Khóa luận Thực hiện quy trình phòng và điều trị bệnh cho lợn nái sinh sản và lợn con theo mẹ tại trại lợn Việt Anh, xã Hiệp Hòa, huyện Vĩnh Bảo, Thành phố Hải Phòng

pdf 60 trang thiennha21 19/04/2022 2100
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Thực hiện quy trình phòng và điều trị bệnh cho lợn nái sinh sản và lợn con theo mẹ tại trại lợn Việt Anh, xã Hiệp Hòa, huyện Vĩnh Bảo, Thành phố Hải Phòng", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfkhoa_luan_thuc_hien_quy_trinh_phong_va_dieu_tri_benh_cho_lon.pdf

Nội dung text: Khóa luận Thực hiện quy trình phòng và điều trị bệnh cho lợn nái sinh sản và lợn con theo mẹ tại trại lợn Việt Anh, xã Hiệp Hòa, huyện Vĩnh Bảo, Thành phố Hải Phòng

  1. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM BÙI THỊ TRANG Tên chuyên đề: THỰC HIỆN QUY TRÌNH PHÒNG VÀ ĐIỀU TRỊ BỆNH CHO LỢN NÁI SINH SẢN VÀ LỢN CON THEO MẸ TẠI TRẠI LỢN VIỆT ANH, XÃ HIỆP HÒA, HUYỆN VĨNH BẢO, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Hệ đào tạo: Chính quy Chuyên ngành: Chăn nuôi thú y Lớp: K47 - CNTY - N02 Khoa: Chăn nuôi Thú y Khóa học: 2015 - 2019 Giảng viên hướng dẫn: TS. Trần Văn Thăng Thái Nguyên – năm 2019
  2. i LỜI CẢM ƠN Sau một thời gian học tập tại trường và thực tập tại cơ sở, đến nay em đã hoàn thành khóa luận tốt nghiệp của mình. Để có được kết quả này ngoài sự nỗ lực của bản thân, em luôn nhận được sự giúp đỡ chu đáo, tận tình của Nhà trường, các thầy cô giáo trong khoa Chăn nuôi Thú y, trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên, trang trại chăn nuôi Việt Anh. Nhân cơ hội này em xin được bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc tới: Ban giám hiệu trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên, Ban chủ nhiệm khoa cùng toàn thể các thầy giáo, cô giáo trong khoa Chăn nuôi Thú y đã tận tình dạy dỗ, dìu dắt em trong suốt quá trình học tập tại trường. Trang trại chăn nuôi lợn Việt Anh, xã Hiệp Hòa, huyện Vĩnh Bảo, Thành phố Hải Phòng đã tạo điều kiện giúp đỡ em trong suốt quá trình thực tập, giúp em hoàn thành tốt công việc trong thời gian thực tập tại cơ sở. Đặc biệt, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thầy giáo TS. Trần Văn Thăng đã luôn động viên, giúp đỡ và hướng dẫn, chỉ bảo em tận tình trong suốt quá trình TTTN và hoàn thành khóa luận tốt nghiệp đại học này. Để góp phần cho việc thực tập và hoàn thành khóa luận tốt nghiệp đạt kết quả tốt, em đã nhận được sự quan tâm, giúp đỡ và động viên của gia đình, bạn bè. Em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành trước mọi sự giúp đỡ quý báu đó. Thái Nguyên, ngày tháng 6 năm 2019 Sinh viên Bùi Thị Trang
  3. ii DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng 4.1. Quy mô và cơ cấu đàn lợn của trại Việt Anh qua 2 năm (2017 - 5/2018) 34 Bảng 4.2. Số lượng lợn nái, lợn con trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng tại trại qua 6 tháng thực tập 35 Bảng 4.3. Tình hình sinh đẻ của đàn lợn nái nuôi tại trại 37 Bảng 4.4. Kết quả công tác vệ sinh sát trùng chuồng trại 39 Bảng 4.5. Kết quả theo dõi tình hình mắc bệnh trên đàn lợn nái của trại 40 Bảng 4.6. Kết quả trực tiếp điều trị bệnh trên đàn nái sinh sản tại trại 41 Bảng 4.8. Kết quả điều trị bệnh trên lợn con 46 Bảng 4.9. Kết quả thực hiện công việc khác 47
  4. iii DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT cs : Cộng sự CP : Charoen Pokphand Hội chứng MMA : Hội chứng viêm tử cung, viêm vú, mất sữa LMLM : Lở mồm long móng Nxb : Nhà xuất bản STT : Số thứ tự TT : Thể trọng UBND : Ủy ban nhân dân VTM : Vitamin
  5. iv MỤC LỤC LỜI CẢM ƠN i DANH MỤC CÁC BẢNG ii DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT iii MỤC LỤC iv Phần 1. MỞ ĐẦU 1 1.1. Đặt vấn đề 1 1.2. Mục đích và yêu cầu của chuyên đề 2 1.2.1. Mục đích của chuyên đề 2 1.2.2. Yêu cầu của chuyên đề 2 Phần 2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU 3 2.1. Điều kiện cơ sở nơi thực tập 3 2.1.1. Điều kiện tự nhiên 3 2.1.2. Cơ sở vật chất và hoạt động sản xuất kinh doanh của trại lợn Việt Anh 4 2.2. Tổng quan tài liệu và những kết quả nghiên cứu trong và ngoài nước 8 2.2.1. Những hiểu biết về phòng và trị bệnh cho vật nuôi 8 2.2.2. Những bệnh thường gặp ở lợn nái sinh sản 11 2.2.3. Những bệnh thường gặp ở lợn con theo mẹ 22 2.2.4. Tình hình nghiên cứu trong nước và ngoài nước 24 Phần 3 ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP TIẾN HÀNH 30 3.1. Đối tượng nghiên cứu 30 3.2. Địa điểm và thời gian tiến hành 30 3.3. Nội dung tiến hành 30 3.4. Các chỉ tiêu theo dõi và phương pháp thực hiện 30 3.4.1. Các chỉ tiêu theo dõi 30 3.4.2. Phương pháp thực hiện 31
  6. v 3.4.3. Phương pháp xử lý số liệu 33 Phần 4. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 34 4.1. Cơ cấu đàn lợn của trang trại Việt Anh qua 2 năm (2017 - 5/2018) 34 4.2. Kết quả thực hiện quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng lợn nái sinh sản và lợn con theo mẹ 35 4.2.1. Số lượng lợn nái và lợn con trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng 35 4.2.2. Tình hình sản xuất của đàn lợn nái nuôi tại trại 37 4.3. Kết quả thực hiện các biện pháp phòng và trị bệnh cho đàn lợn nái sinh sản trại lợn Việt Anh 38 4.3.1. Kết quả thực hiện biện pháp vệ sinh phòng bệnh trên đàn lợn nái tại trại 38 4.3.2. Kết quả chẩn đoán và điều trị bệnh cho đàn lợn nái sinh sản nuôi tại trại 39 4.4. Thực hiện chăm sóc nuôi dưỡng lợn con 42 4.5. Điều trị một số bệnh trên lợn con 46 4.6. Kết quả thực hiện công việc khác 47 Phần 5. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 47 5.1. Kết luận 47 5.2. Đề nghị 48 TÀI LIỆU THAM KHẢO MỘT SỐ HÌNH ẢNH TRONG QUÁ TRÌNH THỰC TẬP
  7. 1 Phần 1 MỞ ĐẦU 1.1. Đặt vấn đề Trong những năm gần đây kinh tế Việt Nam đang phát triển rất mạnh mẽ, chất lượng và nhu cầu cuộc sống tăng lên không ngừng, kéo theo nhu cầu về số lượng và chất lượng thịt cũng tăng cao. Để đáp ứng nhu cầu đó, ngành chăn nuôi đang phát triển mạnh mẽ, sản phẩm của ngành không ngừng phục vụ nhu cầu trong nước mà còn mở rộng xuất khẩu. Trước đây, năng suất chăn nuôi còn thấp là do người chăn nuôi chỉ quen với tập quán chăn nuôi lợn nội và tận dụng các phụ phẩm trong nông nghiệp để nuôi. Hiện nay năng suất chăn nuôi lợn tăng lên gấp nhiều lần là do người chăn nuôi đã biết nuôi lợn ngoại theo phương thức chăn nuôi công nghiệp. Để lợn ngoại đạt hiệu quả kinh tế cao, bên cạnh yếu tố về thức ăn, chuồng trại, kỹ thuật chăn nuôi thì yếu tố đầu tiên cần đảm bảo là có đàn giống tốt. Điều này phụ thuộc rất lớn vào năng suất sinh sản của đàn lợn nái. Theo tính toán của các nhà kinh tế, năng suất của lợn nái được tính bằng số lợn con sinh ra, số lợn con còn sống đến lúc cai sữa, thời gian động dục trở lại sau cai sữa, tỷ lệ thụ thai Để đạt được hiệu quả kinh tế cao trong chăn nuôi lợn cần phải có quy trình chăn nuôi phù hợp với từng giống vật nuôi, từng thời điểm và từng giai đoạn cụ thể khác nhau. Xuất phát từ thực tế trên, được sự đồng ý của Ban chủ nhiệm khoa Chăn nuôi Thú y cùng giảng viên hướng dẫn và cơ sở thực tập, em đã tiến hành thực hiện chuyên đề : “Thực hiện quy trình phòng và điều trị bệnh cho lợn nái sinh sản và lợn con theo mẹ tại trại lợn Việt Anh, xã Hiệp Hòa, huyện Vĩnh Bảo, Thành phố Hải Phòng”.
  8. 2 1.2. Mục đích và yêu cầu của chuyên đề 1.2.1. Mục đích của chuyên đề - Đánh giá được tình hình chăn nuôi tại trang trại lợn nái sinh sản Việt Anh. - Thực hiện quy trình phòng bệnh cho lợn nái sinh sản và lợn con theo mẹ. - Đánh giá được tình hình mắc bệnh ở lợn nái sinh sản và lợn con theo mẹ tại trang trại liên kết với tập đoàn BMG. - Đề xuất được các biện pháp điều trị bệnh hiệu quả cho lợn nái sinh sản và lợn con theo mẹ. 1.2.2. Yêu cầu của chuyên đề - Vận dụng được các kiến thức đã học vào thực tiễn sản xuất, đồng thời học tập bổ sung thêm kiến thức mới từ thực tiễn sản xuất. - Ứng dụng các biện pháp điều trị cho lợn nái sinh sản và lợn con theo mẹ có hiệu quả vào thực tiễn chăn nuôi tại trang trại.
  9. 3 Phần 2 TỔNG QUAN TÀI LIỆU 2.1. Điều kiện cơ sở nơi thực tập 2.1.1. Điều kiện tự nhiên 2.1.1.1.Vị trí địa lý Hiệp hòa là một xã thuộc huyện Vĩnh Bảo, Thành phố Hải Phòng với diện tích tự nhiên 5,05 km2. Trang trại Việt Anh thuộc xã Hiệp Hòa có vị trí địa lý như sau: - Phía Đông giáp xã Hồng Hưng, huyện Vĩnh Bảo, TP. Hải Phòng. - Phía Tây giáp xã Lê Lợi, huyện Vĩnh Bảo, TP. Hải Phòng. - Phía Nam giáp xã Đoàn Thượng, huyện Vĩnh Bảo, TP. Hải Phòng. - Phía Bắc giáp Thị trấn Vĩnh Bảo, huyện Vĩnh Bảo, TP. Hải Phòng. 2.1.1.2. Điều kiện khí hậu và thời tiết - Thời tiết Hải phòng mang tính chất đặc trưng của thời tiết miền Bắc Việt Nam: nóng ẩm, mưa nhiều, có 4 mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông tương đối rõ rệt. Trong đó, từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau là khí hậu của một mùa đông lạnh và khô, mùa đông là 20,3°C; từ tháng 5 đến tháng 10 là khí hậu của mùa hè, nồm mát và mưa nhiều, nhiệt độ trung bình vào mùa hè là khoảng 32,5°C. - Lượng mưa trung bình từ 1.600 – 1.800 mm/năm. Do nằm sát biển nên vào mùa đông, Hải Phòng ấm hơn 1oC và mùa hè mát hơn 1oC so với Hà Nội. Nhiệt độ trung bình trong năm từ 23°C – 26oC, tháng nóng nhất (tháng 6 và 7) nhiệt độ có thể lên đến 44oC và tháng lạnh nhất (tháng 1 và 2), nhiệt độ có thể xuống dưới 5oC. Độ ẩm trung bình vào khoảng 80 – 85%, cao nhất vào tháng 7, 8, 9 và thấp nhất là tháng 11 và tháng 12. 2.1.1.3. Điều kiện giao thông - Hệ thống giao thông qua xã Hiệp Hòa rất thuận lợi vì có quốc lộ 10 và quốc lộ 37 chạy qua huyện Vĩnh Bảo. Đây là hệ thống giao thông huyết mạch để đi lại, giao lưu buôn bán hàng hóa với các địa phương lân cận và thành phố Hải Phòng.
