tương tác ngoài là tương tác giữa các chủ thể với nhau. Chẳng hạn: tương tác cá nhân - cá nhân; cá nhân với nhóm xã hội; giữa nhóm xã hội này với nhóm xã hội khác. Trong tương tác ngoài, ý thức của chủ thể hướng đến chủ thể khác để nhận thức, đánh giá và điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp với tác động của chủ thể khác. Trong đề tài này, chúng tôi nghiên cứu tương tác ngoài, cụ thể là tương tác giữa sinh viên với sinh viên diễn ra trong hoạt động học tập. * Phân loại theo chủ thể của quá trình tương tác + Tương tác giữa cá nhân - cá nhân: tương tác cá nhân - cá nhân là sự tác động lẫn nhau giữa các cá nhân với nhau. Trong đời sống xã hội, tương tác cá nhân - cá nhân là loại hình tương tác phổ biến. Sự tác động qua lại và ảnh hưởng lẫn nhau giữa các cá nhân trong mối quan hệ liên cá nhân, liên nhân cách là phương thức, con đường cơ bản để hình thành và phát triển tâm lý cá nhân. 22
  31. + Tương tác cá nhân - nhóm: là sự tác động lẫn nhau giữa cá nhân với tư cách là thành viên hoặc không với một nhóm, tổ chức xã hội. Tương tác cá nhân - nhóm thường xuyên diễn ra sự tác động giữa cá nhân với các chuẩn mực, giá trị, mục tiêu, hoạt động của nhóm. Hệ quả, cá nhân thay đổi và thích ứng với nhóm đồng thời làm thay đổi trạng thái phát triển của nhóm. Tương tác giữa sinh viên với sinh viên diễn ra trong giờ học là loại tương tác giữa cá nhân với cá nhân hoặc giữa cá nhân và nhóm. + Tương tác nhóm - nhóm: là sự tác động lẫn nhau giữa các nhóm. Một trong những đặc trưng của xã hội loài người là tồn tại và phát triển theo phương thức nhóm. Sự tương tác giữa các nhóm được thể hiện qua sự tác động và ảnh hưởng lẫn nhau bởi các mục tiêu, hoạt động, giá trị, chuẩn mực, Xã hội càng phát triển thì nhóm xã hội càng đa dạng, ảnh hưởng lẫn nhau giữa các nhóm càng mạnh. Tương tác nhóm là phương thức, con đường cơ bản hình thành, phát triển tâm lý cá nhân, xã hội. * Phân loại theo vai trò xã hội Là tương tác của các cá nhân đóng vai trò xã hội khác nhau (tương tác xã hội). Trong các tương tác này diễn ra sự tiếp xúc, trao đổi và tác động lẫn nhau về các phương diện chuẩn mực, các giá trị, khuôn mẫu, các quy định xã hội được xã hội gán cho mỗi cá nhân với vai trò mà cá nhân đó mang. Tương tác theo vai trò xã hội trong cuộc sống cũng như trong cấu trúc tâm lý của mỗi cá nhân luôn tồn tại hai mặt: một mặt, luôn phải đóng các vai trò xã hội khác nhau như: cha - con; anh - em; thầy - trò, mặt khác, phải luôn duy trì, thể hiện, phát triển cái tôi, cái bản sắc riêng của bản thân mà không làm mất nó. Vì vậy, trong tương tác các cá nhân phải học cách nhập các vai khác nhau trong từng hoàn cảnh để có cách tương tác tương ứng. 23
  32. * Phân loại theo mức độ tham gia của ý thức chủ thể vào quá trình tương tác + Tương tác phi biểu trưng: là sự tương tác được nảy sinh do sự phản ứng trực tiếp của cá nhân này với cá nhân kia mà không có sự lý giải ý nghĩa hành động của nhau. Chẳng hạn, người bị thôi miên, ám thị, tức giận, Công thức chung của tương tác phi biểu trưng là S - R. Trong đó, S là các kích thích, còn R là các phản ứng của cá thể. Ở đây cá thể phản ứng trực tiếp đối với các kích thích từ môi trường. + Tương tác biểu trưng: là tương tác trực tiếp giữa các cá nhân, là tương tác chỉ diễn ra giữa người với người, trong đó các chủ thể phải thường xuyên hiểu, lý giải, định nghĩa, xác định ý nghĩa tâm lý - xã hội trong các hành động của nhau. Tương tác biểu trưng không phải là tổng số các phản ứng riêng lẻ của cá nhân, mà mỗi hành động đó được thực hiện trên cơ sở sự lý giải ý nghĩa động cơ hành động của người khác, được thể hiện thông qua các biểu tượng, đưa ra được định nghĩa về hành động đó. Công thức chung của tương tác biểu trưng là S - I - R. Trong đó, S là kích thích, I là biến số trung gian, sự lý giải của chủ thể về các kích thích S, R là các phản ứng của cá thể. Chủ thể phản ứng gián tiếp đối với các kích thích từ môi trường thông qua khâu trung gian là các biểu tượng, được hình thành từ sự phân tích ý nghĩa do các kích thích mang lại (Cooley, 1902). Trong quá trình hình thành, phát triển tâm lý của cá nhân luôn tồn tại cả tương tác biểu trưng và tương tác phi biểu trưng, trong đó tương tác biểu trưng phổ biến và chiếm vai trò quan trọng. 1.2.2.3. Biểu hiện tương tác tâm lý Khi xem xét biểu hiện của tương tác tâm lý, các nhà tâm lý học nhấn mạnh các khía cạnh khác nhau. Chẳng hạn, C. Roger, John Deway, B. Ph. Lomov, M. Muntner, F. Jones và Louise Jones, G. Mead, Ch. H. Cooley, G. H. Goffmen, Herber Blumer, đều nhấn mạnh đến các yếu tố sự tương giao, cảm xúc, bầu không khí lớp học, sự thấu hiểu hành vi của người khác, sự cảm thông, đồng cảm là những yếu tố đặc biệt chú trọng trong tương tác giữa người dạy - người học, thầy thuốc - bệnh nhân. Cũng với quan điểm trên, Vũ Dũng trong tương tác của ê kíp lãnh đạo đề cập tới 2 thành tố 24
  33. cơ bản là: tương hợp tâm lý và phối hợp hành động (Rogers, 1995), (Dewey, 2008), (Muntner, 2008), (Mead, 1934). Lê Minh Nguyệt trong tương tác cha mẹ và con chỉ ra 6 thành tố của tương tác tâm lý cha mẹ và con cái bao gồm: nhu cầu, sự hiểu biết, sự đồng cảm, sự tương hợp tâm lý, kĩ năng tương tác, sự ảnh hưởng, tần số tương tác (Lê Minh Nguyệt, 2010). Như vậy, có thể thấy mỗi tác giả đều có những lý lẽ nhất định để đưa ra hệ thống các nội dung nhằm đo đạc sự tương tác. Tuy nhiên, nếu phân tích một cách chi tiết từng hệ thống các nội dung tương tác tâm lý nói trên cho thấy tương tác tâm lý giữa các chủ thể được biểu hiện qua các thành tố sau: * Nhu cầu tương tác Trong tâm lý học, có nhiều quan niệm khác nhau về nhu cầu, hiểu một cách chung nhất, nhu cầu là sự đòi hỏi tất yếu mà con người thấy cần được thỏa mãn để tồn tại và phát triển. Trong hầu hết các tài liệu tâm lý học, nhu cầu được xem xét như một thành tố giúp con người tồn tại và phát triển. Các tác giả đều cho rằng, để tồn tại và phát triển, cá nhân phải đòi hỏi ở môi trường xung quanh những cái cần thiết. Sự đòi hỏi đó gọi là nhu cầu. Dưới góc độ tâm lý học xã hội, tâm lý học xã hội xem xét nhu cầu với tư cách là nguồn gốc tâm lý xã hội, làm nảy sinh tính tích cực hoạt động của cá nhân và của nhóm xã hội. Nhu cầu quy định xu hướng lựa chọn (thuộc tính tâm lý cá nhân), nhận thức (ý nghĩ), thái độ (rung cảm), hành động (ý chí) của cá nhân, nhóm cá nhân trong hoạt động. Nhu cầu của con người hết sức đa dạng phong phú. Tựu trung, có thể chia nhu cầu con người làm hai loại: nhu cầu vật chất và tinh thần. A. Maslow (1908 - 1970) nhà tâm lý học người Mỹ thế kỉ XX, trong nghiên cứu đã phát hiện ra các nhu cầu có tính phổ quát của con người trong hoạt động cũng như trong cả cuộc đời. Theo A. Maslow, con người có năm loại nhu cầu: Nhu cầu vật chất; Nhu cầu an toàn; Nhu cầu quan hệ, giao tiếp; Nhu cầu được tôn trọng; Nhu cầu tự khẳng định, tự thỏa mãn. Trong thang nhu cầu của A. Maslow, nhu cầu quan hệ xã hội chính là nhu cầu tương tác giữa các cá nhân (Barry & Harold, 2005). 25
