Khóa luận Thơ Nguyễn Khoa Điềm trong trường trung học từ góc nhìn văn hóa

pdf 59 trang thiennha21 16/04/2022 7910
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Thơ Nguyễn Khoa Điềm trong trường trung học từ góc nhìn văn hóa", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfkhoa_luan_tho_nguyen_khoa_diem_trong_truong_trung_hoc_tu_goc.pdf

Nội dung text: Khóa luận Thơ Nguyễn Khoa Điềm trong trường trung học từ góc nhìn văn hóa

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA NGỮ VĂN ====== NGUYỄN THỊ YẾN TH NGUYỄN KHOA ĐIỀM TRONG TRƯỜNG TRUNG HỌC T G C NH N VĂN H A KH A LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Người hướng dẫn khoa học TS. LA NGUYỆT ANH HÀ NỘI, 2016
  2. LỜI CẢM N Trong quá trình triển khai khóa luận, tôi xin chân thành cảm ơn Tiến sĩ La Nguyệt Anh cùng toàn thể các thầy, cô giáo trong Tổ Bộ môn Văn học Việt Nam đã hƣớng dẫn và giúp đỡ nhiệt tình để tôi hoàn thành khóa luận này. Do thời gian có hạn, năng lực nghiên cứu của bản thân còn hạn chế, chắc chắn không tránh khỏi sự thiếu sót, tôi mong tiếp tục nhận đƣợc sự giúp đỡ của thầy cô cùng toàn thể bạn bè để tôi có thể hoàn thiện t t hơn h a luận của mình. Hà nội, tháng 05 năm 2016 Tác giả Nguyễn Thị Yến
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan: Đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, có tham khảo ý kiến của những ngƣời đi trƣớc dƣới sự hƣớng dẫn của Tiến sĩ La Nguyệt Anh. Các s liệu và kết quả nghiên cứu đƣợc ghi trong khóa luận là hoàn toàn trung thực. Hà nội, tháng 05 năm 2016 Tác giả Nguyễn Thị Yến
  4. MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 1. Lí do chọn đề tài 1 2. Lịch sử vấn đề 2 3. Đ i tƣợng, phạm vi nghiên cứu 3 4. Phƣơng pháp nghiên cứu 3 5. Mục đích, ý nghĩa, đ ng g p của khóa luận 4 6. Cấu trúc của khóa luận 4 NỘI DUNG 5 CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG 5 1.1. Những tiền đề khoa học 5 1.1.1. Khái niệm văn h a, văn học 5 1.1.1.1. Khái niệm văn h a 5 1.1.1.2. Khái niệm văn học 6 1.2. Nguyễn Khoa Điềm và quá trình sáng tác 10 1.2.1. Tác giả Nguyễn Khoa Điềm 10 1.2.2. Quá trình sáng tác của Nguyễn Khoa Điềm 12 1.3. Khảo sát sáng tác của Nguyễn Khoa Điềm trong chƣơng trình Ngữ văn THCS và PTTH 16 Chƣơng 2. KHÚC HÁT RU NHỮNG EM BÉ LỚN TRÊN LƯNG MẸ C NGU N KHO ĐIỀM T G C NH N V N H 18 2.1. Hát ru từ cội nguồn văn h a 18 2.1.1. Hát ru trong truyền th ng văn h a dân tộc 18 2.1.2. Hát ru trong văn h a Tà-ôi 23 2.2. Những yếu t văn h a trong Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ của Nguyễn Khoa Điềm 28
  5. 2.2.1. Cội nguồn văn h a - nguồn nuôi dƣỡng tâm hồn con ngƣời 28 2.2.1.1. Cội nguồn của tình mẫu tử 28 2.2.1.2. Cội nguồn của tình yêu nƣớc 30 2.2.2. Bức tƣợng đài bất tử về mẹ 32 2.2.2.1. Bà mẹ chan chứa tình thƣơng, tình yêu với con 32 2.2.2.2. Bà mẹ yêu lao động, tảo tần sớm hôm 34 2.2.2.3. Bà mẹ giàu lòng yêu nƣớc, khát vọng tự do 37 Chƣơng 3: ĐẤT NƯỚC C A NGUY N KHO ĐIỀM T G C NH N V N H 41 3.1. Đất Nước nhìn từ cội nguồn văn h a dân gian 41 3.1.1. Đất Nước nhìn từ văn h a phong tục 41 3.1.2. Đất Nước đƣợc thức nhận từ chất liệu văn học dân gian 43 3.2. Đất Nước nhìn từ hông gian văn h a 46 3.2.1. Đất Nước nhìn từ hông gian địa văn h a 46 3.2.2. Đất Nước nhìn từ hông gian văn h a đời thƣờng 47 3.3. Đất Nước trong chiều dài lịch sử dân tộc 48 3.3.1. Từ lịch sử b n ngàn năm dựng xây và đấu tranh ch ng ngoại xâm 48 3.3.2. Sự tiếp n i của thế hệ tr hôm nay 50 KẾT LUẬN 52 TÀI LIỆU THAM KHẢO
  6. MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài 1.1. Nguyễn Khoa Điềm là một trong những gƣơng mặt thơ tiêu biểu của thế hệ thơ tr trong những năm chiến tranh ch ng Mỹ. Sau hơn b n mƣơi năm vừa đảm nhiệm những chức vụ quan trọng vừa cầm bút, Nguyễn Khoa Điềm đã đ ng g p cho nền thơ ca nƣớc nhà một s thành tựu đáng ể. Những tác phẩm: Đất ngoại ô, Mặt đường khát vọng và Ngôi nhà có ngọn lửa ấm của ông đã nhận đƣợc Giải thƣởng Nhà nƣớc về Văn học và Nghệ thuật. Các sáng tác của ông chính là lời tự bạch trƣớc những vấn đề của thời cuộc, nhân sinh để c cái nhìn rộng rãi hơn, sâu sắc hơn, hái quát hơn hình nhƣ là ý tƣởng đeo đuổi su t cuộc đời Nguyễn Khoa Điềm trong quá hứ cũng nhƣ hiện tại. Cùng với những tác phẩm tiêu biểu, những tác phẩm của ông đƣợc đƣa vào trong chƣơng trình giảng dạy của nhà trƣờng đã thu hút đƣợc sự quan tâm của giới nghiên cứu cũng nhƣ các bạn yêu văn học trong những năm trở lại đây. 1.2. Sáng tạo văn học là một hoạt động văn h a. Vì vậy, khi nghiên cứu văn học từ g c độ quan hệ văn hóa - văn học sẽ thấy đƣợc vai trò sáng tạo văn hóa của văn học qua những hình tƣợng nghệ thuật, qua xây dựng những mô hình nhân cách văn h a đẹp cho xã hội, cho dân tộc. Đồng thời, nghiên cứu văn học từ g c độ quan hệ văn h a – văn học sẽ góp phần khẳng định vai trò vừa lƣu giữ, chuyển tải vừa thẩm định và lựa chọn văn h a của văn học. Thiết nghĩ, việc tìm hiểu một nhà thơ đã từng đƣợc biết đến từ rất sớm và đã c những đ ng g p nhất định nền văn học dân tộc n i chung và thơ ca hiện đại n i riêng nhƣ Nguyễn Khoa Điềm trong tình hình hiện nay là công việc cần thiết. Việc làm này về mặt khoa học không chỉ cho phép chúng ta có cái nhìn bao quát, toàn diện hơn về thế giới thơ Nguyễn Khoa Điềm mà còn giúp chúng ta nhận diện ra đƣợc đặc trƣng phong cách riêng của nhà thơ. 1
  7. Trong nhà trƣờng phổ thông hiện nay, việc hám phá đánh giá tác phẩm, nhìn nhận thành công của nhà thơ từ phƣơng diện văn h a còn mới m . Từ nhiều năm nay, thơ Nguyễn Khoa Điềm đƣợc đƣa vào giảng dạy trong hệ th ng nhà trƣờng Trung học song vấn đề tiếp cận những tác phẩm đ từ góc độ văn h a chƣa đƣợc chú ý nhiều. Từ những lí do trên, chúng tôi chọn đề tài: “Thơ Nguyễn Khoa Điềm trong trường Trung học từ góc nhìn văn hóa” làm đề tài nghiên cứu của khóa luận. 2. Lịch sử vấn đề Về Nguyễn Khoa Điềm, các bài viết, công trình nghiên cứu về ông không nhiều nhƣng đều có những đánh giá há nhất quán về phong cách thơ ông. Tác giả Nguyễn Xuân Nam trong Thơ tìm hiểu và thưởng thức (1985) cũng nhấn mạnh đến sức mạnh của trƣờng liên tƣởng và chiều sâu văn h a quá khứ trong thơ của Nguyễn Khoa Điềm: “Thơ Nguyễn Khoa Điềm không đặc sắc về tạo hình, về màu sắc nhưng anh có sức liên tưởng mạnh. Anh thường dẫn người đọc đi từ quá khứ đến tương lai, từ khổ đau đến hạnh phúc, từ sách vở đến đời sống” [6]. Trong luận văn thạc sỹ Phong cách thơ Nguyễn Khoa Điềm của Nguyễn Thị Nhung, tác giả đã dẫn ra những ý kiến của các nhà nghiên cứu và đƣa ra nhận định thông qua nhận xét của Tôn Phƣơng Lan: “Năm 1976 Tôn Phương Lan đã khẳng định tiềm năng của nhà thơ trẻ qua bài giới thiệu Nguyễn Khoa Điềm nhà thơ trẻ có nhiều triển vọng. Bài viết có cái nhìn khái quát bao trùm cả Đất ngoại ô và Mặt đường khát vọng để nhận ra cái riêng của Nguyễn Khoa Điềm giữa các gương mặt khác” [8]. Trên trang Văn nghệ Quân đội có bài viết Những gía trị văn hóa truyền thống trong thơ Nguyễn Khoa Điềm đã nêu ra nhận xét: “Thơ ca Nguyễn Khoa Điềm chứa đựng nhiều chất hiện thực và văn hóa dân gian. Câu thơ dù ở thể thơ truyền thống hay thể tự do bao giờ cũng phảng phất phong vị của ca dao, 2
  8. tục ngữ. Chất hiền minh của trí tuệ dân gian thấm đẫm trong từng từ” [15]. Thật vậy, điều này chúng ta có thể dễ dàng nhận ra trong các tác phẩm của Nguyễn Khoa Điềm. Cùng với đ , Mai Bá Ấn đã cho r ng: “Chính những người dân quê ấy, chứ không phải ai khác, theo Nguyễn Khoa Điềm họ đã làm nên Đất Nước. Đất Nước hình thành qua những sinh hoạt mang đậm nét văn hóa làng (xã) truyền thống Việt Nam” [15]. Khi nói về một trong những tác phẩm thành công nhất trong Đất ngoại ô chính là bài Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ, trong chuyên mục Nhân vật và sự kiện thứ sáu ngày 12/08/2011 của trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội có nhận xét: “Hình ảnh "Lưng núi thì to mà lưng mẹ thì nhỏ" và ''Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi/ Mặt trời của mẹ, em nằm trên lưng" là những hình ảnh hết sức bình dị mà vô cùng sâu sắc. Nhà thơ chia sẻ với nỗi vất vả của những người mẹ miền núi A Lưới và tình thương, ước mơ của mẹ dành cho cu Tai. Cả bài thơ toát lên tinh thần yêu nước của những người dân lao động trong cuộc kháng chiến chống Mỹ” [16]. Chính những cảm xúc trong bài thơ và các nhận xét của các nhà nghiên cứu đã hơi nguồn cảm hứng để tôi chọn đề tài: “Thơ Nguyễn Khoa Điềm trong trường Trung học từ góc nhìn văn hóa”. 3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu Trên cơ sở tìm hiểu khái niệm văn hoá, các thành t văn hoá và m i quan hệ giữa văn hoá và văn học, khóa luận đi sâu vào nghiên cứu thơ Nguyễn Khoa Điềm từ g c nhìn văn hoá. Do huôn hổ của khóa luận có hạn, chúng tôi chỉ tập trung tiến hành khảo sát thơ Nguyễn Khoa Điềm đƣợc đƣa vào giảng dạy chính trong nhà trƣờng Trung học. 4. Phương pháp nghiên cứu - Phƣơng pháp phân tích, tổng hợp; - Phƣơng pháp so sánh, th ng kê; - Phƣơng pháp liên ngành: dƣới g c độ văn hoá, văn học soi chiếu tƣơng tác. 3
  9. 5. Mục đích, ý nghĩa, đóng góp của khóa luận - Khóa luận là công trình khảo sát về thơ Nguyễn Khoa Điềm trong nhà trƣờng Trung học từ g c nhìn văn hoá. Nghiên cứu văn học dƣới g c nhìn văn hoá là một cách tiếp cận m giúp ta hiểu thêm về những giá trị nghệ thuật của tác phẩm. - Kết quả nghiên cứu của khóa luận hy vọng sẽ đem lại một cái nhìn khái quát, đầy đủ hơn về thơ Nguyễn Khoa Điềm, từ đ thấy đƣợc những tìm tòi, đổi mới, vận động và phát triển của thơ Nguyễn Khoa Điềm. Kết quả nghiên cứu của khóa luận góp phần khẳng định một hƣớng nghiên cứu văn học mới nhiều triển vọng đ là từ g c độ văn hoá - văn học, sự giao lƣu, giao thoa và ảnh hƣởng qua lại để nhìn cho thấu đáo từ nhiều chiều ích, phƣơng diện. 6. Cấu trúc của khóa luận Chƣơng 1. Những vấn đề chung Chƣơng 2. Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ của Nguyễn Khoa Điềm từ g c nhìn văn h a Chƣơng 3. Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm từ g c nhìn văn h a 4
  10. NỘI DUNG CHƯ NG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG 1.1. Những tiền đề khoa học 1.1.1. Khái niệm văn hóa, văn học 1.1.1.1. Khái niệm văn hóa Từ văn hóa c rất nhiều nghĩa. Trong tiếng Việt, văn h a đƣợc dùng theo nghĩa thông dụng để chỉ học thức (trình độ văn h a), l i s ng (nếp s ng văn h a); theo nghĩa chuyên biệt để chỉ trình độ phát triển của một giai đoạn (văn h a Đông Sơn) Trong hi theo nghĩa rộng thì văn h a bao gồm tất cả, từ những sản phẩm tinh vi hiện đại cho đến tín ngƣỡng, phong tục, l i s ng, lao động Chính với cách hiểu rộng này, văn hoá mới là đ i tƣợng đích thực của văn h a học. Tuy nhiên, ngay cả với cách hiểu rộng này trên thế giới cũng c hàng trăm định nghĩa hác nhau nhƣng tựu chung lại, ta c thể nêu ra một định nghĩa văn hoá nhƣ sau: Văn hóa là một hệ th ng hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con ngƣời sáng tạo và tích luỹ qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tƣơng tác giữa con ngƣời với môi trƣờng tự nhiên và xã hội. Phan Ngọc đã th ng kê đƣợc gần 400 định nghĩa hác nhau về văn h a. Nhà nghiên cứu Trần Ngọc Thêm đã định nghĩa: “Văn hóa là một hệ thống các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình hoạt động thực tiễn thông qua các mối quan hệ với tự nhiên và xã hội” [12, tr25]. Theo Unesco: “Văn hóa hôm nay có thể coi là tổng thể những nét riêng biệt tinh thần và vật chất, trí tuệ và cảm xúc quyết định tính cách của một xã hội hay của một nhóm người trong xã hội, văn hóa bao gồm nghệ thuật và văn chương, những lối sống, những quyền cơ bản của con người, những hệ thống các giá trị, những tập tục và những tín ngưỡng” [14, tr23,24]. 5