  10. 4 - Đoạn đường liên thôn chạy qua gần khu vực trại đã được bê tông hóa, lòng đường rộng thuận lợi cho ô tô có thể ra vào vận chuyển con giống, thức ăn, vật tư thú y cũng như các sản phẩm chăn nuôi. - Trại có hệ thống ống thoát nước thải đã qua xử lý xuống ao thả cá để kết hợp nuôi lợn với nuôi cá, từ đó nâng cao hiệu quả kinh tế của trại và hạn chế chất thải trong chăn nuôi thải ra ngoài môi trường ảnh hưởng đến con người và môi trường xung quanh. 2.1.2. Cơ sở vật chất và hoạt động sản xuất kinh doanh của trại lợn Việt Anh 2.1.2.1. Quá trình thành lập Trại lợn Việt Anh được xây dựng và đi vào hoạt động năm 2010, là trại liên kết với Công ty CP Việt Nam với quy mô 600 lợn nái sinh sản. Trại được xây dựng tại xã Hiệp Hòa, huyện Vĩnh Bảo, Thành phố Hải Phòng. 2.1.2.2. Cơ cấu tổ chức của trang trại Cơ cấu tổ chức gồm 3 nhóm: - Nhóm quản lý có 01 người là chủ trang trại - Nhóm kỹ thuật có 01 người là kỹ sư phụ trách kỹ thuật của trại - Nhóm công nhân gồm 01 người nấu ăn, 01 người làm vườn, 01 người tổ trưởng phụ trách chuồng bầu, 01 người tổ trưởng phụ trách chuồng đẻ, 02 người phụ trách điện và nước, 07 công nhân và 06 sinh viên thực tập tốt nghiệp. Với đội ngũ nhân công như trên, quản lý trại chia lực lượng lao động thành các tổ khác nhau để có thể thuận lợi cho việc quản lý công việc hiệu quả như tổ chuồng nái đẻ, tổ chuồng nái chửa. Các tổ có bảng chấm công riêng cho từng công nhân trong tổ. Các tổ trưởng có nhiệm vụ đôn đốc, quản lý các thành viên trong tổ thực hiện tốt mọi công việc được giao. 2.1.2.3. Cơ sở vật chất của trang trại + Tổng diện tích trại khoảng 46.000 m2 Trong đó: - Diện tích chuồng: 13.000 m2 - Diện tích đất trồng cây: 5.000 m2
  11. 5 - Diện tích đất xây dựng: 2.000 m2 - Ao hồ chứa nước và nuôi cá: 25.000 m2 Trang trại đã dành 2.000 m2 đất để xây dựng nhà điều hành, nhà ở cho công nhân, bếp ăn và các các công trình phục vụ cho công nhân và các hoạt động khác của trang trại. Các khu nhà này được trang bị đầy đủ các thiết bị cần thiết như TV, tủ lạnh, máy giặt, phục vụ cho sinh hoạt và ăn ở của công nhân. Khu chăn nuôi có hàng rào bao bọc xung quanh và có cổng vào riêng. Chuồng trại được quy hoạch, bố trí xây dựng phù hợp với hướng chăn nuôi công nghiệp, hệ thống chuồng nuôi lồng, nền sàn bê tông cho lợn nái, lợn đực, sàn nhựa cho lợn con cùng với hệ thống vòi nước tự động và máng ăn. Chuồng nuôi được xây dựng đảm bảo đủ cho 600 nái cơ bản, bao gồm: + 3 chuồng nái đẻ: mỗi chuồng gồm khu A và khu B, mỗi khu có 2 dãy, mỗi dãy có 28 ô chuồng được thiết kế sàn nhựa cho lợn con và sàn bê tông cho lợn mẹ. + 1 chuồng nái chửa: Chuồng gồm 6 dãy, mỗi dãy có 89 ô để nuôi và chăm sóc lợn nái trong thời gian mang thai, được sắp xếp theo các kỳ mang thai khác nhau: Dãy 1 được thiết kế cho lợn nái chờ phối, có khu thử lợn, ép lợn và dãy 2 có khu làm nơi thụ tinh nhân tạo cho lợn nái. + 1 chuồng cách ly: dùng để nuôi lợn hậu bị được nhập từ các trại gia công lợn hậu bị của Công ty cổ phần Chăn nuôi CP Việt Nam, mỗi ô chuồng có thể nuôi được từ 30 - 40 lợn hậu bị. Lợn được nuôi ở đây trong thời gian 3 tháng, thời gian này lợn được sử dụng vắc xin đầy đủ trước khi được đưa lên làm lợn nái sinh sản. Hệ thống chuồng được xây dựng khép kín hoàn toàn. Phía đầu chuồng là hệ thống giàn mát, cuối chuồng được thiết kế quạt hút gió, có hệ thống điện chiếu sáng và bóng đèn hồng ngoại để sưởi ấm, úm lợn con, đảm bảo thoáng mát về mùa hè, ấm áp về mùa đông bằng cách điều chỉnh hệ thống quạt, giàn mát và bóng đèn sưởi ấm trong chuồng. Mỗi chuồng được lắp đặt máy bơm nước để tắm cho lợn và vệ sinh chuồng trại hằng ngày, cuối chuồng có hệ thống thoát phân và nước thải. Bên cạnh chuồng lợn đực có xây dựng phòng pha chế tinh, với đầy đủ dụng cụ và thiết bị như: kính hiển vi, nhiệt kế, đèn cồn, máy ép ống tinh, tủ lạnh bảo quản tinh, nồi hấp, panh, kéo
  12. 6 Trong khu chăn nuôi, đường đi lại giữa các ô chuồng, các khu khác đều được đổ bê tông và có các chậu nước sát trùng để trước cửa ra vào chuồng. Nhìn chung khu vực chuồng nuôi được xây dựng khá hợp lý, thuận lợi cho việc chăm sóc, đi lại, đuổi lợn giữa các dãy chuồng. Ngay tại cổng vào khu chăn nuôi có xây dựng 3 phòng tắm sát trùng cho cán bộ kỹ thuật và công nhân trước khi ra, vào chuồng chăm sóc lợn, 1 kho thuốc, 1 kho cám, 1 phòng ăn và 2 phòng nghỉ trưa cho công nhân. Một số thiết bị khác cũng được trang bị đầy đủ: tủ lạnh bảo quản vắc xin, tủ thuốc để bảo quản và dự trữ thuốc của trại, xe chở cám từ nhà kho xuống các dãy chuồng, máy nén khí phun sát trùng di động khu vực trong và ngoài chuồng nuôi. 2.1.2.4. Tình hình sản xuất của trang trại * Công tác chăn nuôi: Nhiệm vụ chính của trang trại là sản xuất con giống và chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật. Hiện nay, trung bình lợn nái của trại sản xuất được 2,45 lứa/năm. Số con sơ sinh là 12,69 con/đàn, số con cai sữa là 11,56 con/đàn lợn con theo mẹ được nuôi đến 21 ngày tuổi, chậm nhất là 26 ngày thì tiến hành cai sữa và chuyển sang các trại chăn nuôi lợn giống của công ty CP. Theo đánh giá của công ty cổ phần Chăn nuôi CP Việt Nam thì mức độ sản xuất của trại vào loại trung bình khá. Trang trại có 13 con lợn đực giống. Các lợn đực giống này được nuôi nhằm mục đích kích thích động dục cho lợn nái và khai thác tinh để thụ tinh nhân tạo. Tinh lợn được khai thác từ 2 giống lợn là Landrace và Yorkshire. Lợn nái được phối 3 lần và được luân chuyển giống cũng như lợn đực. Thức ăn cho lợn nái là thức ăn hỗn hợp hoàn chỉnh có chất lượng cao, được Công ty cổ phần Chăn nuôi CP Việt Nam cung cấp cho từng đối tượng lợn của trại. * Công tác vệ sinh thú y của trại: Quy trình phòng bệnh cho đàn lợn tại trang trại luôn được thực hiện nghiêm ngặt, với sự giám sát chặt chẽ của kỹ thuật viên Công ty Chăn nuôi CP. - Công tác vệ sinh: Chuồng trại được xây dựng thoáng mát về mùa hè, ấm áp về mùa đông, xung quanh các chuồng nuôi được trồng cây xanh nhằm tạo sự thoáng mát tự nhiên. Hằng ngày luôn có công nhân quét dọn vệ sinh chuồng trại, thu gom
  13. 7 phân, nước tiểu, khơi thông cống rãnh, đường đi trong trại được quét dọn, phun thuốc khử trùng tiêu độc, hành lang đi lại được quét dọn và rắc vôi theo quy định. Công nhân, kỹ sư, khách tham quan trước khi vào khu chăn nuôi đều phải sát trùng tắm rửa sạch sẽ, thay quần áo bảo hộ lao động. - Công tác phòng bệnh: Trong khu vực chăn nuôi, hành lang giữa các chuồng và bên ngoài chuồng đều được rắc vôi bột, các phương tiện vào trại được sát trùng một cách nghiêm ngặt ngay tại cổng trại. Quy trình phòng bệnh bằng vắc xin luôn được trang trại thực hiện nghiêm túc, đầy đủ và đúng kỹ thuật. Đối với từng loại lợn có quy trình tiêm riêng, từ lợn nái, lợn hậu bị, lợn đực và lợn con. Lợn được tiêm vắc xin ở trạng thái khỏe mạnh, được chăm sóc nuôi dưỡng tốt, không mắc các bệnh truyền nhiễm và các bệnh mãn tính khác để tạo được trạng thái miễn dịch tốt nhất cho đàn lợn. Tỷ lệ tiêm phòng vắc xin cho đàn lợn luôn đạt 100%. - Công tác trị bệnh: Cán bộ kỹ thuật có nhiệm vụ theo dõi, kiểm tra đàn lợn thường xuyên, các bệnh xảy ra ở lợn nuôi tại trại luôn được kỹ thuật viên phát hiện sớm, cách ly, điều trị ngay ở giai đoạn đầu. Vì vậy hiệu quả điều trị thường cao (80 - 90%) trong một thời gian ngắn, không gây thiệt hại nhiều cho trang trại. 2.1.2.5. Đánh giá chung * Thuận lợi Được sự quan tâm, tạo điều kiện và có các chính sách hỗ trợ đúng đắn của UBND xã Hiệp Hòa, Trạm Thú y huyện Vĩnh Bảo. Được Công ty cổ phần Chăn nuôi CP Việt Nam cung cấp về con giống, thức ăn và thuốc thú y có chất lượng tốt. Chuồng trại được trang bị bằng các thiết bị hiện đại, điện lưới và hệ thống nước sạch luôn cung cấp đầy đủ cho sinh hoạt và chăn nuôi. Chủ trại có năng lực, năng động, nắm bắt được tình hình xã hội, luôn quan tâm đến đời sống vật chất, tinh thần của cán bộ kỹ thuật và công nhân. Đội ngũ cán bộ kỹ thuật có chuyên môn vững vàng; đội ngũ công nhân rất nhiệt tình, năng động và có tinh thần trách nhiệm cao trong công việc. Do đó đã mang lại hiệu quả chăn nuôi cao cho trang trại.
  14. 8 * Khó khăn Đội ngũ công nhân trại còn thiếu về số lượng, do đó ảnh hưởng đến tiến độ công việc. Trang thiết bị, vật tư, hệ thống chăn nuôi còn thiếu, chưa đáp ứng được nhu cầu sản xuất. Trong những năm gần đây, thời tiết diễn biễn phức tạp kèm theo dịch bệnh khó kiểm soát, gây khó khăn cho chăn nuôi. Những khó khăn trên đòi hỏi trại phải đẩy mạnh công tác phòng, chống dịch bệnh và nâng cao sức đề kháng cho đàn lợn tại trại. 2.2. Tổng quan tài liệu và những kết quả nghiên cứu trong và ngoài nước 2.2.1. Những hiểu biết về phòng và trị bệnh cho vật nuôi 2.2.1.1. Phòng bệnh Với phương châm “Phòng bệnh hơn chữa bệnh”, nên khâu phòng bệnh được đặt lên hàng đầu, nếu phòng bệnh tốt thì có thể hạn chế hoặc ngăn chặn được bệnh xảy ra. Do vậy, việc phòng bệnh cũng như trị bệnh phải kết hợp với nhiều biện pháp khác nhau. - Phòng bệnh bằng vệ sinh và chăm sóc nuôi dưỡng tốt: Theo Nguyễn Ngọc Phụng (2004) [28], bệnh xuất hiện trong một đàn lợn thường do nhiều nguyên nhân phức tạp, có thể là bệnh truyền nhiễm, hoặc không truyền nhiễm hoặc có sự kết hợp cả hai. Có rất nhiều biện pháp đã đưa ra áp dụng nhằm kiểm soát các khả năng xảy ra bệnh trên đàn lợn. Phần lớn các biện pháp này đều nhằm làm giảm khả năng lây truyền tác nhân gây bệnh và nâng cao sức đề kháng của đàn lợn. Theo Trần Văn Phùng và cs, (2004) [27], trong chăn nuôi việc đảm bảo đúng quy trình kỹ thuật là điều rất cần thiết, chăm sóc nuôi dưỡng tốt sẽ tạo ra những gia súc khoẻ mạnh, có khả năng chống đỡ bệnh tật tốt và ngược lại. Ô chuồng lợn nái phải được vê ̣sinh tiêu độc trước khi vào đẻ. Nhiệt độ phải phù hợp, đối với lợn mẹ nhiệt độ thích hợp dao động từ 15 - 24oC, nhiệt độ lợn con theo mẹ dao động từ 21 - 31oC. Việc giữ gìn chuồng trại sạch sẽ kín, ấm áp vào mùa đông và đầu xuân là rất quan trọng. Nên dùng các thiết bị sưởi điện hoặc đèn hồng ngoại trong những ngày
  15. 9 thời tiết lạnh ẩm để đề phòng bệnh lợn con phân trắng mang lại hiệu quả cao trong chăn nuôi. Từ 3 - 5 ngày trước dự kiến đẻ, ô chuồng lợn nái đã được cọ rửa sạch, phun khử trùng bằng hóa chất như crezin 5% hoặc bằng loại hóa chất khác nhằm tiêu độc khử trùng chuồng lợn nái trước khi đẻ. - Phòng bệnh bằng vắc xin là biện pháp phòng bệnh chủ động có hiệu quả nhất. Theo Nguyễn Bá Hiên và cs, (2012) [15], vắc xin là một chế phẩm sinh học mà trong đó chứa chính mầm bệnh cần phòng cho một bệnh nào đó (mầm bệnh này có thể là vi khuẩn, virus, độc tố hay vật liệu di truyền như ARN, ADN ) đã được làm giảm độc lực hay vô hoạt bằng các tác nhân vật lý, hóa học, sinh học hay phương pháp sinh học phân tử (vắc xin thế hệ mới - vắc xin công nghệ gen). Lúc đó chúng không còn khả năng gây bệnh cho đối tượng sử dụng, nhưng khi đưa vào cơ thể động vật nó sẽ gây ra đáp ứng miễn dịch làm cho động vật có miễn dịch chống lại sự xâm nhiễm gây bệnh của mầm bệnh tương ứng. Khi đưa vắc xin vào cơ thể vật nuôi, chưa có kháng thể chống bệnh ngay mà phải sau 7 - 21 ngày (tùy theo từng loại vắc xin) mới có miễn dịch. 2.2.1.2. Điều trị bệnh Theo Nguyễn Bá Hiên và cs, (2012) [15], nguyên tắc để điều trị bệnh là: + Toàn diện: phải phối hợp với nhiều biện pháp như hộ lý, dinh dưỡng, dùng thuốc. + Điều trị sớm trên cơ sở chẩn đoán đúng bệnh để dễ lành bệnh và hạn chế lây lan. + Diệt căn bệnh là chủ yếu kết hợp với chữa triệu chứng. + Tiêu diệt mầm bệnh phải đi đôi với tăng cường sức đề kháng của cơ thể, làm cho cơ thể tự nó chống lại mầm bệnh thì bệnh mới chóng khỏi, ít bị tái phát và biến chứng, miễn dịch mới lâu bền. + Phải có quan điểm khi chữa bệnh, chỉ nên chữa những gia súc có thể chữa lành mà không giảm sức kéo và sản phẩm. Nếu chữa kéo dài, tốn kém vượt quá giá trị gia súc thì không nên chữa.
  16. 10 + Những bệnh rất nguy hiểm cho người mà không có thuốc chữa thì không nên chữa. Theo Nguyễn Bá Hiên và cs, (2012) [15], các biện pháp chữa bệnh truyền nhiễm là: + Hộ lý: cho gia súc ốm nghỉ ngơi, nhốt riêng ở chuồng có điều kiện vệ sinh tốt (thoáng mát, sạch sẽ, yên tĩnh). Theo dõi thân nhiệt, nhịp tim, hô hấp, phân, nước tiểu. Phát hiện sớm những biến chuyển của bệnh để kịp thời đối phó. Cho gia súc ăn, uống thức ăn tốt và thích hợp với tính chất của đối tượng bệnh. + Dùng kháng huyết thanh: chủ yếu dùng chữa bệnh đặc hiệu vì vậy thường được dùng trong ổ dịch, chữa cho gia súc mắc bệnh. Chữa bệnh bằng kháng huyết thanh là đưa vào cơ thể những kháng thể chuẩn bị sẵn, có tác dụng trung hòa mầm bệnh hoặc độc tố của chúng (huyết thanh kháng độc tố). + Dùng hóa dược: phần lớn hóa dược được dùng để chữa triệu chứng, một số hóa dược dùng để chữa nguyên nhân vì có tác dụng đặc hiệu đến mầm bệnh. Dùng hóa dược chữa bệnh phải tác động mạnh và sớm, vì nhiều loài vi khuẩn có thể thích ứng với liều lượng nhỏ. Chúng có thể chống lại thuốc và tính chất quen thuốc được di truyền cho thế hệ sau. Khi cần, có thể phối hợp nhiều loại hóa dược để tăng hiệu quả điều trị, vì nếu một loại thuốc chưa có tác dụng đến mầm bệnh thì có loại thuốc khác tác dụng tốt hơn. + Dùng kháng sinh: kháng sinh là những thuốc đặc hiệu có tác dụng ngăn cản sự sinh sản của vi khuẩn hoặc tiêu diệt vi khuẩn. Tuy nhiên sử dụng kháng sinh có thể gây nhiều tai biến do thuốc có tính độc, do phản ứng dị ứng, do một lúc tiêu diệt nhiều vi khuẩn làm giải phóng một lượng lớn độc tố, làm giảm phản ứng miễn dịch của cơ thể. Việc dùng kháng sinh bừa bãi còn gây nên hiện tượng kháng thuốc, làm giảm thấp tác dụng chữa bệnh của kháng sinh. Vì vậy, khi dùng thuốc cần theo nguyên tắc sau đây: - Phải chẩn đoán đúng bệnh để dùng đúng thuốc, dùng sai thuốc sẽ chữa không khỏi bệnh mà làm cho việc chẩn đoán bệnh về sau gặp khó khăn. - Chọn loại kháng sinh có tác dụng tốt nhất đối với mầm bệnh đã xác định.
  17. 11 Dùng liều cao ngay từ đầu, những lần sau có thể giảm liều lượng. - Không nên vội vàng thay đổi kháng sinh mà phải chờ một thời gian để phát huy tác dụng của kháng sinh. Phải dùng phối hợp nhiều loại kháng sinh để làm giảm liều lượng và độc tính của từng loại, làm diện tác động đến vi khuẩn rộng hơn, tác dụng điều trị và hạn chế hiện tượng vi khuẩn kháng thuốc. - Phải tăng cường sức đề kháng của cơ thể gia súc như nuôi dưỡng tốt, dùng thêm vitamin, tiêm nước sinh lý 2.2.2. Những bệnh thường gặp ở lợn nái sinh sản 2.2.2.1. Bệnh viêm tử cung a. Nguyên nhân bệnh viêm tử cung Theo Trần Tiến Dũng và cs, (2002) [9], viêm tử cung là một quá trình bệnh lý thường xảy ra ở gia súc cái sau sinh sản. Quá trình viêm phá hủy các tế bào tổ chức của các lớp hay các tầng tử cung gây rối loạn sinh sản ở gia súc cái làm ảnh hưởng lớn, thậm chí làm mất khả năng sinh sản ở gia súc cái. Theo Bilken (1994) [2], viêm tử cung thường xảy ra trong lúc sinh do nhiễm khuẩn E.coli gây dung huyết và các vi khuẩn gram dương. Theo Urban và cs, (1983) [52], Bilken (1994) [2], các vi khuẩn gây nhiễm trùng tử cung có nguồn gốc từ nước tiểu, các tác giả đã phân lập vi khuẩn từ mẫu nước tiểu lợn nái sắp sinh thường chứa các vi khuẩn E. coli, Staphylococcus aureus, Streptococcus spp. Tuy nhiên, các nghiên cứu của tác giả khác lại ghi nhận các vi khuẩn gây nhiễm trùng tử cung là các vi khuẩn cơ hội thuộc nhóm vi sinh vật hiếu khí có mặt ở nền chuồng, lúc lợn nái sinh cổ tử cung mở, vi khuẩn xâm nhập và gây bệnh. Theo tác giả Nguyễn Xuân Bình (2000) [3], Phạm Sỹ Lăng và cs (2002) [17], Lê Minh và cs (2017) [22], bệnh viêm tử cung ở lợn nái thường do các nguyên nhân sau: + Cơ quan sinh dục lợn nái phát triển không bình thường gây khó đẻ hoặc lợn nái khó đẻ do thai quá to, thai ra ngược, thai phát triển không bình thường,
  18. 12 + Phối giống quá sớm đối với lợn đẻ lứa đầu hoặc lợn nái già mang nhiều thai. Khi đẻ tử cung co bóp yếu, do lứa đẻ trước đã bị viêm tử cung làm cho niêm mạc tử cung biến đổi nên nhau thai không ra gây sát nhau, thối rữa tạo điều kiện cho sự phát triển của vi khuẩn. + Trong quá trình có thai, lợn nái ăn uống nhiều chất dinh dưỡng, tinh bột, protein và ít vận động cơ thể nên cơ thể béo dẫn đến khó đẻ. Hoặc do thiếu dinh dưỡng lợn nái sẽ ốm yếu, sức đề kháng giảm nên không chống lại vi trùng xâm nhập cũng gây viêm. + Do dụng cụ thụ tinh nhân tạo cứng, gây xây sát sẽ tạo ra các ổ viêm nhiễm trong âm đạo hoặc tử cung hoặc do tinh dịch bị nhiễm khuẩn. Những thao tác đỡ đẻ không đúng kỹ thuật, đưa dụng cụ vào cổ tử cung không an toàn, không đảm bảo vệ sinh. + Kế phát từ các bệnh khác như bệnh viêm âm đạo, tiền đình, bàng quang hoặc các bệnh truyền nhiễm: sảy thai truyền nhiễm, phó thương hàn, bệnh lao thường gây ra các bệnh viêm tử cung. + Bệnh còn xảy ra khi chăm sóc, nuôi dưỡng, quản lý kém hoặc do thời tiết khí hậu thay đổi đột ngột, thời tiết quá nóng, quá lạnh, ẩm ướt kéo dài. Theo kết quả nghiên cứu của Nguyễn Thị Hồng Minh (2014) [21], yếu tố thời tiết, khí hậu, ảnh hưởng rõ rệt đến tỷ lệ mắc hội chứng viêm tử cung: mùa hạ có tỷ lệ phần trăm nhiễm cao nhất 53,37%, mùa đông 46,05%, mùa thu 43,70%. Theo Đoàn Thị Kim Dung và Lê Thị Tài (2002) [6], nguyên nhân gây viêm tử cung là do vi khuẩn tụ cầu vàng (Stphylococcus aureus), Liên cầu dung huyết (Streptococcus hemolitycus) và các loại Proteus vulgaris, Kleriella, E. coli Theo Nguyễn Văn Thanh (2014) [33], tỷ lệ lợn nái mắc viêm tử cung tương đối cao, bệnh thường tập trung ở lợn nái đẻ lứa đầu hoặc đã đẻ nhiều lứa. Khảo sát tình hình viêm nhiễm đường sinh dục lợn nái sau khi sinh và hiệu quả điều trị của một số loại kháng sinh trên 143 lợn nái sau khi sinh đã phát hiện 106 con tiết dịch nghi viêm đường sinh dục, chiếm tỷ lệ 74,13% (Trần Ngọc Bích và cs, 2016) [1].
