Khóa luận Theo dõi đặc điểm sinh học và khả năng sinh trưởng, sinh sản của lợn Lang Đông Khê tại huyện Thạch An, tỉnh Cao Bằng

pdf 61 trang thiennha21 19/04/2022 3590
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Theo dõi đặc điểm sinh học và khả năng sinh trưởng, sinh sản của lợn Lang Đông Khê tại huyện Thạch An, tỉnh Cao Bằng", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfkhoa_luan_theo_doi_dac_diem_sinh_hoc_va_kha_nang_sinh_truong.pdf

Nội dung text: Khóa luận Theo dõi đặc điểm sinh học và khả năng sinh trưởng, sinh sản của lợn Lang Đông Khê tại huyện Thạch An, tỉnh Cao Bằng

  1. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM HOÀNG THỊ HOA Tên đề tài: “THEO DÕI ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC VÀ KHẢ NĂNG SINH TRƯỞNG, SINH SẢN CỦA LỢN LANG ĐÔNG KHÊ TẠI HUYỆN THẠCH AN, TỈNH CAO BẰNG” KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Hệ đào tạo: Chính quy Chuyên ngành: Chăn nuôi thú y Lớp: K47 - CNTY - N01 Khoa: Chăn nuôi Thú y Khóa học: 2015 - 2019 Giảng viên hướng dẫn: TS. Bùi Thị Thơm THÁI NGUYÊN, 2019
  2. i LỜI CẢM ƠN Trong suốt thời gian học tập tại trường Đại học Nông Lâm Thái nguyên và thời gian thực tập tại các nông hộ ở huyện Thạch An- tỉnh Cao Bằng, bản thân đã nhận được sự quan tâm và giúp đỡ của các thầy cô giáo, chú Nông Trung Hiếu, Trưởng phòng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn và Chị Nông Thị Điềm chuyên viên phòng nông nghiệp huyện Thạch An. Để hoàn thành khóa luận này, em đã nhận được sự giúp đỡ của thầy cô, gia đình và bạn bè. Em xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn và sâu sắc tới Ban Giám hiệu nhà trường cùng toàn thể các thầy cô giáo trong khoa Chăn nuôi Thú y, Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên. Đặc biệt, em xin cảm ơn đến TS. Bùi Thị Thơm, cô đã trực tiếp hướng dẫn, chỉ bảo động viên, giúp đỡ em về mọi mặt trong quá trình tiến hành nghiên cứu và hoàn thành khóa luận. Em xin chân thành cảm ơn: Ban lãnh đạo Phòng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn Huyện Thạch An cùng một số nông hộ tại xã Trọng Con, xã Đức Thông huyện Thạch An đã tạo điều kiện và giúp đỡ em về mọi mặt trong quá trình thực hiện đề tài. Cuối cùng em xin được cám ơn sự động viên, khích lệ, giúp đỡ của các thầy cô, gia đình và bạn bè đã giúp đỡ em hoàn thành tốt việc học tập, nghiên cứu của mình trong suốt quá trình học tập vừa qua. Em xin chân thành cảm ơn! Thái Nguyên, ngày 03 tháng 5 năm 2019 Sinh Viên Hoàng Thị Hoa
  3. ii DANH MỤC CÁC BẢNG Trang Bảng 4.1. Kết quả công tác phục vụ sản xuất 43 Bảng 4.2. Kết quả theo dõi đặc điểm ngoại hình về một số bộ phận của lợn Lang . 44 Bảng 4.3. Kết quả khối lượng của lợn thí nghiệm qua các kỳ cân (kg) 45 Bảng 4.4. Kết quả về sinh trưởng tuyệt đối của lợn thí nghiệm (g/con/ngày) . 47 Bảng 4.5. Kết quả theo dõi về chỉ tiêu đánh giá khả năng sinh sản của lợn Lang Đông Khê 48 Bảng 4.6. Kết quả đánh giá khả năng sinh sản theo lứa của lợn Lang Đông Khê 49 Bảng 4.7. Tình hình đẻ của đàn lợn nái (n=18) 50 Bảng 4.8. Kết quả mắc bệnh và điều trị bệnh của lợn con theo mẹ 50
  4. iii DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT Cs : Cộng sự Nxb : Nhà xuất bản MMA : Mastitis Metritis Agalactia - Hội chứng viêm vú, viêm tử cung, mất sữa E. coli : Escherichia coli TB : Trung bình TT : Thể trọng VSV : Vi sinh vật
  5. iv MỤC LỤC Trang LỜI CẢM ƠN i DANH MỤC CÁC BẢNG ii DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT iii MỤC LỤC iv PHẦN 1. MỞ ĐẦU 1 1.1. Đặt vấn đề 1 1.2. Mục tiêu của đề tài 1 1.3. Ý nghĩa của đề tài 2 1.3.1. Ý nghĩa trong khoa học 2 1.3.2. Ý nghĩa trong thực tiễn 2 PHẦN 2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU 3 2.1. Điều kiện tự nhiên và cơ sở thực tập 3 2.1.1. Vị trí địa lý 3 2.1.2. Điều kiện cơ sở vật chất nơi thực tập 3 2.2. Cơ sở khoa học 3 2.2.1. Một số đặc điểm sinh học của lợn Lang 3 2.2.2. Một số bệnh thường gặp ở lợn Lang Đông Khê 21 2.2.3. Cơ sở khoa học về khả năng sinh trưởng ở lợn 31 2.2.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến sinh trưởng, phát dục của lợn 33 2.3. Nghiên cứu trong và ngoài nước 36 2.3.1. Tình hình nghiên cứu trong nước 36 2.3.2. Tình hình nghiên cứu ngoài nước 38 PHẦN 3. ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 40 3.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 40 3.2. Địa điểm và thời gian tiến hành 40 3.3. Nội dung thực hiện và các chỉ tiêu theo dõi 40 3.3.1. Nội dung 40 3.3.2. Các chỉ tiêu theo dõi 40 3.4. Phương pháp theo dõi và xác định các chỉ tiêu 41
  6. v 3.4.1. Phương pháp theo dõi về đặc điểm sinh học ở lợn Lang Đông Khê 41 3.4.2. Phương pháp theo dõi về sinh sản ở lợn Lang Đông Khê 42 3.4.3. Phương pháp theo dõi về khả năng sinh trưởng ở lợn Lang Đông Khê Error! Bookmark not defined. 3.5. Phương pháp xử lý số liệu 42 PHẦN 4. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 43 4.1. Công tác phục vụ sản xuất 43 4.2. Kết quả nghiên cứu 43 4.2.1. Kết quả theo dõi đặc điểm sinh học của lợn Lang 43 4.2.3. Kết quả đánh giá khả năng sinh sản của lợn Lang Đông Khê theo lứa Error! Bookmark not defined. 4.2.4. Sinh trưởng tích lũy của lợn thí nghiệm 45 PHẦN 5. KẾT LUẬN, TỒN TẠI VÀ ĐỀ NGHỊ 51 5.1. Kết luận 51 5.2. Tồn tại 51 5.3. Đề nghị 51 TÀI LIỆU THAM KHẢO 52 PHỤ LỤC
  7. 1 PHẦN 1 MỞ ĐẦU 1.1. Đặt vấn đề Cùng với xu hướng chung của nhu cầu xã hội, những năm trở lại đây ngành chăn nuôi ở nước ta cũng đang trên đà phát triển mạnh mẽ. Trong các ngành chăn nuôi thì ngành chăn nuôi lợn có một vị trí vô cùng quan trọng không thể thay thế trong ngành chăn nuôi gia súc trên thế giới cũng như ở Việt Nam, vì đó là nguồn cung cấp thực phẩm có giá trị với tỷ trọng cao và chất lượng tốt cho con người, là nguồn cung cấp phân bón cho ngành trồng trọt, cung cấp nguyên liệu cho sản xuất khí biogas làm nhiên liệu đốt và là nguồn cung cấp các sản phẩm phụ như: Lông, da, mỡ cho ngành công nghiệp chế biến. Mặt khác, nước ta cũng có những điều kiện thuận lợi cho việc phát triển chăn nuôi, đặc biệt là chăn nuôi lợn phát triển kinh tế như khí hậu, nguồn nguyên liệu, diện tích, nhân công lao động . hơn nữa là kinh nghiệm chăn nuôi truyền thống từ xa xưa để lại. Để phát triển hơn nữa ngành chăn nuôi lợn ở nước ta, chăn nuôi lợn nái là một trong những khâu quan trọng góp phần quyết định đến sự thành công. Nâng cao chất lượng chăn nuôi lợn nái sinh sản để có đàn con nuôi thịt sinh trưởng và phát triển tốt, và đây cũng chính là mắt xích quan trọng để tăng nhanh đàn lợn cả về số lượng và chất lượng. Xuất phát từ tình hình thực tế trên, được sự đồng ý của Ban chủ nhiệm Khoa Chăn nuôi Thú y - Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên cùng với sự giúp đỡ của giáo viên hướng dẫn và cơ sở nơi thực tập, chúng tôi thực hiện đề tài: "Theo dõi đặc điểm sinh học và khả năng sinh trưởng, sinh sản của lợn Lang Đông Khê tại huyện Thạch An, tỉnh Cao Bằng”. 1.2. Mục tiêu của đề tài - Nghiên cứu một số đặc điểm sinh học và khả năng sinh trưởng, sinh sản của lợn Lang Đông Khê, huyện Thạch An, tỉnh Cao Bằng. - Thực hiện phương châm “học đi đôi với hành, lý thuyết gắn liền với thực tiễn sản xuất”, nhằm củng cố kiến thức lý thuyết và nâng cao hiểu biết về thực tế, phục vụ cho công tác sau này.
  8. 2 - Đáp ứng nhu cầu thực tiễn, nâng cao năng suất đàn lợn giống, góp phần vào sự phát triển kinh tế. - Hình thành phong cách làm việc sáng tạo. 1.3. Ý nghĩa của đề tài 1.3.1. Ý nghĩa trong khoa học Kết quả của đề tài có thể làm tài liệu tham khảo để phục vụ cho các nghiên cứu tiếp theo. 1.3.2. Ý nghĩa trong thực tiễn - Từng bước hoàn thiện quy trình chăn nuôi và quá trình chăm sóc cho lợn Lang. - Kết quả của đề tài là khuyến cáo bổ ích cho tập thể, cá nhân, các hộ gia đình chăn nuôi lợn nái Lang Đông Khê, huyện Thạch An, tỉnh Cao Bằng. Mặt khác kết quả của đề tài sẽ là tài liệu tham khảo cho những nghiên cứu và phát triển nhân rộng giống lợn Lang ở các địa phương khác.
  9. 3 PHẦN 2 TỔNG QUAN TÀI LIỆU 2.1. Điều kiện tự nhiên và cơ sở thực tập 2.1.1. Vị trí địa lý Huyện Thạch An nằm ở phía Đông Nam của tỉnh Cao Bằng, cách thành phố Cao Bằng 38 km, phía Bắc giáp huyện Hòa An, Thành phố Cao Bằng; Phía Đông Nam giáp huyện Tràng Định (tỉnh Lạng Sơn); Phía Tây giáp huyện Ngân Sơn (tỉnh Bắc Kạn); Phía Đông giáp huyện Long Châu (tỉnh Quảng Tây - Trung Quốc). Huyện có đường biên giới Việt - Trung dài 5,5 km, Diện tích tự nhiên của huyện là 690,79 km2. 2.1.2. Điều kiện cơ sở vật chất nơi thực tập - Được sự nhất trí và tạo điều kiện của Phòng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn Huyện Thạch An, và sự hướng dẫn tận tình của chị Nông Thị Điềm đã giúp đỡ bà con nông hộ trên các địa bàn xã thực hiện nuôi và chăm sóc, bảo tồn giống lợn Lang. - Là cơ sở để nghiên cứu thực hiện đề tài "Theo dõi đặc điểm sinh học và khả năng sinh trưởng, sinh sản của lợn Lang Đông Khê tại huyện Thạch An, tỉnh Cao Bằng’’. 2.2. Cơ sở khoa học 2.2.1. Một số đặc điểm sinh học của lợn Lang 2.2.1.1. Đặc điểm ngoại hình: - Về kết cấu ngoại hình lợn Lang có màu đen trắng, lông da Lang từng nhóm to nhỏ trên mình, màu đặc trưng giống lợn móng cái và lợn địa phương. Lợn Lang đầu đen, giữa trán có điểm loang trắng hình tam giác. Đầu to vừa phải mõm bé và dài, tai to, đứng, cúp về phía trước, cổ ngắn, lưng ngắn và võng, bụng to, võng và xệ nên hai hàng vú thường xuyên quét đất. Lông ngắn và thưa, mõn ươn ướt, mắt tinh nhanh, đuôi phe phẩy lợn có chửa bầu vú quét đất, núm vú chìa ra, mông rộng và thẳng, gốc đuôi to và cao, Chân ngắn bụng xệ nên trông thấp.
  10. 4 Về kết cấu ngoại hình lợn Lang có đặc điểm là lưng võng, bụng xệ, càng lớn càng xệ, càng võng, vốn là loại lợn hướng mỡ nên càng béo càng di động khó khăn, chân đi cả bàn, vú quét đất. Có 12-14 vú, có khả năng tiết sữa cao. - Đặc điểm sinh trưởng Lợn Lang là giống thành thục sớm, thời gian sinh trưởng ngắn. Khối lượng sơ sinh 0,5 - 0,7 kg/con, khối lượng cai sữa 6-8 kg/con, khối lượng lúc 6 tháng tuổi đạt 28,5 - 40kg; khối lượng lúc 10 tháng tuổi đạt 60kg; khối lượng trưởng thành đạt 100-120 kg. Mổ thịt ở khối lượng 100 kg cho 79% móc hàm, tỷ lệ thịt nạc 38,6%, dày mỡ lưng 4,5 cm. Mổ thịt ở khối lượng 63 - 65 kg lúc 9 tháng tuổi có tí lộ móc hàm 78%, tỉ lệ nạc là 44,1%, dày mỡ lưng 3,6 cm. - Khả năng sinh sản Lợn Lang là giống lợn thành thục sớm: lợn đực 2 tháng tuổi có thể giao phối và thụ thai, lợn cái 3 tháng tuổi đã có biểu hiện động dục, chu kỳ động dục bình quân 21 ngày (18-25 ngày), thời gian động dục 3-4 ngày, thời gian chửa bình quân 114 ngày, thời gian động dục trở lại sau cai sữa 5-7 ngày. Lợn Lang là giống lợn mắn đẻ, đẻ nhiều con, nuôi con khéo. Có thể đẻ từ 10- 12 con/lúa, khối lượng sơ sinh 0,5 - 0,7 kg/con, tỷ lệ nuôi sống đến cai sữa đạt 80- 90%. So với các loại lợn Lang khác thì các chi tiêu trên đều cao hơn từ 5 - 7%. - Kết luận Lợn Lang là giống lợn có tầm vóc tương đối lớn so với các giống lợn trong vùng đồng bằng và trung du Bắc Bộ. Tuổi thành thục sớm, mắn đẻ, đẻ sai con, khả năng nuôi con khéo, khả năng tiêu hoá và lợi dụng thức ăn thô xanh tốt. Một số hạn chế là kết cấu ngoại hình xấu, lưng võng, bụng xệ, tỷ lệ nạc thấp. Phương hướng công tác giống đối với giống lợn Lang là tăng cường chọn lọc giống để nâng cao tầm vóc, cải tạo các nhược điểm của lợn Lang. 2.2.1.2. Đặc điểm tiêu hóa của lợn Lang Tiêu hoá là quá trình phân giải các chất dinh dưỡng trong thức ăn thông qua tác động cơ học, hoá học và vi sinh vật học để biến các hợp chất hữu cơ phức tạp thành các chất đơn giản mà cơ thể động vật có thể hấp thu và sử dụng được. * Cấu tạo giải phẫu cơ quan tiêu hoá của lợn
  11. 5 Theo Trần Văn Phùng và cs (2004)[16], Cơ quan tiêu hoá của lợn bao gồm miệng, thực quản, dạ dày, ruột non và ruột già. Miệng của lợn, ngoài chức năng lấy thức ăn còn có các bộ phận khác tham gia quá trình tiêu hoá đó là răng và tuyến nước bọt. Dạ dày lợn là loại dạ dày trung gian giữa dạ dày đơn và dạ dày kép. Dạ dày lợn bao gồm 3 phần chính: Thượng vị, thân vị và hạ vị phần thượng vị của lợn còn một phần hơi phình ra như một cái túi người ta gọi là túi mù. Do cấu tạo như vậy nên chức năng tiêu hoá của dạ dày lợn cũng có phần hơi khác hơn các động vật dạ dày đơn khác. Ruột lợn cũng chia làm 2 phần chính là ruột non và ruột già. Ruột non được chia ra thành tá tràng, không tràng và hồi tràng. Ruột già chia làm manh tràng, kết tràng và trực tràng. Ngoài ra còn có sự tham gia của tuyến mật và tuyến tụy vào quá trình tiêu hoá. Các cơ quan này tiết ra các dịch tiêu hoá giúp cho quá trình tiêu hoá thức ăn được hoàn thiện. Cơ quan tiêu hoá của lợn phát triển rất nhanh kể từ khi lợn con sinh ra. Sự phát triển này bao gồm cả sự phát triển về dung tích và sự hoàn thiện về chức năng của cơ quan tiêu hoá. * Tiêu hoá ở miệng Ở miệng của lợn quá trình tiêu hoá diễn ra chủ yếu dưới hai hình thức: cơ học (quá trình nhai thức ăn) và hoá học (do tác dụng của men tiêu hoá trong nước bọt) Động tác ăn của lợn là dùng mõm lấy thức ăn, vừa ăn vừa nhai và vừa nuốt liên tục nên thường phát ra tiếng kêu ồm ộp. Khi ăn thức ăn dạng bột, khô thì động tác ăn chậm hơn vì phải nhai để tẩm nước bọt, ướt thức ăn thì mới nuốt được. Lợn dùng răng để nhai nghiền thức ăn. Răng lợn có 44 chiếc, được bố trí cân đối cho hàm trên, hàm dưới và hai bên của hàm theo thứ tự như sau: răng cửa 12 chiếc, răng nanh 4 chiếc, hàm trước 16 chiếc và hàm sau 12 chiếc. răng lợn rất phát triển, sắc nhọn. Tuy nhiên do bản chất háu ăn, ăn nhanh nên lợn ít nhai nghiền. Lợn lấy thức ăn và nhai trong thời gian rất ngắn, do vậy thức ăn dừng ở khoang miệng không lâu đã được chuyển xuống dạ dày. Mặc dù vậy nước bọt của lợn vẫn được tiết ra với một số lượng lớn khoảng 15 -16 lít trong một ngày đêm. Lượng nước bọt tiết ra còn bị ảnh hưởng bởi thức ăn và các chất kích thích khác như HC1, axit lactic, axit fomic và axit axetic. Những axit này kích thích tiết nhiều nước bọt. Thức
  12. 6 ăn khô cũng làm tăng tiết nước bọt hơn thức ăn ẩm ướt. Ngoài ra, lượng nước bọt tiết ra tăng theo tuổi, rõ rệt nhất là từ khi cai sữa chuyển sang ăn thức ăn thực vật. Về thành phần của nước bọt như lượng vật chất khô, nồng độ nitơ, hàm lượng amiloza và tỷ trọng cũng tăng theo tuổi. Nước bọt do các tuyến mang tai, dưới hàm và dưới lưỡi tiết ra. Nước bọt của lợn là một dịch thể màu ánh sữa, loãng, pH 7,32, tỷ trọng từ 1,002 - 1,009, vật chất khô từ 1,0 - 1,2%. Thành phần của nước bọt gồm có: nước, muxin và men tiêu hoá tinh bột (amylase và maltase). Tuyến mang tai của lợn hầu như tiết liên tục, một nửa số nước bọt được tiết ra từ tuyến này, các men amylase và maltase chủ yếu được tiết ra từ đây. Các loại thức ăn khác nhau có ảnh hưởng đến số lượng và chất lượng của tuyến dưới tai. Khi lợn ăn thức ăn lỏng, thức ăn trộn nước thì tuyến mang tai giảm tiết nước bọt. Tuyến dưới hàm tiết nước bọt có tính kiềm, chủ yếu là dịch nhờn. Tuyến dưới lưỡi tiết dịch nhầy mucin. Hai tuyến này tiết dịch theo giai đoạn, bắt đầu tiết khi ăn. Tác dụng của nước bọt là làm cho dễ nhai, dễ nuốt thức ăn. Các men trong nước bọt (amilaza, mantaza) có ý nghĩa quan trọng trong việc tiêu hoá tinh bột. Dưới tác dụng của các men tiêu hoá của nước bọt, tinh bột sẽ được chuyển thành đường đơn. Tác dụng của enzim bắt đầu từ khoang miệng và tiếp tục trong các lớp thức ăn ở dạ dày trong vòng 5 - 6 giờ kể từ khi thức ăn chuyển từ khoang miệng vào dạ dày. * Tiêu hoá ở dạ dày Tiêu hoá ở dạ dày lợn gồm hai quá trình cơ học và hoá học: Cơ học: là sự co bóp nhào trộn thức ăn do cơ trơn của dạ dày thực hiện. Quá trình này rất quan trọng: vừa làm cho thức ăn nát nhuyễn, vừa làm cho thức ăn ngấm đều các men tiêu hoá để sự tiêu hoá được triệt để hơn. Hoá học: là quá trình tác động của các men tiêu hoá do dịch vị tiết ra. Ở dạ dày lợn có 2 kiểu phân tiết dịch: Một là sự phân tiết mang tính kiềm ở vùng thượng vị, ở đây lượng dịch được tiết ra rất hạn chế so với tổng số dịch tiết.