  11. 1.1.1.2. Khái niệm văn học “Văn học là loại hình nghệ thuật sáng tạo b ng ngôn từ” 4,129], nh m sáng tác, tái hiện những vấn đề của đời s ng xã hội và con ngƣời. Phƣơng thức sáng tạo của văn học đƣợc thông qua sự hƣ cấu, cách thể hiện nội dung các đề tài đƣợc biểu hiện qua ngôn ngữ. Khái niệm văn học đôi hi c nghĩa tƣơng tự nhƣ hái niệm văn chƣơng và thƣờng bị dùng lẫn lộn. Tuy nhiên, về mặt tổng quát, khái niệm văn học thƣờng c nghĩa rộng hơn hái niệm văn chƣơng, văn chƣơng thƣờng chỉ nhấn mạnh vào tính thẩm mĩ, sự sáng tạo của văn học về phƣơng diện ngôn ngữ, nghệ thuật ngôn từ. Văn chƣơng dùng ngôn từ làm chất liệu để xây dựng hình tƣợng, phản ánh và biểu hiện đời s ng. Văn học có các thể loại hác nhau nhƣ: tiểu thuyết, truyện ngắn, thơ, kịch bản, lí luận phê bình. Văn học có lịch sử phát triển từ lâu đời, là sự phát triển của văn học dân gian (hay văn học truyền miệng) và văn học viết . 1.1.2. Mối quan hệ giữa văn hóa – văn học Hiểu theo nghĩa rộng, văn h a là tổng thể những thành tựu, những giá trị vật chất và tinh thần do các cộng đồng dân tộc sáng tạo ra trong quá trình cải tạo tự nhiên và phát triển xã hội, nh m đảm bảo nhu cầu cuộc s ng con ngƣời. Dân tộc học chia văn h a ra làm ba loại: văn h a vật chất (bao gồm công cụ sản xuất, phƣơng tiện đi lại, làng mạc, nhà cửa, quần áo, giày dép, đồ trang sức, các thức ăn, thức u ng ); văn h a xã hội (bao gồm các thiết chế xã hội, gia đình, dòng họ, làng bản và m i quan hệ giữa các thành viên trong cộng đồng); văn h a tinh thần ( bao gồm các tri thức khoa học, phong tục tập quán, tôn giáo, xã hội, văn học, nghệ thuật, dân gian ). Chính từ đặc trƣng của văn hóa, các thuộc tính của văn h a, văn học, có thể xem xét m i quan hệ giữa chúng ảnh hƣởng và tác động qua lại với nhau nhƣ thế nào. Văn học là một bộ phận của văn h a, n m trong văn h a, vì thế chịu sự chi ph i của văn h a. Những nhân t nhƣ: ngôn ngữ, hoạt động kinh tế, lao động sản xuất, ăn, mặc, 6
  12. ở, đi lại, sự phát triển của khoa học ĩ thuật đều là điều kiện quan trọng trong môi trƣờng nảy sinh, hình thành những tác phẩm văn học. Thực ra, bất kì một công trình nghiên cứu văn học nào cũng đều ít nhiều, xa gần viện dẫn tri thức văn h a hoặc đề cập đến vấn đề văn h a trong việc bình luận, giải thích tác phẩm. Ở Việt Nam, nghiên cứu, phê bình văn học từ văn h a, cũng xuất hiện đã lâu. Với tác phẩm Truyện Kiều đã đƣợc Trần Trọng Kim nghiên cứu từ quan điểm Phật giáo, Thơ Mới đƣợc Hoài Thanh trong Thi nhân Việt Nam phần Một thời đại thi ca khảo sát từ luồng gió mới của văn h a phƣơng Tây. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu trên chỉ vận dụng một s kiến thức văn h a mà họ cho là cần thiết để đọc văn học chứ chƣa c ý thức xây dựng một hệ th ng vấn đề mang tính chất lí thuyết cho việc đọc tác phẩm văn học b ng văn h a. Gần đây, nhờ Unesco phát động những thập kỉ phát triển văn h a, ngƣời ta bắt đầu nhận thức đƣợc văn h a là động lực của phát triển, thì nghiên cứu, phê bình văn học từ văn h a càng đƣợc chú ý nhiều hơn. Đặc biệt, khi bộ môn văn h a học và nhân học văn h a xuất hiện ở Việt Nam thì văn h a bắt đầu đƣợc coi nhƣ là một nhân t chi ph i văn học. Những thành tựu của văn h a học ngày nay cho phép chúng ta nhìn nhận văn h a nhƣ một tổng thể, một hệ th ng bao gồm các yếu t nhƣ ngôn ngữ, phong tục tập quán, luật pháp, tôn giáo tín ngƣỡng, nghệ thuật tạo hình, nghệ thuật biểu diễn, văn học Trong hệ th ng văn h a, nhất là văn h a Việt Nam, yếu t chủ đạo thƣờng là văn học. Yếu t này không phải là bất biến mà nó thƣờng xuyên thay đổi qua những thời đại văn h a, tức một hệ th ng văn h a. Là một yếu t mạnh, văn học luôn biết tiếp thu những gì ngoài hệ th ng để phát triển. Tiếp thu những cái ngoài hệ th ng đến một mức độ nào đ , yếu t văn học sẽ không còn phù hợp với hệ th ng văn h a nữa, nó ch ng lại hệ th ng, làm cho hệ th ng phải thay đổi cùng với nó. Ví dụ, văn học trung đại, 7
  13. nhất là bộ phận của các nhà nho tài tử, dƣới sự ảnh hƣởng của văn h a đô thị và ý thức cá nhân thức tỉnh, đã làm rạn nứt hệ th ng văn h a trung đại, góp phần đƣa n chuyển đổi lên từ văn h a trung đại sang văn h a hiện đại. Lịch sử văn h a chính là lịch sử của những thay đổi các hệ th ng văn h a, tức các thời đại văn h a. Văn h a với tƣ cách là một bộ phận của tổng thể văn h a, một yếu t của hệ th ng văn h a thì hông thể và không có quyền qua mặt hệ th ng để tiếp xúc thẳng hoặc tác động trực tiếp đến hệ th ng xã hội, mà phải gián tiếp qua hệ th ng văn h a nhƣ là các hệ th ng đồng đẳng với nhau. Từ đ c thể thấy, nếu văn học có chức năng phản ánh hiện thực thì cũng không thể phản ánh trực tiếp đƣợc, mà chỉ có thể phản ánh thông qua “lăng ính” văn h a, thông qua “bộ lọc” của các giá trị văn h a. Nhờ thế mà văn học tránh đƣợc sự phản ánh “gƣơng”, phản ánh một cách trần trụi. Và, có lẽ, cũng nhờ thế mà văn học có một l i phản ánh đặc trƣng, một phản ánh, nhƣ ngƣời ta thƣờng nói, có nghệ thuật, c “nghiền ngẫm”. Nhƣ vậy, một hi văn học chỉ là một yếu t của hệ th ng văn h a và chỉ “quan hệ” đƣợc với hệ th ng xã hội thông qua văn h a, thì hung nghiên cứu văn học cũng phải là hung văn h a. Trong một thời gian dài, nghiên cứu, phê bình văn học Việt Nam thƣờng chỉ đƣợc vận hành trên một khung duy nhất là năm hình thái inh tế - xã hội. Chính sự đ ng hung này mà nhiều hiện tƣợng văn học chƣa đƣợc lí giải một cách thấu đáo. Ví dụ, theo hệ quy chiếu này thì văn học ở hình thái cao hơn phải hay hơn, hoặc ít nhất cũng phát triển hơn, nhƣng văn học Việt Nam sau 1945 có lẽ không hay hoặc phát triển b ng văn học 1932-1945; hoặc trong cùng một hình thái thì văn học ở giai đoạn xã hội thịnh trị phải phát triển hơn lúc xã hội suy tàn (nhƣng văn học Việt Nam thời Hồng Đức dƣờng nhƣ hông sánh đƣợc với thời Nguyễn Du?) Nhƣng chúng ta có thử tiếp cận từ g c độ văn h a để lí giải các hiện tƣợng trên. Thực 8
  14. tế là, cùng ở vào một thời đại quân chủ nông nghiệp Nho giáo, nhƣng thời Hồng Đức là văn h a thuần nông nghiệp, còn thời Nguyễn Du đã chớm văn hóa đô thị, dẫu r ng đô thị phƣơng Đông trung đại. Văn học đô thị phát triển nhờ nhu cầu hƣởng thụ thẩm mĩ của thị dân, nhờ ý thức cá nhân thức tỉnh, và, cu i cùng, nhờ sự xuất hiện của một lớp tác giả mới: nhà nho tài tử. Còn giai đoạn 1932-1945 thì đã là văn h a đô thị hiện đại. Sản phẩm văn h a hông còn là quà tặng nữa mà đã là hàng h a. Ý thức cá nhân phát triển. Chủ thể của văn h a này là các trí thức Tây học. Văn học 1932-1945 là tiếng nói mới, tƣng bừng của văn h a đô thị hiện đại. Sau 1945, do nhu cầu của hai cuộc kháng chiến nên phải đề cao dân tộc, đề cao truyền th ng, đề cao nông thôn, nông dân (là quân chủ lực). Văn h a đô thị, vì thế, chùng xu ng hơn; văn h a nông thôn phục hƣng và phát triển. Nhƣ vậy, đọc một tác phẩm văn học theo quan điểm văn h a học là vận dụng những tri thức về văn h a để nhận diện và giải mã các yếu t thi pháp của tác phẩm. Một cách tổng quát, phƣơng pháp tiếp cận văn học từ g c nhìn văn h a ƣu tiên cho việc phục nguyên không gian văn h a trong đ tác phẩm văn học đã ra đời, xác lập sự chi ph i của các quan niệm triết học, tôn giáo, đạo đức, chính trị, luật pháp, thẩm mĩ, quan niệm về con ngƣời cũng nhƣ sự chi ph i của các phƣơng tiện hác nhau trong đời s ng sinh hoạt xã hội s ng động hiện thực từng tồn tại trong một không gian văn h a xác định đ i với một tác phẩm về các mặt xây dựng nhân vật, kết cấu, môtip, hình tƣợng, cảm xúc, ngôn ngữ Phƣơng pháp này tuy c tính chất tổng hợp, trung gian giữa những phƣơng pháp đọc văn bản hác nhau nhƣng vẫn c đặc trƣng riêng. N thiên về nhiệm vụ giải mã các hiện tƣợng nghệ thuật, tìm ra nền tảng văn h a lịch sử của chúng, đồng thời cũng nhấn mạnh đến sự liên tục, đến tính chất mở của chúng trong không gian và thời gian. Điểm khác biệt của các tiếp cận văn h a học so với thi pháp học là ở chỗ, tiếp cận văn h a học không chủ trƣơng miêu tả thế giới nghệ thuật của tác phẩm 9
  15. nhƣ một vũ trụ khép kín, có giá trị tự thân mà đặt ra nhiệm vụ đ i chiếu, so sánh truy nguyên các quan niệm văn h a của thời đại nơi tác phẩm đƣợc sản sinh để tìm nguồn g c các dạng thức quan niệm về con ngƣời – thời gian – không gian trong tác phẩm. Tiếp cận văn h a học thực chất là tiếp cận liên ngành. 1.2. Nguyễn Khoa Điềm và quá trình sáng tác 1.2.1. Tác giả Nguyễn Khoa Điềm Nguyễn Khoa Điềm xuất thân trong một gia đình trí thức cách mạng. Ông thuộc dòng dõi quan Nội tán Nguyễn Khoa Đăng, cháu nữ sĩ Đạm Phƣơng, con trai nhà văn Hải Triều (Nguyễn Khoa Văn). Nguyễn Khoa Điềm sinh ngày 15/04/1943 tại thôn Ƣu Điềm (Phong Hòa, Phong Điền, Thừa Thiên - Huế). Cái tên Ƣu Điềm không ngờ lại ứng với bản tính Nguyễn Khoa Điềm – một ngƣời hay ƣu tƣ, suy nghĩ, điềm đạm và trầm lặng. Lên mƣời một tuổi, Nguyễn Khoa Điềm đã mồ côi cha. Ngay từ nhỏ ông đã s ng và chứng kiến cảnh vất vả, h hăn của những ngƣời dân nghèo hàng ngày vật lộn với cuộc s ng mƣu sinh, những hình ảnh thƣờng ngày ấy từ lâu đã ám ảnh Nguyễn Khoa Điềm. Cũng có lẽ vì thế mà ông hay suy tƣ về cuộc s ng của những ngƣời dân lao động nghèo khổ. T t nghiệp Đại học Sƣ phạm Hà Nội năm 1964, cùng một lứa với Phạm Tiến Duật, Lê Anh Xuân (Ca Lê Hiến), Nguyễn Khoa Điềm đƣợc trở về quê hƣơng, hoạt động ở chiến trƣờng Thừa Thiên - Huế. Trong một trận càn ông bị địch bắt giam tại nhà lao Thừa Phủ su t mấy tháng trời. Mãi đến chiến dịch Mậu Thân (1968), ông mới đƣợc giải thoát, tiếp tục trở lại hoạt động. Chính thời điểm này, Nguyễn Khoa Điềm bắt đầu làm thơ. Sau giải phóng Miền Nam (1975), Nguyễn Khoa Điềm tham gia công tác Đoàn Thanh niên Cộng sản; rồi đảm nhận các chức vụ nhƣ: Chủ tịch Hội Văn nghệ Bình Trị Thiên, Ph bí thƣ thƣờng trực tỉnh ủy Thừa Thiên - Huế. Năm 10
  16. 1994, Nguyễn Khoa Điềm ra Hà Nội, giữ chức thứ trƣởng Bộ Văn h a – Thông tin. Năm 1995, đƣợc bầu làm Tổng Thƣ í Hội Nhà văn Việt Nam h a 5. Năm 1996, đƣợc Đại hội Đảng toàn qu c lần thứ 8 bầu vào Ban chấp hành Trung ƣơng Đảng, Đại biểu Qu c hội nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (khóa X), Bộ trƣởng Bộ Văn h a Thông tin. Năm 2001, giữ chức Trƣởng ban Văn h a, tƣ tƣởng Trung ƣơng. Ông đƣợc giải thƣởng Hội Nhà văn Việt Nam với tập thơ Ngôi nhà có ngọn lửa ấm, giải thƣởng Nhà nƣớc năm 2001 về văn học nghệ thuật. So với các nhà thơ trƣởng thành trong kháng chiến ch ng Mỹ, Nguyễn Khoa Điềm đến với thơ hơi muộn nhƣng đã sớm định hình một giọng điệu riêng. Qua các tập thơ Đất ngoại ô (1972), Mặt đường khát vọng (Trƣờng ca, 1974), Ngôi nhà có ngọn lửa ấm (1986), Thơ Nguyễn Khoa Điềm (1990), Cõi lặng (2007), ta bắt gặp những suy tƣ của ông đ i với nhân dân, đất nƣớc; những chiêm nghiệm về đời s ng xã hội, nhân tình thế thái. N i đến Nguyễn Khoa Điềm, ai cũng dễ dàng hình dung ra một phong cách thơ đậm chất triết luận xuất phát từ v n tri thức uyên bác và bề sâu văn h a trong m i liên tƣởng vừa sâu sắc triết lí vừa huyền ảo thấp thoáng b ng dáng văn h a cổ xƣa của hồn dân tộc. Nguyễn Khoa Điềm lại đƣợc sinh ra và lớn lên giữa lòng chiếc nôi văn h a Huế. Chính cái chất Huế thâm trầm, thơ mộng đã hiến thơ Nguyễn Khoa Điềm sâu kín và loáng thoáng chút bí ẩn mơ hồ. Lí giải điều này, Nguyễn Khoa Điềm khẳng định: M i quan hệ giữa văn h a và thơ là m i quan hệ máu thịt, đặc biệt là đ i với cái thời mà k thù mu n hủy diệt chúng ta cả về văn h a: “trong cái không khí sặc mùi khói sương ấy, giữa cái giáp ranh giữa sự sống và cái chết, tôi muốn đưa vào bài thơ những hình ảnh đậm chất văn hóa nhất của quê hương, đất nước mình” Gắn bó với c đô, với dòng Hƣơng Giang nên văn h a Huế ảnh hƣởng rất rõ trong các tác phẩm thơ ca của ông: “Tôi thường nhìn thấy Huế trong 11