  19. 13 b.Triệu chứng Sản dịch của lợn nái bình thường kéo dài trong vòng 4 - 5 ngày, cá biệt tới 6 - 7 ngày, sản dịch có màu sắc hơi đỏ do lẫn máu, sau chuyển dần sang vàng hay trắng và trong. Trong trường hợp viêm thì sản dịch có màu đen hôi thối, mùi tanh rất khó chịu. Bệnh viêm tử cung ở lợn nái được chia làm hai thể: + Thể cấp tính: Con vật sốt 41 – 42 °C trong vài ngày đầu âm môn sưng tấy đỏ, dịch xuất tiết từ trong âm đạo chảy ra trắng đục đôi khi có máu lờ nhờ. + Thể mãn tính: Không sốt, âm môn không sưng đỏ nhưng vẫn có dịch nhầy trắng đục chảy ra từng đợt từ vài ngày đến 1 tuần. Lợn nái thường thụ tinh không có kết quả hoặc khi đã có thai sẽ bị tiêu thai vì quá trình viêm nhiễm niêm mạc âm đạo tử cung lan sang thai làm chết thai. c. Hậu quả của viêm tử cung Tử cung là một trong những bộ phận quan trọng nhất trong cơ quan sinh dục của lợn nái, nếu tử cung xảy ra bất kỳ quá trình bệnh lý nào thì đều ảnh hưởng rất lớn đến khả năng sinh sản của lợn mẹ và sự sinh trưởng, phát triển của lợn con. Theo Trần Tiến Dũng và cs, (2002) [9], Trần Thị Dân (2004) [5], khi lợn nái bị viêm tử cung sẽ dẫn tới một số hậu quả chính sau: - Khi lợn bị viêm tử cung dễ dẫn tới sảy thai. - Lợn mẹ bị viêm tử cung bào thai cũng phát triển kém hoặc chết lưu. - Sau khi sinh con lượng sữa giảm hoặc mất hẳn sữa nên lợn con trong giai đoạn theo mẹ thường bị tiêu chảy. - Lợn nái bị viêm tử cung mãn tính sẽ không có khả năng động dục trở lại. - Tỷ lệ phối giống không đạt tăng lên ở đàn lợn nái viêm tử cung sau khi sinh đẻ. Nguyễn Văn Thanh và cs, (2013) [32], cho rằng: bệnh viêm tử cung, viêm vú là nguyên nhân chính gây ra mất sữa ở lợn nái nuôi con, làm lợn nái đau đớn, giảm sút cân nhanh. d.Chẩn đoán lâm sàng bệnh viêm tử cung
  20. 14 Xuất phát từ quan điểm lâm sàng thì bệnh viêm tử cung thường biểu hiện vào lúc đẻ và thời kỳ tiền động đực, vì đây là thời gian cổ tử cung mở nên dịch viêm có thể chảy ra ngoài. Số lượng mủ không ổn định, từ vài ml cho tới 200 ml hoặc hơn nữa. Tính chất mủ cũng khác nhau, từ dạng dung dịch màu trắng loãng cho tới màu xám hoặc vàng, đặc như kem, có thể màu máu cá. Người ta thấy rằng thời kỳ sau sinh đẻ hay xuất hiện viêm tử cung cấp tính, viêm tử cung mãn tính thường gặp trong thời kỳ cho sữa. Hiện tượng chảy mủ ở âm hộ có thể cho phép nghi viêm nội mạc tử cung. Tuy nhiên, cần phải đánh giá chính xác tính chất của mủ, đôi khi có những mảnh trắng giống như mủ đọng lại ở âm hộ nhưng lại có thể là chất kết tinh của nước tiểu từ trong bàng quang chảy ra. Các chất đọng ở âm hộ lợn nái còn có thể là do viêm bàng quang có mủ gây ra. Khi lợn nái mang thai, cổ tử cung sẽ đóng rất chặt vì vậy nếu có mủ chảy ra thì có thể là do viêm bàng quang. Nếu mủ chảy ra ở thời kỳ động đực thì có thể bị nhầm lẫn. Như vậy, việc kiểm tra mủ chảy ra ở âm hộ chỉ có tính chất tương đối. Với một trại có biểu hiện mủ chảy ra ở âm hộ, ngoài việc kiểm tra mủ nên kết hợp xét nghiệm nước tiểu và kiểm tra cơ quan tiết niệu sinh dục. Mặt khác, nên kết hợp với đặc điểm sinh lý sinh dục của lợn nái để chẩn đoán cho chính xác. Mỗi thể viêm khác nhau biểu biện triệu chứng khác nhau và có mức độ ảnh hưởng khác nhau tới khả năng sinh sản của lợn nái. Để hạn chế tối thiểu hậu quả do viêm tử cung gây ra cần phải chẩn đoán chính xác mỗi thể viêm từ đó đưa ra phác đồ điều trị tối ưu nhằm đạt được hiệu quả điều trị cao nhất, thời gian điều trị ngắn nhất, chi phí điều trị thấp nhất. đ.Phòng bệnh Theo Gardner (1990) [42], Smith (1995) [50], Taylor (1995) [51], tăng cường vệ sinh chuồng trại, vệ sinh thân thể lợn nái là yếu tố quan trọng trong việc phòng ngừa nhiễm trùng sau khi sinh. Theo Nguyễn Tài Năng và cs, (2016) [26], vệ sinh chuồng trại sạch sẽ một
  21. 15 tuần trước khi lợn đẻ, rắc vôi bột hoặc nước vôi 20% sau đó rửa sạch bằng nước thường, tắm cho lợn trước khi đẻ, vệ sinh sạch sẽ bộ phận sinh dục và bầu vú. Theo Lê Văn Năm (2009) [24], trong khi đỡ đẻ bằng tay phải sát trùng kĩ bằng cồn, xoa trơn tay bằng vaselin hoặc dầu lạc. Cho lợn nái chửa vận động, đảm bảo ăn uống đầy đủ, vệ sinh sạch sẽ. Kiểm tra nghiêm ngặt đảm bảo dụng cụ dẫn tinh đúng quy định và không để nhiễm khuẩn. Không sử dụng lợn đực bị nhiễm khuẩn đường sinh dục để nhảy trực tiếp hoặc lấy tinh. Phòng bệnh truyền nhiễm Leptospirosis, Brucellosis .bằng cách dùng vắc xin đúng quy định, đúng thời gian cho đàn lợn sinh sản tránh những trường hợp bị sốt đột ngột gây sẩy thai. e. Điều trị Theo tác giả Trần Tiến Dũng và cs, (2002) [9], khi gia súc bị bệnh viêm tử cung ở thể viêm cơ, viêm tương mạc thì không nên tiến hành thụt rửa bằng các chất sát trùng với thể tích lớn. Vì khi bị tổn thương nặng, cơ tử cung co bóp yếu, các chất bẩn không được đẩy ra ngoài, lưu trong đó làm cho bệnh nặng thêm. Các tác giả đề nghị nên dùng oxytoxin kết hợp PGF2α hoặc kết hợp với kháng sinh điều trị toàn thân và cục bộ. Bơm rửa tử cung ngày 1 - 2 lần, mỗi lần 2 - 4 lít nước đun sôi để nguội pha cồn iod 10% . Tiêm oxytocin 2 ml/con/ngày, acimoxyl 20 ml/con/ngày. Tiêm thuốc trợ sức: B - complex, vitamin ADE. Theo Nguyễn Văn Điền (2015) [12], đối với lợn nái viêm nhẹ, điều trị bằng cách đặt viên thuốc kháng sinh oxytetracyclin vào âm đạo từ 5 - 7 ngày. Tiêm amoxicillin 15% 3 lần liên tiếp, mỗi lần cách nhau 48 giờ. Đây là dạng viêm có kết quả điều trị khỏi bệnh cao. 2.2.2.2. Bệnh viêm vú a. Nguyên nhân gây bệnh viêm vú
  22. 16 + Khi nghiên cứu về mô học và vi khuẩn học từ mẫu mô vú bị viêm cho thấy, vi khuẩn chính gây viêm vú là Staphylococcus spp và Arcanobacterium pyogenes (Christensen và cs, 2007) [41]. + Khi lợn nái đẻ nếu nuôi không đúng cách, chuồng bẩn thì các vi khuẩn, Mycoplasma, các cầu khuẩn, vi khuẩn đường ruột xâm nhập gây ra viêm vú. + Thức ăn không phù hợp cho lợn nái, không giảm khẩu phần ăn cho lợn nái trước khi đẻ một tuần làm cho lượng sữa tiết ra quá nhiều gây tắc sữa. Sau vài ngày đẻ mà lợn con không bú hết, sữa lưu là môi trường tốt cho vi khuẩn xâm nhập gây viêm như: E. coli, Streptoccocus, Staphylococus, Klebsiella, (Duy Hùng, 2011) [55]. + Lợn con mới đẻ có răng nanh mà không bấm khi bú làm xây sát vú mẹ tạo điều kiện cho vi trùng xâm nhập tạo ra các ổ viêm nhiễm bầu vú. + Chỉ cho lợn con bú một hàng vú, hàng còn lại căng quá nên viêm. + Do thời tiết thay đổi đột ngột, lạnh quá hoặc nóng quá hay thức ăn khó tiêu cũng ảnh hưởng đến cảm nhiễm vi trùng. b. Triệu chứng Theo White (2013) [58], biểu hiện rõ tại vú viêm với các đặc điểm: Bầu vú căng cứng, nóng đỏ, có biểu hiện đau khi sờ nắn, không xuống sữa, nếu vắt mạnh sữa chảy ra có nhiều con lẫn máu, sau 1 - 2 ngày thấy có mủ, lợn mẹ giảm ăn hay bỏ ăn, sốt cao 40 - 41,5 oC. Tùy số lượng vú bị viêm mà lợn nái có biểu hiện khác nhau. Nếu do nhiễm trùng trực tiếp vào bầu vú, thì đa số trường hợp chỉ một vài bầu vú bị viêm. Tuy vậy, lợn nái cũng lười cho con bú, lợn con thiếu sữa nên liên tục đòi bú, kêu rít, đồng thời do bú sữa bị viêm, gây nhiễm trùng đường ruột, lợn con bị tiêu chảy, thiếu máu. c. Hậu quả của bệnh viêm vú Khi lợn nái bị viêm vú sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng sữa, từ đó sẽ ảnh hưởng đến khả năng sinh trưởng phát triển của lợn con theo mẹ. - Theo Nguyễn Đức Lưu và Nguyễn Hữu Vũ, (2004) [20]: Bệnh viêm tử cung và viêm vú là hai nguyên nhân trực tiếp gây ra sự giảm và mất sữa ở lợn nái
  23. 17 nuôi con. d. Điều trị Trekaxova và cs, (1983) [39], cho biết: Chữa bệnh viêm vú cho lợn nái hướng vào việc đưa ra các phương pháp chữa kết hợp. Dùng novocain phong bế phối hợp với điều trị bằng kháng sinh cho kết quả tốt. Để phong bế thần kinh tuyến sữa, tác giả đã dùng dung dịch novocain 0,5% liều từ 30 - 40 ml cho mỗi túi vú. Thuốc tiêm vào mỗi thuỳ vú bệnh, sâu 88 - 10 cm. Dung dịch novocain còn được bổ sung 100 - 200 ngàn đơn vị penicillin hay kháng sinh khác. Đồng thời, lợn nái còn được tiêm bắp cùng một loại kháng sinh trong novocain này, từ 400 - 600 đơn vị, mỗi ngày 2 - 3 lần. Các loại kháng sinh thường dùng: acimoxyl, pen-strep, ampicillin, gentamycin, norfloxacin, và có thể dùng corticoide để giảm viêm kết hợp với vitamin. Ngoài ra trong trường hợp nái đẻ bị viêm nặng chúng ta có thể chườm cát nóng kết hợp xoa bóp bầu vú. 2.2.2.3. Hiện tượng đẻ khó a. Nguyên nhân - Đẻ khó do nguyên nhân cơ thể mẹ: Khi chăm sóc, nuôi dưỡng không tốt, thức ăn không đầy đủ, chất dinh dưỡng thiếu so với nhu cầu của lợn mang thai dẫn đến cơ thể mẹ suy nhược, sức khỏe kém. Lợn ăn quá nhiều tinh bột, protein dẫn đến béo cũng gây ra đẻ khó. Lợn quá gầy cũng dẫn đến đẻ khó. Do cấu tạo tổ chức các phần mềm như: Cổ tử cung, âm đạo giãn nở không bình thường có chỗ giãn quá mạnh, chỗ lại không giãn nên việc đẩy con ra ngoài gặp khó khăn. Khung xoang chậu bị biến dạng, khớp bán động háng phát triển không bình thường, vôi hóa cột sống hay xoang chậu hẹp. Trong quá trình đẻ độ giãn nở kém, thai bị mắc trước cửa xoang chậu không ra được. Ở thời gian có thai kỳ cuối, thai quá to, lợn nái vận động mạnh, chèn ép tử cung làm tử cung bị xoắn vặn lại, tư thế tử cung thay đổi, đường sinh dục trở nên
  24. 18 không bình thường cũng gây đẻ khó. Do rối loạn hormone tuyến sinh dục cái: Kích tố nhau thai Relaxin lúc đẻ tiết ra ít nên không làm mất lớp canxi ở bán động háng, không giãn dây chằng xương chậu (không sụt mông) hoặc Prostagladin tiết ít không đủ gây co bóp tử cung nên không tống thai ra ngoài được. - Đẻ khó do nguyên nhân bào thai. Chiều hướng, tư thế của thai lúc đẻ không bình thường. Theo Nguyễn Huy Hoàng (1996) [16], các trường hợp lợn con nằm không đúng tư thế. Bốn chân lợn con hướng về xương sống lợn mẹ, lợn con nằm đưa vai ra trước, lợn con đầu ngước ra sau lưng, lợn con đầu quẹo sang một bên, lợn con đưa đầu và bốn chân ra một lượt, lợn con mõm ra trước, hai chân trước co xuống bụng, lợn con đầu cúp xuống ngực. Chế độ dinh dưỡng không phù hợp hoặc do quá ít thai, làm thai quá to không phù hợp với kích thước của xương chậu và đường sinh dục của lợn mẹ. Thai bị dị hình hay quái thai. b. Triệu chứng Lợn nái đến ngày đẻ, nước ối vỡ ra, trong nước ối có lẫn phân su nhưng không thấy thai ra. Lợn nái có biểu hiện rặn nhiều lần, rặn mạnh, thậm chí lợn nái còn rặn căng bụng, cong lưng, chân đạp vào thành chuồng để rặn nhưng thai vẫn không ra. Do thời gian rặn đẻ mạnh và kéo dài mà thai vẫn không ra làm cho lợn nái mệt mỏi. Nếu để lâu có thể dẫn đến hiện tượng thai bị ngạt mà chết. Khi đưa tay vào đường sinh dục thấy khung xoang chậu hẹp, thai to hoặc ở tư thế không bình thường nằm kẹt ở trước cửa xoang chậu. c. Hậu quả Tử cung co bóp mạnh mà thai không ra, thai bị chèn ép, bị ngạt thở dẫn đến lợn con bị chết. Nếu mổ để lấy thai ra ngoài thì lợn mẹ hay bị chết hoặc không thể dùng sinh sản lứa sau. Do lợn nái rặn đẻ mạnh và kéo dài làm lợn nái mệt mỏi, kéo dài thời gian đẻ,