  13. 7 Còn một sự phân tiết khác mang tính axit từ vùng thân vị và hạ vị, lượng phân tiết này rất lớn từ sau khi ăn thức ăn vào. Trong dạ dày lợn có quá trình lên men vi sinh vật ở manh tràng tạo ra các axit béo, nhưng không đáng kể, hàm lượng thấp chỉ khoảng 0,1%. Dạ dày lợn có đặc điểm nhu động yếu, nên thức ăn được xếp thành lớp làm cho hoạt tính enzyme và độ axit của các lớp thức ăn không giống nhau. Ở vùng hạ vị và phần thức ăn nằm sát vách dạ dày thì thức ăn được trộn với dịch vị tốt hơn. Ở vùng lõi và thượng vị, thức ăn giữ được môi trường nhiều kiềm và men tiêu hóa của nước bọt nên tiêu hoá tinh bột vẫn tiếp tục xảy ra. Đặc điểm tiêu hoá ở dạ dày lợn con: Lợn con dưới 1 tháng tuổi trong dạ dày không có HC1 tự do, lúc này lượng axit tiết ra ít và nhanh chóng liên kết với dịch nhầy. Vì thiếu HC1 tự do trong dịch vị nên vi sinh vật có điều kiện phát triển gây bệnh đường tiêu hoá của lợn con. Do thiếu HC1 tự do nên trong giai đoạn này men pepsin không hoạt động hoặc hoạt động kém. Tác dụng tiêu hoá lúc này chủ yếu là men chymosin. Men này tăng dần lên từ lúc lợn mới sinh đến lúc 1 tháng tuổi sau đó 91 thì giảm xuống. Bù vào đó, men pepsin lúc này đã có khả năng hoạt động và số lượng được tiết ra tăng dần lên. Hoạt động tiêu hoá của dịch dạ dày của lợn con có ý nghĩa bắt đầu từ khoảng ngày tuổi thứ 20 trở đi và ở 2 - 3 tháng tuổi thì đạt tương đương ở lợn trưởng thành. Khả năng tiêu hoá protein của sữa lợn mẹ tốt hơn sữa bò ở lợn con độ tuổi 6-10 ngày, sau đó từ ngày tuổi thứ 16 - 20 khả năng tiêu hoá của hai loại tương đương nhau. Ở ngày tuổi thứ 30 trở đi, khả năng tiêu hoá protein sữa của dịch dạ dày giảm dần. Thời gian di chuyển của sữa lợn mẹ và sữa bò từ dạ dày đến ruột non tương đương nhau. Lợn con 2 - 4 tuần tuổi sau 30 phút có 35% sữa xuống đến ruột non, sau 1 giờ là 60% và sau 2 giờ là 90%. Việc nghiên cứu về sự phát triển của dạ dày và toàn bộ hệ thống tiêu hoá có ý nghĩa quan trọng trong việc bổ sung thức ăn cho lợn con bú sữa. *Tiêu hoá ở ruột non
  14. 8 Thức ăn khi chuyển xuống tới ruột non sẽ được tiêu hoá triệt để nhất nhờ tác động của các men của dịch tụy, dịch mật và dịch ruột. - Dịch tụy: lượng dịch tụy tiết ra thay đổi theo lứa tuổi, ở lợn con, lượng dịch tụy tiết thấp khoảng 500 ml/ngày đêm, trong khi đó ở lợn có khối lượng 100kg sẽ tiết ra khoáng 8 lít. Thành phần dịch tụy tiết ra cũng thay đổi theo thành phần thức ăn. Theo Aumaitre (1971); Corning và Saucier (1972) thì lượng enzym tiêu hoá protein trong dịch tụy sẽ cao lên nếu lợn ăn được các khẩu phần ăn giàu protein và ngược lại amilaza sẽ cao lên khi lợn ăn được khẩu phần ăn giàu tinh bột và nghèo protein. Ngoài ra thành phần enzyme còn bị ảnh hưởng bởi nhiệt độ môi trường. Theo tác giả Szabo, Ribi Zayne và Ragai (1976) thì ở lợn con 4-5 tuần tuổi, lượng amilaza và ligaza tuyến tụy sẽ cao trong điều kiện môi trường nhiệt độ thấp và ngược lại trong môi trường nhiệt độ cao hàm lượng các enzym này sẽ giảm. Tiêu hóa protein: tiêu hóa protein ở ruột non rất triệt để nhờ hai men quan trọng nhất là trypsin và chimotrypsin. Nó phân giải protein thành polipeptit và một ít axit amin. Men chymotrypsin phân giải protit và polipeptit phân tử lớn thành peptit và axit 92 amin, Chymotrypsin có tác dụng yếu hơn trypsin. Men cacboxipeptidaza tác dụng lên polipeptit về phía nhóm carboxyl tự do và tách axit amin ra khỏi phân tử. Men peptidase phân giải peptit thành 2 axit amin tự do. Tiêu hoá tinh bột: men amilaza phân giải tinh bột thành dextrin và maltose. Tác dụng của amylase dịch tụy mạnh hơn nhiều so với amilaza trong nước bọt, nó có tác dụng cả với tinh bột sống. Men mantaza tiếp tục thủy phân dextrin và maltose thành đường glucose để cơ thể lợn hấp thu. Tiêu hóa lipid: men Lipase thuỷ phân mỡ thành glyxerin và axit béo. Nhân tố hoạt hóa lipase là cystein, muối canxi và axít tioglicoleic. Lipaza hoạt động được là nhờ dịch mật hoạt hoá và làm yếu tác dụng của các axit khác có ảnh hưởng xấu đến lipaza. - Dịch mật: Dịch mật do tuyến mật tiết ra, dịch mật có pH = 7,5 (dao động từ 7,43 - 7,91), tỷ trọng = 1,026 - 1,048, có màu xanh thẫm. Trong một ngày đêm, lợn tiết ra
  15. 9 từ 2,4 đến 3,8 lít dịch mật. Thành phần của dịch mật bao gồm các sắc tố bilirubin và biliverdin, các axit như colic, dezoxicolic, glicocol. Ngoài sắc tố và các axit còn có cholesterol, photphotit, mỡ thuỷ phân và tự do, các sản phẩm phân giải protein (ure, axit uric, kiềm purin), muối natri, kali, canxi, photphat và các axit khác. Đặc điểm chính của muối mật là có tính hoạt động bề mặt cao và là dẫn xuất của sterol. Ngoài ra trong dịch mật còn chứa lecithin chất này vào ruột được men phospholipase tuyến tụy biến đổi thành lysolecithin. Lysolecithin góp phần vào cắt chuỗi phân tử của các chất béo. Dịch mật làm giảm sức căng bề mặt của dung dịch và làm nhũ hoá mỡ, ở dạng này mỡ dễ bị tác dụng của lipaza. Nó làm tăng tác dụng của lipaza, amilaza, proteaza của dịch tụy và dịch ruột. Axit mật dễ tạo thành phức chất với axit béo. Phức chất này dễ hoà tan và được hấp thu ở ruột. - Dịch ruột: Ở màng nhầy tá tràng có các tuyến brunner. Các tuyến này tiết ra dịch ruột thuần khiết không màu, có độ kiềm rất cao pH từ 8,4 đến 8,9. Dịch ruột cùng với dịch tụy và dịch mật giúp cho quá trình trung hoà nhũ chấp xuống từ dạ dày, như vậy nó giúp cho việc bảo vệ thành của ruột từ các chất chứa của dạ dày có độ axit rất cao. Lượng dịch ruột tiết ra ở tá tràng lợn khoảng 15,8-17,3 ml/giờ (Florey và Lium 1940). Trong thành phần của dịch ruột lợn có các men như aminopeptidaza, dipeptidase, pro linaza, arginaza, mantaza, sacaraza, lactaza. Ngoài ra còn có một số men khác hoạt động yếu như: nucleaza, lipaza, amilaza, peptidase và enterokinaza. Enterokinaza có tác dụng hoạt hoá men trypsin được tiết ra ở dạng không hoạt động trypsinogen. Trong ruột non, ngoài sự tiêu hóa trong khoang đường tiêu hoá do tác dụng của các men còn có quá trình tiêu hoá nhờ sự tiếp xúc giữa thức ăn và màng nhầy ruột. Sự tiêu hoá các chất dinh dưỡng trên màng nhầy ruột non được gọi là tiêu hoá màng. * Tiêu hoá ở ruột già
  16. 10 Ruột già tiếp tục quá trình tiêu hoá những gì ruột non tiêu hoá chưa triệt để. Ruột già chủ yếu tiêu hoá chất xơ do vi sinh vật ở manh tràng phân giải, hấp thụ lại nước và chất khoáng. Thời gian thức ăn dừng lại ở ruột già từ 12 - 16 giờ. Mặc dù thời gian dài nhưng quá trình tiêu hoá các chất dinh dưỡng còn lại ở ruột già rất thấp. Chỉ có 9% gluxit và 3% protit của dưỡng chất được tiêu hoá ở ruột già. Các chất bột đường, protein, mỡ còn lại ở ruột già sẽ do vi khuẩn gây thối tạo thành các chất Crezol, Phenol, Indol, Scatol được hấp thu vào máu và giải độc ở gan. Nếu các chất này nhiều quá sẽ gây ngộ độc cho gan và thải ra ngoài qua hậu môn gây mùi thối khó chịu. Phần cặn bã đi vào kết tràng, được tạo thành khuôn phân và đưa ra ngoài qua trực tràng. Hoạt động tiêu hoá của lợn vào ban ngày thường lớn hơn về ban đêm. Thời gian thức ăn lưu lại trong đường tiêu hoá của lợn thường vào khoảng 24 giờ, tuy nhiên có một phần nhỏ thức ăn sẽ được thải trong khoảng 4 -5 ngày. * Sự hấp thu các chất dinh dưỡng Sự hấp thu là quá trình thu nhận các chất khác nhau vào máu và bạch huyết thông qua màng nhầy ống tiêu hoá. Màng nhầy ống tiêu hoá ở các vị trí khác nhau sẽ có sự hấp thu khác nhau. Ở miệng, hình như không có sự hấp thu vì thức ăn ở đây không lâu. Đồng thời thức ăn cũng chưa được phân giải triệt để tới dạng dễ hấp thu. Ở dạ dày có sự hấp thu nước, glucose, axit amin, chất khoáng, nhưng ít. Ở ruột non, là nơi xảy ra quá trình hấp thu mạnh nhất bởi vì trên bề mặt niêm mạc ruột non có rất nhiều vi nhung mao (200 triệu/mrrr bề mặt màng nhầy) do vậy nó đã làm tăng diện tích bề mặt lên hàng trăm lần. Lợn trưởng thành có thể đạt tới 150m2 các vi nhung mao. Ở ruột non lượng đường đã được tiêu hoá và hấp thu tới 85% và đối với protit là 87%. Ruột non cũng là nơi hấp thu khoáng và nước chủ yếu. Ruột lợn một ngày đêm có thể hấp thu tới 23 lít nước (tương đương 70-85% tổng số). Ở ruột già vẫn tiếp tục quá trình hấp thu song ít. * Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động tiêu hoá của lợn
  17. 11 Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả của quá trình tiêu hoá, trong đó có các yếu tố như thức ăn dinh dưỡng, kỹ thuật chế biến thức ăn, kỹ thuật cho ăn, yếu tố thời tiết, khí hậu - Loại thức ăn Các loại thức ăn khác nhau có ảnh hưởng không giống nhau đến quá trình tiết dịch tiêu hoá. Thức ăn nhiều nước sẽ giảm tiết nước bọt và dịch vị. Theo tác giả Trần Cừ 94 (1964) nếu cho lợn ăn 3 loại thức ăn cám gạo, khoai lang củ và rau muống thì cám gạo có tác dụng tăng tiết dịch vị nhiều nhất. Còn nếu chúng ta pha thức ăn với nước theo tỉ lệ 1:3 thì nước bọt hầu như không tiết. - Kỹ thuật chế biến thức ăn Kỹ thuật chế biến thức ăn khác nhau (như lên men, ủ chua, rang chín ) thì khả năng tiết dịch tiêu hoá khác nhau. Thức ăn rang chín dịch vị tiết nhiều hơn thức ăn không rang chín (A.D.Xinhêxêkop). Cho lợn ăn thức ăn sống thì dịch vị và dịch ruột cũng như hoạt lực của các men cao hơn thức ăn chín. Khi thêm gia vị vào thức ăn (muối, mắm tôm ) có ý nghĩa lớn với việc tiêu hoá. * Tỉ lệ các chất dinh dưỡng trong khẩu phần Khi khẩu phần thức ăn kém cân bằng sẽ gây ra hoạt động căng thẳng của cơ quan tiêu hoá, từ đó dẫn tới hiện tượng giảm đồng hoá thức ăn. Như khẩu phần có lượng protein thấp, lúc đó sẽ làm tăng hoạt động của cơ quan tiêu hoá, làm thải nhiều nitơ theo dịch tiêu hoá để tạo nên nhũ chấp có tỉ lệ thành phần các chất nhất định, dẫn đến làm tăng cao tương đối lượng nước trao đổi theo phân và làm cho lợn bị thiếu protein. Đồng thời khi lượng protein trong khẩu phần thấp sẽ dẫn đến sự giảm tiết dịch tụy và dịch dạ dày rõ rệt. Theo Epseeva thì khi khẩu phần có lượng protein thấp, lượng dịch tụy tiết ra là 3225 ml, mức protein trung bình thì lượng dịch tụy được tiết ra là 4400 ml nhưng khi mức protein cao lượng dịch tụy đạt tới 5280 ml. Như vậy khẩu phần có hàm lượng protein cao thì lượng dịch tụy tiết ra càng nhiều để tăng cường tiêu hoá protein.