  34. Nhu cầu tương tác tâm lý là nhu cầu tinh thần, thể hiện sự mong muốn của cá nhân về sự hợp tác, trao đổi tình cảm, cảm thông, chia sẻ thông tin, kinh nghiệm, giữa cá nhân này với cá nhân khác trong xã hội để cùng nhau tồn tại và phát triển. Nhu cầu tương tác tâm lý được biểu hiện qua trạng thái mong muốn, vui mừng, phấn khởi, hứng thú, thỏa mãn, tích cực, chủ động, khi gặp người mình mong đợi, được trao đổi thông tin mà mình mong muốn, đồng thời lo lắng, thiếu hụt khi không được gặp, hay không được đáp ứng thông tin mình cần. Nhìn chung, các thành viên trong xã hội đều có nhu cầu được gặp gỡ, chia sẻ với nhau, cùng hợp tác với nhau. C. Marx cho rằng, nhu cầu vĩ đại nhất, phong phú nhất của con người là nhu cầu tiếp xúc với người khác. Nhu cầu này không ngang hàng với nhu cầu khác, sự phát triển của nó trong một con người chính là một điều kiện làm cho con người trở thành con người (Dẫn theo Lê Minh Nguyệt, 2010). Nhu cầu tương tác tâm lý có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tính tích cực của cá nhân trong hoạt động. Do vậy, nghiên cứu tương tác tâm lý, phải xét đến nhu cầu. Trong tương tác tâm lý, nhu cầu tương tác đóng vai trò là nguồn gốc của tính tích cực tương tác, người có nhu cầu tương tác cao sẽ có tính tích cực cao. Khi gặp đối tượng và điều kiện tương tác thuận lợi, nhu cầu sẽ phát triển thành động cơ tương tác của cá nhân. Nhu cầu tương tác với người khác vừa là cơ sở của tương tác, vừa là một thành phần, một biểu hiện của tương tác. Thực tiễn đã minh chứng, trong cuộc sống nếu cá nhân bị thiếu hụt hay không được thỏa mãn về nhu cầu tương tác tâm lý sẽ dẫn đến sự rối loạn về cảm xúc và lệch lạc về hành vi. Nghiên cứu của nhà tâm lý học H. P. Harlow và M. K. Harlow trong thực nghiệm về những con khỉ non bị tách khỏi mẹ đã cho thấy điều đó. Trong thế chiến thứ 2, hiện tượng hàng loạt trẻ được nuôi dưỡng trong các trại trẻ mồ côi, mặc dù được chăm sóc, thỏa mãn đầy đủ về nhu cầu vật chất nhưng đã liên tiếp mắc bệnh và qua đời mà các bác sĩ không tìm được nguyên nhân, sau đó người ta đã phát hiện ra nguyên nhân dẫn đến trẻ mắc bệnh hành loạt và qua đời là do sự thiếu hụt về nhu cầu tương tác tâm lý, nhu cầu được thỏa mãn về xúc cảm, tình cảm. Mặt khác, nếu nhu cầu tương tác giữa các chủ thể ở mức cao thì quá trình tương tác sẽ diễn ra thuận lợi, hiệu quả bởi nó là nguồn động lực kích thích các cá nhân tích cực tìm kiếm, tương tác với nhau. (Trần Thị Minh Đức, 2008). 26
  35. Trong hoạt động học tập, nhu cầu tương tác là yếu tố thúc đẩy sinh viên tích cực tương tác với nhau trong giờ lên lớp. Trong tương tác tâm lý, khi mức độ nhu cầu tâm lý của các cá nhân biểu hiện ở nhận thức (mong muốn, khao khát gặp gỡ, tương tác), ở thái độ (tích cực, hứng thú tương tác), ở hành vi (sự tích cực, chủ động trong tương tác) là lúc các cá nhân đã, đang thực hiện, đạt quá trình tương tác tâm lý. Như vậy, có thể nói nhu cầu tương tác trong tương tác tâm lý vừa là nguồn gốc, là điều kiện, vừa là thành phần, biểu hiện của tương tác tâm lý. Nhu cầu tương tác là động lực làm nảy sinh, thúc đẩy tính tích cực làm cho tương tác tâm lý đạt hiệu quả. * Sự tương hợp tâm lý trong tương tác Trong từ điển tiếng Anh của đại học Oxford, từ tương hợp là Compatibility được hiểu là sự hợp nhau về quan điểm, ý kiến, nguyên tắc sống, giữa người với người. Theo từ điển bách khoa Việt Nam, tương hợp là sự phối hợp tối ưu các đặc điểm tâm lí cá nhân của các thành viên trong nhóm để có lợi nhất cho việc thực hiện mục đích chung. Theo tác giả Vũ Dũng, tương hợp tâm lý là khả năng của con người tìm kiếm sự hiểu biết lẫn nhau, điều chỉnh các liên hệ riêng, công việc và khả năng hợp tác. (Vũ Dũng, 2008) Như vậy, nói đến tương hợp tâm lý là nói đến quá trình bên trong của mỗi cá nhân, nhóm - quá trình cá nhân chuyển từ những cái tôi riêng thành cái tôi chung nhằm hòa hợp, thích ứng lẫn nhau trong quá trình hoạt động chung. Cũng theo Vũ Dũng, tương hợp tâm lý trong một ê kíp lãnh đạo có hai khía cạnh. Tương hợp tâm sinh lý và tương hợp tâm lý xã hội. Tương hợp tâm sinh lý là tương hợp về các đặc điểm thần kinh, khí chất, tính cách, còn tương hợp tâm lý xã hội là tương hợp về động cơ, nhu cầu, mục đích, định hướng giá trị, đặc điểm tâm lý lứa tuổi, Sự tương hợp này là điều kiện quyết định sự tồn tại và phát triển của một ê kíp lãnh đạo (Vũ Dũng, 2000) Điều đó cho thấy, trong hoạt động chung của con người, tương hợp tâm lý được xem là chỉ số đo tính gắn kết, là điều kiện để hình thành bầu không khí tâm lý trong tương tác tính cực. Tương hợp tâm lý là tiền đề, là điều kiện tiên quyết để dẫn 27
  36. đến sự phối hợp chặt chẽ giữa các cá nhân trong hoạt động và trong tương tác, tương hợp tâm lý khiến mỗi cá nhân trong tập thể làm việc một cách tự giác với tinh thần trách nhiệm cao. Tinh thần tự giác của các thành viên thể hiện ở chỗ mỗi người tự nỗ lực phấn đấu hết mình để hoàn thành nhiệm vụ được giao. Bởi vì, sự thống nhất về khí chất, tính cách, nhu cầu, động cơ, định hướng giá trị, lợi ích, sẽ dẫn đến sự thống nhất, phối hợp hành động một cách chặt chẽ của các thành viên về khía cạnh tâm lý trên. Nhiều công trình nghiên cứu tâm lý học đã chứng minh rằng, nếu không có sự tương hợp tâm lý sẽ phát sinh các tình trạng xung đột khác nhau, gây tổn hại cho hoạt động cũng như bầu không khí của tập thể. Xung đột không chỉ làm đình đốn công việc của tập thể, mà còn ảnh hưởng đến trạng thái tinh thần của mỗi cá nhân. Khi không tạo dựng được các xúc cảm dương tính, sự sợ hãi, nghi kị làm cho con người ta mất sáng suốt, tính ý thức cao của hoạt động kém. Theo cách nói của nhà tâm lý học Ba Lan Lazenhepxki, xung đột là lực ly tâm, xung đột có thể dẫn đến tan rã tập thể. Nhà tâm lý học B. Ph. Lomov và V. F. Rubakin trong công trình nghiên cứu bầu không khí tâm lý lao động cũng đã chỉ ra rằng, nguyên nhân thứ ba của mọi xung đột là vấn đề không tương hợp tâm lý. Điều đó đã bộc lộ, hiệu quả của tương tác tâm lý phụ thuộc mức độ phát triển của sự tương hợp tâm lý trong hoạt động. Trong tương tác tâm lý, nếu giữa các cá nhân đạt được sự tương hợp cả về khía cạnh tâm sinh lý và tâm lý xã hội, nghĩa là trên cơ sở hiểu khí chất, tính cách, năng lực, khả năng, điều kiện của nhau để có thể hiểu đến mức thấu hiểu nhau, thông cảm, đồng cảm, sẽ tạo nên sự tương hợp tâm lý với nhau cao, dẫn đến hiệu quả tương tác tâm lý càng tốt. Sự tương hợp tâm lý này là cơ sở giúp các cá nhân dễ dàng xây dựng, thiết lập được các quan hệ tình cảm khăng khít, gắn bó giúp đỡ nhau, thông cảm và hiểu biết, kết quả cuối cùng là hoạt động tương tác đó sẽ nhịp nhàng, có sự thống nhất, nhất trí để đạt hiệu quả cao trong hoạt động (Nguyễn Đình Xuân & Vũ Đức Hán, 1994), (Nguyễn Thúy Nga, 1993). 28