  17. dáng vẻ u trầm. Những rêu phong cổ kính ở đó đều mang nét u trầm và buồn Huế cũng đã một lần “tiêu thổ kháng chiến” và Huế Mậu Thân đã bị bom đạn tàn phá ghê gớm. Thân phận hoài nhớ vàng son của người Huế đã khiến cho xứ này trầm xuống. Người ta sống với chiều sâu tâm linh. Có lẽ vì thế mà nhiều nhà thơ gặp Huế đã để lại những bài thơ hay, ảo diệu và sâu sắc Huế đẹp và gian khổ luôn ám ảnh tôi”. Hầu hết đề tài trong thơ Nguyễn Khoa Điềm đều đƣợc rút ra từ mảnh đất Huế, ngoại ô Huế và “ngoại ô mở rộng” của chiến trƣờng Trị Thiên. Nguyễn Khoa Điềm có ý thức về điều đ , và ngƣợc lại, điều đ đến với ông một cách tự nhiên. Nguyễn Khoa Điềm sinh ra ở đấy, lớn lên ở đấy, chiến đấu ở đấy và trở về sinh s ng cũng tại đấy. Lịch sử Huế, nền văn h a Huế, hơi thở đời s ng hàng ngày của c đô thấm vào máu thịt của ông và cảm xúc về Huế chan chứa trong thơ ca. Chính điều này đã g p phần quan trọng tạo nên bản lĩnh riêng cho thơ Nguyễn Khoa Điềm. 1.2.2. Quá trình sáng tác của Nguyễn Khoa Điềm Là một con ngƣời của xứ Huế, Nguyễn Khoa Điềm cũng chịu ảnh hƣởng sâu sắc của bề dày và bề sâu lịch sử, văn h a, tình cảm của một vùng đất c đô để trở thành một trong những gƣơng mặt thơ tiêu biểu của thế hệ thơ tr xuất hiện trong những năm chiến tranh ch ng Mỹ. Đặc biệt là đƣợc s ng trong không khí cách mạng sôi sục của đồng bào miền Nam và tinh thần chiến đấu ch ng Mỹ của nhân dân cả nƣớc. Đào tạo ở miền Bắc, lại sớm tiếp xúc một cách có chọn lọc văn học đô thị miền Nam, thông qua các bạn văn: Hoàng Phủ Ngọc Tƣờng, Nguyễn Đắc Xuân, Trần Vàng Sao điều đ g p phần hình thành phong cách của ông ngay trong những sáng tác đầu tay. Ông đánh vật với bài thơ Đất ngoại ô su t một năm trời (từ tháng 4-1968 đến tháng 4-1969). Giọng thơ của Nguyễn Khoa Điềm ở Đất ngoại ô khá mới m . Các câu thơ đƣợc kéo dài một cách tự do phóng khoáng, không quá câu nệ 12
  18. vào vần điệu. Lời thơ tự nhiên, gần với lời ăn tiếng nói hàng ngày. Những câu thơ, những đoạn thơ trong Đất ngoại ô chứa đầy suy tƣ. Từ quá khứ, ông đ i chiếu với hiện tại: “Vườn thơ xưa không có gã áo trắng đi về/ Ngơ ngẩn đọc thơ buồn trong tiếng guốc cạo râu/ Chỉ còn người phu xe cũ/ Nghiêng cốc rượu chiều nhòe những mái tôn.” Nhà thơ nhìn thấy trong cái nắng tháng năm "run rẩy những oan hồn". Và tự hỏi: "Ôi mùa phượng hay lòng tôi cháy đỏ?". Ngọn lửa căm thù của đồng bào miền Nam đã biến thành giông bão: “Sức trăm năm rung chuyển xuống lòng đường/ Cả ngoại ô làm chiến lũy sông Hương” Trƣớc đây, ông từng lấy bút danh Mặc Hữu, Hƣớng Dƣơng ý dƣới những bài báo, nhƣng lần này ông dùng tên thật của mình khi quyết định gửi Đất ngoại ô ra Hà Nội. Bài thơ đƣợc đăng trang trọng trên báo Văn nghệ. Bạn đọc yêu thơ bắt đầu biết đến cái tên Nguyễn Khoa Điềm từ đ Đất ngoại ô chiếm một vị trí đặc biệt trong sự nghiệp thi ca của ông. Nó mở cho ông một hƣớng đi riêng, một cách n i năng, một giọng điệu riêng trong dòng thơ ch ng Mỹ. Thơ của ông hay chính là ở những suy tƣ của tác giả về cuộc s ng lam lũ của ngƣời dân lao động (Những đồng tiền ngoại ô); về tình cảnh đau thƣơng của đất nƣớc (Nơi Bác từng qua); về tình bạn bè, đồng đội (Bếp lửa rừng). Bài Con gà đất, cây kèn và khẩu súng là một bài thơ c sự liên tƣởng hết sức độc đáo. Ngƣời lính Giải ph ng quân đã đi từ: “Con gà đất / Cây kèn/ Và Khẩu súng/ Để nhận lấy tình yêu của thuở ban đầu”. Nhƣng thành công nhất trong Đất ngoại ô chính là bài Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ. Báo Văn nghệ giới thiệu bài thơ này ở ngay trang nhất - một trƣờng hợp hi hữu đ i với những cây bút tr từ trƣớc đến nay. Khúc hát ru đã đƣợc Trần Hoàn phổ nhạc, trở thành bài hát nổi tiếng một thời. Tất nhiên, không phải bài thơ nào của ông viết trong giai đoạn dầu sôi lửa bỏng này cũng thành công. Một s bài thơ trong Đất ngoại ô, theo tôi là còn quá dàn trải, thiếu sự cô đọng cần thiết. Bƣớc sang trƣờng ca Mặt đường khát 13
  19. vọng, Nguyễn Khoa Điềm vẫn tiếp tục mạch suy tƣ về nhân dân, đất nƣớc b ng l i thể hiện tự nhiên, bình dị, phóng khoáng, hiện đại v n có của mình. Không ai nói về đất nƣớc dễ hiểu nhƣ ông: “Đất là nơi anh đến trường/ Nước là nơi em tắm”. Ông giải thích đất nƣớc đến tận cội nguồn: “Đất là nơi chim về/ Nước là nơi Rồng ở”. Sự hình thành Đất Nƣớc cũng đƣợc ông trình bày b ng những sự vật, hiện tƣợng hết sức gần gũi, thân thiết: “Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn/ Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc/ Tóc mẹ thì bới sau đầu/ Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay, muối mặn/ Cái kèo, cái cột thành tên/ Hạt gạo phải một nắng hay sương xay, giã, giần, sàng/ Đất Nước có từ ngày đó” Chính nhân dân: “sống và chiến đấu/ Giản dị và bình tâm/ Không ai nhớ mặt, đặt tên/ Nhưng họ đã làm ra Đất Nước” Bản trƣờng ca này ông viết trong những tháng ngày địch bắn phá vùng chiến khu Trị Thiên vô cùng ác liệt. Nhà văn Nguyễn Đắc Xuân kể r ng bản thảo đầu tiên của trƣờng ca này bị bom thả bay tung hết. Nguyễn Khoa Điềm tiếc đứt ruột, ông phải ngồi viết lại từng chƣơng một, hoàn thành vào năm 1971 và mãi đến 1974 mới ra mắt bạn đọc. Thanh niên trí thức yêu nƣớc ở các đô thị miền Nam lúc bấy giờ rất tâm đắc với bản trƣờng ca này vì họ tìm đƣợc ở đ những tâm tƣ sâu ín của mình. Sau ngày nƣớc nhà th ng nhất, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm lần lƣợt đƣợc giao nhiều trọng trách: Thứ trƣởng rồi Bộ trƣởng Bộ Văn h a - Thông tin; Tổng Thƣ ý Ban chấp hành Hội Nhà văn h a V; y viên Bộ Chính trị, Bí thƣ Trung ƣơng Đảng, Trƣởng ban Tƣ tƣởng - Văn h a Trung ƣơng nên ít có thời gian làm thơ. Tuy vậy, vào năm 1986, ông vẫn cho ra đời tập Ngôi nhà có ngọn lửa ấm. Chỉ một thời gian ngắn sau khi nghỉ hƣu, ông đã hoàn thành tập thơ Cõi lặng (Nxb Văn học - 2007) gây xôn xao dƣ luận. Trong Ngôi nhà có ngọn lửa ấm và Cõi lặng, Nguyễn Khoa Điềm nghiêng về chiêm nghiệm đời s ng xã hội, nhân tình thế thái. Bên cạnh những cái hay, 14
  20. cái đẹp ông còn nhận thấy những cái chƣa hay, chƣa đẹp trong cuộc s ng hiện tại. Để có đƣợc những giây phút bình thản, thoải mái, thanh tịnh, nhà thơ tìm cách hòa mình và thiên nhiên, ông khâm phục và thèm sự ung dung của nó (Chiều Hương Giang, Cỏ ngọt, Cây vú sữa trước sân nhà, Trong đêm). Làm bạn và học hỏi thiên nhiên, ông đúc rút thành những châm ngôn: “Nhiều khi đá dạy ta mềm mỏi / Sự tàn nhẫn nhắc ta điều lành/ Nỗi buồn đánh thức hi vọng” Và: “Giữa thế giới không nhiều may mắn/ Ta học cách vừa lòng với mình/ Chia sẻ sự bình tâm của cỏ” (Hy vọng) Những chiêm nghiệm này không chỉ cần thiết cho bản thân tác giả mà còn là những bài học hết sức quý giá cho tất cả mọi ngƣời. Thơ phải góp phần làm đẹp tâm hồn. Sau hơn b n mƣơi năm vừa đảm nhiệm những chức vụ quan trọng vừa cầm bút, Nguyễn Khoa Điềm đã đ ng góp cho nền thơ ca nƣớc nhà một s thành tựu đáng ể. Những tác phẩm: Đất ngoại ô, Mặt đường khát vọng và Ngôi thà có ngọn lửa ấm của ông đã nhận đƣợc Giải thƣởng Nhà nƣớc về Văn học - Nghệ thuật. Bài thơ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ và chƣơng Đất Nước trong trƣờng ca Mặt đường khát vọng của ông đã đƣợc tuyển chọn vào sách giáo khoa Ngữ văn giảng dạy trong nhà trƣờng. 15
  21. 1.3. Khảo sát sáng tác của Nguyễn Khoa Điềm trong chương trình Ngữ văn THCS và PTTH Bảng 1. Những tác phẩm được giảng dạy trong chương trình THCS Lớp 6 Lớp7 Lớp 8 Lớp 9 Văn bản giảng 0 0 0 1 dạy chính Văn bản đọc 0 0 0 0 thêm Trích thơ trong phần Tiếng Việt 0 0 0 1 và Làm văn Bảng 2. Những tác phẩm được giảng dạy trong chương trình THPT Lớp 10 Lớp11 Lớp 12 Văn bản giảng dạy 0 0 1 chính Văn bản đọc thêm 0 0 0 Trích thơ trong phần Tiếng Việt 0 0 0 và Làm văn 16
  22. Nhƣ vậy ta thấy các sáng tác của Nguyễn Khoa Điềm đƣợc đƣa vào trong chƣơng trình Trung học hông nhiều và để nghiên cứu thơ Nguyễn Khoa Điềm với những đặc điểm nổi bật nhất, trong phạm vi h a luận này chúng tôi chỉ đi nghiên cứu những tác phẩm của ông đƣợc đƣa vào trong chƣơng trình giảng dạy chính của trƣờng Trung học đ là hai tác phẩm Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ (Ngữ văn 9) và Đất nước (Ngữ văn 12). 17
  23. CHƯ NG 2. KHÚC HÁT RU NHỮNG EM BÉ LỚN TRÊN LƯNG MẸ CỦA NGUYỄN KHOA ĐIỀM T G C NH N VĂN H A 2.1. Hát ru từ cội nguồn văn hóa 2.1.1. Hát ru trong truyền thống văn hóa dân tộc Âm nhạc truyền th ng Việt Nam phong phú, đa dạng với nhiều thể loại hác nhau, trong đ hát ru là một trong những thể loại âm nhạc dân gian ra đời sớm nhất, đáp ứng nhu cầu thiết yếu của nhân loại, đƣợc truyền từ đời này qua đời khác, từ thế hệ này sang thế hệ khác, trở thành di sản văn h a tinh thần riêng của ngƣời Việt Nam. Hát ru là loại hình nghệ thuật ra đời sớm nhất trong gia đình âm nhạc dân gian Việt Nam, là một l i phổ nhạc của những bài ca dao lục bát, đồng dao, hò vè dân gian. Hát ru là l i hát đơn giản nhất mà hầu nhƣ ngƣời phụ nữ Việt Nam nào cũng biết và có thể hát. Từ bao đời, tiếng mẹ hát ru con bên cánh võng luôn là hình ảnh thân thƣơng, chan chứa tình mẫu tử thiêng liêng: Đố ai ngồi võng không đưa Ru con không hát, đò đưa không chèo Hình ảnh ngƣời mẹ trong tiềm thức của tr thơ thƣờng gắn liền với lời ru, tiếng hát: Ru em, em ngủ cho lâu Để mẹ đi cấy đồng sâu chưa về Hát ru có nguồn g c lịch sử lâu đời. Từ thời này qua thời khác, từ miền ngƣợc đến miền xuôi, hông nơi nào hông c tiếng mẹ ru con ngủ. Tiếng hát ru không thể thiếu đƣợc trên cánh võng, bên vành nôi đong đƣa, trên đôi tay trìu mến của mẹ. Mỗi dân tộc có một làn điệu hát ru của riêng mình. Nhƣng dù thuộc dân tộc nào, con ngƣời đều lớn lên trong tiếng hát ru dịu ngọt của mẹ hiền. 18
  24. Mỗi vùng miền trên đất nƣớc đều c các làn điệu hát ru quen thuộc, phía Bắc c làn điệu: “Con cò mà đi ăn đêm” với những câu từ sâu sắc nói lên thân phận vất vả của ngƣời nông dân đồng thời ca ngợi l i s ng trong sạch: “À ơi Con cò mày đi ăn đêm, đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao. À ơi Ông ơi, ông vớt tôi nao, tôi có lòng nào ông hãy xáo măng. À ơi Có xáo thì xáo nước trong, đừng xáo nước đục đau lòng cò con ”. Hoặc vùng đất Nam bộ có: “Ầu ơ Ví dầu cầu ván đóng đinh, cầu treo lắc lẻo, gập ghềnh khó qua. Ầu ơ Khó qua mẹ dắt con qua, con đi trường học, mẹ đi trường đời ” Ngƣời ta có thể lấy bất cứ bài ca dao lục bát nào để ru. Ở đây, âm điệu đƣợc lặp đi lặp lại b ng những chuỗi hƣ từ (à ơi, ầu ơ ). Hát ru còn đƣợc nâng cao b ng những làn điệu dân ca khắp các vùng đất nƣớc. Lúc này, lời ca không còn là những câu ca dao lục bát nữa mà trở nên phong phú hơn và âm điệu cũng hoàn chỉnh hơn. Dù là hát ru theo hình thức ngâm ngợi (à ơi, ầu ơ ) hay theo các làn điệu dân ca, hoặc hát những ca khúc mới, đặc điểm chung là tạo nên những âm điệu êm ả, thanh bình với tiết tấu chậm rãi, dàn trải để đƣa tr thơ nhanh chóng chìm vào một giấc ngủ nồng nàn. Ngƣời hát càng có ý thức trong việc ru tr , nghĩa là càng bộc lộ tình cảm trong giọng hát thì đứa tr càng dễ dàng đến với giấc ngủ và ngủ càng sâu. Nghiên cứu về hát ru cho thấy m i quan hệ giữa văn h a truyền th ng và sự giáo dục tình cảm, đạo đức t t đẹp có tính chất truyền th ng giữa những thành viên trong gia đình và làng x m, giữa làng xóm và qu c gia. Hát ru luôn hƣớng cho tr vƣơn tới cái đẹp, những giá trị cao quý trong cuộc đời và tinh thần ngày thêm toàn vẹn, ngƣời mẹ mang lại cho con chất thơ và nguồn cảm hứng, sáng tạo. Rõ ràng lời ru của mẹ là nguồn văn h a nuôi dƣỡng và hình thành nên tâm hồn, tình cảm cho tr . Qua lời ru của mẹ đã làm 19