  18. 12 * Phương pháp cho ăn, uống Cách cho lợn ăn cũng làm ảnh hưởng đến sự tiêu hoá thông qua lượng dịch tiêu hoá tiết ra bị thay đổi. Nếu cho lợn ăn nhiều bữa và cho ăn thức ăn khô sẽ làm tăng tiết dịch tiêu hoá. Theo A.D.Xinhêxêkop, lợn được ăn 5 bữa trong 24 giờ lượng dịch vị sẽ tăng được 79,43% và dịch tụy sẽ tăng 35,2% so với lợn chỉ được ăn 3 bữa. Số lượng thức ăn một bữa (đặc biệt là lợn con) cũng có tác dụng làm hưng phấn hoạt động tiêu hoá, làm tăng tiết dịch tiêu hoá và kết quả là làm tăng tỷ lệ tiêu hoá thức ăn. Ngoài ra, nhiệt độ thức ăn và nước uống cho lợn cũng ảnh hưởng đến sự tiết dịch tiêu hoá. Theo E.N.Bakeeva lợn sau khi ăn uống nước có nhiệt độ từ 5 - 8°c thì lượng dịch tiêu hoá tiết ra chỉ bằng 20% so với lợn được uống nước ở nhiệt độ thường 20- 258°c. *Các yếu tố khác Ngoài các yếu tố liên quan đến thức ăn đã trình bày ở trên ảnh hưởng đến quá trình tiêu hoá ở lợn thì các yếu tố về điều kiện môi trường cũng ảnh hưởng đến sinh lý tiêu hoá ở lợn. Khi nhiệt độ môi trường cao vào mùa hè, cần chống nóng cho lợn, vì khi nóng hoạt động tiêu hoá bị ức chế, sự tiết dịch tiêu hoá giảm. Vận động không những làm tăng tính thèm ăn mà còn thúc đẩy sự phát triển của cơ quan vận động, tăng cường hoạt động tuần hoàn máu và trao đổi chất, từ đó làm tăng khả năng tiêu hoá thức ăn. Vỏ não có tác dụng rất lớn đối với hoạt động tiêu hoá. Cho nên cần thành lập các phản xạ có điều kiện để nâng cao chức năng tiêu hoá như tập cho lợn ăn đúng giờ giấc, có thể dùng tín hiệu báo chuẩn bị cho ăn 2.2.1.3. Tập tính chăn nuôi lợn Lang Lợn là loại gia súc có dạ dày trung gian, có thể sử dụng tốt nhiều loại thức ăn nên nguồn thức ăn nuôi lợn rất phong phú, từ thức ăn thô xanh đến các loại thức ăn hạt, từ các loại thức ăn có nguồn gốc động vật đến các loại thức ăn khoáng, vitamin
  19. 13 Lợn có thể sử dụng các loại thức ăn thô xanh cao, đặc biệt là lợn nội, do tập quán chăn nuôi của nhân dân ta từ trước đến nay chủ yếu sử dụng thức ăn thô xanh đế nuôi lợn. Thức ăn xanh tốt có chứa nhiều chất dinh dưỡng, mặt khác có hệ số chẩn đoán cao có tác dụng tăng cường nhu động ruột và dạ dày, kích thích tiết dịch tiêu hoá và tăng cường quá trình tiêu hoá. Thức ăn xanh có vai trò quan trọng đặc biệt đối với lợn nái sinh sản, do ăn nhiều thức ăn thô xanh cho nên trong cơ quan tiêu hoá của lợn nội, ruột già thường phát triển hơn lợn ngoại, vì ruột già và manh tràng là bộ phận chủ yếu của lợn lợi dụng sự phát triển của hệ vi sinh vật để phân giải cellulose, do đó trong điều kiện sử dụng nhiều rau xanh để nuôi lợn thì các giống lợn nội của ta vẫn có khả năng sinh trưởng tốt, ngược lại các giống lợn nhập nội sinh trưởng kém hơn. Song nếu trong điều kiện thức ăn tốt (chủ yếu là thức ăn tinh) thì các giống lợn ngoại sinh trưởng phát triển tốt hơn lợn nội. Đây cũng là một minh chứng cho khả năng chịu đựng kham khổ của giống lợn nội tốt hơn so với lợn ngoại. Hệ số trao đổi cơ bản của lợn thấp hơn các loài gia súc khác, do đó tiêu tốn thức ăn /1kg tăng khối lượng của lợn so với các loài gia súc khác như bò, dê, cừu thì thấp hơn nhiều, do vậy nuôi lợn rất kinh tế. Lợn Lang được nuôi theo phương thức nuôi truyền thống, được địa phương coi là giống lợn bản địa quý hiếm, có tính hoang dã khá cao, có chất lượng thịt thơm ngon, giòn, vị ngọt đặc trưng, khả năng chống chịu bệnh tật và thích nghi cao với điều kiện chăn thả trong điều kiện khu vực miền núi phía Bắc. Chăn nuôi lợn đặc sản của địa phương như lợn lang là một hướng không những bảo tồn mà còn phát triển các giống lợn quý hiếm ở nước ta. Ngoài ra, chăn nuôi lợn Lang có ý nghĩa bảo tồn đa dạng sinh học và đa dạng di truyền giúp cho ngành chăn nuôi phát triển bền vững. Phương thức nuôi nhốt trong chuồng, nguồn thức ăn chính là cám gạo, ngô, thóc, bột sắn, khoai lang, khoai tây Nguồn thức ăn bổ sung như cá mắm, khô dầu, đỗ tương và các loại rau củ quả. Nguồn thức ăn bổ sung này là tự do và không có bất kỳ một sự định lượng nào. Kết quả điều tra cũng chỉ ra rằng phần lớn các hộ
  20. 14 chăn nuôi không áp dụng quy trình chăn nuôi và thú y phòng bệnh nào mà chủ yếu là chăn nuôi tự phát. Hầu hết các hộ gia đình đều có nguyện vọng được đào tạo, tập huấn về quy trình chăn nuôi và thú y phòng bệnh áp dụng cho các giống lợn này nhằm nâng cao năng suất và hiệu quả chăn nuôi. Công tác giống của lợn ở vùng điều tra chưa được chú trọng nhiều, 100% nông hộ thay đàn bằng phương pháp là tự nhân đàn và bên cạnh đó, phần lớn số nông hộ thỉnh thoảng có trao đổi nguồn gen (trao đổi đực giống) với các nông hộ khác. Tỷ lệ số nông hộ có trao đổi nguồn gen là khá cao. Như vậy, hầu hết các nông hộ có trao đổi nguồn gen, tuy nhiên không thường xuyên và không dựa vào kế hoạch cụ thể. Nguồn gốc chủ yếu của lợn trong các nông hộ vẫn là do tự nhân đàn qua các thế hệ. Do vậy, có sự giao phối giữa các anh chị em ruột với nhau, dẫn đến tỷ lệ cận huyết cao ở phần lớn các nông hộ. Điều này có thể ảnh hưởng đến năng suất của quần thể lợn lang làm suy thoái chất lượng giống. Kết quả này cho thấy rằng việc tuyển chọn lợn giống để chọn lọc, nhân thuần, nhằm mục đích lưu giữ và đa dạng hóa nguồn nguyên liệu di truyền và nâng cao năng suất, tránh đồng huyết của chúng là cần thiết. Lợn Lang có khứu giác rất nhạy cảm, nhưng thị và thính giác đều kém. Chính vì thế lúc nghe thấy tiếng ồn ào là tiếng tranh giành ăn, cắn nhau hoặc đùa giỡn. Lợn Lang là loài vật nhanh nhẹn, hấp tấp, thích dẫm chân hoặc cào đất chơi. 2.2.1.4. Đặc điểm cấu tạo cơ quan sinh dục lợn nái * Bộ phận sinh dục bên trong - Buồng trứng Buồng trứng của lợn nái nằm trong xoang bụng và phát triển thành từng cặp. Nó thực hiện cả hai chức năng: Ngoại tiết (bài noãn) và nội tiết (sản sinh ra hormone sinh dục cái). Buồng trứng là cơ quan được hình thành trong giai đoạn phôi thai và lúc con vật mới được sinh ra. Hình dạng và kích thước của buồng trứng
  21. 15 biến đổi tuỳ theo giai đoạn của chu kỳ sinh dục. Tuổi, đặc tính cá thể, chế độ dinh dưỡng có ảnh hưởng nhất định đến hình dáng đến kích thước của buồng trứng. Theo Trần Thị Dân (2004)[4], buồng trứng có hai chức năng cơ bản là tạo giao tử cái và tiết hormone: Estrogen, Progesterone, Oxytocin, Relaxin và Inhibin. Các hormon này tham gia vào việc điều khiển chu kỳ sinh sản của lợn nái. - Cấu tạo: Phía ngoài buồng trứng được bao bọc bởi một lớp màng liên kết sợi, chắc như màng dịch hoàn. Phía trong buồng trứng được chia làm hai miền là miền vỏ và miền tủy. Miền vỏ đảm bảo quá trình phát triển của trứng đến khi trứng chín và rụng. Miền vỏ bao gồm 3 phần: Tế bào nguyên thuỷ, thể vàng và tế bào hạt, tế bào trứng nguyên thuỷ hay còn gọi là trứng non (Fullicylle cophorimari) nằm dưới lớp màng của buồng trứng. Khi noãn nang chín, các tế bào bao quanh tế bào trứng phân chia thành nhiều tế bào có hình hạt (Sliarum glandulosum), noãn bào càng phát triển thì các tế bào năng tiêu tan tạo ra xoang có chứa dịch. Các tầng tế bào còn lại phát triển lồi lên tạo thành một lớp màng bọc, ở ngoài có chỗ dày lên để chứa trứng. - Ống dẫn trứng Ống dẫn trứng được treo bởi màng treo, đó là một nếp gấp màng bụng bắt nguồn từ lớp bên của dây chằng ruột. Căn cứ vào chức năng có thể chia ống dẫn trứng thành 4 đoạn: Tua điểm: Có hình như tua liềm Phễu: Có hình phễu, miệng phễu nằm gần buồng trứng. Ống dẫn trứng: Đoạn ống dẫn rộng, xa tâm Eo: Đoạn ống hẹp gần tâm, nối ống dẫn trứng với khoang tử cung. - Tử cung (dạ con) Tử cung gồm hai sừng tử cung, các sừng gấp nếp hoặc quấn lại và có độ dài đến hơn 1m trong khi thang tử cung lại ngắn. Độ dày thích hợp cho việc mang nhiều thai. Cả hai mặt của tử cung được dính vào khung chậu và thành bụng bằng dây chằng rộng, ở động vật đẻ nhiều các dây chằng tử cung giãn ra làm cho tử cung
  22. 16 thông vào xương chậu. Các tuyến nội mạc tử cung có cấu trúc hình nhánh, cuộn hoặc hình ống, chúng tiết ra dịch đổ vào bề mặt nội mạc tử cung. Cổ tử cung là một tổ chức sợi mà mô liên kết chiếm ưu thế kết hợp với sự có mặt của một ít cơ trơn có thành dày và một thành xoang chậu hẹp. - Âm đạo Cấu tạo như một ống cơ có thành dày. Âm đạo lợn từ 10 - 12cm. Ở lợn, tiểu mô âm đạo phát triển lên về độ cao tối đa vào lúc động dục và giảm xuống điểm thấp nhất vào ngày 12 - 16, các lớp bề mặt của biểu mô âm đạo bong ra ở các ngày 4 và 14. Khả năng co rút âm đạo đóng vai trò chính trong việc đáp ứng tâm lý tinh dục và cho sự vận động của tinh trùng. Sự co rút của âm đạo, dạ con và ống dẫn trứng được kích thích bởi dịch thể bài tiết vào trong âm đạo, trong quá trình kích thích lúc giao phối. Dịch âm đạo chủ yếu là thấm qua màng âm đạo, hỗn hợp với các chất tiết của âm hộ từ các tuyến bã nhờn và các tuyến mồ hôi làm lẫn với các dịch nhầy của cổ tử cung, các dịch nội mạc tử cung, ống dẫn trứng và các tế bào bong ra từ biểu mô âm đạo. * Bộ phận sinh dục bên ngoài Bộ phận sinh dục bên ngoài là các phần mà người ta có thể nhìn thấy, sờ thấy và quan sát được, bao gồm: Âm môn, âm vật và tiền đình. - Âm môn (Vulvace): Còn gọi là âm hộ nằm ở dưới hậu môn. Phía ngoài âm môn có hai môi (Labia Pdendi). Hai môi được nối với nhau bằng hai mép (Rima vulvace). Trên hai môi của âm môn có sắc tố màu đen và có nhiều tuyến tiết (như tuyến tiết nhờn và tuyến tiết mồ hôi). - Âm vật (Clitous): Nằm ở dưới hai mép âm môn. Âm vật giống như dương vật của con đực được thu nhỏ lại. Về cấu tạo, âm vật cũng có thể hổng như con đực. Trên âm vật có nếp da tạo mũ âm vật, giữa âm vật bẻ gập xuống dưới. Trong thực tế, sau khi dẫn tinh cho gia súc cái, kỹ thuật viên thường xoa bóp nhẹ vào âm vật kích thích con cái hưng phấn để tử cung trở lại co thắt vào, vận động bình thường.
  23. 17 - Tiền đình (Vestibulum): Là giới hạn giữa âm môn và âm đạo, nghĩa là qua tiền đình mới vào âm đạo. Trong tiền đình có dấu vết màng trinh, phía trước thông màng trinh với âm đạo, phía sau màng trinh có lỗ niệu đạo. Màng trinh có các sợi cơ đàn hồi do hai lá niêm mạc gấp thành một nếp. Tiền đình có một số tuyến, các tuyến này xếp theo hình chéo hướng quay về âm vật, chúng có chức năng tiết dịch nhầy. * Tuyến vú của lợn - Cấu tạo cơ bản của tuyến vú bao gồm 2 phần: Bao tuyến và hệ thống ống dẫn. Bao tuyến là nơi sản sinh sữa được cấu tạo từ tế bào biểu mô, mỗi bao tuyến giống như một cái túi nhỏ thông với ống dẫn sữa. Ống dẫn sữa khởi đầu bằng ống dẫn nhỏ thông với xoang bao tuyến, nhiều ống dẫn nhỏ tập hợp lại đổ vào ống dẫn trung bình rồi đổ vào ống dẫn lớn sau đó đổ vào bể sữa. Có thể hình dung cấu tạo tuyến vú giống hình cành cây còn các bao tuyến giống hình chùm nho. Bể sữa là một xoang rộng, được thông với ống đầu vú để đưa sữa ra ngoài. Số lượng bể sữa và ống đầu vú cũng khác nhau tùy loài. Lợn mỗi một đầu vú có 2 - 3 ống thông vú. Xung quanh ống dẫn sữa và bể sữa được bao bọc bởi những sợi cơ trơn và có tác dụng trong việc thải sữa khi co bóp. Ống thông đầu vú có sợi cơ trơn sắp xếp theo hình vòng. Toàn bộ tuyến vú được bao bọc bởi mô liên kết và mô mỡ. Mỗi bao tuyến được bao bọc bởi lưới mao mạch dày đặc, nó cung cấp máu cho việc tạo sữa. Hệ tĩnh mạch trong tuyến vú phát triển mạnh hơn hệ động mạch (Hoàng Toàn Thắng (2006) [18]). - Các yếu tố ảnh hưởng đến sinh trưởng và phát dục của tuyến vú Yếu tố bên trong: Quan trọng nhất là yếu tố thể dịch hormone Oestrogen của buồng trứng và Progesteron của thể vàng, tham gia vào sự sinh trưởng và phát dục của tuyến vú cho tới khi hình thành ống dẫn sữa và bao tuyến. Cuối thời kỳ chửa và thời kỳ tiết sữa nuôi con thì tuyến yên tiết Prolactin, hormone này có vai trò kích thích bao tuyến phát triển và tiết sữa.
