Khóa luận Nghiên cứu tri thức bản địa sử dụng cây thuốc tại xã Sàng Ma Sáo, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai

pdf 94 trang thiennha21 19/04/2022 2220
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Nghiên cứu tri thức bản địa sử dụng cây thuốc tại xã Sàng Ma Sáo, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfkhoa_luan_nghien_cuu_tri_thuc_ban_dia_su_dung_cay_thuoc_tai.pdf

Nội dung text: Khóa luận Nghiên cứu tri thức bản địa sử dụng cây thuốc tại xã Sàng Ma Sáo, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai

  1. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM ====== LÒ VĂN NHAN NGHIÊN CỨU TRI THỨC BẢN ĐỊA SỬ DỤNG CÂY THUỐC TẠI XÃ SÀNG MA SÁO, HUYỆN BÁT XÁT, TỈNH LÀO CAI KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Hệ đào tạo : Chính quy Chuyên ngành : Sinh Thái&BTĐDSH Khoa : Lâm Nghiệp Khóa học : 2015-2019 THÁI NGUYÊN - 2019
  2. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM ====== LÒ VĂN NHAN NGHIÊN CỨU TRI THỨC BẢN ĐỊA SỬ DỤNG CÂY THUỐC TẠI XÃ SÀNG MA SÁO, HUYỆN BÁT XÁT, TỈNH LÀO CAI KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Hệ đào tạo : Chính quy Chuyên ngành : Sinh Thái BT&ĐDSH Lớp :K47 – ST& BTĐDSH Khoa : Lâm Nghiệp Khóa học : 2015-2019 Giảng viên hướng dẫn: 1.Th.S. Đào Hồng Thuận 2.TS. Nguyễn Thị Thu Hiền THÁI NGUYÊN - 2019
  3. i LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan các số liệu và kết quả nghiên cứu trình bày trongkhóa luận là kết quả thí nghiệm thực tế của tôi, nếu có sai sót gì tôi xin chịuhoàn toàn trách nhiệm và chịu mọi hình thức kỷ luật của khoa và nhà trường đề ra. Thái Nguyên, tháng 06năm2019 XÁC NHẬNCỦA GVHD Người viết cam đoan Lò Văn Nhan XÁC NHẬN CỦA GV CHẤM PHẢN BIỆN Xác nhận đã sửa chữa sai sót sau khi Hội đồng đánh giá chấm
  4. ii LỜI CẢM ƠN Thực tập tốt nghiệp là một khâu rất quan trọng trong quá trình học tậpcủa mỗi sinh viên, nhằm hệ thống lại toàn bộ kiến thức đã học, vận dụng lý thuyết vào thực tiễn, bước đầu làm quen với nghiên cứu khoa học. Xuất phát từnguyện vọng của bản thân, được sự đồng ý của Ban chủnhiệm Khoa Lâm nghiệp, Ban giám hiệu trường Đại học Nông Lâm TháiNguyên, giáo viên hướng dẫn, tôi thực hiện đề tài:“Nghiên cứu tri thức bản địa sử dụng cây thuốc tại xã Sàng Ma Sáo, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai” Sau một thời gian nghiên cứu và thực tập tốt nghiệp, bản báo cáo thực tập tốt nghiệp của em đã hoàn thành. Vậy em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới các thầy cô giáo trong khoa Lâm Nghiệp, Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên đã giảng dạy và hướng dẫn em. Đặc biệt em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cô giáo TS. Nguyễn Thị Thu Hiền và cô giáo Ths. Đào Hồng Thuận đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ em trong quá trình thực hiện đề tài. Em xin cảm ơn các ban ngành lãnh đạo hạt Kiểm lâm Xã Sàng Ma Sáo và ban lãnh đạo UBND xã Sàng Ma Sáo,huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai cùng người dân trong xã Sàng Ma Sáo - huyện Bát Xát, đã tạo điều kiện giúp đỡ em, cùng với sự nỗ lực, cố gắng của bản thân đã giúp em hoàn thành khóa luận này. Cũng nhân dịp này cho phép em bày tỏ lòng biết ơn chân thành, sâu sắc tới tất cả sự giúp đỡ đó. Do điều kiện và thời gian có hạn, trình độ bản thân còn hạn chế nên khóa luận không tránh khỏi những thiếu sót nhất định.Vì vậy em kính mong nhậnđược sự góp ý của các thầy cô để khóa luận của em được hoàn thiện hơn. Emxin chânthànhcảmơn! TháiNguyên,tháng 06 năm 2019 Sinh viên Lò Văn Nhan
  5. iii DANH MỤC BẢNG Bảng 3.1. Mẫu bảng điều tra nguồn cây thuốc được một số cộng đồng dân tộc thiểu số ở khu vực nghiên cứu 23 Bảng 4.1. Số loài cây thuốc đã phát hiện tại khu vực nghiên cứu 28 Bảng 4.2 Số lượng họ, chi, loài thuộc 2 lớp trong ngành Ngọc Lan 30 Bảng 4.3. Sự phân bố số lượng loài cây thuốc trong các họ 33 Bảng 4.4. So sánh các họ có nhiều loài cây thuốc ở khu vực nghiên cứu (1) Với số loài từng họ trong hệ thực vật Việt Nam (2) 34 Bảng 4.6. Đa dạng về dạng sống của nguồn cây thuốc ở khu vựcnghiên cứu 38 Bảng 4.7. Sự phân bố nguồn cây thuốc theo môi trường sống ởkhu vực nghiên cứu 40 Bảng 4.8. Danh lục cây thuốc thuộc diện cần bảo tồn ghi nhận ở khu vực nghiên cứu 42 Bảng 4.9. Đa dạng của các bộ phận cây thuốc được sử dụng làm thuốc 44 Bảng 4.10. Đa dạng tần số các bộ phận cây được sử dụng làm thuốc 46 Bảng 4.11. Đa dạng về cách chế biến sử dụng cây thuốc 47 Bảng 4.12. Tỷ lệ số loài có công dụng chữa các nhóm bệnh cụ thể 48 Bảng 4.13. Hoạt tính kháng khuẩn của cao chiết từ cây Câu đằngvà củ Gừng đen 53
  6. iv DANH MỤC HÌNH Hình 3.1. Các dụng cụ sử dụng cho nghiên cứu trong đề tài 24 Hình 4.1. Hình ảnh một số cây thuốc khu vực nghiên cứu 32 Hình 4.2. Tỷ lệ các dạng sống của nguồn cây thuốc ở khu vựcnghiên cứu 39 Hình 4.3. Sự phân bố cây thuốc theo môi trường sống của nguồn cây thuốc ở khu vực nghiên cứu 40 Hình 4.4. Hình ảnh hoạt tính kháng khuẩn của cao chiết cây Câu đằngvà củ Gừng đen 54
  7. v MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN i LỜI CẢM ƠN ii DANH MỤC BẢNG iii DANH MỤC HÌNH, BIỂU ĐỒ iv MỤC LỤC v DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT vii PHẦN 1. MỞ ĐẦU 1 1.1. Tính cấp thiết của đề tài 1 1.2. Mục tiêu và yêu cầu của đề tài 2 1.3. Ý nghĩa của đề tài 2 1.3.1. Ý nghĩa về mặt khoa học 2 1.3.2. Ý nghĩa thực tiễn 3 PHẦN 2.TỔNG QUAN VẪN ĐỀ NGHIÊN CỨU 4 2.1. Cơ sở khoa học của vấn đề nghiên cứu 4 2.2. Tình hình nghiên cứu trên thế giới và trong nước 5 2.2.1. Tình hình nghiên cứu và sử dụng cây thuốc trên Thế giới 5 2.2.2. Tổng quan tài liệu nghiên cứu tại Việt nam 10 2.3. Tổng quan khu vực nghiên cứu 17 2.3.1. Điều kiện tự nhiên khu vực nghiên cứu 17 2.3.2. Điều kiện kinh tế - xã hội khu vực nghiên cứu [17] 20 PHẦN3. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁPNGHIÊN CỨU 21 3.1. Đối tượng, phạm vi thời gian và địa điểm nghiên cứu 21 3.2. Nội dung nghiên cứu 21 3.3. Phương pháp nghiên cứu 22 3.3.1. Phương pháp kế thừa 22
  8. vi 3.3.2. Phương pháp điều tra cộng đồng 22 3.3.3. Phương pháp thu mẫu 24 3.3.4. Phương pháp đánh giá tính đa dạng nguồn tài nguyên cây thuốc 25 3.3.5. Phương pháp đánh giá mức độ nguy cấp 25 3.3.6. Phương pháp nghiên cứuhoạt tính kháng khuẩn 25 PHẦN 4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 28 4.1. Đa dạng nguồn tài nguyên cây thuốc tại xã Sàng Ma Sáo, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai. 28 4.1.1. Đa dạng các bậc taxon 28 4.1.2. Đa dạng về dạng sống của thực vậtlàm thuốc 37 4.1.3. Đa dạng về môi trường sống của thực vật làm thuốc 39 4.1.4. Những cây thuốc thuộc diện cần bảo tồn ở Việt Nam đã ghi nhận được tại xã Sàng Ma Sáo. 42 4.2. Đánh giá tình hình sử dụng cây thuốc của cộng đồng dân tộc H’Mông ở khu vực nghiên cứu. 43 4.2.1. Đa dạng về bộ phận sử dụng của cây thuốc 43 4.2.2.Đa dạng về cách chế biến cây thuốc của đồng bào dân tộc H'Mông 46 4.2.3. Đa dạng về công dụng chữa bệnh của các loài cây thuốc 47 4.3. Đánh giá hoạt tính kháng khuẩn của một số loài cây thuốc được sử dụng trong cộng đồng dân tộc H’Mông ở khu vực nghiên cứu 52 PHẦN 5.KẾT LUẬN, TỒN TẠI VÀ KIẾN NGHỊ 55 5.1. Kết luận 55 5.2. Tồn tại 56 5.3. Kiến nghị 57 TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC
  9. vii DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG KHÓA LUẬN KH&CN Khoa học & công nghệ TN&MT Tài nguyên và môi trường NĐ - CP Nghị định Chính phủ ST&TNSV Sinh thái và tài nguyên sinh vật UBND Ủy ban nhân dân
  10. 1 PHẦN 1 MỞ ĐẦU 1.1. Đặt vấn đề Cây thuốc dân gian từ lâu đã được nhiều người quan tâm đến đây là nguồn tài nguyên thực vật có giá trịthiết thực cho các cộng đồng địa phương trong việc phòng chữa bệnh, ngoài ra nó còn có giá trị trong việc bảo tồn nguồn gen, cung cấp cho lĩnh vực dược học. Việt Nam là một quốc gia có 3/4 diện tích là đồi núi, là nơi có nguồn tài nguyên cây thuốc đa dạng và là nơi cư trú của 54 dân tộc mà phần lớn là dân tộc thiểu số với khoảng 24 triệu người, chiếm hơn 1/3 dân số quốc gia (Trần Thúy và cộng sự, 2005)[26]. Chính sự đa dạng về dân tộc người cùng với sự khác biệt về điều kiện, thổ nhưỡng, khí hậu, phong tục tập quán, văn hóa từng cộng đồng dân tộc đã tạo nên sự đa dạng và phong phú trong vốn tri thức dân gian về kinh nghiệm sử dụng cây cỏ xung quanh mình làm cây thuốc chữa bệnh. Lào Cai là một vùng đất giàu tài nguyên, khí hậu nhiệt đới gió mùa, có thảm thực vật rất đa dạng, phong phú và là nơi có nhiều đồng bào dân tộc sinh sống như: Tày, Nùng, Hà Nhì, Phù Lá, Giáy, La Chí, Dao, H’Mông Mỗi dân tộc lại mang bản sắc và kinh nghiệm chữa bệnh bằng thực vật làm thuốc rất đa dạng. Xã Sàng Ma Sáo, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai là xã miền núi có diện tích rừng che phủ khá lớn nên hệ động thực vật cũng khá phong phú, nhất là thực vật.Tuy nhiên, hiện nay diện tích rừng ngày càng bị thu hẹp, tình trạng khai thác, mua bán các loài cây thuốc diễn ra một cách phức tạp,số lượng các loài cây thuốc bị cạn kiệt dần do khai thác quá nhiều với phương thức khai thác tận diệt, từ cắt cành, nhổ cây đến đào gốc rễ, do đốt nương làm rẫy trồng chè dẫn đến nguồn tài nguyên cây thuốc ngày càng bị suy giảm. Vì vậy, để
  11. 2 góp phần vào công tác bảo tồn vốn tri thức dân gian và nguồn tài nguyên cây thuốc của người dân tộc Trong đó, cộng đồng dân tộc H’Mông ở xãSàng Ma Sáo - huyện Bát Xát cũng có nhiều kinh nghiệm độc đáo về việc chữa bệnh bằng cây thuốc. Mặt khác những bài thuốc được cộng đồng các dân tộc sử dụng từ lâu đời trong việc phòng và trị một số bệnh nhưng hoạt tính sinh học và cơ sở khoa học của các bài thuốc chưa được nghiên cứu, chứng minh bằng con đường khoa học. Vì vậy, để cung cấp các cơ sở khoa học góp phần bảo vệ nguồn gen cây thuốc, bảo tồn và phát triển các bài thuốc của cộng đồng dân tộc H’Mông tại xã Sàng Ma Sáo - huyện Bát Xát, tôi đề xuất ý tưởng đề tài “Nghiên cứu tri thức bản địa sử dụng cây thuốc tại xã Sàng Ma Sáo, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai”. 1.2. Mục tiêu và yêu cầu của đề tài - Đánh giá được tính đadạng nguồn tài nguyên cây thuốc và kinh nghiệm sử dụng cây thuốc của cộng đồng dân tộc H’Mông tại xã Xàng Ma Sáo, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai. - Đánh giá được hoạt tính kháng khuẩn của một số loài cây thuốc có giá trị cao được cộng đồng dân tộc H’Môngtại xã Sàng Ma Sáo, huyện Bát Xát, Tỉnh Lào Caisử dụng trong phòng và trị bệnh. - Xác định được những cây thuốc thuộc diện quý hiếm ở Việt Nam, hiện có ở khu vực nghiên cứu. 1.3. Ý nghĩa của đề tài 1.3.1. Ý nghĩa về mặt khoa học - Xác định tri thức bản địa sử dụng các loài cây thuốc của cộng đồng dân tộc H’Mông tại xã Sàng Ma Sáo, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai. - Xác định được hoạt tính kháng khuẩn của một số loài cây thuốc có giá trị cao tại khu vực nghiên cứu.
  12. 3 1.3.2. Ý nghĩa thực tiễn - Kết quả thu được sẽ là cơ sở thực tiễn cho việc đề xuất công tác bảo tồn và phát triển nguồn gen cây thuốc của cộng đồng dân tộc H’Mông tại xã Sàng Ma Sáo, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai.
