Khóa luận Thực hiện quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng và phòng trị bệnh cho lợn nái sinh sản tại trại Công ty Nam Việt, xã Phượng Tiến, huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên

pdf 53 trang thiennha21 19/04/2022 2290
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Thực hiện quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng và phòng trị bệnh cho lợn nái sinh sản tại trại Công ty Nam Việt, xã Phượng Tiến, huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfkhoa_luan_thuc_hien_quy_trinh_cham_soc_nuoi_duong_va_phong_t.pdf

Nội dung text: Khóa luận Thực hiện quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng và phòng trị bệnh cho lợn nái sinh sản tại trại Công ty Nam Việt, xã Phượng Tiến, huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên

  1. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM ĐÀO VIỆT LÂM Tên chuyên đề: “THỰC HIỆN QUY TRÌNH CHĂM SÓC, NUÔI DƯỠNG VÀ PHÒNG TRỊ BỆNH CHO LỢN NÁI SINH SẢN TẠI TRẠI CÔNG TY NAM VIỆT, XÃ PHƯỢNG TIẾN, HUYỆN ĐỊNH HÓA, TỈNH THÁI NGUYÊN” KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Hệ đào tạo: Chính quy Chuyên ngành: Chăn nuôi Thú y Lớp: K47 - CNTY - N01 Khoa: Chăn nuôi Thú y Khóa học: 2015 - 2019 Giảng viên hướng dẫn: GS.TS. Từ Quang Hiển Thái Nguyên , 2019
  2. i LỜI CẢM ƠN Sau một thời gian học tập trại trường và thực tập tại cơ sở, đến nay em đã hoàn thành bản khóa luận tốt nghiệp của mình. Trong suốt quá trình thực tập và thực hiện đề tài tốt nghiệp, ngoài sự cố gắng của bản thân, em còn nhận được rất nhiều sự quan tâm giúp đỡ của mọi người. Trước hết, em gửi lời cảm ơn chân thành tới Ban giám hiệu trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên, Ban chủ nhiệm khoa Chăn nuôi Thú y, các Thầy giáo, Cô giáo đã giúp đỡ em trong suốt quá trình học tập tại trường. Đặc biệt, em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc tới GS.TS Từ Quang Hiển đã hướng dẫn và chỉ bảo tận tình để em hoàn thành báo cáo khóa luận tốt nghiệp. Đồng thời em xin chân thành cảm ơn cô Nguyễn Thị Nghìn chủ trại và các kỹ sư,công nhân viên của trại đã tạo điều kiện thuận lợi để em hoàn thành tốt công việc trong quá trình thực tập của mình. Cuối cùng, em xin bày tỏ lòng biết ơn tới gia đình, bạn bè, những người thân luôn động viên, giúp đỡ em trong quá trình học tập tại trường cũng như trong quá trình thực tập tốt nghiệp này. Thái Nguyên, ngày tháng năm 2019 Sinh viên Đào Việt Lâm
  3. ii MỤC LỤC ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN Error! Bookmark not defined. LỜI CẢM ƠN i MỤC LỤC ii DANH MỤC CÁC BẢNG v DANH MỤC CÁC TỪ, CỤM TỪ VIẾT TẮT vi PHẦN 1 MỞ ĐẦU 1 1.1. Đặt vấn đề 1 1.2. Mục đích và yêu cầu của chuyên đề 2 1.2.1. Mục đích của chuyên đề 2 1.2.2. Yêu cầu của chuyên đề 2 PHẦN 2: TỔNG QUANG TÀI LIỆU 3 2.1. Điều kiện cơ sở nơi thực tập 3 2.1.1. Điều kiện tự nhiên 3 2.1.1.1. Vị trí địa lý 3 2.1.1.2 Điều kiện địa hình, đất đai. 3 2.1.1.3. Đặc điểm khí hậu thời tiết 3 2.1.1.4. Điều kiện giao thông. 4 2.1.2. Điều kiên vật chất và cơ sở hạ tầng nơi thực tập. 4 2.1.2.1. Cơ cấu tổ chức của trang trại 4 2.1.2.2. Cơ sở vật chất của trang trại 4 2.1.3. Thuận lợi, khó khăn. 5 2.1.3.1. Thuận lợi 5 2.1.3.2. Khó khăn 6 2.2. Tổng quan tài liệu liên quan đến chuyên đề 6 2.2.1. Quy trình nuôi dưỡng, chăm sóc lợn nái sinh sản 6 2.2.1.1. Quy trình chăm sóc và nuôi dưỡng lợn nái mang thai 6
  4. iii 2.2.1.2. Quy trình nuôi dưỡng, chăm sóc lợn nái đẻ 8 2.2.1.3. Quy trình nuôi dưỡng, chăm sóc lợn nái nuôi con 10 2.2.2. Công tác phòng và trị bệnh cho lợn nái sinh sản 11 2.2.2.1. Phòng bệnh 11 2.2.2.2. Điều trị bệnh 13 2.2.3. Một số bệnh thường gặp trên lợn nái sinh sản 14 2.2.3.1.Bệnh viêm tử cung 14 2.2.3.2. Bệnh viêm vú 18 2.2.3.3.Bệnh sát nhau 20 2.2.3.4.Hiện tượng đẻ khó 21 2.2.3.5.Bệnh bại liệt sau sinh 23 2.3. Tình hình nghiên cứu ở trong và ngoài nước 24 2.3.1. Nghiên cứu trong nước 24 2.3.2. Nghiên cứu ở nước ngoài 26 PHẦN 3 ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 28 3.1. Đối tượng 28 3.2. Địa điểm và thời gian tiến hành 28 3.3. Nội dung thực hiện 28 3.4. Các chỉ tiêu theo dõi và phương pháp thực hiện 28 3.4.1. Các chỉ tiêu theo dõi 28 3.4.2. Phương pháp theo dõi và thu thập thông tin 28 3.4.3 Phương pháp xử lý số liệu 29 PHẦN 4 KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 30 4.1. Tình hình chăn nuôi lợn của trại từ 2016 - 2018 30 4.2. Thực hiện biện pháp chăm sóc nuôi dưỡng đàn lợn nái sinh sản 31 4.2.1. Số lượng lợn nái trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng tại trại 31 4.2.2. Tình hình sinh sản của lợn nái trực tiếp theo dõi tại trại 31
  5. iv 4.3. Kết quả chăm sóc nuôi dưỡng đàn lợn con theo mẹ tại trại 33 4.4. Kết quả thực hiện phòng bệnh cho lợn nái sinh sản tại trại 34 4.4.1. Thực hiện vệ sinh phòng bệnh trên đàn lợn nái tại trại 34 4.4.2. Kết quả tiêm vắc xin phòng bệnh cho lợn nái 36 4.4.3. Tình hình mắc bệnh ở đàn lợn nái sinh sản tại trại 37 4.5. Kết quả chẩn đoán và điều trị bệnh cho lợn nái sinh sản tại trại 4.5.1. Kết quả điều trị bệnh ở đàn lợn nái sinh sản tại trại 38 4.5.2. Kết quả thực hiện một số công việc khác tại trại 40 PHẦN 5: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 42 5.1. Kết luận 42 5.2. Đề nghị 42 TÀI LIỆU THAM KHẢO 44
  6. v DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng 4.1.Tình hình chăn nuôi tại trại lợn Công ty Nam Việt qua 3 năm (2016 – 2018) .30 Bảng 4.2. Số lượng lợn nái được em trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng 31 Bảng 4.3. Tình hình sinh sản của lợn nái nuôi tại trại 32 Bảng 4.4. Một số chỉ tiêu về số lượng lợn con sơ sinh/lứa của lợn nái 33 Bảng 4.5. Kết quả thực hiện vệ sinh, sát trùng tại trại 34 Bảng 4.6. Lịch sát trùng trại lợn nái 35 Bảng 4.7. Kết quả tiêm vắc xin phòng bệnh cho lợn nái sinh sản 36 Bảng 4.8. Kết quả theo dõi tình hình mắc bệnh ở đàn lợn nái sinh sản tại trại 37 Bảng 4.9. Kết quả trực tiếp điều trị bệnh trên đàn nái sinh sản tại trại 39 Bảng 4.10. Bảng kết quả thực hiện các công việc khác trong 6 tháng thực tập 40
  7. vi DANH MỤC CÁC TỪ, CỤM TỪ VIẾT TẮT CP : Charoen Pokphand Cs : Cộng sự Kg : Kilogam M : Mét Mg : Magie NLTĐ : Năng lượng trao đổi Nxb : Nhà xuất bản TS : Tiến sĩ TT : Thể trọng
  8. 1 PHẦN 1 MỞ ĐẦU 1.1. Đặt vấn đề Trong những năm gần đây, ngành chăn nuôi nước ta đang phát triển mạnh mẽ theo hướng trang trại và hộ gia đình. Chăn nuôi lợn ngày càng chiếm một vị trí quan trọng trong nền nông nghiệp Việt Nam. Nó đã góp phần rất lớn vào tăng trưởng kinh tế nông thôn nước ta. Không chỉ để phục vụ cho tiêu dùng, nâng cao chất lượng bữa ăn hàng ngày mà còn phải tiến tới xuất khẩu với số lượng lớn. Là nguồn cung cấp thực phẩm với tỉ trọng cao và chất lượng tốt cho con người, là nguồn cung cấp phân bón cho ngành trồng trọt và là nguồn cung cấp các sản phẩm phụ như: da, mỡ, cho ngành công nghiệp chế biến. Với vị trí quan trọng hàng đầu trong việc cung cấp một lượng thực phẩm lớn cho người tiêu dùng, nên chăn nuôi nói chung và chăn nuôi lợn nói riêng đang được Đảng và Nhà nước ta hết sức quan tâm đến việc phát triển. Nhờ vậy, công tác lai tạo giống cũng được triển khai và thu được nhiều kết quả to lớn như: Tạo ra các giống lợn có tầm vóc lớn, sinh trưởng nhanh, tỉ lệ nạc cao. Bên cạnh đó là việc áp dụng phương thức chăn nuôi theo hướng công nghiệp, quy mô chăn nuôi lớn, áp dụng các biện pháp kĩ thuật chăm sóc, nuôi dưỡng tiên tiến, chế biến thức ăn chất lượng cao, các loại thức ăn thay thế, thức ăn bổ sung, phối hợp khẩu phần ăn có đầy đủ các chất dinh dưỡng. Trong đó, công tác thú y đã được đặc biệt chú ý đến. Tuy nhiên, một trong những trở ngại lớn nhất của chăn nuôi lợn nái sinh sản là dịch bệnh còn xảy ra phổ biến gây nhiều thiệt hại cho đàn lợn nái nuôi trong các trang trại cũng như nuôi nhỏ lẻ tại các hộ gia đình. Đối với lợn nái nhất là lợn ngoại được chăn nuôi theo phương thức công nghiệp cho nên tỷ lệ mắc bệnh sinh sản ngày càng nhiều hơn do khả năng thích nghi của đàn lợn nái với điều kiện ngoại cảnh nước ta còn kém. Mặt khác trong quá trình sinh đẻ
  9. 2 lợn nái dễ bị nhiễm các vi khuẩn như Streptococcus, E.coli xâm nhập và gây nhiễm trùng và dễ mắc các bệnh như viêm tử cung, hội chứng mất sữa, bại liệt đây là các loại bệnh ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng sinh sản của lợn mẹ. Bệnh tuy không xảy ra ồ ạt nhưng gây thiệt hại lớn cho lợn nái: gây chết thai, lưu thai, sẩy thai nghiêm trọng hơn bệnh vẫn âm thầm làm hạn chế khả năng sinh sản của đàn lợn nái ở các lứa tiếp theo, ảnh hưởng đến năng suất, chất lượng và hiệu quả của toàn ngành chăn nuôi lợn. Với mục đích góp phần nâng cao khả năng sinh sản của đàn lợn, nâng cao hiệu quả điều trị bệnh. Xuất phát từ tình hình thực tế trên, được sự đồng ý của Ban chủ nhiệm khoa Chăn nuôi Thú y, Trường đại học Nông Lâm Thái Nguyên, cùng với sự giúp đỡ của giáo viên hướng dẫn và cơ sở nơi thực tập, nên em tiến hành thực hiện chuyên đề: “Thực hiện quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng và phòng trị bệnh cho lợn nái sinh sản tại trại Công ty Nam Việt, xã Phượng Tiến, huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên ”. 1.2. Mục đích và yêu cầu của chuyên đề 1.2.1. Mục đích của chuyên đề - Hiểu biết tình hình chăn nuôi,những thuận lợi khó khăn của trại. - Thực hiện được quy trình chăm sóc nuôi dưỡng lợn nái,lợn con. - Hiểu rõ về quy trình phòng bệnh của một trại chăn nuôi lợn. - Biết các bệnh lợn nái thường gặp và cách điều trị. 1.2.2. Yêu cầu của chuyên đề - Khảo sát tình hình chăn nuôi lợn tại trại Công ty Nam Việt, xã Phượng Tiến, huyện Định Hóa, tỉnh thái Nguyên. - Áp dụng phương pháp phòng trị bệnh hiệu quả cho đàn lợn nái nuôi tại trại. - Xác định tình hình nhiễm bệnh trên đàn nái sinh sản và áp dụng được phương pháp phòng trị bệnh hiệu quả cho đàn lợn nái. - Theo dõi, chẩn đoán điều trị hiệu quả, kịp thời các bệnh ở lợn nái ngoại sinh sản.