  24. 18 Ngoài ra các hormone STH, TSH, FSH, LH của thuỳ trước tuyến yên đều ảnh hưởng đến sự sinh trưởng và phát dục của tuyến vú. Yếu tố thần kinh cũng đóng vai trò quan trọng trong quá trình sinh trưởng và phát dục tuyến vú. Khi kích thích xoa bóp vào bầu vú làm hưng phấn thụ quan cảm giác ở da bầu vú, xung động thần kinh được truyền tới vùng dưới đồi và trung khu điều hoà sinh dục ở vỏ não. Thông qua hệ nội tiết sinh sản tiết các hormone thúc đẩy sự phát dục của tuyến vú và tiết sữa. Yếu tố bên ngoài: Quan trọng nhất là chế độ dinh dưỡng, có tác dụng thúc đẩy nhanh sự sinh trưởng và phát dục của tuyến vú vì nó là nguyên liệu cung cấp cho sự sinh trưởng, phát triển và trao đổi chất. Chế độ chăm sóc, điều kiện khí hậu, sự hưng phấn khi gặp đực giống, feromol của con đực đều có ảnh hưởng đến sự phát dục của tuyến vú. 2.2.1.5. Đặc điểm sinh sản của lợn nái Một số tình trạng sinh sản của lợn có thể thay đổi theo điều kiện chăm sóc nuôi dưỡng và quản lý. Đánh giá khả năng sinh sản của lợn nái thường thông qua các chỉ tiêu kỹ thuật như: Số con sơ sinh, số con cai sữa, tỷ lệ con chết trong thời gian bú sữa mẹ, thời gian động dục trở lại sau cai sữa, thời gian lợn con theo mẹ. Sinh lý của lợn nái biểu hiện ở các chỉ tiêu như: Tuổi động dục lần đầu, chu kỳ động dục, thời gian động dục, khối lượng phối giống lần đầu, tuổi đẻ, thời gian động dục trở lại (Lê Hồng Mận, 2002) [12] 2.2.1.6. Đặc điểm sinh lý, sinh dục của lợn nái * Sự thành thục về tính và thể vóc - Sự thành thục về tính: Khi gia súc thành thục về tính thì cơ thể con cái, đặc biệt là cơ quan sinh dục đã phát triển cơ bản hoàn thiện. Dưới tác dụng của thần kinh, nội tiết con vật xuất hiện các phản xạ về sinh dục, khi đó trên buồng trứng trứng chín và có khả năng thụ thai, tử cung cũng sẵn sàng cho thai làm tổ. Tuy nhiên sự thành thục về tính sớm hay muộn phụ thuộc vào giống, tính biệt, các điều kiện ngoại cảnh cũng như chăm sóc, nuôi dưỡng. - Giống: Các giống khác nhau thì thành thục về tính cũng khác nhau, những giống có tầm vóc nhỏ thường thành thục sớm hơn những giống có tầm vóc lớn,
  25. 19 những giống thuần hoá sớm thành thục sớm hơn các giống thuần hóa muộn. Tuổi thành thục về tính của các lợn cái ngoại và lợn cái lai muộn hơn các loại lợn cái nội thuần chủng (Ỉ, Móng cái ). Các giống lợn nội này thường có tuổi thành thục về tính vào khoảng 4 – 5 tháng tuổi, lợn ngoại là 6 – 8 tháng tuổi, lợn lai F1(nội x ngoại) thường động dục lần đầu vào lúc 6 tháng tuổi. - Điều kiện nuôi dưỡng, quản lý: Cùng một giống nhưng nếu điều kiện chăm sóc, nuôi dưỡng, quản lý tốt, gia súc phát triển tốt thì sớm thành thục và ngược lại. Điều kiện ngoại cảnh: khí hậu và nhiệt độ cũng ảnh hưởng đến tuổi thành thục về tính của gia súc. - Tuổi thành thục về tính của gia súc: Tuổi thành thục về tính ở gia súc thường sớm hơn tuổi thành thục về thể vóc, nghĩa là sau khi con vật đã thành thục về tính vẫn tiếp tục sinh trưởng, lớn lên. Đây là đặc điểm cần chú ý trong chăn nuôi, không nên cho gia súc sinh sản quá sớm để đảm bảo sự sinh trưởng và phát triển bình thường của lợn mẹ và phẩm chất giống của đời sau. - Sự thành thục về thể vóc: Theo Nguyễn Đức Hùng và cs (2003) [7] cho rằng tuổi thành thục về thể vóc là tuổi có sự phát triển về ngoại hình và thể chất đạt mức độ hoàn chỉnh, tầm vóc ổn định. Tuổi thành thục về thể vóc thường chậm hơn so với tuổi thành thục về tính. Thành thục về tính được đánh dấu bằng hiện tượng động dục lần đầu tiên. Lúc này sự sinh trưởng và phát dục của cơ thể vẫn còn tiếp tục, trong giai đoạn lợn thành thục về tính mà ta cho giao phối ngày sẽ không tốt, vì lợn mẹ có thể thụ thai nhưng cơ thể mẹ chưa đảm bảo cho bào thai phát triển tốt, nên chất lượng đời con kém, đồng thời cơ quan sinh dục, đặc biệt là xương chậu vẫn còn hẹp dễ gây hiện tượng khó đẻ. Điều này ảnh hưởng đến năng suất sinh sản của lợn nái sau này. Do đó không nên cho phối giống quá sớm. Đối với lợn cái nội khi được 7 - 8 tháng tuổi khối lượng đạt 40 - 50kg nên cho phối, đối với lợn ngoại khi được 8 - 9 tháng tuổi, khối lượng đạt 100 – 110 kg mới nên cho phối. * Chu kỳ động dục Chu kỳ động dục là một quá trình sinh lý phức tạp sau khi toàn bộ cơ thể đã phát triển hoàn hảo, cơ quan sinh dục không có bào thai và không có hiện tượng bệnh lý thì bên trong buồng trứng có quá trình phát triển của noãn bào, noãn bào
  26. 20 thành thục, trứng chín và thải trứng. Song song với quá trình thải trứng thì toàn bộ cơ thể nói chung đặc biệt là cơ quan sinh dục có hàng loạt các biến đổi về hình thái cấu tạo và chức năng sinh lý. Theo Nguyễn Thị Thúy Mỵ và Trần Thanh Vân (2014) [13] cho biết: lợn nái sau khi thành thục về tính thì bắt đầu có biểu hiện động dục, lần thứ nhất thường biểu hiện không rõ ràng, cách sau đó 15- 16 ngày lại động dục, lần này biểu hiện rõ ràng hơn và sau đó đi vào quy luật mang tính chu kỳ. Một chu kỳ tính ở lợn thường dao động trong khoảng 18 – 22 ngày, trung bình 21 ngày và được chia làm 4 giai đoạn: giai đoạn trước động dục, giai đoạn động dục, giai đoạn sau động dục và giai đoạn nghỉ ngơi: - Giai đoạn trước động dục: Đây là giai đoạn từ khi thể vàng tiêu huỷ đến lần động dục tiếp theo, chuẩn bị điều kiện cho cơ quan sinh dục lợn cái và trứng để tiếp nhận tinh trùng, đón trứng và thụ tinh. + Bao noãn phát triển về khối lượng và chất lượng, nổi lên trên bề mặt buồng trứng và tăng tiết Oestrogen, kích thước noãn bao thay đổi rất nhanh, đầu giai đoạn này kích thước của noãn bào có đường kính là 4mm, đến cuối giai đoạn kích thước của noãn bào có đường kính 10 -12 mm. + Tuyến sinh dục phụ tiết dịch nhầy, loãng làm trơn cơ quan sinh dục. - Giai đoạn động dục: khi gia súc đã có biểu hiện tính dục thì đây là giai đoạn tiếp theo, giai đoạn này gồm 3 thời kỳ liên tiếp là: Hưng phấn, chịu đực và hết chịu đực. Động dục là giai đoạn quan trọng nhưng thời gian lại ngắn. Đối với lợn là 2 – 3 ngày, đặc điểm của giai đoạn này là: + Lượng Oestrogen tiết ra đạt mức cao nhất do đó gây hưng phấn mạnh mẽ toàn thân. + Các biểu hiện ở cơ quan sinh dục: Âm hộ xung huyết, tấy sưng lên chuyển từ hồng nhạt sang hồng đỏ, càng gần tới thời điểm rụng trứng thì âm hộ càng thẫm màu chuyển màu mận chín. Tử cung hé mở rồi mở rộng, âm đạo tiết niêm dịch nhiều chuyển từ trong suốt và loãng sang đặc dần, keo dính có tác dụng bôi trơn cơ quan sinh dục và ngăn chặn sự xâm nhập của vi khuẩn.
  27. 21 + Các biểu hiện về thần kinh: Thần kinh hưng phấn, con vật ít ăn hoặc bỏ ăn, bồn chồn không yên tĩnh hoặc kêu rít phá chuồng, nhảy lên lưng con khác lúc đầu chưa cho con đực nhảy lên sau đó mới chịu đực, mắt đờ đẫn đứng yên cho con đực nhảy. + Trứng rụng: Ở lợn sau động dục 24 – 30 giờ thì trứng rụng và thời gian rụng trứng kéo dài 10 – 15 giờ vì vậy nên phối 2 lần cho lợn sẽ có hiệu quả thụ thai cao. + Các biến đổi khác về sinh lý khi trứng rụng: thân nhiệt tăng 0,8 – 1,2ºC, nhịp tim tăng, bạch cầu trung tính tăng. Sau khi trứng rụng mà được thụ tinh thì chuyển sang thời kỳ chửa, nếu không được thụ tinh thì chuyển sang giai đoạn sau động dục. - Thời điểm phối giống thích hợp: Theo Nguyễn Thiện và cs (1993) [19], trứng rụng tồn tại trong tử cung 2-3 h và tinh trùng sống trong âm đạo lợn cái 30- 48h. Thời điểm phối giống thích hợp nhất đối với lợn nái ngoại và lợn nái lai cho phối vào chiều ngày thứ 3 và sáng ngày thứ 4. Đối với lợn nái ngoại, thời điểm phối giống tốt nhất là sau khi có hiện tượng chịu đực 6 – 8 giờ, hoặc cho phối vào cuối ngày thứ 3 và sang ngày thứ 4 kể từ khi bắt đầu chịu đực. Đối với lợn nái nội, nên phối giống vào cuối ngày thứ 2 và sáng ngày thứ 3 vì thời gian động dục ngắn hơn. 2.2.2. Một số bệnh thường gặp ở lợn Lang Đông Khê 2.2.2.1. Bệnh viêm vú * Nguyên nhân: Nguyên nhân chính gây ra bệnh viêm vú là các hệ vi khuẩn gây bệnh như: Trực khuẩn đường ruột, liên cầu khuẩn dung huyết và các loại trực khuẩn gây thối khác Chúng xâm nhập vào tuyến vú qua vết thương, vết xây xát trên bầu vú hoặc qua lỗ núm vú. Theo Muirhead and Alexander (2010) [29], nguyên nhân gây viêm một hay nhiều vú ở lợn do nhiều loại vi khuẩn hoặc có thể do kế phát từ bệnh khác, xảy ra lác đác ở từng cá thể hoặc cả đàn. Bệnh thường xuất hiện tập trung từ khi lợn đẻ đến 12 giờ sau đó, vi khuẩn xâm nhập vào một hay nhiều bầu vú thông qua núm vú do trầy xước (do răng của lợn con hay nền chuồng cứng). Nhóm vi khuẩn gây viêm vú
  28. 22 gồm: Coliform, Klebsiella, Staphylococcus, Streptococcus, Miscellaneous. Trong đó vi khuẩn Staphylococcus Và Streptococcus Chỉ gây viêm từng tuyến vú, Klebsiella spp gây viêm vú cấp tính và nhóm vi khuẩn E. coli với nhiều type khác nhau đã được phân lập ở hầu hết các trường hợp viêm vú, độc tố của E. coli sinh ra là nguyên nhân gây viêm vú, mất sữa. Theo White (2013) [28], nguyên nhân chủ yếu gây viêm vú cấp tính do các loại vi khuẩn; E. coli, Klebsiella, đôi khi Pseudomonas nhiễm qua núm vú từ phân và nền chuồng. Vì vậy, việc vệ sinh chuồng trại và núm vú đóng vai trò quan trọng trong phòng bệnh. Theo Phạm Tiến Dân (1998) [5], nghiên cứu xác định vi khuẩn gây viêm vú ở lợn nái sinh sản gồm: E. coli chiếm 18,2%; Staphylococcus chiếm19%; Streptococcus chiếm27,18%; Klebsiella chiếm14,7%. Theo Christensen và cs (2007) [25], khi nghiên cứu về mô học và vi khuẩn học từ mẫu mô vú bị viêm cho thấy, vi khuẩn chính gây viêm vú là Staphylococcus spp và Arcanobacterium pyogenes. Nguyễn Hữu Ninh và cs (1994) [15] cho rằng vi khuẩn gây bệnh viêm vú thường là: Liên cầu trùng: 86%; Tụ cầu trùng: 5,4%; Trực trùng sinh mủ: 2,7%; E. coli: 1,2%; các loại vi khuẩn khác: 3,7%. Loại gây bệnh phổ biến nhất là liên cầu trùng Agalactiae. - Corynebacterium chiếm: 12,2% - Pseudomonas alruginosa chiếm: 9,5% - Các loại vi khuẩn khác chiếm: 3 - 5% Do kế phát từ một số bệnh: Sót nhau, viêm tử cung, bại liệt sau khi đẻ, viêm bàng quang, viêm thận Khi lợn nái bị bệnh này vi khuẩn theo máu về tuyến vú, cư trú tại đây và gây bệnh. Lợn nái tốt sữa, lợn con bú sữa không hết hoặc lợn nái cho con bú một hàng vú, hàng vú còn lại căng sữa, lợn con bú làm sây sát bầu vú hoặc lợn con bị bệnh không bú, sữa xuống nhiều, bầu vú căng dễ dẫn đến viêm vú (Trương Lăng, 2000) [8].
  29. 23 Do quá trình chăm sóc và nuôi dưỡng kém, chất độn chuồng và ổ đẻ bẩn. Sau khi đẻ bầu vú không được vệ sinh sạch, hàng ngày không vệ sinh bầu vú. Thời tiết quá nóng, quá lạnh, ẩm ướt kéo dài, nhiệt độ thay đổi đột ngột dẫn tới viêm vú. * Triệu chứng: Viêm vú chia thành các thể như sau: - Viêm vú thể thanh dịch: Tuyến vú bị xung huyết, dịch viêm tiết ra nhiều. Nước viêm thải ra thấm vào các nang sữa làm quá trình lưu thông mạch máu và mạch lâm ba bị trở ngại. Lá vú sưng to, có khi cả bầu vú sưng. Lúc đầu sữa biến đổi không rõ về sau sữa loãng, chất lượng sữa giảm, sờ tay vào con vật cảm giác đau. - Viêm vú thể cata: Trong nang sữa chứa rất nhiều dịch rỉ viêm, tế bào biểu bì phình to ra, bị thoái hóa và bong ra. Cơ thể bình thường không có triệu chứng toàn thân, lúc đầu sữa loãng, có nhiều gạch vón, lượng sữa giảm. vắt sữa có những cục nhỏ màu xanh hay vàng nhạt, sờ bầu vú thấy nóng. - Viêm vú thể fibrin: Lúc đầu lá vú chứa nhiều nước vàng fibrinogen và tế bào chết. Fibrinogen dưới tác dụng của men do tế bào bị tổn thương tiết ra sẽ biến thành Fibrin. Khi vắt sữa có một ít dịch màu vàng chứa fibrin và cục Casein bị đóng vón. Nhiệt độ cơ thể 40 - 410C, vú viêm cứng, sưng to, sờ thấy đau. - Viêm vú thể cata có mủ: Trong nang sữa và ống dẫn có hồng cầu, bạch cầu, mủ và tế bào hoại tử. Sữa mất hẳn, thể tích vú tăng, màu đỏ. Sờ con vật thấy đau, vắt sữa thấy loãng, sữa đóng vón, có mủ, máu. Con vật có triệu chứng toàn thân: Sốt cao, kém ăn, hô hấp và tuần hoàn tăng. - Viêm vú thể áp xe: Trong tuyến vú xuất hiện một hay nhiều bọc áp xe to hay nhỏ nằm sát dưới da hay ở sâu bên trong. Sau đó bọc mủ phát triển to nổi rõ ở dưới da. Vật ngừng tiết sữa và trong sữa vắt ra có đầy mủ và máu, casein. - Viêm vú thể plegemol: Là loại viêm tích mủ dưới da và tổ chức liên kết của lá vú. Thường do kế phát từ viêm cata và viêm có mủ. Lượng sữa ít có nhiều gạch nhỏ, sờ bầu vú thấy nóng, con vật sốt, tim mạch rối loạn.
  30. 24 - Viêm vú thể có màu: Là loại viêm cấp tính. Thường kế phát từ viêm thanh dịch, cata hoặc do viêm phúc mạc. Tuyến vú bị chấn thương, các tế bào tuyến sữa bị thấm dịch và hồng cầu. Da vú có đám đỏ, vắt sữa con vật thấy đau. Sữa loãng màu hồng hay đỏ, con vật sốt cao 40 - 410C, bỏ ăn. - biểu hiện rõ ở vú viêm với các đặc điểm: Vú căng cứng, nóng đỏ, có biểu hiện đau khi sờ nắn, không xuống sữa, nếu vắt mạnh sữa chảy ra có nhiều lợn con lẫn máu; sau 1 - 2 ngày thấy có mủ, lợn mẹ giảm ăn hay bỏ ăn, sốt cao 40 - 41,50C. Tùy số lượng vú bị viêm mà lợn nái có biểu hiện khác nhau. Nếu do nhiễm trùng trực tiếp vào bầu vú, thì đa số trường hợp chỉ một vài bầu vú bị viêm. Tuy vậy, lợn nái cũng lười cho con bú, lợn con thiếu sữa nên liên tục đòi bú, kêu rít, đồng thời do bú sữa bị viêm, gây nhiễm trùng đường ruột, lợn con bị tiêu chảy. * Hậu quả: Khi lợn nái bị viêm vú sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới cơ thể lợn mẹ, đồng thời ảnh hưởng đến khả năng sinh trưởng, phát triển của lợn con theo mẹ. Nguyễn Hữu Vũ và cs (1999) [24] cho rằng, bệnh viêm tử cung và viêm vú là hai nguyên nhân chính, trực tiếp gây ra sự giảm và mất sữa ở lợn nái nuôi con. Nguyễn Xuân Bình (2000) [1], cho biết: Mất sữa sau khi đẻ là do kế phát từ bệnh viêm tử cung và viêm vú. Do khi bị viêm, cơ thể thường sốt cao liên tục từ 2 - 3 ngày, nước trong máu và trong mô bào bị giảm, ảnh hưởng tới quá trình trao đổi chất, nhất là sự hấp thu chất dinh dưỡng trong đường tiêu hóa bị giảm dần dẫn đến mất sữa, khả năng hồi phục chức năng tiết sữa sẽ bị hạn chế thường xảy ra ở lứa đẻ tiếp theo. Khi bị viêm vú, sản lượng sữa của lợn nái nuôi con giảm, trong sữa có nhiều chất độc. Sữa không đủ đáp ứng nhu cầu của lợn con hoặc khi lợn con bú sữa sẽ dẫn đến tiêu chảy, ốm yếu, sức đề kháng giảm, dễ mắc bệnh và trọng lượng cai sữa thấp. Nếu viêm vú nặng dẫn đến huyết nhiễm trùng, huyết nhiễm mủ thì khó chữa, lợn nái sẽ bị chết. Viêm vú kéo dài dẫn đến teo bầu vú, vú hóa cứng, vú bị hoại tử ảnh hưởng tới khả năng tiết sữa của lợn nái ở lứa sau.