  13. 4 PHẦN 2 TỔNG QUAN VẪN ĐỀ NGHIÊN CỨU 2.1. Cơ sở khoa học của vấn đề nghiên cứu Phòng và chữa bệnh bằng các loài thảo dược đã được con người sử dụng từ hàng ngàn năm nay. Nó vẫn đang tồn tại và ngày càng phát triển mạnh mẽ. Hàng năm, con người đã tìm ra được những hoạt chất quý trong các loài thảo dược có thể phòng và chữa trị được những căn bệnh từ đơn giản hàng ngày như cảm cúm, ho sốt đến những căn bệnh nan y như ung thư, bệnh tim, suy thận, hay những căn bệnh nhiệt Do đó việc gìn giữ vốn kiến thức quý báu trong việc sử dụng cây thuốc và bài thuốc từ thảo dược là việc hết sức cần thiết. Trước đây người ta khái niệm lâm sản chủ yếu là gỗ, ít quan tâm đến các thành phần khác gỗ. Ngày nay, trong các chiến lược phát triển bền vững của các dự án lâm nghiệp xã hội, nông lâm kết hợp người ta đã chú ý nhiều đến các lâm sản khác ngoài gỗ. Và có khái niệm cơ bản về Lâm sản ngoài gỗ là bao gồm tất cả các sản phẩm có nguồn gốc sinh học và các dịch vụ thu được từ rừng hoặc từ bất kỳ vùng đất nào có kiểu sử dụng đất tương tự, loại trừ gỗ ở tất cả các hình thái của nó. Các loài cây thuốc đa phần là các sản phẩm Lâm sản ngoài gỗ thuộc một phần của tài nguyên thực vật. Tài nguyên thực vật là tổng hợp của sinh quyển trong một loạt các thảm thực vật. Tài nguyên thực vật như là các nhà sản xuất chính, để duy trì chu kỳ dinh dưỡng sinh quyển và cơ sở dòng năng lượng trên trái đất. Tài nguyên thực vật giữ một vai trò vô cùng quan trọng đối với cuộc sống của con người nói riêng và sinh vật nói chung. Nhưng trong thời gian vừa qua tài nguyên này đã bị suy thoái nghiêm trọng do sự tác động tiêu cực của con người, chính vì vậy, gần đây Đảng và Nhà nước ta đã có những chủ trương, đường lối mới như: Luật Bảo vệ và phát triển rừng năm 2004, Luật đất đai năm 2013, Luật đa
  14. 5 dạng sinh học năm 2008, Nghị định 32 của Chính phủ năm 2010, cùng với hàng loạt các văn bản khác đã ra đời nhằm bảo vệ và sử dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên hợp lí. Đây là một cơ sở pháp lí quan trọng để thực hiện thành công đề tài. Hiện nay không chỉ Việt Nam mà trên thế giới, với xu hướng “Trở về thiên nhiên” thì việc sử dụng các thuốc từ dược liệu của người dân ngày càng gia tăng bởi nó ít có những tác động có hại và phù hợp với qui luật sinh lý của cơ thể. Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), khoảng 80% dân số hiện nay trên thế giới vẫn dựa vào thuốc có nguồn gốc tự nhiên trong chăm sóc sức khỏe cộng đồng(Nguyễn Hoàng Sơn, 2014)[48]. Trong tuyên ngôn Alma Ata năm 1978 và “Hướng dẫn đánh giá y học cổ truyền” năm 1991, WHO luôn khuyến nghị dùng các thuốc cổ truyền vào chăm sóc sức khỏe ban đầuđánh giá mức độ an toàn và hiệu quả cũng như bảo đảm nguồn cung cấp những thuốc này (Nguyễn Hoàng Sơn, 2014) [48]. Vậy, nghiên cứu về các loài cây thuốc là hết sức cần thiết cho việc bảo tồn và phát triển các loài cây thuốc và bài thuốc cho thế hệ hôm nay và mai sau. 2.2. Tình hình nghiên cứu trên thế giới và trong nước 2.2.1. Tình hình nghiên cứu và sử dụng cây thuốc trên Thế giới Tổ tiên loài người từ khi xuất hiện đã gắn bó với thiên nhiên, trải qua quá trình đấu tranh với thiên nhiên và bệnh tật để sinh tồn. Trong quá trình đó, tổ tiên chúng ta ngay từ khi còn là các tộc người đã sớm phát hiện ra những cây cỏ trong tự nhiên có thể sử dụng làm thuốc, đồng thời trong cuộc sống lao động, đấu tranh với bệnh tật đã sáng tạo ra những bài thuốc và phương pháp chữa bệnh. Trong những năm gần đây, những nghiên cứu về sử dụng cây thuốc cho mục đích chữa bệnh của người dân bản địa ở các khu vực, các quốc gia được các nhà khoa học thực hiện trên khắp các châu lục trên Thế giới đây là hướng
  15. 6 nghiên cứu ứng dụng được quan tâm từ rất sớm và thu được nhiều thành tựu to lớn. Đặc biệt là Trung Quốc, có thể khẳng định đây là quốc gia đi đầu trong việc sử dụng cây thuốc để chữa bệnh. Vào thế kỷ XVI, Lý Thời Trân đưa ra “Bản thảo cương mục” sau đó năm 1955 cuốn bản thảo này được in ấn lại, Nội dung cuốn sách đã đưa đến cho con người cách sử dụng các loại cây cỏ để chữa bệnh. Ở Châu Á: Châu Á là châu lục có nhiều dân tộc sinh sống, với vốn tri thức bản địa về việc sử dụng các loài thực vật làm thuốc phong phú và đa dạng, đã có những nghiên cứu cụ thể ở các cộng đồng người, các khu vực khác nhau như: Kết quả nghiên cứu kiến thức bản địa về cây thuốc được sử dụng ở cộng đồng Saperas của làng Khetawas, quận Jhajjar, Haryana, Ấn Độ của Manju Panghal và cộng sự họ đã tìm thấy 57 loài thực vật thuộc 51 chi và 35 họ được người dân sử dụng để điều trị các bệnh khác nhau, theo nghiên cứu này cây thuốc được cộng đồng Saperas sử dụng nhiều nhất là các cây thuộc họ Fabaceae (Manju Panghal và cộng sự, 2010) [33]. Khi thẩm định về thực vật học và các giá trị văn hóa của các loại rau ăn được trong hoang dã quan trọng trong y học của Lesser dãy Hymalaya của Arshad Abbasi và cộng sự đã ghi nhận 45 loại rau ăn được trong hoang dã thuộc 38 chi và 24 họ đã được người dân sử dụng để điều trị các bệnh khác nhau (Arshad Abbasi và cộng sự, 2013) [30]. Công trình nghiên cứu về cây thuốc từ nương rẫy và rừng thiêng của dân tộc Karen và Lawa ở Thái Lan của Auemporn Junsongduang và cộng sự đã chỉ ra 365 loài thực vật thuộc 244 chi và 82 họ được sử dụng làm thuốc, trong đó các cây thuộc họ Euphorbiaceae và Lauraceae được người dân sử dụng
  16. 7 nhiều nhất để chữa trị các bệnh khác nhau. Auemporn Junsongduang và cộng sự, 2013) [32]. Kết quả nghiên cứu cây thuốc được sử dụng bởi cộng đồng người Tamang ở quận Makawanpur của Trung tâm Nepal của Dol Luitel và cộng sự đã tìm thấy 161 loài thực vật thuộc 144 chi và 86 họ đã được người dân sử dụng để điều trịnhiều loại bệnh khác nhau (Dol Luitel và cộng sự, 2014) [39]. Ở Châu Âu: Y học dân gian, cổ truyền châu Âu có một lịch sử lâu dài, những tri thức dân gian bản địa được truyền lại cho các thế hệ sau bằng việc ghi chép lại và thông qua truyền miệng qua nhiều thế kỉ (Cassandra L. Quave và cộng sự, 2012) [36]. Những năm gần đây, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu khoa học về việc sử dụng các loài thực vật để điều trị các loại bệnh của người dân bản địa được thực hiện: Công trình nghiên cứu về thực vật học của cây thuốc trong công viên tự nhiên của Sera de Saox Mamede, Bồ Đào Nha của ông Joana Camejo – Rodrigues và cộng sự đã cung cấp thông tin của 165 loài thực vật được sử dụng để điều trị các loại bệnh (Joana Camejo – Rodrigues và cộng sự, 2004) [42]. Công trình nghiên cứu về một số công dụng của cây thuốc trong khu vực Alto Tirreno Cosentino, Calabria, miền Nam nước Ý của ông Maria Leporatti và cộng sự họ đã chỉ ra được 52 loài thực vật thuộc 35 họ được người dân sử dụng để điều trị các loại bệnh chủ yếu như: bệnh ngoài da, bệnh về đường hô hấp, đau răng, sâu răng và đau thấp khớp (Maria Leporatti và cộng sự, 2007) [45]. Kết quả khi phân tích và so sánh các cây thuốc được sử dụng trong y học cổ truyền tại Ý và Tunisia của Maria Leporatti và Kamel Gheddira đã ghi nhận
  17. 8 153 loài thực vật thuộc 60 họ được người dân sử dụng trong việc điều trị các bệnh khác nhau (Maria Leporatti và Kamel Gheddira 2009) [46]. Kết quả nghiên cứu về các loài thực vật được sử dụng làm thuốc của dãy núi Alps Albania ở Kosovo của Behxhet Mustafa và cộng sự đã ghi nhận 98 loài thực vật thuộc 39 họ được người dân sử dụng để điều trị các loại bệnh khác nhau, trong đó các cây được sử dụng nhiều nhất chủ yếu thuộc các họ Rosaceae, Asteraceae và Lamiaceae (Behxhet Mustafa và cộng sự, 2012) [34]. Ở Châu Mĩ: Ở Châu Mĩ thì việc nghiên cứu vềkiến thức sử dụng cây thuốc của người dân bản địa cũng được thực hiện: Kết quả “Nghiên cứu cây thuốc phổ biến được sử dụng trong các khu vực Xingo – một khu vực khô hạn ở Đông Bắc Brazil” của Cecilia Almeida và cộng sự đã tìm thấy 187 loài thực vật thuộc 128 chi và 64 họ được người dân sử dụng để điều trị các bệnh: cảm lạnh thông thường, viêm phế quản, bệnh tim mạch, bệnh thận, viêm và an thần (Cecilia Almeida và cộng sự, 2006) [37]. Kết quả “Nghiên cứu sử dụng cây thuốc của người nhập cư Haiti và các con cháu của họ ở tỉnh Camaguey, Cuba” của Gabriele Volpato và cộng sự đã chỉ ra 123 loài thực vật thuộc 112 chi và 63 họ được người nhập cư Haiti sử dụng để điều trị các bệnh khác nhau (Gabriele Volpato và cộng sự,2009) [41]. Kết quả “Nghiên cứu cây thuốc của cộng đồng Ashaninka, một nghiên cứu từ các cộng đồng bản địa của Bajo Quimiriki, Junin, Peru” của Gaia Luziatelli và cộng sự đã tìm thấy 402 loài thực vật được cộng đồng sử dụng để điều trị các loại bệnh, trong đó các cây được sử dụng nhiều nhất chủ yếu thuộc các họ: Asteraceae, Araceae, Rubiaceae, Euphorbiaceae, Solanaceae và Piperaceae (Gaia Luziatelli và cộng sự, 2010) [42]. Từ kết quả nghiên cứu “Thực vật dân tộc của người dân Rayones, Nuevo León, Mexico” năm 2014, đã ghi nhận 252 loài thực vật thuộc 228
  18. 9 chi và 91 họ được người dân Rayones sử dụng để điều trị các bệnh, trong đó các họ được sử dụng chủ yếu là: Asteraceae và Fabaceae (Eduardo Estrada-Castillón và cộng sự,2014) [40]. Ở Châu Phi: Người dân bản địa ở Châu Phi đã sử dụng cây thuốc hàng nghìn năm nay để bảo vệ sức khỏe của họ, những nghiên cứu gần đây đã cho chúng ta thấy việc sử dụng cây thuốc của những người dân bản địa ở châu Phi rất đa dạng và phong phú: Theo nghiên cứu của David J. Simbo “Một cuộc khảo sát về các loài thực vật được sử dụng làm thuốc trong Babungo, khu vực Tây Bắc, Cameroon”, đã xác định và ghi nhận 107 loài thực vật thuộc 98 chi và 54 họ được người dân địa phương sử dụng để điều trị các bệnh, trong đó họ được sử dụng nhiều nhất chủ yếu là họ Asteraceae (David J. Simbo 2010) [38]. “Nghiên cứu về thực vật học và kiến thức bản địa về sử dụng cây thuốc của các thầy lang trong khu vực Oshikoto, Namibia”, đã tìm thấy 61 loài cây thuốc thuộc 25 họ được các thầy lang trong khu vực sử dụng để điều trị các bệnh khác nhau như: Tâm thần, nhiễm trùng da, vết thương ngoài da, rắn cắn và các vấn đề tim mạch (Ahmad Cheikhyoussef và cộng sự2011) [30]. Kết quả “Nghiên cứu cây thuốc của Otwal và Ngãi ở quận Oyam, Bắc Uganda”, đã chỉ ra 71 loài thực vật thuộc 41 họ được người dân địa phương sử dụng để điều trị các loại bệnh khác nhau, trong đó họ sử dụng chủ yếu là họ Asteraceae (Maud M. Kamatenesi và cộng sự, 2011) [47]. Nghiên cứu về “sử dụng và quản lý cây thuốc truyền thống của cộng đồng dân tộc Maale và Ari, ở miền nam Ethiopia”, đã ghi nhận 128 loài cây thuốc thuộc 111 chi và 49 họ được cộng đồng người Maale và Ari sử dụng để điều trị các loại bệnh khác nhau (Berhane Kidane và cộng sự 2014) [35].
  19. 10 Kết quả “Nghiên cứu về cây thuốc được sử dụng trong y học cổ truyền bởi những người Oromo, quận Ghimbi, Tây Nam Ethiopia”, đã thống kê được 49 loài cây thuốc thuộc 31 họ và 46 chi được người Oromo sử dụng để điều trị các loại bệnh khác nhau (Balcha Abera, 2014) [33]. Ở Châu Úc: Ở Châu Úc những nghiên cứu về việc sử dụng cây thuốc bản địa được thực hiện ở châu Úc hiện rất ít. Một nghiên cứu về các loài cây thuốc được sử dụng bởi cộng đồng thổ dân Yaegl ở miền Bắc New South Wales, Australia, đã ghi nhận 32 loài cây thuốc thuộc 21 họ được thổ dân Yaegl sử dụng để điều trị các bệnh (Joanne Packera và cộng sự 2012) [44]. Vì vậy, việc điều tra và thống kê các loài cây thuốc đã để lại những công trình mang tính khoa học, tính dân tộc sâu sắc, cho thấy vốn tri thức dân gian bản địa về sử dụng cây thuốc trên thế giới là vô cùng đa dạng và phong phú. 2.2.2. Tổng quan tài liệu nghiên cứu tại Việt nam .Ở Việt Nam, cũngcó tập quán sử dụng các cây thuốc đã có từ rất lâu đời. Hơn 4000 năm dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt Nam đã trải qua cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm, đấu tranh với thiên nhiên và bệnh tật. Ngay từ những buổi đầu sơ khai, khi con người còn sống theo lối nguyên thủy, trong quá trình tìm thức ăn, tổ tiên chúng ta cũng đã phát hiện ra công dụng và tác hại của nhiều loại cây. Suốt một thời gian dài như vậy, tổ tiên chúng ta đã dần dần tích lũy được nhiều kinh nghiệm, biết lợi dụng tính chất của cây rừng để làm thức ăn và làm thuốc chữa bệnh (Trần Thúy và cộng sự,2005) [26]. Việt Nam nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa, thích hợp cho sự phát triển của thực vật nói chung và cây thuốc nói riêng. Một số vùng cao lại có khí hậu á nhiệt đới, phù hợp với việc trồng cây thuốc ưa khí hậu mát. Đặc biệt là nước ta có dãy núi Trường Sơn rộng lớn là nơi có rất nhiều cây thuốc phục
  20. 11 vụ cho đồng bào nhân dân sống gần đó mà họ sống xa các trạm xá, bệnh viện thì việc cứu chữa tại chỗ là rất cần thiết và cấp bách nhất Thế kỷ thứ XI (TCN), nhân dân ta đã có tục ăn trầu cho ấm người, chắc răng, uống nước chè xanh cho mát, nụ vối cho dễ tiêu, những điều đó đã nói lên những hiểu biết về dinh dưỡng và sử dụng thuốc của dân tộc (Lê Trần Đức, 1997) [06]. Từ thời Hùng Vương, tổ tiên chúng ta đã biết nấu rượu, biết dùng Thủy ngân để ướp xác và sử sách đã ghi chép về một lương y tên là Thôi Vỹ đã biết chữa bệnh lao hạch ở thời An Dương Vương (257 – 207) (Trần Thúy và cộng sự, 2005) [26]. Còn từ thời nhà Lý (1010 – 1221) đã có tổ chức Ty Thái Y chăm lo và bảo vệ sức khỏe cho nhà vua, có nhiều thầy thuốc chuyên lo việc chữa bệnh cho nhân dân và phương pháp chữa bệnh bằng tâm lý liệu pháp phát triển. Trong sử sách còn ghi lại năm 1136, vua Lý Thần Tông bị điên được lương y Nguyễn Chí Thành người Gia Viễn – Ninh Bình dùng tâm lý liệu pháp và tắm nước Bồ hòn chữa cho khỏi bệnh. Nhà Lý đặt quan hệ với Tống Huy Tông (Trung Quốc) trao đổi thuốc Nam lấy thuốc Bắc (Trần Thúy và cộng sự., 2005) [26]. Ở thời này, làng Đại Yên là một làng thuốc nổi tiếng, chuyên trồng và bán các loại cây thuốc Nam phục vụ công tác chữa bệnh (Viện Dược liệu, 1993) [23]. Thời nhà Trần (1224 – 1399), y học cũng khá phát triển, đã có kế hoạch tự túc thuốc Nam để kháng chiến. Tướng Phạm Ngũ Lão đã trồng cây thuốc ở Vạn An và Dược Sơn (xã Hưng Đạo – Chí Linh – Hải Dương) để cung cấp cho quân y (Lê Trần Đức, 1997) [06]. Nổi bật ở thời này là nhà sư Tuệ Tĩnh (Nguyễn Bá Tĩnh) – được nhân dân tôn trọng, gọi là “Ông thánh thuốc Nam”. Tuệ Tĩnh đã xây dựng 74 ngôi chùa chữa bệnh cho nhân dân không lấy tiền và gây phong trào trồng thuốc ở gia đình. Ông là một đại sư nước Việt dùng