  25. 19 sức co bóp của tử cung giảm, gây ra hiện tượng sót nhau, sót con dẫn đến viêm đường sinh dục. Lợn bị nhiễm một số bệnh: viêm tử cung, viêm vú, sảy thai truyền nhiễm, khi đó, niêm mạc sẽ có những vết sẹo gây cản trở cho quá trình thụ thai, thai làm tổ, dẫn đến xảy thai, tiêu thai, đẻ non ở những lần sinh sản tiếp theo, thậm trí là vô sinh. d. Cách can thiệp Xác định nguyên nhân đẻ khó để đề ra biện pháp can thiệp thích hợp. - Do khô đường sinh dục: dùng vaseline, nước xà phòng ấm đặc bôi trơn âm đạo. - Do hẹp âm môn: giải phẫu mở rộng âm môn lôi thai ra. - Do rặn đẻ yếu: tiêm VTM B1, VTM C, cafein trợ sức, đồng thời tiêm oxytoxin kích thích co bóp. - Do vị trí, tư thế thai không thuận: dùng tay đẩy thai vào trong, xoay thai đúng tư thế từ từ lôi thai ra theo nhịp rặn của lợn nái. Viêm âm môn, tiền đình và âm đạo Trong quá trình sinh đẻ, niêm mạc âm môn, tiền đình và âm đạo bị xây xát, tổn thương do bào thai hay do can thiệp các trường hợp đẻ khó. Do trong quá trình đỡ đẻ thao tác kỹ thuật không đúng, dụng cụ đỡ đẻ không vô trùng gây tổn thương các bộ phận sinh dục bên ngoài. Ngoài ra, bệnh có thể kế phát từ hiện tượng sảy thai, thai thối rữa trong tử cung hoặc từ bệnh sát nhau. Lúc đầu niêm mạc bộ phận bị viêm xung huyết nhẹ, có nhiều dịch thẩm xuất. Kiểm tra âm đạo bằng mỏ vịt, con vật không có phản xạ đau, không có triệu chứng toàn thân. Con vật rặn vặt, đi đái rắt. Nhiều dịch viêm lẫn tổ chức hoại tử màu trắng chảy ra ngoài. 2.2.2.4. Bệnh bại liệt sau đẻ a. Nguyên nhân Bệnh thường xuất hiện do giảm canxi huyết mất nhiều khi nái tập chung vào sữa, mà khi thành phần sữa chứa nhiều canxi thai quá to, tư thế chiều hướng của
  26. 20 thai không bình thường hoặc do quá trình thủ thuật kéo dài làm cho lợn nái bị tổn thương các dây thần kinh. Một phần do điều kiện nuôi dưỡng, chăm sóc kém dẫn đến lợn mẹ gầy yếu, gây bại liệt. b. Triệu chứng Ban đầu lợn nái không có triệu chứng toàn thân, không thấy vết thương cục bộ nhưng đi lại khó khăn hay nằm bẹp một chỗ. Nếu bệnh kéo dài thì lợn mẹ không đứng dậy được rất có thể bị loét da do tiếp xúc với nền chuồng, nếu kéo dài 3 - 4 tuần lợn gầy dần rồi chết. c. Hậu quả Làm cho lợn nái đi lại khó khăn hoặc mất đi khả năng vận động, nếu bệnh kéo dài có thể loét từng mảng da do tiếp xúc lâu với nền chuồng. Lợn sẽ lâu động dục hoặc không động dục trở lại và có khả năng gây chết lợn. d. Chẩn đoán: Dựa vào triệu chứng lâm sàng để chuẩn đoán bệnh như: Lợn nái đi lại khó khăn, nằm bẹp một chỗ 2.2.2.5. Bệnh sót nhau Lợn nái bị viêm niêm mạc tử cung nên sau khi đẻ nhau không ra hết, can thiệp vội vàng, thô bạo, không đúng kỹ thuật nên nhau bị đứt và sót lại. Lợn nái quá già, đẻ nhiều đuối sức, tử cung co bóp kém không đẩy được nhau ra. a. Nguyên nhân Theo Trịnh Đình Thâu và cs, (2010) [36], sau khi tử cung co bóp yếu trong thời gian mang thai nhất là giai đoạn cuối con vật không được vận động thỏa đáng. Trong thức ăn thiếu các khoáng chất, nhất là canxi và phospho. Hoặc tử cung bị sa liệt, con vật quá gầy yếu hoặc quá béo, chửa quá nhiều thai, thai quá to, khó đẻ, nước ối quá nhiều làm tử cung giãn nở quá mức. Do viêm niêm mạc tử cung trước lúc đẻ làm dính nhau với tử cung hoặc nhau chưa ra hết thì người đỡ đẻ đã kéo đứt còn lại một ít sót lại trong tử cung. Do lợn con còn sót lại ở trạng thái nằm sai vị trí làm tắc đường ra của nhau.
  27. 21 b. Triệu chứng Sau khi đẻ 4 - 5 giờ không thấy nhau ra hoặc ra không hết là bị sót nhau. Lợn nái rặn nhiều, đôi khi bỏ ăn, sốt cao liên tục 40 – 41°C trong vòng 1 - 2 ngày, lợn mẹ cắn con, không để cho con bú, niêm dịch chảy ra màu đục, lẫn máu. c. Điều trị Can thiệp kịp thời ngay khi nái có biểu hiện bệnh, không để quá muộn sẽ gây ra viêm tử cung, can thiệp đúng kỹ thuật, không quá mạnh tay, tránh gây tổn thương. Tiêm oxytoxin để kích thích co bóp tử cung cho nhau còn sót lại đẩy ra ngoài hết. Sau khi nhau thai ra dùng nước muối sinh lý 0,9% để rửa tử cung trong ba ngày liên tục (Trịnh Đình Thâu và Nguyễn Văn Thanh, 2010) [35]. 2.2.2.6. Bệnh viêm phổi a. Nguyên nhân Tìm hiểu nguyên nhân lợn triệu chứng và kinh nghiệm chăm sóc ta phân lập viêm phổi của lợn do đâu và nguyên nhân gì, kiểm tra lại hệ thống thức ăn, các vận hành: quạt, giàn mát, nhiệt độ, vệ sinh, độ đồng đều nhằm đưa ra biện pháp điều trị đúng bệnh, đúng thuốc, khắc phục kịp thời, tránh tình trạng bệnh của lợn kéo dài làm nặng thêm đi đến nhờn thuốc khó điều trị. Khống chế, cách ly khoanh vùng từ công nhân giữa các chuồng, dụng cụ chăm sóc giữa các chuồng tránh lây lan bệnh trong trại và giữa các trại. Tìm mọi biện pháp nâng cao sức đề kháng của lợn kích ăn cho lợn. Nguyên nhân là do Mycoplasma hyopneumoniae gây ra, bệnh xâm nhập chủ yếu qua đường hô hấp. Bệnh cũng có thể do điều kiện chăn nuôi vệ sinh chuồng trại kém, thời tiết thay đổi, do sức đề kháng của con lợn giảm. Bệnh thường lây lan do nhốt chung với gia súc nhiễm bệnh. b. Triệu chứng Lợn bệnh sốt nhẹ 40,1 - 41°C, bắt đầu từ những hắt hơi chảy nước mũi, sau đó chuyển thành dich nhầy. Lợn thở khó, ho nhiều, sốt ngắt quãng, ăn kém. Lúc đầu ho khan từng tiếng, ho chủ yếu về đêm, sau đó chuyển thành ho cơn, ho ướt nghe rõ nhất là vào sáng sớm đặc biệt là các buổi khi trời se lạnh, gió lùa đột ngột, nước mũi
  28. 22 nước mắt chảy ra nhiều. Vì phổi bị tổn thương nên lợn thở thể ngực phải chuyển sang thở thể bụng, nhiều con thở ngồi như chó. Rõ nhất là sau khi bị xua đuổi. c. Điều trị Theo Lê Văn Năm (2013) [25]: Đến nay chưa có phương pháp gì đặc biệt thông dụng để chẩn đoán bệnh viêm phổi truyền nhiễm khi lợn đang sống. Bởi vậy cần dựa vào kết quả nghiên cứu dịch tễ, triệu chứng lâm sàng, kết quả mổ khám và chẩn đoán cơ sở chuyên ngành. 2.2.3. Những bệnh thường gặp ở lợn con theo mẹ 2.2.3.1. Bệnh phân trắng lợn con Tiêu chảy là biểu hiện lâm sàng của quá trình bệnh lý ở đường tiêu hóa, là hiện tượng con vật đi ỉa nhanh, nhiều lần trong ngày, phân có nhiều nước do rối loạn chức năng tiêu hóa, ruột tăng cường co bóp và tiết dịch hoặc chỉ phản ánh đơn thuần sự thay đổi tạm thời của phân gia súc đang thích ứng với những thay đổi trong khẩu phần ăn. Tiêu chảy xảy ra ở nhiều bệnh và bản thân nó không phải là bệnh đặc thù. Theo Trần Đức Hạnh (2013) [13]: lợn con ở 1 số tỉnh phía bắc mắc tiêu chảy và chết với tỷ lệ trung bình là 31,84% và 5,37%, tỷ lệ mắc tiêu chảy và chết giảm dần theo lứa tuổi, cao nhất ở lợn con giai đoạn từ 21 – 40 ngày ( 30,97 và 4,93%) và giảm ở giai đoạn 41 - 46 ngày. Theo Nguyễn Chí Dũng (2013) [8] kết luận: Tháng có nhiệt độ thấp và ẩm độ cao, tỷ lệ mắc tiêu chảy cao (26,98 – 38,18%) . a. Nguyên nhân - Do thời tiết khí hậu: các yếu tố nóng, lạnh, mưa, nắng, hanh, ẩm thay đổi thất thường và điều kiện chăm sóc nuôi dưỡng ảnh hưởng trực tiếp đến cơ thể lợn, nhất là cơ thể lợn con chưa phát triển hoàn chỉnh, các phản ứng thích nghi của cơ thể (Đoàn Thị Kim Dung, 2004) [7]. - Lợn con bị nhiễm khuẩn:Bệnh tiêu chảy ở lợn có nguyên nhân do vi khuẩn E.coli, Salmonella, trong đó: Salmonella là vi khuẩn có vai trò quan trọng trong quá trình gây ra hội chứng tiêu chảy.
  29. 23 - Nguyên nhân gây bệnh tiêu chảy ở lợn con chủ yếu là do vệ sinh chuồng trại kém, thức ăn thiếu dinh dưỡng, chăm sóc quản lý không tốt. - Lợn mẹ bị viêm vú, viêm tử cung. - Lợn mẹ ăn không đúng khẩu phần. - Bệnh tiêu chảy trên lợn con do E. coli có thể xảy ra ở bất kỳ độ tuổi theo mẹ nào nhưng thường có hai thời kỳ cao điểm là 0-5 ngày tuổi và 7-14 ngày tuổi. b. Triệu chứng - Sàn chuồng có phân lợn lỏng, màu vàng hoặc màu trắng. - Trong chuồng có hiện tượng lợn nôn ra sữa. - Người lợn con bị bẩn do dính phân. - Vú lợn mẹ dính phân lợn con. c. Điều trị - Với Nova Amcoli: 1 ml/con/ngày sử dụng tiêm bắp đối với lợn con 10 ngày tuổi. - Điều trị liên tục trong 3 – 5 ngày. 2.2.3.2. Bệnh viêm phổi a. Nguyên nhân - Bệnh viêm phổi là bệnh do Mycoplasma hyopneumoniae gây ra, bệnh xảy ra trên lợn con ngay từ khi mới sinh ra, bệnh xâm nhập chủ yếu qua đường hô hấp. Bệnh cũng có thể do điều kiện chăn nuôi vệ sinh chuồng trại kém, thời tiết thay đổi do sức đề kháng của lợn giảm. Bệnh thường lây lan do nhốt chung với con nhiễm bệnh. - Viêm phổi thường xuất hiện ở giai đoạn sau của quá trình chăn nuôi, nhất là khi heo sắp xuất chuồng dẫn đến thiệt hại nặng nề về kinh tế cho bà con. b. Triệu chứng Với bệnh viêm phổi ở heo, thời gian ủ bệnh thường kéo dài từ 1 – 3 ngày nhưng cũng có thể kéo dài lên đến vài tháng và phổ biến ở heo sau khi cai sữa và
  30. 24 trong thời gian vỗ béo chuẩn bị xuất chuồng. Khi mắc bệnh, heo thường xuất hiện một số biểu hiện như chết đột ngột, có bọt và máu tươi xuất hiện ở mồm. Với những con còn sống sót, chúng thường bỏ ăn, sốt cao, khó thở. c. Điều trị Bệnh viêm phổi có thể sử dụng nhiều loại thuốc khác nhau để điều trị, ở trong trại thường sử dụng phác đồ sau để điều trị: Tylogenta: 1,5ml/con. Tiêm bắp ngày/lần. Hitamox LA: 1,5ml/con. Tiêm bắp ngày/lần. Nếu lợn có hiện tượng ho nhiều, thở gấp thì tiêm Bromhexine (HCl): 2ml/con. Điều trị trong 3 - 6 ngày. 2.2.3.3. Bệnh viêm khớp a. Nguyên nhân Streptococcus suis là vi khuẩn gram (+), Streptococcus suis gây viêm khớp lợn cấp và mãn tính ở mọi lứa tuổi. Bệnh này thường gây ra trên lợn con 1 - 6 tuần tuổi. Vi khuẩn xâm nhập qua đường miệng, cuống rốn, vết thương khi cắt đuôi, bấm nanh, các vết thương trên da, đầu gối khi chà sát trên nền chuồng, qua vết thiến. b. Triệu chứng Lợn con đi khập khiễng từ 3 - 4 ngày tuổi, khớp chân sưng lên vào ngày 7 - 15 sau khi sinh nhưng tử vong thường xảy ra lúc 2 - 5 tuần tuổi. Thường thấy viêm khớp cổ chân, khớp háng và khớp bàn chân. Lợn ăn ít, hơi sốt, chân lợn có hiện tượng què, đi đứng khó khăn, chỗ khớp viêm tấy đỏ. c. Điều trị Tiêm vetrimoxin 1 ml/10 kgTT/1lần/2 ngày. Hoặc tiêm pendistrep L.A. 1 ml/10 kg TT/1 ngày/1lần. Điều trị liên tục trong 3 - 5 ngày. 2.2.4. Tình hình nghiên cứu trong nước và ngoài nước 2.2.4.1. Tình hình nghiên cứu ngoài nước
  31. 25 Theo Martineau (2011) [56], có nhiều bệnh nguyên học và sinh lý bệnh có thể được đề cập trong hội chứng rối loạn tiết sữa và viêm vú ở lợn nái sau đẻ do dùng những tên khác nhau: phức hợp viêm vú - viêm tử cung - mất sữa (MMA), hội chứng mất sữa, hội chứng rối loạn tiết sữa, phù thũng vú, hội chứng giảm tiết sữa, ngộ độc máu mất sữa và viêm vú sau đẻ. Theo Shrestha (2012) [57], hội chứng MMA gây chết khoảng 2% lợn nái nhưng tỷ lệ chết ở lợn con lên tới 80% do đói, ỉa chảy Nguyên nhân: (a) do dinh dưỡng: cho nái ăn quá nhiều trong thời gian mang thai, nái quá béo; thay đổi thức ăn đột ngột, hàm lượng vitamin E và Ca trong khẩu phần ăn thấp, thiếu xơ và nước uống; (b) do quản lý chăm sóc: nái ít được vận động, lợn nái không được vệ sinh, vô trùng trước khi đẻ, không được quan tâm khi đẻ, thời gian đẻ kéo dài; (c) do chuồng trại: chật chội, nền chuồng không bằng phẳng, nhiệt độ môi trường cao, bầu vú lợn quánóng do đặt đèn sưởi không thích hợp; (d) do bản thân lợn nái: đẻ nhiều con, dạ con lớn và nhão. Chẩn đoán lâm sàng: lợn sốt (40 - 410C), bỏ ăn, táo bón, bầu vú sưng cục bộ, nóng, đau. Theo Kemper và cs, (2013) [46], tại 6 đàn nái hạt nhân ở Đức (2008 - 2010), 99,1% các mẫu sữa phân lập được vi khuẩn chủ yếu thuộc họ Enterobacteriaceae, Staphylococcaceae, Streptococcaceae và nterococcaceae. Trong đó, E. coli chiếm nhiều hơn cả và những loài này cũng được tìm thấy trong sữa lợn khỏe, còn Staphylococcus spp, Lactococcus lactis được tìm thấy trong sữa lợn mắc hội chứng MMA. Theo Maes và cs, (2010) [48] thuật ngữ Metritis, Mastitis, Agalactia (MMA) được dùng rất thường xuyên trong các bài báo khoa học trước đây, ngày nay được xem như một loại PDS (hội chứng rối loạn tiết sữa sau đẻ lợn nái), MMA có tỷ lệ lưu hành 6,9% trong tổng số 16.450 lợn nái đẻ trong hơn 01 năm tại 31 đàn ở Illinois; trong 27.656 lợn nái đẻ của một nghiên cứu được tiến hành tại bang Missouri có tới 13% nái bị mắc hội chứng MMA; tỷ lệ mắc hội chứng MMA theo đàn ở Thụy Điển biến động từ 5,5% ở đàn quy mô nhỏ và tới 10,3% ở đàn quy mô lớn. Ông cũng cho biết, một nghiên cứu mới đây ở 110 đàn lợn tại Bỉ cho thấy 34%