  10. 3 PHẦN 2 TỔNG QUAN TÀI LIỆU 2.1. Điều kiện cơ sở nơi thực tập 2.1.1. Điều kiện tự nhiên 2.1.1.1. Vị trí địa lý Trại lợn Công Ty Nam Việt nằm trên địa bàn xã Phượng Tiến, huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên. Phượng Tiến nằm ở phía Đông huyện Định Hóa, cách trung tâm huyện 9 km về phía Đông Bắc, địa giới hành chính của xã được xác định như sau: - Phía Bắc giáp xã Trung Hội. - Phía Tây giáp xã Bảo Cường. - Phía Đông giáp xã Tân Dương. - Phía Nam giáp xã Yên Trạch của huyện Phú Lương. 2.1.1.2 Điều kiện địa hình, đất đai. Xã Phượng Tiến có địa hình đồi núi, đất đai phù xa bồi tụ, sông ngòi nhiều nên rất màu mỡ, phì nhiêu, thuận lợi cho phát triển kinh tế nông nghiệp. Tổng diện tích là 2118 ha, trong đó: diện tích đất nông nghiệp là 1132,8 ha, diện tích đất ở là 678,2 ha và đất chưa sử dụng là 307 ha. 2.1.1.3. Đặc điểm khí hậu thời tiết Khí hậu xã Phượng Tiến không có sự khác biệt so với khí hậu của tỉnh Thái Nguyên và các tỉnh thuộc khu vực Đông Bắc Việt Nam. Xã nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, một năm có 4 mùa rõ rệt. Mùa Đông có khí hậu khô, lạnh; mùa Hè khí hậu nóng, ẩm, độ ẩm trung bình trong năm là 83%, một số tháng trong năm có độ ẩm trung bình trên 85 %. Các tháng mùa khô có độ ẩn không khí dao động khoảng 74 % - 80 %. Lượng mưa trung bình hàng năm khoảng 1.500 - 2.500 mm, mưa nhiều trong các tháng từ tháng 4 đến tháng 9. Lượng mưa bốc hơi bình quân hàng
  11. 4 năm khoảng 1.000 mm, 4 tháng có lượng bốc hơi lớn hơn lượng mưa là từ tháng 12 năm trước đến tháng 3 năm sau. Chế độ gió cơ bản chịu ảnh hưởng của gió Đông Nam (mùa Hè) và gió Đông Bắc (mùa Đông). Một số khu vực thuộc miền núi cao có hình thái thời tiết khô lạnh, rét đậm, có sương muối vào mùa đông. Ít xuất hiện gió Lào vào mùa Hè. Thái Nguyên ít chịu ảnh hưởng của bão do có sự che chắn của nhiều dãy núi cao. Nắng trung bình hàng năm từ 1.300 - 1.750 giờ, thuận lợi cho canh tác, phát triển các cây trồng nhiệt đới, á nhiệt đới. 2.1.1.4. Điều kiện giao thông. Giao thông vận tải: Có đường giao thông thuận lợi đi qua các tỉnh lân cận thuận lợi cho việc vận chuyển thức ăn, thuốc thú y, tiêu thụ sản phẩm cũng như chuyển giao khoa học kỹ thuật. 2.1.2. Điều kiện vật chất và cơ sở hạ tầng nơi thực tập. 2.1.2.1. Cơ cấu tổ chức của trang trại Cơ cấu tổ chức gồm 3 nhóm: + Nhóm quản lý: 1 chủ trại, 1 quản lý phụ trách chung, 1 bảo vệ chịu trách nhiệm bảo vệ tài sản chung của trại. + Nhóm kỹ thuât: 1 kỹ sư chăn nuôi + Nhóm công nhân: 18 công nhân, 3 sinh viên thực tập Với đội ngũ công nhân trên, trại phân ra làm 3 tổ khác nhau đó là tổ chuồng bầu, tổ chuồng đẻ và tổ khu phối. Các tổ có bảng chấm công riêng cho từng công nhân trong tổ, ngoài ra các tổ trưởng còn có nhiệm vụ đôn đốc, quản lý các thành viên trong tổ nhằm nâng cao tinh thần trách nhiệm và thúc đẩy sự phát triển của trang trại. 2.1.2.2. Cơ sở vật chất của trang trại Hệ thống chuồng trại: Trại được xây dựng trên vùng đất cao nên hệ thống thoát nước rất thuận lợi, đồng thời trại xây dựng theo hướng Tây Bắc -
  12. 5 Đông Nam giúp cho trại được ấm áp về mùa đông và thoáng mát về mùa hè. Quanh trại thì có hệ thống tường rào thép gai bao bọc. Trong trại có 3 chuồng nái đẻ, 2 chuồng bầu, 1 chuồng đực và 1 chuồng cách ly, 2 chuồng cai sữa với quy mô trại 1200 nái. Trại được xây dựng theo quy mô chăn nuôi công nghiệp. Chuồng cách ly được xây dựng là chuồng bê tông, chuồng bầu là những tấm đan và khung chuồng được chia thành từng ô, còn đối với chuồng đẻ có sàn bê tông, sàn nhựa thuận lợi cho việc lợn nái nuôi con, cùng với đó là hệ thống nước uống tự động, hệ thống quạt thông gió, hệ thống giàn mát giúp giữ được nhiệt độ chuồng nuôi theo từng mùa. Công trình khác: Ngoài hệ thống chuồng trại chăn nuôi trại còn xây dựng thêm công trình phục vụ cho quá trình sản xuất như: Trại có 3 phòng tắm sát trùng cho công nhân, 2 phòng tắm sát trùng cho nam và 1 phòng tắm sát trùng cho nữ, kho để cám, kho thuốc, kho đồ, hệ thống bể nước, kho phân. + Kho thuốc: Là nơi chứa đựng tất cả các loại thuốc dùng trong trại. + Kho cám: Là nơi để chứa các loại cám khi nhập về trại. + Hệ thống cung cấp nước: Giếng khoan được xây dựng xung quanh trại nhằm đảm bảo cung cấp đầy đủ nguồn nước sạch cho chăn nuôi, tất cả nước sử dụng trong trại được bơm trực tiếp lên 1 bể và được xử lý làm sạch ở đó trước khi cho nước xuống để sử dụng cho đàn lợn. + Ngoài ra trại còn có khu vực các phòng cho kỹ sư và công nhân ở và sinh hoạt, một phòng khách chung và một sân chơi rộng, một nhà bếp. 2.1.3. Thuận lợi, khó khăn. 2.1.3.1. Thuận lợi - Đội ngũ cán bộ nhiệt tình, năng động, có trách nhiệm, có chuyên môn, tay nghề cao. - Đội ngũ công nhân cần cù, chịu khó, giàu kinh nghiệm. - Trại được sự quan tâm đầu tư lớn của Công ty Nam Việt, sự ủng hộ, giúp đỡ của chính quyền địa phương và nhân dân xã Phượng Tiến.
  13. 6 - Cơ sở vật chất kỹ thuật của trại tương đối đồng bộ, hiện đại, đáp ứng mô hình sản xuất con giống; Công tác vệ sinh, phòng dịch bệnh được quan tâm, thực hiện đúng kế hoạch góp phần hạn chế dịch bệnh xảy ra. 2.1.3.2. Khó khăn - Khí hậu nhiệt đới, gió mùa đã ảnh hưởng không nhỏ tới chăn nuôi, nhất là những tháng thời tiết nóng, ẩm lạnh kéo dài dễ làm phát sinh dịch bệnh. - Chất lượng nguồn lao động nhìn chung thấp, chủ yếu là lao động phổ thông chưa qua đào tạo, làm việc chủ yếu dựa vào kinh nghiệm. - Do nguồn nước có nhiều đá vôi, đây cũng là nguyên nhân không nhỏ gây ảnh hưởng cho sức khỏe của đàn lợn. 2.2. Tổng quan tài liệu liên quan đến chuyên đề 2.2.1. Quy trình nuôi dưỡng, chăm sóc lợn nái sinh sản 2.2.1.1. Quy trình chăm sóc và nuôi dưỡng lợn nái mang thai * Quy trình chăm sóc - Vận động Trong điều kiện chăn nuôi có bãi chăn thả thì đối với lợn nái mang thai kỳ I chú ý cho lợn nái vận động, nhất là đối với những lợn nái quá béo. Thực tế đã chứng minh rằng, ở một cơ sử chăn nuôi khó khăn về mặt tài chính, tiêu chuẩn và khẩu phần ăn cho lợn còn thấp, nhưng nếu chú ý chăn thả nhiều, được vận động hợp lý, kết hợp với một số thức ăn mà lợn tự tìm kiếm được sẽ làm cho lợn mẹ khỏe mạnh, thai sinh trưởng và phát triển tốt, lợn con có sức sống cao. Thời gian vận động hợp lý là 1 - 2 lần/ngày với 60 - 90 phút/lần. Lợn nái mang thai ở kỳ II thì hạn chế vận động, trước khi đẻ 1 tuần chỉ cho lợn đi lại trong sân. - Tắm chải Tắm chải cho lợn mang thai là rất cần thiết, có tác dụng làm sạch da, thông lỗ chân lông để tăng cường trao đổi chất, tuần hoàn, gây cảm giác dễ chịu, lợn cảm thấy thoải mái kích thích tăng tính thèm ăn, phòng chống bệnh ký sinh trùng ngoài da. Ngoài ra còn tạo điều kiện gần gũi giữa người và lợn
  14. 7 nái để thuận tiện cho việc nuôi dưỡng và chăm sóc lợn nái khi đẻ. Việc tắm cho lợn nái giai đoạn mang thai cần được tiến hành hằng ngày, đặc biệt trong mùa hè nóng bức, ngoài các tác dụng kể trên còn có tác dụng chống nóng cho lợn nái. - Chuồng trại Chuồng trại phải đảm bảo đúng quy định cho lợn nái mang thai, tlợn từng thời kỳ. Mật độ nhốt: mang thai kỳ I mỗi ô từ 3 - 5 con, mang thai kỳ II mỗi ô nhốt 1 con. Trong chăn nuôi công nghiệp ở giai đoạn mang thai kỳ II có thể nhốt mỗi con một ô. Trước khi đẻ 1 tuần chuyển lợi nái mang thai lên chuồng đẻ. Yêu cầu chuồng trại phải đảm bảo vệ sinh thú y, khô giáo thoáng mát về mùa hè và ấm áp về mùa đông. Cần tạo không khí yên tĩnh, thoải mái cho lợn nái nghỉ ngơi dưỡng thai. Không gây tiếng ồn xáo trộn không cần thiết có ảnh hưởng đến lợn. Mỗi nái mang thai có một thẻ tlợn dõi về tình hình mang thai như: ngày phối, ngày đẻ dự kiến, lứa đẻ, những biến cố xảy ra trong quá trình mang thai, nguy cơ sảy thai, tỷ lệ chết thai, để có biện pháp xử lý đề phòng. *Quy trình nuôi dưỡng Giai đoạn chửa kỳ I, II dùng khẩu phần có tỷ lệ protein là 13 - 14%, năng lượng trao đổi không dưới 2900Kcal/kg thức ăn hỗn hợp. Nhưng ở giai đoạn II mức ăn cần tăng từ 15 - 20% so với giai đoạn mang thai kỳ I, bào thai chưa phát triển mạnh vì vậy nhu cầu dinh dưỡng cho lợn nái giai đoạn này là để duy trì cơ thể, một phần rất nhỏ để nuôi thai. Giai đoạn chửa kỳ II, tốc độ phát triển của bào thai rất nhanh, vì vậy cần cung cấp chất dinh dưỡng cho bào thai ở cuối kỳ này để lợn con sinh ra đạt khối lượng sơ sinh tlợn yêu cầu của từng giống. Đối với lợn Landrace có khối lượng sơ sinh khoảng 1,4 kg/con, lợn Yorkshire có khối lượng sơ sinh khoảng 1,3 kg/con, lợn Móng Cái khoảng 0,5 - 0,7 kg/con. Khi xác định lượng thức ăn cho lợn nái mang thai trong một ngày cần chú ý các yếu tố sau: giống và khối lượng cơ thể lợn nái, giai đoạn mang thai,
  15. 8 thể trạng nái, tình trạng sức khỏe của lợn nái, nhiệt độ môi trường và chất lượng thức ăn. Ví dụ: lợn nái mang thai kỳ II cho ăn nhiều hơn nái mang thai kỳ I, nái mang thai gầy cho ăn nhiều hơn so với nái bình thường, vào mùa đông khi nhiệt độ dưới 150C thì cho lợn ăn nhiều hơn 0,3 - 0,5 kg thức ăn so với nhiệt độ chuồng là 25 - 300C để tăng khả năng chống rét cho lợn. Đối với lợn nái mang thai lần đầu, có thể cho ăn tăng từ 10 - 15% vì ngoài dinh dưỡng nuôi thai cần đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng cho phát triển cơ thể con nái. Đối với lợn nái sau khi tách con, cần tăng thức ăn để tăng số trứng rụng sẽ làm tăng số con đẻ ra trên lứa. Thời gian cho ăn tăng phụ thuộc vào tuổi cai sữa cho lợn con, nếu cai sữa từ 21 - 28 ngày cho ăn tăng từ 8 - 10 ngày, nếu cai sữa lúc 35 ngày thì cho ăn tăng khoảng 3 - 7 ngày. Lượng thức ăn cho ăn còn phụ thuộc vào thể trạng con mẹ, nếu thể trạng gầy cho ăn nhiều hơn, nếu béo cho ăn như lợn có thể trạng bình thường. Đối với lợn nái nội có khối lượng khoảng 65 - 80 kg/con, trong một ngày nái mang thai kỳ I cho ăn 1,1 - 1,2 kg/con thức ăn tinh và 1 - 2 kg/con thức ăn xanh. Giai đoạn chửa kỳ II cho ăn tăng thêm khoảng 20 - 25% so với lợn nái chửa kỳ I, mức cho ăn từ 1,4 - 1,5 kg thức ăn tinh. Trước khi đẻ 1 tuần cần giảm thức ăn đạm để phòng tránh bệnh sưng vú do căng sữa sau đẻ. Số bữa cho ăn trong ngày: cho ăn ngày 2 bữa sáng - chiều, cần cung cấp đủ nước uống sạch cho lợn nái đang mang thai. 2.2.1.2. Quy trình nuôi dưỡng, chăm sóc lợn nái đẻ Mục đích chăn nuôi lợn nái đẻ nhằm đảm bảo cho lợn đẻ an toàn, lợn con có tỷ lệ sống cao, lợn mẹ có sức khỏe tốt, đủ khả năng tiết sữa nuôi con. Chính vì vậy quá trình chăm sóc, nuôi dưỡng có vai trò rất quan trọng và ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe lợn mẹ và lợn con. * Quy trình nuôi dưỡng Theo Trần Văn Phùng và cs (2004) [10]: Thức ăn dùng cho lợn nái đẻ phải là những thức ăn có giá trị dinh dưỡng cao, dễ tiêu hóa. Không cho lợn
  16. 9 nái ăn thức ăn có hệ số choán cao gây chèn ép thai sinh ra đẻ non, đẻ khó, hoặc ép thai chết ngạt. Một tuần trước khi lợn đẻ phải căn cứ vào tình trạng sức khỏe cụ thể của lợn nái để có kế hoạch giảm dần lượng thức ăn. Đối với những lợn nái có sức khỏe tốt thì một tuần trước khi đẻ giảm 1/3 lượng thức ăn, đẻ trước 2 - 3 ngày giảm 1/2 lượng thức ăn. Đối với những lợn nái có sức khỏe yếu thì không giảm lượng thức ăn mà giảm dung tích của thức ăn bằng cách tăng cường cho ăn các loại thức ăn dễ tiêu hóa. Những ngày lợn đẻ phải căn cứ vào thể trạng của lợn nái, sự phát dục của bầu vú mà quyết định chế độ dinh dưỡng cho hợp lý. Ngày lợn nái cắn ổ đẻ, cho lợn nái ăn ít thức ăn tinh (0,5kg) hoặc không cho thức ăn tinh nhưng uống nước tự do. Ngày lợn nái đẻ có thể không cho lợn nái ăn mà chỉ có uống nước ấm có pha muối hoặc ăn cháo loãng. Sau khi đẻ 2 - 3 ngày không cho lợn nái ăn nhiều một cách đột ngột mà tăng từ từ đến ngày thứ 4 - 5 thì cho ăn đủ tiêu chuẩn. Thức ăn cần chế biến tốt, dung tích nhỏ, có mùi vị thơm ngon để kích thích tính thèm ăn cho lợn nái. * Quy trình chăm sóc Việc chăm sóc lợn nái mẹ có vai trò quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất và sức khỏe của cả lợn mẹ và lợn con. Theo Trần Văn Phùng và cs (2004) [10] cần phải theo dõi thường xuyên sức khỏe lợn mẹ, quan sát bầu vú, thân nhiệt lợn mẹ liên tục trong 3 ngày đầu sau khi đẻ để phát hiện các trường hợp bất thường để có biện pháp xử lý kịp thời. Trước khi lợn đẻ 10 - 15 ngày cần chuẩn bị đầy đủ chuồng đẻ. Tẩy rửa vệ sinh, khử trùng toàn bộ ô chuồng, nền chuồng, sàn chuồng dùng cho lợn con và lợn mẹ. Yêu cầu chuồng phải khô ráo, ấm áp, sạch sẽ, có đầy đủ ánh sáng. Sau khi vệ sinh tiêu độc nên để trống chuồng từ 3 - 5 ngày trước khi lợn nái vào đẻ. Trước khi đẻ 1 tuần, cần vệ sinh lợn nái sạch sẽ, lợn nái được lau rửa sạch sẽ đất hoặc phân bám dính trên người, dùng khăn thấm nước xà phòng lau sạch bầu vú và âm hộ. Làm như vậy tránh được nguy cơ lợn con mới sinh bị nhiễm khuẩn do tiếp xúc trực tiếp với lợn mẹ có vi khuẩn gây bệnh. Sau khi vệ sinh sạch sẽ cho lợn nái, chúng ta chuyển nhẹ nhàng từ chuồng chửa sang chuồng đẻ để lợn quen dần với chuồng mới.