  21. 12 thuốc Nam giảm giá trị của thuốc Bắc, sắc thuốc chữa bệnh cho nhân dân với phương châm: “thuốc Nam chữa bệnh người Nam” ông đã truyền bá y dược cổ truyền cho nhân dân trong các tác phẩm (Lê Trần Đức, 1997) [06]. Thời kỳ nhà Lê (1428 – 1876) đã có những chủ trương tiến bộ trong việc chăm sóc và bảo vệ sức khỏe của nhân dân, tổ chức Thái Y Viện, có lương y chăm lo việc chữa bệnh cho quân đội, hàng năm tổ chức các đợt phòng và chống dịch bệnh cho nhân dân. Ở giai đoạn này có làng thuốc ở thôn Nghĩa Trai, huyện Văn Lâm, hiện nay vẫn còn tồn tại và phát triển (Trần Thúy và cộng sự, 2005) [26]. Thế kỷ XVIII, Lê Hữu Trác hiệu là Hải Thượng Lãn Ông (1729 – 1791) đã thừa kế dược học của Tuệ Tĩnh chép vào tập “Lĩnh Nam bản thảo” nội dung gồm 496 vị thuốc Nam của “Nam dược thần hiệu” và phát hiện thêm hơn 300 vị nữa. Tác giả đã để lại bộ sách thuốc rất có giá trị là: “Tân Hoa Hải Thượng Lãn Ông y tông tâm lĩnh dương an toàn trạch” gọi tắt là “Lãn Ông Y Nghiệp” hay “Lãn Ông Y Tập” gồm 66 quyển (Nguyễn Nhân Thống, 2008) [16]. Suốt 30 năm của cuộc đời mình, tác giả đã xây dựng được nền móng cho nền y học cổ truyền Việt Nam toàn diện cả về lý luận, phương pháp điều trị và dược liệu. Ngoài các bộ sách trên, còn phải kể đến tập “Vạn phương thập nghiệm” của Nguyễn Nho và Ngô Văn Tĩnh gồm 8 tập, xuất bản 1763. Tập “Nam bang thảo mộc” của Trần Nguyệt Phương đã mô tả 100 loài cây thuốc Nam, xuất bản vào năm 1858 (Lê Trần Đức, 1997) [06]. Vào thời kỳ Tây Sơn (1788 – 1808) Nguyễn Hoành đã để lại tập “Nam dược” với 590 vị thuốc, với các phương thuốc kinh nghiệm gia truyền (Lê Trần Đức, 1997) [06]. Thời kỳ từ năm 1802 – 1883, nhà Nguyễn cũng tổ chức Thái Y Viện, tổ chức điều trị bệnh phong tập trung, mở trường dạy thuốc ở Huế (Trần Thúy và cộng sự 2005) [26]. Nguyễn Quang Lượng, Nguyễn Kinh, là
  22. 13 những danh y nổi tiếng thờiđó, đã cùng nhau góp phần phát triển nền y học với quyển: “Nam dược tập nghiệm quốc âm” bằng chữ Nôm của Nguyễn Quang Lượng về phương thuốc dân gian. Trong thời Pháp thuộc (1848 – 1945), y học cổ truyền nước ta có một số hoạt động như: thành lập các hội y học ở Bắc bộ, Trung bộ, Nam bộ; mở các lớp huấn luyện y học cổ truyền, mở các phòng khám chữa bệnh, và tổ chức triển lãm y học cổ truyền dân tộc, (Trần Thúy và cộng sự, 2005) [26]. Đến đầu thế kỷ XX, đã cho xuất bản một số sách Y học cổ truyền bằng chữ quốc ngữ như “Việt Nam dược học” của Phó Đức Thành. Nhiều nhà thực vật học người Pháp và người Việt góp công nghiên cứu cây thuốc Việt Nam, như: bộ “Trung Việt dược tính hợp biên” của Đinh Nho Chân với 1.600 vị thuốc Nam Bắc. Sau cách mạng tháng 8 – 1945, y dược học cổ truyền đã đạt được những thành tựu to lớn. Dưới sự lãnh đạo của Bộ y tế cùng y học hiện đại, sức khỏe của người dân được quan tâm và chăm lo tốt hơn. Chỉ thị số 210 TTG/VG ngày 06/12/1966 của thủ tướng chính phủ đã được nhận định như sau: “Dược liệu nước ta rất nhiều, gồm các loài cây thuốc và một số động vật. Có nhiều loài quý, hiếm ở trên thế giới. Dược liệu ở nước ta chẳng những là cơ sở cho nền y học dân tộc mà còn có một vị trí rất quan trọng trong nền y học hiện đại, không những là nguồn tự cung tự cấp về các loài cây thuốc Nam, thuốc Bắc, thuốc Tây, mà còn là loại hàng xuất khẩu có giá trị nhất, mà phải coi trọng dược liệu như cây công nghiệp cao cấp” (Võ Văn Chi, 1996) [19]. Vì vậy, sau khi nước nhà thống nhất, việc nghiên cứu cây thuốc ở nước ta đã được quan tâm nhiều hơn. Có nhiều tác giả đi sâu nghiên cứu, tìm tòi và phát hiện thêm nhiều loài cây thuốc mới. Tiêu biểu có nói đến bộ sách “Dược liệu học và các vị thuốc Việt Nam”gồm 3 tập, do Đỗ Tất Lợi biên soạn năm
  23. 14 1957 và đến năm 1961, cuốn sách này được tái bản in thành 2 tập. Trong đó, tác giả đã mô tả chi tiết và nêu công dụng của hơn 100 cây thuốc nam (Nguyễn Tập, 2007) [10]. Đỗ Tất Lợi đã tiếp tục dày công nghiên cứu và trrong những năm từ 1959 – 1965, tác giả cho xuất bản bộ “Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam” gồm 6 tập, năm 1969 tái bản trong 2 tập. Cuốn sách này của tác giả đã đề cập đến trên 500 vị thuốc có nguồn gốc thảo mộc, động vật và khoáng vật. Tác giả đã kiên trì nghiên cứu, bổ sung liên tục các loài cây thuốc trong các công trình nghiên cứu của mình và sách đã được tái bản nhiều lần và các năm 1970, 1977, 1981, 1986, 1995, 1999, 2001 và năm 2003. Lần tái bản thứ 7 vào năm 1995 số cây thuốc của tác giả nghiên cứu đã lên tới 792 loài và gần đây nhất là lần tái bản lần thứ 13 (dẫn theo Lê Thị Thanh Hương, 2007) [05]. Bộ sách của tác giả đã mang lại giá trị khoa học và giá trị thực tiễn sâu sắc, thể hiện sự kết hợp giữa khoa học dân gian và khoa học hiện đại. Những năm gần đây, nhiều công trình nghiên cứu của các nhà khoa học đã được xuất bản thành các tập sách như là: “Tài Nguyên cây thuốc Việt Nam” vào 1993 của Viện Dược liệu, với khoảng 300 loài cây thuốc (Phạm Hoàng Hộ, 2006); Trần Đình Lý với cuốn “1900 loài cây có ích” năm 1995, đã thống kê được ở Việt Nam có khoảng 76 loài cho nhựa thơm, 260 loài cho dầu béo, 160 loài có tinh dầu, 40 loài tre nứa, 40 loài song mây (dẫn theo Lê Thị Thanh Hương, 2007) [06]. Lương y lão thành, thầy thuốc ưu tú Lê Trần Đức với cuốn: “Cây thuốc Việt Nam” năm 1995 đã giới thiệu hơn 830 loài cây thuốc chính, phụ (Lê Trần Đức, 1997) [06]. Võ Văn Chi là một nhà thực vật lớn của Việt Nam, đã đóng góp rất nhiều trong quá trình nghiên cứu về các loài thực vật ở Việt Nam và ông đã biên soạn cuốn “Từ điển cây thuốc Việt Nam”, trong đó ông mô tả rất tỷ mỷ về các cây được sử dụng làm thuốc ở Việt Nam bao gồm 3.200 cây (Nguyễn Thượng Dong và cộng sự., 2006)
  24. 15 [04]. Ngoài ra, cuốn “Cây cỏ có ích ở Việt Nam” tập I, II đề cập đến rất nhiều cây cỏ có ích như làm gỗ, làm lương thực, làm thuốc (Nguyễn Thượng Dong và cộng sự 2006) [28] Trong những năm từ 2000 đến nay, đã có rất nhiều cuốn sách và các tài liệu về cây thuốc được xuất bản nhằm đáp ứng nhu cầu của nhiều người quan tâm tới cây thuốc trên khắp đất nước Việt Nam như: “577 bài thuốc dân gian gia truyền” (Âu Anh Khâm, 2001) [29];va cuốn “Thuốc bệnh 24 chuyên khoa” (Tào Duy Cần, 2006) [02]; “Nghiên cứu cây thuốc từ thảo dược” (Nguyễn Thượng Dong và cộng sự 2006) [13]; “Cây có vị thuốc ở Việt Nam” do Phạm Hoàng Hộ nghiên cứu và tập hợp (Phạm Hoàng Hộ, 2006) [14]; “Cây thuốc, bài thuốc và biệt dược” của Phạm Thiệp và cộng sự (2000) [15] đề cập tới 327 cây thuốc phổ biến, Đồng thời, có nhiều công trình nghiên cứu về cây thuốc trên cả nước công bố trên các tạp chí về cây thuốc như: Đặng Quang Châu (2011) [03] đã công bố một số dẫn liệu về cây thuốc của dân tộc Thái ở huyện Nghĩa Đàn (Nghệ An) gồm 177 loài, thuộc 149 chi, thuộc 71 họ khác nhau; Đặng Quang Châu và Bùi Hồng Hải khi đi điều tra các loài cây được người dân tộc Thái sử dụng ở huyện Quỳ Châu (Nghệ An) đã thu được 93 loài thuộc 7 chi, 42 họ. (Đặng Quang Châu và Bùi Hồng Hải 2003) [02] Các tác giảcòn phân loại cây được sử dụng theo các nhóm bệnh: bệnh ngoài da, bệnh về đường tiêu hóa, bệnh về gan, bệnh về xương Lưu Đàm Cư và cộng sự (2004) [07] khi điều tra các loài cây có ích của dân tộc H’mông ở vùng núi cao phía Bắc đã phân loại được 4 nhóm theo công dụng: cây lương thực – thực phẩm, cây làm thuốc, cây có độc, cây để nhuộm màu, cây ăn quả. Trong nhóm này cây làm thuốc đã thống kê được 657 loài thuộc 118 họ mà người H’mông sử dụng làm thuốc chữa bệnh cho người và gia súc. Nguyễn Thị Thủy và Phạm Văn Thỉnh (2004) [12] đã xây dựng các mô hình
  25. 16 vườn bảo tồn cây thuốc ở vùng cao Sa Pa, như vườn rừng, trang trại, vườn các hộ gia đình. Bước đầu đã bảo tồn được 52 loài cây thuốc thuộc 28 họ, trong đó có nhiều loài đang có nguy cơ bị tuyệt chủng. Trong Hội nghị Khoa học Toàn quốc lần thứ 4 năm 2011 tại Hà Nội, đã có nhiều báo cáo khoa học về tài nguyên cây thuốc và cách sử dụng các loài cây thuốc trong điều trị các bệnh của cộng đồng dân tộc ở Việt Nam được công bố như: một số kết quả nghiên cứu “Các loài thực vật được đồng bào dân tộc Mường tại Khu bảo tồn thiên nhiên Hang Kia – Pà Cò sử dụng làm thuốc trị bệnh thận” của các tác giả Đỗ Sĩ Hiến và Đỗ Thị Xuyến đã chỉ ra 65 loài thực vật được đồng bào dân tộc Mường sử dụng làm thuốc chữa bệnh về thận;(Đỗ Sĩ Hiến và Đỗ Thị Xuyến 2011) [04] “Điều tra các loài cây thuốc và giá trị sử dụng của chúng ở một số xã thuộc huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp” của tác giả Võ Thị Phượng và Ngô Trực Nhã (2011) [14] đã điều tra và thống kê 232 loài cây được sử dụng làm thuốc thuộc 186 chi, 90 họ tại các xã của huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp.đã điều tra và thống kê 232 loài cây được sử dụng làm thuốc thuộc 186 chi, 90 họ tại các xã của huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp. “Những cây thuốc được sử dụng thay thế mật gấu theo kinh nghiệm dân gian và đông y ở một số địa bàn tỉnh Thái Nguyên” của tác giả Lê Thị Thanh Hương và Nguyễn Thị Thuận đã ghi nhận được 35 loài thuộc 27 chi, 21 họ của 2 ngành thực vật bậc cao được sử dụng làm thuốc chữa bệnh thay thế mật gấu ở một số địa bàn tỉnh Thái Nguyên(Lê Thị Thanh Hương và Nguyễn Thị Thuận 2011) [24] Kết quả “Nghiên cứu cây thuốc và đánh giá tính kháng khuẩn của một số loài cây thuốc tại xã Hoàng Nông, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên”của Nông Thái Hòa đã điều tra và thống kê được 137 loài cây được sử dụng làm thuốc
  26. 17 thuộc 129 chi, 72 họ được cộng động 2 dân tộc Dao và Nùng sử dụng làm thuốc để chữa các bệnh khác nhau (Nông Thái Hòa 2018)[21] “Nghiên cứu tri thức bản địa sử dụng cây thuốc tại xã Yên Ninh, Huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên” của tác giả Dương Văn Hưng đã điều tra thống kê được 149 loài thực vật thuộc 137 chi, 74 họ được cộng đồng 2 dân tộc Tày và Sán Chí sử dụng làm thuốc(Dương Văn Hưng 2018)[20]. Kết quả “Nghiên cứu cây thuốc và đánh giá hoạt tính kháng khuẩn của một số loài cây thuốc tại xã Yên Lạc, huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên” của Vàng A Lả đã điều tra và thống kê được 183 loài thực vật tuộc 159 chi, 90 họ được cộng đồng 2 dân tộc Sán Chay và San Chí sử dụng để làm thuốc (Vàng A Lả 2018)[25] Như vậy cho Chúng ta thấy, việc điều tra và thống kê các loài cây thuốc, các bài thuốc không những mang lại nhiều kiến thức và những giá trị khoa học, giá trị thực tiễn sâu sắc mà còn đóng góp vào công tác bảo tồn nguồn dược liệu ở nước ta, bảo tồn những bài thuốchay bài thuốc quý. Nhằm góp phần, bảo tồn bản sắc văn hóa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. 2.3. Tổng quan khu vực nghiên cứu 2.3.1. Điều kiện tự nhiên khu vực nghiên cứu * Vị trí địa lý Sàng Ma Sáo là xã đặc biệt khó khăn của huyện Bát Xát, cách trung tâm huyện Bát Xát 38 km, có vị trí địa lý: - Phía Đông giáp xã Dền Thàng, huyện Bát Xát. - Phía Tây giáp xã Sin Súi Hồ, huyện Phong thổ, Lai Châu. - Phía Nam giáp xã Mường Hum, xã Trung Lèng Hồ, huyện Bát Xát. - Phía Bắc giáp xã Dền Sáng, huyện Bát Xát. Toàn xã có tổng diện tích tự nhiên 7.283,98 ha; 4710 nhân khẩu; 811 hộ dân; 11 thôn bản;
  27. 18 * Địa hình, địa mạo Là xã có địa hình chia cắt phức tạp và phân cấp rõ rệt. Thấp dần từ Tây bắc xuống Đông nam, được kiến tạo bởi nhiều dải núi cao, nổi bật là hai dải núi chính tạo nên các hợp thuỷ: Suối Nậm Pẻn, suối Nhìu Cồ San. Kiến tạo địa hình xã Sàng Ma Sáo hình thành hai khu vực. Tuy nhiên, cả hai khu vực (vùng thấp gồm 6 thôn, vùng cao gồm 5thôn) đều có chung một đặc điểm: Vùng núi cao có độ chia cắt lớn, thung lũng hẹp khe sâu, độ dốc lớn. * Địa chất, thổ nhưỡng Theo báo cáo tổng kết của UBND xã sàng ma sáo năm 2018 [17] - Xã Sàng Ma Sáo có Tổng diện tích đất tự nhiên là: 7.283,98 ha. + Diện tích nhóm đất nông nghiệp: 5.286,77 ha giảm 3,92 ha do cơn bão số 6 năm 2017. + Diện tích nhóm đất phi nông nghiệp: 100,03 ha tăng 0,97 ha từ giảm nhóm đất nông nghiệp + Diện tích nhóm đất chưa sử dụng: 1.901,1 hatăng 2,95 từ giảm từ nhóm đất nông nghiệp. Theo kết quả điều tra về thổ nhưỡng của Trung tâm KHTN và CN Quốc gia thuộc Viện Địa lý, trên địa bàn xã có các nhóm đất sau: - Đất mùn thô trên núi cao hình thành trong điều kiện khí hậu quanh năm khô rét. - Đất mùm alít trên núi cao; Loại đất này tầng mùn dày thành phần cơ giới thịt nhẹ, độ ẩm cao, ở những nơi quá trình rửa trôi mạnh,đá nổi xen kẽ nhiều hoặc vách đá dựng đứng rải rác. Thực vật chủ yếu cây họ thông, sồi, giẻ. Vùng đất tầng dày dưới 26cm thường có màu xám đen, từ 26 -73cm có màu xám vàng, từ 73 - 120cm có màu vàng đỏ.
  28. 19 - Đất mùn vàng xám trên đá Mác ma A-xít (HFa) hình thành trên các vùng lãnh thổ có độ dốc và độ chia cắt lớn, thung lũng hẹp sâu.Vùng này hệ thực vật thường hỗn giao giữa thực vật nhiệt đới và thực vật ôn đới,càng lên cao hệ thực vật ôn đới càng chiếm ưu thế. Loại đất thường có tầng dày từ 20 - 100cm, màu xám đen, vàng xám hoặc vàng đỏ, thành phần cơ giới thịt nhẹ đến trung bình, kết cấu viên, xốp, đá mẹ đang trong quá trình phong hoá mạnh. * Đặc điểm khí hậu Sàng Ma Sáo có chế độ khí hậu nhiệt đới gió mùa rõ rệt do bị chi phối bởi yếu tố địa hình phức tạp, phân tầng độ cao lớn nên có đan xen một số tiểu vùng á nhiệt đới, ôn đới rất thuận lợi cho phát triển nông, lâm nghiệp, thủy sản, đặc biệt là nhiều loại cây trồng, vật nuôi có giá trị kinh tế cao như cây ăn quả ôn đới, cây dược liệu, thảo quả, v.v Nhiệt độ trung bình hàng năm thường từ 22 – 240C; cao nhất 360C, thấp nhất 100C; độ ẩm trung bình năm trên 80%, cao nhất là 90% và thấp nhất 75%. Thường có sự chênh lệch giữa các vùng, vùng cao độ ẩm lớn hơn vùng thấp; lượng mưa trung bình năm trên 1.700 mm, năm Sương mù thường xuất hiện phổ biến, có nơi mật độ rất dày. Trong các đợt rét đậm thường xuất hiện sương muối, ở những vùng có độ cao trên 1.000m nhiều năm có tuyết rơi. * Chế độ thủy văn Trên địa bàn xã có hệ thống suối, khe lạchđược phân bố khá đồng đều trên địa bàn, diện tích rừng phòng hộ, đầu nguồn được bảo vệ tốt nên nguồn nước khá dồi dào, đây là điều kiện thuận lợi cho việc cung cấp nước sản xuất, nước sinh hoạt.