  25. nảy sinh trong tâm hồn con tr biết bao điều mới lạ. Hát ru không chỉ có ý nghĩa đơn thuần là ru cho tr ngủ mà nó còn có giá trị độc đáo trong giáo dục đạo đức, nhân cách con ngƣời, đặc biệt hát ru chính là cái nôi tạo nền móng cho sự phát triển ngôn ngữ. Vì vậy, ngay từ những ngày tháng còn n m trong bụng mẹ tr đã c thể nhận ra đƣợc giọng nói quen thuộc của mẹ và cảm nhận đƣợc tình thƣơng của mẹ. Mẹ và con là m i quan hệ bản năng và hăng hít nhất không gì có thể chia cắt đƣợc, đ là tình máu mủ, tình mẫu tử thiêng liêng nhất mà bất cứ con ngƣời nào cũng phải quý trọng. Từ khi còn là bào thai trong bụng mẹ đến khi lớn lên, tr đã đƣợc nghe rất nhiều lời ru ngọt ngào êm ái. Ngƣời xƣa cho r ng “Cha mẹ sinh con trời sinh tính”, điều đ chứng tỏ r ng nhân cách của con ngƣời đã đƣợc hình thành ngay sau khi lọt lòng mẹ. Trên thực tế, tr hình thành nhân cách dần dần từ tuổi lên ba đến lên năm, đây là hoảng thời gian t t nhất tạo nên sự ổn định nhân cách con ngƣời. Tr thơ ngay từ khi lọt lòng mẹ, thậm chí từ hi còn là bào thai đã đƣợc sớm tiếp xúc với hát ru, một mặt sẽ nhanh chóng nảy nở năng hiếu âm nhạc vì do sớm đƣợc làm quen với những âm trầm bổng khoan nhặt trong lời ru, mặt khác sẽ tạo ngay cho tr những yếu t dịu dàng, nhân hậu của tính cách, tâm hồn. N i đến hát ru là n i đến lòng bao dung, nhân hậu, đến khát vọng đƣợc s ng hoà bình hạnh phúc, đến lòng mong mỏi cho tr thơ đƣợc yên ấm trong sự chở che của cuộc đời. Những câu hát ru giàu nhạc điệu gợi sự tƣởng tƣợng của bé thêm phong phú, mở cho bé thấy thiên nhiên bao la, nhiều điều mới lạ cũng rất gần gũi thân thích. Đ i với tr thơ, hát ru là một trong những yếu t hình thành nên bản sắc văn hoá dân tộc, là nguồn sữa nuôi dƣỡng thế giới tinh thần, là nhịp cầu n i tâm thức tr với mọi bài học về cuộc s ng xã hội bởi vì nó có sức hấp dẫn, lôi 20
  26. cu n mạnh mẽ nhất đ i với các em nh m phát triển tình cảm, đạo đức, tình đoàn ết, mở rộng nhận thức, tình yêu thiên nhiên, yêu quê hƣơng đất nƣớc, qua đ g p phần giáo dục tr về truyền th ng văn hoá của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Lời ru của mẹ là nguồn văn h a nuôi dƣỡng và hình thành tâm hồn, tính cách con tr , lời ru cứ lặp đi, lặp lại tr cảm nhận và thấm dần Vì vậy, hát ru là cái nôi hình thành nên nhân cách con ngƣời. B ng tiếng hát ru, ngƣời mẹ đã dạy dỗ con những điều hay lẽ phải, tình thƣơng yêu, lòng tự trọng, ý chí kiên cƣờng và những kinh nghiệm của cuộc s ng với ƣớc vọng con tr sẽ lớn khôn thành ngƣời, mai sau sẽ là những tài năng c ng hiến cho Tổ qu c, để mang lại v vang cho gia đình. Thông qua hát ru những ngƣời “ngoài cuộc” cũng c cơ hội để thấu hiểu ngƣời thân trong gia đình. Hát ru châu thổ Bắc Bộ là loại hát ru mang phong cách hát nói, ngâm ngợi, thƣờng phổ nhạc dựa vào những câu thơ lục bát (6/8) hoặc lục bát biến thể. Vì vậy, thể loại âm nhạc hát ru luôn hình thành cho tr khả năng thẩm mỹ và nhanh nhậy đ i với nền âm nhạc truyền th ng, hát ru đƣợc coi là trƣờng nghệ thuật đầu tiên của tr . Không những thế, hát ru đƣợc xem nhƣ một thành t cơ sở, tiền đề trong việc hình thành và phát triển nhân cách của tr em. Lời ru của ngƣời mẹ là nét truyền th ng của mỗi gia đình Việt Nam, những bài hát ru, những câu hát nhẹ nhàng, những bài hát đồng dao gắn liền với trò chơi và các câu hát ru c nội dung giáo dục đạo đức, thẩm mỹ cho tr . Những điều đ còn phản ánh tính giáo dục của dân gian đƣợc đúc ết từ thế hệ này sang thế hệ khác. Những bài hát ru có lịch sử từ rất lâu đời, nhƣng nhìn chung luôn gần gũi với đời s ng gia đình, luôn c xu hƣớng vƣợt qua mọi ƣớc định về thời gian, nên hát ru cũng c những bƣớc phát triến từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp. Đ chính là sự bảo tồn và phát huy văn 21
  27. hóa dân tộc một cách sinh động, bền vững, bởi vì những câu hát ru mang nhiều yếu t giáo dục. Ngƣời xƣa thƣờng chăm lo xây dựng những thói quen văn h a, ý thức gắn ết cộng đồng và rèn luyện tài năng cá nhân để hun đúc thành cái v n văn h a chung của cộng đồng dân tộc. Giá trị bền vững của truyền th ng văn h a gia đình mà hát ru mang lại, nh m góp phần giúp các em hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản, góp phần hình thành nhân cách con ngƣời Việt Nam. Vì vậy, nội dung giáo dục của gia đình phải đảm bảo cho các em có hiểu biết đơn giản, cần thiết về tự nhiên, xã hội và con ngƣời, có kỹ năng cơ bản về nghe, đọc, nói, viết và tính toán, có thói quen rèn luyện thân thể, giữ gìn vệ sinh, có hiểu biết ban đầu về nghệ thuật. Có thể nói, hát ru là một trong những yếu t góp phần hình thành và phát triển nhân cách, giúp tr cảm thụ về giá trị âm nhạc dân gian truyền th ng và tác dụng của hát ru đ i với đời s ng xã hội, bồi đắp ý thức trân trọng, gìn giữ và phát huy những giá trị nghệ thuật trong nền văn h a dân gian của dân tộc. Từ đ , giúp tr hiểu biết và phân biệt đƣợc rõ hơn những nét đặc trƣng của các làn điệu dân ca. Ngoài ra, hát ru còn giáo dục tình đoàn ết yêu thƣơng nhau, kính thầy mến bạn; yêu quý thiên nhiên, yêu chuộng hòa bình và nhất là giáo dục các em tình yêu gia đình, quê hƣơng, đất nƣớc và lòng yêu mến Đảng quang vinh, Bác Hồ vĩ đại, giúp các em ngày càng yêu thích và trân trọng những giá trị của các loại hình dân ca độc đáo của dân tộc. Lời ru cất lên bên nôi đã nuôi dƣỡng trƣởng thành biết bao vĩ nhân, những ngƣời con ƣu tú của đất nƣớc, của nhân loại cần lao. Các giai điệu đã tạo thành những di sản văn h a đi vào thơ ca, nhạc họa, nghệ thuật và trƣờng tồn cùng với lịch sử văn h a của dân tộc. Kỳ diệu thay, tất cả những làn điệu hát ru, dân ca, cổ truyền đƣợc truyền tải b ng cả tấm lòng đƣợc ăn sâu trong 22
  28. tiềm thức của ngƣời phụ nữ, những ngƣời bà, ngƣời mẹ, ngƣời chị, ngƣời vợ và trở nên s ng động, dạt dào chứa bao sức s ng, đi vào lòng ngƣời nhƣ những giọt mật thật tự nhiên hồn hậu, nhẹ nhàng, êm dịu, du dƣơng, trìu mến vỗ về theo nhịp đu đƣa, lời ca phong phú giàu hình tƣợng tạo thành hành trang không thể thiếu cho mỗi con ngƣời, cho cả dân tộc trong quá trình tồn tại và phát triển. Có thể nói, hát ru, hát dân ca cổ truyền là v n quý, thời gian qua đã đƣợc các đơn vị Thông tin lƣu động, các Đoàn nghệ thuật biểu diễn quan tâm trong phong trào sáng tác, dàn dựng trở thành một hoạt động sinh hoạt văn h a, văn nghệ rộng khắp, thực sự hơi dậy đƣợc tình yêu quê hƣơng, đất nƣớc, con ngƣời Việt Nam góp phần quan trọng vào việc bảo tồn, gìn giữ trao truyền kho tàng các giá trị văn h a truyền th ng các dân tộc cho thế hệ tr , góp phần quan trọng trong việc giáo dục phẩm chất văn hóa, nghệ thuật truyền th ng trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại h a đất nƣớc, cổ vũ các tầng lớp nhân dân chung tay xây dựng quê hƣơng, đất nƣớc giàu đẹp dệt nên những tác phẩm giàu hình tƣợng chân thực sinh động thể hiện qua nghệ thuật biểu diễn hát ru, hát dân ca cổ truyền ngọt ngào sâu lắng để mãi mãi xanh tƣơi Đất nước lời ru. 2.1.2. Hát ru trong văn hóa Tà-ôi Dân tộc Tà-ôi hay còn gọi là dân tộc Pa Cô, Pa Hi có khoảng 30.000 ngƣời, sinh s ng chủ yếu ở huyện Lƣới, tỉnh Thừa Thiên – Huế. Ngƣời Tà- ôi có nhiều tập tục hay, nhiều sinh hoạt đẹp. Ngƣời Tà-ôi ở Việt Nam thật sự đã c một ho tàng văn học dân gian rất phong phú với các thể loại: Ca dao (Pracăm), câu đ (Pralau), truyện cổ dân gian (Axoar), tục ngữ và dân ca, trong đ hát ru là một thành phần quan trọng trong hệ th ng ca dao, dân ca của dân tộc Tà-ôi. 23
  29. Trong ho tàng văn học dân gian Tà-ôi, thể loại ca dao có một vị trí rất quan trọng trong sự hình thành nền văn hoá bản địa, đặc biệt là những khúc hát ru. Hát ru của văn h a dân tộc Tà-ôi có l i thể hiện b ng các ngôn từ đ m thắm nh m gửi gắm những tâm tƣ, tình cảm, nguyện vọng của mình qua từng lời n i nhƣ: Ngủ ngon A-kay ơi! Ngủ ngon A-kay hỡi Mai sau khôn lớn được ở nhà dài. hay Mẹ như con chồn nằm ấp con Gấu con của mẹ ơi hãy ngủ ngon.[17] Những hình ảnh có trong các khúc hát ru nói riêng và ca dao Tà-ôi nói chung đều mang những sắc thái riêng so với ca dao ngƣời Việt. Một điều cho chúng ta thấy r ng, ở những nơi c địa hình, địa vật đặc thù, cho nên trong ca dao của họ vắng bóng hình ảnh con thuyền, bến nƣớc, cây đa mà trong lúc đ họ lại đƣa vào trong những khúc hát ru và câu ca dao các hình ảnh về núi đồi, rƣợu, nƣơng rẫy và cồng chiêng: Nghe tiếng trống, tiếng chiêng hay quá Nhà bạn dù nhỏ, cũng xin được vào chơi Mình sang chơi mà chưa thấy ai mời Có hội hè, mình muốn cùng vui có được không?[17] Không gian và thời gian trong ca dao Tà-ôi thƣờng lấy cảnh núi đồi, nƣơng rẫy, lấy thời gian buổi sáng là chủ đạo, tiếp đến là thời gian lễ hội và thời gian hi đêm về: Buổi sáng em ra rẫy Lấy lá môn múc nước suối trong Em đứng soi bóng mình Sao em thấy cả bóng anh [17] 24
  30. Ca dao Tà-ôi cùng một lúc chuyển tải đến cho ngƣời thƣởng thức thấy đƣợc nhiều nội dung phong phú nhƣ tình yêu trai gái, tình cảm mẹ con, tình yêu nƣơng rẫy, núi đồi. Tất cả đều hƣớng mọi ngƣời s ng chan hoà với vạn vật và thời gian. Về phân loại dân ca, hầu hết các nhà nghiên cứu cũng nhƣ qua sự kể lại của các nghệ nhân Tà-ôi đều th ng nhất chia ra làm 6 điệu: Ba b i, Cà lơi, Cha chấp, teravin, Ru ay và Riroi , trong đ hát ru là một thành phần trọng yếu. Ba bói: Đ i với thể loại dân ca này mang đậm tính chất quen thuộc của những công việc h ng ngày. Nội dung chủ yếu làn điệu này là bàn chuyện làm ăn, họ hát hi trên đƣờng lên nƣơng rẫy, hát nhƣ để xua đi cái mệt nhọc của đƣờng xa, hát để tâm sự với bạn đồng hành. Cà lơi: Đây là thể loại hát đ i đáp giàu tính triết lý. Những bài ca của làn điệu cà lơi thƣờng đƣợc thể hiện trong các lễ hội hè, sinh hoạt cộng đồng mang tính chất trân trọng, đ i tƣợng hát thƣờng là các vị già làng, trƣởng bản, trƣởng các gia tộc, trƣởng dòng họ và các cụ ông lớn tuổi trong thôn bản nh m thắt chặt m i quan hệ cộng đồng để mọi ngƣời dễ gần gũi thân thiện, dễ thuyết phục và mang tính giáo dục hơn. Cha chấp: Đây là làn điệu có tính chất vui kho , sinh động dành cho các đôi trai gái chƣa nên vợ nên chồng hát. Atêravin: Mang tính chất trữ tình thắm thiết, dùng để than thân trách phận. Ru Akay: Thƣờng đƣợc hát trong lúc các mẹ, các chị Tà-ôi ru cháu, ru con ngủ. Qua lời ru, họ thƣờng gửi gắm những ƣớc mong, mong sao cho con cháu mình sau này khôn lớn trƣởng thành. 25
  31. Riroi: Lời ca mang âm điệu buồn thƣờng hi c ngƣời thân mất. Loại dân ca này rất khó thuộc vì ngƣời diễn xƣớng hát nhanh, rất ít truyền lại cho ngƣời ngoài dòng họ, gia tộc. Nhƣ vậy, các thể loại văn học dân gian của ngƣời Tà-ôi đang hiện hữu đã là một minh chứng cho sự phóng túng của ngƣời dân bản địa nơi đây. Mỗi thể loại đều có những nội dung nghệ thuật riêng nhƣng những điệu hát ru đã làm nên bản sắc và dấu ấn văn h a nơi đây. Ngƣời Tà-ôi khi đi làm nƣơng rẫy thƣờng mu n tạo cho mình niềm vui hay mong mu n có một ngƣời bạn để tâm sự, họ lấy những ng nứa gọt dũa để thổi nghe cũng vui tai, từ đ hình thành nên những loại nhạc cụ và thƣờng kèm theo những câu hát. Có thể thấy hát ru của dân tộc Tà-ôi đã đƣợc hình thành trong quá trình lao động của ngƣời dân, nó chân chất, giản dị nhƣng chứa đựng biết bao tâm tƣ, tình cảm cũng nhƣ chan chứa tình yêu thƣơng cho các con của mình. Qua những khúc hát ru chúng ta có thể nhận thấy bản chất của những con ngƣời nơi đây, luôn luôn cần cù, nhẫn nại, siêng năng, chịu khó, thông minh và sáng tạo, đ chính là những lẽ s ng thiết thực của ngƣời Tà-ôi, qua đ họ gửi gắm tâm tƣ, ƣớc mơ của mình vào một cuộc s ng tƣơi đẹp hơn. Trong tác phẩm Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ những câu hát ru của ngƣời mẹ Tà-ôi cất lên bên c i gạo giữa sàn nhà cũng chính là lời tâm sự, lời tự nhủ, lời mẹ thầm nói với chính mình. Lòng yêu con của mẹ gắn liền với tình thƣơng yêu bộ đội và ƣớc mơ, hát vọng của ngƣời mẹ gửi gắm qua lời hát ru tha thiết, nặng tình nặng nghĩa ấy: Ngủ ngoan A-kay ơi, ngủ ngoan A-kay hỡi, Mẹ thương A-kay, mẹ thương bộ đội Con mơ cho mẹ hạt gạo trắng ngần, Mai sau con lớn vung chày lún sân 26