  17. 10 2.2.1.3. Quy trình nuôi dưỡng, chăm sóc lợn nái nuôi con * Quy trình nuôi dưỡng Theo Trần Văn Phùng và cs (2004) [10]: Thức ăn cho lợn nái nuôi con phải là những thức ăn có ảnh hưởng tốt đến sản lượng và chất lượng sữa. Đó là các loại thức ăn xanh non như các loại rau xanh, các loại củ quả như bí đỏ, cà rốt, đu đủ. Thức ăn tinh tốt như gạo tấm, cám gạo, bột mỳ, các loại thức ăn bổ sung đạm động, đạm thực vật, các loại khoáng, vitamin Không cho lợn nái nuôi con ăn các loại thức ăn thối mốc, biến chất, hư hỏng. Thức ăn hỗn hợp cho lợn nái nuôi con dùng trong chăn nuôi công nghiệp phải đảm bảo đủ protein, năng lượng và các thành phần vitamin, khoáng theo đúng tiêu chuẩn quy định như năng lượng trao đổi 3100 Kcal, protein 15 %, Ca từ 0,9 - 1,0 %, phospho 0,7 %. Lượng thức ăn cho lợn nái nuôi con cũng đóng vai trò quan trọng và ảnh hưởng trưc tiếp đến sinh trưởng và khả năng điều tiết sữa của lợn mẹ, chính vì vậy ta cần phải có một khẩu phần ăn hợp lý và đầy đủ dinh dưỡng cho lợn mẹ. Trong quá trình nuôi con, lợn nái được cho ăn như sau: - Đối với lợn nái ngoại: + Ngày cắn ổ đẻ: cho lợn nái ăn ít thức ăn hỗn hợp hoàn chỉnh (0,5 kg) hoặc không cho ăn, nhưng cho uống nước tự do. + Sau ngày đẻ thứ 1, 2 và 3 cho ăn thức ăn hỗn hợp với lượng thức ăn từ 1- 2- 3 kg tương ứng. + Ngày nuôi con thứ 4 đến ngày thứ 7: Cho ăn 4 kg thức ăn hỗn hợp/nái/ngày. + Từ ngày thứ 8 đến cai sữa cho ăn theo công thức: Lượng thức ăn/nái/ngày = 2 kg + số con x 0,35 kg/con. + Số bữa ăn trên ngày: 2 sáng và chiều. + Nếu lợn mẹ gầy thì cho ăn thêm 0,5 kg, lợn mẹ béo thì giảm 0,5 kg thức ăn/ngày.
  18. 11 + Ngoài ra cho lợn nái ăn từ 1 - 2 kg rau xanh/ ngày sau bữa ăn tinh (nếu có rau xanh) + Một ngày trước ngày cai sữa lượng thức ăn của lợn mẹ giảm đi 20 - 30 % + Ngày cai sữa cho lợn mẹ nhịn ăn, hạn chế uống nước. -Đối với lợn nái nội Công thức tính nhu cầu thức ăn cho lợn nái nội nuôi con/ 1 ngày đêm: Lợn nái nội có khối lượng cơ thể dưới 100 kg, mức ăn trong 1 ngày đêm được tính như sau: Thức ăn tinh = 1,2 kg + (số lợn con theo mẹ x 0,18 kg) Thức ăn thô xanh: 0,3 đơn vị. Lợn nái nội có khối lượng 100 kg trở lên, mức ăn cho 1 ngày đêm giai đoạn nuôi con được tính như sau: Thức ăn tinh = 1,4 kg + (số lợn con theo mẹ x 0,18 kg) Thức ăn thô: 0,4 đơn vị Định mức ăn cho một lợn nái nội nuôi con/ 1 ngày đêm. * Quy trình chăm sóc Theo Trần Văn Phùng và cs (2004) [10] vận động tắm nắng là điều kiện tốt giúp cho lợn nái nhanh phục hồi sức khỏe và nâng cao sản lượng sữa của lợn mẹ. Do vậy sau khi lợn đẻ được từ 3 - 7 ngày, trong điều kiện chăn nuôi có sân vận động, nếu thời tiết tốt thì có thể cho lợn nái vận động, thời gian vận động lúc đầu là 30 phút/ngày, sau tăng dần số giờ vận động lên. Trong chăn nuôi công nghiệp, hầu hết lợn nái nuôi con đều bị nhốt trong các cũi đẻ, không được vận động, vì vậy cần phải chú ý đến thành phần dinh dưỡng của thức ăn, đặc biệt các chất khoáng và vitamin. 2.2.2. Công tác phòng và trị bệnh cho lợn nái sinh sản 2.2.2.1. Phòng bệnh Như ta đã biết ‘‘Phòng bệnh hơn chữa bệnh’’‚ nên khâu phòng bệnh được đặt lên hàng đầu, nếu phòng bệnh tốt thì có thể hạn chế hoặc ngăn chặn được bệnh xảy ra. Các biện pháp phòng bệnh tổng hợp được đưa lên hàng đầu,
  19. 12 xoay quanh các yếu tố môi trường, mầm bệnh, vâṭ chủ. Do vậy, việc phòng bệnh cũng như trị, bệnh phải kết hợp ̣nhiều biện pháp khác nhau. Vi khuẩn E. coli gây bệnh ở lợn là vi khuẩn tồn tại trong môi trường, đường tiêu hoá của vâṭ chủ. Khi môi trường quá ô nhiễm do vê ̣sinh chuồng trại kém, nước uống thức ăn bi ̣nhiễm nuôi vi khuẩn, điều kiện ngoại cảnh thay đổi, lợn giảm sức đề kháng dễ bi ̣cảm nhiễm E. coli, bệnh sẽ nổ ra vì vậy mà khâu vê ̣sinh, chăm sóc có một ý nghĩa to lớn trong phòng bệnh. Trong chăn nuôi việc đảm bảo đúng quy trình kỹ thuật là điều rất cần thiết, chăm sóc nuôi dưỡng tốt sẽ tạo ra những gia súc khoẻ mạnh, có khả năng chống đỡ bệnh tật tốt và ngược lại. Ô chuồng lợn nái phải được vê ̣sinh tiêu độc trước khi vào đẻ. Nhiêṭ độtrong chuồng phải đảm bảo 27 - 300C đối với lợn sơ sinh và 28 - 300C với lợn cai sữa. Chuồng phải luôn khô ráo, không thấm ướt. Việc giữ gìn chuồng trại sạch sẽ kín, ấm áp vào mùa đông và đầu xuân. Nên dùng các thiết bị sưởi điện hoặc đèn ồh ng ngoại trong những ngày thời tiết lạnh ẩm để đề phòng bệnh lợn con phân trắng mang lại hiệu quả cao trong chăn nuôi. - Vệ sinh chuồng trại và thiết bị chăn nuôi Chuồng trại phải đảm bảo phù hợp với từng đối tượng vật nuôi, thoáng mát mùa hè, ấm áp mùa đông, đảm bảo cách ly với môi trường xung quanh. Tẩy uế chuồng trại sau mỗi lứa nuôi bằng phương pháp: rửa sạch, để khô sau đó phun sát trùng bằng các loại thuốc sát trùng và trống chuồng ít nhất 15 ngày với vật nuôi thương phẩm, 30 ngày đối với vật nuôi sinh sản. Với những chuồng nuôi lưu cữu hoặc chuồng nuôi có vật nuôi bị bệnh truyền nhiễm, cần phải vệ sinh tổng thể và triệt để: sau khi đưa hết vật nuôi ra khỏi chuồng, xử lý tlợn hướng dẫn của thú y, cần phun sát trùng kỹ (pha dung dịch sát trùng và phun hướng dẫn khi chống dịch) toàn bộ chuồng nuôi từ mái, các dụng cụ và môi trường xung quanh, để khô và dọn, rửa. Các chất thải rắn trong chăn nuôi cần thu gom để đốt hoặc ủ sinh học; chất thải lỏng, nước rửa chuồng cần thu gom để xử lý, không thải trực tiếp ra môi trường. Cần phun sát trùng 1 - 2 lần/tuần trong suốt thời gian trống chuồng, ít nhất trong 30 ngày. Các thiết bị,
  20. 13 dụng cụ chăn nuôi cần rửa sạch, phơi khô, sát trùng và đưa vào kho bảo quản. Vệ sinh và phun sát trùng xung quanh chuồng. - Phòng bệnh bằng vaccine Phòng bệnh bằng vaccine là biện pháp phòng bệnh chủ động có hiệu quả nhất. Theo Nguyễn Bá Hiên và Trần Thị Lan Hương [7], vaccine là một chế phẩm sinh học mà trong đó chứa chính mầm bệnh cần phòng cho một bệnh truyền nhiễm nào đó (mầm bệnh này có thể là vi khuẩn, vi rút, độc tố hay vật liệu di truyền như ARN, ADN ) đã được làm giảm độc lực hay vô độc bằng các tác nhân vật lý, hóa học, sinh học hay phương pháp sinh học phân tử (vaccine thế hệ mới - vaccine công nghệ gen). Lúc đó, chúng không còn khả năng gây bệnh cho đối tượng sử dụng, nhưng khi đưa vào cơ thể động vật nó sẽ gây ra đáp ứng miễn dịch làm cho động vật có miễn dịch chống lại sự xâm nhiễm gây bệnh của mầm bệnh tương ứng. 2.2.2.2. Điều trị bệnh Theo Nguyễn Bá Hiên và Trần Thị Lan Hương [7], các biện pháp chữa bệnh truyền nhiễm là: Hộ lý: cho gia súc ốm nghỉ ngơi, nhốt riêng ở chuồng có điều kiện vệ sinh tốt (thoáng mát, sạch sẽ, yên tĩnh). Theo dõi thân nhiệt, nhịp tim, hô hấp, phân, nước tiểu. Phát hiện sớm những biến chuyển của bệnh để kịp thời đối phó. Cho gia súc ăn uống thức ăn tốt và thích hợp với tính chất của bệnh. Dùng kháng huyết thanh: chủ yếu dùng chữa bệnh đặc hiệu vì vậy thường được dùng trong ổ dịch, chữa cho gia súc đã mắc bệnh. Chữa bệnh bằng kháng huyết thanh là đưa vào cơ thể những kháng thể chuẩn bị sẵn, có tác dụng trung hòa mầm bệnh hoặc độc tố của chúng (huyết thanh kháng độc tố). Dùng hóa dược: phần lớn hóa dược được dùng để chữa triệu chứng, một số hóa dược dùng chữa nguyên nhân vì có tác dụng đặc hiệu đến mầm bệnh. Dùng hóa dược chữa bệnh phải tác động mạnh và sớm, vì nhiều loài vi khuẩn
  21. 14 có thể thích ứng với liều lượng nhỏ. Chúng có thể chống lại thuốc và tính chất quen thuộc được truyền cho những thế hệ sau. Khi cần, có thể phối hợp nhiều loại hóa dược để tăng hiệu quả điều trị, vì nếu một loại thuốc chưa có tác dụng đến mầm bệnh thì có loại thuốc khác tác dụng tốt hơn. Dùng kháng sinh: kháng sinh là những thuốc đặc hiệu có tác dụng ngăn cản sự sinh sản của vi khuẩn hoặc tiêu diệt vi khuẩn. Tuy nhiên sử dụng kháng sinh có thể gây nhiều tai biến do thuốc có tính độc, do phản ứng dị ứng, do một lúc tiêu diệt nhiều vi khuẩn làm giải phóng một lượng lớn độc tố, làm giảm phản ứng miễn dịch của cơ thể. Việc dùng kháng sinh bừa bãi còn gây nên hiện tượng kháng thuốc, làm giảm thấp tác dụng chữa bệnh của kháng sinh. Vì vậy, khi dùng thuốc cần theo những nguyên tắc sau đây: phải chẩn đoán đúng bệnh để dùng đúng thuốc, dùng sai thuốc sẽ chữa không khỏi bệnh mà làm cho việc chẩn đoán bệnh về sau gặp khó khăn. Chọn loại kháng sinh có tác dụng tốt nhất đối với mầm bệnh đã xác định. Dùng liều cao ngay từ đầu, những lần sau có thể giảm liều lượng. Không nên vội vàng thay đổi kháng sinh mà phải chờ một thời gian để phát huy tác dụng của kháng sinh. Phải dùng phối hợp nhiều loại kháng sinh để làm giảm liều lượng và độc tính của từng loại, làm diện tích tác động đến vi khuẩn rộng hơn, tăng tác dụng điều trị và hạn chế hiện tượng vi khuẩn kháng thuốc. Phải tăng cường sức đề kháng của cơ thể gia súc như nuôi dưỡng tốt, dùng thêm vitamin, truyền nước sinh lý 2.2.3. Một số bệnh thường gặp trên lợn nái sinh sản 2.2.3.1.Bệnh viêm tử cung Bệnh viêm tử cung xảy ra trên các giống lợn nội, ngoại khác nhau. Lợn nái đẻ ít lứa, nhiều lứa hay đang nuôi con đều có thể mắc bệnh song tỷ lệ mắc bệnh phụ thuộc vào yếu tố vệ sinh, chăm sóc nuôi dưỡng. Khi gia súc sinh đẻ nhất là trong trường hợp đẻ khó phải can thiệp bằng tay hoặc dụng cụ, niêm mạc tử cung bị xây xát, bị tổn thương, vi khuẩn xâm nhập và phát triển gây