  29. 20 2.3.2. Điều kiện kinh tế - xã hội khu vực nghiên cứu[17] * Dân cư, dân tộc Toàn xã có 865 hộ = 4.756 khẩu trong đó 98,75% là đồng bào dân tộc H’Mông được phân bố ở 11 thôn bản, nghề nghiệp chủ yếu là làm ruộng; 0,50 % là dân tộc Kinh và 0.75% là dân tộc Giáy làm ăn sinh sống trên địa bàn xã. * Kinh tế Kinh tế nông nghiệp vẫn là ngành chiếm vị trí quan trọng trong nền kinh tế của xã Sàng Ma Sáo trong những năm qua
  30. 21 PHẦN 3 ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 3.1. Đối tượng, phạm vi thời gian và địa điểm nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: các loài thực vật được cộng đồng dân tộc H’Mông tại xã Sàng Ma Sáo sử dụng làm thuốc chữa bệnh; kinh nghiệm sử dụng cây thuốc của cộng đồng dân tộc H’Mông tại xã Sàng Ma Sáo, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai. * Phạm vi nghiên cứu - Địa điểm nghiên cứu: + Công tác điều tra thực địa được tiến hành tại xã Sàng Ma Sáo thuộc vùng lõi Khu Bảo tồn Bát Xát, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai. + Nghiên cứu thực nghiệm (xác định hoạt tính kháng khuẩn) được tiến hành tại phòng thí nghiệm Khoa Công nghệ sinh học - Trường Đại học Khoa học Thái Nguyên. - Thời gian nghiên cứu:Từ tháng 1 đến tháng 5/2019. - Nghiên cứu tri thức của cộng đồng dân tộc: H’Mông 3.2. Nội dung nghiên cứu * Đánh giá đa dạng nguồn tài nguyên cây thuốc được sử dụng tại xã Sàng Ma Sáo, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai: - Đánh giá đa dạng các bậc taxon của nguồn tài nguyên cây thuốc: đa dạng bậc họ; đa dạng bậc chi. - Đánh giá đa dạng về dạng sống của thực vật làm thuốc. - Đánh giá về môi trường sống của thực vật làm thuốc. - Xác định những cây thuốc quý thuộc diện cần bảo tồn: đánh giá mức độ quý hiếm của các loài cây thuốc ở khu vực nghiên cứu.
  31. 22 * Đánh giá về tình hình sử dụng cây thuốc củacộng đồng dân tộcở khu vực nghiên cứu: (i) đa dạng về bộ phận sử dụng; (ii) đa dạng về cách chế biến cây thuốc; (iii) đa dạng về công dụng chữa bệnh của các loài cây thuốc. *Đánh giá hoạt tính kháng khuẩn của một số loài cây thuốc có giá trị cao được cộng đồng dân tộc H’Mông tại khu vực nghiên cứu sử dụng trong phòng và chữa trị bệnh. 3.3. Phương pháp nghiên cứu Đề tài thực hiện tạixã Sàng Ma Sáo, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai. Để đạt được các kết quả gắn với các nội dung nghiên cứu trên, cách thức và giải pháp thực hiện ý tưởng bao gồm như sau: 3.3.1. Phương pháp kế thừa - Kế thừa những những tài liệu về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội ở khu vực nghiên cứu và các tài liệu nghiên cứu có liên quan đến vấn đề nghiên cứu. - Kế thừa kinh nghiệm sử dụng cây thuốc của các thầy lang, của cộng đồng dân tộc H’Mông ở khu vực nghiên cứu. 3.3.2. Phương pháp điều tra cộng đồng - Điều tra phỏng vấn thu thập cây thuốc: tại khu vực nghiên cứu, phỏng vấn 25 thầy lang, và một số người dân có kinh nghiệm sử dụng cây thuốc và sử dụng các bài thuốc gia truyền của cộng đồng dân tộc H’Mông tại địa bàn nghiên cứu. Mẫu phiếu điều tra dựa theo: phiếu điều tra cây thuốc trong cộng đồng và phiếu điều tra bài thuốc gian dân (Viện Dược liệu, 1993) [23]. - Thu thập đầy đủ các thông tin cây thuốc gồm: tên phổ thông, tên dân tộc; số hiệu mẫu/ảnh cây thuốc; dạng sống; môi trường sống; bộ phận sử dụng làm thuốc (thân, rễ, hoa, quả, hạt); công dụng. Đồng thời ghi chép những đặc điểm dễ nhận biết của cây ngoài thiên nhiên, ghi rõ thời gian, địa điểm và người thu thập thông tin.
  32. 23 - Định danh tên cây: định danh loài cây theo các bước: (i) định danh tại thực địa; (ii) sử dụng kiến thức kinh nghiệm của các chuyên gia và nguồn tài liệu tin cậy đã công bố giám định lại. + Bước 1: Xác định sơ bộ tên địa phương, tên thường gọi được thực hiện ngay ở lần điều tra đầu tiên. Đối với những loài chưa chắc chắn thì ghi chú để kiểm định lại ở bước sau. Các loài không biết tên cần phải lấy mẫu (lá, hoa, quả, ) và ghi vào biểu điều tra bằng ký hiệu sp1, sp2, để giám định. + Bước 2: tất cả các cây được thẩm định lại tên cây, lập danh mục cây thuốc bằng sử dụng kiến thức kinh nghiệm của các chuyên gia về thực vật và nguồn tài liệu tin cậy đã công bố gồm: Cây cỏ Việt Nam (Phạm Hoàng Hộ, 1999) [14], Từ điển Cây thuốc Việt Nam (Võ Văn Chi, 2012) [18], Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam (Đỗ Tất Lợi, 2005) [05], Danh lục các loài thực vật Việt Nam (Trung tâm NCTN&MT – Đại học Quốc gia Hà Nội và Viện ST&TNSV, 2006) [26]. Danh sách tên cây thuốc sẽ được hoàn thiện ở bước này. Bảng 3.1. Mẫu bảng điều tra nguồn cây thuốc được cộng đồng dân tộc H’Mông ở khu vực nghiên cứu Thời gian điều tra: Người điều tra: Địa điểm điều tra: Địa chỉ điều tra: Tên loài Bộ Số hiệu Môi Cách Phổ Dạng phận Công TT Địa Khoa mẫu/ản trường sử thôn cây sử dụng phương học h sống dụng g dụng (1) (2) (3) (4) (5) (6) (7) (8) (9) (10)
  33. 24 3.3.3. Phương pháp thu mẫu Tiến hành thu mẫu ở thực địa theo nguyên tắc và phương pháp thu mẫu theoNguyễn Nghĩa Thìn (2007) [09]. Dụng cụ thu mẫu: bản gỗ ép mẫu, túi đựng mẫu, bao tải dứa, kéo cắt cây, giấy báo, giây buộc, etyket, bút chữ A, sổ ghi chép, máy theo Nguyễn Nghĩa Thìn (1997) [08]. Nguyên tắc thu mẫu: mỗi cây thuốc thu từ 3 – 10 mẫu và được gắn nhãn ghi rõ các thông tin về kí hiệu mẫu, thời gian, địa điểm và người thu mẫu (các mẫu cùng cây đánh số cùng một số hiệu mẫu). Mẫu thu thập sẽ được xử lý theo phương pháp của Nguyễn Nghĩa Thìn (2007) [09] như sau: + Bước 1: sau mỗi ngày thu mẫu, mẫu vật sẽ được mang về nơi ở, xếp mẫu ngay ngắn vào một tờ báo cỡ 28 x 42 cm, để mẫu ở trạng thái tự nhiên, có lá sấp – lá ngửa, vuốt cho thẳng mẫu và đeo etyket cho mẫu. + Bước 2: xếp khoảng 15 – 20 mẫu thành một chồng, dùng dây dứa buộc lại. + Bước 3: cho mẫu vào túi nilon và tẩm cồn cho chồng mẫu để bảo quản. Hình 3.1. Các dụng cụ sử dụng cho nghiên cứu trong đề tài
  34. 25 3.3.4. Phương pháp đánh giá tính đa dạng nguồn tài nguyên cây thuốc Để đánh giá tính đa dạng nguồn tài nguyên cây thuốc của cộng đồng dân tộc tại xã Xàng Ma Sáo, huyện Bát Xát,tỉnh Lào Cai, đề tài sử dụng phương pháp đánh giá của Nguyễn Nghĩa Thìn (1997) [08]: - Đa dạng về bậc phân loại: ngành, lớp, họ, chi, loài. - Đa dạng về dạng sống: kí sinh, dây leo, gỗ trung bình, gỗ nhỏ, thảo, bụi. - Đa dạng về môi trường sống: rừng, đồi, vườn, ven suối hoặc nơi ẩm ướt. - Đa dạng về bộ phận sử dụng làm thuốc: thân, rễ, lá, hoa, quả, hạt, nhựa, cả cây. - Đa dạng về cách chế biến cây thuốc: khô và tươi. - Đa dạng về các nhóm bệnh chữa trị: bệnh về khớp, tim, dạ dày, gan, giải độc, xương, 3.3.5. Phương pháp đánh giá mức độ nguy cấp Đánh giá mức độ nguy cấp của các loài cây thuốc, xác định những cây thuốc thuộc diện bảo tồn ở khu vực nghiên cứu theo: Sách đỏ Việt Nam, phần thực vật rừng (Bộ KH&CN, 2007) [27], Nghị định 32/2006/NĐ-CP (Chính phủ nước Việt Nam, 2006) [11], Danh sách đỏ cây thuốc Việt Nam trong Cẩm nang cây thuốc cần được bảo vệ ở Việt Nam (Nguyễn Tập, 2007) [10]. 3.3.6. Phương pháp nghiên cứuhoạt tính kháng khuẩn - Bước 1: Chuẩn bị nguyên liệu. Nguyên liệu lá, thân, rễ cây thuốc sau khi thu hái được rửa sạch, để ráo nước sau đó đem sấy khô ở 900C đến khối lượng không đổi. - Nguyên liệu sau khi sấy khô được nghiền trong máy xay đa năng loại nhỏ thành bột dạng mịn, bảo quản nơi khô ráo để sử dụng trong các nghiên cứu tiếp theo. - Bước 2: Tạo cao chiết
  35. 26 Nguyên liệu được tách chiết theo phương pháp ngâm nóng. Nguyên liệu dạng bột khô được đem đi chiết với tỷ lệ 20g/100ml bằng dung môi methanol, sau đó cho vào máy lắc với tần số 200 vòng/phút (để các chất có hoạt tính sinh học tan đều trong dung môi) ở các điều kiện thời gian khác nhau (24h, 48h, 72h), sau đó tiến hành lọc qua giấy lọc, 80ml dịch lọc được đem đi cô đặc bằng máy cô quay (hoặc sấy khô) đến khi có khối lượng khô không đổi và được bảo quản ở 40C để sử dụng trong các nghiên cứu về khả năng kháng khuẩn. - Bước 3: Chuẩn bị giống vi khuẩn Sử dụng 2 chủng vi khuẩn gồm 1 chủng gram dương làS.a (Staphylococcus aureus), và 1 chủng gram âm là E.coli (Escherichia coli), lấy từ phòng thí nghiệm Vi sinh - Trường Đại học Khoa học Thái Nguyên. Bảo quản giống trên môi trường thạch nghiêng: vi sinh vật được hoạt hóa trong môi trường LB, sau đó được cấy chuyển sang môi trường thạch nghiêng, nuôi 24 giờ ở 370C, giữ trong tủ lạnh để thực hiện các nghiên cứu tiếp theo. Cấy chuyển giữ giống trên thạch nghiêng định kỳ 2 tuần một lần. - Bước 4: Thử khả năng kháng khuẩn Kiểm tra khả năng kháng khuẩn của các loại dịch chiết bằng phương pháp khuếch tán trên đĩa thạch, thí nghiệm được bố trí 3 lần nhắc lại trên 1 chủng vi khuẩn 3 đĩa petri trên 1 lần nhắc lại. Pha các cao chiết của toàn thân cây thuốc với nước ở nồng độ 100mg/ml và sau đó dùng cao đã pha để thử hoạt tính kháng khuẩn. Các thao tác được thực hiện trong tủ cấy vô trùng. Khi mật độ vi khuẩn đạt đến nồng độ 1068 tế bào/ml, lắc đều ống nghiệm chứa vi khuẩn. Môi trường LB đã được hóa lỏng trong lò vi sóng, khi còn lỏng đổ đều môi trường vào các đĩa Petri, sau đó để nguội để môi trường đông đặc lại tạo thành mặt phẳng. Dùng micropipet hút 100μl dịch vi khuẩn vào giữa đĩa thạch chứa môi
  36. 27 trường LB (Thành phần của môi trường LB là như sau (g/l): Peptone - 10; Cao nấm men - 5; NaCl -10; pH: 7,0), dùng que cấy tam giác trang đều cho đến khi mặt thạch khô. Sau 15 phút đục giếng trên môi trường thạch với đường kính 6mm, đục 5 giếng, mỗi giếng cách nhau 2-3cm. Mỗi giếng thạch nhỏ 100μl các dịch chiết cần nghiên cứu bằng micropipet, sử dụng đối chứng dương làkháng sinh Kanamicin và Amikacin để so sánh, để các đĩa thạch trong tủ lạnh 30 phút để dịch chiết khuếch tán ra môi trường nuôi cấy vi khuẩn, sau đó nuôi cấy trong tủ ấm 370C, sau 24h mang ra đo kích thước vòng kháng khuẩn. Hoạt tính kháng khuẩn được xác định bằng cách đo kích thước vùng kháng khuẩn (BK) bằng công thức: BK=D-d, trong đó D là đường kính vòng kháng khuẩn, d là đường kính giếng thạch.
  37. 28 PHẦN 4 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 4.1. Đa dạng nguồn tài nguyên cây thuốc tại xã Sàng Ma Sáo, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai 4.1.1. Đa dạng các bậc taxon 4.1.1.1. Đa dạng bậc ngành, lớp Qua kết quả điều tra, nghiên cứu cây thuốc được sử dụng theo kinhh nghiêm của cộng đồng dân tộc H’Mông tại khu vực nghiên cứu đã ghi nhận được 91 loài thực vật đã được đồng bào dân tộc H’Mông ở tại đây sử dụng để làm thuốc, thuộc 81 chi, 49 họ. các loài cây này đều là những cây mọc quanh làng bản, nương đồi ven suối, mà người dân thường gặp, nên họ đã lựa chọn để làm thuốc. Kết quả được tổng hợp ở bảng 4,1. Bảng 4.1. Số loài cây thuốc đã phát hiện tại khu vực nghiên cứu TT Ngành thực vật Số họ Số chi Số loài Ngành Dương Sỉ (Pteridophyta) 1 1 1 1 Lớp Dương Sỉ (Polypodiopsida) 1 1 1 Ngành Ngọc Lan (Magnoliophyta) 46 78 88 2 Lớp hai lá mầm (Magnoliopsida) 44 69 79 Lớp một lá mầm (Liliopsida) 2 9 9 3 Ngành Thạch tùng (Lycopodiophyta) 1 1 1 4 Ngành Dây gắm (Gnetophyta) 1 1 1 Tổng số 49 81 91
  38. 29 Kết quả bảng 4.1 cho chúng ta thấy các loài cây thuốc điều tra được tại khu vực nghiên cứu chủ yếu thuộc nhóm thực vật bâc cao có mạch như ngành Dương sỉ (Pteridophyta) thu thập được 1 loài có công dụng để chữa một số bệnh thông thường, là cây Bòng bong (Lygodium japonicum Thunb.Sw) chiếm 1,09% tổng số loài đã điều tra được. Ngành Thạch tùng (Lycopodiophyt) thu thập được 1 loài thuộc 1 chi và 1 lớp là lớp thạch tùng (Lycopodiophyta), đó là cây Thông đất (Lycopodiella cernua), chiếm 1.09% so với tổng số loài điều tra được, Ngành Dây gắm (Gnetophyta) và là lớp Gắm, rau bép (Gnetopsida) thu thập được 1 loài thuộc 1 chi 1 họ là cây Dây gắm (Gnetum montanum Markgr), chiếm 1.09% so với tổng số loài điều tra được tại khu vực nghiên cứu. Ngành Ngọc lan (Magnoliophyta) thu thập được 88 loài có công dụng làm thuốc(chiếm 96,70,% tổng số loài), thuộc 78 chi (chiếm 96,29% tổng số chi)và 46 họ (chiếm 93,88% tổng số họ). Từ đây có thể giải thích là hệ thực vật ở khu vực nghiên cứu bao gồm chủ yếu là các đại diện nằm trong ngành Ngọc lan là có số lượng loài, chi, họ nhiều hơn so với các ngành khác Các loài trong ngành Ngọc lan chiếm vai trò vô cùng quan trọng trong các loài được sử dụng làm thuốc và để phân tích sâu hơn về thành phần các bậc taxon trong hai lớp của ngànhNgọclan là: lớp Hai lá mầm (Magnoliopsida) và lớp Một lá mầm (Liliopsida) được thể hiện rõ qua số lượng và tỷ lệ phần trăm cụ thể trong bảng 4.2.