  37. * Sự phối hợp hành động tâm lý Phối hợp trong tiếng Anh, coordination có nghĩa là làm việc với nhau một cách hòa hợp, mà trong đó các chủ thể đều thực hiện hành vi nhằm đạt mục tiêu đã xác định với sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các hành vi. Xét từ khía cạnh quản lý hoạt động, phối hợp là một phương thức, một quy trình kết hợp hoạt động giữa các thành viên để đảm bảo cho hoạt động được thực hiện một cách hiệu quả. Phối hợp tồn tại trong suốt quá trình hoạt động, từ quá trình chuẩn bị, đến thực hiện. Ở đâu có hoạt động thì ở đó đòi hỏi phải có sự phối hợp. Mục tiêu cuối cùng của sự phối hợp là tạo được sự thống nhất, đồng thuận, ăn ý giữa các chủ thể trong hoạt động đảm bảo chất lượng, hiệu quả hoạt động. Sự phối hợp hành động giữa các thành viên trong một hoạt động giống như trong một dây truyền sản xuất. Nó thể hiện ở sự đồng bộ, ăn khớp giữa các thành viên trong hoạt động. Tuy nhiên, khác với hoạt động theo dây truyền, sự phối hợp hành động của các chủ thể trong một hoạt động là một sự phối hợp linh hoạt, uyển chuyển, mềm dẻo. Để phối hợp hành động tốt, trước hết đòi hỏi các cá nhân trong hoạt động phải đồng nhận thức, đồng thái độ và đồng hành vi. Có sự phối hợp hành động lẫn nhau thể hiện qua sự ý thức và thái độ tích cực, tự giác thể hiện tinh thần trách nhiệm cao trong chuẩn bị, tiến hành nhiệm vụ. Khả năng sử dụng các kĩ năng cần thiết nhằm phối hợp với nhau tốt. Để có sự phối hợp hành động cao trong tương tác tâm lý, các thành viên phải dựa trên sự thấu hiểu về năng lực, khả năng của cá nhân, sở trường, sở đoản, sở thích, thói quen. Tính đến tính cách, khí chất, điều kiện, hoàn cảnh của các cá nhân. Sự hiểu biết, nắm bắt các đặc điểm này sẽ là cơ sở để phân công nhiệm vụ đạt tới sự “thấu tình, đạt lý”, “thỏa nguyện, thỏa lòng”. Qua đó mà đạt được sự đồng lòng nhất trí, hợp tác với nhau cao trong công việc. 29
  38. * Ảnh hưởng tâm lý lẫn nhau Theo tác giả Vũ Dũng, ảnh hưởng xã hội là sự ảnh hưởng của cá nhân này đến tâm lý, hành vi hay sự thích ứng của người khác theo ba phương thức: Kích thích - Sự củng cố - Thông tin (Vũ Dũng, 2000). Fischer, R. S. Feldman, Trần Thị Minh Đức cho rằng, ảnh hưởng xã hội được hiểu theo hai nghĩa: rộng và hẹp. Theo nghĩa rộng, ảnh hưởng xã hội là hành vi của một người trở thành sự chỉ dẫn, định hướng cho người khác. Theo nghĩa hẹp, ảnh hưởng xã hội chỉ sự thay đổi hành vi của một người dựa vào sức ép chi phối trong một bối cảnh nhất định. Ảnh hưởng xã hội là hiện tượng tâm lý phổ biến. Cứ có tương tác là có ảnh hưởng xã hội. Sự ảnh hưởng xã hội có thể diễn ra theo chiều hướng tích cực hoặc tiêu cực “Hiệu ứng xã hội” (Fischer, 1992), (Feldman, 2003), (Trần Thị Minh Đức, 1998). Theo K. Lewin, khi các cá nhân tương tác với nhau, tức là tạo ra các kích thích và các phản ứng đáp lại sẽ tạo ra một trường năng lượng, gây áp lực, làm ảnh hưởng đến nhau. Trong môi trường đó, sự ảnh hưởng của các kích thích không chỉ phụ thuộc vào cường độ kích thích từ phía đối tượng mà còn phụ thuộc vào cường độ và hướng hành vi đáp ứng của chủ thể. Trong nghiên cứu của mình, bằng thực nghiệm K. Lewin đã chứng minh phong cách tác động của cá nhân sẽ tạo ra sự ảnh hưởng khác nhau tới người khác (Lewin, 1951). Sự ảnh hưởng lẫn nhau trong tương tác có thể diễn ra trên cả ba bình diện: nhận thức, thái độ và hành vi. Nhiều thực nghiệm của các nhà tâm lý học, xã hội học như Solomon Asch, Ben Jones, đã phát hiện ra sự ảnh hưởng lẫn nhau giữa các cá nhân có thể diễn ra theo các cơ chế như: lây lan, bắt chước, ám thị, Sự ảnh hưởng lẫn nhau trong tương tác vừa là bản chất, vừa là hiệu quả của sự tương tác. Trong tương tác tâm lý, có thể thấy sự ảnh hưởng từ cá nhân này lên cá nhân khác bằng nhiều cách thức khác nhau (tác động, khuyến khích, bằng vật chất hoặc tinh thần theo hướng tích cực hoặc tiêu cực). Ảnh hưởng trong tương tác tâm lý có nhiều mức độ. Làm thay đổi hành vi bên ngoài; Làm thay đổi cả nhận thức, thái độ; Làm thay đổi nhận thức, thái độ, hành vi bên trong, 30
  39. Điều đó cho thấy, khi nghiên cứu tương tác tâm lý, biểu hiện ảnh hưởng lẫn nhau trong tương tác vừa là biểu hiện đồng thời vừa là hiệu quả giúp ta đánh giá mức độ, hiệu quả quá trình tác động tâm lý của các cá nhân trong quá trình tương tác tâm lý, và như vậy có thể suy xét, khi ảnh hưởng của bên này trong quá trình tác động tới bên kia và ngược lại càng cao thì hiệu quả tương tác tâm lý càng lớn và ngược lại. * Tần số tương tác Theo từ điển mở Online (Bách khoa toàn thư mở), tần số là số lần cùng một hiện tượng lặp lại trên một đơn vị thời gian. Để tính tần số chọn một khoảng thời gian đếm số lần xuất hiện của một hiện tượng trong một thời gian ấy rồi chia số này cho khoảng thời gian đã chọn. Trong tương tác tâm lý, tần số phản ánh nhịp độ của tương tác. Điều đó có thể giải thích, nếu tần xuất tương tác diễn ra, lặp lại thường xuyên biểu hiện qua số lần dày thì tương tác tâm lý giữa các cá nhân bền chặt, ổn định. Như dân gian thường quan niệm: “Năng mưa thì giếng năng đầy - Em năng đi lại mẹ thầy năng thương”. Tuy nhiên, ở khía cạnh tâm lý này, tần số tương tác tâm lý của các cá nhân phải thể hiện cả sự mong muốn, hứng thú lặp lại (nghĩa là cũng phải phản ánh sự biểu hiện của nhu cầu tương tác). Ngược lại, khi các cá nhân trong tương tác tâm lý có sự né tránh, biểu hiện trên tần số tương tác ít cho thấy, sự tương tác tâm lý của các cá nhân chưa cao. Bởi lẽ, thực tế đã minh chứng, các cá nhân trong các mối quan hệ xã hội chỉ tương tác với nhau với tần số dày khi họ có nhu cầu tương tác với nhau, có được sự tương hợp tâm lý, sự ảnh hưởng đến nhau, cũng như dễ dàng phối hợp nhau trong hoạt động. Ngược lại, khi không có được sự tương hợp, ngay cả khi có nhu cầu, họ cũng sẽ hạn chế, thậm chí né tránh sự tương tác. Tóm lại, Trên đây là những biểu hiện của các thành phần tâm lý cơ bản tạo thành tương tác tâm lý giữa các cá nhân. Nhu cầu tương tác là “động lực” của tương tác tâm lý, sự tương hợp tâm lý trong tương tác phản ánh “bản chất”, sự phối hợp phản ánh “sức mạnh”, tần số cho thấy “nhịp độ”, sự ảnh hưởng lẫn nhau nói lên “hiệu quả” của quá trình tương tác tâm lý. Điều đó cho thấy, khi nghiên cứu tương tác tâm lý không thể không xem xét các biểu hiện này như là những thành phần này trong mối quan hệ tương hỗ. 31