  32. 26 số đàn có liên quan đến hội chứng MMA. Theo Kemper và Gerjets (2009) [45], để chẩn đoán sớm hội chứng MMA, người ta thường dựa vào một số triệu chứng lâm sàng: (1) thân nhiệt lợn nái sau đẻ 12 - 48 giờ (nếu > 39,40C thì điều trị dự phòng), sự thay đổi hình dạng tuyến vú, giảm tiết sữa (hoặc mất sữa hoàn toàn), giảm tính thèm ăn (ăn ít hoặc bỏ ăn hoàn toàn), lượng tế bào soma trong sữa >107/ml, pH sữa > 6,7; tăng hàm lượng các interleukin trong máu (tăng lượng IL-1P, IL-6, IL-8 và TNFa. (2) các yếu tố ảnh hưởng đến hội chứng MMA: thời gian mang thai dài (> 116 ngày), thời gian đẻ dài (> 3 giờ), can thiệp bằng dụng cụ sản khoa khi đẻ, nhiều con (> 11con/ổ) nhiễm trùng đường sinh dục, táo bón, sự tăng đàn, chuyển đàn, trong đàn có nhiều nái mới, ảnh hưởng của mùa vụ, thiếu protein thô trong khẩu phần ăn, thay đổi thức ăn đột ngột, lợn nái thiếu vận động Theo Preibler và Kemper (2011) [49] trong nghiên cứu về lợn nái mắc MMA, có 16,6% bị sốt 400C, lợn kém ăn, sản lượng sữa giảm hoặc rối loạn tiết sữa. Theo Heber và cs, (2010) [43] lợn được coi là mắc hội chứng MMA khi có một hoặc bao gồm các biểu hiện sau: viêm tử cung, dịch tiết âm đạo có pH > 8, lười vận động, thân nhiệt > 39,40C, viêm vú . Theo Arut Kidcha-orrapin (2006) [54], tại Thái lan hội chứng MMA là một vấn đề lớn ở các trang trại chăn nuôi lợn, đặc biệt vào mùa hè (giữa tháng 3 và tháng 5), ảnh hưởng lớn đến năng suất sinh sản của lợn nái. Biện pháp tốt nhất để phòng bệnh là quản lý tốt đàn nái, đặc biệt là trước khi đẻ. Cụ thể như sau: - Thức ăn cho lợn nái chờ đẻ không vượt quá 18% protein; chất xơ > 4,5%; cung cấp nước uống đầy đủ. - Tránh gây stress cho nái sau đẻ: không chuyển nái sang chuồng đẻ trong thời tiết nóng, những ngày nắng nóng tốt nhất di chuyển trước 07 giờ sáng; thời gian nuôi thích nghi tại chuồng đẻ thích hợp nhất là 05 ngày; giữ cho lợn nái yên tĩnh. - Vệ sinh chuồng đẻ bằng các thuốc sát trùng, để trống chuồng ít nhất 01
  33. 27 tuần, sau khi vệ sinh mới chuyển lợn vào. - Dùng thuốc điều trị ký sinh trùng; thuốc điều trị E. coli: tiêm enrofloxacin; thuốc điều trị Streptoccocus spp: tiêm amoxyclin 01 ngày trước đẻ. - Bổ sung các vitamin A, D, E, K và khoáng chất để tăng khả năng miễn dịch cho lợn. Waller và cs, (2002) [53] cho biết khi lợn mẹ bị viêm đường sinh dục có tỷ lệ thụ thai và số con sinh ra ở lứa sau thấp hơn so với lợn mẹ không bị viêm. Tỷ lệ viêm tử cung của lợn nái tại Anh được cho là biến động từ 1,1 – 37,2% (Kirwood, 1999) [47]. Theo Ivashkevich và cs, (2011) [44] tỷ lệ viêm tử cung ở lợn nái ở Belarus vào khoảng 33,6 – 55,0%. 2.2.4.2. Tình hình nghiên cứu trong nước Theo Bùi Thị Tho và cs, (1995) [37], cho biết phần lớn những trường hợp lợn đẻ khó đều dẫn tới viêm tử cung. Theo Đặng Thanh Tùng (1999) [40], nguyên nhân chính dẫn đến bệnh viêm tử cung của nái là do thiếu về dinh dưỡng, chăm sóc, quản lý, vệ sinh, tiểu khí hậu chuồng nuôi, tuổi, lứa đẻ, tình trạng sức khỏe, kích dục tố, nhiễm trùng sau khi sinh. Từ những yếu tố đó ta có thể đề ra phương pháp phòng bệnh viêm tử cung. Theo Trần Tiến Dũng (2004) [10], bệnh viêm đường sinh dục ở lợn chiếm tỷ lệ cao từ 30 - 50%, trong đó viêm cơ quan bên ngoài ít, chiếm tỷ lệ 20%, còn lại 80% là viêm tử cung. Theo Nguyễn Quang Linh (2005) [18], bệnh viêm vú thường xảy ra sau khi đẻ 4 - 5 giờ cho đến 7 - 10 ngày, có trường hợp đến một tháng. Theo Nguyễn Xuân Bình (2005) [4], cho biết ở những nái bị viêm tử cung thường biểu hiện sốt theo quy luật sáng chiều (sáng sốt nhẹ, chiều sốt nặng). Theo Nguyễn Văn Thanh (2007) [31], lợn nái ở lứa đẻ 1 và lứa ≥ 8 có tỷ lệ mắc viêm tử cung sau đẻ cao hơn ở các lứa đẻ khác. Tác giả cho rằng ở lứa 1 do xoang chậu còn nhỏ nên lợn thường đẻ khó dẫn đến phải can thiệp và sây sát. Mặt khác, lứa đẻ ≥ 8 do trương lực của cơ tử cung đã giảm nên lợn gặp khó khăn trong việc đẩy thai và các sản dịch ra khỏi tử cung sau khi đẻ. Các nguyên nhân trên làm
  34. 28 cho tỷ lệ viêm tử cung sau đẻ của lứa 1 và lứa ≥ 8 cao hơn các lứa đẻ khác. Theo Trịnh Đình Thâu và cs, (2010) [36], lợn nái ngoại nuôi theo mô hình trang trại ở các tỉnh phía Bắc Việt Nam có tỷ lệ mắc hội chứng MMA dao động từ 47,39 - 53,33%. Theo Nguyễn Thị Hồng Minh (2014) [21], yếu tố thời tiết, mùa vụ ảnh hưởng rõ rệt đến tỷ lệ mắc hội chứng MMA, mùa hạ có tỷ lệ mắc cao nhất 53,37%, mùa đông 46,05%, mùa thu có tỷ lệ mắc thấp nhất 43,70%. Sự khác nhau về tỷ lệ mắc hội chứng MMA ở đàn lợn nái là do ảnh hưởng của sự biến đổi các chỉ tiêu về thời tiết khí hậu của các mùa khác nhau. Trần Ngọc Bích và cs, (2016) [1], đã khảo sát tình hình viêm nhiễm đường sinh dục lợn nái sau khi sinh và hiệu quả điều trị của một số loại kháng sinh trên 143 lợn nái sau khi sinh và phát hiện 106 con tiết dịch nghi viêm đường sinh dục, chiếm tỷ lệ 74,13 %. Nguyễn Hoài Nam và Nguyễn Văn Thanh (2016) [23], cho biết tỷ lệ viêm tử cung sau đẻ của lợn nái là 76,38%, biến động từ 62,10 – 86,96%. Hầu hết lợn nái phải can thiệp bằng tay khi đẻ đều bị viêm tử cung (96,47%). Trong khi đó lợn không cần sự can thiệp bằng tay khi đẻ có tỷ lệ viêm tử cung là 69,06%. Tỷ lệ viêm tử cung của lợn nái có thai chết lưu và lợn nái không có thai chết lưu lần lượt là 81,63% và 73,91%. Ở lợn nái lứa đẻ từ 1-6, tỷ lệ viêm tử cung biến động từ 70,07 – 93,33%. Theo Nguyễn Đức Lưu và Nguyễn Hữu Vũ (2000) [19], điều trị bệnh viêm tử cung bằng cách dùng Benzil penicillin (Procain) 1.000.000 IU tiêm bắp. Dùng Gentamycin Sulfate 200.000 IU tiêm bắp. Điều trị 5 - 7 ngày. Theo Nguyễn Văn Thanh (2002) [30], lợn nái sau khi sinh bị viêm tử cung chiếm tỷ lệ 42,40%. Viêm tử cung trên nhóm thuần chiếm 25,48%, trên nhóm lai chiếm 50,84%. Viêm tử cung xảy ra cao nhất ở lứa 1 và lứa 2. Tỷ lệ chậm động dục ở nhóm lợn bị viêm tử cung cao hơn nhiều so với nhóm lợn không bị viêm tử cung. Theo Chu Thị Thơm và cs, (2005) [38], chữa bệnh viêm vú, sưng vú, tắc tia sữa bằng: Bồ công anh 50g rửa sạch, giã nát cho thêm ít muối, ít nước, chắt lấy
  35. 29 nước cho uống, phần bã đắp phần vú bị sưng. Theo Nguyễn Văn Thanh và cs, (2016) [34] đưa ra bốn phương pháp điều trị viêm tử cung ở lợn nái: + Phương pháp 1: Thụt rửa tử cung bằng dung dịch rivanol 0,1% hay thuốc tím 0,1% ngày 1 lần, sau khi thụt rửa đợi hay kích thích cho dung dịch thụt rửa đẩy ra hết ra ngoài hết, sau đó thụt kháng sinh vào tử cung ngày 1 lần liệu trình điều trị từ 3 – 5 ngày. + Phương pháp 2: Dùng PGF2α hay các chế phẩm của nó như etrumat, oestrophan, prosolvin, hanprost, lutalyse, tiêm dưới da theo liều chỉ dẫn, tiêm 1 lần, sau đó thụt vào tử cung 200 – 500 ml dung dịch lugol ngày 1 lần, liệu trình điều trị từ 3 – 5 ngày. + Phương pháp 3: Oxytocin 6 – 8ml tiêm dưới da, lugol 200 – 500 ml kết hợp với kháng sinh bơm vào tử cung đồng thời dùng kháng sinh thích hợp tiêm bắp hay tĩnh mạch tai ngày 1 lần, liệu trình điều trị từ 3 – 5 ngày. + Phương pháp 4: Dùng PGF2α hay các chế phẩm của nó tiêm dưới da theo liều chỉ dẫn, tiêm 1 lần, lugol 200 – 500 ml kết hợp với kháng sinh thụt vào tử cung đồng thời dùng kháng sinh thích hợp tiêm bắp hay tĩnh mạch tai ngày 1 lần, liệu trình điều trị từ 3 – 5 ngày. Theo Đào Trọng Đạt và cs, (1995) [11], có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến bệnh phân trắng lợn con. Do nhân tố bẩm sinh, rối loạn trao đổi chất, do khí hậu thời tiết, vệ sinh chuồng trại, do rối loạn hệ vi sinh vật đường ruột (hiện tượng loạn khuẩn) Trần Văn Phùng và cs, (2004) [27], nhất thiết lợn con sơ sinh phải được bú sữa đầu để giúp cho lợn con có sức đề kháng chống bệnh. Trong sữa đầu có γ- globulin cao hơn sữa thường. Đây là chất chủ yếu giúp cho lợn con có sức đề kháng. Vì thế cần chú ý cho lợn con sơ sinh bú sữa trong tuần đầu đảm bảo được toàn bộ số lợn con trong ổ được bú sữa đầu của lợn mẹ.
  36. 30 Phần 3 ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP TIẾN HÀNH 3.1. Đối tượng nghiên cứu - Lợn nái sinh sản và lợn con theo mẹ. - Các bệnh của lợn nái sinh sản và lợn con theo mẹ. 3.2. Địa điểm và thời gian tiến hành - Địa điểm: Trại lợn Việt Anh, xã Hiệp Hòa, huyện Vĩnh Bảo, TP. Hải Phòng. - Thời gian: 18/5/2018 đến ngày 25/11/2018. 3.3. Nội dung tiến hành - Đánh giá tình hình chăn nuôi lợn tại trại chăn nuôi lợn Việt Anh. - Thực hiện quy trình phòng bệnh cho lợn nái sinh sản và lợn con theo mẹ. - Thực hiện công tác chẩn đoán và điều trị các bệnh thường gặp ở lợn nái sinh sản và lợn con theo mẹ. 3.4. Các chỉ tiêu theo dõi và phương pháp thực hiện 3.4.1. Các chỉ tiêu theo dõi 3.4.1.1. Công tác phòng bệnh cho lợn nái sinh sản và lợn con theo mẹ a. Công tác vệ sinh, sát trùng chuồng trại b. Công tác tiêm phòng cho lợn nái sinh sản và lợn con theo mẹ 3.4.1.2. Công tác chẩn đoán bệnh ở lợn nái sinh sản và lợn con theo mẹ a. Tình hình mắc bệnh ở lợn nái sinh sản b. Tình hình mắc bệnh ở lợn con theo mẹ 3.4.1.3. Công tác điều trị bệnh cho lợn nái sinh sản và lợn con theo mẹ a. Công tác điều trị bệnh cho lợn nái sinh sản b. Công tácđiều trị bệnh cho lợn con theo mẹ 3.4.1.4. Công thức tính một số chỉ tiêu theo dõi Tổng số con mắc bệnh Tỷ lệ mắc bệnh (%) = × 100 Tổng số con theo dõi
  37. 31 Tổng số con khỏi bệnh Tỷ lệ khỏi bệnh (%) = × 100 Tổng số con điều trị 3.4.2. Phương pháp thực hiện - Dựa trên số liệu thống kê về tính hình chăn nuôi của trang trại và trực tiếp theo dõi quá trình chăn nuôi tại trại để đánh giá tình hình chăn nuôi của trang trại. - Lập sổ sách theo dõi đàn lợn nái nuôi con và lợn con theo mẹ gồm những nội dung như số tai lợn nái, lứa đẻ, ngày tháng lợn nái đẻ, loại bệnh lợn nái mắc, loại bệnh lợn con mắc. - Trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc và theo dõi tình hình mắc bệnh của lợn nái nuôi con và lợn con theo mẹ hàng ngày. - Chẩn đoán lợn nái nuôi con và lợn con theo mẹ mắc bệnh dựa trên các triệu chứng lâm sàng điển hình và đặc điểm dịch tễ học. - Xác định lợn nái bị viêm tử cung sau đẻ: Dịch đào thải ra từ đường sinh dục của lợn nái được theo dõi từ khi lợn nái bắt đầu đẻ cho tới khi hết dịch. Quá trình theo dõi dịch đào thải từ đường sinh dục lợn nái sau đẻ được thực hiện 2 lần/ngày vào buổi sáng và buổi chiều. Trong thời gian này, nếu tính chất của dịch thay đổi như từ không màu hoặc hơi hồng, trong, lỏng, chuyển sang màu trắng sữa, hồng hơn, đỏ hơn, hoặc nâu rỉ sắt, vàng hay xanh, dịch đặc hơn, có bã đậu, dính, dịch có mùi hôi, thối thì lợn đó được coi là bị viêm tử cung sau đẻ (Nguyễn Hoài Nam và Nguyễn Văn Thanh, 2016) [23] . - Tiến hành điều trị cho lợn nái sinh sản và lợn con theo mẹ mắc bệnh bằng phác đồ điều trị bệnh hiệu quả nhất. * Điều trị bệnh viêm tử cung bằng phác đồ điều trị sau: - Quá trình điều trị: khi thấy lợn có biểu hiện bị viêm tử cung chúng ta bắt đầu điều trị bằng cách thụt rửa âm đạo bằng dung dịch nước muối và kết hợp tiêm thuốc kháng sinh. - Sử dụng kháng sinh Pendistrep L.A hoặc tiêm CP-CIN 20, Oxytocin. - Liệu trình điều trị từ 3 đến 5 ngày. * Điều trị viêm vú bằng phác đồ điều trị sau: - Cục bộ: Tiêm Oxytocin một liều cho lợn nái để kích thích việc tiết sữa.