  39. 30 Bảng 4.2 Số lượng họ, chi, loài thuộc 2 lớp trong ngành Ngọc lan Họ Chi Loài Magnoliophyta (Ngành ngọc lan) Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ lượng % lượng % lượng % Magnoliopsida 44 95,65 69 88,46 79 89,77 (lớp hai lá mầm) Liliopsida 2 4,35 9 11,54 9 10,23 (lớp một lá mầm) Tổng 46 100 78 100 88 100 Lớp Hai lá mầm (Magnoliopsida) có số họ, chi, loài được dùng làm thuốc ưu thế hơn hẳn so với lớp Một lá mầm. lớp Hai lá mầm có 79 loài, chiếm tỷ lệ 89,77%; 69 chi, chiếm tỷ lệ 88,46% và 44 họ, chiếm tỷ lệ 95,65% so với tổng số loài, chi, họ trong ngành. Trong số này có một số loài cây có giá trị như:Croton tonkinensis Gagnep (Khổ sâm) chữa viêm loét dạ dày, Phyllanthus reticulatus Poir (Phèn đen) chữa suy thận, Euphorbia hirta L (Cỏ sữa lá lớn) điều trị xơ gan, Flueggea virosa(Roxb. ex Willd.)Voigt (Bỏng nổ) điều trị đau thần kinh tọa, suy thận,Hedyotisdiffusa Willd (Bạch hoa xà thiệt thảo) điều trị ung thư, Myriactis delavayi Gagnep(Dùi trống nhỏ) được người đân dùng để chữa nhuận gan,tăng cường thị lực,Valeriana hardwickii Wall. in Roxb (Cẩu tích) bổ can thận, phong thấp, Costus speciosus (Koenig) Smith (Mía dò) được người dân ở đây dụng để chữa viêm thận, phù thũng, đái dắt, Lớp Một lá mầm (Moncotyledones) chỉ chiếm với số lượng rất ít là 9 loài,và chiếm 10%; 9 chi, chiếm 7,69% và 2 họ chiếm 4,34% so với tổng số loài, chi, họ trong ngành Ngọc lan.Tuy lớp Một Lá mầm chiếm tỷ lệ không lớn, nhưng trong lớp này cũng có một số cây có giá trị như: (Gừng đen)
  40. 31 Distichochlamys citrea M. F. Newman đã được người dân dung để điều trị ung thư, điều hòa các chức năng tim gan thận (Địa liền) Kaempferia angustifolia Rosc dùng để chữa tê phù, tê thấp, (Cỏ may) Chrysopogon aciculatus (Retz.)giải nhiệt,lợi tiểu (Nghệ đen) Curcuma aeruginosa Roxb được đồng bào nơi đây dung để chữa các bệnh về dạ dày, viêm loét dạ dày, Như vậy ta có thể thấy các loài cây trong ngành Ngọc lanđược người dân sử dụng nhất là các loài cây thuộc lớp Hai lá mầm (Dicotyledones) chiếm tỷ lệ khá lớn cũng đóng vai trò quan trọng trong các loài thực vật được đồng bào dân tộc H’Mông sử dụng để làm thuốc tại địa phương. Theo nguyên cứu khác của Dương Văn Hưng (2018), nghiên cứu tri thức bản địa của cộng động dân tộc ở xã Yên Ninh, huyện phú Lương, tỉnh Thái Nguyên, đã xác định được 149 loài, 137 chi, 74 họ, thì trong đó thì lớp Hai lá mầm cũng chiếm tỷ lệ rất lớn là có 117 loài, chiếm 78,52%; 108 chi, chiếm 78,83% và 56 họ, chiếm 75,65% so với tổng số loài(Dương Văn Hưng, 2018)[20], Từ đây có thể thấy các loài thực vật tập trung nhiều ở lớp Hai lá mầm và một số ít ở lớp Một lá mầm, Dưới đây là một số hình ảnh của một số cây thuốc tại khu vực nghiên cứu.
  41. 32 Dùi trống nhỏ Ngũ gia bì gai (Myriactis delavayi Gagnep) (Acanthopanax trifoliatus (L.) Voss) Củ gừng đen Câu đằng (Distichochlamys citrea M. F. Newman) (Uncaria acida (Hunt.) Roxb Hoa hiên Địa liền (Hemerocallis fulva L) (Kaempferiaangustifolia Rosc) Hình 4.1. Hình ảnh một số cây thuốc khu vực nghiên cứu
  42. 33 4.1.1.2.Đa dạng bậc họ Số lượng họ cây thuốc thu được ở khu vực nghiên cứu bao gồm 49 họ. Sự phân bố các họ trong các lớp như sau: Bảng 4.3. Sự phân bố số lượng loài cây thuốc trong các họ Số loài xuất hiện > 10 loài 1 2 3 4 5 6 7 8 9 Số họ xuất hiện và < loài loài loài loài loài loài loài loài loài 15 Ngành loài Lớp Pteridophyta 1 0 0 0 0 0 0 0 0 0 Magnoliophyta 29 9 0 3 3 0 2 0 0 0 Magnoliopsida 29 9 0 2 2 0 2 0 0 0 Liliopsida 0 0 0 1 1 0 0 0 0 0 Lycopodiophyta 1 0 0 0 0 0 0 0 0 0 Gnetophyta 1 0 0 0 0 0 0 0 0 0 Tổng số họ 32 9 0 3 3 0 2 0 0 0 Tỷ lệ số họ/tổng số họ 65.31 18.37 0.00 6.12 6.12 0.00 4.08 0.00 0.00 0.00 (%) Số loài 32 18 0 12 15 0 14 0 0 0 Tỷ lệ số loài/ tổng số 35.16 19.78 0.00 16.90 16.48 0.00 15.38 0.00 0.00 0.00 loài (%) Kết quả đạt được ở bảng 4.3 cho thấy có 2 họ có 7 loài cùng tham gia đó là họ Bạc hà (Lamiaceae) và họ Thầu dầu (Euphorbiaceae) với tỷ lệ chiếm4,08% so với tổng số họ đã điều tra được và chiếm 15,38% số loài, có 3 họ có 5 loài là họ Ngũ gia bì (Araliaceae) họ Cúc (Asteraceae) – lớp Hai lá mầm và họ Hòa thảo (Poaceae) – lớp một lá mầm với tỷ lệ chiếm 6,12% tổng số họ và chiếm 16,48% so với tổng số loài điều tra được, có 3 họ có 4 loài
  43. 34 tham gia đó là họ Gừng (Zingiberaceae) – lớp một lá mầm, họ Cà Phê (Rubiaceae) và họ Ô rô (Acanthaceae) – lớp Hai lá mầmcả 3 họ này đều thuộc ngành Ngọc lan (Magnoliophyta),chiếm 6,12% so với tổng số họ đã điều tra được và chiếm 16,90% so với tổng số loài, có 9 họ có sự tham gia của 2 loài là họ Đậu (Fabaceae), họ Rau răm (Polygonaceae), họ Huyết dụ (Piperaceae), họ Huyết giác (Dracaenaceae), họ Cỏ roi ngựa (Verbenaceae), họ Hoa mõm chó (Scrophulariaceae), họ Rau dền (Amaranthaceae), họ Cói (Cyperaceae), và họ Chuối (Musaaceae), cả 9 họ này điều nằm ở lớp hai lá mầmvà 9 họ này đều thuộc ngành Ngọc lan (Magnoliophyta),chiếm 18,37% so với tổng số họ và chiếm 19,78% so với tổng số loài đã điều tra được, số họ có số lượng là một loài chiếm ty lệ lớn nhất là 65,31% so với tổng số họ điều tra được, và chiếm 35,16% so với tổng số lượng loài đã điều tra được tại khu vực nghiên cứu với 32 họ trong đó 29 họlà nằm trong ngành Ngọc lan(Magnoliophyta) và ở lớp lá Hai lá mầm (Magnoliopsida), và 1 họ nằm trong Ngành dương sỉ (Pteridophyta), và một họ trong ngành Dây gắm (Gnetophyta), và họ còn lại là nằm trong ngành Thạch tùng (Lycopodiophyta).Qua đó thể hiện tính đa dạng các họ thực vật sử dụng để làm thuốc. Bảng 4.4. So sánh các họ có nhiều loài cây thuốc ở khu vực nghiên cứu (1),với số loài từng họ trong hệ thực vật Việt Nam(2) TT Họ nhiều loài NC(1) TVVN(2) Tỷ lệ % giữa (1) và (2) 1 Poaceae - Họ Hòa thảo 5 610 0,82 2 Euphorbiaceae - Họ Thầu dầu 7 477 1,47 3 Lamiaceae -Họ Bạc hà 7 168 4,17 4 Araliaceae - Họ Ngũ gia bì 5 168 2,98 5 Zingiberaceae - Họ Gừng 4 135 2,96 6 Asteraceae - Họ Cúc 5 380 1,32 (Chú thích(2): Danh lục các loài thực vật Việt Nam trung tâm NCTN&MT- Đại học Quốc gia Hà Nội và Viện ST&TNSV, 2006[01]
  44. 35 Từ bảng4.4 chothấy,có 6 họ có nhiều loài được cộng đồng dân tộc H’Môngsử dụng làm thuốc phòng và chữa trị bệnh. Tỷ lệ số loài trong cùng một họ có nhiều loài được sử dụng làm thuốc tại khu vực nghiên cứu so với tổng số loài trong cùng họ đó có tại Việt Nam có sự chênh lệch rất lớn, cụ thể có những họ nhiều loài như: họThầudầu (Euphorbiaceae)và họ Bạc hà (Lamiaceae) có 7 loài, lần lượt chiếm 1,47% (7/477) và 4,14% (7/168) so với số loài trong cùng họ đó có tại Việt Nam họ Hòa thảo (Poaceae) chiếm 0.82% (5/610), họ Ngũ gia bì (Araliaceae) chiếm 2,98% (5/168), họ Gừng (Zingiberaceae) chiếm tỷ lệ là 2,96% (4/1355) và họ Cúc (Asteraceae) chiếm 1,32% (5/380), Như vậy, số loài được người dân sử dụng làm thuốc trong các họ còn chiếm tỷ lệ rất thấp so với số lượng loài trong cùng một họ đó tại Việt Nam, chỉ có họ Bạc hà (Lamiaceae) là chiếm tỷ lệ 4,14% cao hơn so với các họ còn lại trong khu vực nghiên cứu và thấp nhất là họ Hòa thảo (Poaceae) chỉ chiếm 0,82% vậy nên khả năng phát hiện ra thêm nhiều loài mới có thể sử dụng làm thuốc là rất lớn Theo một nghiên cứu khác vào năm (2018), của Dương Văn Hưng cũng xác định được 6 họ có nhiều loài cây thuốc ơ khu vực nghiên cứu và họ có nhiều nhất là họ Cúc (Asteraceae) với 13 loài chiếm 3,71% (Dương Văn Hưng, 2018) [20] vậy nên khả năng tìm thấy thêm loài cây thuốc mới là rất lớn ở Việ Nam. 4.1.1.3. Đa dạng ở bậc chi Sự đa dạng và phong phú về thực vật cây thuốc ở xã Sàng Ma Sáo, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai không chỉ thể hiện ở sự đa dạng bậc họ mà còn sự phong phú về các chi cũng khá rõ, điều này thể hiện ở bảng 4.5
  45. 36 Bảng 4.5. Thống kê các chi có nhiều loài được sử dụng làm thuốc Số lượng TT Chi có nhiều loài Thuộc họ loài 1 Ocimum Lamiaceae - Họ Bạc Hà 3 2 Amomum Zingiberaceae - Họ Gừng 2 3 Acanthopanax Araliaceae - Họ Ngũ Gia Bì 2 4 Pirper Piperaceae - Họ Hồ Tiêu 2 Euphorbiaceae - Họ Thầu 5 Euphorbiaceae dầu 2 6 Blumea Asteraceae - Họ Cúc 2 Tổng 13 Từ kết quả ở bảng 4.5 ở khu vực nghiên cứu có 6 chi có nhiều loài nhất là Ocimum (3loài), Amomum (2loài), Acanthopanax (2loài), Pirper (2loài), Euphorbiaceae (2 loài), Blumea (2 loài). Một số cây thuốc có giá trị sử dụng phổ biến trong các chi này là: chi Ocimum có Hoắc hương (Agastache rugosa (Fisch. et May.) Kuntze)có tác dụng chữa chữa cảm, ho, nôn mửa, đau bụng kinh, Cây mật gấu – Lá đắng (Isodon lophanthoides (D.don) Hara)chữa đau nhức xương khớp, giúp điều trị tăng huyết áp,Hương nhu hoa (Dianthus caryophyllusL.) có tác dụng đau bụng khi hành kinh,ăn uống không tiêu, đi ngoài ra máu, chi Amomum có Gừng đen (Distichochlamys citrea M. F. Newman) chữa các bệnh hỗ trợ điều trị ung thư,tăng cường miễn dịch,điều hòa chức năng tim, gan, thận, Địa liền (Kaempferia angustifolia Rosc) có tác dụng chữa tê phù, tê thấp, đau dạ dày, chi Acanthopanax có cây Cơm cháy (Polyscias sambucifolia (Sieber) Harms in Engl. & Prantl) chữa chữa ghẻ lở, hàn viết thương, chữa sưng vú, Ngũ gia bì gai (Acanthopanax trifoliatus (L.) Voss) có tác dụng đau lưng, xương khớp, khí hư, tiểu tiện, chi Pirper, có Trầu rừng (Piper chaudocanum C. DC) có tác dụng cầm máu, dị ứng, ghẻ lở, Lá lốt
  46. 37 (Piper lolot C. DC) tác dụng giải độc,tê thấp, đau lưng,đầy bụng, nôn mửa, chi Euphorbiaceae, có Phèn đen (Phyllanthus reticulatus Poir) có tác dụng điều trị gai cột sống, thủy đậu, suy thận, Chó đẻ răng cưa (Phyllanthus amarus Schum) có tác dụng sát trùng, lợi tiểu,tiêu độc, tắm, chi Blumea, có Cải trời (Gynura nitida DC) chữa mụn nhọt, giải độc cầm máu, Đại bi (Blumea balsamifera (L.) DC) có tác dụng giải cảm, chữa ho, đau bụng, nhức mỏi xương khớp. Như vậy trong tổng số 91 chi thì số lượng chi có nhiều loài được sử dụng làm thuốc chỉ chiếm 6,60% (6/91) trong khu vực nghiên cứu.còn lại chủ yếu là các chi có số lượng loài là một loài, chiếm một tỷ lệ khá cao là 93,4% Điều này thể hiện sự phong phú trong việc sử dụng cây cỏ làm thuốc của đồng bào dân tộc H’Mông ở xã Sàng Ma Sáo bởi sự phân bố đồng đều các cây trong các chi, cũng như trong các họ cây thuốc. Theo một nghiên cứu khác của tác giả Nông Thái Hòa vào năm (2018), đã xác định được 13 chi có nhiều loài cây được cộng đồng người dân ởxã Hoàng Nông huyện Đại Từ tỉnh Thái Nguyên sử dụng làm thuốc chiếm 10,8% (13/129) (Nông Thái Hòa, 2018)[21] từ đây có thể thấy số chi có nhiều loài cây sử dụng làm thuốc vật trội hơn hẳn, 4.1.2. Đa dạng về dạng sống của thực vậtlàm thuốc Sự đa dạng về dạng sống của các loài thực vật làm thuốc tại khu vực nghiên cứu được thể hiện trong bảng 4.6 như sau:
  47. 38 Bảng 4.6. Đa dạng về dạng sống của nguồn cây thuốc ở khu vực nghiêncứu Dạng sống Chỉ số Thân Gỗ Cây Cây kí Dây leo thảo nhỏ bụi sinh Tổng Số lượng loài 52 4 21 13 1 91 Tỷ lệ (%) 57,14 4,40 23,08 14,29 1,10 100 Từ bảng kết quả 4.6 cho thấy, phần lớn các cây thuốc được đồng bào dân tộc H’Mông sử dụng là dạng cây thân thảo, với tỷ lệ chiếm 57,14% 52/91 loài, so với tổng số loài cây thuốc thu được và tập trung ở một số họ như: họGừng (Zingiberaceae), với một số loài như: Gừng đen (Distichochlamys citrea M. F. Newman) Địa liền (Kaempferia angustifolia Ros), họ Bạc hà (Lamiaceae), xếp thứ 2 sau thân thảo là Cây bụi với 21/91 loài chiếm 23.08%. dạng cây này tập trung ở họ Ô rô (Acanthaceae) để chữa các bệnh như giải độc tiêu viêm ,họ Cúc (Asteraceae). Tiếp đến là Dây leo với 13/91 loài chiếm 14,29% dạng cây nay tập chung ở họ Bòng bong (Schizaeaceae), và họ Dây gắm (Gnetaceae), họ Bí bầu (Cucurbitaceae), tiếp đến là Gỗ nhỏ với 4/91 loài chiếm 4,40% tập trung ở một số họ nhu: họ Ngũ gia bì (Araliaceae) họ Đu đủ (Caricaceae), cuối cùng là dạng cây ký sinh đây là loài cây chiếm tỷ lệ thấp nhất so với một số loài khác nó chỉ có 1/91 loài và chiếm 1,10% có trong họ Tơ hồng (Cuscutaceae) đó là cây Tơ vàng (Cuscuta chinensis Lamk) có tác dụng chữa vàng da,hen suyễn, đái tháo đường. Như vậy, việc sử dụng các cây cỏ làm thuốc chữa bệnh của người dân H’Mông ở xã Sàng Ma Sáo, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai là rất phong phú và đa dạng. Việc sử dụng những cây thuốc này chủ yếu nó tập trung vào những cây dễ thu hái như những cây thân thảo.