  22. 15 viêm. Mặt khác, một số bệnh truyền nhiễm như sảy thai truyền nhiễm, phó thương hàn, bệnh lao thường gây viêm tử cung.  Nguyên nhân bệnh viêm tử cung Theo Nguyễn Xuân Bình (2000) [1], Phạm Sỹ Lăng và cs (2002) [8], bệnh viêm tử cung ở lợn nái thường do các nguyên nhân sau: - Công tác phối giống không đúng kỹ thuật, nhất là phối giống bằng phương pháp thụ tinh nhân tạo làm xây xát niêm mạc tử cung, dụng cụ dẫn tinh không được vô trùng khi phối giống có thể từ ngoài vào tử cung lợn nái gây viêm. - Lợn nái phối giống trực tiếp, lợn đực mắc bệnh viêm bao dương vật hoặc mang vi khuẩn từ những con lợn nái khác đã bị viêm tử cung, viêm âm đạo truyền sang cho lợn khoẻ. - Lợn nái đẻ khó phải can thiệp bằng thủ thuật gây tổn thương niêm mạc tử cung, vi khuẩn xâm nhập gây nhiễm trùng, viêm tử cung kế phát. - Lợn nái sau đẻ bị sát nhau xử lý không triệt để cũng dẫn đến viêm tử cung. - Do kế phát từ một số bệnh truyền nhiễm như: Sảy thai truyền nhiễm, phó thương hàn, bệnh lao gây viêm. - Do vệ sinh chuồng đẻ, vệ sinh bộ phận sinh dục lợn nái trước và sau đẻ không sạch sẽ, trong thời gian đẻ cổ tử cung mở vi sinh vật có điều kiện để xâm nhập vào gây viêm.  Triệu chứng Sản dịch của lợn nái bình thường kéo dài trong vòng 4 - 5 ngày cá biệt tới 6 - 7 ngày, sản dịch có màu sắc hơi đỏ do lẫn máu, sau chuyển dần sang vàng hay trắng và trong. Trong trường hợp viêm thì sản dịch có thể có màu đen hôi thối, mùi tanh rất khó chịu. Bệnh viêm tử cung ở lợn nái được chia làm hai thể: + Thể cấp tính: con vật sốt 41 - 42oC trong vài ngày đầu âm môn sưng tấy đỏ, dịch xuất tiết từ trong âm đạo chảy ra trắng đục đôi khi có máu lờ lờ.
  23. 16 + Thể mãn tính: Không sốt, âm môn không sưng đỏ nhưng vẫn có dịch nhầy trắng đục tiết ra từ âm đạo, dịch nhầy thường không liên tục mà chỉ chảy ra từng đợt từ vài ngày đến 1 tuần. Lợn nái thường thụ tinh không có kết quả hoặc khi đã có thai sẽ bị tiêu thai vì quá trình viêm nhiễm niêm mạc âm đạo tử cung lan sang thai làm chết thai.  Hậu quả của bệnh viêm tử cung Tử cung là một trong những bộ phận quan trọng nhất trong cơ quan sinh dục của lợn nái, nếu tử cung xảy ra bất kỳ quá trình bệnh lý nào thì đều ảnh hưởng rất lớn tới khả năng sinh sản của lợn mẹ và sự sinh trưởng, phát triển của lợn con. Theo Trần Tiến Dũng và cs (2002) [5], Trần Thị Dân (2004) [3], khi lợn nái bị viêm tử cung sẽ dẫn tới một số hậu quả chính sau: - Khi lợn bị viêm tử cung dễ dẫn tới sảy thai. Lớp cơ trơn ở thành tử cung có đặc tính co thắt. Khi mang thai, sự co thắt của cơ tử cung giảm đi dưới tác dụng của progesterone, nhờ vậy phôi có thể bám chặt vào tử cung. Khi tử cung bị viêm cấp tính do nhiễm trùng, tế bào lớp nội mạc tử cung tiết nhiều prostaglandin F2α (PGF2α), PGF2α gây phân huỷ thể vàng ở buồng trứng bằng cách bám vào tế bào của thể vàng để làm chết tế bào và gây co mạch hoặc thoái hoá các mao quản ở thể vàng nên giảm lưu lượng máu đi đến thể vàng. Thể vàng bị phá huỷ, không tiết progesterone nữa, do đó hàm lượng Progesterone trong máu sẽ giảm làm cho tính trương lực co của cơ tử cung tăng, nên gia súc cái có chửa dễ bị sảy thai. - Lợn mẹ bị viêm tử cung bào thai cũng phát triển kém hoặc thai chết lưu. Lớp nội mạc của tử cung có nhiệm vụ tiết các chất vào lòng tử cung để giúp phôi thai phát triển. Khi lớp nội mạc bị viêm cấp tính, lượng progesterone giảm nên khả năng tăng sinh và tiết dịch của niêm mạc tử cung giảm, do đó bào thai nhận được ít thậm chí không nhận được dinh dưỡng từ mẹ nên phát
  24. 17 triển kém hoặc chết lưu. - Sau khi sinh con lượng sữa giảm hoặc mất hẳn sữa nên lợn con trong giai đoạn theo mẹ thường bị tiêu chảy. Khi lợn nái bị nhiễm trùng tử cung, trong đường sinh dục thường có mặt của vi khuẩn E.coli, vi khuẩn này tiết ra nội độc tố làm ức chế sự phân tiết kích thích tố tạo sữa prolactin từ tuyến yên, do đó lợn nái ít hoặc mất hẳn sữa. Lượng sữa giảm, thành phần sữa cũng thay đổi nên lợn con thường bị tiêu chảy, còi cọc. - Lợn nái bị viêm tử cung mãn tính sẽ không có khả năng động dục trở lại. Nếu tử cung bị viêm mãn tính thì sự phân tiết PGF2α giảm, do đó thể vàng vẫn tồn tại, vẫn tiếp tục tiết progesterone. Progesterone ức chế thuỳ trước tuyến yên tiết ra LH, do đó ức chế sự phát triển của noãn bao trong buồng trứng, nên lợn nái không thể động dục trở lại được và không thải trứng được. - Tỷ lệ phối giống không đạt tăng lên ở đàn lợn nái viêm tử cung sau khi sinh đẻ. Hiện tượng viêm tử cung âm ỉ kéo dài từ lứa đẻ trước đến lứa đẻ sau là nguyên nhân làm giảm độ mắn đẻ. Mặt khác, viêm tử cung là một trong các nguyên nhân dẫn đến hội chứng MMA, từ đó làm cho tỷ lệ lợn con nuôi sống thấp. Đặc biệt, nếu viêm tử cung kèm theo viêm bàng quang thì còn ảnh hưởng tới hoạt động của buồng trứng. * Điều trị Theo Nguyễn Văn Điền (2015) [6], đối với lợn nái viêm nhẹ, điều trị bằng cách đặt viên thuốc kháng sinh oxytetracyclin vào âm đạo từ 5 – 7 ngày. Tiêm amoxi 15% 3 lần liên tiếp, mỗi lần cách nhau 48 giờ. Đây là dạng viêm có kết quả điều trị khỏi bệnh cao. Đối với lợn nái sau khi đẻ, sảy thai và viêm nặng: Thụt rửa tử cung bằng dung dịch iodine 10% pha 10ml /2 lít nước, thụt rửa 2 lần/ngày trong 2 ngày đầu và thụt rửa 1 lần/ngày từ ngày thứ 3 đến ngày thứ 5 sau khi đẻ. Sau khi
  25. 18 thụt rửa, bơm thuốc kháng sinh O.T.C 10% (5 ml thuốc pha 20 ml nước sinh lý) hay 4g streptomycin + 40.000 UI penicillin ngày 1 lần trong 3 ngày liên tiếp vào tử cung. Đồng thời tiêm oxytocin liều 10 – 15 UI (2 ống 5 ml/1 lần) nhiều lần trong ngày để tử cung co bóp tống dịch ra ngoài. Tiêm kháng sinh phổ rộng chống viêm như: Terramycin – LA, amoxi 15% 3 lần liên tiếp mỗi lần cách nhau 48 giờ. Ngoài ra, tiêm các loại thuốc bổ trợ như: Urotropin giúp tăng cường bài tiết độc tố, thuốc hạ sốt, vitamin C liều cao và canxi hỗ trợ co bóp tử cung, các thuốc kháng viêm: ketovet. 2.2.3.2. Bệnh viêm vú  Nguyên nhân: Christensen và cs (2007) [15] khi nghiên cứu về môn học và vi khuẩn học từ mẫu mô vú bị viêm cho thấy: Vi khuẩn chính gây viêm vú là Staphylococcus spp. và Arcanobacterium pyogenes. Khi lợn nái đẻ nếu nuôi không đúng cách, chuồng bẩn thì các vi khuẩn Mycoplasma, các cầu khuẩn, vi khuẩn đường ruột xâm nhập gây viêm vú. Một trong những nguyên nhân chính gây ra bệnh viêm vú ở lợn nái là thức ăn không phù hợp cho lợn nái, không giảm khẩu phần thức ăn cho lợn nái trước khi đẻ một tuần làm cho lượng sữa tiết ra quá nhiều gây tắc sữa. Sau vài ngày đẻ mà lợn con không bú hết, sữa lưu là môi trường tốt cho vi khuẩn xâm nhập và gây viêm. Do kế phát từ một số bệnh: Sót nhau, viêm tử cung, bại liệt sau đẻ, viêm bàng quang khi lợn nái bị những bệnh này vi khuẩn theo máu về tuyến vú cư trú tại đây và gây bệnh. Lợn nái tốt sữa, lợn con bú không hết hoặc lợn nái cho con bú một hàng vú, hàng vú còn lại căng sữa. Lợn con bú làm xây xát bầu vú hoặc lợn con bị bệnh không bú, sữa xuống nhiều bầu vú căng dễ dẫn đến viêm. Do quá trình chăm sóc nuôi dưỡng kém, chất độn chuồng và ổ đẻ bẩn, sau khi đẻ bầu vú không được vệ sinh sạch, hàng ngày không vệ sinh bầu vú, thời tiết quá ẩm kéo dài, nhiệt độ thay đổi đột ngột dẫn đến viêm.
  26. 19  Triệu chứng: Theo Ngô Nhật Thắng (2006) [11], viêm vú thường xuất hiện ở một vài vú nhưng đôi khi cũng lan ra toàn bộ các vú. Vú có màu hồng, sưng đỏ, sờ vào thấy nóng, hơi cứng ấn vào lợn nái có phản ứng đau. Lợn nái giảm ăn, trường hợp nặng thì bỏ ăn, sốt cao 40,5 - 42oC kéo dài trong suốt thời gian viêm, sản lượng sữa giảm, lợn nái thường nằm úp đầu vú xuống sàn, ít cho con bú. Lợn con thiếu sữa kêu la chạy vòng quanh lợn mẹ đòi bú, lợn con ỉa chảy, xù lông, gầy tọp, tỷ lệ chết cao 30 - 100 % (Lê Hồng Mận, 2002) [8]. Vắt sữa ở những vú bị viêm thấy sữa loãng, trong sữa có những cặn hoặc cục sữa vón lại, xuất hiện những mảnh cazein màu vàng, xanh lợn cợn, đôi khi có máu.  Hậu quả của bệnh viêm vú: Khi lợn nái bị viêm vú sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng sữa, từ đó sẽ ảnh hưởng đến khả năng sinh trưởng phát triển của lợn con theo mẹ. Nguyễn Xuân Bình (2000) [1] cũng khẳng định: Mất sữa sau khi đẻ là do kế phát từ bệnh viêm tử cung và viêm vú. Do khi bị viêm cơ thể thường sốt cao liên tục 2 - 3 ngày, nước trong máu và trong mô bào bị giảm ảnh hưởng đến quá trình trao đổi chất, nhất là quá trình hấp thu chất dinh dưỡng trong đường tiêu hóa bị giảm dần dẫn đến mất sữa, khả năng phục hồi chức năng tiết sữa sẽ bị hạn chế thường xảy ra ở lứa đẻ tiếp theo. Khi bị viêm vú, sản lượng sữa của lợn nái nuôi con giảm, trong sữa có nhiều chất độc, sữa không đủ đáp ứng nhu cầu của lợn con hoặc khi lợn con bú sữa sẽ dẫn đến tiêu chảy, ốm yếu, sức đề kháng giảm, dễ mắc bệnh và trọng lượng cai sữa thấp. Nếu viêm vú nặng dẫn đến huyết nhiễm trùng, huyết nhiễm mủ thì khó chữa, lợn nái có thể chết. Viêm vú kéo dài dẫn đến teo đầu vú, vú hóa cứng, vú bị hoại tử ảnh hưởng đến khả năng tiết sữa của lợn nái ở lứa đẻ sau.