  32. Mong con khôn lớn, khỏe mạnh để bảo vệ Tổ qu c, lao động sản xuất, ngƣời mẹ cất lên những lời ru với hi vọng và ƣớc mong cháy bỏng: Lời ru của mẹ không chỉ hƣớng vào thực tại mà còn hƣớng về tƣơng lai: Ngủ ngoan A-kay ơi, ngủ ngoan A-kay hỡi, Mẹ thương A-kay, mẹ thương làng đói. Con mơ cho mẹ hạt bắp lên đều Mai sau con lớn phát mười Ka Lưi Ƣớc mong của mẹ ngày cũng mỗi lúc một lớn dần: “Con mơ cho mẹ hạt gạo trắng ngần” đến: “Con mơ cho mẹ hạt bắp lên đều” Từ mong mu n: “Mai sau con lớn vung chày lún sân” đến: “Mai sau con lớn phát mười Ka Lưi” cu i cùng cũng bùng lên thành một khát vọng cháy bỏng: “Mai sau con lớn làm người Tự do”. Không chỉ mong ƣớc cho con, mẹ còn mong ƣớc cho đất nƣớc, cho dân tộc, thể hiện lòng yêu quê hƣơng, đất nƣớc của dân tộc Tà- ôi n i riêng và đồng bào dân tộc miền núi nói chung: Ngủ ngoan A-kay ơi, ngủ ngoan A-kay hỡi, Mẹ thương A-kay, mẹ thương đất nước. Con mơ cho mẹ được thấy Bác Hồ, Mai sau con lớn làm người Tự do Tình yêu thƣơng con của ngƣời mẹ gắn liền với tình cảm đ i với cán bộ, x m làng, đất nƣớc. Tình yêu của ngƣời mẹ Tà-ôi gắn liền với tình cảm cao đẹp hác. Đ là lòng thƣơng yêu bộ đội, yêu thƣơng dân làng, yêu thƣơng đất nƣớc. Những lời ru của ngƣời mẹ còn thể hiện ƣớc mơ và ý chí của nhân dân ta. Ngƣời mẹ mong con lớn lên giúp mẹ giã gạo “vung chày lún sân”, giúp mẹ trỉa ngô, làm rẫy “phát mười Ka Lưi”. Đ là niềm mong ƣớc mọi ngƣời đƣợc s ng ấm no: “hạt gạo trắng ngần, hạt bắp lên đều”. Lời hát ru còn thể hiện ý chí chiến đấu, khát vọng tự do và niềm tin vào thắng lợi của nhân dân 27
  33. ta trong cuộc kháng chiến ch ng Mỹ:“Con mơ cho mẹ được thấy Bác Hồ/ Mai sau con lớn làm người Tự do ” Tƣ duy trong l i thể hiện của ngƣời Tà-ôi thật chất phác và giản dị. Trong các khúc hát ru của dân tộc Tà-ôi, thời gian và không gian nghệ thuật thƣờng gắn liền với cảnh núi rừng bao la hoặc bên bếp lửa của những ngôi nhà dài, và phảng phất mang những nét tƣơng đồng với các khúc hát của các dân tộc anh em khác. Trên cơ sở những văn bản c đƣợc, các khúc hát ru của dân tộc Tà-ôi luôn mang trong mình một sức s ng mới, hơi thở mới cả về nội dung lẫn giá trị nghệ thuật. Ngày nay, chúng ta chỉ cần khai thác và nghiên cứu gìn giữ để cho nó thêm tinh túy mà thôi. 2.2. Những yếu tố văn hóa trong Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ của Nguyễn Khoa Điềm 2.2.1. Cội nguồn văn hóa - nguồn nu i dưỡng tâm hồn con người 2.2.1.1. Cội nguồn của tình mẫu tử Trong đời s ng con ngƣời có nhiều thứ tình cảm cao đẹp: đ là sự kính trọng đ i với ông bà, là sự nhƣờng nhịn bảo ban nhau của anh chị em, đ là sự s chia buồn vui giận hờn của tình bạn, đ cũng c thể là vị ngọt ngào pha lẫn đắng cay của tình yêu đôi lứa. Và hơn thế, rộng hơn là tình cảm với quê hƣơng, đất nƣớc, với cội nguồn. Nhƣng tình mẫu tử vẫn có một vị trí đặc biệt, thiêng liêng và máu thịt nhất. Bởi đ là tình cảm đầu tiên của mỗi ngƣời khi sinh ra và sẽ gắn bó trong su t cuộc đời. Khuôn mặt đầu tiên, nụ cƣời đầu tiên mà ta bắt gặp chính là mẹ. Chính vì thế nó sẽ gắn bó trong su t cuộc đời ta. Hơn thế nữa, đ là tình cảm vừa có yếu t máu thịt vừa mang tính tinh thần cao cả. Đứa con là hạt máu cắt đôi của mẹ, là sinh linh bé bỏng mà mẹ đã mang nặng đ đau trong su t hơn chín tháng. Niềm vui, giọt nƣớc mắt, hạnh phúc xen lẫn đau 28
  34. đớn tuôn trào và vỡ òa ra khi con cất tiếng h c chào đời. Tình cảm ấy vừa là động lực, vừa là hành trang trên con đƣờng dài rộng của con sau này. Tình mẫu tử là tình cảm thƣơng yêu đùm bọc, chở che vỗ về mà ngƣời mẹ dành cho con. “Sữa nuôi phần xác, hát nuôi phần hồn”, đúng nhƣ Nguyễn Duy nói từ dòng sữa ngọt thơm dƣỡng nuôi con lớn lên về mặt thể chất, đến lời ru êm đềm tƣới mát tâm hồn con, cho con lớn lên về mặt tâm hồn. Rồi đến bát cơm con ăn tay mẹ nấu, bát nƣớc con u ng tay mẹ đun, những tình cảm cao quý ấy, sự yêu thƣơng của mẹ đ i với hạt máu cắt đôi vừa tự nhiên, vừa cao cả nên nó sẽ đi theo mỗi ngƣời su t cuộc đời. Hạnh phúc biết bao hi ta đƣợc s ng trong tình mẫu tử. Đƣợc s ng trong tình mẫu tử là ta đƣợc s ng trong sự nâng niu, chở che. Đƣợc s ng trong tình mẫu tử là ta c đƣợc sức mạnh để vƣợt lên h hăn trong cuộc s ng. Con vấp ngã, mẹ hiền từ đỡ con dậy, tiếp cho con nghị lực, con có lỗi mẹ sẵn sàng tha thứ, dang rộng vòng tay giúp con c cơ hội để chuộc lại lỗi lầm. Bài học làm ngƣời con đâu chỉ đƣợc học ở trên lớp, ở thầy, ở cô mà con còn từng đƣợc học ở mẹ nữa. Lòng mẹ khoan dung, trái tim mẹ dạt dào tình thƣơng và chính tình mẫu tử thiêng liêng này là nơi nuôi dƣỡng ý thức tự do và ý thức bảo vệ đất nƣớc của con ngƣời. Mẹ- tiếng gọi nghẹn ngào mà thân thƣơng đến lạ. Biết bao ấm áp, bao niềm vui, bao sung sƣớng đầy vơi chất trong tiếng gọi ấy. Có lẽ r ng, viết về mẹ mãi mãi là đề tài không mới nhƣng hông bao giờ cũ trong dòng chảy văn học. Tình cảm nhân bản và cao đẹp ấy ta đã bắt gặp trong Nắng mới của Lƣu Trọng Lƣ, Con cò của Chế Lan Viên và rất nhiều, rất nhiều bài thơ hác nữa. nhƣng hông hiểu sao hai câu thơ của Nguyễn Duy trong bài Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa cứ ám ảnh, cứ day dứt trong lòng tôi mãi: Ta đi trọn kiếp con người Cũng không đi hết những lời mẹ ru 29
  35. Mấy lời mẹ ru là biểu tƣợng cho tình cảm thƣơng yêu vô bờ mẹ dành cho con. Cách n i đi trọn kiếp cũng hông đi hết đã hẳng định tình mẹ là vô cùng lớn lao, thiêng liêng, là cao cả, bất tử, và vô tận, không sao có thể đền đáp hết đƣợc. Có thể n i Văn học Việt nam đã thể hiện hình tƣợng ngƣời phụ nữ rất đặc sắc và đầy đủ, đây còn đƣợc coi là điểm kết tinh của một nền văn h a luôn luôn tôn trọng ngƣời phụ nữ. Trong văn h a Việt Nam cũng c rất nhiều phong tục nhƣ việc thờ cúng nữ thần tồn tại khắp nơi đặc biệt là tín ngƣỡng thờ Mẫu có vai trò không thể thay thế trong đời s ng tâm linh của ngƣời Việt. 2.2.1.2. Cội nguồn của tình yêu nước Chủ nghĩa yêu nƣớc truyền th ng Việt Nam đƣợc ông cha ta hun đúc bao đời nay, đ là tình yêu quê hƣơng làng x m, là tình cảm gắn bó, c kết với cộng đồng, là ý thức giữ gìn, bảo vệ bản sắc văn h a, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ qu c gia, là ý thức độc lập và niềm tự tôn dân tộc Tình yêu thiêng liêng ấy đã đƣợc Mẹ truyền lại cho con với tất cả niềm tự hào và niềm tin mãnh liệt. Có thể nói, trong chiến tranh hình tƣợng ngƣời mẹ là sự kế thừa t t đẹp những đặc trƣng ngƣời mẹ quê hƣơng - ngƣời mẹ chiến sĩ, tập trung những cảm xúc trong tr o nhất của nhà thơ, gợi về v đẹp tâm hồn của đồng bào dân tộc theo kháng chiến. Tình thƣơng thành điệp khúc xuyên su t theo nhịp chày của mẹ: Em cu Tai ngủ trên lưng mẹ ơi Em ngủ cho ngoan đừng rời lưng mẹ Nếu tình thƣơng của ngƣời mẹ trong những câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm hàm chứa bao trìu mến dành cho chú bé Tà-ôi hi địu con lên rẫy thì một lần nữa ta lại bắt gặp hình ảnh này trong cuộc kháng chiến ch ng Pháp của nhà thơ T Hữu: Nhớ người mẹ nắng cháy lưng Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô 30
  36. Hình ảnh ngƣời Mẹ hoàn toàn hông đƣợc thi vị hóa mà b ng bút pháp tả thực giúp ngƣời đọc nhận ra dù dƣới làn mƣa bom bão đạn nhƣng mẹ vẫn miệt mài lao động để phục vụ kháng chiến: giã gạo, tỉa bắp, hăng say lao động. Chiến tranh ác liệt, mặc dù phải hứng chịu rất nhiều bom đạn k thù và luôn phải đƣơng đầu với những cuộc hành quân lùng sục "tìm và diệt", càn quét hòng xoá sạch dấu tích của vùng chiến hu đầu m i Bắc Nam này. Cuộc s ng h hăn thiếu th n đòi hỏi phải tự cung tự cấp, tăng gia sản xuất , bảo đảm nuôi dân đánh giặc. Ở đâu cũng vậy, khi cách mạng đƣợc bao bọc, chăm chút b ng tất cả tình cảm yêu nƣớc của nhân dân, khi biết dựa vào dân thì không sức mạnh tàn bạo nào của k thù có thể khuất phục đƣợc. B ng những hành động của mình, Mẹ đã nuôi dƣỡng và truyền lại cho con - thế hệ mai sau một tình yêu tự do, hòa bình và tình yêu to lớn. Gạo dùng để nuôi quân, mẹ lại lên tỉa bắp. Đ ng sau hành động đ lại ẩn chứa v dẹp của sự hy sinh nhƣờng cơm s áo cho ngƣời cách mạng. Khó hăn gian hổ là thế nhƣng tình yêu nƣớc chƣa bao giờ ngừng cháy và hình ảnh ngƣời mẹ vừa địu con vừa miệt mài lao động cũng hông phải là một hình ảnh hiếm thấy. Tất cả vì cách mạng, vì đất nƣớc, mẹ truyền cho con tình yêu tự do và tình yêu lao động, tình yêu Tổ qu c từ những điều bình dị nhất: mẹ thƣơng con, mẹ thƣơng bộ đội, mẹ thƣơng những buôn làng còn chƣa no đủ. Dù còn bao cơ cực, thiếu th n nhƣng sức mạnh của tình thƣơng, tình yêu đất nƣớc đã giúp ngƣời mẹ vƣợt lên tất cả. Tình yêu thiêng liêng ấy Mẹ đã truyền sang cho con - những thế hệ tiếp n i. Hình ảnh gắn với tƣơng lai của con thật kỳ vĩ, nhƣ mang theo sức mạnh của các nhân vật sử thi huyền thoại. Ƣớc vọng về con làm nên sức mạnh, sự bền bỉ của mẹ. Đồng thời còn hội tụ cả sức mạnh cộng đồng từ quá khứ đến hiên tại gắn với tinh thần cuộc kháng chiến lâu dài, vƣợt qua bao sóng gió thử thách. 31
  37. Với hiện thực kh c liệt và khẩn trƣơng của cuộc kháng chiến ch ng Mỹ, với nhịp s ng chiến khu Trị Thiên. Không chỉ có mẹ, mà anh trai cầm súng, chị gái cầm chông và em cu Tai cũng theo mẹ vào trận cu i. Những câu thơ hừng hực tinh thần bất khuất của ngƣời dân tộc miền tây Thừa Thiên, đem lại cảm hứng lạc quan của cuộc chiến đấu ch ng Mỹ. Sự trƣởng thành của mỗi con ngƣời từ nhận thức đến hành động đã đƣợc khẳng định b ng hai câu thơ thật kho khoắn: Từ trên lưng mẹ, em đến chiến trường Từ trong đói khổ, em vào Trường Sơn Tinh thần của bao thế hệ ngƣời Tà-ôi theo cách mạng đã truyền cả sang A-kay, dạt dào một niềm tin, khẳng định dứt hoát con đƣờng em đi sẽ hoà vào đội ngũ chiến đấu với ý chí quyết thắng. Đ là cơ sở cho ƣớc mơ thật đẹp: Con mơ cho mẹ được thấy Bác Hồ Mai sau con lớn làm người Tự do. Lời ru kết lại cùng hình tƣợng em cu Tai của tƣơng lai là ngƣời Tự do của một đất ƣớc hoà bình. Đ cũng chính là ƣớc mong chung của nhân dân, của những ngƣời Việt Nam yêu nƣớc. Và chính lòng yêu nƣớc của những ngƣời mẹ ngày ấy, những thế hệ đi trƣớc đã nuôi dƣỡng, bồi đắp tình yêu quê hƣơng đất nƣớc cho những thế hệ hôm nay và mai sau. 2.2.2. Bức tượng đài bất tử về mẹ 2.2.2.1. Bà mẹ chan chứa tình thương, tình yêu với con Đất nƣớc ta có 54 dân tộc anh em, tất cả đều đồng lòng đánh giặc. Mặc dù dƣới làn bom đạn quân thù, nhân dân ta vẫn tiếp tục thi đua thực hiện thắng lợi khẩu hiệu: “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”, iên định lẽ s ng : “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Chiến tranh xảy ra, tất cả đều hƣớng về tiền tuyến với tất cả sự tin yêu, thƣơng nhớ, họ ngày đêm tăng gia sản xuất, tất cả vì tiền tuyến, vì đất nƣớc thân yêu. 32