  38. 32 Chườm lên đầu vú lợn nước ấm sau đó dùng tay mát xa nhẹ 2 hàng vú để giảm sưng và làm vú mềm. Các vú bị viêm cần được lặn 4-5 lần trong một ngày để hạn chế việc lây lan bệnh viêm vú. - Toàn thân: Tiêm kháng sinh Forloxin, 1ml/15 kg thể trọng, Ceptifi suspen: 1ml/15kg trọng lượng, Amoxgen 1ml/15kg trọng lượng trong suốt 2 -3 ngày. Bên cạnh đó sử dụng thêm các thuốc kháng sinh với liều lượng như sau: tolfen 1ml/20kg trọng lượng, Ketovet 1ml/16kg trọng lượng. * Xử lý hiện tượng đẻ khó như sau: - Những trường hợp đã vượt quá thời gian rặn đẻ cho phép, cần phải tiêm Oxytocin 2 ml/con. Trường hợp không có kết quả, cần thiết phải can thiệp bằng cách: Rửa tay bằng nước sát trùng tỷ lệ 1/3200 rồi bôi trơn tay thao tác, từ từ đưa tay đã bôi trơn bằng valueline vào tử cung theo cơn rặn của lợn mẹ để kiểm tra thai, thường là sờ thấy thai quá to, nằm ngay ở khung xương chậu. Khi sờ được đầu thai ta dùng ngón trỏ và ngón giữa kẹp hai bên tai của thai, các ngón còn lại tạo thành một vòng kín qua đầu thai rồi từ từ kéo thai ra ngoài theo cơn rặn của lợn mẹ. Trường hợp sờ thấy phần sau của thai thì ta dùng ngón trỏ và ngón giữa kẹp chặt vào khớp chân sau của lợn con rồi kéo thai ra ngoài theo cơn rặn của lợn mẹ. Nếu vẫn không có kết quả thì phải phẫu thuật để kéo thai ra. Sau khi can thiệp phẫu thuật phải thụt rửa âm đạo, sát trùng vết mổ và dùng kháng sinh Pendistrep L.A liều 1ml/10kg TT kéo dài 48h chống viêm nhiễm tử cung, âm đạo. + Tiêm vitamin ADE-B. Complex liều 1ml/25-30kg TT để trợ sức cho lợn. * Điều trị bệnh bại liệt sau đẻ bằng phác đồ điều trị sau: - Mô tả quá trình điều trị: Điều trị kết hợp giữa dùng thuốc với chế độ ăn uống, vận động, xoa bóp. - Loài thuốc: Với bệnh bại liệt sau sinh trại dùng Mg - calcium với liều 60 ml/con, tiêm bắp. - Liệu trình điều trị: Điều trị trong 2 - 3 ngày kết hợp với kiểm tra thức ăn, hỗ trợ con vật trở mình thường xuyên và vệ sinh sạch sẽ nền chuồng để tránh chỗ nằm lâu
  39. 33 bị thối loét. * Điều trị bệnh sót nhau bằng phác đồ điều trị sau: - Thụt rửa tử cung bằng dung dịch thuốc tím 0,1% hoặc nước muối sinh lý 0,9% để rửa tử cung 3 đến 5 ngày liên tục. - Liệu trình điều trị: + Oxytocine liều 10-20UI (5ml)/con, tiêm bắp 1 lần, hoặc CPCine (2ml/con/lần). + Ampicilline: 7-10ml/1kg thể trọng, tiêm 3 lần, mỗi lần cách nhau 24h. + Amoxciject-LA:1ml/10kg thể trọng, tiêm 3 lần, mỗi lần cách nhau 48h. + Pendistrep- LA: 1ml/20kg thể trọng, tiêm 3 lần, mỗi lần cách nhau 48h. * Điều trị bệnh phân trắng lợn con bằng phác đồ điều trị sau: - Mô tả quá trình điều trị: Tiêm kháng sinh kết hợp với đường, điện giải, chống mất nước, tăng cường sức đề kháng cho lợn con - Loài thuốc: Amcoli, Amlistin, Paxxel, Nor 100. - Liệu trình điều trị: Tiêm 0,5 ml tiêm bắp. * Điều trị bệnh viêm khớp lợn con bằng phác đồ điều trị sau: - Mô tả quá trình điều trị: Kết hợp để điều trị viêm, giảm đau, giảm sốt. Bổ sung thêm Vitamin ADE để trợ lực và tăng sức đề kháng. - Loài thuốc: Pendistrep L.A, Amcoli. - Liệu trình điều trị: 1ml tiêm liên tục đến khi khỏi bệnh. * Điều trị bệnh viêm phổi bằng phác đồ điều trị sau: - Mô tả quá trình: Dùng thuốc trợ sức, trợ lực và nâng cao sức đề kháng cho lợn: Vitamin B1, Vitamin C và thuốc trợ tim. - Loài thuốc: Tylogenta,Gentatylo. - Liệu trình điều trị: Tiêm liều 0,5-1ml tiêm bắp cách ngày. 3.4.3. Phương pháp xử lý số liệu Số liệu thu được trong quá trình thực hiện đề tài được xử lý bằng phần mềm Microsoft Excel trên máy tính.
  40. 34 Phần 4 KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 4.1. Cơ cấu đàn lợn của trang trại Việt Anh qua 2 năm (2017 - 5/2018) Quá trình thực tập tốt nghiệp tại trại và thông qua sổ sách em đã thống kê được cơ cấu đàn lợn và số lượng lợn như được trình bày ở bảng 4.1. Bảng 4.1. Quy mô và cơ cấu đàn lợn của trại Việt Anh qua 2 năm (2017 - 5/2018) Số lượng (con) STT Chỉ tiêu 2017 5/2018 1 Lợn đực giống 10 13 2 Lợn nái sinh sản 575 617 3 Lợn hậu bị 120 150 4 Lợn con 14.400 14.755 (Nguồn: Cán bộ kỹ thuật trại) Qua bảng 4.1 cho thấy, trang trại chỉ sản xuất lợn con, do đó cơ cấu đàn lợn của trại chủ yếu là lợn nái và lợn con theo mẹ. Số lượng lợn nái có xu hướng tăng lên. Trại đặc biệt chú trọng đến lợn nái hậu bị để thay thế cho các lợn nái sinh sản không đủ tiêu chuẩn như: nái già, đẻ quá nhiều lứa, nái sảy thai nhiều lần, nái bị bệnh Tất cả mọi lợn nái được theo dõi một cách tỉ mỉ, các số liệu liên quan của lợn nái như số tai, ngày phối giống, ngày đẻ dự kiến, được ghi trên thẻ gắn trên mỗi ô tại chuồng nuôi. Số lợn đực giống cũng tăng để loại thải những con đực giống đã kém chất lượng. Năm 2017 đến 5/2018 số lợn nái sinh sản tăng nhẹ do trại mở rộng quy mô tăng thêm số lượng. Lợn con theo mẹ được cai sữa lúc 21 - 25 ngày tuổi, đến 30 ngày tuổi được bán ra ngoài thị trường. Để đạt được những kết quả như trên ngoài việc áp dụng khoa học kĩ thuật, đầu tư trang thiết bị cơ sở vật chất , trang trại đã tuân thủ nghiêm ngặt các yêu cầu vệ sinh thú y, với phương châm “ phòng dịch hơn dập dịch”, đồng thời thực hiện
  41. 35 quá trình chu chuyển đàn một cách hợp lý nên số lượng và cơ cấu đàn lợn luôn được ổn định và phát triển qua các năm. Điều này cho thấy trình độ quản lý trại và thực hiện quá trình sản xuất kinh doanh của chủ trang trại là khá tốt. 4.2. Kết quả thực hiện quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng lợn nái sinh sản và lợn con theo mẹ 4.2.1. Số lượng lợn nái và lợn con trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng Trong quá trình thực tập tại trại, tôi được phân công trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng 336 lợn nái. Kết quả quá trình chăm sóc, nuôi dưỡng lợn nái sinh sản được trình bày ở bảng 4.2. Bảng 4.2. Số lượng lợn nái, lợn con trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng tại trại qua 6 tháng thực tập Lợn con Lợn con Tháng Nái chửa Nái nuôi con đẻ ra cai sữa 6 56 56 700 645 7 56 55 711 656 8 56 56 742 600 9 56 55 684 610 10 56 56 715 647 11 56 56 734 658 Tổng 336 335 4.251 3.816 Qua bảng 4.2 cho thấy số lợn nái chửa, lợn nái nuôi con, lợn con đẻ ra và lợn con cai sữa tôi trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng trong 6 tháng lần lượt là 336 con, 335 con, 4.251 con và 3.816 con. Số lượng lợn nái chửa mỗi tháng tôi chăm sóc trung bình là 56 con, đây là những lợn nái chửa ở giai đoạn cuối 100 – 114 ngày, đã được chuyển lên chuồng nái đẻ để chờ đẻ và tập làm quen với chuồng đẻ. Khi lợn chuyển lên chuồng đẻ thì thẻ nái được gắn vào mỗi bảng cám đầu ô chuồng, ghi ngày đẻ dự kiến, ghi bảng cám để tiện cho ăn và chuẩn bị đỡ đẻ. Khi chăm sóc lợn nái bầu giai đoạn 2 tuần trước khi đẻ phải chú ý về khẩu phần ăn của từng con lợn, khi tra cám lợn phải nhìn vào bảng cám của từng con, nếu
  42. 36 cho ăn quá nhiều hoặc quá ít đều ảnh hưởng tới bào thai. Khi thực hiện tra cám, qua theo dõi 1 số con lợn nái được ăn nhiều hơn theo tiêu chuẩn thì tôi thấy lợn nái dễ béo, lợn con đẻ ra nặng hơn khối lượng trung bình, lợn mẹ thường khó đẻ. Đặc biệt phải chú ý đến khẩu phần ăn của những con lợn hậu bị mới lên đẻ 1 - 2 lứa. Khi cho ăn nên cho ăn buổi sáng lúc 6 giờ ngay sau khi vào chuồng và buổi chiều lúc 4 giờ. Buổi sáng nên cho ăn sớm vì con lợn mẹ đã không được ăn suốt một đêm dài nên rất đói, buổi chiều nên cho ăn lúc 4 giờ vì khi này thời tiết đã hạ nhiệt độ lợn mẹ thu nhận được nhiều thức ăn hơn. Khẩu phần ăn được chia làm 3 bữa với lợn nái đẻ vì sau khi đẻ lợn mệt mỏi, nên cho ăn nhiều bữa để tăng thu nhận thức ăn, cho ăn nhiều vào bữa sáng và chiều, bữa tối lúc 9 giờ cho ăn ít hơn. Thường xuyên xịt cọ sàn chuồng sạch sẽ, khi lợn đẻ sẽ tránh nhiễm trùng cho lợn con và tránh được vi khuẩn xâm nhập vào tử cung gây viêm. Lợn nái trước khi sinh thường có những biểu hiện sau: Trước khi sinh 3 ngày bầu vú căng, có tiết vài giọt sữa. Đối với nái tơ thường sinh sau 2 – 3 giờ tiết sữa. Ngoài ra nái còn tăng nhịp thở, thải phân lắt nhắt. Sau khi sinh được vài con nếu nhận thấy nái khó đẻ có thể dùng oxytocin 2 ml/nái. Khi lợn sắp đẻ thì chuẩn bị đỡ đẻ gồm các công việc tôi trực tiếp làm là: chuẩn bị lồng úm cho lợn con, lồng úm phải được nhúng nước sát trùng, phơi khô. Chuẩn bị đỡ đẻ: với lợn chuẩn bị đẻ cần vệ sinh âm hộ và mông cho sạch sẽ, vệ sinh sàn chuồng, chuẩn bị bóng điện úm cho lợn con, chuẩn bị dụng cụ đỡ đẻ như vải màn hoặc vải mềm khô, sạch, cồn iod để sát trùng, kéo để cắt dây rốn, chỉ để buộc. Hàng ngày tôi tham gia vào vệ sinh chuồng trại, sát trùng chuồng nuôi, tôi thấy sát trùng thường xuyên chuồng nuôi rất tốt cho lợn mẹ và lợn con, tạo được môi trường ít vi khuẩn, lợn mẹ và lợn con ít bị bệnh. Cách một ngày phải rắc vôi ở đường tra cám và đường lấy phân để tiêu diệt mầm bệnh, vi khuẩn. Khi lau máng ăn của lợn mẹ phải chú ý vét hết cám thừa, lau thật sạch để tránh cám thừa còn trên máng bị thiu, mốc, con mẹ ăn phải sẽ ảnh hưởng sức khỏe, nếu lợn bầu ăn phải thức ăn mốc, ôi thiu dễ bị sảy thai. Phải xịt gầm hàng ngày để tránh mùi hôi bốc lên và giữ chuồng trại sạch sẽ hơn, khi xịt gầm cần chú ý không để nước bắn lên trên, làm ẩm ướt chuồng nuôi, không nên xịt gầm quá sớm vào mùa đông, nên xịt gầm sau 9 giờ để tránh lợn con bị lạnh sẽ dễ mắc bệnh hô hấp, tiêu chảy.
  43. 37 4.2.2. Tình hình sản xuất của đàn lợn nái nuôi tại trại Để đánh giá về quá trình sinh đẻ của đàn lợn nái nuôi tại cơ sở, chúng tôi đã thu thập số liệu thông tin của đàn lợn nái sinh sản tại trại. Kết quả trình bày tại bảng 4.3. Bảng 4.3. Tình hình sinh đẻ của đàn lợn nái nuôi tại trại Tỷ lệ lợn nái Tỷ lệ lợn Số lợn nái đẻ Số lợn nái đẻ Số lợn nái đẻ đẻ bình nái đẻ phải Tháng bình thường khó phải can (con) thường can thiệp (con) thiệp (con) (%) (%) 6 56 56 100 0 0 7 56 52 92,86 4 7,14 8 56 55 98,21 1 1,78 9 56 54 96,41 2 3,57 10 56 53 94,64 3 5,36 11 56 55 98,21 1 1,78 Tổng 336 325 96,73 11 3,27 Qua bảng 4.3 cho thấy trong 336 lợn nái chửa chuyển đến chuồng đẻ có 325 con đẻ bình thường, đạt tỷ lệ đẻ bình thường là 96,73%. Số lợn nái đẻ khó phải can thiệp là 11 con, chiếm 3,27%. Trong số các tháng theo dõi thì tháng 7 có số lợn nái đẻ khó phải can thiệp nhiều nhất là 4 con, tiếp đến là tháng 10 có 3 con và tháng 6 không có lợn nái nào đẻ khó. Lợn nái đẻ khó phải can thiệp là do lợn đẻ ở những lứa đầu, do lợn ăn nhiều vào giai đoạn cuối của thai kì làm thai quá to, do ngôi thai không thuận, do lợn mẹ ít được vận động và do sức khỏe của con mẹ không tốt. Số lợn nái đẻ phải can thiệp với tỉ lệ thấp là do trong quá trình chăm sóc đã thực hiện đúng quy trình về thức ăn cho lợn nái mang thai.
  44. 38 Trong đỡ đẻ tôi rút được kinh nghiệm là cần chuẩn bị tốt ô úm, vệ sinh vùng mông và âm hộ con nái trước khi đẻ. Khi lợn đẻ phải chú ý từng con một để nhận biết con nào đẻ khó, con nào đẻ dễ, chú ý thời gian đẻ của mỗi con để biết nhanh hay chậm. Nếu con mẹ đẻ khó cần can thiệp sớm bằng cách dùng oxytocin để kích thích co bóp cơ trơn tử cung, xoa bầu vú. Nếu thai quá to, con mẹ rặn đẻ không được phải nhanh chóng can thiệp đưa con con ra ngoài để tránh ngạt, làm chết những con còn lại trong tử cung. Khi can thiệp phải chú ý sát trùng tay vệ sinh vùng mông, âm hộ, phải tiến hành nhẹ nhàng tránh gây đứt nhau, xây sát niêm mạc tử cung con nái. Những người trực tiếp đỡ đẻ và can thiệp đẻ khó phải cắt móng tay, nếu để móng tay dài có thể làm tổn thương lợn con mới sinh, khi can thiệp đẻ khó có thể làm xây sát niêm mạc tử cung lợn nái. Phải theo dõi ngày phối giống và ngày đẻ dự kiến để chuẩn bị kế hoạch đỡ đẻ. 4.3. Kết quả thực hiện các biện pháp phòng và trị bệnh cho đàn lợn nái sinh sản trại lợn Việt Anh 4.3.1. Kết quả thực hiện biện pháp vệ sinh phòng bệnh trên đàn lợn nái tại trại Việc vệ sinh sát trùng chuồng trại có vai trò rất quan trọng trong chăn nuôi. Vệ sinh bao gồm nhiều yếu tố: vệ sinh môi trường xung quanh, vệ sinh đất, nước, vệ sinh chuồng trại . Định kỳ tiến hành phun thuốc sát trùng, quét vôi, phun thuốc diệt muỗi, quét mạng nhện trong chuồng và rắc vôi bột ở cửa ra vào chuồng, đường đi nhằm đảm bảo vệ sinh. Do nhận thức rõ được điều này, nên trong suốt thời gian thực tập, tôi đã thực hiện tốt các công việc như: + Hàng ngày, trước khi vào chuồng làm việc công nhân cũng như sinh viên chúng tôi tất cả đều phải đi qua phòng sát trùng và tắm sạch sẽ, mặc quần áo lao động, đi ủng rồi mới vào chuồng. + Việc đầu tiên vào chuồng là cào phân tránh lợn nằm đè lên phân. + Bắt nhốt lợn con vào ô úm rồi lau sàn nhựa. + Rắc vôi lối đi giữa, xung quanh chuồng và dưới gầm chuồng. + Thu phân vào bao và quét dọn sạch sẽ chuồng. Chuồng nuôi luôn được vệ sinh sạch sẽ và được tiêu độc bằng thuốc sát trùng 2 lần trên ngày. Sau đây là kết quả thực hiện vệ sinh, sát trùng trong 6 tháng thực
  45. 39 tập tại trại Bảng 4.4. Kết quả công tác vệ sinh sát trùng chuồng trại Số lượng Kết Tỷ lệ STT Công việc (lần) quả (%) 1 Vệ sinh chuồng trại hàng ngày 180 180 100 Phun sát trùng định kỳ xung quanh 2 110 110 100 chuồng trại 3 Quét và rắc vôi đường đi 155 155 100 Kết quả bảng 4.4 cho thấy các công việc vệ sinh sát trùng chuồng trại hàng ngày tôi đều hoàn thành và hoàn thành 100% công việc được giao với chất lượng tốt nhất. Cụ thể là hàng ngày theo sự phân công của kỹ sư tôi đã tham gia vào vệ sinh phòng bệnh theo lịch sát trùng của trại như: phun sát trùng chuồng đẻ, rắc vôi đường đi, đường lấy phân, đường tra cám, xả vôi gầm và quét dọn vệ sinh toàn chuồng. Chủ nhật hàng tuần sau khi đã làm xong các công việc trong chuồng, tôi cùng mọi người tiến hành tổng vệ sinh bên trong và bên ngoài chuồng, dọn dẹp nhà tắm sát trùng và khu vực ăn uống, nghỉ trưa của công nhân. 4.3.2. Kết quả chẩn đoán và điều trị bệnh cho đàn lợn nái sinh sản nuôi tại trại 4.3.2.1. Tình hình mắc bệnh trên đàn lợn nái của trại Trong thời gian 6 tháng thực tập tại trại chúng tôi đã được tham gia vào công tác chẩn đoán và điều trị bệnh cho đàn lợn nái cùng với các anh kỹ sư của trại. Qua đó chúng tôi đã được trau dồi thêm kiến thức, kinh nghiệm về chẩn đoán một số bệnh thường gặp, nguyên nhân gây ra bệnh và cách khắc phục, điều trị bệnh. Sau đây là kết quả của công tác theo dõi tình hình mắc bệnh trên đàn lợn nái tại trại.