  27. 20 - Thực hiện phòng bệnh: Vệ sinh bầu vú, hai chân sau cho lợn hàng ngày bằng dung dịch sát trùng. Bấm răng sữa cho lợn con mới sinh, nên cho lợn con bú sữa đầu và phân đều vú cho từng con trong đàn. Tăng cường ăn uống đủ chất cho lợn mẹ trước và sau khi đẻ, nên giảm bớt chất đạm để hạn chế nguy cơ thừa sữa. Khi lợn mẹ bị viêm vú, không nên cho lợn con bú ở những vùng bị viêm. 2.2.3.3.Bệnh sát nhau  Nguyên nhân: lợn nái bị viêm niêm mạc tử cung nên sau khi đẻ nhau không ra hết, can thiệp vội vàng, thô bạo, không đúng kỹ thuật nên nhau bị đứt và sót lại. Lợn nái quá già, đẻ nhiều đuối sức, tử cung co bóp kém không đẩy được nhau ra. Theo Trịnh Đình Thâu và Nguyễn Văn Thanh (2010) [12], sau khi đẻ tử cung co bóp yếu trong thời gian mang thai nhất là giai đoạn cuối con vật không được vận động thỏa đáng. Trong thức ăn thiếu các chất khoáng, nhất là canxi và photpho. Hoặc tử cung bị sa liệt, con vật quá gầy yếu hoặc quá béo, chửa quá nhiều thai, thai quá to, khó đẻ, nước ối quá nhiều làm tử cung giãn nở quá mức. + Nhau mẹ và nhau con dính lại với nhau do con vật mắc các bệnh truyền nhiễm đặc biệt bệnh Brucellaloes (sẩy thai truyền nhiễm), hoặc do cấu tạo của nhau.  Triệu chứng: căn cứ vào mức độ sát nhau người ta chia ra làm 2 loại: + Sát nhau hoàn toàn: toàn bộ nhau thai nằm lại trong tử cung. Khi mắc thường là có một phần treo lơ lửng ở mép âm môn. + Sát nhau không hoàn toàn: ở động vật đơn thai một phần màng nhau còn dính lại trong tử cung con mẹ. Đối với động vật đa thai một số nhau ra ngoài, một số nhau còn sót lại trong tử cung con mẹ.  Điều trị: Trịnh Đình Thâu và Nguyễn Văn Thanh (2010) [12] cho biết, can thiệp kịp thời ngay khi nái có biểu hiện bệnh, không để quá muộn sẽ gây ra viêm tử cung, can thiệp đúng kỹ thuật, không quá mạnh tay, tránh những tổn thương.
  28. 21 Tiêm oxytocin dưới da để kích thích co bóp tử cung cho nhau còn sót lại đẩy ra ngoài hết. Sau khi nhau thai ra dùng nước muối sinh lý 0,9 % để rửa tử cung trong ba ngày liên tục. 2.2.3.4.Hiện tượng đẻ khó Lợn đẻ mà thời gian sổ thai kéo dài nhưng thai vẫn không được đẩy ra ngoài. Bệnh biểu hiện dưới nhiều hình thức, diễn biến khác nhau. Nó không những gây tổn thương cho cơ quan sinh dục mà còn dẫn đến hiện tượng vô sinh, thậm chí cả lợn mẹ và lợn con có thể chết.  Nguyên nhân: - Đẻ khó do nguyên nhân cơ thể mẹ: Khi chăm sóc, nuôi dưỡng không tốt, thức ăn không đầy đủ, chất dinh dưỡng thiếu so với nhu cầu của lợn mang thai dẫn đến cơ thể mẹ suy nhược, sức khỏe kém. Trong quá trình đẻ, sức rặn đẻ của lợn yếu, thậm trí không rặn đẻ, cổ tử cung co bóp yếu nên không đẩy thai ra ngoài. Lợn ăn quá nhiều tinh bột, protein dẫn đến béo cũng gây ra đẻ khó. Lợn quá gầy cũng dẫn đến đẻ khó. Do cấu tạo tổ chức các phần mềm như: Cổ tử cung, âm đạo giãn nở không bình thường có chỗ giãn quá mạnh, chỗ lại không giãn nên việc đẩy con ra ngoài gặp khó khăn. Khung xoang chậu bị biến dạng, khớp bán động háng phát triển không bình thường, vôi hóa cột sống hay xoang chậu hẹp. Trong quá trình đẻ độ giãn nở kém, thai bị mắc trước cửa xoang chậu không ra được. Khi quá trình rặn đẻ kéo dài, sức co bóp lớn ép lợn con bị chết. Ở thời gian có thai kỳ cuối, thai quá to, lợn nái vận động mạnh, chèn ép tử cung làm tử cung bị xoắn vặn lại, tư thế tử cung thay đổi, đường sinh dục trở nên không bình thường cũng gây đẻ khó. Do rối loạn hormone tuyến sinh dục cái: Kích tố nhau thai relaxin lúc đẻ tiết ra ít nên không làm mất lớp canxi ở bán động háng, không giãn dây chằng
  29. 22 xương chậu (không sụt mông) hoặc prostagladin tiết ít không đủ gây co bóp tử cung nên không tống thai ra ngoài được. Chế độ dinh dưỡng không phù hợp hoặc do quá ít thai, làm thai quá to không phù hợp với kích thước của xương chậu và đường sinh dục của lợn mẹ. Thai bị dị hình hay quái thai.  Triệu chứng: Lợn nái đến ngày đẻ, nước ối vỡ ra, trong nước ối có lẫn phân su nhưng không thấy thai ra. Lợn nái có biểu hiện rặn nhiều lần, rặn mạnh, thậm chí lợn nái còn rặn căng bụng, cong lưng, chân đạp vào thành chuồng để rặn nhưng thai vẫn không ra. Do thời gian rặn đẻ mạnh và kéo dài mà thai vẫn không ra làm cho lợn nái mệt mỏi. Nếu để lâu có thể dẫn đến hiện tượng thai bị ngạt mà chết. Khi đưa tay vào đường sinh dục thấy khung xoang chậu hẹp, thai to hoặc ở tư thế không bình thường nằm kẹt ở trước cửa xoang chậu.  Hậu quả Tử cung co bóp mạnh mà thai không ra, thai bị chèn ép, bị ngạt thở dẫn đến lợn con bị chết. Nếu mổ để lấy thai ra ngoài thì lợn mẹ hay bị chết hoặc không thể dùng sinh sản lứa sau. Do lợn nái rặn đẻ mạnh và kéo dài làm lợn nái mệt mỏi, kéo dài thời gian đẻ, sức co bóp của tử cung giảm, gây ra hiện tượng sót nhau, sót con dẫn đến viêm đường sinh dục. Khi dùng biện pháp can thiệp không đúng cách, gây xây xát niêm mạc tử cung, hoặc dụng cụ thủ thuật không đảm bảo vệ sinh làm lợn bị nhiễm một số bệnh: viêm tử cung, viêm vú, sảy thai truyền nhiễm khi đó, niêm mạc sẽ có những vết sẹo gây cản trở cho quá trình thụ thai, thai làm tổ dẫn đến xảy thai, tiêu thai, đẻ non ở những lần sinh sản tiếp theo, thậm trí là vô sinh. * Cách can thiệp Xác định nguyên nhân đẻ khó để đề ra biện pháp can thiệp thích hợp. - Do khô đường sinh dục: Dùng vaseline, nước xà phòng ấm đặc bôi trơn âm đạo.
  30. 23 - Do hẹp âm môn: Giải phẫu mở rộng âm môn lôi thai ra. - Do rặn đẻ yếu: Tiêm VTM B1, C, cafein trợ sức, đồng thời tiêm oxytoxin kích thích co bóp. - Do vị trí, tư thế thai không thuận: Dùng tay đẩy thai vào trong, xoay thai đúng tư thế từ từ lôi thai ra theo nhịp rặn của lợn nái. 2.2.3.5.Bệnh bại liệt sau sinh Là bệnh mà lợn mẹ mất khả năng vận động sau thời gian sổ thai.  Nguyên nhân: - Do thai quá to, tư thế và chiều hướng của thai không bình thường. - Quá trình thủ thuật kéo thai quá mạnh hay không đúng thao tác Từ đó gây tổn thương thần kinh tọa hoặc ảnh hưởng đến đám rối hông khum, làm cho → lợn mẹ bại liệt.  Triệu chứng: - Lúc đầu lợn mẹ đi lại khó khăn, về sau không đứng lên được mà nằm bẹp 1 chỗ. - Bệnh thường kế phát với 1 số bệnh ở hệ tiêu hóa, hô hấp như: chướng bụng đầy hơi, viêm phế quản cấp. - Nếu bệnh kéo dài, con vật dễ bị loét từng mảng da phía tiếp xúc với nền chuồng. - Sau 3 - 4 tuần con vật gầy dần và chết.  Biện pháp khắc phục: - Thao tác can thiệp kịp thời, đúng kỹ thuật. - Hằng ngày trở mình cho lợn mẹ, tránh bần huyết, hoại tử da và kế phát với chướng bụng, đầy hơi. - Tăng cường thức ăn có bổ sung nguyên tố vi lượng nhất là canxi và photpho. - Tiêm Mg - calcium cho lợn.
  31. 24 2.3. Tình hình nghiên cứu ở trong và ngoài nước 2.3.1. Nghiên cứu trong nước Nước ta ngành chăn nuôi rất được nhà nước quan tâm và phát triển, ngành chăn nuôi lợn đã được nhà nước đầu tư kinh phí cho rất nhiều dự án để nghiên cứu về công tác chăm sóc nuôi dưỡng và phòng trị bệnh cho lợn nói chung và lợn nái nói riêng. Theo Phạm Hữu Doanh và Lưu Kỷ (2003) [4], trước khi đẻ lau, xoa vú và tắm cho nái. Cho con đẻ đầu tiên bú ngay sau 1h đẻ, cắt răng nanh lợn con. Chườm nước đá vào bầu vú để giảm sưng, giảm sốt. Tiêm kháng sinh: Penicillin 1,5 - 2 triệu đơn vị với 10ml nước cất tiêm quanh vú. Nếu nhiều vú bị viêm thì pha loãng liều thuốc trên với 20 ml nước cất, tiêm xung quanh các vú viêm. Tiêm trong 3 ngày liên tục. Theo Trần Tiến Dũng và cs (2002) [5], bệnh viêm đường sinh dục ở lợn chiếm tỷ lệ cao từ 30 - 50 %, trong đó viêm cơ quan bên ngoài ít, chiếm tỷ lệ 20 %, còn lại 80 % là viêm tử cung. Viêm tử cung là một quá trình bệnh lý thường xảy ra ở gia súc cái sinh sản sau đẻ. Quá trình viêm hủy các tế bào tổ chức của các lớp hay các tầng tử cung gây rối loạn sinh sản ở gia súc cái làm ảnh hưởng lớn, thậm chí làm mất khả năng sinh sản ở gia súc cái. Trong quá trình mang thai lợn ăn nhiều chất dinh dưỡng, ít vận động hoặc bị nhiễm một số bệnh truyền nhiễm như: bệnh xoắn khuẩn (Leptospirosis), bệnh sảy thai truyền nhiễm (Brucellosis) và một số bệnh truyền nhiễm khác làm cơ thể lợn nái yếu dần dẫn đến lợn sảy thai, đẻ non, thai chết lưu từ đó dẫn đến viêm tử cung Theo Phạm Sỹ Lăng và cs (2002) [8], bệnh viêm tử cung do vi khuẩn Streptococcus và Colibacilus nhiễm qua cuống rốn của lợn con sang lợn mẹ do đẻ khó, sát nhau, sảy thai hay qua dụng cụ thụ tinh nhân tạo cứng gây xây xát tạo các ổ viêm nhiễm trong tử cung, âm đạo.