  31. 25 Nếu phát hiện và điều trị kịp thời sẽ giảm thiệt hại kinh tế cho người chăn nuôi. 2.2.2.2. Bệnh phân trắng lợn con Đây là bệnh rất phổ biến ở lợn con theo mẹ, đặc biệt là lợn mới sinh đến 21 ngày tuổi. Có con mắc ngay sau khi sinh 2 – 3h và một số con mắc muộn hơn khi đã 4 tuần tuổi. Vi khuẩn tập trung chủ yếu ở ruột già nên phân gia súc là nguồn gây bệnh lớn, đặc biệt là gia súc mắc bệnh. Chúng cũng tồn tại trong đất, nước, chất thải và chất độn chuồng. Bệnh do E.coli xảy ra ở hầu hết các đàn lợn trong vụ đẻ, nguồn thải bệnh nhiều nhất là nái chờ phối (96,6%), ít nhất là nái chửa kỳ hai. Trong trường hợp này, lợn con bị nhiễm E.coli ngay sau khi sinh, lợn bệnh sau khi khỏi sẽ trở thành vật mang trùng. Bệnh lợn con phân trắng là một bệnh phát triển quanh năm, nhiều nhất là cuối vụ đông xuân và cuối xuân sang hè, sau nhiều trận mưa, khí hậu thay đổi đột ngột, tỷ lệ mắc bệnh có thể lên tới 100%, tỷ lệ chết có thể tới 30 – 40%. Thời gian nào độ ẩm càng cao bệnh phát triển càng mạnh. Tỷ lệ mắc bệnh ở vùng trung du và vùng núi ít hơn, thời gian mắc bệnh cũng ngắn hơn vùng đồng bằng. Nền chuồng bằng đất và sân chơi rộng hạn chế sự phát triển của bệnh. Trong các cơ sở chăn nuôi, E.coli lan truyền bằng đường cơ học do chuột, chó, mèo, côn trùng, dụng cụ chăn nuôi hoặc do người chăm sóc bị nhiễm E.coli. Nguyễn Quang Tuyên (1993) [21] cho biết: Đông vật mới sinh không có E.coli trong ruột nhưng chỉ sau khi sinh vài giờ đã có. Bình thường E.coli chỉ cư trú ở ruột già và phần cuối ruột non với số lượng ít. Phần đầu và giữa ruột non gần như không có. Khi sức đề kháng của cơ thể lợn con giảm, vi khuẩn E.coli phát triển mạnh lên cả về số lượng cũng như độc lực, hình thành nên những chủng E.coli cường độc gây bệnh cho lợn con. Theo Phạm Ngọc Thạch (2006) [20], cơ chế sinh bệnh: Đầu tiên dạ dày giảm tiết dịch vị, nồng độ HCl giảm, làm giảm khả năng diệt trùng và khả năng tiêu hóa
  32. 26 protein. Khi độ kiềm trong đường tiêu hóa tăng cao tạo điều kiện cho các vi khuẩn trong đường ruột phát triển mạnh, làm thối giữa các chất chứa trong đường ruột và sản sinh nhiều chất độc. Những sản phẩm trên kích thích vào niêm mạc ruột làm tăng nhu động ruột, con vật sinh ra ỉa chảy, khi bệnh kéo dài, con vật bị mất nước (do ỉa chảy) gây nên rối loạn trao đổi chất trong cơ thể như nhiễm độc hoặc mất cân bằng các chất điện giải, làm cho bệnh trở nên trầm trọng, gia súc có thể chết. * Triệu chứng lâm sàng Bệnh thường gặp ở lợn con theo mẹ dưới 2 tháng tuổi. Lợn con mắc bệnh có biểu hiện: chậm chạp, bú ít hoặc bỏ bú (khi bị nặng và kéo dài), thân nhiệt thường hạ sau vài giờ đến một ngày. Lợn đi ỉa nhiều lần trong ngày, phân lỏng màu trắng như vôi, trắng xám hoặc hơi vàng, cá biệt có con đi lẫn máu, mùi tanh khắm. Lợn con bụng tóp lại, da nhăn nheo, lông xù, đi đứng siêu vẹo, phân dính bê bết xung quanh hậu môn và khóe chân. Theo Phạm Ngọc Thạch (2006) [20], nhu động ruột của lợn ở thời kì đầu của bệnh giảm yếu, thời kỳ sau lại tăng. Nhiệt độ 39,5-40,50C, buổi chiều thường cao hơn buổi sáng 1-20C. Đi ỉa chảy một ngày 15-20 lần, con vật rặn nhiều lưng uốn cong, bụng thóp lại, thể trạng đờ đẫn, có khi bú chút ít có khi không bú hoàn toàn, nằm nhiều hơn đi lại. Các niêm mạc mắt, mũi, mồm nhợt nhạt vì thiếu máu và mất nước quá nhiều, chân lạnh. Con vật chết trong tình trạng co giật bởi nhiễm độc. Dù bệnh khỏi, sau khi cai sữa nuôi rất chậm lớn, khi bệnh nặng con vật mệt lử bỏ bú hoàn toàn, chân và toàn thân run rẩy, đi lại không được, nằm một chỗ, đặc biệt là hai chân sau liệt, mắt sâu lõm, khô, khát nước nhiều, thở dốc mạch nhanh, phản xạ các bắp thịt, gân yếu, không điều trị kịp thời con vật chết trong 3-6 ngày, trước khi chết nhiệt độ hạ xuống chỉ còn 35-36,50C. Sau giai đoạn bệnh dữ dội nếu được điều trị kịp thời bệnh sẽ chuyển sang giai đoạn lành bệnh. Lúc này phân chuyển từ màu trắng hoặc trắng xám đen, phân đặc dần thành khuôn như phân của lợn khỏe. * Bệnh tích Lợn con chết do bệnh phân trắng tiến hành mổ khám thấy: bệnh tích chủ yếu tập trung ở xoang bụng, niêm mạc nhợt nhạt, dạ dày chứa đầy hơi và sữa chưa tiêu
  33. 27 hoá, niêm mạc dạ dày phủ một lớp dịch nhầy, đường cong lớn xuất huyết. Ruột non bị viêm cata kèm theo xuất huyết, chất chứa trong ruột lỏng, màu vàng. Gan bị thoái hoá màu đất sét, sưng, túi mật căng và bị dài ra do chứa mật. Lách không sưng nhưng bóc lớp vỏ đi thấy xuất huyết. Tim to, cơ tim nhão. Xác chết gầy, bụng hóp, những lợn chết qua đêm phần bụng thường có màu đen do quá trình hoại tử gây nên. * Chẩn đoán Dựa vào triệu chứng lâm sàng, các tổn thương tế bào mô và sự hiện diện của các thể Gr (-) thường bám sát vào niêm mạc ruột. Chẩn đoán dựa vào độ pH của phân, nghiên cứu cho thấy nếu lợn con bị bệnh phân trắng do E.coli thì dịch tiêu chảy có pH hoàn toàn kiềm. Đó là do trong giai đoạn đầu tiên sau sơ sinh, dịch tiêu hoá của lợn con chưa có HCl tự do. * Phòng bệnh - Bệnh phân trắng lợn con là bệnh hay gặp ở lợn con sơ sinh đến 60 ngày tuổi, để hạn chế bệnh phát ra ta cần chú ý một số biện pháp phòng bệnh sau: - Tiêm phòng vacxin E.coli cho lợn mẹ, miễn dịch sẽ di truyền từ cơ thể mẹ đến lợn con qua sữa. Với liều dùng tiêm dưới da 10ml cho lợn mẹ đang kỳ mang thai, có thể tiêm nhắc lại lần thứ 2 trước khi đẻ 15-20 ngày. - Giữ chuồng trại luôn khô, sạch, ấm. Ta cần làm ổ úm và rơm rạ lót chuồng; không cho lợn mẹ ăn trong chuồng, giữ nền chuồng khô sạch không nên rửa chuồng trại vào những ngày mưa khi không cần thiết. - Nuôi dưỡng tốt lợn nái mẹ trong thời gian cho con bú, bổ sung thêm khoáng đa vi lượng và các vitamin cần thiết, tránh thay đổi thức ăn đột ngột. 2.2.2.3. Bệnh tiêu chảy ở lợn con *Khái niệm chung về hội chứng tiêu chảy Tiêu chảy do rất nhiều nguyên nhân gây ra và được đánh giá là hội chứng phổ biến trong các bệnh của đường tiêu hoá, xảy ra ở mọi lúc, mọi nơi. Thực chất tiêu chảy là một phản ứng tự vệ của cơ thể, nhưng khi cơ thể tiêu chảy nhiều lần
  34. 28 trong ngày (5 – 6 lần trở lên) và nước trong phân từ 75 -76% trở lên gọi là hội chứng tiêu chảy. * Nguyên nhân gây ra hội chứng tiêu chảy Trong lịch sử nghiên cứu về hội chứng tiêu chảy, nhiều tác giả đã dày công nghiên cứu và cho thấy nguyên nhân gây hội chứng tiêu chảy rất phức tạp. Qua nhiều nghiên cứu cho thấy, hội chứng tiêu chảy ở gia súc xảy ra do các nguyên nhân sau đây: ❖ Do vi sinh vật Vi sinh vật bao gồm các loại virus, vi khuẩn, ký sinh trùng, và nấm mốc. Chúng vừa là nguyên nhân nguyên phát, cũng vừa là nguyên nhân thứ phát gây tiêu chảy. ❖ Do vi khuẩn Khi nghiên cứu về nguyên nhân gây hội chứng tiêu chảy nhiều tác giả đã kết luận rằng trong bất cứ trường hợp nào của bệnh cũng có vai trò tác động của vi khuẩn. Trong đường ruột của gia súc nói chung và của lợn nói riêng, có rất nhiều loài vi sinh vật sinh sống. Vi sinh vật trong đường ruột tồn tại dưới dạng hệ sinh thái. Hệ sinh thái vi sinh vật đường ruột ở trạng thái cân bằng động theo hướng có lợi cho cơ thể vật chủ. Hoạt động sinh lý của gia súc chỉ diễn ra bình thường khi mà hệ sinh thái đường ruột luôn ở trạng thái cân bằng. ❖ Do virus Đã có nhiều nghiên cứu chứng tỏ rằng virus cũng là nguyên nhân gây tiêu chảy ở lợn. Nhiều tác giả đã nghiên cứu và kết luận một số virus như Porcine circovirus type 2 (PCV2), Rotavirus, TGE, PED, Enterovirus, Parvovirus, Adenovirus có vai trò nhất định gây hội chứng tiêu chảy ở lợn. Sự xuất hiện của virus đã làm tổn thương niêm mạc đường tiêu hóa, suy giảm sức đề kháng của cơ thể và gây ỉa chảy ở thể cấp tính. ❖ Do ký sinh trùng
  35. 29 Khi ký sinh trong đường tiêu hóa ngoài việc chúng cướp đoạt chất dinh dưỡng của vật chủ, tiết độc tố đầu độc cơ thể vật chủ, chúng còn gây tác động cơ giới làm tổn thương niêm mạc đường tiêu hóa và là cơ hội khởi đầu cho một quá trình nhiễm trùng. Có rất nhiều loại ký sinh trùng đường ruột tác động gây ra hội chứng tiêu chảy như: Sán lá ruột lợn (Fasciolopsis buski), giun đũa lợn (Ascaris suum) ❖ Nguyên nhân khác Do thời tiết khí hậu, do kỹ thuật chăm sóc nuôi dưỡng, do stress, do ảnh hưởng của điều kiện chuồng trại, do ảnh hưởng của độ ẩm chuồng nuôi đến hội chứng tiêu chảy ở lợn. *Triệu chứng: Lợn con mắc bệnh đa số thân nhiệt không tăng, nếu tăng thì chỉ sau 2 – 3 ngày rồi hạ xuống trở về lúc bình thường, có con thân nhiệt hạ xuống do ỉa chảy mất nước nhiều. Lợn gầy tóp nhanh, lông xù, đuôi rũ, da nhăn nheo, nhợt nhạt, hai chân sau dúm lại và run rẩy, đuôi và khóe chân dính đầy phân. Tiêu chảy có thể ở mức nhẹ lợn không có biểu hiện mất nước hoặc tiêu chảy nặng với triệu chứng phân toàn nước. Phân lợn có màu sắc khác nhau phân vàng kem hay hơi xanh, trắng hoặc xám. Phân có thể chảy tự do từ hậu môn xuống sàn. Trong trường hợp nặng, triệu chứng lâm sàng là mất nước, rối loạn trao đổi chất, tiêu chảy có thể gây sốt hoặc không sốt và lợn con suy nhược rất nhanh rồi chết. Khối lượng cơ thể giảm 30 – 40% do mất nước. Cơ bụng hóp lại, lợn gầy, suy kiệt và đi siêu vẹo, mắt trũng sâu, da tái xám và nhợt nhạt. Sự mất nước và giảm khối lượng cơ thể làm cho lợn bị suy sụp nhanh, những con lợn con này thường bị chết. Trong trường hợp mãn tính hay bệnh ít nghiêm trọng, da quanh hậu môn và vùng háng có thể đỏ lên do tiếp xúc với phân kiềm tính, lợn ít bị mất nước và điều trị tích cực thì có thể khỏi bệnh. *Bệnh tích: Những bệnh tích điển hình quan sát thấy như: Xác lợn gầy, vùng đuôi bê bết phân. Niêm mạc mắt, miệng nhợt nhạt. Trong dạ dày chứa đầy hơi hoặc thức ăn chưa tiêu, mùi khó ngửi. Thành dạ dày phù và xuất huyết, niêm mạc ruột non xuất
  36. 30 huyết. Trong ruột non chứa đầy khí căng phồng, có khi lẫn máu. Gan, lách, thận không biến đổi nhiều. * Phòng bệnh Khâu phòng bệnh được đặt lên hàng đầu, nếu phòng bệnh tốt thì có thể hạn chế hoặc ngăn chặn được bệnh xảy ra. Tiêu chảy là hội chứng gây ra bởi nhiều nguyên nhân kết hợp với nhau, làm mất cân bằng hệ vi sinh vật đường tiêu hoá. Do vậy việc phòng bệnh cũng như trị bệnh phải kết hợp nhiều biện pháp khác nhau. Phòng bệnh bằng vệ sinh và chăm sóc nuôi dưỡng tốt. Trong chăn nuôi việc đảm bảo đúng quy trình kỹ thuật là điều rất cần thiết, chăm sóc nuôi dưỡng tốt sẽ tạo ra những gia súc khoẻ mạnh, có khả năng chống đỡ bệnh tật tốt và ngược lại. Ô chuồng lợn nái phải được vệ sinh tiêu độc trước khi vào đẻ. Nhiệt độ trong chuồng phải đảm bảo 32 – 340C đối với lợn sơ sinh và 28 – 300C với lợn cai sữa. Chuồng phải luôn khô ráo, không thấm ướt, không thay đổi thức ăn đột ngột. Việc giữ gìn chuồng trại sạch sẽ, kín ấm áp vào mùa đông và đầu xuân. Nên dùng các thiết bị sưởi điện hoặc đèn hồng ngoại trong những ngày thời tiết lạnh ẩm để đề phòng bệnh lợn con phân trắng, mang lại hiệu quả cao trong chăn nuôi. - Phòng bệnh bằng bổ sung sắt. Ở lợn con, việc thiếu sắt dẫn đến thiếu máu, làm giảm sức đề kháng cũng là nguyên nhân gây nên hội chứng tiêu chảy khá cao. Lợn con một ngày tuổi sẽ được cắt nanh bấm tai và tiêm sắt - Phòng bệnh bằng vacxin. Phòng bệnh bằng vacxin là phương pháp hữu hiệu nhất để ngăn ngừa bệnh đặc biệt là các bệnh có nguyên nhân là vi sinh vật. Vacxin phòng bệnh tiêu chảy cho lợn được sử dụng để phòng ngừa tiêu chảy nhằm tạo miễn dịch chủ động cho đàn lợn chống lại bệnh, các loại vacxin này đã và đang cho kết quả phòng bệnh một cách khả quan, đạt được mục tiêu làm giảm tỷ lệ bệnh. Lê Văn Tạo (2007) [22] đã nghiên cứu và sản xuất kháng thể khác loài từ lòng đỏ trứng gà phòng bệnh tiêu chảy do E.coli ở lợn con, lợn dùng chế phẩm đều an toàn, điều trị khỏi bệnh đối với lợn con bị tiêu chảy do vi khuẩn E.coli.