  40. 1.2.3. Hoạt động học tập Hoạt động học tập là vấn đề được quan tâm, đặc biệt là đối với đặc thù học tập theo học chế tín chỉ và quan niệm học tập hiện đại: Lấy người học làm trong tâm, người học là chủ thể của hoạt động học. 1.2.3.1. Khái niệm Khi nhắc đến khái niệm hoạt động học, cần phân biệt rõ khái niệm học và hoạt động học. Ngay từ khi sinh ra, con người đã không ngừng tích lũy những kinh nghiệm sống, tạo nên những tri thức tiền khoa học, tri thức kinh nghiệm. Trên cơ sở đó tiếp thu những tri thức khoa học trong nhà trường. Đây là học theo phương pháp của cuộc sống thường ngày. Tuy nhiên, trên thực tế chỉ có học theo phương pháp nhà trường mới có khả năng tổ chức để cá nhân tiến hành một hoạt động đặc biệt đó là hoạt động học, qua đó mà hình thành ở cá nhân những tri thức khoa học; những năng lực mới đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi của thực tiễn cuộc sống. 32
  41. Bảng 1.1. Đối chiếu khác biệt giữa Học và Hoạt động học (tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học sư phạm) Tiêu chí Học Hoạt động học Mục đích Mục đích không được xác định Mục đích được xác định trước, trước, thường là từ các tình người học có thể ý thức mục huống ngẫu nhiên. đích này thật rõ ràng Nội dung Những tri thức rời rạc, ngẫu Các tri thức khoa học đã được nhiên, thường đơn giản và không kiểm chứng, có tính khái quát, khái quát. có hệ thống. Phương pháp, Ít cần đến phương pháp, phương Cần áp dụng các phương pháp, phương tiện tiện hỗ trợ. sử dung phương tiện phù hợp. Chủ thể Bất kì người nào (trẻ em, người Không giới hạn độ tuổi nhưng trưởng thành). có danh xưng học sinh, sinh viên, gọi chung là “người học”. Thời gian, Mọi lúc, mọi nơi. Có quy định thời điểm cụ thể, không gian diễn ra trong nhà trường. Kết quả Hình thành những kinh nghiệm Hình thành ở người học hệ gắn với các tình huống cụ thể, thống tri thức lý luận làm nền giúp thích nghi với cuộc sống. tảng, tạo năng lực thực tiễn và giúp họ sáng tạo. Tác giả Nguyễn Quang Uẩn và cộng sự cho rằng: “Sự học, việc học, học tập về sắc thái có chút ít khác nhau nhưng về thực chất là một”, từ đó đi đến định nghĩa: “Sự học là sự biến đổi hoạt động vững chắc hợp lý nhờ một hoạt động xảy ra trước đó, chứ không phải là do các phản ứng sinh học bẩm sinh của cơ thể.” Nguyễn Quang Uẩn, Trần Hữu Luyến, Trần Quốc Thành ( 2003). Tác giả L. B. Encônhin cho rằng “việc lĩnh hội tri thức là nội dung cơ bản của hoạt động học tập”. N. V. Cudơmin quan niệm “học tập là loại hoạt động nhận thức cơ bản của sinh viên được thực hiện dưới sự hướng dẫn của cán bộ giảng dạy (Nguyễn Thạc & Phạm thành Nghị, 1992). Trong quá trình đó, việc nắm vững nội dung cơ bản các thông tin mà thiếu nó thì không thể tiến hành được hoạt động nghề nghiệp tương lai. Nhóm tác giả Phạm 33
  42. Minh Hạc, Phạm Hoàng Gia, Lê Khanh, Trần Trọng Thuỷ cho rằng bản chất của hoạt động học tập được thể hiện qua một số ý sau: - Tri thức và kỹ năng, kỹ xảo tương ứng với tri thức ấy là đối tượng của hoạt động học. - Hoạt động học là hoạt động hướng vào làm thay đổi và phát triển chính chủ thể của hoạt động này. - Hoạt động học là hoạt động tiếp thu (lĩnh hội) những nội dung và hình thức lý luận của tri thức, kĩ năng, kĩ xảo xã hội. - Hoạt động học không phải là hoạt động chỉ hướng vào việc tiếp thu những tri thức, kĩ năng, kỉ xảo xã hội, mà còn hướng vào việc tiếp thu chính tri thức của bản thân hoạt động học (những hành động học tập thích hợp nhằm đạt hiệu quả cao) (Phạm Minh Hạc, Phạm Hoàng Gia, Lê Khang, Trần Trọng Thủy, 1989) Nhìn chung, mặc dù còn có những quan điểm khác nhau về hoạt động học tập nhưng các tác giả đều thống nhất cho rằng khi nói đến hoạt động học tập đó là hoạt động nhận thức căng thẳng, là sự tiếp thu tri thức, kinh nghiệm xã hội lịch sử để tạo ra sự phát triển tâm lý ở người học. Từ quan điểm của các nhà Tâm lý học trên, chúng tôi cho rằng hoạt động học tập của sinh viên có thể được định nghĩa như sau: hoạt động học tập của sinh viên là hoạt động chuyên hướng vào chiếm lĩnh tri thức khoa học, kĩ năng kĩ xảo và thái độ tương ứng cũng như những tri thức của chính bản thân hoạt động học (phương pháp học) để tạo ra sự phát triển tâm lý của sinh viên nhằm đáp ứng yêu cầu của một nghề nghiệp cụ thể trong tương lai. 1.2.3.2. Bản chất * Đối tượng của hoạt động học + Đối tượng của hoạt động học là các tri thức, kĩ năng, kĩ xảo tương ứng với tri thức đó. Chúng là các đối tượng khách quan tồn tại bên ngoài người học và người học đang có nhu cầu tái tạo loại tri thức này trong đầu óc của mình. Việc tái tạo không thể diễn ra bằng cách người dạy rót vào đầu người học bằng các bài giảng lý thuyết. 34
  43. + Theo lý thuyết hoạt động, muốn chiếm lĩnh đối tượng, người học phải tác động trực tiếp vào đối tượng bằng những hành động cụ thể, phù hợp. Người học chiếm lĩnh được tri thức bằng cách thực hiện các nhiệm vụ mà người dạy giao phó. * Hoạt động học hướng vào làm thay đổi chính mình * Hoạt động học được điều khiển một cách có ý thức nhằm tiếp thu những tri thức, kĩ năng, kĩ xảo Như đã trình bày ở trên, quá trình tiếp thu tri thức, kĩ năng, kĩ xảo sẽ được xảy ra theo hai cách: + Cách thứ nhất khi chủ thể tiến hành một hoạt động cụ thể. Cách này được diễn ra thông qua kinh nghiệm có sẵn, vì vậy những tri thức, kĩ năng, kĩ xảo nhận được thường mang tính kinh nghiệm. Cách này cần nhưng chưa đủ. + Cách thứ hay chính là, trong hoạt động học tập, người học phải ý thức được mục đích học tập của mình, phải nỗ lực, cố gắng vượt qua khó khăn để chiếm lĩnh các tri thức khoa học. Đối tượng sẽ là các tri thức, kĩ năng, kĩ xảo đã được chọn lọc, hệ thống bởi các nhà giáo dục học, nhà biên soạn chương trình phù hợp với yêu cầu của xã hội đương thời. Đây là những tri thức đã được hệ thống hóa, khái quát hóa, chứa đựng những khái niệm quan trọng, những đặc điểm bản chất, các mối quan hệ mang tính quy luật, những nguyên lý quan trọng trong thế giới khách quan và trong đời sống con người. Người học muốn lĩnh hội tri thức này cần có ý thức tự giác cao và nhờ đến sự giúp đỡ của người dạy. * Hoạt động học không chỉ nhằm lĩnh hội tri thức, kĩ năng, kĩ xảo mà còn hướng đến hình thành những tri thức của chính hoạt động học, đó là những cách thức thực hiện hoạt động học, là phương pháp học. Thật vậy, để hoạt động học được tiến hành hiệu quả cần biết cách thức thực hiện, biết sử dụng các phương pháp học tập phù hợp. Ở đây muốn nhấn mạnh cả hai việc tiếp thu tri thức, kĩ năng kĩ xảo và có phương pháp học tập phù hợp là hai nhiệm vụ quan trọng mà người học cần quan tâm đồng thời. Thực tế việc học tập ở đại học, người học cần chủ động tiếp cận các tri thức, kĩ năng, kĩ xảo. Người dạy chỉ giữ vai trò là người định hướng, người học cần tự tìm 35