  48. 39 60 57.14 52 50 40 30 23.08 21 Số lượng 20 1314.29 Tỷ lệ (%) 10 4 4.40 1 1.10 Số lượng Số và phần lệ tỷ trămloài 0 Thân thảo Gỗ nhỏ Cây bụi Dây leo Cây kí sinh Dạng sống Hình 4.2. Tỷ lệ các dạng sống của nguồn cây thuốc ở khu vực nghiên cứu Từ Hình 4.2 có thể thấy các dạng sống chủ yếu của thực vật được sử dụng làm thuốc tại khu vực nghiên cứu là thân thảo, cây bụi, dây leo, gỗ nhỏ, và cuối cùng là cây ký sinh, nhưng tập trung nhiều nhất ở dạng thân thảo vì dạng cây này mọc rất phổ biến quanh nhà quanh làng bản, rất dễ mọc và dễ trồng,và dạng sống này cũng dễ thu hái và dễ sử dụng. 4.1.3. Đa dạng về môi trường sống của thực vật làm thuốc Viêc phân chia các loài môi trường sống được căn cứ vào địa hình, đất đai, khí hậu, nơi mà cây thuốc đó phát triển, dưới đây là các dạng môi trường sống của thực vật làm thuốc Sống ở đồi: Vùng chưa có cây gỗ to cây bụi (Rừng phục hồi) Sống ở vườn nhà: Cây sống ở vườn, quanh làng bản (Đất vườn tạp) Sống ở rừng: Vùng có cây gỗ to cây sống ở rừng rậm,(Rừng già) Sống ở ven song ven suối: Cây sống ở gần nơi nước chảy, ven khe suối, nơi ẩm ướt, (Ven sông suối)
  49. 40 Bảng 4.7. Sự phân bố nguồn cây thuốc theo môi trường sống ở khu vực nghiên cứu TT Môi trường sống Số loài Tỷ lệ % 1 Sống ở rừng 35 38,46 2 Sống ở vườn nhà 34 37,36 3 Sống ở ven song ven suối 14 15,38 4 Sống ở đồi 8 8,79 Tổng 91 100 Sống ở ven sông ven suối , 15.38% Sống ở vườn Sống ở vườn , Sống ở đồi 37.36% Sống ở rừng Sống ở rừng , 38.46% Sống ở ven sông ven suối Sống ở đồi , 8.79% Hình 4.3. Sự phân bố cây thuốc theo môi trường sống của nguồn cây thuốc ở khu vực nghiên cứu Dựa vào Hình 4.3 và Bảng 4.7 cho thấy môi trường sống của các loại cây thuốc ở khu vực nghiên cứu là rất đa dạng và phong phú, với 4 môi trường chính là sống ở vườn, sống ở đồi, sống ở rừng và sống ở ven song ven suối trong đó cây phân bố ở rừng là cao nhất chiếm với tỷ lệ là 38,46% với 35 loài, một phần cũng được các ông lang, bà mế, hay một số hộ dân trong khu vực mang về trồng trong vườn nhà, chiếm tỷ lệ 37,36% với 34 loài Vì ý thức được các loại cây thuốc trong rừng ngày càng bị khai thác cạn kiệt để bán sang Trung Quốc, các ông lang, bà mế đã đem những cây thuốc về trồng
  50. 41 trong vườn nhà nhằm mục đích bảo vệ loài và nguồn gen cây thuốc. Theo các ông lang, bà mế thì trước kia vào rừng gặp nhiều cây thuốc quý, nhưng bây giờ cây thuốc quý hiếm phải vào trong rừng sâu mới có, những cây như Gừng đen (Distichochlamys citrea M. F. Newman), có tác dụng hỗ trợ điều trị ung thư,tăng cường miễn dịch,điều hòa chức năng tim, gan, thận, Xuân hoa đỏ (Pseuderanthemum var. atropurpureum (Bull) Fosb. sec. Phamh)có tác dụng giải độc gan, giải rượu,điều trị ung thư Mạch môn đông (Ophiopogon japonicus (L. f.) Ker-Gawl) với tác dụng giảm ho, tiêu đờm, chữa khát nước,táo bón tiếp theo là các loài sống ở đồi chiếm 8,79% với 8 loài so với tổng số loài đã điều tra được. Với địa hình hiện nay ở khu vực nghiên cứu thì diện tích rừng đang bị thu hẹp, thay vào đó là các đồi bị bỏ hoang, hoặc đã được thay thế bằng các cây trồng khác nên phần lớn các loài cây thuốc mọc hoang trên đồi như Cẩu tích (Valeriana hardwickii Wall. in Roxb) có tác dụng bổ can thận,phong thấp,giúp mạnh gân xương khớp, Bỏng nổ (Flueggea virosa (Roxb. ex Willd.) Voigt) chữa suy thận, hỗ trợ chữa thoái hóa, gai đốt sống, đau thần kinh tọa tiếp theo là sống ở ven sông ven suối là chiếm 15,38% với 14 loài đây chủ yếu là các cây ưa ẩm như; Dùi trông nhỏ (Myriactis delavayi Gagnep)chữa đau mắt, quáng gà, tăng thị lực,nhức đầu, nhuận gan, Mào gà trắng (Celosia argentea L.)chữa chảy máu dạ dày,ruột, thổ huyết, đau mắt đỏ, Cỏ bạc đầu (Kyllinga nemoralis (Forst. & Forst. f.) Dandy ex Hutch. & Dalz)chữa bệnh tiểu đường, Như vậy, môi trường sống chủ yếu của cây thuốc là ở vườn, với gần hơn một nửa số loài điều tra được sống tại vườn và ở rừng. Người dân tại địa bàn nghiên cứu đã ý thức được giá trị, tầm quan trọng của cây thuốc khi đem cây thuốc về vườn nhà trồng, và cũng để thuận lợi cho việc thu hái cây thuốc. Tuy nhiên, số lượng cây thuốc sống trong rừng vẫn còn nhiều, nhưng theo người dân nơi đây cây thuốc trong rừng giờ rất khó tìm do hoạt động canh tác
  51. 42 rừng, phá rừng làm rẫy, làm mất môi trường sống và do người dân khai thác tràn lan để bán vì mục đích kinh tế trước mắt nên giảm đi số lượng của các loài cây thuốc cũng như mất đi môi trường sống của các loài cây thuốc nên rất khó tìm, theo lời cácthầy lang bà mế thì cần phải đi các huyện khác trong tỉnh để tìm kiếm, hoặc có khi phải mua vì không tìm được như loài Dùi trống nhỏ (Myriactis delavayi Gagnep)chữa đau mắt, quáng gà,tăng thị lực,nhức đầu, nhuận gan, nằm trong phân hạng nguy cấp EN.B1+2 b,c,E trong Danh lục sách đỏ Việt Nam (SĐVN: 77) (2001) ở dạng thân thảo thuộc lớp Hai lá mầm ở ngành Ngọc lan Tuy nhiên, các cây thuốc điều tra được tại khu vực nghiên cứu thì không có loài nào là loài đặc hữu của Việt Nam 4.1.4. Những cây thuốc thuộc diện cần bảo tồn ở Việt Nam đã ghi nhận được tại xã Sàng Ma Sáo. Kết quả nghiên cứu của đề tài đã xác định được các loài cây thuốc thuộc diện nguy cấp và sắp nguy cấp tại bảng kết quả sau: Bảng 4.8. Danh lục cây thuốc thuộc diện cần bảo tồn ghi nhận ở khu vực nghiên cứu Cấp quy định T Tên phổ Tên khoa học 32/ T thông SĐVN DLĐCT NĐ-CP Ngũ gia Acanthopanax Nguy cấp (EN) 1 bì gai trifoliatus (L.) Voss. (SĐVN: 45) Dùi trống Myriactis delavayi Sắp nguy cấp 2 nhỏ Gagnep. (VU) (SĐVN: 77) (Chú thích): SĐVN: Sách đỏ Việt Nam; EN – Nguy cấy (Endangered); 32/NĐ – CP: Nghị định; 32 của chính phủ; VU – Sắp nguy cấp (Vulnerable); DLĐCT: Danh lục đỏ cây thuốc (SĐVN: 45 ) sách đỏ Việt Nam thứ tự 45 trang 215(SĐVN: 77) sách đỏ Việt Nam thứ tự 77 trang 217
  52. 43 Tại khu vực nghiên cứu phát hiện2 loài cây thuốc quý hiếm, đang bị đe dọa tuyệt chủng ở Việt Nam, thuộc 2 chi, 2 họ. của một ngành thực vật bậc cao là ngành Ngọc lan (Magnoliophyta) và 2 loài này đều có tên trong Danh lục đỏ cây thuốc Việt Nam. Dựa vào bảng trên đã thống kê được: - Cấp EN - nguy cấp có loài Ngũ gia bì gai Acanthopanax trifoliatus (L.) Voss.Thuộc họ Ngũ gia bì có tác dụng chữa đau lưng, xương khớp, khí hư, tiểu tiện. - VU- sắp nguy cấp có loài Dùi trống nhỏ Myriactis delavayi Gagnep. Thuộc họ Cỏ dùi trống có công dụng chữa đau mắt, quáng gà,tăng thị lực,nhức đầu, nhuận gan. Trong thời giân nghiên cứu và thực hiện đề tài ở xã Sàng Ma Sáo, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai, tôi nhận thấy có 2 loài cây thuốc có giá trị cao trong y học cũng như giá trị về kinh tế. vì vậy cần phải nâng cao ý thức bảo vệ của mọi người, ưu tiên cho bảo vệ nguồn gen quý hiếm, để phục vụ cho công tác chữa bệnh lâu dài của người dân tại đây. 4.2. Đánh giá tình hình sử dụng cây thuốc của cộng đồng dân tộc H’Mông ở khu vực nghiên cứu. Trong quá trình tôi thực tậptại khu vực nghiên cứu, tôi thấy kinh nghiệm sử dụng các loài cây cỏ làm thuốc của dân tộc H’Mông rất phong phú và đặc sắc. 4.2.1. Đa dạng về bộ phận sử dụng của cây thuốc Để thấy rõ được tính đa dạng phong phú về việc sử dụng các bộ phận khác nhau của cây để chữa bệnh của người dân tộc H’Môngở khu vực nghiên cứu, kết quả được tổng hợp tại bảng 4.9
  53. 44 Bảng 4.9. Đa dạng của các bộ phận cây thuốc được sử dụng làm thuốc TT Bộ phận sử dụng Số loài Tỷ lệ % 1 Cả cây 40 43,96 2 Lá 24 26,37 3 Rễ 16 17,58 4 Thân 4 4,40 5 Nhựa 1 1,10 6 Vỏ 1 1,10 7 Hạt 5 5,49 Tổng 91 100 Từ bảng 4.9 cho chúng ta thấy, số loài sử dụng cả câylàm thuốc là nhiều nhất với 40 loài, chiếm tỷ lệ 43,96% trong tổng số loài thu được ví dụ như cây Cỏ gừng (Hymenachne acutigluma (Steud.) Gilliland) thuộc họ Hòa thảo của lớp một lá mầm ở ngành Ngọc lan có tác dụng chữa nhiễm trùng, sốt rét, bệnh vàng da Cỏ sữa lá nhỏ (Euphorbia heyniana Spreng) của họ Thầu dầu trong lớp Hai lá mầm ngành Ngọc lan, có tác dụng Chữa ho, hen suyễn,hắc lào và Cỏsữa lá lớn (Euphorbia hirta L) có tác dụng điều trị xơ gan,cổ trướng,hen suyễn. Tiếp đến là loài sử dụng bộ phận là lá chiếm 26,37% với 24 loài so với tổng số lượng loài điều tra được, 1 số cây thuốc sử dụng bộ phận lá cây như cây Cúc tần (Chrysanthemum coronarium L) có tác dụng Trị ho, bệnh trĩ,chữa ghẻ,cảm, giảm đau nhức, Cỏ mực – Nhọ nồi (Eclipta prostrata (L.) L) có tác dụng chữa bệnh gan, cầm máu,tiêu chảy, Húng chanh (Plectranthus amboinicus (Lour.) Spreng) chữa cảm cúm, ho. Cây dùng rễ để làm thuốc có 16 loài chiếm 17,58% so với tổng số loài đã thu được, ví dụ như Hàm xì (Flemingia macrophylla (Willd.) Prain) có tác
  54. 45 dụng chữa xưng tấy,lở loét,tê thấp, Dây bông xanh (Thunbergia grandiflora (Roxb. ex Rottl.) Roxb) chữa rắn cắn, Bạch đồng nữ (Clerodendrum var. simplex (Mold.) S. L. Chen) có tác dụng chữa bạch đới, khí hư,vàng da, tê thấp, Những cây sử dụng thân để làm thuốc có 4 loài và chiếm 4,40% so với tổng số loài đã thu được ở khu vực nghiên cứu ví dụ một số cây như: Địa liền (Kaempferia angustifolia Rosc) co tác dụng chữa tê phù, tê thấp, đau dạ dày thuộc họ gừng của lớp một lá mầm trong ngành Ngọc lan, Tiếp theo là các cây thuốc sử dụng bộ phận Nhựa có 1 loài chiếm 1,10% so với tổng số loài đã thu được,đó là Thuốc dấu (Pedilanthus) có tác dụng chữa viết thương, cầm máu. Tiếp là các cây sử dụng Vỏ để làm thuốc có 1 loài chiếm 1,10% so với tổng số loài thu được, đó chính là Ba gạc lá nhỏ (Rauvolfia micrantha Hook. F) có tác dụng chữa cao huyết áp,sốt rét, đau đầu. Những cây sử dụng hoa quả để làm thuốc có 5 loài chiếm 5,49% so với tổng số loài đã điều tra được như cây. Cây chuối hạt (Musa seminifera Lour) có tác dụng chữa hắc lào,sỏi thận,tiêu sưng, giảm đau, Cốt khí củ (Reynoutria japonica Houtt) chữa tê thấp, mất ngủ. Từ đây cho thấy có sự phân bố không đồng đều trong các bộ phận sử dụng thuốc vì do đặc tính thời vụ, do quan niệm chữa bệnh của đồng bào dân tộc và do hạn chế về số lượng cây thuốc. Ngoài việc sử dụng các bộ phận khác nhau của từng loài cây thuốc để trị bệnh thì tần số sử dụng các bộ phận trên một cây cũng có sự khác biệt. kết quả được thể hiện qua bảng 4.10:
  55. 46 Bảng 4.10. Đa dạng tần số các bộ phận cây được sử dụng làm thuốc TT Số lượng sử dụng Số loài tham gia Tỷ lệ % 1 1 bộ phận 39 42,86 2 Cả cây 40 43,96 3 2 bộ phận 9 9,89 4 3 bộ phận 3 3,30 Tổng 91 100 Từ kết quảbảng 4.10 cho ta thấy tùy thuộc vào từng loại bệnh mà thầy thuốc sử dụng các bộ phận khác nhau của cây thuốc, bởi vì trên cùng một cây thuốc, các bộ phận khác nhau thì có tác dụng dược tính khác nhau, người ta có thể dùng cả cây (chủ yếu là cây thân thảo) hoặc 2 bộ phận(thân – lá, lá quả, rễ - lá, vỏ lá, ) nhưng có loài chỉ sử dụng một bộ phận để làm thuốc, một số loài thì dùng kết hợp để dùng làm bài thuốc chữa bệnh như ăn với mật ong, sử dụng với muối, Trong bài thuốc của cộng đồng dân tộc H’Mông thì để chữa bệnh không chỉ dùng một bộ phận của một loài mà phải kết hợp rất nhiều loài khác nhau để chữa trị. Tuy vậy,sử dụng cả cây để chữa trị cũng nhiều, có 40 loài, chiếm 43,96% dùng cả cây chủ yếu là dạng thân thảo như một số cây Nghệ đen (Curcuma aeruginosa Roxb), Náng lá kiếm (Crinum defixum Ker-Gawl); sử dụng một bộ phận là 39 loài chiếm 42,86% sử dụng 2 bộ phận là 9 loài chiếm 9,89% ví dụ như:Cơm rượu trái (Glycosmis), Đu đủ rừng (Trevesia palmata (Roxb. ex Lindl.) Visan), và sử dụng ba bộ phận là có 3 loài chiếm 3,30% như cây Ba gạc lá nhỏ (Rauvolfia micrantha Hook. F), 4.2.2.Đa dạng về cách chế biến cây thuốc của đồng bào dân tộc H'Mông Kết quả nghiên cứu việc sử dụng cây thuốc để chữa bệnh của cộng đồng dân tộc H’Mông tại khu vực nghiên cứu dưới đây là bảng 4.11 về cách chế biến cây thuốc.
  56. 47 Bảng 4.11. Đa dạng về cách chế biến sử dụng cây thuốc TT Cách dùng Số loài Tỷ lệ % 1 Tươi 31 34,07 2 Khô 37 40,66 3 Khô, Tươi 23 25,27 Tổng 91 100 Từ kết quả Bảng 4.11 cho thấy sự đa dạng cách sử dụngvà phong phú cách chế biến cây thuốc để chữa bệnh tuy vậy sử dụng tươi, khô là chủ yếu còn có một số loài cây thuốc có thể dùng cả khô và tươi, sử dụng thuốc bằng tươi là 31 loài chiếm 34,07% so với số loài đã thu được tại khu vực nghiên cứu vi dụ như cây, Cỏ mực – Nhọ nồi (Eclipta prostrata (L.) L), cây kinh giới (Elsholtzia ciliata (Thunb.) Hyland) cây Hoa hiên (Hemerocallis fulva L) tiếp là sử dụng khô là 37 loài chiếm 40,66% so với tổng số loài điều tra được, như cây Cam thảo đất (Scoparia dulcis L) Cỏ xước (Centrostachys aquatica (R. Br.) Wall. in Roxb), và tiếp là sử dụng cả khô và tươi là có 23 loài chiếm 25,27% so với tổng số loài đã thu được, ví dụ cây Thanh táo (Justicia gendarussa Burm. F), Hổ nhĩ thảo (Saxifraga sarmentosa L. f), 4.2.3. Đa dạng về công dụng chữa bệnh của các loài cây thuốc Kết quả nghiên cứu việc sử dụng cây thuốc để chữa bệnh của cộng đồng dân tộc H’Mông tại khu vực nghiên cứu mang nét độc đáo và mang tính gia truyền. Tác giả đã thống kê được 13 nhóm bệnh mà cộng đồng dân tộc H’Mông tại khu vực nghiên cứu tại bảng sau.