  46. 40 Bảng 4.5. Kết quả theo dõi tình hình mắc bệnh trên đàn lợn nái của trại Số nái Số nái Chỉ tiêu theo dõi Tỷ lệ theo dõi mắc bệnh Tên bệnh (%) (con) (con) Bại liệt sau sinh 336 2 0,59 Đẻ khó 336 11 3,27 Viêm tử cung 336 17 5,1 Sát nhau 336 8 2,38 Viêm vú 336 4 1,19 Tính chung 336 39 11,61 Kết quả bảng 4.5 cho thấy trong số các bệnh sinh sản của lợn nái thì bệnh viêm tử cung có số lợn nái mắc cao nhất (17 con), chiếm tỷ lệ mắc là 5,10%, tiếp đến là đẻ khó có 11 con phải can thiệp, chiếm tỷ lệ 3,27%, rồi đến sát nhau có 8 con mắc bệnh, chiếm tỷ lệ là 2,38%. Bệnh viêm vú và bại liệt sau sinh có số lợn nái mắc lần lượt là 4 và 2 con. Tính chung lợn nái tại trại mắc các bệnh sinh sản là 42 con, chiếm tỷ lệ là 12,5%. Tỷ lệ lợn nái mắc bệnh viêm tử cung cao chiếm 5,1% , do đàn lợn nái ở đây thuộc các dòng nái giống ngoại có năng suất sinh sản cao, nhưng lại chưa thích nghi được hoàn toàn với điều kiện của nước ta, bên cạnh đó quá trình nuôi dưỡng, chăm sóc chưa tốt kết hợp với khí hậu không thuận lợi. Mặt khác, do trong quá trình phối giống và quá trình can thiệp khi lợn đẻ khó phải sử dụng thủ thuật để móc lấy thai không đúng kỹ thuật đã làm sây sát niêm mạc tử cung, tạo điều kiện cho vi khuẩn xâm nhập phát triển và gây bệnh. Tỷ lệ mắc bệnh đẻ khó chiếm 3,27% do lợn nái ít được vận động, ngôi thai không thuận, thai quá to, sức khỏe lợn mẹ yếu. Tỷ lệ mắc bệnh sát nhau là 2,38%, nguyên nhân gây nên bệnh này có thể do kế phát từ các ca lợn nái mắc bệnh viêm tử cung ở thể nặng, do cho ăn quá nhiều ở giai đoạn chửa kỳ 2 làm thai to, khó đẻ, do các thao tác đỡ đẻ không đúng làm đứt nhau, sát nhau. Tỷ lệ mắc bệnh viêm vú là 1,19%, do kế phát từ bệnh
  47. 41 viêm tử cung, do nền chuồng bẩn, vú bị tổn thương Tỷ lệ mắc bệnh bại liệt sau sinh là 0,59% do trong quá trình chăm sóc, nuôi dưỡng chưa cung cấp đầy đủ các chất khoáng như: canxi, photpho 4.3.2.2. Kết quả điều trị bệnh trên đàn lợn nái sinh sản tại trại Điều trị bệnh cho lợn mắc bệnh cần phải tiến hành sớm ngay sau khi phát hiện ra lợn bị bệnh, đồng thời phải lựa chọn phác đồ điệu trị tốt nhất, kháng sinh đặc hiệu nhất thì hiệu quả điều trị mới cao và giảm đến mức thấp nhất thiệt hại về kinh tế do lợn ốm và chết. Từ kết quả chẩn đoán như trình bày ở bảng 4.5, chúng tôi tiến hành điều trị bằng các phác đồ điều trị đặc hiệu cho từng loại bệnh. Kết quả điều trị bệnh sinh sản cho lợn nái được trình bày ở bảng 4.6. Bảng 4.6. Kết quả trực tiếp điều trị bệnh trên đàn nái sinh sản tại trại Chỉ Kết quả tiêu Thời gian Số Thuốc Đường dùng Số con Liều lượng con Tỷ lệ điều trị tiêm thuốc điều trị khỏi (%) Tên (ngày) (con) (con) bệnh Oxytocin 2ml/con Viêm Tiêm Amoxinject 3 17 14 82,35 tử cung 24ml/con/ngày bắp LA Oxytocin 2ml/con Sát Tiêm Amoxinject 3 8 6 75 nhau 24ml/con/ngày bắp LA Viêm Amoxinject Tiêm 24ml/con/ngày 3 4 2 50 vú LA bắp Bệnh Mg - Tiêm 60 ml/con 2 – 3 2 1 50 bại liệt Calcium bắp Tiêm Đẻ khó oxytocin 1,7 - 1,8 ml 1 11 8 72,72 bắp
  48. 42 Qua bảng 4.6 cho thấy: trong 17 con mắc bệnh viêm tử cung chúng tôi đã tham gia điều trị khỏi 14 con đạt 82,35%. Bên cạnh đó có 2 con mắc bệnh bại liệt sau sinh chúng tôi đã tham gia điều trị khỏi 1 con đạt tỷ lệ điều trị là 50% do khi lợn đã mắc bệnh khả năng phục hồi cơ xương rất khó nên khả năng đi lại, vận động kém hoặc mất khả năng vận động dẫn đến bị hoại tử phần tiếp xúc với nền sàn chuồng, nếu để lâu lợn mẹ gầy yếu dẫn đến chết. Có 8 con mắc bệnh sát nhau tôi đã điều trị khỏi 6 con đạt tỷ lệ 75%. Đẻ khó có 11 con mắc tôi đã điều trị khỏi 8 con, tỷ lệ khỏi đạt 72,72% do có 1 con phải mổ vì phát hiện muộn, thai quá to, ngôi thai không thuận, lợn nái không được vận động làm cho thai to khó đẻ, sức khỏe lợn mẹ yếu và 4 con mắc bệnh viêm vú tôi đã điều trị khỏi 2 con đạt tỷ lệ 50% do việc chẩn đoán bệnh thường khó khăn hơn, khi chúng ta phát hiện ra bệnh thì bệnh đã ở thể viêm nặng và điều trị khó khăn hơn. Đối với bệnh sát nhau, viêm tử cung sau đẻ trại dùng oxytocin liều 2 ml/con để tăng cường co bóp cơ trơn tử cung, giúp đẩy nhau thai, sản dịch ra ngoài nhanh hơn. Kết hợp dùng kháng sinh để điều trị và phòng viêm nhiễm tái phát bằng Amoxinject LA với liều lượng là 24 ml/con/ngày. Điều trị trong 3 ngày. Sau khi nhau thai, dịch tử cung ra hết em dùng nước muối sinh lý 0,9 % để rửa tử cung trong ba ngày liên tục. Bệnh viêm vú trại em dùng amoxinject LA liều 24ml /con/ngày điều trị trong 3 ngày kết hợp vệ sinh sạch sẽ sàn chuồng và vệ sinh sát trùng vùng vú bị viêm. Với bệnh bại liệt sau sinh trại dùng Mg - calcium với liều 60 ml/con, tiêm bắp, điều trị trong 2 - 3 ngày kết hợp với kiểm tra thức ăn, hỗ trợ con vật trở mình thường xuyên và vệ sinh sạch sẽ nền chuồng để tránh chỗ nằm lâu bị thối loét. Những con nái sau quá trình điều trị nhưng không có kết quả tốt trại em thường loại thải theo lịch loại thải của công ty, những con chết trại xử lý nhiệt và tận dụng làm nguồn thức ăn cho cá trê lai. Đảm bảo không gây ô nhiễm môi trường. 4.4. Thực hiện chăm sóc nuôi dưỡng lợn con Trong thời gian thực tập tại trại, tôi vừa tham gia chăm sóc, nuôi dưỡng đàn
  49. 43 lợn nái vừa được học và làm một số các thao tác trên lợn con như đỡ lợn đẻ, mài nanh, bấm số tai, thiến lợn đực và mổ hecni. * Đỡ đẻ lợn con: Kĩ thuật đỡ đẻ cho lợn con được tôi thực hiện như sau - Sau khi lợn mẹ đẻ, lấy lợn con từ trong chuồng ra. - Vuốt hết dịch vùng đầu và mặt. Vỗ nhẹ vào thân để kích thích hô hấp. - Vuốt hết màng bọc và nhớt ở phần thân và chân lợn. - Cầm lợn con và dây buộc rốn, thắt dây rốn ở vị trí cách cuống rốn 2,5 cm, dùng kéo cắt phần bên ngoài nút thắt một đoạn bằng 1/2 bên trong nút buộc khoảng 1,5cm. Sát trùng dây rốn, vùng cuống rốn bằng cồn iod. - Cho lợn con vào lồng úm tº = 33 - 35ºC - Trước khi cho lợn con ra bú cần lau sạch vú lợn mẹ, lót thảm cho lợn con ra bú. - Phải trực liên tục cho đến khi lợn nái đẻ xong hoàn toàn, nhau ra hết, lợn nái trở về trạng thái yên tĩnh và cho con bú. * Thao tác bấm số tai, mài nanh, cắt đuôi và tiêm chế phẩm Fe - B12 cho lợn con: Lợn con sau khi bú mẹ sức khỏe tốt hơn, cứng cáp hơn sẽ được tiến hành bấm nanh, bấm số tai, cắt đuôi, tiêm kháng sinh. * Thiến lợn đực: Đối với lợn đực nuôi thịt cần thiến càng sớm càng tốt. Thông thường trong chăn nuôi lợn nái sinh sản thường thiến lợn vào 7 - 10 ngày tuổi. Nhưng thực tế trại thực hiện thiến lợn đực vào ngày thứ 3 sau sinh. Trước khi thiến lợn đực cần chuẩn bị dụng cụ thiến đầy đủ gồm: Dao thiến, cồn sát trùng, panh kẹp, bông gòn, khăn vải sạch, xi - lanh tiêm và thuốc kháng sinh. Thao tác: Đầu tiên là tiêm cho lợn con 1 ml/con kháng sinh (amoxgen). Sau đó người thiến ngồi ghế cao và kẹp lợn con vào giữa 2 đùi sao cho đầu của lợn con hướng xuống dưới. Một tay nặn sao cho dịch hoàn nổi rõ, tay còn lại cầm dao rạch hai vết đứt vào chính giữa của mỗi bên dịch hoàn. Dùng 2 tay nặn dịch hoàn ra ngoài rồi lấy panh kẹp thừng dịch hoàn vào giật dịch hoàn ra, dùng khăn sạch lau vùng dịch hoàn, bôi cồn vào vị trí thiến.
  50. 44 * Mổ hecni - Chuẩn bị lợn: Cho nhịn ăn từ 6 - 12 giờ trước khi phẫu thuật - Chuẩn bị dụng cụ: 1 kim khâu, 1 kẹp cầm kim, chỉ, kéo, cồn sát trùng, thuốc kháng sinh, giá cố định. - Thực hiện: Cho lợn con vào giá để cố định chắc. Sau đó tiêm cho lợn con 1 ml/con kháng sinh (amoxygen). Vệ sinh sát trùng vị trí mổ hecni, dùng dao mổ rạch cạnh hecni, dùng tay nắn nhẹ những chất trong bao hecni trở vào xoang bụng. Dùng 2 ngón tay đặt vào lỗ hecni ngăn không cho ruột trở ra ngoài bao hecni. Dùng kim cong khâu qua da, xuyên bao hecni ngay phần cổ bao hecni sao cho không chạm vào ruột và cách mép ngoài lỗ hecni 0,5cm, cứ thế khâu vòng quanh cổ bao hecni. Sau khi khâu giáp mí kéo 2 đầu sợi chỉ siết chặt lại và buộc nút chết. Sau đó sát trùng vị trí mổ hecni. Bảng 4.7. Kết quả thực hiện các công việc trên đàn lợn con Kết quả (an toàn) Số lượng thực hiện STT Công việc Số lượng Tỷ lệ (con) (con) (%) 1 Đỡ đẻ lợn con 2863 2634 92,00 Mài nanh, bấm tai, bấm 2 2606 2606 100 đuôi 3 Thiến lợn đực 1503 1503 100 4 Mổ hecni 14 10 71,42 5 Tiêm sắt 2513 2513 100 Uống thuốc phòng cầu 6 2248 2248 100 trùng Trong quá trình chăm sóc nuôi dưỡng lợn con tôi đã đỡ đẻ 2.863 con kết quả an toàn là 92,00%. Công việc mài nanh, bấm số tai và cắt đuôi thực hiện được 2.606 con kết quả an toàn đạt 100%. Vì lợn con sau khi sinh ra phải mài nanh luôn nếu không sẽ làm tổn thương vú lợn mẹ khi bú, cũng như tránh việc lợn con cắn nhau,
  51. 45 bấm số tai sớm để vết thương mau lành, ít chảy máu và làm giảm stress cho lợn con. Lợn con 3 ngày tuổi được phòng thiếu máu bằng chế phẩm nova-Fe+B12 trong đó số con tiêm là 2.513 con, tỷ lệ an toàn 100%, lợn 3 ngày tuổi cho uống cầu trùng bằng chế phẩn toltrazuril trong đó số con cho uống 2.248 con, tỷ lệ an toàn 100%. Công việc mổ hecni với số ca thực hiện ít, trong 6 tháng thực tập tôi có theo dõi và phát hiện được 14 lợn con bị hecni và tiến hành mổ thành công 10 con và đạt tỷ lệ 71,42%. Nguyên nhân dẫn đến lợn con bị hecni chủ yếu là do di truyền khi đẻ ra lợn con đã bị, một phần là do trong quá trình tao tác thiến lợn đực do không đúng kỹ thuật làm rách lỗ bẹn dẫn đến ruột theo lỗ bẹn thoát ra ngoài âm nang. Lợn con sau khi đẻ ra nếu nằm trong bọc thì cần xé bọc ngay để tránh lợn con bị ngạt, nếu lợn bị ngạt thì dùng tay vỗ nhẹ vào lưng lợn để kích thích hô hấp hoặc nâng 2 chân trước và 2 chân sau con lợn lại, gập bụng để kích thích hô hấp. Lợn con sau khi đẻ, rắc bột mistral để lợn nhanh khô, giữ ấm và tăng cường sức đề kháng. Lợn con sau khi khô thì cho ra bú mẹ càng sớm càng tốt, con nhỏ, yếu cho bú ở những vú đầu, những con to khỏe hơn cho bú ở những vú sau. Nếu lợn mẹ không cho lợn con bú, cắn con thì cố định lợn mẹ để cho lợn con bú sữa. Lợn con được 5 ngày tuổi, tiến hành lắp máng tập ăn và cho lợn con tập ăn. Vì lợn con mới sinh nên sức đề kháng yếu với điều kiện môi trường nên cần chú ý thắp bóng sưởi để giữ ấm, tránh các bệnh về hô hấp và phòng ngừa tiêu chảy ở lợn con. Khi thao tác trên lợn con tôi đã rút ra được một số kinh nghiệm như: Đỡ đẻ phải thao tác nhanh để không làm lợn con đau đớn, kêu la gây ảnh hưởng tới con nái đang đẻ, lợn con buộc dây rốn phải chắc vì một số trường hợp tôi buộc chưa chắc sau khi cắt dây rốn máu còn chảy thành tia, lợn con bị mất máu nhiều. Khi mài nanh, bấm số tai, thiến lợn đực phải tiến hành nhẹ nhàng vì lợn con còn rất nhỏ và yếu, nên tiến hành bấm nanh, bấm số tai ngay sau khi đẻ 1 ngày và thiến lợn đực sau đẻ 3 ngày vì nếu bấm nanh, bấm số tai và thiến quá muộn thì lợn con dễ mất máu nhiều, vết thương khó lành hơn và lợn con quá to gây khó khăn cho việc cố định. Lợn bị hecni có thể do di truyền hoặc do thực hiện thiến lợn có vết cắt quá