  38. Bài thơ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ xây dựng hình ảnh ngƣời mẹ Tà-ôi, nuôi con thơ mà làm đủ mọi việc cho công cuộc ch ng Mỹ, góp phần vào thắng lợi chung cho đất nƣớc. Lời ru của ngƣời mẹ Tà-ôi ngân nga trong trái tim mẹ khi mẹ địu con đi tỉa bắp vẫn hƣớng về đứa con thơ yêu quý của mình. Lòng thƣơng yêu con của mẹ trong hoàn cảnh này gắn liền với tình thƣơng yêu dân làng - những ngƣời dân lao động nghèo đ i. Và ngay trong lúc này Mẹ mơ ƣớc về con: “Mai sau lớn lên phát mười Ka Lưi”. Mẹ thương A-kay, Mẹ thương làng đói Con mơ cho mẹ hạy bắp lên đều Mai sau con lớn phát mười Ka Lưi. Theo lời ru (và cũng là tình yêu thƣơng của mẹ), theo bƣớc chân lao động của ngƣời mẹ Tà-ôi, hông gian cũng đƣợc mở rộng dần: từ sân (khi mẹ giã gạo) đến ngọn núi Ka Lƣi ( hi mẹ đi tỉa bắp) rồi đến những rừng những su i khi mẹ chuyển lán đạp rừng. Mẹ giã gạo cũng địu em trên lƣng, Mẹ đi trỉa bắp cũng địu em đi theo và Mẹ đến chiến trƣờng, em vẩn trên lƣng:“Từ trên lưng mẹ em đến chiến trường/ Từ trong đói khổ em vào Trường Sơn”. Trong khói lửa của chiến tranh mẹ mong ƣớc: “Mai sau con lớn làm người Tự do”. Ba húc hát ru cũng là ba đoạn thơ diễn tả công việc cùng tấm lòng của mẹ ở trong chiến khu gian khổ, ngƣời mẹ Tà-ôi trong bài thơ còn thắm thiết yêu con và nặng tình thƣơng buôn làng, quê hƣơng, bộ đội và hao hát mong cho đất nƣớc độc lập, tự do. Tất cả toát lên tình thƣơng vô hạn của ngƣời mẹ nghèo vẫn thƣơng con, thƣơng cách mạng. Khi chuyển lán, nhịp thơ ngắt đôi, mỗi dòng theo bƣớc chân đi nhƣng lời thơ xếp theo l i hùn điệp, đuổi nhau giục giã, khẩn trƣơng: Mẹ đang chuyển lán, mẹ đi đạp rừng. Thằng Mỹ đuổi ta phải rời con suối Từ trong đói khổ em vào Trường Sơn 33
  39. Cũng nhƣ đoạn thơ trên, lời ru của mẹ hƣớng vào đất nƣớc, hƣớng vào tƣơng lai chiến thắng : “Ngủ ngoan A-kay ơi, ngủ ngoan A-kay hỡi/ Mẹ thương A-kay, mẹ thương đất nước/ Con mơ cho mẹ được thấy Bác Hồ/ Mai sau con lớn làm người Tự do”. Ngƣời mẹ địu con trong tƣ thế đang “chuyển lán”, “đạp rừng”. Bà mẹ băng rừng, địu con trên lƣng đƣa con đi “để giành trận cu i”. Lòng yêu con của mẹ đến đây gắn liền với lòng yêu nƣớc: “Mẹ thương A-kay, mẹ thương đất nước”. Ngƣời mẹ gửi gắm vào giấc mơ của con niềm hao hát đƣợc gặp Bác Hồ và mong đất nƣớc đƣợc độc lập tự do. Những ngƣời mẹ hàng ngày vẫn cùng bộ đội chuyển lán, đạp rừng , cùng tham gia đánh giặc. Mẹ đến chiến trƣờng, em vẫn trên lƣng:“Từ trên lưng mẹ em đến chiến trường/ Từ trong đói khổ em vào Trường Sơn”, trong khói lửa của chiến tranh mẹ mong ƣớc: “Mai sau con lớn làm người Tự do”. Tấm lòng của mẹ ở trong chiến khu gian khổ, ngƣời mẹ Tà-ôi trong bài thơ còn thắm thiết yêu con và cũng nặng tình thƣơng buôn làng, quê hƣơng, bộ đội và khao khát mong cho đất nƣớc độc lập, tự do. 2.2.2.2. Bà mẹ yêu lao động, tảo tần sớm hôm Hay lam hay làm là một trong những nét đẹp của ngƣời phụ nữ Việt Nam. Bàn tay khéo léo và sự d o dai của ngƣời phụ nữ dƣờng nhƣ c thể làm đƣợc bất cứ một công việc nào. Cùng với đức hi sinh cao cả, ngƣời phụ nữ sẵn sàng chịu đựng vất vả h hăn để có thể mang lại niềm vui và sự ấm no cho gia đình và những ngƣời ruột thịt của mình. Hình ảnh của những ngƣời phụ nữ trong ca dao Việt Nam lao động trên đồng ruộng cùng với gia đình, với hình ảnh “chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa” đã trở thành một hình ảnh độc đáo của văn học dân gian Việt Nam. Trong văn học trung đại, các nhà nho cũng thể hiện và đề cao những ngƣời phụ nữ chịu thƣơng chịu khó, chắt chiu lo cho chồng cho con. Điển hình là cu i thời kỳ văn học trung đại, Nguyễn Khuyến và Tú Xƣơng đã viết về chính những ngƣời vợ tảo tần của 34
  40. mình nhƣ một sự tri ân cho những gì mà các bà vợ đã làm. C lẽ, đây là lần đầu tiên trong văn học Việt Nam, ngƣời phụ nữ với vai trò làm vợ đƣợc thể hiện trong văn học từ sự nhìn nhận và trân trọng của ngƣời chồng. Đ i với Nguyễn Khoa Điềm, hình ảnh ngƣời phụ nữ, những ngƣời mẹ Việt Nam anh hùng lại đƣợc ông đề cao hơn bao giờ hết. Hình ảnh ngƣời mẹ Tà-ôi trong những năm tháng quyết liệt của cuộc kháng chiến ch ng Mĩ cứu nƣớc với những đức tính cần cù, chịu thƣơng, chịu h đã làm nên những nét văn h a t t đẹp của dân tộc ta. Ở húc thứ nhất, ngƣời mẹ hiện lên với dáng tần tảo, lam lũ, vất vả với công việc giã gạo nuôi bộ đội, ngƣời mẹ ru con hi địu con trên lƣng và giã gạo nuôi bộ đội. Con đã ngủ yên trên lƣng nhƣng mẹ vẫn chƣa đƣợc nghỉ ngơi. Khi con đã ngủ ngoan mẹ lại bắt đầu với công việc của mình. Mẹ giã gạo để nuôi bộ đội tiếp tục chiến đấu, giành độc lập, tự do cho đất nƣớc. Câu thơ: “Vai mẹ gầy nhấp nhô làm gối” thật cảm động. Mẹ gầy vì công việc giúp nuôi bộ đội đánh giặc. Mẹ gầy vì nuôi cho con nhanh lớn. Hình ảnh một ngƣời mẹ địu con trên lƣng cần mẫn làm việc, mồ hôi chảy càng làm hiện rõ đôi vai mẹ gầy nhƣng hông vì thế mà nhịp chày dừng lại. Vì bộ đội, vì Tổ qu c mà tiếng chày của mẹ vẫn cứ đều đều vang lên, ngƣời mẹ vẫn cứ lao động hông biết mệt mỏi. Giấc ngủ của em nghiêng theo nhịp chày, thấm mồ hôi lao động vất cả của mẹ. Ngƣời mẹ Tà-ôi thƣơng con nhất mực không lúc nào chịu rời con, ngay cả hi đang làm việc nên mẹ đã lấy lƣng làm nôi và đôi vai gầy làm g i cho con. Lời ru gắn với tình yêu con tha thiết của ngƣời mẹ dân tộc Tà-ôi. Lời ru thủ thỉ những điều đang diển tả trong thực tại mà ngƣời con chƣa thể biết: Mẹ giã gạo mẹ nuôi bộ đội. Nhịp chày nghiêng giấc ngủ em nghiêng. 35
  41. Mồ hôi mẹ rơi má em nóng hổi. Vai mẹ gầy nhấp nhô làm gối. Lưng đưa nôi và tim hát thành lời Lời ru theo nhịp giã gạo, mỗi câu bị ngắt nhịp làm hai nhƣ theo nhịp chày, nhịp thở. Hai mẹ con cùng chung một nhịp, mẹ làm việc, con ngủ ngon “Nhịp chày nghiêng giấc ngủ em nghiêng”. Hai từ “nghiêng” đứng trong một câu thơ thể hiện niềm say mê của mẹ hoà cùng giấc ngủ của bé. Mẹ làm việc khổ cực trong hiện tại, nhƣng lời ru của mẹ cao vút đến ngày mai. “Mai sau con lớn vung chày lún sân”. Gạo dành để nuôi quân, mẹ lại lên nƣơng tỉa bắp, cùng với A- ay. Đ ng sau hành động đ ẩn chứa v đẹp của sự hi sinh, nhƣờng cơm s áo cho ngƣời cách mạng. Lòng mẹ bao dung lại đƣợc cảm nhận b ng bao tình cảm thƣơng mến của nhà thơ: Lưng núi thì to mà lưng mẹ nhỏ Em ngủ ngoan em đừng làm mẹ mỏi Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi Mặt trời của mẹ, con nằm trên lưng “ Mẹ đang tỉa bắp trên núi Ka Lưi” nghĩa là đang làm công việc lao động sản xuất của ngƣời dân ở chiến khu. Gian khổ của ngƣời mẹ giữa núi rừng mênh mông, heo hút đƣợc nhà thơ thể hiện một phần qua hình ảnh “ Lưng núi thì to mà lưng mẹ nhỏ”. Câu thơ:“Lưng núi thì to mà lưng mẹ nhỏ” hình thành theo kết cấu đ i lập làm nổi bật hình ảnh mẹ với công việc vất vả. Núi thì to, nƣơng bắp thì rộng, mà sức mẹ có hạn nhƣng mẹ vẫn cặm cụi “chọc lỗ” và tra từng hạt ngô không quản ngại mƣa nắng, vất vả. Bài thơ xây dựng hình ảnh ngƣời mẹ Tà-ôi, nuôi con thơ mà làm đủ mọi việc cho công cuộc ch ng Mỹ, góp phần vào thắng lợi chung cho đất nƣớc: lúc ở nhà giã gạo nuôi quân, lúc lên núi tỉa bắp lấy lƣơng thực ch ng đ i cho 36
  42. dân làng, trong chiến dịch lớn thì trực tiếp tham gia trận cu i, mọi công việc vất vả mẹ làm đều vì việc chung, vì làng xóm, vì sự nghiệp cách mạng. Tình yêu quê hƣơng, đất nƣớc, tinh thần kháng chiến ch ng Mỹ là động lực là sức mạnh để mẹ có thể vƣợt lên mọi nhiệm vụ gian nan. Nhƣ vậy, bà mẹ Tà-ôi là một ngƣời mẹ lao động, trực tiếp sản xuất, phục vụ cho chiến đấu của toàn dân tộc. Tình thƣơng con, thƣơng bộ đội, thƣơng dân làng, thƣơng đất nƣớc hoà quyện vào nhau trong tấm lòng của một ngƣời mẹ miền núi yêu nƣớc trong những năm tháng ch ng Mỹ khó hăn, gian hổ. Từ đoạn thơ, lần lƣợt hiện lên những công việc cùng tấm lòng của ngƣời mẹ trên chiến khu kháng chiến gian khổ. Ngƣời mẹ ấy bền bỉ quyết tâm trong công việc lao động kháng chiến thƣờng ngày. Ngƣời mẹ ấy thắm thiết yêu con và cũng nặng tình thƣơng buôn làng, quê hƣơng, bộ đội, khát khao đất nƣớc độc lập, tự do. Từ hình ảnh và tấm lòng của ngƣời mẹ Tà-ôi, Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện tình yêu quê hƣơng, đất nƣớc thiết tha, ý chí chiến đấu cho độc lập tự do và khát vọng th ng nhất đất nƣớc của nhân dân dân ta trong thời kì kháng chiến ch ng Mỹ. 2.2.2.3. Bà mẹ giàu lòng yêu nước, khát vọng tự do Nếu nhƣ ai đ cho r ng việc xông pha chiến trƣờng đấu tranh ch ng giặc ngoại xâm bảo vệ Tổ qu c là việc chỉ dành cho nam giới thì trong văn học Việt Nam từ xa xƣa đã hắc ghi những tấm gƣơng của những liệt nữ, đ là hình ảnh của Bà Trƣng, Bà Triệu, của nữ tƣớng Lê Chân trong văn học dân gian. Và đến văn học Việt Nam hiện đại ta vẫn bắt gặp tinh thần yêu nƣớc với sức mạnh quật cƣờng qua hình ảnh Chị Dậu trong “Tắt đèn” của Ngô Tất T , ngƣời mẹ trong “Người mẹ cầm súng” của Nguyễn Thi. Bên cạnh đ , những ngƣời mẹ, những cô dân quân, những o du kích, những cô gái thanh niên xung 37
  43. phong cũng đƣợc nhà thơ T Hữu thể hiện trong tác phẩm của mình. Hẳn chúng ta cũng sẽ không thể quên hình ảnh của những bà mẹ Việt Nam trong các tác phẩm “Mẹ Suốt”, “Mẹ Tơm”, “Bà má Hậu Giang”. Xuất phát từ những hình mẫu có thật, đi từ cuộc s ng thật, hình ảnh ngƣời mẹ Tà-ôi hiện lên trong tác phẩm của Nguyễn Khoa Điềm với tất cả sự hi sinh, tinh thần yêu nƣớc, gan dạ, chiến đấu quật cƣờng để góp phần vào việc giữ gìn và bảo vệ Tổ qu c. Một ngƣời mẹ tuy lao động nhọc nh n mà ƣớc mơ bay bổng, toát lên một niềm tin vững chắc cho tƣơng lai. Đây là một hình tƣợng hiếm có trong thơ ca cách mạng hiện đại, sánh cùng với những hình tƣợng khác hình ảnh ngƣời mẹ khác trong hai cuộc chiến của dân tộc ta đ là: mẹ Tơm, mẹ Su t, ngƣời mẹ - ngƣời cầm súng Út Tịch đã góp nên một bài ca của những ngƣời mẹ Việt Nam anh hùng: “Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang” với tám chữ vàng mà Bác Hồ trao tặng. Những ngƣời mẹ hàng ngày vẫn cùng bộ đội chuyển lán, đạp rừng, cùng tham gia đánh giặc. Mẹ đến chiến trƣờng, em vẫn trên lƣng:“Từ trên lưng mẹ em đến chiến trường/ Từ trong đói khổ em vào Trường Sơn”. Trong khói lửa của chiến tranh mẹ mong ƣớc: “Mai sau con lớn làm người Tự do”. Tấm lòng của mẹ ở trong chiến khu gian khổ, ngƣời mẹ Tà-ôi trong bài thơ còn thắm thiết yêu con và cũng nặng tình thƣơng buôn làng, quê hƣơng, bộ đội và khao khát mong cho đất nƣớc độc lập, tự do. Cảm hứng của bài thơ gắn liền với hiện thực kh c liệt và khẩn trƣơng của cuộc kháng chiến ch ng Mỹ, với nhịp s ng chiến khu Trị – Thiên. Hình ảnh của mẹ trong đoạn thơ này có một sự thay đổi, không phải trong một dáng chênh chao trong nhịp chày nghiêng, không lặng thầm nhẫn nại gieo từng hạt gi ng mà rất dứt khoát mạnh mẽ:“Mẹ đi chuyển lán, mẹ đi đạp rừng”. Dáng v con ngƣời đƣợc tô đậm qua hai động từ “đi” gợi tƣ thế chủ động với những công việc tiếp sức chiến đấu: chuyển lán, đạp rừng nhƣ hàm chứa ý 38