  37. 31 Bên cạnh các loại vacxin E.coli, các nhà khoa học cũng đã nghiên cứu chế vacxin Salmonella. Hiện nay trên thế giới đã có nhiều loại vacxin phòng bệnh do vi khuẩn Salmonella gây ra ở lợn. Mỹ sản xuất vacxin đa giá thành phần gồm E.coli, Pasteurella mutocida, Salmonella choleraesuis. Ở Đức chế vacxin Salmonella typimurium chủng ĐT 104. Hungari chế vacxin vi khuẩn Salmonella có bổ trợ glucoza. Ngoài việc sử dụng vacxin, một số tác giả đã đi sâu nghiên cứu các chế phẩm để phòng và trị hội chứng tiêu chảy. Đây là biện pháp vừa giúp tăng khả năng đề kháng, vừa khống chế sự phát triển quá mức của một số loài vi khuẩn có hại cho cơ thể gia súc. Trần Thị Hạnh và cs., (2004) [6] đã chế tạo sinh phẩm E.coli – sữa và Cl.perfringens – toxoid dùng phòng tiêu chảy cho lợn con. Như vậy, ta thấy việc phòng bệnh tiêu chảy cho lợn con đã có rất nhiều nghiên cứu từ rất sớm và có những kết quả khả quan, nhưng hội chứng tiêu chảy ở lợn con là do rất nhiều nguyên nhân gây ra. Do vậy biện pháp phòng bệnh tốt nhất là biện pháp vệ sinh chăm sóc, phòng trừ tổng hợp. 2.2.3. Cơ sở khoa học về khả năng sinh trưởng ở lợn 2.2.3.1. Quy luật sinh trưởng phát dục theo giai đoạn Quá trình sinh trưởng phát dục của lợn được chia làm hai giai đoạn: giai đoạn trong thai (prenatal) và giai đoạn ngoài thai (postnatal). Quá trình sinh trưởng trong thai là một phần quan trọng trong chu kỳ sống của lợn bởi vì các sự kiện của thời kỳ này có ảnh hưởng đến sinh trưởng, phát triển và khả năng sinh sản của lợn. Quá trình phát triển trong thai được chia làm ba giai đoạn: giai đoạn phôi thai, tiền thai và bào thai. Giai đoạn phôi thai từ lúc trứng thụ tinh đến 2 2 ngày, đặc điểm của giai đoạn này là hợp tử dịch chuyển và làm tổ ở sừng tử cung (trong vòng 2 ngày đầu tiên), phân chia nhanh chóng thành khối tế bào và thành các lá phôi. Giai đoạn tiền thai từ ngày 23 - 39, hình thành nên hầu hết các cơ quan bộ phận trong cơ thể. Giai đoạn thai từ ngày 40 trơ đi là giai đoạn phát triển nhanh về kích thước và khối lượng của thai. Giai đoạn ngoài thai được chia thành các thời kỳ bú sữa, thời kỳ thành thục, thời kỳ trưởng thành và thời kỳ già cỗi. Lợn con mới sinh chưa thành thục về sinh
  38. 32 lý và thể vóc, có rất nhiều sự thay đổi diễn ra trong thời kỳ đầu tiên sau khi sinh để phù hợp cho cuộc sống của nó sau này. Có một số thay đổi và các yếu tố ảnh hưởng đến sự thay đổi đó như khối lượng sơ sinh và số con đẻ ra trên ổ, lượng đường glucose trong máu, vấn đề điều tiết thân nhiệt, khả năng tiêu hoá và hấp thụ thức ăn, sự thay đổi về thành phần hoá học của cơ thể theo tuổi Đây là những sự thay đổi quan trọng trong những ngày đầu tiên của lợn sau khi sinh, cần phải được nghiên cứu đầy đủ và hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực đến sinh trưởng của lợn. Đối với lợn nái sinh sản chúng ta phải tìm cách để kéo dài thời kỳ trưởng thành để lợn có thể cho nhiều sản phẩm nhất. 2.2.3.2. Quy luật sinh trưởng phát dục không đồng đêu Không đồng đều về khả năng tăng khối lượng: lúc còn non khả năng tăng khối lượng chậm, sau đó tăng khối lượng nhanh dần, tùy theo các giống lợn khác nhau mà tốc độ tăng khối lượng có khác nhau. Điều quan trọng nhất là các nhà chăn nuôi phải biết thời điểm lợn sinh trưởng nhanh nhất để kết thúc vỗ béo cho thích hợp, giảm giá thành sản phẩm chăn nuôi. Không đồng đều về sự phát triển của các cơ quan bộ phận cơ thể: trong quá trình sinh trưởng và phát dục của cơ thể lợn có những cơ quan phát triển nhanh, có cơ quan phát triển chậm hơn Không đồng đều về sự tích luỹ của các tổ chức mỡ, nạc, xương: Sự phát triển của bộ xương có xu hướng giảm dần theo tuổi (tính theo sinh trưởng tương đối); của thịt giữ mức độ bình thường trong giai đoạn đầu sau khi sinh sau đó giảm dần từ tháng thứ 5, sự tích lũy mỡ tăng dần từ 6 - 7 tháng tuổi. Dựa vào quy luật này, các nhà chăn nuôi cần căn cứ vào mục đích chăn nuôi mà quyết định thời điểm giết mổ cho phù hợp để có thể đạt tỷ lệ nạc cao nhất. 2.2.3.3. Các phương pháp đánh giá khả năng sinh trưởng của lợn Sinh trưởng của lợn lần đầu tiên được Brody mô tả vào năm 1945 trên quan điểm của năng lượng dự trữ trong cơ thể so với đơn vị năng lượng ăn vào, ông cũng là người đưa ra đường cong sinh trưởng dạng hình chữ s được trình bày trên hình 1.4. Sau đó Webster (1980) đã chứng minh một cách chi tiết về hiệu suất sử dụng năng lượng cho sinh trưởng ở gia súc sản xuất thịt. Mối quan hệ giữa trao đổi chất
  39. 33 và nội tiết của tế bào với sinh trưởng của động vật là một mối quan tâm lớn của ngành sinh học và được Trenkle và Marple nghiên cứu vào năm 1983. Việc đánh giá sinh trưởng của lợn được thể hiện dưới dạng tăng khối lượng của cơ thể, có thể tính dưới dạng sinh trưởng tuyệt đối (gam/ngày) hoặc sinh trưởng tương đối (%). - Sinh trưởng tuyệt đối được tính theo công thức sau: Khối lượng cuối kỳ (g) - khối lượng đầu kỳ (g) Sinh trưởng tuyệt đối (g/ngày) = Thời gian nuôi. - Sinh trưởng tương đối được tính theo công thức sau: Khối lượng cuối kỳ - khối lượng đầu kỳ Sinh trưởng tương đối (%) = X 100 (Khối lượng đầu kỳ + Khối lượng cuối kì)/2. 2.2.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến sinh trưởng, phát dục của lợn Các yếu tố ảnh hưởng đến sinh trưởng, phát dục của lợn gồm hai nhóm: các yếu tố bên trong và các yếu tố bên ngoài. 2.2.4.1. Các yếu tô bên trong Yếu tố di truyền là một trong những yếu tố có ý nghĩa quan trọng nhất ảnh hưởng đến sinh trưởng phát dục của lợn. Quá trình sinh trưởng phát dục của lợn tuân theo các quy luật sinh học, nhưng chịu ảnh hưởng của các giống lợn khác nhau. Do ảnh hưởng của các tuyến nội tiết và hệ thống thần kinh mà hình thành nên sự khác nhau giữa các giống lợn nguyên thuỷ và các giống lợn đã được cải tiến cũng như các giống lợn thành thục sớm và giống lợn thành thục muộn. Sự khác nhau này không những chỉ khác nhau về cấu trúc tổng thể của cơ thể mà còn khác nhau ở sự hình thành nên các tế bào, các bộ phận của cơ thể và đã hình thành nên các giống lợn có hướng sản xuất khác nhau như: giống lợn hướng nạc, hướng mỡ. Yếu tố thứ hai ảnh hưởng đến sinh trưởng và phát dục của lợn là quá trình trao đổi chất trong cơ thể. Quá trình trao đổi chất xảy ra dưới sự điều khiển của các hormon. Hormon tham gia vào tất cả các quá trình trao đổi chất của tế bào và giữ
  40. 34 cân bằng các chất trong máu. Trong thời kỳ đầu tiên của quá trình sống, kể cả khi chưa có sự hoạt động của tuyến giáp đã có sự tham gia của tuyến ức trong điều khiển quá trình sinh trưởng, về sau điều khiển quá trình sinh trưởng có sự tham gia của tuyến yên. Hormon của thuỳ trước tuyến yên STH (somatotropin) là loại hormon rất cần thiệt cho sinh trưởng của cơ thể. Khi thiếu hoặc thừa loại hormon này sẽ dẫn đến cơ thể quá nhỏ bé (anismus) hoặc quá to (gigantismus). Thuỳ giữa tuyến yên cũng tiết ra các hormon tham gia vào quá trình chuyển hóa trong cơ thể, chủ yếu là chuyển hoá mỡ và sự chuyển hóa glycogen ở trong gan. Vào thời kỳ thành thục về tính, các hormon sinh dục như hormon của dịch hoàn và buồng trứng (androgen và oestrogen) tham gia vào quá trình điều khiển hoạt động sinh dục của cơ thể và hình thành nên các đặc tính sinh dục thứ cấp. Hormon sinh dục của con cái tạo ra từ buồng trứng cũng có tác động đáng kể đến sinh trưởng của lợn. Ngoài ra các loại hormon của các tuyến như tuyến tụy và tuyến thượng thận cũng tham gia điều tiết sự phát triển của bộ xương và cơ. 2.2.4.2. Các yếu tô bên ngoài Các yếu tố bên ngoài ảnh hưởng đến quá trình sinh trưởng và phát triển cơ thể lợn bao gồm dinh dưỡng, nhiệt độ môi trường, ánh sáng và các yếu tố khác. *Dinh dưỡng Các yếu tố di truyền không thể phát huy tối đa nếu không có một môi trường dinh dưỡng và thức ăn hoàn chỉnh. Khi chúng ta đảm bảo đầy đủ về thức ăn bao gồm cả số lượng và chất lượng thức ăn thì sẽ góp phần thúc đẩy quá trình sinh trưởng và phát triển của các cơ quan trong cơ thể. Một số thí nghiệm đã chứng minh rằng, khi chúng ta cung cấp cho lợn các mức dinh dưỡng khác nhau có thể làm thay đổi tỷ lệ các phần trong cơ thể, ví dụ như nếu chúng ta cho lợn ăn khẩu phần ăn có nhiều protein thì tỷ lệ nạc sẽ cao hơn và ngược lại nếu chúng ta cho lợn ăn khẩu phần có nhiều bột đường hoặc nhiều chất béo thì tỷ lệ mỡ trong thịt sẽ tăng lên. *Nhiệt độ và ẩm độ môi trường Nhiệt độ môi trường không chỉ ảnh hưởng đến tình trạng sức khỏe mà còn ảnh hưởng đến sinh trưởng và phát triển của cơ thể. Nếu nhiệt độ môi trường không
  41. 35 thích hợp thì sẽ không thể đảm bảo quá trình trao đổi chất diễn ra bình thường cũng như cân bằng nhiệt của cơ thể lợn. Việc đảm bảo nhiệt độ chuồng nuôi thích hợp cho các loại lợn khác nhau phải căn cứ vào khả năng điều tiết thân nhiệt của chúng. Một số cổng trình nghiên cứu chứng minh rằng khi nhiệt độ môi trường xuống thấp (dưới 5,5°C) thì lợn con bú sữa có nhu cầu về vitamin B: cao hơn rất nhiều khi nhiệt độ môi trường là 29,5°c. Khi nhiệt độ chuồng nuôi thấp lợn sẽ thất thoát nhiệt rất nhiều, vì lẽ đó ở lợn con và lợn nuôi thịt sẽ giảm khả năng tăng khối lượng và tăng tiêu tốn thức ăn cho 1kg tăng khối lượng. Nhiệt độ thích hợp cho lợn nuôi béo từ 15 - 18⁰C, cho lợn sinh sản không thấp hơn 10 - 12°c. Nhìn chung khi lợn càng lớn, càng trưởng thành thì cơ quan điều tiết thân nhiệt càng hoàn thiện, lớp mỡ dưới da càng dày và nhu cầu về nhiệt càng giảm xuống. Nhiệt độ chuồng nuôi có liên quan mật thiết với ẩm độ không khí. Ẩm độ không khí thích hợp cho lợn ở vào khoảng 70%. * Ánh sáng Ánh sáng có ảnh hưởng đến sinh trưởng và phát triển của lợn. Khi nghiên cứu về ảnh hưởng của ánh sáng đối với lợn người ta thấy rằng ánh sáng có ảnh hưởng rõ rệt đến sinh trưởng và phát triển của lợn con, lợn hậu bị và lợn sinh sản hơn là đối với lợn vỗ béo. Khi không đủ ánh sáng sẽ làm ảnh hưởng đến quá trình trao đổi chất của lợn, đặc biệt quá trình trao đổi khoáng. Đối với lợn con từ sơ sinh đến 70 ngày tuổi, nếu không đủ ánh sáng thì tốc độ tăng khối lượng sẽ giảm từ 9,5 - 12%, tiêu tốn thức ăn giảm 8 - 9% so với lợn con được vận động dưới ánh sáng mặt trời. Đối với lợn vỗ béo nhu cầu về ánh sáng thấp hơn, đặc biệt sau khi lợn ăn xong. Trong thực tế ở một số trang trại, người ta đã giảm cường độ chiếu sáng xuống mức tối thiểu cho lợn vỗ béo, đặc biệt cho các giống lợn cao sản (do các giống lợn cao sản sinh trưởng nhanh, thời gian nuôi ngắn) và cũng không có một phát hiện nào về ảnh hưởng của thiếu ánh sáng đối với lợn vỗ béo.
  42. 36 Việc đảm bảo đủ ánh sáng đối với lợn sinh sản gồm cả lợn đực và lợn nái đều có ý nghĩa rất quan trọng không chỉ đối với quá trình trao đổi các chất khoáng trong cơ thê mà còn đối với các chức năng sinh sản như biểu hiện động dục, sự phát triển của phôi ở lợn nái, việc sinh tinh và các phản xạ nhảy giá của lợn đực. Trong chăn nuôi công nghiệp khi thiết kế chuồng trại cần chú ý đảm bảo đủ ánh sáng theo nhu cầu của các loại lợn, đặc biệt đối với lợn con và lợn sinh sản. *Các yếu tố khác Ngoài các yếu tố ảnh hưởng đến sinh trưởng và phát triển lợn đã nêu trên còn có các yếu tố khác như vấn đề chuồng trại, chăm sóc, nuôi dưỡng, tiểu khí hậu chuồng nuôi như không khí, tốc độ gió lùa, nồng độ các khí thải Nếu chúng ta cung cấp cho lợn các yếu tố đủ theo yêu cầu của từng loại lợn sẽ giúp cho cơ thể lợn sinh trưởng phát triển đạt mức tối đa. 2.3. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước 2.3.1. Tình hình nghiên cứu trong nước Nước ta có khoảng 100 giống/dòng vật nuôi bản địa. Theo ước tính có khoảng 1/2 các giống/dòng đóng vai trò lớn trong cung cấp thực phẩm, sức kéo và sản xuất, như trâu, bò vàng, ngựa, lợn, gà .v.v. các loại. Một số trong các giống/dòng đó có số lượng ít, rải rác các nơi và hầu như chỉ có ở các vùng núi cao nơi mà các cộng đồng dân tộc thiểu số sử dụng. Tuy nhiên trong những năm gần đây việc khai thác và phát triển nguồn gen bản địa cũng đã được Đảng và Nhà nước quan tâm, các giống vật nuôi quý của các cộng đồng người dân thiểu số được đầu tư phát triển và bước đầu mang lại hiệu quả kinh tế nhất định cho đồng bào các dân tộc thiểu số tại các vùng cao, vùng sâu của cả nước. Kết quả các nghiên cứu trước đây cho thấy chúng ta đã mất đi ít nhất 8 giống vật nuôi nổi tiếng như lợn Ỉ mỡ, lợn Phú Khánh, lợn Thuộc Nhiêu, gà Sơn Vi .v.v. Cùng với sự mở cửa với thế giới bên ngoài, các giống ngoại được nhập ồ ạt. Phong trào đổi mới giống chăn nuôi được nhân rộng cũng là mối đe dọa đến nguồn gen bản địa. Trong khi đó, các địa phương
  43. 37 lại không đủ sức để phát hiện, giữ lại các giống, quần thể vật nuôi tiềm ẩn. Lê Xuân Cương (1986) [2] cho thấy, lợn nái chậm sinh sản do nhiều nguyên nhân, trong đó tổn thương bệnh lý sinh dục chiếm tỷ lệ đáng kể. Đặc biệt các lợn nái đẻ khó cần áp dụng các thủ thuật ngoại khoa thì niêm mạc đường sinh dục rất dễ bị tổn thương và dẫn tới viêm tử cung. Theo Trần Minh Châu (1996) [3], điều trị bệnh bằng oxytocin và kháng sinh ampicillin 25mg/ 1kg TT/ ngày hoặc tetracyclin - 50mg/ kg/ ngày cho kết quả điều trị tốt. Theo Trương Lăng (2000) [8], dùng phác đồ điều trị sau: + Tiêm bắp: Penicillin: 2.000.000 UI/ lợn nái. Kanamycin: 2g/ lợn nái. + Liều dùng: Liên tục từ 3 - 4 ngày (bệnh cấp tính), 6 - 8 ngày (bệnh mãn tính). Theo Phạm Sỹ Lăng và cs (2002) [9], dùng phác đồ điều trị: + Tiêm bắp streptomycin: Dùng 15 - 20 mg/ kgTT. Dùng liên tục từ 3 - 5 ngày (bệnh cấp tính), dùng 6 - 8 ngày (bệnh mãn tính). + Penicillin dùng 20.000 UI/ kg TT, dùng kết hợp với streptomycin trong thời gian điều trị. Nguyễn Như Pho (2002) [17], đã dùng kháng sinh streptomycin phối hợp với penicillin, chloramphenicol tiêm một lần ngay trước khi đẻ, hoặc tetracycline cho ăn liên tục 3 ngày trước khi đẻ hoặc đặt viên kháng sinh vào tử cung trong 3 ngày sau khi đẻ đã cho biết kết quả tốt trong việc phòng ngừa hội chứng MMA. Theo Nguyễn Đức Lưu, Nguyễn Hữu Vũ (2004) [10], dùng oxytocin 20 - 40 UI/ con/ ngày. Để dạ con co bóp, tống thải các chất ứ bẩn, dịch viêm ra ngoài. Thụt rửa âm đạo băng Han - Iodine 5%: 75ml pha với 4 lít nước sôi để nguội, dùng kháng sinh tiêm liên tục trong 3 - 5 ngày. + Gennorfcoli: 1 - 5 ml/ 10 kgTT + Gentamycin 4%: 1 ml/ 6 kgTT + Lincomycin 10%: 1 ml/ 10 kgTT
  44. 38 + Dùng các thuốc bổ trợ, trợ sức, kết hợp với kháng sinh: Vitamin A, D, E; Multivit - gorte, B.complex Nguyễn Quang Linh (2005) [11] cho rằng bệnh viêm vú thường xảy ra sau khi đẻ 4 - 5 giờ cho đến 7 - 10 ngày, có trường hợp đến một tháng. Chu Thị Thơm và cs (2005) [23] đã nghiên cứu chữa bệnh viêm vú, sưng vú, tắc tia sữa bằng: Bồ công anh 50g rửa sạch, giã nát cho thêm ít muối, ít nước, chắt lấy nước cho uống, phần bã đắp phần vú bị sưng. 2.3.2. Tình hình nghiên cứu ngoài nước Trong chăn nuôi lợn nái thậm chí cả nuôi lợn thịt, năng suất chăn nuôi phụ thuộc phần lớn vào khả năng sinh sản, trong đó hai yếu tố chính là số con trên một lứa đẻ và số lứa đẻ của một nái trên một năm. Do vậy ưu tiên hàng đầu và liên tục trong chăn nuôi lợn sinh sản là tạo ra nhiều lợn con sinh ra và sống sót sau cai sữa và đồng thời giảm chi phí trong sản xuất nhất là do không thụ thai. Mục tiêu trên, đòi hỏi sự làm việc cường độ cao ở lợn nái và nhất là cơ quan sinh sản. Do vậy các cơ quan sinh sản đóng vai trò quan trọng trong chăn nuôi, quyết định đến năng suất chăn nuôi. Những bất thường trong cơ quan sinh sản làm năng suất chăn nuôi lợn nái bị ảnh hưởng. Theo Arut Kid Cha-orapin (2006) [30] tại Thái Lan hội chứng MMA là một vấn đề lớn ở các trang trại chăn nuôi lợn, đặc biệt vào mùa hè (giữa tháng 3 và tháng 5), ảnh hưởng lớn đến năng suất sinh sản của lợn nái. Biện pháp tốt nhất để phòng bệnh là quản lý tốt đàn nái, đặc biệt là trước khi đẻ. Cụ thể như sau: - Thức ăn cho lợn nái chờ đẻ không vượt quá 18% protein; chất xơ > 4,5%; cung cấp nước uống đầy đủ. - Tránh gây stress cho nái sau đẻ: không chuyển nái sang chuồng đẻ trong thời tiết nóng, những ngày nắng nóng tốt nhất di chuyển trước 07 giờ sáng; thời gian nuôi thích nghi tại chuồng đẻ thích hợp nhất là 05 ngày; giữ cho lợn nái yên tĩnh. Vệ sinh chuồng đẻ bằng các thuốc sát trùng, để trống chuồng ít nhất 01 tuần, sau khi vệ sinh mới chuyển lợn vào.