  57. 48 Bảng 4.12. Tỷ lệ số loài có công dụng chữa các nhóm bệnh cụ thể Số Tỷ lệ STT Nhóm bệnh chữa trị loài % 1 Bệnh thời tiết (ho, sốt, cảm, đậu lào, ) 30 32,97 2 Bệnh thận (sỏi thận, suy thận, lợi tiểu, ) 17 18,68 3 Bệnh hệ tiêu hóa (đau bụng, dạ dày, trĩ, ) 15 16,48 Xương khớp (phong thấp, đau lưng, đau xương, thấp 4 14 15,38 khớp, Chữa lành vết thương, viêm nhiễm, giảm đau, 5 13 14,29 bỏng, 6 Bệnh sinh lý, bệnh phụ nữ, vô sinh, hậu sản, 12 13,19 7 Bệnh gan (sơ gan, giải độc gan, viêm gan, ) 6 6,59 8 Thanh nhiệt, giải độc, 5 5,49 9 Chữa bệnh hệ tuần hoàn (mỡ máu, huyết áp, tim, ) 5 5,49 10 Thuốc bổ, suy nhược, 4 4,40 11 Bệnh ung bướu (ung thư, u hạch, ) 3 3,30 12 Thuốc tắm 3 3,30 13 Tiểu đường 2 2,20 Từ kết quả bảng 4.12, cho thấy số lượng các loài cây thuốc chữa nhóm bệnh về thời tiết có số lượng nhiều nhất với 30 loài trong tổng số 91 loài, chiếm 32,97%, chúng thuộc các họ như họHòa thảo (Poaceae); họ Gừng (Zingiberaceae); họ Bạc hà (Lamiaceae); với một số cây như Hoắc hương (Agastache rugosa (Fisch. et May.) Kuntze) có tác dụng chữa cảm, ho, nôn mửa, đau bụng kinh, Húng chanh (Plectranthus amboinicus
  58. 49 (Lour.) Spreng) có tác dụng chữa cảm cúm, ho; Lưỡi cọp sọc (Sansevieria trifasciata Hort. ex Prain)có tác dụng chữa ho,viêm họng, tai chảy mủ, Sau nhóm bệnh thời tiết là các cây thuốc được dùng làm thuốc chữa bệnh thận có 17 loài, chiếm 18,68% trong tổng số 91 loài đã thu được, chúng thuộc nhiều họ khác nhau như: họ Trúc đào (Apocynaceae), họ Nữ lang (Valerianaceae), họ Bí (Cucurbitaceae), họ Ngũ gia bì (Araliaceae), trong đó có một số loài như: Cẩu tích (Valeriana hardwickii Wall. in Roxb) có tác dụng bổ can thận,phong thấp,giúp mạnh gân xương khớp, Hàm ếch (Saururus chinensis(Lour.) Hort. ex Loud) có tác dụng chữa sỏi thận,xương khớp,đau dạ dày, sốt ở trẻ em, Đinh lăng (Aralia chinensis L) tác dụng giải nhiệt,lợi sữa, bệnh thận, Sau nhóm bệnh chữa bệnh thận là nhóm bệnh về các bệnh hệ tiêu hóa có 15 loài chiếm 16,48% trong tổng số 91 loài thu hái được, chúng thuộc một số họ như: họ Hòa thảo (Poaceae); họ Gừng (Zingiberaceae); họ Cói (Cyperaceae); họ Cà phê (Rubiaceae), với một số loài như: Loét mồm (Hedyotis var. mollis (Pierre ex Pitard) T. N. Ninh) có tác dụng Chữa đau dạ dày,bớt ợ chua,se viết loét, Củ gấu (Cyperus rotundus L.) có tác dụng chữa kinh nguyệt không đều, ngực bụng đau,tiêu chảy, Hương nhu hoa (Dianthus caryophyllus L) có tác dụng chữa Đau bụng khi hành kinh, ăn uống không tiêu, đi ngoài ra máu, Tiếp đến là nhóm bệnh về xương khớp chiếm tỷ lệ 15,38% với 14 loài trong tổng số 91 loài thu được các loài này phân bố ở một số họ như; họ Dây gắm (Gnetaceae) của ngành Dây gắm (Gnetophyta); họ Thầu dầu (Euphorbiaceae); họ Gừng (Zingiberaceae); họ Cam (Rutaceae); họ Đậu (Fabaceae), với một số loài như: Dây gắm (Gnetum montanum Markgr) tác dụng chữa thoái hóa,xương khớp, Cơm rượu trái (Glycosmis) có tác
  59. 50 dụng chữa tê thấp, tay chân nhức mỏi, kích thích tiêu hóa, Hàm xì (Flemingiamacrophylla (Willd.) Prain), chữa xưng tấy,lở loét,tê thấp, Tiếp theo là nhóm bệnh chữa lành vết thương, viêm nhiễm, giảm đau, bỏng có 13 loài chiếm 14,29% nằm ở một số họ như: họ Mã đề (Plantaginaceae); họ Náng, thủy tiên (Amaryllidaceae) với một số loài Náng lá kiếm (Crinum defixum Ker-Gawl) chữa tụ máu, bong gân bó gẫy xương, Mã đề (Plantago major L)tác dụng cầm máu, nối gân, lợi tiểu, chữa ho, Tiếp đến là nhóm bệnh về sinh lý, bệnh phụ nữ, vô sinh, hậu sản có 12 loài chiếm 13,19% nằm trong các họ như: họ Ban (Hypericaceae); họ Cỏ roi ngựa (Verbenaceae); họ Hoa mõm chó (Scrophulariaceae) với một số loài như: Cam thảo đất (Scoparia dulcis L) tác dụng hạ nhiệt, giảm ho, điều kinh, Lưu ký nô (Hypericum sampsonii Hance) chữa đái ra máu,ho, kinh nguyệt không điều, Tiếp theo là nhóm bệnh Gan có 6 loài chiếm 6,59% các loài này phân bố chủ yếu ở một số họ như: họ Thầu dầu (Euphorbiaceae); họ Cỏ dùi trống (Eriocaulaceae); họ Ô rô (Acanthaceae); họ Thuốc bỏng (Crassulaceae), với một số loài như: Thuốc bỏng (Kalanchoe pinnata (Lamk.) Pers) có tác dụng chữa bầm huyết, bỏng lửa, viêm họng xơ gan cổ trướng, Cỏ sữa lá lớn (Euphorbia hirta L) có tác dụng điều trị xơ gan,cổ trướng,hen suyễn, Cà gai leo (Solanum procumbens Lour) có tác dụng cảm cúm,đau lưng,xương khớp,xơ gan, Tiếp là nhóm bệnh về hệ tuần hoàn có 5 loài 5,49% nằm trong một số họ, họ Cà phê (Rubiaceae); họ Gừng (Zingiberaceae), với một số loài như: Câu đằng (Uncaria acida (Hunt.) Roxb) có tác dụng chữa kinh giật ở trẻ em, chóng mặt, huyết áp cao, Gừng đen (Distichochlamys citrea M. F. Newman) chữa và hỗ trợ điều trị ung thư,tăng cường miễn dịch,điều hòa chức năng tim, gan, thận,
  60. 51 Tiếp là nhóm bệnh Thanh nhiệt giải độc có 5 loài 5,49% nằm trong một số họ như: họ Hòa thảo (Poaceae); họ Ô rô (Acanthaceae); họ Tai hùm (Saxifragaceae), với một số loài như; Dóng xanh (Justicia ventricosa Wall) có tác dụng chữa rắn cắn, gẫy xương, hổ nhĩ thảo (Saxifraga sarmentosa L. f) có tác dụng thanh nhiệt,giải độc, giảm đau, Tiếp theo là nhóm Thuốc bổ, suy nhược, có 4 loài chiếm 4,40% so với tổng số 91 loài đã điều tra được loài này nằm trong các họ như: họ Thạch tùng (Lycopodiaceae), của ngành Thạch tùng (Lycopodiophyta); họ Thầu dầu (Euphorbiaceae); họ Hòa thảo (Poaceae), với một số loài như Bỏng nổ (Flueggea virosa (Roxb. ex Willd.) Voigt) có tác dụng suy thận, hỗ trợ chữa thoái hóa, gai đốt sống, đau thần kinh tọa, bổ, Y dĩ (Coix chinensis Todaro exBal) có tác dụng Bổ, chữa ỉa chảy lau ngày,viêm đại tràng, Tiếp theo là nhóm Thuốc tắm có 3 loài chiếm 3,30% nằm ở một số họ như: họ Thầu dầu (Euphorbiaceae); họ Hoa mõm chó (Scrophulariaceae), với một số loài như: Chó đẻ rưng cưa (Phyllanthus amarus Schum) tác dụng sát trùng, lợi tiểu,tiêu độc, tắm, Cam thảo đất (Scoparia dulcis L) tác dụng hạ nhiệt, giảm ho, điều kinh,tắm, Tiếp theo là nhóm bệnh ung bướu, ung thư có 3 loài chiếm 3,30% so với tổng số 91 loài đã điều tra được nằm chủ yếu ở họ Gừng (Acanthaceae); họ Cà phê (Rubiaceae), như loài Bạch hoa xà thiệt thảo (Hedyotis diffusa Willd) có tác dụng hỗ trợ điều trị ung thư, Gừng đen (Distichochlamys citrea M. F. Newman) tác dụnghỗ trợ điều trị ung thư,tăng cường miễn dịch, điều hòa chức năng tim, gan, thận, Cuối cùng là nhóm bệnh tiểu đường có 2 loài chiếm 2,20% so với tổng số 91 loài điều tra được, nằm trong họ Cói (Cyperaceae); họ Đu đủ (Caricaceae); với 2 loài là Đu đủ (Carica papaya L) tác dụng chữa tiểu
  61. 52 đường, huyết áp cao, Cỏ bạc đầu (Kyllinga nemoralis (Forst. & Forst.f.) Dandy ex Hutch. & Dalz) chữa bệnh tiểu đường. Qua quá trình điều tra và thu thập kinh nghiệm cũng như cách sử dụng cây cỏ làm thuốc của cộng đồng dân tộc H’Mông ở xã Sàng Ma Sao, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai, tôi nhận thấy trong phương pháp chữa bệnh của người H’Mông là rất đa dạng và phong phú, mang lại nhiều giá trịgóp phần vào công tác bảo vệ sức khỏe. Đây là những kinh nghiệm quý báu mà chúng ta cần phải bảo vệ và phát huy, để năng cao hiệu quả chữa bệnh, từ đây cũng thấy những nhóm bệnh được chữa trị khá đa dạng và độc đáo. Vào năm 2018 tác giả Nông Thái Hòa đã phát hiện được 4 loài cần bảo tồn những loài đó được cộng đồng dân tộc ở xã Hoàng Nông, huyện Đại Từ tỉnh Thái Nguyên sử dụng, từ đó có thể thấy có rất nhiều loài cây thuốc mà được người dân sử dụng là đã rất nguy cấp rôi, và mỗi năm điều tra lại phát hiện thêm nhiều loài cần bảo tồn hơn [21]. 4.3. Đánh giá hoạt tính kháng khuẩn của một số loài cây thuốc được sử dụng trong cộng đồng dân tộc H’Mông ở khu vực nghiên cứu Từ kết quả nghiên cứu kinh nghiệm sử dụng cây thuốc của cộng đồng dân tộc H’Mông ở khu vực nghiên cứu trong việc phòng và điều trị một số bệnh nhiễm khuẩn,tôi đã tiến hành lựa chọn cây Gừng đen (Distichochlamys citrea M. F. Newman) và cây Câu đằng (Uncaria acida (Hunt.) Roxb) để tiến hành đánh giá hoạt tính kháng khuẩn (HTKK) của cây.
  62. 53 Bảng4.13. HoạttínhkhángkhuẩncủacaochiếttừcâyCâuđằng VàcủGừngđen Đơn vị tính: mm Cao chiết Đối chứng Đối chứng Đối chứng Câu Gừng dương dương âm(Dungmôi đằng đen (Amikacin (Kanamicin ) Vi ) ) khuẩn S.aureu 15±1,1 20±0,5 21±0,5 24±0,6 0 s E. coli 17,5±0, 20,7±0, 19,2±1,3 21,9±0,6 0 1 8 (Chú thích: Đối chứng là kháng sinh Amikacin và Kanamicin) Từ kết quả Bảng 4.13 cho thấy, hai loài đã khảo sát dược (Câu đằng và Gừng đen) đều có hoạt tính ức chế đối với cả vi khuẩn gây bệnh. Trong đó cả 2 loài Gừng đen và Câu đằng đều có hoạt tính ức chế với cả vi khuẩn gây bệnh Gram âm (E. coli). Và Gram dương (S.aureus). Trong đó Câu đằng có khả năng ức chế với vi khuẩn gây bệnh Gram âm (E. coli) và Gram dương (S.aureus). với vòng ức chế đạt 15 mm và 17,5 mm còn củ Gừng đen có tính ức chế với vi khuẩn gây bệnh Gram âm (E. coli) và Gram dương (S.aureus). vơi vòng ức chế 20 mm và 20,7 mm. So sánh giữa hai loài thì cho thấy cây Gừng đen có hoạt tính kháng khuẩn mạnh hơn nhiều so với cây Câu đằng. Tuy nhiên, cả hai loài đều có hoạt tính khánh khuẩn yếu hơn so với kháng sinh Amikacin và Kanamicin. Còn ở đối chứng âm (Dung môi) thì vòng ức chế chưa rõ, (hoạt tính kháng khuẩn rất yếu).
  63. 54 Nhưng ở đối chứng dươngvới kháng sinh Amikacin với vi khuẩn (E. coli) thì tính khang khuẩn lại yếu hơn củ Gừng đen là 20,7mm còn kháng sinh Amikacin chỉ có 19,2 mm. Từ đó ta có thể thấy tính kháng khuẩn của Gừng đen cũng rất tốt. Từ kết quả phân tích hoạt tính kháng khuẩn tôi đề xuất, có thể sử dụng cây Câu đằng và củ Gừng đen để phòng ngừa và kiểm soát một số bệnh nhiễm khuẩn do S. aureus (Tụ cầu vàng) và E. coli. Đồng thời, kết quả này là một bằng chứng khoa học chứng minh kinh nghiệm sử dụng các loài cây thuốc của đồng bào dân tộc trong việc phòng chống một số bệnh nhiễm khuẩn của cộng đồng dân tộc H’mông tại khu vực nghiên cứu. Hình 4.4. Hình ảnh hoạt tính kháng khuẩn của cao chiết cây Câu đằng và củ Gừng đen Chúc thích: TVC: S.aureus; Ecoli: E.coli; ĐC:Đốichứngâm (Dung môi); KS1: Đốichứngdương (Amikacin); KS2: Đốichứngdương (Kanamicin); CĐ: Câuđằng; GĐ: Gừngđen
  64. 55 PHẦN 5 KẾT LUẬN, TỒN TẠI VÀ KIẾN NGHỊ 5.1. Kết luận Kết quả nghiên cứu cây thuốc và đánh giá hoạt tính kháng khuẩn của một số loài cây thuốc ở xã Sàng Ma Sáo, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai, tôi đã thu được những kết quả sau đây: - Đã thu được 91 loài thực vật bậc cao có mạch thuộc ngànhNgọc lan có 88 loài và thuộc 78 chi và 46 họ, thuộc ngành Dương sỉ với 1 loài thuộc 1 chi và 1họ, thuộc ngành Thạch tùng có 1 loài thuộc 1 chi và 1 họ, thuộc ngành Dây gắm có 1 loài thuộc 1 chi và 1 họ có công dụng làm thuốc. Số họ thực vật làm thuốc là 49 họ, Trong đó, họ nhiều loài nhất là họThầu dầu (Euphorbiaceae); và họ Bạc hà (Lamiaceae)với 7 loài; họ Cúc (Asteraceae) và họ Hòa thảo (Poaceae) và họ Ngũ gia bì (Araliaceae) với 5 loài. Họ Gừng (Zingiberaceae) có 4 loài; Trong 81chi, có tới 5 chi có 2 loài và 1 chi có 3 loài được sử dụng làm thuốc đó là chi Ocimum. - Về dạng: cây thuốc được người dân sử dụng nhiều nhất là dạng cây thảo với 52 loài,cây leo có 13 loài,cây gỗ nhỏ có 4 loài, cây bụi có 21 loài, cây kí sinh và bán kí sinh có 1 loài. -Môi trường sống: nơi sống chủ yếu của cây thuốc chủ yếu ở Rừng với 35 loài và ở vườn với 34 loài, ở đồi 8 loài, ở ven suối và ở Ao là 14 loài. - Số lượng cây thuốc thuộc diện cần bảo tồn có 2 loài, chiếm 2,19% tổng số loài cây thuốc thu được đó là loài Dùi trống nhỏ (Myriactis delavayi Gagnep.), Ngũ gia bì gai (Acanthopanax trifoliatus (L.) Voss.) - Sử dụng các bộ phận để làm thuốc bao gồm: Cả cây có 40 loài, dùng lá có 24 loài, dùng rễ có 16 loài, dùng thân có 4 loài, dùng quả, hạt có 5 loài, dùng vỏ có 1 loài và dùng nhực có 1 loài. Sử dụng cả cây có 40 loài, dùng 1 bộ phận để làm thuốc có 39 loài, dùng 2 bộ phậncó 9 loài và 3 bộ
  65. 56 phậncũng có 3 loài. Đã thống kê được 13 nhóm bệnh khác nhau được sử dụng để chữa bệnh. -Đa dạng về cách chế biến là có; Sử dụng tươi co 31 loài chiếm 34,07%; Sử dụng khô thì có 37 loài chiếm 40,66%; và sử dụng cả tươi, khô có 23 loài chiếm 25,27% so với tổng số loài đã thu được. - Saukhi thí nghiệm thử hoạt tính kháng khuẩn cho thấy, cả hai loài Câu đằng và Gừng đen đều có hoạt tính ức chế đối với cả vi khuẩn gây bệnh. cả 2 loài Gừng đen và Câu đằng đều có hoạt tính ức chế với cả vi khuẩn gây bệnh Gram âm (E. coli). Và Gram dương (S.aureus). Từ kết quả phân tích hoạt tính kháng khuẩn tôi đề xuất, có thể sử dụng cây Câu đằng và củ Gừng đen để phòng ngừa và kiểm soát một số bệnh nhiễm khuẩn do S. aureus (Tụ cầu vàng) và E. coli. 5.2. Tồn tại Đề tài nghiên cứu còn một số vấn đề tồn tại sau: - Những bài thuốc hữu ích quan trọng không phải ai cũng biết, mà chỉ một số ít người biết, tuy nhiên vì đây là những bài thuốc gia truyền nên họ không muốn nhiều người biết,nên khi được phỏng vấn họ cũng đã cung cấp bài thuốc cho nhưng trong bài thuốc đã bớt đi một, hai cây thuốc, điều đó sẽ gây khó khăn cho việc phát triển và bảo tồn những bài thuốc quý. - Chưa xác định được trữ lượng mà người dân khai thác và sử dụng các thực vật để làm thuốc tại khu vực nghiên cứu. - Đối tượng, phạm vi đề tài mới chỉ dừng lại ở các loài thực vật được cộng đồng dân tộc H’mông ở xã Sàng Ma Sáo sử dụng để chữa bệnh thôi. - Chưa có sự quan tâm đúng mức của các cấp, các ngành chính quyên địa phương của xã về giá trị kiến thức bản địa của cộng đồng dân tộc H’mông, cũng như việc ưu tiên bảo tồn, phát triển, gây trồng và nhân rộng các loài cây thuốc chưa được quan tâm đúng mức.