  32. 25 Theo Nguyễn Văn Thanh (2007) [13] Kết quả khảo sát tình hình mắc bệnh viêm tử cung trên 620 lợn nái ngoại nuôi tại một số trại tại vùng Bắc Bộ cho thấy: Tỷ lệ nhiễm viêm tử cung ở đàn lợn tương đối cao, biến động từ 36,57 % tới 61,07 %. Tỷ lệ mắc tập trung ở những lợn nái đẻ lứa đầu đến lứa thứ 8. Theo Trần Ngọc Bích và cs (2016) [2] Khảo sát tình hình viêm nhiễm đường sinh dục lợn nái sau khi sinh và hiệu quả điều trị của một số loại kháng sinh trên 143 lợn nái sau khi sinh đã phát hiện 106 con tiết dịch nghi viêm đường sinh dục, chiếm tỷ lệ 74,13 %. Chữa bệnh viêm tử cung bằng cách: sử dụng phương pháp tiêm kháng sinh vào màng treo cổ tử cung của lợn nái, điều trị viêm tử cung đạt hiệu quả cao: streptomycin 0,25g, penicillin 500.000 UI, dung dịch KMnO4 1 % 40 ml và bổ sung VTM C (Smith và cs, 1995) [16]. Theo Nguyễn Văn Điền (2015) [6], đối với lợn nái viêm nhẹ, điều trị bằng cách đặt viên thuốc kháng sinh oxytetracyclin vào âm đạo từ 5 - 7 ngày. Tiêm Amoxi 15 % 3 lần liên tiếp, mỗi lần cách nhau 48 giờ. Đây là dạng viêm có kết quả điều trị khỏi bệnh cao. Khi gây bệnh thực nghiệm trên chuột và lợn vi khuẩn Actinobacillus pleuropneumoniae và vi khuẩn Pasteurella multocida phân lập được có độc lực cao đối với chuột bạch và lợn, đồng thời khẳng định vi khuẩn là một trong những nguyên nhân chính gây bệnh đường hô hấp ở lợn. Tác giả đã sử dụng kết quả này làm cơ sở cho việc lựa chọn chủng để chếautovắc xin phòng bệnh đường hô hấp cho lợn do các vi khuẩn nêu trên gây ra. Mặt khác, còn cho biết vi khuẩn mẫn cảm cao với các loại kháng sinh Rifampicin, Ceftazidin, Ciprofloxacin và khuyến cáo nên sử dụng các loại kháng sinh này để điều trị cho lợn mắc bệnh đường hô hấp. Khi giám định một số đặc tính sinh vật học của Actinobacillus pleuropneumoniae cũng khẳng định vi khuẩn bắt màu gram âm, gây dung huyết mạnh, không di động, không mọc trên môi trường Macconkey, không
  33. 26 sinh Indol, phản ứng catalase, oxidase cho kết quả thất thường, phản ứng Urease dương tính, lên men các loại đường Maltose, Mannitol, Mannose, Xylose, lên men thất thường các loại đường Galactose, Lactose, không lên men các loại đường: Glucose, Arabinose, Sorbitol. Trần Tiến Dũng và cs ( 2002) [5] cho biết, khi gia súc bị bệnh viêm tử cung ở thể viêm cơ, viêm tương mạc thì không nên tiến hành thụt rửa bằng các chất sát trùng với thể tích lớn. Vì khi bị tổn thương nặng, cơ tử cung co bóp yếu, các chất bẩn không được đẩy ra ngoài, lưu trong đó làm cho bệnh nặng thêm. Tác giả đề nghị nên dùng oxytocin kết hợp PGF2α hoặc kết hợp với kháng sinh điều trị toàn thân và cục bộ. 2.3.2. Nghiên cứu ở nước ngoài Chăn nuôi lợn ở nước ngoài đã được quan tâm và phát triển từ lâu ở các nước Châu Âu, họ có rất nhiều các công trình nghiên cứu về đặc điểm sinh lý của con lợn nái và các bệnh, cách trị bệnh trên con lợn nái sinh sản. Theo Urban và cs (1983) [18], các vi khuẩn gây nhiễm trùng tử cung có nguồn gốc từ nước tiểu, các tác giả đã phân lập vi khuẩn từ mẫu nước tiểu lợn nái sắp sinh thường có chứa các vi khuẩn E. coli, Staphylococcus aureus, Streptococcus spp. Theo Smith và cs (1995) [16], Taylor (1995) [17], tăng cường vệ sinh chuồng trại, vệ sinh thân thể lợn nái là yếu tố quan trọng trong việc phòng ngừa nhiễm trùng sau khi sinh. Khi mổ khám những lợn vô sinh đã xác định được nguyên nhân do cơ quan sinh sản là 52,5 %, lợn nái đẻ lứa đầu là 32,1 %,lợn nái cơ bản có những biến đổi bệnh lý: viêm vòi tử cung có mủ. Theo Urban và cs (1983) [18], điều trị viêm vú trong thời kỳ cho sữa là một yếu tố cơ bản trong khống chế bệnh viêm vú. Nó phải được tiến hành sớm và đạt kết quả. Xác định nguyên nhân không chỉ dựa vào triệu chứng lâm sàng mà phải tính đến các chỉ tiêu chăn nuôi và có thể dựa vào các kết quả của phòng
  34. 27 thí nghiệm. Sự hiểu biết đầy đủ các phương pháp điều trị, nhất là về dược lực học và dược độc học cho phép đápứ ng tốt hơn phương pháp điều trị. Theo Trekaxova và cs (1983) [14], về chữa bệnh viêm vú cho lợn nái hướng vào việc đưa ra các phương pháp chữa kết hợp. Dùng novocain phong bế phối hợp với điều trị bằng kháng sinh cho kết quả tốt. Để phong bế thần kinh tuyến sữa, tác giả đã dùng dung dịch Novocain 0,5 % liều từ 30 - 40 ml cho mỗi túi vú. Thuốc tiêm vào mỗi thuỳ vú bệnh, sâu 8 - 10cm. Dung dịch Novocain còn được bổ sung 100 - 200 ngàn đơn vị Penicillin hay kháng sinh khác. Đồng thời, lợn nái còn được tiêm bắp cùng một loại kháng sinh trong Novocain này, từ 400 - 600 đơn vị, mỗi ngày 2 - 3 lần. Theo Smith và cs (1995) [16], chữa bệnh viêm tử cung bằng cách sử dụng phương pháp tiêm kháng sinh vào màng treo cổ tử cung của lợn nái, điều trị viêm tử cung đạt hiệu quả cao.
  35. 28 PHẦN 3 ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 3.1. Đối tượng - Lợn nái sinh sản nuôi tại trại Công ty Nam Việt 3.2. Địa điểm và thời gian tiến hành - Địa điểm: Trại lợn của Công ty Nam Việt, xã Phượng Tiến, huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên - Thời gian tiến hành: từ ngày 18/5/2018 đến ngày 25/11/2018. 3.3. Nội dung thực hiện - Khảo sát tình hình chăn nuôi tại trại của Công ty Nam Việt - Thực hiện quy trình chăm sóc nuôi dưỡng lợn nái sinh sản. - Áp dụng các biện pháp phòng trị và trị bệnh trên đàn lợn nái sinh sản nuôi tại trại. -Tham gia các công tác khác trong thời gian thực tập tại trại. 3.4. Các chỉ tiêu theo dõi và phương pháp thực hiện 3.4.1. Các chỉ tiêu theo dõi - Cơ cấu của đàn nái sinh sản tại trại. - Tình hình sinh sản của lợn nái tại trại. - Một số chỉ tiêu kỹ thuật của đàn lợn nái tại trại. - Tình hình mắc bệnh trên đàn lợn nái của trại - Kết quả chẩn đoán và điều trị bệnh trên đàn lợn nái của trại. 3.4.2. Phương pháp theo dõi và thu thập thông tin  Đánh giá tình hình chăn nuôi tại trại Để đánh giá được tình hình chăn nuôi của trại em đã phải hỏi thông tin từ cô chủ trại, đồng thời tự tìm hiểu và tìm kiếm số liệu từ các sổ sách ghi chép của trại trong 2 năm gần đây.
  36. 29  Tình hình sinh sản của đàn lợn nái tại trại Để khảo sát tình hình sinh sản của đàn lợn nái tại trại em đã thu thập thông tin từ chủ trại, đồng thời hỏi thông tin từ sổ sách của trại,cán bộ kỹ thuật của trại kết hợp với theo dõi đàn lợn nái trong thời gian thực tập tại cơ sở.  Tình hình mắc bệnh của đàn lợn nái tại trại Để xác định tình hình nhiễm bệnh trên đàn lợn,chúng em đã xem sổ sách theo dõi bệnh của đàn lợn, tiến hành theo dõi hằng ngày thông qua phương pháp chẩn đoán lâm sàng. Quan sát các biểu hiện như: trạng thái cơ thể,bộ phận sinh dục ngoài, dịch rỉ viêm, phân ghi chép vào nhật ký thực tập hằng ngày. Từ các triệu chứng thu thập được tiến hành chẩn đoán và điều trị bệnh cho lợn dưới sự hướng dẫn của kỹ sư trại.  Điều trị lợn mắc bệnh Sau khi xác định được bệnh chúng em sử dụng phác đồ điều trị của trại kết hợp tham khảo thêm các tài liệu khác và cán bộ kỹ thuật của trại để điều trị lợn mắc bệnh.  Phương pháp tính một số chỉ tiêu ∑ số con mắc bệnh +Tỷ lệ mắc bệnh(%)= x 100 ∑ số con theo dõi ∑ số con chết +Tỷ lệ chết(%)= x 100 ∑ số con mắc bệnh ∑ số con khỏi bệnh +Tỷ lệ khỏi bệnh(%)= x 100 ∑ số con điều trị 3.4.3 Phương pháp xử lý số liệu Các số liệu thu thập được xử lý bằng phần mềm Excel 2010
  37. 30 PHẦN 4 KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 4.1. Tình hình chăn nuôi lợn của trại từ 2016 - 2018 Trong thời gian thực tập em đã tìm hiểu và thu thập được một số thông tin về tình hình chăn nuôi lợn tại trại qua 3 năm từ (2016 - 2018) và được trình bày cụ thể trong bảng 4.1. Bảng 4.1.Tình hình chăn nuôi tại trại lợn Công ty Nam Việt qua 3 năm (2016 – 2018) 2016 2017 2018 TT Loại lợn SL % SL % SL % 1 Lợn đực giống 12 0,13 13 0,12 15 0,11 2 Lợn nái sinh sản 570 6,23 630 6,06 740 5,48 3 Lợn con 8.560 93,63 9.750 93,81 12.740 94,4 Tổng 9.142 100 10.393 100 13.495 100 (Nguồn:bộ phận thống kê của trại lợn Công ty Nam Việt) Số liệu bảng 4.1 cho thấy, số đầu đàn lợn của trại có xu hướng tăng liên tục qua các năm. Cụ thể, tổng số đầu lợn đã tăng từ 9.142 con (năm 2016) lên 13.495 con (năm 2018), tương ứng với tăng 47,61%. Trong đó lợn nái sinh sản tăng từ 570 con (năm 2016) lên 740 con (năm 2018), tương ứng với tăng 29,82%; lợn con tăng từ 8.560 con (năm 2016) lên 12.740 con (năm 2018), tương ứng với 48,83%; lợn đực tăng từ 12 con (năm 2016) lên 15 con (2018), tương ứng với tăng 25,00%. Điều đó cho thấy, tình hình phát triển chăn nuôi của trại là khá ổn định và có xu hướng tăng dần qua các năm, trong đó chăn nuôi lợn nái là hướng chăn nuôi chủ yếu để cung cấp lợn con giống cho thị trường
  38. 31 4.2. Thực hiện biện pháp chăm sóc nuôi dưỡng đàn lợn nái sinh sản 4.2.1. Số lượng lợn nái trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng tại trại Qua 6 tháng thực tập tại trại số lượng lợn nái mà em trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng trong giai đoạn từ 100 - 114 ngày, kết quả được trình bày ở bảng 4.2. Bảng 4.2. Số lượng lợn nái được em trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng Tháng Nái chửa Nái đẻ Nái nuôi con Tổng 6 26 26 25 77 7 43 43 43 129 8 38 37 37 112 9 52 52 52 156 10 46 45 45 136 11 30 30 30 90 Tổng 235 233 232 700 Số liệu bảng 4.2 cho thấy, trong thời gian thực tập tại trại, chúng em đã tiến hành trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng lợn nái qua các giai đoạn từ nái chửa đến nái nuoio con. Đây là những lợn nái chửa ở giai đoạn cuối từ 100 – 114 ngày, đã được chuyển lên chuồng nái đẻ để chờ đẻ và tập làm quen với chuồng đẻ. Khi lợn chuyển lên chuồng đẻ thì thẻ nái được gắn vào mỗi bảng cám đầu ô chuồng, ghi ngày đẻ dự kiến, bảng cám để tiện cho ăn và chuẩn bị đỡ đẻ. Khi chăm sóc lợn nái bầu giai đoạn 2 tuần trước khi đẻ phải chú ý khẩu phần ăn của từng con lợn, khi tra cám phải nhìn vào bảng cám của từng con, nếu cho ăn quá nhiều hoặc quá ít đều ảnh hưởng tới bào thai. Qua quá trình chăm sóc, nuôi dưỡng, trong 6 tháng , tháng 8 và tháng 10 có lợn nái đẻ ít phải ghép đàn và sảy thai. 4.2.2. Tình hình sinh sản của lợn nái trực tiếp theo dõi tại trại Trong suốt quá trình thực tập tại trại lợn Công ty Nam Việt em đã theo dõi được tình hình sinh sản của lợn nái nuôi tại trại được thể hiện qua bảng 4.3.
  39. 32 Bảng 4.3. Tình hình sinh sản của lợn nái nuôi tại trại Số con đẻ Số con đẻ Tháng Số con đẻ bình Tỷ lệ (%) khó phải Tỷ lệ (%) thường can thiệp 6 26 25 96,15 1 3,85 7 43 41 97,61 2 2,39 8 37 33 89,18 4 10,82 9 52 50 96,15 2 3,85 10 45 41 97,56 1 2,44 11 30 29 96,66 1 3,34 Tổng 233 228 95,55 11 4,45 Số liệu bảng 4.3 cho thấy tổng số lượng lợn đẻ mỗi tháng, số con đẻ bình thường và số con đẻ phải can thiệp của trại. Tỷ lệ lợn nái đẻ phải can thiệp từ 2 – 10 %, trung bình là 4,45 %. Lợn nái đẻ khó phải can thiệp là do lợn đẻ ở những lứa đầu, do lợn ăn nhiều vào giai đoạn cuối của thời kỳ làm thai quá to, do ngôi thai không thuận, do lợn mẹ ít được vận động và do sức khỏe của con mẹ không tốt. Số lợn nái đẻ phải can thiệp với tỷ lệ thấp là do trong quá trình chăm sóc đã thực hiện đúng quy trình về thức ăn cho lợn nái mang thai. Tỷ lệ đẻ khó cao nhất 10 % cho thấy sự chăm sóc thực hiện tốt quy trình kỹ thuật cho lợn nái sinh sản. Trong quá trình đỡ đẻ, em rút được kinh nghiệm là cần chuẩn bị tốt lồng úm cho lợn con, vệ sinh vùng mông và âm hộ con mẹ trước khi đẻ. Khi lợn đẻ phải chú ý từng con một để biết con nào đẻ khó thì cần phải xử lý và can thiệp, chú ý thời gian đẻ của mỗi con để biết nhanh hay chậm. Nếu con mẹ đẻ khó cần can thiệp sớm bằng cách dùng oxytocin để kích thích co bóp cơ trơn tử cung, xoa bầu vú. Nếu thai quá to, con mẹ rặn đẻ không được phải nhanh chóng can thiệp đưa con ra ngoài để tránh ngạt, làm chết những con còn lại trong tử cung. Khi can thiệp phải chú ý sát trùng tay, đeo 32ang tay sát trùng, vệ sinh vùng mông, âm hộ, phải tiến hành nhẹ nhàng tránh gây đứt nhau, xây sát niêm mạc tử cung con nái. Những người trực tiếp đỡ đẻ và can thiệp đẻ khó phải cắt móng tay, nếu để móng tay dài có thể làm tổn thương lợn con mới sinh, ảnh hưởng tới niêm mạc tử cung của lợn mẹ.