  44. tòi phương pháp, cách thức học và chắt lọc những tri thức phù hợp để đáp ứng yêu cầu của nghề nghiệp trong tương lai. 1.3. Một số đặc điểm tâm lý của thanh niên sinh viên 1.3.1. Khái niệm thanh niên sinh viên Theo tâm lý học phát triển (Vũ Thị Nho), thanh niên sinh viên được xác định là những người tham gia vào việc học tập ở các trường đại học, cao đẳng, dạy nghề có độ tuổi sau trung học phổ thông và kết thúc khoảng 24 - 25 tuổi (25 tuổi là kết thúc giai đoạn đào tạo dài nhất ở bậc đại học) (Vũ Thị Nho, 2005). Theo Dương Thị Diệu Hoa, thuật ngữ sinh viên có gốc từ tiếng La tinh "Studens", nghĩa là người làm việc, người tìm kiếm, khai thác tri thức. Sinh viên là những người đang chuẩn bị cho một hoạt động mang lại lợi ích vật chất hay tinh thần của xã hội. Các hoạt động học tập, nghiên cứu khoa học, sản xuất hay hoạt động xã hội của họ đều phục vụ cho việc chuẩn bị tốt nhất cho hoạt động mang tính nghề nghiệp của mình sau khi kết thúc quá trình học trong các trường nghề. (Dương Thị Diệu Hoa, 2008) Về tuổi sinh học, đa số sinh viên thuộc lứa tuổi thanh niên từ 17 đến 25 tuổi một số ít có tuổi đời thấp hoặc cao hơn tuổi thanh niên. Vì vậy, sự phát triển và trưởng thành về giải phẫu và sinh lý của tuổi thanh niên là đặc trưng cho lứa tuổi sinh viên. Về phương diện xã hội, sinh viên cũng giống thanh niên học sinh là nhóm người chưa ổn định, còn phụ thuộc về địa vị xã hội do chưa thực sự tham gia vào guồng máy sản xuất của xã hội. Vì vậy, đặc điểm tâm lý của họ có phần khác so với thanh niên cùng lứa tuổi nhưng đã có việc làm ổn định và trưởng thành về nghề nghiệp. Như vậy, có thể nói thanh niên sinh viên là những người có độ tuổi sau trung học phổ thông đến khoảng 25 tuổi, có sự phát triển và trưởng thành về giải phẫu sinh lý. 36
  45. 1.3.2. Một số dạng hoạt động của thanh niên sinh viên Theo Vũ Thị Nho, các hoạt động cơ bản của thanh niên, sinh viên bao gồm: * Hoạt động học tập nhằm chiếm lĩnh tri thức, kĩ năng, kĩ xảo, cũng như các phương thức của hoạt động nhận thức. Hoạt động trí tuệ vẫn giữ vai trò quan trong ở thanh niên, sinh viên. Tuy nhiên hoạt động này đã có những khác biệt về chất so với lứa tuổi trung học phổ thông. Hoạt động học tập ở đại học không còn cung cấp những kiến thức phổ thông mà tập trung vào các kiến thức chuyên ngành, phạm vi hẹp hơn, nghiên cứu sâu hơn, nhằm đào tạo những chuyên gia, những trí thức cho đất nước. Việc học tập ở đại học cũng có những phương pháp khác so với phổ thông. Vì vậy đòi hỏi người học phải có sự chủ động và tự tìm tòi cho mình phương pháp học tập phù hợp. * Hoạt động nghiên cứu khoa học: Do tính chất đặc thù của hoạt động đào tạo ở bậc đại học, song song với hoạt động học tập, ở bậc học đại học xuất hiện một hoạt động rất đặc trưng là hoạt động nghiên cứu khoa học. Hoạt động này đã có mầm mống từ những lứa tuổi trước những chưa rõ nét, chỉ khi lên tới bậc đại học, với đòi hỏi bức bách đối với các chuyên gia tương lai, hoạt động nghiên cứu khoa học trở thành hoạt động chiếm một vị trí ngày càng quan trọng. * Hoạt động học nghề: Việc học nghề ở đại học khác với việc học nghề truyền thống hay ở những trường dạy nghề. Đối với việc học nghề truyền thống hay ở những trường dạy nghề, việc học nghề là học “như thế nào?” - tức học cách thức tiến hành, còn học nghề ở đại học là học “tại sao?” - tức học những hành động, những kĩ thuật, những nguyên tắc chung có tính chất trí óc là chính. * Hoạt động chính trị - xã hội: Đây là một nội dung hoạt động đặc trưng của sinh viên. Hội sinh viên là một tổ chức chính trị xã hội. Họ có đầu óc nhạy bén, quan tâm đến tình hình kinh tế, chính trị, xã hội của quốc gia và quốc tế. Họ có chính kiến đối với đường lối, chính sách, chủ trương của những đảng chính trị, những tổ chức cầm quyền. Do đó, hoạt động chính trị - xã hội là nhu cầu, nguyện vọng của thanh niên sinh viên. Ngoài những hoạt động trên, thanh niên sinh viên cũng là nhóm người tham gia tích cực vào các hoạt động văn hóa, nghê thuật, thể dục, thể thao. Họ còn tham 37
  46. gia vào nhiều câu lạc bộ âm nhạc, thể thao, kĩ năng, để thỏa mãn nhu cầu giao lưu và rèn luyện toàn diện của họ. Bao trùm lên tất cả các hoạt động phong phú, đa dạng của sinh viên các trường đại học là những quan hệ giao lưu, giao tiếp với hàng loạt mối quan hệ xã hội đan xen với nhau. Những mối giao lưu này mang tính phức hợp giữa cá nhân người sinh viên với các bạn bè cùng lứa, cùng giới, khác giới, các tổ chức, các nhóm xã hội trực tiếp và gián tiếp (các phương tiện thông tin, truyền thông), Hoạt động giao lưu này chiếm vị trí quan trọng trong sự phát triển đời sống tâm lý, nhân cách của sinh viên. 1.3.3. Một số đặc điểm tâm lý của thanh niên sinh viên Những đặc điểm tâm lý của sinh viên bị chi phối bởi các đặc điểm về thể chất, môi trường và vai trò xã hội mà người đó tham gia vào. Những đặc điểm phát triển tâm lý của sinh viên rất đa dạng, phong phú và không đồng đều. Dưới đây là một số đặc điểm: * Sự thích nghi của sinh viên với cuộc sống và hoạt động mới Hoạt động học tập, hoạt động xã hội và môi trường sống có sự thay đổi về chất so với lứa tuổi trước. Đối với đa số sinh viên, khi bước vào lứa tuổi này đồng nghĩa với môi trường sống, môi trường học tập, các mối quan hệ có sự thay đổi so với trước. Để học tập, hoạt động và sinh hoạt có hiệu quả, sinh viên phải có cách thức thích nghi với môi trường học tập, môi trường xã hội mới. Quá trình thích nghi chủ yếu ở các mặt: + Nội dung học tập mang tính chuyên ngành; + Phương pháp học tập mới mang tính nghiên cứu khoa học; + Môi trường sinh hoạt mở rộng ở phạm vi quốc gia, thậm chí quốc tế; + Nội dung và cách thức giao tiếp với bạn bè, với giảng viên và các mối quan hệ xã hội khác đa dạng, phong phú, Một số công trình nghiên cứu cho thấy sinh viên cần có thời gian để làm quen, thích ứng với những vấn đề trên như công trình nghiên cứu của Nguyễn Văn Trình: “Sự thích ứng với hoạt động học tập đào tạo theo tín chỉ của sinh viên trường đại học Hoa Hà Tiên”. Sự thích ứng này đối với mỗi sinh viên không hoàn toàn như nhau, tùy thuộc vào những đặc điểm tâm lý cá nhân và môi trường sống cụ thể của họ quy 38