  45. 39 Dùng thuốc điều trị ký sinh trùng; thuốc điều trị E. coli: tiêm enrofloxacin; thuốc điều trị Streptoccocus spp: tiêm amoxicillin 01 ngày trước đẻ. Bổ sung các vitamin A, D, E, K và khoáng chất để tăng khả năng miễn dịch cho lợn. Kemper and Gerjets (2009) [26] cho thấy, để chẩn đoán sớm hội chứng MMA, người ta thường dựa vào một số triệu chứng lâm sàng: (1) thân nhiệt lợn nái sau đẻ 12 - 48 giờ (nếu > 39,40C thì điều trị dự phòng), sự thay đổi hình dạng tuyến vú, giảm tiết sữa (hoặc mất sữa hoàn toàn), giảm tính thèm ăn (ăn ít hoặc bỏ ăn hoàn toàn), lượng tế bào soma trong sữa >107/ml, pH sữa > 6,7; tăng hàm lượng các interleukin trong máu (tăng lượng IL-1P, IL-6, IL-8 và TNFa. (2) Các yếu tố ảnh hưởng đến hội chứng MMA: thời gian mang thai dài (> 116 ngày), thời gian đẻ dài (> 3 giờ), can thiệp bằng dụng cụ sản khoa khi đẻ, nhiều con (> 11con/ổ) nhiễm trùng đường sinh dục, táo bón, sự tăng đàn, chuyển đàn, trong đàn có nhiều nái mới, ảnh hưởng của mùa vụ, thiếu protein thô trong khẩu phần ăn, thay đổi thức ăn đột ngột, lợn nái thiếu vận động Đối với việc khai thác nguồn gen vật nuôi: Ở một số nước đang phát triển, đối lập với sự đói nghèo là sự giàu có trong tài nguyên thiên nhiên và động vật nông nghiệp. Do sự hạn chế trong giao lưu, mỗi cộng đồng dân cư ở mỗi nơi có một nguồn giống, họ tự trao đổi, không giao lưu với thế giới bên ngoài. Các giống lợn bản địa của các nước này có những đặc điểm như thích nghi với điều kiện tự nhiên, xã hội địa phương, chống đỡ bệnh tật tốt, khả năng tận dụng thức ăn có nguồn gốc bản địa cao, kể cả các phế phụ phẩm mà các vật nuôi ‘‘công nghiệp hóa cao’’ không thể dùng tới được. Bên cạnh đó, một số giống có số con đẻ/lứa cao, tính nuôi con khéo
  46. 40 PHẦN 3 ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 3.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đàn lợn nái sinh sản và đàn lợn nuôi thương phẩm của lợn Lang Đông Khê. 3.2. Địa điểm và thời gian tiến hành - Địa điểm thực tập: Xã Trọng Con, Xã Đức Thông – Thị Trấn Đông Khê – Huyện Thạch An – Tỉnh Cao Bằng. - Thời gian tiến hành: Từ ngày 18/05/2018 đến ngày 18/11/2018. 3.3. Nội dung thực hiện và các chỉ tiêu theo dõi 3.3.1. Nội dung - Theo dõi một số đặc điểm sinh học của lợn Lang Đông Khê, huyện Thạch An, tỉnh Cao Bằng. - Đánh giá khả năng sinh trưởng và của lợn Lang Đông Khê. - Theo dõi một số chỉ tiêu về sinh sản lợn nái lợn Lang Đông Khê. 3.3.2. Các chỉ tiêu theo dõi * Theo dõi đặc điểm sinh học của lợn Lang : - Mô tả đặc điểm ngoại hình lợn Lang Đông khê * Chỉ tiêu theo dõi khả năng sinh trưởng của lợn Lang: - Sinh trưởng tích lũy. - Sinh trưởng tuyệt đối. * Theo dõi chỉ tiêu của đàn lợn nái lợn Lang Đông Khê sinh sản: - Các chỉ tiêu về số lượng lợn con của các lợn nái thực hiện. - Các chỉ tiêu về chất lượng đàn con của các lợn nái thực hiện. - Số lợn con của một đàn mới sinh, số lượng sống tới cai sữa. - Chỉ tiêu chất lượng sức khỏe, cân nặng, dinh dưỡng, khi lợn con theo mẹ.
  47. 41 3.4. Phương pháp theo dõi và xác định các chỉ tiêu 3.4.1. Phương pháp theo dõi về đặc điểm sinh học ở lợn Lang Đông Khê -Đánh giá đặc điểm ngoại hình: Thông qua quan sát trực tiếp quan sát màu lông, đầu, chân và chụp ảnh minh họa của lợn Lang Đông Khê. -Theo dõi một số chỉ tiêu sinh lý của lợn thí nghiệm: Theo dõi tần số hô hấp,mạch đập và kiểm tra thân nhiệt, dùng nhiệt kế đo nhiệt độ bắt mạch thủ công đàn lợn thí nghiệm. 3.4.2. Phương pháp theo dõi về khả năng sinh trưởng ở lợn Lang Đông Khê + Sinh trưởng tích lũy: Là khối lượng, kích thước, thể tích của vật nuôi tích lũy được trong một đơn vị thời gian. Cân khối lượng lợn tại thời điểm kiểm tra. Cân cùng một chiếc cân và một người cân, cân vào buổi sáng, trước lúc cho ăn. + Sinh trưởng tuyệt đối (g/con/ngày): Là sự tăng khối lượng hàng ngày của lợn thí nghiệm, được tính theo công thức: W1 – W0 A = t1 - t0 + Sinh trưởng tương đối (%): Là tỷ lệ khối lượng cơ thể tăng lên trong khoảng thời gian 2 lần cân khảo sát, được xác định theo công thức: W1- W0 R(%) = x 100 W1 + W0 2 Trong đó: A: Độ sinh trưởng tuyệt đối (g/con/ngày) R(%): Sinh trưởng tương đối t0: Thời điểm bắt đầu theo dõi t1: Thời điểm lúc kết thúc theo dõi W0: Khối lượng ban đầu lúc theo dõi W1: Khối lượng lúc kết thúc theo dõi * Đánh giá một số chiều đo của lợn thí nghiệm - Tiến hành đo kích thước các chiều: Dài thân, vòng ống Dùng thước dây đo, compa, panmel.
  48. 42 - Dài thân: sử dụng thước dây đo từ đốt xương sống cổ cuối cùng tới đốt xương đuôi. - Vòng ngực: Dùng thước dây đo vòng quanh ngực sau phía gốc nách. - Rộng mông: sử dụng thước compa đo từ khớp khuỷu đến khớp đến khớp đùi gắn vào xương chậu. - Cao khum: dùng thước compa đo từ mặt đất đến xương khum. 3.4.3. Phương pháp theo dõi về sinh sản ở lợn Lang Đông Khê - Kiểm tra số lượng đàn con bằng cách đếm tất cả các con sinh ra ở ổ đó, 21 ngày tuổi, cai sữa. - Cân lợn con ở các thời điểm sơ sinh, 21 ngày tuổi, cai sữa (cân vào buổi sáng, trước khi ăn, dùng 1 loại cân, 1 người cân). Số lợn còn sống đến cai sữa Tỷ lệ nuôi sống đến cai sữa (%) = Số lợn con sơ sinh x 100 Tổng khối lượng từng con sơ sinh Khối lượng trung bình lợn con (g) = Số lợn con sơ sinh (con) Tổng khối lượng từng con cai sữa Số lợn con cai sữa (con) Khối lượng trung bình lợn con cai sữa (g) = 3.5. Phương pháp xử lý số liệu Chúng tôi tiến hành xử lý số liệu thu được theo phương pháp thống kê sinh vật học của Nguyễn Văn Thiện (2000); phần mềm Excel 2007 và minitab 16 để tính toán và sử lý số liệu.
  49. 43 PHẦN 4 KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 4.1. Công tác phục vụ sản xuất Quá trình thực tập tốt nghiệp tại huyện Thạch An, tỉnh Cao Bằng. em đã thu thập số liệu về tình hình chăn nuôi của dự án từ năm 2017 đến 2018 qua số liệu trực tiếp tại thời điểm thực tập. kết quả thực hiện công tác chăm sóc,nuôi dưỡng và quản lý đàn lợn được trình bày qua bảng 4.1. Bảng 4.1. Kết quả công tác phục vụ sản xuất Kết quả (an toàn Tỷ lệ STT Nội dung công việc Số lượng hoặc khỏi) (%) Tiêm phòng An toàn Tiêm sắt 126 126 100 Cầu trùng (cho uống) 126 126 100 1 Dịch tả 126 126 100 Tụ huyết trùng 126 126 100 Đóng dấu 126 126 100 Sưng phù đầu 126 126 100 Điều trị Khỏi bệnh 2 Bệnh phân trắng lợn con 31 31 100 Bệnh tiêu chảy lợn con 33 33 100 Công tác khác 3 Bệnh viêm vú 3 3 100 Khó đẻ 2 2 100 Qua bảng 4.1 cho thấy lợn lang Đông Khê có sức chống chịu bệnh tật rất tốt, nhưng vì để đảm bảo an toàn đàn lợn thí nghiệm, chúng tôi đã tiêm phòng bệnh thì 100% đều an toàn tuyệt đối và đảm bảo an toàn dịch bệnh. 4.2. Kết quả nghiên cứu 4.2.1. Kết quả theo dõi đặc điểm sinh học của lợn Lang
  50. 44 Trong quá trình thực tập, theo dõi trực tiếp đặc điểm sinh học của lợn Lang được thể hiện ở bảng 4.2. Bảng 4.2. Kết quả theo dõi đặc điểm ngoại hình về một số bộ phận của lợn Lang Các bộ STT Lợn đực Lợn cái phận 1 Đầu Nhỏ, ngắn Đầu to vừa phải 2 Mắt Mắt tinh nhanh Mắt tinh nhanh 3 Tai Tai hình lá trầu và vểnh Tai hình lá trầu và vểnh 4 Mũi Mũi bé và dài Mũi bé và dài 5 Thân Thân ngắn Thân ngắn 6 Bụng Bụng thon gọn Bụng tương đối to 7 Chân Chân nhỏ dài, đi móng Chân nhỏ, ngắn đi móng Lông thưa và thô, màu lông lang đen Lông thưa và thô, màu lông trắng, đặc trưng có vết trắng kéo dài từ lang đen trắng, đặc trưng có 8 Lông trán xuống mũi, lông dài cứng hơn hơn vết trắng kéo dài từ trán ở lợn cái xuống mũi 9 Da Da có màu đen và trắng Da có màu đen và trắng 10 Tính tình Không hung dữ Không hung dữ Kết quả bảng 4.2 cho thấy kết cấu ngoại hình của lợn Lang khá chắc chắn, phù hợp với điều kiện chăn thả khu vực miền núi. Lợn Lang Đông Khê hầu hết có đầu nhỏ và ngắn, tai hình lá trầu và vểnh thẳng lên trên, có mõm dài và nhỏ, chân nhỏ và ngắn. Lông da đầu và tai có màu đen, trán có vệt trắng dài từ trán xuống đến mõm, da ở bụng và chân có màu trắng, lưng ngắn và võng, bụng to, võng và xệ nên hai hàng vú thường xuyên quét đất. Lông ngắn và thưa, mõn ươn ướt, mắt tinh nhanh, đuôi phe phẩy lợn có chửa bầu vú quét đất, núm vú chìa ra, mông rộng và thẳng, gốc đuôi to và cao, chân ngắn bụng xệ nên trông thấp.
  51. 45 4.2.2. Kết quả theo dõi đặc điểm sinh trưởng của lợn Lang *Sinh trưởng tích lũy của lợn thí nghiệm Khối lượng của lợn thí nghiệm ở giai đoạn bắt đầu thí nghiệm (lúc 2 tháng tuổi) đều được bố trí tương đương nhau (4,06; 4,03 và 4,02 kg/con). Kết quả theo dõi về sinh trưởng tích luỹ của lợn thí nghiệm được trình bày trên bảng 4.3. Bảng 4.3 cho thấy khả năng sinh trưởng của lợn Lang Đông Khê ở 3 lứa thí nghiệm nuôi dưỡng trong cùng điều kiện tuân theo quy luật chung và sinh trưởng khá tốt. Điều kiện chăn nuôi nông hộ, môi trường tự nhiên để lợn vận động phù hợp với tập tính sinh học của chúng. Bảng 4.3. Kết quả khối lượng của lợn thí nghiệm qua các kỳ cân (kg) Lứa 1 Lứa 2 Lứa 3 Diễn giải STT Cv Cv Cv (Tháng) X m X m m (%) (%) (%) 1. P bắt đầu TN 4,06 ± 0,16 12,13 4,03 ± 0,10 7,43 4,02±0,10 7,43 2. Tháng nuôi 1 9,30 ± 0,26 8,48 8,77 ± 0,71 24,30 7,75±0,41 16,02 3. Tháng nuôi 2 14,95 ± 0,61 12,26 14,02± 1,10 23,48 13,25±0,77 17,38 4. Tháng nuôi 3 20,54 ± 1,20 13,62 19,34±1,54 23,96 18,96±0,69 10,98 5. Tháng nuôi 4 26,45 ± 1,35 12,37 24,73±0,56 18,94 24,78±0,65 7,83 6. Tháng nuôi 5 32,75 ± 1,02 7,82 30,70±0,56 5,44 30,80±0,64 6,26 7. Tháng nuôi 6 39,19 ± 0,69 4,51 36,73±0,58 4,74 37,09±0,68 5,51 8. Tháng nuôi 7 45,65 ± 0,49 4,51 44,14±1,04 7,04 44,25±0,82 5,55 9. Tháng nuôi 8 52,26 ± 0,49 2,81 51,63±0,91 5,31 51,90±0,90 5,23 Tính chung 48,20b±0,49 3,08 47,60a±0,94 5,94 47,88a±0,87 5,47 So sánh (%) 100 98,75 99,34 a, b Trên hàng ngang, các chữ số mang các chữ cái giống nhau thì khác nhau không có ý nghĩa thống kê (P > 0,05) Kết quả sinh trưởng tích luỹ của lợn thí nghiệm ở Bảng 4.3 cho thấy: cả 3 lô thí nghiệm đều tuân theo quy luật sinh trưởng chung của gia súc là tăng dần theo tuổi. Cụ thể là: khối lượng trung bình của lợn lúc bắt đầu thí nghiệm (2 tháng tuổi) đến khi kết thúc thí nghiệm của cả ba lô thí nghiệm có sự chênh lệch nhau không
  52. 46 đáng kể nhưng không có ý nghĩa thống kê với P > 0,05. Cụ thể khối lượng lợn của lô 1, 2, 3 lần lượt là 4,06; 4,03 và 4,02 kg. Điều này chứng minh rằng việc bố trí lợn thí nghiệm ở cả ba lô đảm bảo được yếu tố đồng đều về khối lượng. Đây chính là cơ sở ban đầu để đánh giá chính xác hơn về sinh trưởng của lợn thí nghiệm ở ba mức protein khác nhau. Kết quả theo dõi về sinh trưởng bảng 4.3 cũng cho thấy, đối với lợn được nuôi bằng cùng khẩu phần thì sinh trưởng tích luỹ của lợn con có chiều hướng tăng theo mức độ tăng và ổn định ở lứa thứ 3. Trung bình khối lượng lợn cả 3 lứa thí nghiệm ở các lô 1; 2 và lô 3 lần lượt là 48,20; 47,60 và 47,88 kg/con. Nếu coi khối lượng của lợn ở lô 1 là 100 % thì khối lượng lợn ở lô 2 là 1,25 % và lô 3 là 0,66 %. Như vậy, lợn Lang Đông Khê 3 lứa thì tăng khối lượng bình quân là khác nhau, ở lứa 3 khối lượng ổn định nhất, có thấp hơn lứa 1 nhưng cao hơn lứa 2. Tuy nhiên sự sai khác về khối lượng giữa lô 1 với lô 2, 3 có ý nghĩa thống kê (P<0,05). *Sinh trưởng tuyệt đối của lợn thí nghiệm Kết quả theo dõi về sinh trưởng tuyệt đối của lợn con thí nghiệm được trình bày qua bảng 4.4.