  40. 33 4.3. Kết quả chăm sóc nuôi dưỡng đàn lợn con theo mẹ tại trại Để để đánh giá được các chỉ tiêu sinh sản về lợn nái, trong thời gian thực tập tại trại em đã trực tiếp theo dõi khả năng sinh sản của đàn lợn nái kết quả được trình bày ở bảng 4.4 Bảng 4.4. Một số chỉ tiêu về số lượng lợn con sơ sinh/lứa của lợn nái Trung bình số Tỷ lệ nuôi Số lợn Trung bình số con con còn sống sống/ Tháng nái đẻ đẻ ra/lứa/nái đến cai lứa/nái (con) sữa/lứa/nái (%) 6 26 10,85 10,02 92,35 7 43 11,46 11,08 96,68 8 37 11,68 11,03 94,43 9 52 11,32 10,72 94,70 10 45 12,08 11,51 95,28 11 30 12,25 11,53 94,12 Tổng 233 11,60 10,98 94,65 Số liệu bảng 4.4 cho thấy các chỉ tiêu về sinh sản là tương đối cao. Trong 6 tháng thực tập có tổng 233 con lợn nái đẻ với số con đẻ ra trung bình là 11,60 con/lứa, số con còn sống đến cai sữa là 10,98 con/lứa và tỷ lệ sống đạt 94,65 %. Tỷ lệ đẻ ở các tháng 6, 7 và 8 thấp, thấp nhất là 10,85 con/ lứa do lúc này thời tiết khí hậu nóng nên nhiệt độ trong chuồng thay dổi, trại thường xuyên có sự thay đổi công nhân, luôn có sự bàn giao công việc giữa người cũ và người mới, do mất điện làm tăng nhiệt độ chuồng nuôi, mức độ thông thoáng kém dẫn đến chết thai nhiều. Trong quá trình nuôi dưỡng từ sau khi đẻ đến 21 ngày số lượng lợn con cai sữa tăng. Có nhiều nguyên nhân là do kỹ thuật đỡ đẻ của công nhân và sinh viên thực tập ngày càng được nâng cao. Lợn con bị lợn mẹ đè chết giảm do công tác trông lợn ngày càng được chú ý hơn. Tại trại, trong 6 tháng theo dõi em thấy lợn con có tỉ lệ sống cao nhất là 96,68 % vào tháng 7 và thấp nhất là
  41. 34 92,35 % vào tháng 6, vì tháng 6 có sự thay đổi công nhân, người mới chưa quen việc, nên ảnh hưởng đến sức khỏe của đàn lợn con. Để có tỷ lệ lợn con sống đến cai sữa cao phải chú ý chăm sóc, nuôi dưỡng tốt, nếu nhiệt độ môi trường thấp phải đưa lợn con vào ô úm, không nên để chuồng và sàn chuồng ẩm ướt để tránh lợn con bị tiêu chảy. Nên cho lợn con tập ăn sớm lúc 5 ngày tuổi để tăng khả năng tăng trọng của lợn. Phải tạo mọi điều kiện thích hợp, tối ưu nhất để lợn con có khả năng phát triển tốt nhất.Vì vậy trong quá trình nuôi dưỡng cần đảm bảo số lượng công nhân trong dãy chuồng đang đẻ để giảm tỷ lệ chết do lợn mẹ đè là 2 người trên 1 dãy chuồng 56 nái đang đẻ và nuôi con. Trong quá trình đỡ đẻ, thiến, mổ hecni phải đảm bảo sát trùng đúng kỹ thuật. Tuân thủ đúng yêu cầu trên thì chúng ta có thể hạn chế được tỷ lệ lợn con chết, đảm bảo số lượng lợn con xuất bán cao, mang lại hiệu quả kinh tế cho người chăn nuôi. 4.4. Kết quả thực hiện phòng bệnh cho lợn nái sinh sản tại trại 4.4.1. Thực hiện vệ sinh phòng bệnh trên đàn lợn nái tại trại Việc vệ sinh sát trùng chuồng trại có vai trò rất quan trọng trong chăn nuôi. Vệ sinh bao gồm nhiều yếu tố: Vệ sinh môi trường xung quanh, vệ sinh đất, nước, vệ sinh chuồng trại Trong thời gian thực tập chúng tôi đã thực hiện tốt quy trình vệ sinh trong chăn nuôi. Hàng ngày chúng tôi tiến hành thu gom phân thải, rửa chuồng, quét lối đi lại giữa các dãy chuồng. Định kỳ tiến hành phun thuốc sát trùng, quét vôi, phun thuốc diệt muỗi, quét mạng nhện trong chuồng và rắc vôi bộc ở cửa ra vào chuồng, đường đi nhằm đảm bảo vệ sinh. Sau đây là kết quả thực hiện vệ sinh, sát trùng trong 6 tháng thực tập tại trại của tôi. Bảng 4.5. Kết quả thực hiện vệ sinh, sát trùng tại trại Số lượng Kết quả thực Tỷ lệ Stt Công việc (lần) hiện (lần) (%) 1 Vệ sinh chuồng trại hàng ngày 180 145 80,55 Phun sát trùng định kỳ xung quanh 2 48 32 66,66 chuồng trại 3 Quét và rắc vôi đường đi 143 103 72,02
  42. 35 Từ kết quả bảng 4.5 có thể thấy việc vệ sinh, sát trùng hàng ngày luôn được trại quan tâm và làm thường xuyên hàng ngày. Theo quy định của trại về việc vệ sinh chuồng và rắc vôi đường đi được thực hiện ít nhất 1 lần/ngày. Và trong 6 tháng thực tập tại trại tôi đã thực hiện được 145 lần (đạt tỷ lệ 80,55% so với số lần phải vệ sinh trong 6 tháng). Quét và rắc vôi đường đi đã thực hiện được 103 lần (đạt tỷ lệ 72,02% so với số lần phải quét, rắc vôi bột đường đi trong 6 tháng tại trại). Phun sát trùng xung quanh chuồng trại được phun định kỳ 2 lần/tuần. Trong cả đợt thực tập tôi đã tham gia 32 lần trên tổng số 48 lần phải thực hiện chiếm tỷ lệ 66,66 %.Nếu trại có tình hình nhiễm dịch bệnh thì sẽ được tăng cường việc phun sát trùng lên hàng ngày. Qua đó, em đã biết được cách thực hiện việc vệ sinh, sát trùng trong chăn nuôi như thế nào cho hợp lý nhằm hạn chế được dịch bệnh cũng như nâng cao sức đề kháng cho vật nuôi. Bảng 4.6. Lịch sát trùng trại lợn nái Trong chuồng Ngoài khu Thứ Chuồng nái Chuồng Ngoài vực chăn Chuồng đẻ chửa cách ly chuồng nuôi Phun sát Phun sát Quét hoặc rắc Phun sát trùng Phun sát Thứ 2 trùng toàn bộ trùng toàn vôi đường đi + rắc vôi trùng khu vực bộ khu vực Phun sát trùng + Quét hoặc rắc Thứ 3 Phun sát trùng quét vôi đường đi vôi đường đi Thứ 4 Xả vôi xút gầm Phun sát trùng Rắc vôi Rắc vôi Phun sát trùng Thứ 5 Phun ghẻ Phun ghẻ + xả vôi xút gầm Phun sát trùng Phun sát Phun sát Thứ 6 Phun sát trùng Phun sát trùng + rắc vôi trùng trùng Thứ 7 Phun sát trùng Phun sát trùng Chủ Vệ sinh tổng Vệ sinh tổng Vệ sinh tổng Vệ sinh tổng nhật chuồng chuồng chuồng khu Những việc em đã tham gia vào vệ sinh phòng bệnh theo lịch sát trùng của trại là: phun sát trùng chuồng đẻ, rắc vôi đường đi, đường lấy phân, đường
  43. 36 tra cám, xả vôi gầm và quét dọn vệ sinh toàn chuồng. Chủ nhật hàng tuần sau khi đã làm xong các công việc trong chuồng, em đã tham gia cùng mọi người tiến hành tổng vệ sinh bên trong và bên ngoài chuồng, dọn dẹp nhà tắm sát trùng và khu vực ăn uống, nghỉ trưa của công nhân. 4.4.2. Kết quả tiêm vắc xin phòng bệnh cho lợn nái Quy trình tiêm phòng, phòng bệnh cho đàn lơn của trang trại được thực hiện tích cực, thường xuyên và bắt buộc. Tiêm phòng cho đàn lợn nhằm tạo ra cho cơ thể chúng một sưc miễn dịch chủ động, chống lại sự xâm nhập của vi khuẩn, tăng cường sức đề kháng cho cơ thể. Sau đây là kết quả tiêm phòng cho lợn nái được thể hiện qua bảng 4.7. Bảng 4.7. Kết quả tiêm vắc xin phòng bệnh cho lợn nái sinh sản Liều Số Tỷ An Loại Thời điểm Bệnh được Loại vắc Ðường dùng con lệ toàn lợn phòng bệnh phòng xin tiêm (ml/con) tiêm (%) (%) Xảy thai, Lợn Sau khi nhập khô thai Tiêm hậu Parvovirus 2 46 100 100 về 5 tuần truyền bắp bị nhiễm Lở mồm Tiêm 12 tuần chửa Aftopor 2 22 100 100 long móng bắp Hội chứng rối loại hô Tiêm Tháng 3,7,11 Aftopor 2 58 100 100 hấp và sinh bắp sản Lợn Tiêm nái Tháng 4,8,12 Giả dại Begonia 2 14 100 100 bắp Tiêm 10 tuần chửa Dịch tả Coglapest 2 40 100 100 bắp Kí sinh Tiêm Tháng 6,12 Idectin 2 36 100 100 trùng bắp
  44. 37 Bảng 4.7 là quy trình phòng bệnh cho lợn hậu bị và lợn nái bằng vắc xin của trại. Hàng tuần, lợn nái chửa 12 tuần tiêm vắc xin Aftopor phòng bệnh lở mồm long móng và nái chửa 10 tuần tiêm vắc xin Coglapest phòng dịch tả. Vắc xin phòng bệnh xảy thai, khô thai truyền nhiễm tiêm cho lợn nái hậu bị sau khi nhập về trại 5 tuần, tiêm với tỷ lệ 100 % lợn hậu bị; hội chứng rối loạn sinh sản và hô hấp; giả dại được thực hiện định kỳ 4 tháng 1 lần. Thuốc trị kí sinh trùng tiêm định kỳ tháng 6, 12 và tiêm 100 % đàn. Việc sử dụng vắcxin để phòng bệnh được thực hiện nghiêm túc theo đúng lịch tiêm vắcxin của công ty Việt Nam. Nhờ đó mà khả năng miễn dịch của lợn được tăng lên, tỷ lệ số nái mắc các bệnh về sinh sản giảm, số con sinh ra nhiều, lợn con đẻ ra khỏe mạnh ít bị bệnh, nâng cao hiệu quả kinh tế. 4.4.3. Tình hình mắc bệnh ở đàn lợn nái sinh sản tại trại Trong thời gian 6 tháng thực tập tại trại chúng tôi đã được tham gia vào công tác chẩn đoán và điều trị bệnh cho đàn lợn nái cùng với các anh kỹ sư của trại. Qua đó chúng tôi đã được trau dồi thêm kiến thức, kinh nghiêm về chẩn đoán một số bệnh thường gặp, nguyên nhân gây ra bệnh và cách khắc phục, điều trị bệnh. Sau đây là kết quả của công tác theo dõi tình hình mắc bệnh trên đàn lợn nái tại trại. Bảng 4.8. Kết quả theo dõi tình hình mắc bệnh ở đàn lợn nái sinh sản tại trại Chỉ tiêu theo dõi Số nái Số nái Tỷ lệ theo dõi mắc bệnh Tên bệnh (%) (con) (con) Viêm tử cung 233 11 4,72 Sát nhau 233 8 3,43 Viêm vú 233 4 1,72 Bại liệt sau sinh 233 2 0,86 Đẻ khó 233 11 4,72
  45. 38 Số liệu bảng 4.8 cho thấy, trong 233 con lợn nái theo dõi có 14 con mắc bệnh viêm tử cung, 8 con mắc bệnh sát nhau, 11 con có hiện tượng đẻ khó, 4 con mắc bệnh viêm vú và 3 con mắc bệnh bại liệt sau sinh. Tỷ lệ lợn nái mắc bệnh viêm tử cung cao chiếm 4,72 %, do đàn lợn nái ở đây thuộc các dòng nái giống ngoại có năng suất sinh sản cao, nhưng lại chưa thích nghi được hoàn toàn với điều kiện của nước ta, bên cạnh đó quá trình nuôi dưỡng, chăm sóc chưa tốt kết hợp với khí hậu không thuận lợi. Mặt khác, do trong quá trình phối giống và quá trình can thiệp khi lợn đẻ khó phải sử dụng thủ thuật để móc lấy thai không đúng kỹ thuật đã làm sây sát niêm mạc tử cung, tạo điều kiện cho vi khuẩn xâm nhập phát triển và gây bệnh. Tỷ lệ mắc bệnh đẻ khó chiếm 4,72% do lợn nái ít được vận động, ngôi thai không thuận, thai quá to, sức khỏe lợn mẹ yếu. Tỷ lệ mắc bệnh sát nhau là 3,43% nguyên nhân gây nên bệnh này có thể do kế phát từ các ca lợn nái mắc bệnh viêm tử cung ở thể nặng, do cho ăn quá nhiều ở giai đoạn chửa kỳ 2 làm thai to, khó đẻ, do các thao tác đỡ đẻ không đúng làm đứt nhau, sát nhau.Tỷ lệ mắc bệnh viêm vú là 1,72 %, do kế phát từ bệnh viêm tử cung, do nền chuồng bẩn, vú bị tổn thương Tỷ lệ mắc bệnh bại liệt sau sinh là 0,86 % do trong quá trình chăm sóc, nuôi dưỡng chưa cung cấp đầy đủ các chất khoáng như: canxi, photpho 4.5. Kết quả chẩn đoán và điều trị bệnh cho lợn nái sinh sản tại trại 4.5.1. Kết quả điều trị bệnh ở đàn lợn nái sinh sản tại trại Sau 6 tháng thực tập trong quá trình chẩn đoán và điều trị bệnh, em đã thu được kết quả điều trị bệnh trên đàn lợn nái sinh sản của trại được trình bày trong bảng 4.9.