  47. định. Có những sinh viên dễ dàng và nhanh chóng hòa nhập với môi trường xã hội mới, nhưng lại gặp khó khăn trong phương pháp, cách thức học ở đại học. Có người cảm thấy ít khó khăn trong việc tiếp thu tri thức, dễ vượt qua cách học chuyên sâu ở đại học, nhưng lại lúng túng, thiếu tự nhiên trong việc hòa nhập với bạn bè, với các nhóm hoạt động trong lớp, trong trường đại học. Một số sống hòa đồng, cởi mở với mọi người, trong khi một số khác lại ở dạng thận trọng, khép kín. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu cho thấy, nhìn chung sau một thời gian học tập ở bậc đại học, đa số sinh viên có sự thích ứng nhanh chóng với môi trường xã hội mới trên cơ sở tình bạn của những người trẻ tuổi. Khó khăn có tính chất bao trùm hơn vẫn là phải thích nghi được với nội dung, phương pháp học tập mới có tính chất nghiên cứu khoa học và học nghề đối với những chuyên gia tương lai. Mức độ thích nghi này có ảnh hưởng trực tiếp đến thành công trong học tập của họ, bởi vậy có ý nghĩa chi phối rõ rệt hơn. Ở đây, sinh viên còn một loạt mâu thuẫn cần giải quyết: + Mâu thuẫn giữa ước mơ, kì vọng của sinh viên và khả năng, điều kiện thực hiện chúng; + Mâu thuẫn giữa mong muốn học tập, nghiên cứu sâu môn học mà mình yêu thích với yêu cầu phải thực hiện toàn bộ chương trình học theo thời gian biểu nhất định; + Mâu thuẫn giữa lượng thông tin rất nhiều trong xã hội, trên mạng lưới thông tin với thời gian có hạn của bản thân, Để phát triển, sinh viên phải giải quyết các mâu thuẫn này một cách hợp lý. Với mọi sinh viên, điều này không dễ dàng. Ở đây, một mặt người sinh viên phải tích cực hoạt động, biết sắp xếp, mặt khác việc tổ chức dạy và học ở các trường đại học cần hỗ trợ, giúp đỡ sinh viên giải quyết các mâu thuẫn trên. Xét đến cùng, nhân cách của sinh viên được phát triển chính trong quá trình họ giải quyết các mâu thuẫn đó. 39
  48. * Sự phát triển về trí tuệ, nhận thức của sinh viên Bản chất của hoạt động nhận thức của sinh viên ở trường đại học là đi sâu, tìm hiểu những môn học, những chuyên ngành khoa học cụ thể một cách chuyên sâu để nắm được đối tượng, nhiệm vụ, phương pháp, quy luật của các khoa học đó, với mục đích trở thành những chuyên gia về các lĩnh vực nhất định. Hoạt động nhận thức của họ một mặt phải kế thừa một cách có hệ thống những thành tựu đã có, mặt khác lại phải tiệm cận với những thành tựu của khoa học đương đại và có tính cập nhật, thời sự. Chính vì vậy, nét đặc trưng cho hoạt động học tập của sinh viên là sự căng thẳng nhiều về trí tuệ, sự phối hợp của nhiều thao tác tư duy như phân tích, so sánh, tổng hợp, trừu tượng hóa, khái quát hóa. Có thể nêu các đặc điểm sau đây trong hoạt động nhận thức của thanh niên, sinh viên: + Sinh viên học tập nhằm lĩnh hội các tri thức, hệ thống khái niệm khoa học, những kĩ năng, kĩ xảo nghề nghiệp, phát triển những phẩm chất của người chuyên gia tương lai. Hoạt động nhận thức của họ vừa gắn kết chặt chẽ với nghiên cứu khoa học, vừa không tách rời với hoạt động nghề nghiệp. + Hoạt động học tập của sinh viên diễn ra một cách có kế hoạch, có mục đích, nội dung, chương trình, phương thức, phương pháp đào tạo theo thời gian một cách chặt chẽ những không bị quá khép kín, có tính chất mở rộng theo năng lực, sở trường để họ có thể phát huy tối đa năng lực nhận thức của mình trong nhiều lĩnh vực. Có những sinh viên không chỉ học trong một khoa mà còn học ở nhiều khoa, nhiều ngành đào tạo khác nhau để bổ sung kiến thức cho mình. + Phương tiện hoạt động nhận thức của sinh viên được mở rộng và phong phú với các thư viện, phòng thực nghiệm, phòng bộ môn với những thiết bị khoa học cần thiết cho từng ngành đào tạo. Do đó, phạm vi hoạt động nhận thức của sinh viên đa dạng: vừa rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo nghề nghiệp, vừa phát huy việc học nghề một cách rõ rệt. + Hoạt động học tập của sinh viên mang tính đọc lập, tự chủ và sáng tạo cao. Hoạt động tư duy của sinh viên trong quá trình học tập chủ yếu là theo hướng phân tích, diễn giải, chứng minh các định đề khoa học. 40
  49. + Sinh viên phải tìm ra phương pháp học tập phù hợp, phương pháp đó phải phù hợp với chuyên ngành đào tạo mà họ theo đuổi. Không tìm ra được cách học khoa học, sinh viên không thể đạt được kết quả học tập tốt vì khối lượng tri thức, kỹ năng, kỹ xảo họ phải lĩnh hội khi học đại học là rất lớn. Tóm lại, hoạt động nhận thức của sinh viên là một hoạt động trí tuệ đích thực, căng thẳng cường độ cao và có tính lựa chọn rõ rệt. Hoạt động trí tuệ này vẫn lấy những sự kiện của các quá trình nhận thức cảm tính làm cơ sở. Song các thao tác trí tuệ đã phát triển ở trình độ cao và đặc biệt có sự phối hợp nhịp nhàng, tinh tế và uyển chuyển, linh động tùy theo từng hoàn cảnh có vấn đề. Bởi vậy đa số sinh viên lĩnh hội nhanh nhạy, sắc bén những vấn đề mà thầy, cô giáo trình bày. Họ thường ít thỏa mãn với những gì đã biết mà muốn đào sâu, suy nghĩ để nắm vấn đề sâu hơn, rộng hơn. * Sự phát triển động cơ học tâp ở sinh viên Động cơ học tập chính là nội dung tâm lý của hoạt động học tập. Động cơ này bị chi phối bởi nhiều hoạt động khác nhau. Có thể là những yếu tố tâm lý của chính chủ thể như hứng thú, tâm thế, niềm tin, thế giới quan, lý tưởng sống, Cũng có thể đó là những yếu tố nằm ngoài bản thân chủ thể như những yêu cầu của gia đình, xã hội. Động cơ học tập cũng có thể nảy sinh do chính hoạt động và những hoàn cảnh, điều kiện cụ thể của hoạt động mang lại. Ví dụ: nội dung, phương pháp dạy học, trình độ tay nghề, nhân cách của những thầy, cô giáo, các điều kiện, thiết bị dạy học: thư viện, phòng thí nghiệm, Lĩnh vực động cơ hoạt động của sinh viên đại học rất đa dạng, phong phú và thường bộc lộ rõ tính hệ thống. Trong đó việc học tập của họ không chỉ bị chi phối bởi một động cơ mà thường là một số động cơ nào đó. Ví dụ: những động cơ có tính chất nhận thức đối với chính quá trình nghiên cứu, học tập như khao khát có tri thức, có trình độ, hứng thú với những vấn đề lý luận, những vấn đề khoa học, những nội dung có tính nghề nghiệp rõ rệt, thích có nghề nghiệp nghiêm chỉnh, muốn trở thành chuyên gia của một nghề, ; những động cơ liên quan đến sự tự khẳng định, tự ý thức về năng lực, phẩm chất của người thanh niên trưởng thành, những động cơ có tính xã hội; muốn cống hiến tài năng, sức lực cho xã hội, có hoài bão trong việc xây dựng đất 41
