Khóa luận Nghiên cứu các giải pháp nâng cao hoạt động của các thư viện thôn làng ngoại thành Hà Nội

pdf 69 trang thiennha21 15/04/2022 3430
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Nghiên cứu các giải pháp nâng cao hoạt động của các thư viện thôn làng ngoại thành Hà Nội", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfkhoa_luan_nghien_cuu_cac_giai_phap_nang_cao_hoat_dong_cua_ca.pdf

Nội dung text: Khóa luận Nghiên cứu các giải pháp nâng cao hoạt động của các thư viện thôn làng ngoại thành Hà Nội

  1. Khóa luận tốt nghiệp Trƣờng Đại học Khoa học xã hội & Nhân văn ĐẠI HỌC QU ỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN KHOA THÔNG TIN – THƢ VIỆN NGUYỄN THỊ THU NGHIÊN CỨU CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC THƢ VIỆN THÔN LÀNG NGOẠI THÀNH HÀ NỘI KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP NGÀNH: THÔNG TIN – THƢ VIỆN KHÓA : QH – 2006 - X HỆ : CHÍNH QUY HÀ NỘI - 2010 Nguyễn Thị Thu 1 K51-Thông tin –Thƣ viện
  2. Khóa luận tốt nghiệp Trƣờng Đại học Khoa học xã hội & Nhân văn LỜI CẢM ƠN Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS. Nguyễn Viết Nghĩa, người đã trực tiếp hướng dẫn, chỉ bảo giúp đỡ em trong suốt quá trình thực hiện và hoàn thiện khóa luận này. Em xin gửi lời cảm ơn tới các Thầy, cô trong và ngoài khoa Thông tin – Thư viện, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn đã tận tình chỉ bảo dạy dỗ chúng em trong suốt thời gian học tập và rèn luyện tại trường. Em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới các ông, bà, các cô, các bác, các anh chị đang công tác tại Ủy ban Nhân dân các xã và thư viện các thôn Bình Vọng (Văn Bình, Thường Tín), thôn Giang Cao (Bát Tràng, Gia Lâm), thôn Yên Xá (Tân Triều, Thanh Trì) đã tạo điều kiện giúp đỡ em rất nhiều trong quá trình nghiên cứu và khảo sát thực tế tại đây. Em xin cảm ơn gia đình và bạn bè – những người luôn bên em, động viên và khuyến khích để em có thể hoàn thành khóa luận và có được kết quả như ngày hôm nay. Em xin chân thành cảm ơn! Sinh viên Hà Nội, ngày 20 tháng 5 năm 2010 Nguyễn Thị Thu Nguyễn Thị Thu 2 K51-Thông tin –Thƣ viện
  3. Khóa luận tốt nghiệp Trƣờng Đại học Khoa học xã hội & Nhân văn LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, với sự giúp đỡ của những người tôi đã cảm ơn. Mọi kết quả nghiên cứu trong công trình đều chính xác, không có trong bất cứ một công trình nào khác. Sinh viên Nguyễn Thị Thu Nguyễn Thị Thu 3 K51-Thông tin –Thƣ viện
  4. Khóa luận tốt nghiệp Trƣờng Đại học Khoa học xã hội & Nhân văn DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT Số thứ tự Từ viết tắt Tên đầy đủ 1 BCHTƯ Ban Chấp hành Trung Ương 2 CHXHCN Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa NDT 3 Người dùng tin UBND 4 Ủy ban Nhân dân 5 TP. Thành phố Nguyễn Thị Thu 4 K51-Thông tin –Thƣ viện
  5. Khóa luận tốt nghiệp Trƣờng Đại học Khoa học xã hội & Nhân văn MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU Tính cấp thiết của đề tài 1 Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3 Tình hình nghiên cứu của đề tài 3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài 4 Phương pháp nghiên cứu của đề tài 4 Đóng góp về mặt lý luận và thực tiễn của khóa luận 5 Bố cục của khóa luận 5 CHƢƠNG 1. GIỚI THIỆU KHÁI QUÁT VỀ MÔ HÌNH THƢ VIỆN THÔN, LÀNG 1.1. Vài nét về điều kiện kinh tế - chính trị - xã hội của thành phố Hà Nội 6 1.2. Khái quát về thư viện thôn, làng . 10 1.3. Vai trò của thư viện thôn, làng trong việc thỏa mãn nhu cầu tin của người dùng tin và đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương 17 CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA MỘT SỐ THƢ VIỆN THÔN, LÀNG NGOẠI THÀNH HÀ NỘI 2.1. Công tác nghiệp vụ 26 2.1.1. Thu thập và bổ sung vốn tài liệu 26 2.1.2. Xử lý và sắp xếp tài liệu trong thư viện 28 2.1.3. Bảo quản vốn tài liệu 30 2.2. Công tác phục vụ người dùng tin 30 2.2.1. Hình thức phục vụ người dùng tin. 30 2.2.2. Công tác tuyên truyền và giới thiệu tài liệu 33 2.2.3. Hiệu quả của công tác phục vụ người dùng tin. 34 2.3. Nhận xét về hoạt động của một số thư viện thôn, làng ngoại thành Hà Nội 36 Nguyễn Thị Thu 5 K51-Thông tin –Thƣ viện