  46. 39 Bảng 4.9. Kết quả trực tiếp điều trị bệnh trên đàn nái sinh sản tại trại Thời Kết quả Chỉ tiêu gian Thuốc Liều Đường Số con Số con dùng Tỷ lệ Tên điều trị lượng tiêm điều trị khỏi thuốc (%) bệnh (con) (con) (ngày) Oxytocin 2ml/con Viêm tử Tiêm 1ml/20 kg 3-5 11 10 90,90 cung Pen - strep bắp TT Oxytocin 2ml/con Tiêm Sát nhau 1ml/20 kg 3 8 6 75,00 Pen - strep bắp TT 1ml/20kg Tiêm Viêm vú Pen - strep 3-5 4 3 75,00 TT bắp Mg - Tiêm Bệnh bại liệt 60 ml/con 2 - 3 2 1 50,00 Calcium bắp 1,7 - 1,8 Tiêm Đẻ khó Oxytocin 1 11 10 90,90 ml bắp Số liệu bảng 4.9 cho thấy: trong 11 con mắc bệnh viêm tử cung điều trị khỏi 10 con đạt tỷ lệ cao nhất so với các bệnh cùng điều trị là 90,90% do bệnh được phát hiện sớm và điều trị kịp thời. Bên cạnh đó có 3 con mắc bệnh bại liệt sau sinh, điều trị khỏi 1 con, tỷ lệ khỏi đạt 50,00 %. Tỷ lệ điều trị bại liệt cho lợn chưa cao là do khi lợn đã mắc bệnh khả năng phục hồi cơ xương rất khó nên khả năng đi lại, vận động kém hoặc mất khả năng vận động dẫn đến bị hoại tử phần tiếp xúc với nền sàn chuồng, nếu để lâu lợn mẹ gầy yếu dẫn đến chết. Có 8 con mắc bệnh sát nhau điều trị khỏi 6 con đạt tỷ lệ 75,00 %. Ðẻ khó có 11 con mắc điều trị khỏi 10 con, tỷ lệ khỏi đạt 90.90% do có 1 con phải mổ vì phát hiện muộn, thai quá to, ngôi thai không thuận, lợn nái không được vận động làm cho thai to khó đẻ, sức khỏe lợn mẹ yếu và 4 con mắc bệnh viêm vú
  47. 40 điều trị khỏi 3 con đạt tỷ lệ 75,00 % do việc chẩn đoán bệnh thường khó khăn hơn, khi chúng ta phát hiện ra bệnh thì bệnh đã ở thể viêm nặng và điều trị khó khăn hơn. Ðối với bệnh sát nhau, viêm tử cung sau đẻ trại dùng oxytocin liều 2 ml/con để tăng cường co bóp cơ trơn tử cung, giúp đẩy nhau thai, sản dịch ra ngoài nhanh hơn. Kết hợp dùng kháng sinh để điều trị và phòng viêm nhiễm tái phát bằng Pen - strep với liều lượng là 1 ml/20 kg TT. Ðiều trị trong 3 ngày. Sau khi nhau thai, dịch tử cung ra hết em dùng nước muối sinh lý 0,9 % để rửa tử cung trong ba ngày liên tục. Bệnh viêm vú trại em dùng Pen - strep liều 1ml/20 kg TT điều trị trong 3 ngày kết hợp vệ sinh sạch sẽ sàn chuồng và vệ sinh sát trùng vùng vú bị viêm. Với bệnh bại liệt sau sinh trại dùng Mg - calcium với liều 60 ml/con, tiêm bắp, điều trị trong 2 - 3 ngày kết hợp với kiểm tra thức ăn, hỗ trợ con vật trở mình thường xuyên và vệ sinh sạch sẽ nền chuồng để tránh chỗ nằm lâu bị thối loét. Những con nái sau quá trình điều trị nhưng không có kết quả tốt thì loại thải theo lịch loại thải của công ty, những con chết trại xử lý bằng cách đào hố trôn, rắc vôi xung quanh. Ðảm bảo không gây ô nhiễm môi trường 4.5.2. Kết quả thực hiện một số công việc khác tại trại Bảng 4.10. Bảng kết quả thực hiện các công việc khác trong 6 tháng thực tập Số lượng Kết quả (an toàn) Stt Công việc thực hiện Số lượng Tỷ lệ (%) (con) (con) 1 Mài nanh,bấm tại, bấm đuôi 1.120 1.120 100 2 Thiến lợn đực 560 560 100 3 Mổ hecnia 12 10 83,33 4 Xuất lợn con 1.095 1.095 100 5 Tiêm Fe-B12,cho uống cầu trùng 1.120 1.120 100 6 Đỡ lợn đẻ 120 120 100
  48. 41 Trong thời gian thực tập tại trại chúng em vừa tham gia chăm sóc, nuôi dưỡng đàn lợn của trại vừa được học làm một số thao tác trên lợn con như mái nanh, bấm số tai, thiến lợn đực và mổ hecnia Số liệu bảng 4.10 có thể thấy trong 6 tháng thực tập em thực hiện các công việc khác tại trại là không đồng đều. Công việc việc mài nanh, bấm số tai và cắt đuôi là được thực hiện nhiều nhất với số lợn con thực hiện là 1.120 con kết quả an toàn đạt 100%. Vì lợn con sau khi sinh ra phải mài nanh luôn nếu không sẽ làm tổn thương vú lợn mẹ khi bú, cũng như tránh việc lợn con cắn nhau, bấm số tai sớm để vết thương mau lành, ít chảy máu và làm giảm stress cho lợn con. Thiến trực tiếp 560 lợn đực và tỷ lệ thành công 100% Qua thời gian thực tập ở trại em đã trực tiếp đỡ đẻ cho 120 lợn,an toàn 120 lợn,đạt tỷ lệ 100% Công việc mổ hecnia với số ca thực hiện ít, trong 6 tháng thực tập tôi có theo dõi và phát hiện được 12 lợn con bị hecnia và tiến hành mổ thành công 10 con và đạt tỷ lệ 83,33%. Nguyên nhân dẫn đến lợn con bị hecnia chủ yếu là do di truyền khi đẻ ra lợn con đã bị, một phần là do trong quá trình tao tác thiến lợn đực do không đúng kỹ thuật làm rách lỗ bẹn dẫn đến ruột theo lỗ bẹn thoát ra ngoài âm nang. Trong 6 tháng thực tập, em đã tham gia tiêm Fe – B12 và cho lợn con uống thuốc phòng trị bệnh cầu trùng cho 1120 lợn con được 3 ngày tuổi và đạt kết quả an toàn 100%. Tiến hành xuất 1.095 lợn con an toàn 100%. Qua những việc trên đã giúp em học hỏi thêm nhiều kinh nghiệm trong châm sóc lợn con cũng như nâng cao tay nghề vè thao tác kỹ thuật trên lợn con, đồng thời giúp tôi mạnh dạn hơn, tự tin hơn vào khả năng của mình, hoàn thành tốt công việc được giao.
  49. 42 PHẦN 5 KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 5.1. Kết luận 1- Tình hình chăn nuôi lợn của trại : + Hiệu quả chăn nuôi của trại khá tốt + Lợn nái được chăm sóc, nuôi dưỡng và tiêm phòng vắc xin đầy đủ và đạt hiệu quả cao. 2- Kết quả đã đạt được và những bài học kinh nghiệm trong 6 tháng thực tập  Kết quả đạt được + Trong thời gian thực tập tại cơ sở: Em đã chăm sóc, nuôi dưỡng cho 233 lợn nái, điều trị cho lợn nái mắc bệnh. + Đỡ đẻ trực tiếp cho 120 lợn nái, an toàn 100%, tham gia suất 1095 lợn con, thiến 560 lợn đực và tiêm sắt cho 1.120 lợn con đều an toàn 100%. + Theo dõi và điều trị bệnh cho lợn nái nuôi tại trại theo phác đồ điều trị của trại và những tài liệu tham khảo đạt kết quả từ 50%-90%  Những bài học kinh nghiệm + Phòng bệnh bằng vaccine hiệu quả là cách chăn nuôi lợn nái tốt nhất để lợn có thể khỏe mạnh và có khả năng kháng bệnh cao. + Thức ăn, đầy đủ dinh dưỡng, phù hợp với lứa tuổi và giai đoạn mang thai giúp đạt hiệu quả cao trong chăn nuôi. + Điều kiện chăm sóc nuôi dưỡng tốt giúp lợn sinh trưởng và phát triển toàn diện. 5.2. Đề nghị - Trại cần thực hiện tốt hơn công tác vệ sinh trong và ngoài chuồng nuôi, cần quản lý chặt chẽ hơn nữa người và xe ra vào trại.
  50. 43 - Công tác vệ sinh chuồng bầu và vệ sinh dụng cụ, vệ sinh gia súc trước khi phối giống, vệ sinh máng ăn, máng uống, cần được thực hiện tốt giảm tỉ lệ lợn mắc bệnh. - Tăng cường công tác quản lý lợn con để hạn chế thấp nhất tình trạng lợn con chết do bị đè và rơi xuống gầm. - Hướng dẫn cho công nhân chi tiết về các kỹ thuật cơ bản trong chăn nuôi, nhất là có công nhân mới. - Thực hiện tốt hơn công tác mổ hecnia cho lợn con. Lợn cai sữa cần được chăm sóc tốt hơn để giảm tỷ lệ mắc các bệnh. - Cần chú ý tới việc sử dụng nước trong chuồng để chuồng luôn khô ráo, làm giảm tỷ lệ lợn con theo mẹ mắc bệnh tiêu chảy. - Nhà trường và Ban chủ nhiệm khoa Chăn nuôi thú y tiếp tục cho các sinh viên khóa sau về trại thực tập để có được nhiều kiến thức thực tế và nâng cao tay nghề trước khi ra trường.
  51. 44 TÀI LIỆU THAM KHẢO I. Tài liệu Tiếng Việt 1. Nguyễn Xuân Bình (2000), Phòng trị bệnh heo nái,heo con,heo thịt, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, tr. 29 - 35. 2. Trần Ngọc Bích, Nguyễn thị cẩm Loan, Nguyễn phúc Khánh (2016), “Khảo sát tình hình viêm nhiễm đường sinh dục lợn nái sau khi sinh và hiệu quả điều trị của một số loại kháng sinh”, Tạp chí Khoa học kỹ thuật Thú y, tập XXIII (số 5), tr. 51 - 56. 3. Trần Thị Dân (2004), Sinh sản heo nái và sinh lý heo con, Nxb Nông nghiệp, Tp.HCM. 4. Phạm Hữu Doanh, Lưu Kỷ (2003), Kỹ thuật nuôi lợn nái mắn đẻ sai con, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 5. Trần Tiến Dũng , Dương Đình Long, Nguyễn Văn Thanh (2002), Sinh sản gia súc, Nxb Nông nghiệp - Hà Nội. 6. Nguyễn Văn Điền (2015), Kinh nghiệm xử lý bệnh viêm tử cung ở lợn nái sinh sản, Trung tâm giống vật nuôi Phú Thọ 7. Nguyễn Bá Hiên và Trần Thị Lan Hương, Giáo trình miễn dịch học ứng dụng , Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 8. Phạm Sỹ Lăng, Phan Địch Lân, Trương Văn Dũng (2002), Bệnh phổ biến ở lợn và biện pháp phòng trị, tập II, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, tr. 44 -52. 9. Lê Hồng Mận (2002), Chăn nuôi lợn nái sinh sản ở nông hộ, Nxb Nông nghiệp Hà Nội. 10. Trần Văn Phùng, Từ Quang Hiển, Trần Thanh Vân, Hà Thị Hảo (2004), Giáo trình Chăn nuôi lợn, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 11. Ngô Nhật Thắng (2006), Hướng dẫn chăn nuôi và phòng trị bệnh cho lợn, Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội. 12. Trịnh Đình Thâu, Nguyễn Văn Thanh (2010), “Tình hình bệnh viêm tử
  52. 45 cung trên đàn lợn nái ngoại và các biện pháp phòng trị”, Tạp chí Khoa học kỹ thuật thú y, tập 17. 13. Nguyễn Văn Thanh (2007),”kết quả khảo sát tình hình mắc bệnh viêm tử cungtrên lợn nái ngoại nuôi tại một số trang trại vùng Đông Bắc Bộ”,Tạp chí khoa học kỹ thuật thú y,tập XIV (số 3),tr.38-43 14. Trekaxova A.V., Daninko L.M., Ponomareva M.I., Gladon N.P., (1983), Bệnh của lợn đực và lợn nái sinh sản (người dịch Nguyễn Đình Chi), Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. II. Tài liệu tiếng Anh 15. Christensen R. V., Aalbaek B., Jensen H. E. (2007), “Pathology of udder lesions in sows”, J. Vet. Med. A Physiol, Patho.l Clin, Med, 2007 Nov., 54(9), tr. 491. 16. Smith B.B., Martineau G., Bisaillon A., (1995), “Mammary gland and lactaion problems”, In disease of swine, 7th edition, Iowa state university press, pp. 40 - 57. 17. Taylor D.J., (1995), Pig diseases 6th edition, Glasgow University, U.K, pp. 315 - 320. 18. Urban V.P., Schnur V.I., Grechukhin A.N., (1983), “The metritis, mastitis agalactia syndrome of sows as seen on a large pig farm”, Vestnik selskhozyaistvennoinauki, 6, pp. 69 - 75.