  50. nước; những động cơ liên quan đến chính tương lai, đường đời của cá nhân: có nghề nghiệp ổn định, tương đối cao trong xã hội để có thu nhập nuôi sống mình, nuôi sống gia đình, Những nghiên cứu về động cơ học tập của sinh viên cho thấy trong cấu trúc thứ bậc động cơ, sinh viên thường biểu hiện như sau: + Động cơ nhận thức xếp thứ nhất; + Động cơ nghề nghiệp ở vị trí thứ hai; + Động cơ có tính xã hội ở vị trí thứ ba; + Động cơ tự khẳng định vị trí thứ tư; + Động cơ có tính cá nhân ở vị trí thứ năm. Thứ bậc của các động cơ thường không cố định mà có sự biến đổi trong quá trình học tập ở bậc đại học. Thứ bậc này cũng không phải như nhau ở các loại sinh viên có trình độ học lực khác nhau và ở các trình độ khoa học khác nhau. Theo nghiên cứu của A.N.Ghebơxơ, việc hình thành động cơ học tập của sinh viên phụ thuộc vào các yếu tố sau (Nguyễn Thạc & Phạm Thành Nghị, 1992): + Ý thức về mục đích gần và mục đích xa của hoạt động học tập; + Nắm vững ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của tri thức do sinh viên lĩnh hội; + Nội dung mới của những tài liệu và thông tin khoa học được trình bày; + Tính hấp dẫn, sự xúc cảm của thông tin; + Tính nghề nghiệp được thể hiện rõ trong tài liệu được trình bày. Như vậy trong quá trình học tập, lĩnh vực động cơ của sinh viên tiếp tục bị chi phối khá mạnh bởi chính vai trò của các cán bộ giảng dạy trong việc tổ chức hoạt động dạy học. Việc phát triển những động cơ tích cực của hoạt động học tập ở sinh viên phụ thuộc vào một số điều kiện sư phạm nhất định. Ví dụ: những bài giảng được trình bày theo hướng nêu vấn đề, gây những tình huống được giải quyết; những giờ thảo luận, những buổi hội thảo được phát huy tính độc lập, sáng tạo; việc hướng dẫn hoạt động nghiên cứu khoa học ở phòng thí nghiệm hoặc nghiên cứu thực tế, thực tiễn để giải quyết các vấn đề, có ý nghĩa quan trọng để phát triển hệ động cơ nhận 42
  51. thức của sinh viên theo hướng tích cực và hạn chế những động cơ tiêu cực trong học tập. 1.4. Tương tác tâm lý trong hoạt động học tập của thanh niên sinh viên 1.4.1. Khái niệm tương tác tâm lý trong hoạt động học tập của thanh niên sinh viên Từ khái niệm tương tác tâm lý và hoạt động học tập của sinh viên, chúng tôi đưa ra khái niệm về tương tác tâm lý trong hoạt động học tập của sinh viên như sau: “Tương tác tâm lý trong hoạt động học tập của sinh viên là sự tiếp xúc tâm lý tác động về phương diện tâm lý giữa sinh viên với nhau trong hoạt động học tập. Kết quả làm thay đổi nhận thức, thái độ, hành vi của sinh viên trong hoạt động học tập.” Trong phạm vi nghiên cứu này, tương tác tâm lý trong hoạt động học tập của sinh viên được nghiên cứu thông qua một số biểu hiện sau: 1.4.2. Biểu hiện tương tác tâm lý trong hoạt động học tập của sinh viên * Nhu cầu tương tác tâm lý giữa sinh viên viên với sinh viên Nhu cầu tương tác tâm lý giữa sinh viên và sinh viên là nhu cầu được gặp gỡ, trao đổi, tiếp xúc với nhau về mặt tâm lý, qua đó giúp nhau nắm bắt những vấn đề liên quan tới kiến thức khoa học, chuyên môn, nghiệp vụ và các lĩnh vực khác nhau trong cuộc sống. Nhu cầu tương tác tâm lý không chỉ thể hiện ở sự mong muốn, mong chờ mà còn biểu hiện ở thái độ khao khát, hứng khởi được trao đổi với nhau khi tới lớp. Nhu cầu tương tác tâm lý ở sinh viên không chỉ thể hiện ở sự có chuẩn bị bài học mà còn là sự hào hứng, mong chờ, sự khao khát tiếp nhận, tìm hiểu, khám phá, vận dụng cái mới trong tri thức trên lớp. Có được điều đó, chính là nhu cầu tương tác tâm lý. Nhu cầu tương tác tâm lý là một hiện tượng tâm lý phản ánh cái bên trong, chúng ta sẽ khó định dạng được hình hài tròn méo, nhưng có thể đọc được và nắm bắt được nhu cầu tâm lý của sinh viên qua các hành vi, thái độ thể hiện ra bên ngoài trong hành động học tập trên lớp học. Khi nhu cầu tương tác tâm lý được xây dựng, hình thành và phát triển, nó sẽ là nguồn động lực to lớn kích thích tạo nên nguồn nội lực khiến sinh viên không ngừng gia tăng sự tìm kiếm và tương tác với nhau vì nó không chỉ thỏa mãn cái tôi muốn, cái tôi cần mà còn cả cái tôi hiểu, cái tôi thích, cơ sở của 43
  52. sự tương giao. Nhu cầu tương tác tâm lý là động lực giúp sinh viên trong hoạt động học tập thuận lợi, hiệu quả. Nhu cầu tương tác tâm lý giữa sinh viên với sinh viên trong hoạt động học tập được chúng tôi xác định bao gồm: + Biểu hiện ở mong muốn được trao đổi, trò chuyện với nhau không chỉ giới hạn nội dung trong bài học theo trách nhiệm, nhiệm vụ mà còn mong muốn trao đổi, trò chuyện với nhau nhiều vấn đề trong cuộc sống, xã hội. + Biểu hiện ở thái độ hứng thú, hào hứng trong chuẩn bị nội dung bài học, quá trình tương tác. + Biểu hiện ở hành vi tích cực, chủ động trong tương tác. Luôn tìm cơ hội và tạo cơ hội để tương tác với nhau không chỉ trên lớp mà khi thời gian tương tác trên lớp hạn hẹp, biết tận dụng các phương tiện khác để thỏa mãn. * Tương hợp và ảnh hưởng tâm lý trong hoạt động học tập của sinh viên Tương hợp tâm lý trong tương tác tâm lý giữa sinh viên với sinh viên trong hoạt động học tập chính là quá trình cả hai trên lớp cùng điều hòa được mối quan hệ trên cơ sở của sự hiểu biết, hiểu thấu về đặc điểm thể chất - tâm lý, tôn trọng, chia sẻ, đồng cảm lẫn nhau từ đó mà tác động ảnh hưởng sâu đến thế giới tinh thần của nhau, tác động tích cực đến tâm tư, tình cảm, thái độ tương tác của nhau trong hoạt động trên lớp học. Tương hợp tâm lý giữa sinh viên và sinh viên trong hoạt động học tập không giống như tương hợp giữa mẹ - con, chồng - vợ bản chất là dựa trên sự xúc cảm, tình cảm làm cơ sở chính. Tương hợp tâm lý này lấy sự tương đồng, thông cảm, sự hiểu biết, thấu hiểu với nhau làm cơ sở. Trong tương tác tâm lý trong hoạt động học tập, sinh viên và sinh viên không chỉ qua sự tác động về mặt tâm lý đến nhau nhằm tiến hành, thực hiện trao đổi, tiếp nhận thông tin được thuận lợi, mà qua sự tác động tâm lý tạo hiệu ứng tích cực gây ảnh hưởng tâm lý đến nhau trong quá trình tương tác. Thực tiễn đã minh chứng, trong quá trình thiết lập, duy trì mối quan hệ, yếu tố sự ảnh hưởng có vai trò nhiều khi quyết định tới hiệu quả mối quan hệ. 44