  66. 57 5.3. Kiến nghị 1. Cần tiếp tục mở rộng khu vực điều tra và nghiên cứu về tài nguyên cây thuốc để có kế hoạch bảo tồn và phát triển nguồn dược liệu cho tương lai. 2. Tiếp tục nghiên cứu và đánh giá tính hiệu quả của các loài cây thuốc mà đồng bào dân tộc H’mông tại xã Sàng Ma Sao, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai sử dụng. 3. Cần thời gian nghiên cứu và vốn kiến thức sâu rộng hơn để xác định trữ lượng người dân khai thác và sử dụng các loài cây thuốc. 4. Xây dựng những vườn thuốc trong gia đình cho những gia đình lương y hay những gia đình có những người biết sử dụng thuốc ở các thôn bản để bảo vệ nguồn gen quý và hướng dẫn cách trồng hái, chế biến cho phù hợp. 5. Với những loài cây thuốc thuộc dạng quý hiếm cần hướng dẫn nhân dân nhận biết và tiến hành bảo vệ rừng, hạn chế khai thác một cách cạn kiệt các loài cây thuốc để bán sang Trung Quốc. 6. Cần các cấp, các ngành chính quyền địa phương quan tâm hơn nữa trong việc ưu tiên bảo tồn, gây trồng và nhân rộng các loài cây thuốc có giá trị cao trong y học cũng như trong kinh tế, và có những chính sách khuyến khích, liên kết với những cơ quan bệnh viện, để nhằm phát triển và bảo tồn tài nguyên cây thuốc của Việt Nam.
  67. TÀI LIỆU THAM KHẢO A.TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT 1. Danh lục các loài thực vật Việt Nam trung tâm NCTN&MT- Đại học Quốc gia Hà Nội và Viện ST&TNSV, 2006. 2. Đặng Quang Châu, Bùi Hồng Hải (2003), Điều tra cây thuốc của đồng bào dân tộc Thái, xã Xuân Hạnh, huyện Quỳ Châu – Nghệ An, Nxb. Khoa học và Kỹ Thuật, Hà Nội. 3. Đặng Quang Châu (2011), “Một số dẫn liệu về cây thuốc của dân tộc Thái ở huyện Nghĩa Đàn – Nghệ An”, Tạp chí Sinh học, tập 23. 4. Đỗ Sĩ Hiến và Đỗ Thị Xuyến (2011), Các loài thực vật được đồng bào dân tộc Mường tại Khu bảo tồn thiên nhiên Hang Kia – Pà Cò sử dụng làm thuốc trị bệnh thận. Hội nghị Khoa học toàn quốc lần thứ 4 (2011), Báo cáo Khoa học về Sinh thái và Tài nguyên sinh vật, Nxb. Nông nghiệp, Hà Nội. 5. Đỗ Tất Lợi (2005), Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam, Nxb Hà Nội, Hà Nội. 6.Lê Trần Đức (1997), Cây thuốc Việt Nam, trồng hái chế biến và trị bệnh ban đầu, Nxb. Nông nghiệp, Hà Nội. 7. Lưu Đàm Cư, Hà Tuấn Anh, Trương Anh Thư (2004), Các cây có ích của dân tộc H’mông và khả năng ứng dụng trong phát triển kinh tế, Nxb. Khoa học và Kỹ Thuật, Hà Nội. 8. Nguyễn Nghĩa Thìn (1997), Cẩm nang nghiên cứu đa dạng sinh vật, Nxb. Nông nghiệp, Hà nội. 9. Nguyễn Nghĩa Thìn (2007), Các phương pháp nghiên cứu thực vật, Nxb. Đại Học Quốc gia Hà Nội.
  68. 10. Nguyễn Tập (2007), Cẩm nang cây thuốc cần bảo vệ ở Việt Nam, Nxb. Mạng lưới lâm sản ngoài gỗ Việt Nam, Hà Nội. 11. Chính phủ nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2006), Nghị định 32/2006/CP – NĐ về nghiêm cấm, hạn chế khai thác và sử dụng các loài động thực vật hoang dã. 12. Nguyễn Thị Thủy, Phạm Văn Thỉnh (2004), Nghiên cứu xây dựng và bảo tồn cây thuốc ở Sa Pa, Thái Nguyên, Nxb. Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội. 13. Nguyễn Thượng Dong (chủ biên) và nhiều tác giả (2006), Nghiên cứu thuốc từ thảo dược, Nxb. Khoa học và Kỹ Thuật, Hà Nội. 14. Phạm Hoàng Hộ (2006), Cây có vị thuốc ở Việt Nam, Nxb. Trẻ, Tp Hồ Chí Minh. 15. Tào Duy Cần (2001), Thuốc Nam, thuốc Bắc và các phương thang chữa bệnh, Nxb Khoa học và Kỹ Thuật. 16. Trung tâm nghiên cứu Tài nguyên và Môi trường, Đại học Quốc gia Hà Nội và Viện Sinh thái & Tài nguyên sinh vật, Viện Hàn Lâm Việt Nam (2006). Danh lục các loài thực vật Việt nam. Nxb. Nông nghiệp, Hà nội, tập 2 – 3. 17. UBND xã Sàng Ma Sáo, Báo cáo sơ kết Kết quả thực hiện nhiệm vụ của Ban lâm nghiệp xã Sàng Ma Sáo trong công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng 6 tháng đầu năm 2018, phương hướng nhiệm vụ 6 tháng cuối năm 2018. 18. Võ Văn Chi (1996), Từ điển cây thuốc Việt Nam, Nxb. Y học, Hà Nội. 19. Võ Văn Chi (2012), Từ điển cây thuốc Việt Nam, Nxb. Hà Nội, tập 1 - 2. 20. Dương Văn Hưng (2018) Nghiên cứu tri thức bản địa sử dụng cây thuốc tại xã Yên Ninh, huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên, Khóa luận tốt nghiệp trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên.
  69. 21. Nông Thái Hòa (2018) Nghiên cứu cây thuốc và đánh giá hoạt tính kháng khuẩn của một số loài cây thuốc tại xã Hoàng Nông, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên, Khóa luận tốt nghiệp trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên. 22. Bộ Khoa học và Công nghệ (2007), Sách đỏ Việt Nam, phần Thực vật, Nxb. Khoa học Tự nhiên và Công nghệ, Hà Nội. 23. Viện Dược Liệu (1993), Tài Nguyên cây thuốc Việt Nam, Nxb. Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội. 24. Lê Thị Thanh Hương và Nguyễn Thị Thuận (2011), Những cây thuốc được sử dụng thay thế mật gấu theo kinh nghiệm dân gian và đông y ở một số địa bàn tỉnh Thái Nguyên. Hội nghị Khoa học toàn quốc lần thứ 4 (2011), Báo cáo Khoa học về Sinh thái và Tài nguyên sinh vật, Nxb. Nông nghiệp, Hà Nội. 25. Vàng A Lả (2018) Nghiên cứu cây thuốc và đánh giá hoạt tính kháng khuẩn của một số loài cây thuốc tại xã Yên Lạc, huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên, Khóa luận tốt nghiệp trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên. 26. Trần Thúy, Vũ Nam, Nguyễn Văn Toại (2005), Lý luận Y học cổ truyền, Nxb Y học, Hà Nội. 27.Bộ Khoa học và Công nghệ (2007), Sách đỏ Việt Nam, phần Thực vật, Nxb. Khoa học Tự nhiên và Công nghệ, Hà Nội 28. Nguyễn Thượng Dong (chủ biên) và nhiều tác giả (2006), Nghiên cứu thuốc từ thảo dược, Nxb. Khoa học và Kỹ Thuật, Hà Nội. 29. Âu Anh Khâm (2001), 577 bài thuốc dân gian gia truyền (sách dịch), Nxb. Thanh niên, Hà Nội. B. TÀI LIỆU TIẾNG NƯỚC NGOÀI 30. Ahmad Cheikhyoussef, Martin Shapi, Kenneth Matengu và Hina Mu Ashekele (2011), “Research on the botany of indigenous knowledge of
  70. medicinal plants used by traditional healers in the area Oshikoto, Namibia”, Journal of Ethnobiology and Ethnomedicine. 31. Arshad Abbasi, Mir Khan, Munir H Shah, Mohammad Shah, Arshad Pervez, Mushtaq Ahmad (2013), “Ethnobotanical appraisal and cultural values of medicinally important wild edible vegetables of Lesser Himalayas - Pakistan”, Journal of Ethnobiology and Ethnomedicine. 32. Auemporn Junsongduang, Henrik Balslev, Angkhana Inta, Arunothai Jampeetong, Prasit Wangpakapattanawong (2013), “Medicinal plants from swidden fallows and sacred forest of the Karen and the Lawa in Thailand”, Journal of Ethnobiology and Ethnomedicine. 33. Balcha Abera (2014), “Medicinal plants used in traditional medicine by Oromo people, Ghimbi District, Southwest Ethiopia”, Journal of Ethnobiology and Ethnomedicine. 34. Behxhet Mustafa, Avni Hajdari, Feriz Krasniqi, Esat Hoxha, Hatixhe Ademi, Cassandra L Quave và Andrea Pieroni (2012), “Medical ethnobotany of the Albanian Alps in Kosovo”, Journal of Ethnobiology and Ethnomedicine. 35. Berhane Kidane, Tinde van Andel, Laurentius van der Maesen, Zemede Asfaw (2014), “Use and management of traditional medicinal plants by Maale and Ari ethnic communities in southern Ethiopia”, Journal of Ethnobiology and Ethnomedicine. 36. Cassandra L. Quave, Manuel Pardo-de-Santayana, and Andrea Pieroni (2012), “Medical Ethnobotany in Europe: From Field Ethnography to a More Culturally Sensitive Evidence-Based CAM?”. Evidence-Based Complementary and Alternative Medicine. Volume 2012, Article ID 156846, 17 pages
  71. 37. Cecilia Almeida, Elba de Amorim, Ulysses de Albuquerque, Maria Maia (2006), “Medicinal plants commonly used in the area Xingo - a place in the semi - arid northeastern Brazil”, Journal of Ethnobiology and Ethnomedicine. 38. David J Simbo (2010), “A survey of the botany of medicinal plants in Babungo, northwestern region, Cameroon”, Journal of Ethnobiology and Ethnomedicine. 39. Dol Luitel, Maan B Rokaya, Binu Timsina, Zuzana Münzbergová (2014), “Medicinal plants used by the Tamang community in the Makawanpur district of central Nepal”, Journal of Ethnobiology and Ethnomedicine. 40. Eduardo Estrada-Castillón, Miriam Garza-López, José Villarreal- Quintanilla, María Salinas-Rodríguez, Brianda Soto-Mata, Humberto González-Rodríguez, Dino González-Uribe, Israel Cantú-Silva, Artemio Carrillo-Parra, César CantúAyala (2014), “Ethnobotany in Rayones, Nuevo León, México”, Journal of Ethnobiology and Ethnomedicine, 10:62pp 41. Gabriele Volpato, Daimy Godínez, Angela Beyra, Adelaida Barreto (2009), “Use of medicinal plants of Haitian immigrants and their descendants in the province of Camagüey, Cuba”, Journal of Ethnobiology and Ethnomedicine. 42. Gaia Luziatelli, Marten Sørensen, Ida Theilade, Per Mølgaard (2010), “Ashaninka medicinal plants: a case study from the indigenous communities of the Bajo Quimiriki, Junín, Peru”, Journal of Ethnobiology and Ethnomedicine. 43. Joana Camejo-Rodrigues, Lia Ascensão, M Angels Bonet, Joan Valles (2004), “An ethnobotanical study of medicinal plants and aromatic in
  72. nature park of Serra de São Mamede (Portugal)”, Journal of Ethnopharmacology. 44. Joanne Packera, Nynke Brouwera, David Harringtona, Jitendra Gaikwada, Ronald Heronb, Shoba Ranganathana, Subramanyam Vemulpada, Joanne Jamiea (2012), “An ethnobotanical study of medicinal plants used by indigenous communities Yaegl in northern New South Wales, Australia”, Journal of Ethnopharmacology. 45. Maria Leporatti and Massimo Impieri (2007), “Ethnobotanical notes about some uses of medicinal plants in Alto Tirreno Cosentino area (Calabria, Southern Italy)”, Journal of Ethnobiology and Ethnomedicine. 46. Maria Leporatti, Kamel Ghedira (2009), “Comparative analysis of medicinal plants used in traditional medicine in Italy and Tunisia”, Journal of Ethnopharmacology. 47. Maud M Kamatenesi, Annabel Acipa, Hannington Oryem-Origa (2011), “Medicinal Plants of Otwal and Ngai in Oyam District, Northern Uganda”, Journal of Ethnobiology and Ethnomedicine. C. TÀI LIỆU INTERNET 48. Nguyễn Hoàng Sơn (2014), “Sự cần thiết phát triển dược liệu”
  73. PHỤ LỤC MỘT SỐ HÌNH ẢNH CÁC LOÀI CÂY THUỐC CHỤP ĐƯỢC TRONG QUÁ TRÌNH ĐIỀU TRA Cẩu tíchKim ngân hoa (Valeriana hardwickii Wall. in Roxb) (Lonicera macrantha D. Don) Spreng) Cây mật gấu – Lá đắng Khổ sâm (Isodon lophanthoides (Croton tonkinensis Gagnep) (D. Don) Hara) Dóng xanh Cúc tần (Justicia ventricosa Wall) (Chrysanthemum coronarium L)
  74. Thuốc dấu Bạch hoa xà thiệt thảo (Chrysanthemum coronarium L) (Hedyotis diffusa Willd) Dây gắm Xuân hoa đỏ (Gnetum montanum Markgr)(Pseuderanthemumvar.)atropurpureum(Bull) Fosb.ses.phamh) Thanh táo Giảo cổ lam (Justicia gendarussa Burm. F) (Gynostemma pentaphyllum (Thunb.) Makino)
  75. Lò Văn Nhan đang phỏng vấn bà Lò Văn Nhan đang phỏng vấn Lý Thị Dợở thôn Làng mới ông Lý Seo Khoa tại thôn kỳ xã Sàng Ma Sáo quan san xã Sàng Ma Sáo Đây là một số cây thuốc bà con đang phơi khô nó để dự trữ
  76. DANH SÁCH CÁC CÂY THUỐC ĐƯỢC ĐỒNG BÀO DÂN TỘC H’MÔNG TẠI XÃ SÀNG MA SÁO, HUYỆN BÁT XÁT, TỈNH LÀO CAI SỬ DỤNG Tên Số Dạn Tên phổ Cách TT Tên khoa học dân hiệu g MT sống BPSD Công dụng thông SD tộc ảnh sống A Ngành Ngọc lan - MAGNOLIOPHYTA A1 Lớp Một lá mầm - Liliopsida 1 Poaceae Họ Hòa Thảo Chữa huyết áp Eleusine indica (L.) 1.1 Cỏ mần trầu Th R CC K cao, kinh nguyệt Gaertn không điều Microstegium ciliatum giải nhiệt,giải 1.2 Cỏ rác Th Đ R T,K (Trin.) A. Camus độc,chống nôn Bổ, chữa ỉa chảy Coix chinensis Todaro ex 1.3 Ý dĩ Bo bo Th Vu,Đ Ha K lau ngày,viêm Bal đại tràng Nhiễm trùng, sốt Hymenachne acutigluma 1.4 Cỏ gừng Th Đ CC T,K rét, bệnh vàng (Steud.) Gilliland da