  44. thức tự hào của ngƣời Tà-ôi làm chủ vùng núi rừng của ta. Con ngƣời trong tƣ thế đ i mặt với k thù, quyết tâm chiến đấu giữ đất giữ rừng. K thù với dã tâm “đuổi ta phải rời con suối”, ngƣời Tà-ôi vẫn một dạ kiên trung ! Không chỉ có mẹ, mà anh trai cầm súng, chị gái cầm chông và em cu Tai cũng theo mẹ vào trận cu i. Những câu thơ hừng hực tinh thần bất khuất của ngƣời dân tộc miền tây Thừa Thiên, đem lại cảm hứng lạc quan của cuộc chiến đấu ch ng Mỹ. Sự trƣởng thành của mỗi con ngƣời từ nhận thức đến hành động đã đƣợc khẳng định b ng hai câu thơ thật kho khoắn: Từ trên lưng mẹ, em đến chiến trường Từ trong đói khổ, em vào Trường Sơn Tinh thần của bao thế hệ ngƣời Tà-ôi theo cách mạng đã truyền cả sang A-kay, dạt dào một niềm tin, khẳng định dứt hoát con đƣờng em đi sẽ hoà vào đội ngũ chiến đấu với ý chí quyết thắng. Đ là cơ sở cho ƣớc mơ thật đẹp: Con mơ cho mẹ được thấy Bác Hồ Mai sau con lớn làm người Tự do Trong tình cảm của ngƣời Tà-ôi cũng nhƣ của những đứa con miền Nam chiến đấu ch ng Mỹ, Bác Hồ luôn là nguồn động viên, là biểu tƣợng sáng chói của cách mạng, của chiến thắng. Bởi vậy, mong ƣớc đƣợc gặp Bác luôn là cảm xúc thƣờng trực, dù cho thời điểm viết bài thơ này là 1971. Giấc mơ đẹp gắn liền với ƣớc nguyện giành lại trọn vẹn non sông, thoả lòng Bác mong. Lời ru kết lại cùng hình tƣợng em cu Tai của tƣơng lai là ngƣời Tự do của một đất nƣớc hoà bình. Đ cũng là mong ƣớc chung của nhân dân, của những ngƣời Việt Nam yêu nƣớc. Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ của Nguyễn Khoa Điềm đã tạo đƣợc những cảm xúc đồng điệu với bao ngƣời con miền Nam anh dũng thời ch ng Mỹ, nói lên trọn vẹn v đẹp và tâm tƣ của ngƣời dân tộc miền tây Thừa Thiên trung dũng iên cƣờng, thủy chung với cách mạng. Cảm xúc bình dị trong sáng với hình tƣợng ngƣời mẹ đã làm nên sức hấp dẫn riêng của tác phẩm. Từ 39
  45. ngôn ngữ đến hình ảnh thơ đều đậm chất dân tộc, đem đến cho ngƣời đọc những cảm nhận đặc biệt thƣơng mến cùng hoà theo lời ru cho giấc ngủ thanh bình của em bé Tà-ôi. Bài thơ toát lên tinh thần lạc quan cách mạng, kết đọng những ân tình sâu lắng của nhà thơ về nhân dân đất nƣớc cũng nhƣ niềm tin vào thắng lợi cu i cùng của cuộc kháng chiến ch ng Mỹ đồng thời cũng thể hiện truyền th ng yêu nƣớc và bảo vệ tổ qu c của dân tộc ta. 40
  46. CHƯ NG 3. ĐẤT NƯỚC CỦA NGUYỄN KHOA ĐIỀM T G C NH N VĂN H A 3.1. Đất Nước nhìn từ cội nguồn văn hóa dân gian 3.1.1. Đất Nước nh n t văn hóa phong t c Chất liệu văn h a dân gian trong Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm gắn liền với phong tục tập quán của ngƣời Việt Nam. Phong tục, tập quán cũng là một thành t quan trọng trong văn h a tổ chức đời s ng cá nhân của ngƣời Việt. Đ là những phong tục, tập quán đƣợc truyền n i từ thế hệ này sang thế hệ khác. Đ là tập quán: “miếng trầu là đầu câu chuyện” c từ thuở các vua Hùng dựng nƣớc b ng câu chuyện Trầu cau ăm ắp nghĩa tình vừa mang yếu t truyền thuyết lại vừa đậm yếu t đời thƣờng của cổ tích: “Đất nước bắt đầu với miếng trầu bà ăn”. Câu thơ này tƣởng nhƣ một nghịch lí bởi đất nƣớc bắt đầu từ nghìn xƣa sao lại bắt đầu từ bây giờ? Thế nhƣng nếu ngƣời yêu thơ dừng lại để suy nghĩ, ngẫm nghĩ sâu vào trong mạch tƣ tƣởng của câu thơ này thì đây lại là sự hợp lí sâu sắc bởi mỗi miếng trầu bà ăn hôm nay là một hám phá, tìm tòi của ngƣời Việt từ thời thƣợng cổ. Trong mỗi miếng trầu ấy c mùi hăng hăng của lá trầu, cay cay của thu c, nồng nồng của vôi. Tất cả đều là lịch sử thăng trầm của đất nƣớc b n nghìn năm đƣợc kết tinh vào trong mỗi miếng trầu. Nói cách khác, mỗi miếng trầu bà ăn hôm nay đều đã c b n nghìn năm tuổi. Nó gắn liền với sự tích cổ của ngƣời Việt đ là sự tích trầu cau. Nó gắn liền với những câu thành ngữ, tục ngữ nhƣ: “Miếng trầu là đầu câu chuyện”. Không phải ngẫu nhiên viết về dân tộc Việt Nam, ngƣời ta vẫn thƣờng mƣợn hình ảnh miếng trầu. Giữa hai giờ súng nổ, chị Út Tịch trong Người mẹ cầm súng của Nguyễn Thi đã đặt súng xu ng, bỏm b m nhai miếng trầu của cô Tấm 41
  47. ngày xƣa. Chính miếng trầu ấy đã tiếp thêm sức mạnh tinh thần để Út Tịch vào trận đánh quân thù. Nhƣ vậy rõ ràng miếng trầu ở đây chính là văn h a Việt Nam. Từ tiền đề ấy, Nguyễn Khoa Điềm đã hẳng định văn h a của đất nƣớc này là do nhân dân sáng tạo ra. Nó làm toát lên v đẹp một nền văn minh nông nghiệp lúa nƣớc lâu đời. Đ là tập quán thể hiện quan niệm: “cái răng cái tóc là góc con người” của ngƣời Việt cổ xƣa: “Tóc mẹ thì bới sau đầu” (Mặt đường khát vọng). “Tóc mẹ thì búi sau đầu” trong muôn vàn truyền th ng đẹp ,nhà thơ chọn ra một hình ảnh thật giản dị nhƣng rất tinh tế đặc sắc: hình ảnh ngƣời phụ nữ Việt với mái tóc bới sau đầu - hình ảnh thật gần gũi ,thân quen in sâu trong nếp nghĩ, gợi suy ngẫm về con ngƣời trong cuộc s ng lam lũ nhƣng vẫn duyên dáng, tần tảo, đảm đang. Hình ảnh ấy qua bao năm tháng vẫn hông thay đổi, vẫn gợi suy ngẫm về cái đẹp giản dị mà thiêng liêng. Đ còn là tín ngƣỡng sùng bái con ngƣời thể hiện qua một thứ “tôn giáo” đặc sắc Việt Nam: Đạo thờ cúng tổ tiên. Ngƣời Việt Nam quan niệm, hi chết đi chỉ c phần vật chất (thể xác) là tiêu tan còn tinh thần (linh hồn) thì tồn tại vĩnh viễn và thƣờng xuyên đi về trần gian thăm nom, phù trì con cháu. Vì thế, bái vọng tổ tiên là điều hông thể thiếu thể hiện sự tôn trọng đầy thiêng liêng của ngƣời s ng đ i với ngƣời đã huất: Con lại về thăm ảnh cha xưa Người chiến sĩ đánh Tây Mười lăm năm, mới có mặt trên bàn thờ Bạn con đến thắp nén nhang thơm ngát Mắt cha vui phấp phới bóng trăm cờ (Đất ngoại ô). 42
  48. Hồn thiêng cha ông vẫn cùng đi về cùng cháu con trong đời thực: Nơi ta và tổ tiên Vẫn đi về trước cửa Nơi mùa màng vất vả Vẫn thơm lừng mái phên (Cái nền căm hờn) Cái sâu bền của thơ Nguyễn Khoa Điềm chính là ở đ . Vừa linh thiêng, quyến rũ, vừa in đậm dấu ấn phong tục tập quán quê hƣơng vừa căng đầy sức mạnh của hiện thực cuộc đời. 3.1.2. Đất Nước được thức nh n t chất liệu văn học dân gian Văn h a dân gian còn gắn với những câu chuyện bà kể từ trong truyện cổ, truyện kể dân gian. V n văn h a dân gian sâu rộng trải ra trên mỗi trang thơ với những phát hiện mới m , sâu sắc và tinh tế của nhà thơ. Những chất liệu dân gian nhƣ cổ tích, truyền thuyết từ sự tích núi Vọng Phu đến hòn Tr ng Mái, từ chuyện Thánh Gi ng đến sự tích chín mƣơi chín con voi quây quần thuần phục nơi đất Tổ Hùng Vƣơng, từ những sự tích về núi Bút, non Nghiên, thắng cảnh Hạ Long hay những địa danh Nam Bộ mỗi danh lam thắng cảnh tƣơi đẹp của đất nƣớc gắn với truyền thuyết riêng, tạo nên một thế giới c tích huyền diệu. Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu Cặp vợ chổng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái Gót ngựa cùa Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút, non Nghiên Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm. 43
  49. Hòn Vọng Phu ngàn năm còn đ nhƣ một minh chứng cho lòng thủy chung, son sắt ngàn đời của ngƣời phụ nữ Việt Nam bởi hai chữ Vọng Phu chính là chờ chồng. Đất nƣớc ta đã phải trải qua ba mƣơi năm của hai cuộc chiến tranh trƣờng kì gian khổ. Biết bao nhiêu ngƣời con trai ra trận, ngƣời con gái trở về nuôi cái cùng con, chờ chồng đ ng đẵng h a đá với biết bao cảm động. Nhân dân ở đây còn đƣợc hóa thân thành chàng Thánh Gióng nhổ bụi tre đ ng ngà đánh tan giặc Ân trong buổi đầu dựng nƣớc và giữ nƣớc. Đây chính là tinh thần bất khuất của dân tộc Việt Nam. Nhân dân cũng là hình ảnh ngƣời học trò nghèo đã “góp cho Đất Nước mình núi Bút non Nghiên”. Họ còn là ngƣời yêu quê hƣơng, thổi hồn mình vào con cóc, con gà “cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh”. Đ còn là những con ngƣời ta nhớ mặt đặt tên:“Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm”. Nhƣng thử hỏi đất nƣớc này có biết bao nhiêu con ngƣời đã ngã xu ng vì ngày mai độc lập, ngã xu ng để bảo vệ đất nƣớc mà ta không biết mặt đặt tên: Không ai nhớ mặt đặt tên Nhưng họ đã làm ra Đất Nước Nhƣng c lẽ nét sâu sắc hơn, tài hoa hơn cả chính ở cái nhìn “đất nƣớc của nhân dân” nên mỗi cảnh quan đất nƣớc đều in dấu hình dáng con ngƣời: những ngƣời vợ nhớ chồng, cặp vợ chồng yêu nhau, ngƣời học trò nghèo, những ngƣời dân nào cả đến những con vật gần gũi thân quen của cuộc s ng con ngƣời (con c c, con gà quê hƣơng) cũng g p phần tô điểm v đẹp dáng hình đất nƣớc, nhân dân không chỉ b ng những sinh hoạt của mình, cắt nghĩa các truyền thuyết mà còn sáng tạo ra danh lam thắng cảnh đẹp đẽ, mang hồn thiêng núi sông, dân tộc. Thiên nhiên đất nƣớc hiện lên chính là một phần máu thịt, tâm hồn của nhân dân. Từ đ , tác giả hái quát, nâng lên nhƣ một suy tƣ giàu chất triết luận: 44
  50. Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi Chẳng mang một dáng hình một ao ước một lối sống ông cha. Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy Những cuộc đời đã hóa núi sông ta Vƣợt qua thời gian đ ng đẵng, nhìn xa vào b n ngàn năm đất nƣớc, có bề lịch sử hào hùng cùa đất nƣớc nhƣ s ng dậy. Ca dao xƣa n i về nỗi nhớ quê hƣơng qua những chi tiết thật bình dị của bữa cơm đạm bạc và bóng dáng dầm sƣơng dãi nắng: Anh đi anh nhớ quê nhà Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương Nhớ ai dãi nắng dầm sương Nhớ ai tát nước bên đường hôm nao Nhìn lại lịch sứ dài lâu của đất nƣớc, ta thƣờng khắc ghi các triều đại, ngợi ca những anh hùng ghi danh trong trang sử vàng của dân tộc. Đất Nƣớc còn hiện lên trong sự gắn liền với một l i s ng đẹp: “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”. Câu thơ gợi từ một câu ca dao: “gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau”. Ý thơ giản dị mà ý nghĩa vô cùng sâu sắc. Tình yêu đƣợc sinh ra và nuôi dƣỡng từ trong khó nghèo, từ trong những hoàn cảnh đầy thử thách thật đáng trân trọng, đáng quý. Đ là l i s ng trọn nghĩa, trọn tình, thuỷ chung đã trở thành một truyền th ng thiêng liêng đƣợc lƣu truyền qua bao đời. Và sự sinh thành, phát triển của Đất Nƣớc song hành cùng với sự lƣu truyền và phát triển của truyền th ng t t đẹp ấy. “Cái kèo, cái cột thành tên”. Đất Nƣớc đƣợc gắn liền với những hình ảnh đơn sơ, mộc mạc “cái èo, cái cột” nhƣng chính những thứ đơn sơ, mộc mạc ấy đã tạo nên một mái ấm gia đình, làng x m, quê hƣơng, đất nƣớc. Đất Nƣớc hiện lên qua cuộc s ng lao động sinh hoạt: “Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng”. Sự hình thành và phát triển của Đất 45
  51. Nƣớc là một quá trình lâu dài, nhờ bàn tay lao động xây dựng của con ngƣời từ thƣở sơ hai, hi con ngƣời tạo dựng những cái đơn giản nhất với nỗ lực một nắng hai sƣơng. Con ngƣời lao động đã biết “xay, giã, giần, sàng” để tạo nên hạt gạo ,tạo nên những giá trị vật chất để xây dựng Đất Nƣớc no ấm. Cách sử dụng từ ngữ “một nắng hai sương” và chọn lọc hình ảnh “xay, giã, giần, sàng” cùng nhịp điệu lan toả gợi sự suy ngẫm liên tƣởng, hình ảnh Đất Nƣớc hiện dần nhờ bàn tay lao động cần cù, sáng tạo của con ngƣời, hình ảnh ấy hiện dần trong nhịp điệu gạo rơi trên sân, trong tiếng chày, trong máy xay với cuộc s ng lao động bền bỉ dù vất vả, lam lũ. Qua đ ta nhận ra nét đặc trƣng riêng của nền văn học Việt - văn hoá lúa nƣớc. Hình ảnh Đất Nƣớc hiện lên trong cuộc s ng sinh hoạt là một đất nƣớc cần cù, sáng tạo trong lao động. 3.2. Đất Nước nhìn từ không gian văn hóa 3.2.1. Đất Nước nh n t h ng gian đ a văn hóa Mỗi nhà thơ đều có một cách làm nổi bật đất nƣớc theo cách riêng của mình còn riêng Nguyễn Khoa Điềm bƣớc tiếp theo ông phân tích hai thành t Đất và Nƣớc sau đ lại t ng hợp lại. Đất Nƣớc tồn tại trong không gian sinh hoạt rất gần gũi với cuộc s ng mỗi con ngƣời. Hình tƣợng đất nƣớc thiêng liêng đƣợc cảm nhận thông qua cách nhìn nhận, suy nghĩ của tuổi tr nên vừa cụ thể, vừa mới m và hết sức táo bạo: Đất là nơi anh đến trường Nước là nơi em tắm Đất Nước là nơi ta hò hẹn Trƣớc hết Đất là nơi anh đến trƣờng, Nƣớc là nơi em tắm và ết lại Đất Nƣớc là nơi ta hò hẹn. C thể n i qua đây nhà thơ mu n n i r ng Đất Nƣớc hông tồn tại đâu xa mà ở ngay trong hông gian tình yêu đôi lứa. Đ là một 46