  53. Trong tương tác tâm lý trong hoạt động học tập của sinh viên, nếu tạo được ảnh hưởng tích cực sẽ có tác dụng tác động không chỉ đến nhận thức mà cả thái độ và hành vi của bản thân cá nhân, làm các cá nhân thay đổi bản thân (theo lý thuyết tâm lý là diễn ra quá trình nhập tâm). Không những vậy, sự ảnh hưởng tâm lý tích cực trong tương tác của sinh viên còn có tác dụng làm các cá nhân tăng nhu cầu, thay đổi thái độ tích cực tương tác với nhau, tăng sự tương hợp, ảnh hưởng tâm lý cùng nhau trong hoạt động tương tác, giúp quá trình đào tạo nhanh chóng đến đích. Ngược lại, tương tác của sinh viên trong hoạt động học tập nếu không tạo được sự ảnh hưởng tích cực, không có ảnh hưởng, ảnh hưởng âm tính sẽ làm trì hoãn, thậm chí khó có thể tiến hành, thực hiện một quá trình tương tác đúng nghĩa. Do vậy, tương hợp tâm lý và ảnh hưởng trong tương tác tâm lý giữa sinh viên với sinh viên trên lớp được chúng tôi xác định bao gồm các biểu hiện sau: + Biểu hiện ở sự nắm bắt và thấu hiểu về đời sống tâm lý của nhau; + Biểu hiện ở sự tương đồng về đời sống tâm lý; + Biểu hiện ở sự chấp nhận và tôn trọng lẫn nhau; + Biểu hiện ở sự thỏa mãn và hài lòng. * Tần số tương tác trong tương tác tâm lý giữa sinh viên với sinh viên Tần số không phải là một biểu hiện mang nghĩa là một thành tố tâm lý tham gia trong quá trình tương tác, tần số tương tác đúng hơn là một thông số biểu hiện mà căn cứ vào mức độ tần số tương tác giúp chúng ta thêm cứ liệu xác định hiệu quả và thêm cứ liệu đánh giá thực trạng tương tác tâm lý trên lớp học giữa sinh viên và sinh viên ở trường đại học. Trong tương tác tâm lý giữa sinh viên và sinh viên trên lớp học, tần số tương tác phản ánh nhịp độ của sự tương tác tâm lý. Tần số tương tác phản ánh tính tích cực của nhu cầu qua số lần tương tác. Do vậy, số lần tương tác cao sẽ là một cơ sở cho ta nhận định về nhu cầu. Tần số trong tương tác trong hoạt động học tập giữa sinh viên và sinh viên cũng cho ta thấy sự tương hợp tâm lý trong hoạt động học tập. Bởi lẽ, khi con người ta trong tương tác mà sự tương hợp không có hoặc có thấp, sẽ khiến các cá nhân ngại tương tác với 45
  54. nhau. Nếu bắt buộc phải tương tác cũng rất gượng gạo và nếu không được thay đổi, củng cố sẽ có hiện tượng né tránh do không thể tương tác. Tần số trong tương tác tâm lý ở sinh viên trong hoạt động học tập biểu hiện số lần gặp gỡ, trao đổi, tác động giữa các chủ thể (sinh viên và sinh viên) trong cùng đơn vị thời gian (giờ học trên lớp/ngày). Và như vậy, trong tương tác tâm lý trong hoạt động học tập, khi sinh viên với sinh viên có số lần tương tác tâm lý cao thì điều đó chứng tỏ, tương tác tâm lý trên lớp giữa sinh viên với sinh viên cao và ngược lại. Chúng tôi xác định biểu hiện của tần số tương tác giữa sinh viên với sinh viên trong hoạt động học tập như sau: + Tần số biểu hiện của nhu cầu tương tác; + Tần số biểu hiện của sự tương hợp và ảnh hưởng lẫn nhau; + Tần số biểu hiện của sự thay đổi nhận thức, thái độ, hành vi. * Sự thay đổi nhận thức, thái độ, hành vi trong hoạt động học tập Như định nghĩa ở trên, tương tác tâm lý trong hoạt động học tập của sinh viên là sự tiếp xúc tâm lý tác động về phương diện tâm lý giữa sinh viên với nhau trong hoạt động học tập. Kết quả làm thay đổi nhận thức, thái độ, hành vi của sinh viên trong hoạt động học tập. Theo đó, sự thay đổi sẽ tác động đến cả 3 mặt ở sinh viên là nhận thức, thái độ và hành vi. Nhờ vào quá trình chủ thể hóa (quá trình nhập tâm) và nhờ vào tính chủ thể của hoạt động con người dẫn đến kết quả là sự thay đổi trên. Xét về mặt nhận thức, sự tương tác tâm lý trong hoạt động học tập giúp thay đổi nhận thức của sinh viên được biểu hiện ở khía cạnh sinh viên thấu hiểu về tính cách, sở thích, cảm xúc của nhau. Đây chính là yếu tố cần thiết và quan trọng tới hiệu quả của mối quan hệ. Không những thế, nhận thức của sinh viên còn thay đổi ở việc sinh viên biết cách bắt đầu và duy trì cuộc trò chuyện nhằm đạt được mục đích giao tiếp. Đây chính là kĩ năng cần thiết mà chỉ bằng con đường thực hành, tiếp xúc trực tiếp và trải nghiệm mỗi người mới có thể nâng cao kĩ năng cho mình. Xét về mặt thái độ, thông qua quá trình tương tác, sinh viên biết được tầm quan trọng và cần thiết của tương tác tâm lý. Nó không chỉ giúp ích trong quá trình học tập mà trong tất cả các lĩnh vực của cuộc sống. 46
  55. Xét về khía cạnh hành vi, nhờ vào quá trình tương tác tâm lý, trải qua quá trình nhận thức, dẫn đến thái độ, và cuối cùng hành vi được thể hiện ra bên ngoài là kết quả của nhận thức cũng như thái độ. Hành vi được thể hiện ở tần số tương tác tâm lý cũng như các kĩ năng mà nhờ đó, tương tác đạt hiệu quả hơn. Chúng tôi xác định biểu hiện của sự thay đổi nhận thức, thái độ và hành vi giữa sinh viên với sinh viên trong hoạt động học tập như sau: + Thay đổi về mặt nhận thức; + Thay đổi về mặt thái độ; + Thay đổi về mặt hành vi. 47
  56. Tiểu kết chương 1 Thứ nhất, tổng quan tình hình nghiên cứu về mối quan hệ liên nhân cách, mối quan hệ xã hội, tương tác tâm lý ở sinh viên trong và ngoài nước khá phong phú. Tuy nhiên, với các nghiên cứu về mối quan hệ liên nhân cách chủ yếu là nghiên cứu bản chất và sự tác động của nó đến một yếu tố khác để mô tả sự ảnh hưởng, tác động qua lại giữa chúng. Các nghiên cứu về quan hệ xã hội chủ yếu nghiên cứu về quy mô, cấu trúc, tính chất của mối quan hệ xã hội, bên cạnh đó còn nghiên cứu một số nguyên lý của mối quan hệ xã hội. Về tương tác tâm lý, đã có nhiều nhà Xã hội học, nhiều nhà Tâm lý học quan tâm đến vấn đề này. Nguyên cứu về tương tác tâm lý tiếp cận dưới góc độ chủ yếu là tương tác thầy - trò trong hoạt động dạy học. Hầu như chưa có các công trình nghiên cứu về sự tương tác tâm lý giữa sinh viên và sinh viên trong hoạt động học tập. Các nghiên cứu về hoạt động học tập tiếp cận theo nhiều hướng khác nhau như nghiên cứu về quản lý hoạt động học tập, đề cập đến một số khía cạnh thuộc về nhân cách của sinh viên đáp ứng hoạt động học tập mà chưa đề cập đến sự tương tác tâm lý giữa sinh viên với sinh viên trong hoạt động học tập. Tương tác tâm lý trong hoạt động học tập của sinh viên là sự tiếp xúc tâm lý tác động về phương diện tâm lý giữa sinh viên với nhau trong hoạt động học tập. Kết quả làm thay đổi nhận thức, thái độ, hành vi của sinh viên trong hoạt động học tập. Trong khuôn khổ đề tài nghiên cứu, chúng tôi xem xét tương tác tâm lý trên các tiêu chí: nhu cầu tương tác; sự ảnh hưởng và tương hợp; tần số tương tác và sự thay đổi nhận thức, thái độ, hành vi để xác định tương tác tâm lý trong hoạt động học tập của sinh viên. 48
  57. Chương 2: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG TƯƠNG TÁC TÂM LÝ TRONG HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HCM 2.1 Thể thức nghiên cứu 2.1.1. Mẫu nghiên cứu Mẫu nghiên cứu là 288 sinh viên hiện đang học tập tại trường Đại học Sư phạm TP. HCM. Mẫu nghiên cứu được phân bố như bảng 2.1. dưới đây: Bảng 2.1. Đặc điểm khách thể nghiên cứu Tiêu chí Mô tả Số lượng Năm Năm 1 54 Năm 2 76 Năm 3 93 Năm 4 65 Giới tính Nam 58 Nữ 230 Khối ngành Tự nhiên 53 Xã hội 116 Đặc thù 119 Tổng 288 2.1.2. Công cụ nghiên cứu Công cụ nghiên cứu trong đề tài sử dụng là khảo sát bằng bảng hỏi. Bảng hỏi được xây dựng và hoàn chỉnh theo 3 giai đoạn: 2.1.2.1. Giai đoạn thiết kế bảng hỏi - Giai đoạn này gồm 2 bước: Tìm hiểu sơ bộ các mức độ biểu hiện tương tác tâm lý giữa sinh viên với sinh viên và thiết kế bảng hỏi 49