  53. 47 Bảng 4.4. Kết quả về sinh trưởng tuyệt đối của lợn thí nghiệm (g/con/ngày) Giai đoạn TN Lứa 1 Lứa 2 Lứa 3 STT (KL tháng nuôi) ( X m X ) ( m ) ( m ) 1. Bắt đầu TN – 1 174,67 a± 7,54 157,97b ± 21,38 124,40c ± 12,87 2. Tháng 1 – 2 188,33 ± 14,36 175,07 ± 27,35 183,33 ± 23,01 3. Tháng 2 - 3 186,33 ± 31,78 177,13 ± 33,97 190,30 ± 10,24 4. Tháng 3 - 4 196,83 ± 19,71 179,82 ± 37,98 194,27 ± 14,78 5. Tháng 4 - 5 210,17 ± 23,87 198,98 ± 46,60 200,42 ± 21,35 6. Tháng 5 - 6 214,67 ± 27,24 201,00 ± 15,95 209,67 ± 21,30 7. Tháng 6 - 7 215,33 ± 34,57 247,00 ± 31,96 238,77 ± 21,92 8. Tháng 7 - 8 220,33 ± 22,16 249,67 ± 58,95 254,83 ± 40,71 Tính chung 195,17b ± 6,08 181,66a ± 3,34 183,73a ± 3,66 So sánh (%) 100 93,08 94,14 Số liệu ở bảng 4.4 cho thấy: sinh trưởng tuyệt đối của cả 3 lô thí nghiệm ở các lô có diễn biến theo chiều hướng tăng dần khác nhau qua từng giai đoạn tuổi thí nghiệm, tuân theo quy luật sinh trưởng. Ở lô 1 tốc độ sinh trưởng cao nhất và tăng đều ở các giai đoạn tuổi; lô 2 sinh trưởng tuyệt đối thấp nhất, nhưng tốc độ sinh trưởng 2 tháng cuối tăng vượt bậc so với lô 1; ở lô 3 khả năng tăng trọng tương đối đều ở các giai đoạn tuổi nhưng cũng tăng nhanh ở 2 tháng cuối thí nghiệm, nhưng sự sai khác nhau sinh trưởng tuyệt giữa 3 lô là khá rõ rệt với P<0,05. Điều này, chứng tỏ rằng điều kiện các hộ chăn nuôi, chăm sóc và tiểu khí hậu ở chuồng nuôi là khác nhau. Kết quả thí nghiệm cho thấy lợn thí nghiệm tăng khối lượng bình quân cả 8 tháng nuôi lô 1, 2 và 3 lần lượt là 195,17 g/con/ngày; 181,66 g/con/ngày và 183,73
  54. 48 g/con/ngày. Vì vậy, khi đánh giá về sinh trưởng tuyệt đối của lợn thí nghiệm chúng tôi nhận thấy lô 1 luôn có xu hướng cao hơn lô 2, lô 3, điều đó đã phản ánh lô 2 sinh trưởng tuyệt đối giảm đi 6,92% và lô 3 giảm đi 5,86%. Sự chênh lệch về sinh trưởng tuyệt đối các lô 1 so với lô 2 và 3 khá lớn và chênh lệch giữa các giai đoạn với nhau. Chúng tôi cũng thấy rằng, sự chênh lệch này có thể do ảnh hưởng điều kiện tiểu khí hậu, thời tiết, tình trạng bệnh tật, chất lượng khẩu phần ăn của từng hộ chăn nuôi có khác nhau. Đặc biệt bệnh đường hô hấp có lây lan nhanh trong các lô đã làm ảnh hưởng đến khả năng sinh trưởng của lợn thí nghiệm. Thí nghiệm chúng tôi nhận thấy rằng, lô 3 hay lứa 3 khả năng sinh trưởng đáng tin cậy, ổn định và tốc độ tăng khối lượng ở lợn Lang Đông Khê khá tốt. Điều này người chăn nuôi thường chọn lợn giống ở từ lứa thứ 3 trở đi. 4.2.2. Kết quả theo dõi đặc điểm sinh sản của lợn nái Lang Đông Khê Kết quả theo dõi một số đặc điểm sinh sản của lợn nái Lang Đông Khê được trình bày ở bảng 4.5. Bảng 4.5. Kết quả theo dõi về chỉ tiêu đánh giá khả năng sinh sản của lợn Lang Đông Khê TT Chỉ tiêu theo dõi Đơn vị tính n TB ± SE 1 Tuổi động dục lần đầu Ngày 20 148,55 ± 2,35 2 Khối lượng cơ thể khi động dục lần đầu Kg 20 19,57 ± 0,45 3 Thời gian động dục Ngày 20 4,96 ± 0,13 4 Chu kỳ động dục Ngày 20 21,07 ± 0,41 5 Thời gian mang thai Ngày 20 113,94 ± 0,29 6 Thời gian động dục lại sau cai sữa Ngày 20 18,73 ± 0,39 7 Tuổi đực giống đưa vào phối giống lần đầu Ngày 5 225 ± 0,65 8 Khối lượng lợn đực đem phối giống lần đầu Kg 5 15,50 ± 1,25 Kết quả qua bảng 4.5 cho thấy một số đặc điểm sinh sản của lợn nái Lang Đông Khê động dục lần đầu ở giai đoạn 148,55 ngày tuổi. Khối lượng cơ thể khi động dục lần đầu là 19,57 kg. So với một số giống lợn khác, lợn nái Lang Đông Khê khi động dục thường biểu hiện rõ ràng và yên tĩnh hơn: ít kêu, âm hộ ít đỏ và sưng
  55. 49 lên nhưng chỉ có ướt nước, không có nước nhờn chảy ra nhiều. Thời gian cai sữa của lợn nái Lang Đông Khê nuôi tại nông hộ khá dài (45- 60 ngày) dẫn đến lợn mẹ quá gầy sau khi cai sữa cho lợn con. Mặt khác, khẩu phần ăn của lợn Lang Đông Khê được thiết lập giống với cách nuôi của người dân địa phương nên có tỉ lệ protein thấp, do đó ảnh hưởng đến một số đặc điểm sinh lý sinh sản của lợn nái, đặc biệt là thời gian động dục lại sau cai sữa kéo dài hơn so với một số lợn bản địa khác (lợn Móng Cái và lợn Lang). Bảng 4.6. Kết quả đánh giá khả năng sinh sản theo lứa của lợn Lang Đông Khê Đơn Các chỉ tiêu Lứa 1 Lứa 2 Lứa 3 Trung bình TT vị theo dõi (n=6) (n=6) (n=6) 3 lứa tính Số con sơ 1 Con 6,98a±0,07 7,79b±0,37 8,55c ± 0,13 7,77 ± 0,59 sinh/ổ Số con còn 2 sống sau 24 Con 6,54a±0,07 7,63b± 0,47 8,32c ± 0,12 7,50 ± 0,55 giờ/ổ Số con cai 3 Con 6,54a±0,07 7,63b± 0,47 8,32c ± 0,12 7,49 ± 0,53 sữa/ổ Khối lượng sơ 4 gam 504,43a±12,65 514,28a±9,90 505,56a±9,54 508,09±9,16 sinh/con Khối lượng sơ 5 Kg 3,53a±0,18 4,00b ± 0,15 4,36c ± 0,32 3,96 ± 0,22 sinh/ổ Thời gian cai 6 Ngày 60,13a±0,22 60,00ab±0,25 59,07b±0,56 59,73± 0,32 sữa Khối lượng 7 Kg 3,76a±0,11 3,94a ± 0,09 3,98a ± 0,17 3,89 ± 0,44 cai sữa/con Khối lượng 8 Kg 24,59a±1,40 30,06b±1,62 33,11c±1,23 29,25± 2,12 cai sữa/ổ (Các giá trị trung bình trong cùng một hàng có ít nhất một chữ cái ở phần chỉ số trên (abc) giống nhau thì sự sai khác không có ý nghĩa thống kê với p >0,05) Qua bảng 4.6 cho thấy một số tính trạng sinh sản của 18 con lợn nái Lang Đông Khê theo dõi qua 3 lứa đẻ được thể hiện ở bảng 4.6. Sự sai khác của 2 tính trạng khối lượng sơ sinh/con và khối lượng cai sữa/con giữa 3 lứa đẻ là không có ý
  56. 50 nghĩa thống kê (P > 0,05). Ngược lại, các tính trạng sinh sản khác như số con sơ sinh/ổ, số con còn sống sau 24 giờ/ổ, số con cai sữa/ổ, trọng lượng sơ sinh/ổ và trọng lượng cai sữa/ổ tăng dần từ lứa 1 đến lứa 3 và sự sai khác này là có ý nghĩa thống kê (P < 0,05). Bảng 4.7. Tình hình đẻ của đàn lợn nái (n=18) Loại lợn nái Chỉ tiêu Lứa 1 Lứa 2 Lứa 3 Đẻ bình thường 5 5 5 Đẻ khó can thiệp bằng kích tố 1 0 0 Đẻ khó can thiệp bằng tay 0 1 1 Chúng tôi theo dõi các mô hình chăn Lợn Lang Đông Khê quy mô gồm 18 lợn nái sinh sản thì theo dõi trong thời gian thực tập. Kết quả bảng 4.5 thấy rằng hầu hết lợn nái đẻ thường chiếm đến 70%, còn lại phải can thiệp 30%. Điều này cho thấy lợn Lang Đông Khê phù hợp với phương thức chăn nuôi thả, vận động và chế độ phù hợp nên sinh sản thường dễ dàng. Bảng 4.8. Kết quả mắc bệnh và điều trị bệnh của lợn con theo mẹ Số lợn mắc bệnh Chỉ tiêu ĐVT Lứa 1 Lứa 2 Lứa 3 Số con mắc bệnh phân trắng lợn con Con 10 9 12 Tỷ lệ khỏi bệnh % 100 100 100 Số con mắc hô hấp Con 5 5 6 Tỷ lệ khỏi bệnh % 100 100 100 Số con mắc bệnh tiêu chảy Con 11 12 10 Tỷ lệ khỏi bệnh % 100 100 100 Qua bảng 4.8 cho thấy số lợn con đẻ ra ở lợn Lang Đông Khê các lứa đều mắc bệnh phân trắng lợn con; bệnh hô hấp và bệnh tiêu chảy. Tuy nhiên các bệnh này đều được điều trị kịp thời và khỏi 100%. Điều này chứng tỏ khả năng chịu thích nghi, it bệnh tật của lợn con rất cao, với điều kiện chăn nuôi nông hộ miền núi. Kết quả này phù hợp với nghiên cứu trước đây về một số giống lợn địa phương khác
  57. 51 PHẦN 5 KẾT LUẬN, TỒN TẠI VÀ ĐỀ NGHỊ 5.1. Kết luận 1. Đặc điểm sinh học của lợn Lang Đông Khê về đặc điểm ngoại hình có màu lông lang trắng đen nhưng không đồng nhất, nhưng đặc điểm chung nhất là giống lợn này có vệt trắng kéo dài từ trán xuống đến mõm (100%), chân và bụng màu trắng, đầu nhỏ, mõm dài, lưng ngắn hơi võng, chân nhỏ đi móng. 2. Khối lượng lợn thí nghiệm trung bình khi bắt đầu thí nghiệm ở lứa 1, 2 và 3 là 4,06; 4,03 và 4,02 kg/con tương ứng khi kết thúc thí nghiệm ở 8 tháng nuôi đạt lần lượt tương ứng là 48,20; 47,60 và 47,88 kg/con. Đồng thời khi đánh giá về sinh trưởng tuyệt đối của lợn thí nghiệm, thấy rằng lô 1 luôn có xu hướng cao hơn lô 2, lô 3, điều đó đã phản ánh lô 2 sinh trưởng tuyệt đối giảm đi 6,92% và lô 3 giảm đi 5,86%. 3. Khả năng sinh sản lợn nái Lang Đông Khê rất tốt phù hợp với điều kiện nông hộ miền núi. Số con sơ sinh / ổ bình quân là 7,77 con; Khối lượng con sơ sinh là 508,09 gam; thời gian cai sữa là 59,73 ngày; 5.2. Tồn tại Do thời gian thực tập có hạn, số lượng lợn theo dõi và điều trị chưa được nhiều, phạm vi theo dõi chưa rộng nên trong quá trình thực hiện đề tài còn nhiều hạn chế. Do mới làm quen với công tác nghiên cứu khoa học nên trong quá trình thực hiện đề tài còn nhiều hạn chế. 5.3. Đề nghị Cần thực hiện tốt công tác vệ sinh chuồng trại theo quy trình vệ sinh thú y. Phát hiện kịp thời lợn nái mắc bệnh viêm tử cung và điều trị tích cực, hạn chế tổn thất trong chăn nuôi. Đề nghị nâng cao hơn nữa các quy trình vệ sinh chăm sóc, nuôi dưỡng cho đàn lợn con để hạn chế khả năng mắc các bệnh, đặc biệt là bệnh phân trắng lợn con.
  58. 52 TÀI LIỆU THAM KHẢO I. Tài liệu tiếng Việt 1. Nguyễn Xuân Bình (2000), Kinh nghiệm chăn nuôi lợn thịt, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 2. Lê Xuân Cương (1986), Năng suất sinh sản của lợn nái, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội 3. Trần Minh Châu (1996), Một trăm câu hỏi về bệnh trong chăn nuôi gia súc, gia cầm, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 4. Trần Thị Dân (2004), “Sinh sản heo nái và sinh lý heo con”, Nxb Nông nghiệp TPHCM. 5. Phạm Tiến Dân (1998), Khảo sát tỷ lệ mắc bệnh viêm vú đàn lợn nái nuôi tại Hưng Yên, Luận văn thạc sĩ chăn nuôi, Đại học Nông nghiệp Hà Nội. 6. Trần Thị Hạnh, Đặng Xuân Bình, Lưu Quỳnh Hương (2004), “Xác định vai trò của vi khuẩn E. coli và Cl. perfringen trong bệnh tiêu chảy ở lợn con giai đoạn theo mẹ và chế tạo chế phẩm sinh học”, Viện Thú y 35 năm xây dựng và phát triển (1969 – 2004), Nxb Nông nghiệp Hà Nội 7. Nguyễn Đức Hùng, Nguyễn Mạnh Hà, Trần Huê Viên, Phan Văn Kiểm (2003), Giáo trình Truyền giống nhân tạo vật nuôi, Nxb. Nông nghiệp, Hà Nội. 8. Trương Lăng (2000), Hướng dẫn điều trị các bệnh ở lợn, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, Tr. 77 - 91. 9. Phạm Sỹ Lăng, Phạm Địch Lân, Trương Văn Dung (2002), Bệnh phổ biến ở lợn và biện pháp phòng trị, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 10. Nguyễn Đức Lưu, Nguyễn Hữu Vũ (2004), Một số bệnh quan trọng ở lợn, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.
  59. 53 11. Nguyễn Quang Linh (2005), Giáo trình Chăn nuôi lợn, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội 12. Lê Hồng Mận (2002), Chăn nuôi lợn nái sinh sản nông hộ, Nxb Nông nghiệp Hà Nội, 2002. 13. Nguyễn Thị Thúy Mỵ, Trần Thanh Vân (2014), Bài giảng chăn nuôi chuyên khoa, trường Đại học Nông lâm Thái Nguyên. 14. Nguyễn Hữu Ninh, Bạch Đăng Phong (2000), Bệnh sản khoa gia súc, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, Tr. 25 15. Nguyễn Hữu Ninh, Bạch Đăng Phong (1994), Bệnh sinh sản gia súc, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 16. Trần Văn Phùng, Từ Quang Hiển, Trần Thanh Vân, Hà Thị Hảo (2004), giáo trình chăn nuôi lợn, Nxb Nông nghiệp Hà Nội. 17. Nguyễn Như Pho (2002), “Ảnh hưởng của việc tăng cường điều kiện vệ sinh đến hội chứng MMA và năng suất sinh sản của heo nái”, Tạp chí khoa học kỹ thuật Thú y, số 4. 18. Hoàng Toàn Thắng (2006), Giáo trình sinh lý bệnh, Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên. 19. Nguyễn Thiện, Nguyễn Tấn Anh (1993), Thụ tinh nhân tạo cho lợn ở Việt Nam, Nxb Nông nghiệp Hà Nội. 20. Phạm Ngọc Thạch (2006), “Bệnh nội khoa gia súc”, Nxb Nông Nghiệp, Hà Nội. 21. Nguyễn Quang Tuyên (1993), Xác định các yếu tố gây bệnh của vi khuẩn E.coli gây bệnh tiêu chảy cho lợn con,Tạp chí Khoa học Kỹ thuật. 22. Lê Văn Tạo (2007), Một số bệnh truyền nhiễm thường gặp ở lợn, Nxb Lao Động – Xã Hội, tr.56 – 57. 23. Chu Thị Thơm, Phan Thị Lài, Nguyễn Văn Tô (2005), Hướng dẫn phòng, trị bằng thuốc nam một số bệnh ở gia súc, Nxb Lao Động, Tr. 120 -121.