  52. 46 rộng, do không đảm bảo vệ sinh sát trùng, dễ gây viêm nhiễm tạo điều kiện thuận lợi cho sự sa ruột. Vì vậy khi thiến cần đảm bảo vệ sinh sát trùng, và không nên để vết cắt quá to, khi thao tác phải nhẹ nhàng, dứt khoát. Khi mổ hecni thì cần chú ý đảm bảo sát trùng theo đúng kỹ thuật, và tiêm kháng sinh phòng ngừa viêm nhiễm, sau khi mổ phải khâu vết mổ kín, buộc chặt chỉ, tránh để tuột chỉ thì ruột sẽ lòi ra ngoài. 4.5. Điều trị một số bệnh trên lợn con Phát hiện bệnh sớm và điều trị kịp thời là yếu tố quan trọng giúp lợn bệnh hồi phục nhanh, giảm tỷ lệ lợn chết, giảm thiệt hại về kinh tế và tăng hiệu quả chăn nuôi. Do vậy, hàng ngày quan sát đàn lợn nái sinh sản và lợn con theo mẹ để phát hiện lợn mắc bệnh là công việc không bao giờ được lơ là và làm với tinh thần trách nhiệm cao. Từ kết quả chẩn đoán lợn con mắc bệnh phân trắng lợn con, bệnh viêm phổi và bệnh viêm khớp, chúng tôi tiến hành điều trị các bệnh này bằng các phác đồ điều trị hiệu quả. Kết quả điều trị các bệnh của lợn con được trình bày ở bảng 4.8. Bảng 4.8. Kết quả điều trị bệnh trên lợn con Kết quả (khỏi) STT Nội dung công việc Số lượng (con) Tỷ lệ Số lượng (con) (%) 1 Bệnh phân trắng 663 610 92,00 2 Bệnh viêm phổi 24 23 95,83 3 Bệnh viêm khớp 32 27 84,37 Kết quả bảng 4.8 cho thấy số lợn con điều trị bệnh lợn con phân trắng là 663 con, khỏi 610 con, đạt tỷ lệ khỏi bệnh là 92%. Điều trị bệnh viêm phổi 24 con, khỏi bệnh 23 con, đạt tỷ lệ khỏi bệnh là 95,83%. Khi điều trị bệnh viêm khớp cho 32 lợn bệnh, khỏi 27 con, đạt tỷ lệ khỏi bệnh là 84,37%. Kết quả trên cho thấy các phác đồ điều trị các bệnh của lợn con được sử dụng trong khóa luận này là có hiệu quả rất cao. Vì thế có thể khuyến cáo người chăn nuôi sử dụng các phác đồ điều trị này để
  53. 47 điều trị cho lợn con khi bị mắc bệnh trong quá trình chăn nuôi. 4.6. Kết quả thực hiện công việc khác Ngoài những công việc kỹ thuật trong 6 tháng thực tập tại trại, tôi còn được tham gia một số công tác khác như: cho lợn ăn, tắm chải lợn mẹ, xuất lợn con. Bảng 4.9. Kết quả thực hiện công việc khác Số lượng Tỷ lệ STT Công việc Thực hiện được (số lần) (số lần) (%) 1 Cho lợn ăn hàng ngày 552 314 56,88 2 Tắm chải cho lợn mẹ 236 210 88,98 3 Xuất lợn con 24 10 41,66 Kết quả bảng 4.9 cho thấy tôi đã thực hiện được 314 lần cho lợn ăn, đạt tỷ lệ 56,88%; tắm chải cho lợn mẹ được 210 lần, đạt 88,98% và xuất lợn con được 10 lần, đạt 41,66%. Tỷ lệ các công việc trên không đạt 100% là do tôi còn tham gia các công việc khác và người khác thực hiện các công việc này. Như chúng ta đã biết quá trình chăm sóc, nuôi dưỡng ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe và khả năng sinh sản của lợn nái. Chính vì vậy, cần phải cho lợn nái và lợn con ăn đúng bữa và đủ lượng thức ăn dinh dưỡng theo quy định. Lợn nái đẻ và nuôi con được cho ăn 3 lần/ngày (bữa sáng, chiều và tối), lợn nái chửa ăn 1 lần/ngày vào buổi sáng. Việc tắm, chải cho lợn nái sinh sản cũng vô cùng quan trọng và được thực hiện thường xuyên (1 lần/ ngày). Phần 5 KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 5.1. Kết luận - Năm 2018 trại lợn Việt Anh có 13 lợn đực giống, 617 lợn nái sinh sản, 150 lợn cái hậu bị và 14.755 lợn con. - Đã trực tiếp chăm sóc và nuôi dưỡng 336 lợn nái đẻ, 4.251 lợn con đẻ ra và 3.816 lợn con cai sữa. - Lợn nái của trang trại đẻ rất tốt có tỷ lệ đẻ bình thường đạt 96,73% và chỉ
  54. 48 có 3,27% lợn nái đẻ khó phải có sự can thiệp. - Lợn nái của trang trại mắc các bệnh sinh sản như viêm tử cung, sát nhau, viêm vú, bại liệt sau đẻ và đẻ khó với tỷ lệ mắc bệnh chung là 11,61%. - Kết quả điều trị các bệnh sinh sản của lợn nái đạt từ 50 – 82,35%. - Kết quả chăm sóc lợn con sơ sinh như đỡ đẻ, cắt rốn, mài nanh, cắt đuôi, săm tai, tiêm sắt, cho uống thuốc phòng bệnh cầu trùng và thiến lợn đực đạt an toàn từ 71,12 – 100%. - Lợn con theo mẹ mắc 3 bệnh là phân trắng lợn con, viêm phổi và viêm khớp đã được điều trị kịp thời và tỷ lệ khỏi bệnh đạt từ 84,37 – 95,83%. 5.2. Đề nghị - Trại cần thực hiện tốt hơn công tác vệ sinh trong và ngoài chuồng nuôi, cần quản lý chặt chẽ hơn nữa người và xe ra vào trại. - Công tác vệ sinh chuồng bầu và vệ sinh dụng cụ, vệ sinh gia súc trước khi phối giống, vệ sinh máng ăn, máng uống, cần được thực hiện tốt để giảm tỉ lệ lợn mắc bệnh. - Tăng cường công tác quản lý lợn con để hạn chế thấp nhất tình trạng lợn con chết do bị đè và rơi xuống gầm. - Hướng dẫn cho công nhân chi tiết về các kỹ thuật cơ bản trong chăn nuôi, nhất là có công nhân mới. - Thực hiện tốt hơn công tác mổ hecnia cho lợn con. Lợn cai sữa cần được chăm sóc tốt hơn để giảm tỷ lệ mắc các bệnh. - Cần chú ý tới việc sử dụng nước trong chuồng để chuồng luôn khô ráo, làm giảm tỷ lệ lợn con theo mẹ mắc bệnh tiêu chảy.
  55. TÀI LIỆU THAM KHẢO I. Tài liệu tiếng Việt 1. Trần Ngọc Bích, Nguyễn Thị Cẩm Loan, Nguyễn Phúc Khánh (2016), “Khảo sát tình hình viêm nhiễm đường sinh dục lợn nái sau khi sinh và hiệu quả điều trị của một số loại kháng sinh”, Tạp chí Khoa học kỹ thuật Thú y, 23(5), tr. 51 – 56. 2. Bilken (1994), Quản lý lợn nái và lợn cái hậu bị để sinh sản có hiệu quả, Nxb Nông Nghiệp Hà Nội. 3. Nguyễn Xuân Bình (2000), Phòng trị bệnh heo nái - heo con - heo thịt, Nxb Nông nghiệp - Hà Nội, tr.29 - 35. 4. Nguyễn Xuân Bình (2005), Trị bệnh heo nái, heo con, heo thịt, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, tr. 29 - 35. 5. Trần Thị Dân (2004), Sinh sản heo nái và sinh lý heo con, Nxb Nông nghiệp thành phố Hồ Chí Minh. 6. Đoàn Thị Kim Dung, Lê Thị Tài (2002), Phòng và trị bệnh lợn nái để sản xuất lợn thịt siêu nạc xuất khẩu, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 7. Đoàn Thị Kim Dung (2004), Sự biến động của một số vi khuẩn hiếu khí đường ruột, vai trò của E.coli trong hội chứng têu chảy của lợn con , các phác đồ điều trị, Luận án tiến sỹ Nông Nghiệp, Hà Nội. 8. Nguyễn Chí Dũng (2013), Nghiên cứu vai trò gây bệnh của vi khuẩn E.coli trong hội chứng tiêu chảy ở lợn con nuôi tại tỉnh Vĩnh Phúc và biện pháp phòng trị, Luận án thạc sỹ khoa học Nông nghiệp, 9. Trần Tiến Dũng, Dương Đình Long, Nguyễn Văn Thanh (2002), Sinh sản gia súc, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 10. Trần Tiến Dũng (2004), “Kết quả ứng dụng hormone sinh sản và điều trị hiện tượng chậm động dục lại sau khi đẻ ở lợn nái”, Tạp chí Khoa học kỹ thuật Nông nghiệp, 2 (1), tr. 66 - 69. 11. Đào Trọng Đạt, Phan Thanh Phượng, Lê Ngọc Mỹ (1995), Bệnh đường tiêu hóa
  56. ở lợn, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 12. Nguyễn Văn Điền (2015), Kinh nghiệm xử lý bệnh viêm tử cung ở lợn nái sinh sản, Trung tâm giống vật nuôi Phú Thọ. 13. Trần Đức Hạnh (2013), Nghiên cứu vai trò gây bệnh của Escherichia coli, Salmonella và Clostridium perfringens gây tiêu chảy ở lợn nái tại 3 tình phía Bắc và biện pháp phòng trị, Luận án tiến sỹ Nông nghiệp. 14. Lê Minh Hải (1998), Nghiên cứu ảnh hưởng của yếu tố chuồng trại trong chăn nuôi, Viện Khoa học kỹ thuật Nông Nghiệp miền Nam. 15. Nguyễn Bá Hiên, Huỳnh Thị Mỹ Lệ, Lê Văn Lãnh, Đỗ Ngọc Thúy (2012), Giáo trình Bệnh truyền nhiễm thú y, Nxb Đại học Nông nghiệp, Hà Nội. 16. Nguyễn Huy Hoàng (1996), Tự trị bệnh cho heo, Nxb Tổng hợp, Đồng Tháp. 17. Phạm Sỹ Lăng, Phan Địch Lân, Trương Văn Dung (2002), Bệnh phổ biến ở lợn và biện pháp phòng trị, tập II, Nxb Nông nghiệp, tr.44 - 52. 18. Nguyễn Quang Linh (2005), Giáo trình kỹ thuật Chăn nuôi Lợn, Nxb Nông nghiệp Hà Nội. 19. Nguyễn Đức Lưu, Nguyễn Hữu Vũ (2000), Thuốc thú y và cách sử dụng, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 20. Nguyễn Đức Lưu, Nguyễn Hữu Vũ (2004), Một số bệnh quan trọng ở lợn, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, tr.165 - 169. 21. Nguyễn Thị Hồng Minh (2014), Nghiên cứu biến đổi của một số chỉ tiêu lâm sàng, phi lâm sàng và thử nghiệm biện pháp phòng, trị hội chứng MMA ở lợn nái sinh sản, Luận án Tiến sĩ Nông nghiệp, Hà Nội. 22. Lê Minh, Nguyễn Văn Quang, Phan Thị Hồng Phúc, Đỗ Quốc Tuấn, La Văn Công (2017), Giáo trình thú y cơ bản, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 23. Nguyễn Hoài Nam, Nguyễn Văn Thanh (2016), “Một số yếu tố liên quan tới viêm tử cung sau đẻ ở lợn nái”, Tạp chí khoa học Nông nghiệp Việt Nam, 14(5), tr. 720-726. 24. Lê Văn Năm (2009), Phòng và trị bệnh ở lợn, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 25. Lê Văn Năm (2013), Bệnh viêm phổi địa phương – suyễn lợn, Nxb Lao động –
  57. Xã hội, Nông nghiệp. 26. Nguyễn Tài Năng, Phạm Đức Chương, Cao Văn, Nguyễn Thị Quyên (2016), Giáo trình Dược lý học thú y, Nxb Đại học Hùng Vương. 27. Trần Văn Phùng, Từ Quang Hiển, Trần Thanh Vân, Hà Thị Hảo (2004), Giáo trình chăn nuôi lợn, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 28. Nguyễn Ngọc Phụng (2004), Công tác vệ sinh thú y trong chăn nuôi lợn, Nxb Lao động xã hội Hà Nội. 29. Lê Văn Phước (1997), Ảnh hưởng của nhiệt độ, ẩm độ không khí đến tỷ lệ nhiễm bệnh phân trắng lợn con, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 30. Nguyễn Văn Thanh (2002), Nghiên cứu một số chỉ tiêu và bệnh đường sinh dục thường gặp ở lợn, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 31. Nguyễn Văn Thanh (2007), “Khảo sát tỷ lệ mắc bệnh viêm tử cung trên đàn lợn nái ngoại nuôi tại Đồng bằng Sông Hồng và thử nghiệm điều trị”, Tạp chí Khoa học Kỹ thuật Thú y, XIV (3), tr. 38 - 43. 32. Nguyễn Văn Thanh, Nguyễn Thị Hồng Minh, Trịnh Đình Thâu (2013), “Thực trạng hội chứng viêm tử cung, viêm vứ, mất sữa (M.M.A) và ảnh hưởng của hội chứng này đến năng suất sinh sản của lợn nái”, Tạp chí KHKT thú y, Tập XX, số 6, tr.47 – 52. 33. Nguyễn Văn Thanh (2014), Sinh sản gia súc 2, Nxb Nông nghiệp. 34. Nguyễn Văn Thanh, Trần Tiến Dũng, Sử Thanh Long, Nguyễn Thị Mai Thơ (2016), Giáo trình Sinh sản gia súc, Nxb Đại học Nông nghiệp, Hà Nội. 35. Trịnh Đình Thâu, Nguyễn Văn Thanh (2010),“Một số yếu tố liên quan đến viêm tử cung sau đẻ ở lợn nái”, Tạp chí KHKT thú y tập 17. 36. Trịnh Đình Thâu, Nguyễn Văn Thanh và Đoàn Đức Thành (2010),“Thực trạng hội chứng viêm vú, viêm tử cung, mất sữa (MMA) ở đàn lợn nái ngoại nuôi theo mô hình trang trại thuộc tỉnh Thái Bình và thử nghiệm phòng trị”, Tạp chí KHKT Chăn nuôi (JAHST) , số 1, Hà Nội. 37. Bùi Thị Tho, Trần Công Hòa, Nguyễn Khắc Tích (1995), “Một số bệnh thường gặp trên đàn lợn giống Yorkshire, Landrace nuôi tại xí nghiệp giống vật nuôi Mỹ Văn - Tỉnh Hải Hưng”, Kỷ yếu kết quả nghiên cứu khoa học khoa Chăn
  58. nuôi Thú Y 1991 - 1995, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 38. Chu Thị Thơm, Phan Thị Lài, Nguyễn Văn Tô (2005), Hướng dẫn phòng, trị bằng thuốc nam một số bệnh ở gia súc, Nxb Lao Động, tr. 120 -121. 39. Trekaxova A.V (1983), Bệnh của lợn đực và lợn nái sinh sản (người dịch Nguyễn Đình Chi), Nxb Nông nghiệp Hà Nội. 40. Đặng Thanh Tùng (1999), Bệnh sinh sản ở lợn, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng. II. Tài liệu tiếng Anh 41. Christensen R. V., Aalbaek B. and Jensen H. E. (2007), “Pathology of udder lesions in sows”, J. Vet. Med. A Physiol Pathol Clin Med., 54(9), pp. 491. 42. opinions, 62nd Annual Meeting of the European Federation of Animal Science, EAAP 2011, Stavanger, Norway. 43. Smith B.B., Martineau G., Bisaillon A., (1995), “Mammary gland and lactation probltois”, In disease of swine, 7th edition, Iowa state university press, pp. 40- 57. 44. Taylor D. J. (1995), Pig diseases, 6th edition, Glasgow university. 45. Urban V. P., Schnur V. I., Grechukhin A. N., (1983), Vestnik selskhozyaistvennoinauki, 6, pp. 69 - 75. 46. Waller C. M., Bilkei G., Cameron R. D. A. (2002), “Effect of periparturient disease and/or reproductive failure accompanied by excessive vulval discharge and weaning to mating interval on sows’reproductive performance”, Australian Veterinary Journal, 80, pp. 545-549. III. Tài liệu internet 47. Arut Kidcha - orrapin (2006), MMA at farrowing: Guidelines for monitoring and preventio n, , Ngày truy cập 12/3/2019. 48. Duy Hùng (2011), Bệnh viêm vú ở lợn nái, , Ngày truy cập 11/2/2019. 49. , Ngày truy cập 12/3/2019.
  59. MỘT SỐ HÌNH ẢNH TRONG QUÁ TRÌNH THỰC TẬP Hình 1: Thuốc NOVA Fe + B12 Hình 2: Oxytocin (Phòng trị thiếu máu do sắt) (Kích thích co bóp tử cung, kích thích đẻ nhanh) Hình 3: Kháng sinh Pendistrep LA Hình 4: Diacoxin (Phòng và điều trị viên tử cung heo nái, heo (Thuốc nhỏ phòng cầu trùng) con điều trị khớp)