  52. đất nƣớc của tình thủy chung yêu thƣơng mặn nồng, một đất nƣớc c sự thầm ín của tình yêu. Hình ảnh con đƣờng đến trƣờng, bến sông em tắm, nơi lứa đôi yêu nhau hò hẹn gợi ra không gian cụ thể, thân quen, nhƣng cũng hông ém phần đẹp đẽ, thơ mộng. Đất Nƣớc gắn bó anh và em, gắn bó mỗi con ngƣời với cuộc đời. Đất Nƣớc là không gian sinh tồn của cả cộng đồng ngƣời Việt qua bao nhiêu thế hệ. Rộng lớn hơn nữa, Đất Nước là không gian mênh mông của núi sông, rừng biển, đất nƣớc tồn tại ngay cả trong những không gian riêng tƣ của tình yêu đôi lứa: Đất Nước là nơi ta hò hẹn Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm Đất là nơi "con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc" Nước là nơi "con cá ngư ông móng nước biển khơi" Các câu thơ trên lấy ý từ những bài ca dao miền Bắc và những câu hò Bình Trị Thiên để mở ra một không gian lãng mạn, bay bổng của một tình yêu say đắm, thủy chung. Trong mắt của những ngƣời tr tuổi, Đất Nƣớc là một hông gian thơ mộng với bao kỉ niệm dịu ngọt của tình yêu. 3.2.2. Đất Nước nh n t h ng gian văn hóa đời thường Đất Nƣớc còn là không gian sinh tồn hết sức đời thƣờng của nhân dân qua bao thế hệ: Những ai đã khuất Những ai bây giờ Yêu nhau và sinh con đẻ cái Gánh vác phần người đi trước để lại Dặn dò con cháu chuyện mai sau Hằng năm ăn đâu làm đâu 47
  53. Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ Trong anh và em hôm nay Đều có một phần Đất Nước Khi hai đứa cầm tay Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm Khi chúng ra cầm tay mọi người Đất Nước vẹn tròn, to lớn Những ngƣời đã huất đi thì còn những ngƣời bây giờ. Trách nhiệm của những thế hệ mai sau là gánh vác phần ngƣời đi trƣớc để lại dặn dò con cháu chuyện mai sau. Những câu thơ nhƣ gợi nhắc chúng ta về trách nhiệm với đất nƣớc thân yêu của mình. Đồng thời những câu thơ ấy cũng mang đến cho ta những truyền th ng t t đẹp đ là luôn nhớ về tổ tiên, dù ai c đi ngƣợc về xuôi thì đến ngày giỗ tổ tất cả đều hƣớng về cội nguồn. Đất nƣớc ấy tồn tại trong trách nhiệm của cả anh và em, chúng ta cầm tay nhau thể thể hiện sự đoàn ết của toàn dân tộc và hi ấy đất nƣớc vẹn tròn to lớn. Không gian nghệ thuật đƣợc mở rộng ra nhiều chiều, hình tƣợng thơ trở nên trữ tình, bay bổng và đều in đậm dấu ấn của nhân dân - một quan điểm mới m của Nguyễn Khoa Điềm. 3.3. Đất Nước trong chiều dài lịch sử dân tộc 3.3.1. T l ch ử bốn ngàn năm d ng â và đấu tranh chống ngo i âm Trong tƣ duy của Nguyễn Khoa Điềm, Đất Nước đƣợc thức nhận b ng chiều dài thời gian lịch sử từ quá khứ đến hiện tại và tƣơng lai. Đất Nƣớc ở ngay trong cuộc s ng của mỗi gia đình, từ lời kể chuyện ngày xửa ngày xƣa của mẹ, từ các phong tục tập quán có từ lâu đời: “Miếng trầu bây giờ bà ăn/ Tóc mẹ thì bới sau đầu/ Đất Nước có từ khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc” những câu thơ gợi nhớ đến các truyền th ng có từ xa xƣa: Trầu cau (miếng trầu bây giờ bà ăn), Thánh Gi ng (dân mình biết trồng 48
  54. tre mà đánh giặc), đến nền văn minh lúa nƣớc sông Hồng. Đ chính là Đất Nƣớc đƣợc cảm nhận từ chiều sâu, từ bề dày của văn h a và lịch sử. Đất Nƣớc hình thành từ tình nghĩa vợ chồng thủy chung, cha mẹ thƣơng nhau b ng gừng cay mu i mặn, từ quá trình lao động bền bỉ của dân tộc; từ hình ảnh hạt gạo ta ăn h ng ngày thấm đẫm mồ hôi một nắng hai sƣơng. Câu thơ: “Cái kèo cái cột thành tên” diễn tả thời gian hơn là hông gian. Phải bao năm tháng những vật dụng h ng ngày trong nhà mới c tên để gọi. Đấy cũng là quá trình sinh thành của Đất Nƣớc từ hông đến có, từ nhỏ hẹp tới lớn lao. Tất cả những điều đ làm cho hái niệm Đất Nƣớc trở nên gần gũi, thân thiết đ i với mỗi con ngƣời. Đ là một Đất Nƣớc thiêng liêng, hào hùng trong quá hứ mà từ rất sớm đã đƣợc hởi lên từ huyền thoại Lạc Long Quân và Âu Cơ, truyền thuyết về các vua Hùng dựng nƣớc. Đất là nơi Chim về Nước là nơi Rồng ở Lạc Long Quân và Âu Cơ Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng Dân tộc ta vẫn tự hào về nguồn g c con rồng cháu tiên và thời vua Hùng. Chính đất nƣớc c từ ngày mẹ Âu Cơ và Lạc Long Quân sinh ra đồng bào ta trong bọc trứng, đ là một hoảng thời gian đã đ ng đẵng trôi qua. Thế nhƣng đ lại chính là sự chứng minh cho thời gian hình thành đất nƣớc của chúng ta đã c từ rất lâu rồi. Và trong Đất Nước, lịch sử lâu đời của đất nƣớc Việt Nam đƣợc Nguyễn Khoa Điềm cắt nghĩa hông phải b ng sự n i tiếp của các triều đại phong kiến hay các anh hùng nổi tiếng mà tập trung nhấn mạnh vai trò của những con ngƣời vô danh: 49
  55. Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi Họ đã sống và chết Giản dị và bình tâm Không ai nhớ mặt đặt tên Nhưng họ đã làm ra Đất Nước. Họ đã làm ra Đất Nƣớc b ng chính những công việc h ng ngày và trong su t cuộc đời họ: Nhưng họ đã làm ra Đất Nước Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng Họ truyền lửa qua mỗi nhà, từ hòn than qua con cúi Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân Họ đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm Có nội thù thì vùng lên đánh bại Và cũng chính họ, những con ngƣời vô danh ấy đã làm nên bề dày lịch sử b n nghìn năm của dân tộc ta. Họ đã chiến đấu và bảo vệ Tổ qu c, làm nên một lịch sử hào hùng, bảo lƣu các giá trị văn h a t t đẹp truyền lại cho những thế hệ sau để đất nƣớc ngày càng phát triển và bền vững. 3.3.2. ti p nối của th hệ tr h m na Truyền th ng yêu nƣớc đã đƣợc thế hệ cha anh gìn giữ và truyền lại cho các thế hệ sau mọi giá trị văn h a, văn minh tỉnh thần và vật chất của đất nƣớc, của dân tộc: hạt lúa, ngọn lửa, tiếng nói, ngôn ngữ dân tộc, cả tên xã, tên làng và truyền th ng ch ng thù trong giặc ngoài để đất nƣớc tiếp tục tồn tại và phát triển trong ngày hôm nay, đ là một Đất Nƣớc giản dị, gần gũi trong hiện tại: 50
  56. Trong anh và em hôm nay. Đều có một phần Đất Nước Tất cả nhƣ đã hòa nhập làm một để n i tiếp thế hệ của ông cha. Và một Đất Nƣớc triển vọng sáng tƣơi trong tƣơng lai. Đất Nƣớc trong tƣơng lai sẽ thuộc phần của con chúng ta. Khi ấy con sẽ mang đất nƣớc đi xa nhƣ lời Bác Hồ mong mu n: Mai này con ta lớn lên Con sẽ mang Đất Nước đi xa Đến những tháng ngày mơ mộng Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình Phải biết gắn bó và san sẻ Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở Làm nên Đất Nước muôn đời. Những ngày tháng mơ mộng ia chính là những ngày tháng đất nƣớc yên bình sánh vai với các cƣờng qu c năm châu trên thế giới. Những câu thơ cu i đoạn mới đọc lên chúng ta cứ ngỡ đ là một lời giáo huấn nhƣng hông phải. B ng giọng văn thủ thỉ nhẹ nhàng nhà văn nhƣ thể hiện trách nhiệm của tất cả chúng ta hiện nay đ là phải biết gắn b , san s để làm nên đất nƣớc muôn đời. 51
  57. KẾT LUẬN Nguyễn Khoa Điềm là một trong những nhà thơ tiêu biểu của thế hệ thơ tr xuất hiện trong những năm háng chiến ch ng Mĩ. Thơ của ông luôn gắn liền với những giá trị truyền th ng của dân tộc. Với nhiều tập thơ hay ông đã c đ ng g p rất to lớn đ i với nền văn học nƣớc nhà. Viết về bà mẹ Việt Nam trong thời kì ch ng Mĩ, bài thơ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ của Nguyễn Khoa Điềm là một bài thơ độc đáo và rất hay. Bài thơ của Nguyễn Khoa Điềm là tƣợng đài tráng lệ về bà mẹ Việt Nam "Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang". Nó nhắc nhở mỗi chúng ta ghi sâu trong lòng tình cảm kính yêu và biết ơn ngƣời mẹ hiền của mỗi chúng ta, tự hào về bà mẹ Việt Nam. Những vất vả gian lao của ngƣời mẹ vừa phải nuôi con vừa phải lo cho cách mạng, ngƣời mẹ Tà-ôi đã để lại nhiều cảm xúc đáng ể cho tác giả cũng nhƣ bạn đọc, điều đ hông chỉ tạo nên những niềm tin sáng chói mà tạo nên nhịp điệu riêng trong lòng của tác giả. Với sự hình dung đ , sự hy sinh cao cả mà ngƣời mẹ đã dành con rất to lớn và vô cùng mạnh mẽ. Với hình ảnh mang những giá trị lớn lao hình ảnh ngƣời phụ nữ Việt Nam hiện lên đẹp hơn bao giờ hết khi mang trong mình những nét văn h a đẹp đẽ: một ngƣời mẹ thƣơng yêu con hết mực, một ngƣời phụ nữ tảo tần, giàu đức hi sinh và một ngƣời con c lòng yêu nƣớc mãnh liệt. Bài thơ đã thể hiện đƣợc tình cảm thiêng liêng sâu sắc đ , qua đ đã gắn bó mạnh mẽ và sâu sắc trong tâm hồn của mỗi ngƣời. Qua những bài hát ru - một nét văn h a đẹp của ngƣời Việt Nam - đã biết bao thế hệ trƣởng thành. Mọi đứa con chỉ có thể lớn lên b ng dòng sữa, b ng lời ru, tình thƣơng của mẹ. Với cách cảm nhận mới m và tƣ duy hiện đại và qua hình thức thể thơ tự do, bài thơ Đất Nước thể hiện một cách cảm nhận mới về đất nƣớc của Nguyễn Khoa Điềm, hơi dậy lòng yêu nƣớc, tự hào về nền văn h a đậm đà 52
  58. bản sắc Việt Nam. Bên cạnh đ nhà thơ ca ngợi truyền th ng văn h a, truyền th ng yêu nƣớc đánh giặc của dân tộc và hẳng định, bộc lộ tƣ tƣởng Đất Nước của nhân dân. Nhà thơ đã thể hiện đất nƣớc ở ba phƣơng diện: Văn h a, hông gian và thời gian lịch sử. Với năng lực riêng, Nguyễn Khoa Điềm đã sử dụng chất liệu văn hoá, văn học dân gian một cách sáng tạo. Không trích dẫn nguyên văn câu ca dao, tục ngữ, dân ca, hông ể dài dòng các truyền thuyết, truyện cổ tích, các phong tục tập quán, mà nhà thơ chỉ bắt lấy rất tinh tế cái hồn của chất liệu dân gian để gợi liên tƣởng, gợi suy ngẫm cho ngƣời đọc. Cho nên hi tiếp xúc tạo cho ngƣời đọc cảm giác vừa quen vừa lạ. “Quen” vì từ thuở ấu thơ mỗi ngƣời trong chúng ta, ai cũng đã s ng trong hông hí văn hoá dân gian, cho nên trong mỗi ngƣời Việt Nam hết sức nhạy cảm với ca dao dân ca, cổ tích, truyền thuyết hay các phong tục tập quán Chỉ cần một lay động nhỏ, là tâm hồn ngƣời Việt Nam đã rung lên bao hồi ức. Còn “lạ” là bởi đọc những dòng thơ này là do từ những chất liệu văn hoá, văn học dân gian rất gần gũi ấy, nhà thơ đã thu nạp đƣợc nhiều ý tƣởng rất thơ, rất êm dịu và cũng rất bất ngờ đem lại sức hấp dẫn cho đoạn thơ. V đẹp của chất liệu văn hoá dân gian là vô cùng quan trọng đ i với văn học viết n i riêng và văn học nghệ thuật n i chung. Với sự am tƣờng về văn h a dân tộc, sự hiểu biết thấu đáo văn h a các vùng miền, Nguyễn Khoa Điềm đã c những cảm nhận mới m , tinh tế, sâu sắc về đất nƣớc và con ngƣời Việt Nam trong truyền th ng cũng nhƣ hiện tại. Tất cả điều đ , cộng với sự thông minh, tài hoa và một tinh thần cách tân nghệ thuật, sáng tác của Nguyễn Khoa Điềm c sức hấp dẫn riêng, làm lay động bao trái tim ngƣời đọc. Sự hiện diện của những sáng tác của Nguyễn Khoa Điềm trong nhà trƣờng phổ thông là một minh chứng xác đáng cụ thể hẳng định tài năng, thành công và đ ng g p của ông đ i với nền văn học dân tộc và sự nghiệp giáo dục nƣớc nhà. 53
  59. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nguyễn Khoa Điềm (1972), Đất ngoại ô, Nxb Giải phóng. 2. Nguyễn Khoa Điềm (2000), “Đất nước” (trả lời phỏng vấn), Tác giả nói về tác phẩm, Nxb Tr , Tp Hồ Chí Minh. 3. Nguyễn Khoa Điềm (1995), Mặt đường khát vọng, Nxb Quân đội nhân dân. 4. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi đồng chủ biên (1997), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục. 5. Phan Trọng Luận chủ biên (2008), Ngữ văn 12, tập 1, Nxb Giáo dục. 6. Nguyễn Xuân Nam (1985), Thơ tìm hiểu và thưởng thức, Nxb Tác phẩm Mới. 7. Phan Ngọc (1998), Bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Văn h a thông tin, Hà Nội. 8. Nguyễn Thị Nhung (2009), Phong cách thơ Nguyễn Khoa Điềm, Luận văn Thạc sĩ. 9. Nguyễn Khắc Phi chủ biên (2003), Ngữ Văn 9, Nxb Giáo dục. 10. Nguyễn Kim Phong chủ biên (2008), Kỹ năng đọc hiểu văn bản, Nxb Giáo dục. 11. Trần Ngọc Thêm (2002), Cơ sở văn hóa, Nxb Giáo dục. 12. Trần Ngọc Thêm (2004), Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Tổng hợp, Tp. Hồ Chí Minh. 13. Nguyễn Quang Thiều chủ biên (2000), Tác giả nói về tác phẩm, Nxb Tr , Tp. Hồ Chí Minh. 14. Trần Qu c Vƣợng chủ biên (2008), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 15. van-hoa-truyen-thong-trong-tho-Nguyen-Khoa-Diem-4368.html 16. KhoaDiem-GuongmatcuusinhvienVanKhoa-TruongDHSPHaNoi.aspx 17.