  6. Khóa luận tốt nghiệp Trƣờng Đại học Khoa học xã hội & Nhân văn CHƢƠNG 3. GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC THƢ VIỆN THÔN, LÀNG NGOẠI THÀNH HÀ NỘI 3.1. Tăng cường nguồn thông tin 43 3.2. Tạo điều kiện để thư viện thôn, làng được công nhận là thư viện cơ sở 44 3.3. Tăng cường kinh phí cho các thư viện thôn, làng 45 3.4. Đa dạng hóa các dịch vụ thông tin – thư viện. 45 3.5. Tăng cường cơ sở vật chất 47 3.6. Nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ thư viện và đào tạo người dùng tin 47 3.7. Định hướng và phát triển văn hóa đọc trong nhân dân 49 3.8.Mở rộng mô hình thư viện thôn, làng 49 KẾT LUẬN 50 PHỤ LỤC MỘT SỐ HÌNH ẢNH MINH HỌA DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Nguyễn Thị Thu 6 K51-Thông tin –Thƣ viện
  7. Khóa luận tốt nghiệp Trƣờng Đại học Khoa học xã hội & Nhân văn LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Hướng về cơ sở và xây dựng đời sống văn hoá cơ sở để thiết thực góp phần nâng cao đời sống văn hoá tinh thần cho nhân dân, từ nhiều năm nay, luôn là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta. Năm 1996, Nghị quyết IV của BCHTƯ Đảng khóa VIII “Về vấn đề văn hóa Việt Nam trong những năm trước mắt” đã chỉ rõ rằng “công tác văn hóa phải được xã hội hóa”. Nghị quyết Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ IX Đảng Cộng sản Việt Nam cũng đã khẳng định “Cần phải nhanh chóng rút ngắn khoảng cách về mức hưởng thụ văn hóa giữa nông thôn và thành thị, tiếp tục đưa các hoạt động văn hoá thông tin về cơ sở, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào các dân tộc ”. Trong những năm gần đây, nhiều phong trào xây dựng văn hóa nông thôn đã được phát động như phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, phong trào “Xây dựng gia đình văn hóa”, Những phong trào này đã góp phần không nhỏ nâng cao đời sống văn hóa của người dân nông thôn. Đáp ứng nhu cầu thông tin của dân cư, đặc biệt là dân cư sống ở các vùng nông thôn, đang là một nhiệm vụ thiết yếu đặt ra đối với mạng lưới các thư viện công cộng. Các thư viêṇ cần thưc̣ hiêṇ tốt 3 chứ c năng cơ bản, đó là thông tin, văn hóa và giáo duc̣ vớ i hai muc̣ tiêu chủ yếu là taọ sư ̣ tiếp câṇ tối ưu tới vốn tài liêụ và cung cấp thông tin cho ngườ i đoc̣ . Trong những năm qua, ngành Văn hoá Thông tin đã chỉ đạo các đơn vị phát phát huy tính sáng tạo chủ động phối hợp với các ban, ngành, đoàn thể quần chúng, các tổ chức xã hội trong và ngoài nước, đẩy mạnh công tác xã hội hoá thư viện cơ sở, Nguyễn Thị Thu 7 K51-Thông tin –Thƣ viện
  8. Khóa luận tốt nghiệp Trƣờng Đại học Khoa học xã hội & Nhân văn nhằm khuyến khích, động viên mọi tầng lớp nhân dân tham gia và phát triển thư viện. Trước tình hình mới, một nhiệm vụ đặt ra cho các thư viện cả nước nói chung và các thư viện các huyện ngoại thành Hà Nội nói riêng là phải đẩy mạnh phong trào đọc sách báo ở cơ sở, bằng cách đưa thông tin khoa học, văn hóa xã hội đến với mỗi người dân. Bên cạnh việc không ngừng nâng cao hiệu quả công tác phục vụ người người dùng tin tại thư viện trung tâm huyện, thực hiện chủ trương “đưa văn hóa về cơ sở” của Đảng và Nhà nước, Sở Văn hóa – Thông tin Hà Nội đã chỉ đạo các thư viện huyện phải chú trọng công tác xây dựng thư viện thôn, làng nhằm phát triển phong trào đọc sách báo trong từng địa phương ngoại thành Hà Nội. Trên tinh thần, đó trong những năm qua, Thư viện Hà Nội luôn phấn đấu khắc phục khó khăn, phát huy vị trí, vai trò và chức năng của một thư viện thành phố, đưa ra nhiều biện pháp cụ thể nhằm duy trì hoạt động của các thư viện thôn, làng. Thư viện Hà Nội luôn xác định xây dựng và phát triển thư viện thôn, làng là nhiệm vụ vừa có tính cấp bách vừa là nhiệm vụ lâu dài trong sự nghiệp phát triển thư viện. Thực tế cho thấy, những thành tích đáng khích lệ của những thư viện thôn, làng trong những năm qua đã chứng minh tính đúng đắn của các chủ trương trên. Tuy nhiên, bên cạnh những thành công của mô hình thư viện thôn, làng, đến nay vẫn còn một số tồn tại như kinh phí xây dựng vốn sách báo, trang thiết bị thư viện, chế độ đãi ngộ đối với cán bộ phụ trách và còn nhiều vấn đề khác cần phải nghiên cứu, để đưa ra các giải pháp xây dựng và phát triển mô hình thư viện thôn, làng ngày càng hiệu quả, đặc biệt là trong giai đoạn hiện đại hóa - công nghiệp hóa kinh tế Thủ đô. Nguyễn Thị Thu 8 K51-Thông tin –Thƣ viện
  9. Khóa luận tốt nghiệp Trƣờng Đại học Khoa học xã hội & Nhân văn Từ nhận thức trên và với mong muốn vận dụng kiến thức được tiếp thu trong nhà trường vào thực tế, tôi mạnh dạn chọn vấn đề “Nghiên cứu các giải pháp nâng cao hoạt động của các thư viện thôn làng ngoại thành Hà Nội”. 2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu Mục tiêu nghiên cứu của khóa luận là tìm hiểu hoạt động của các thư viện thôn, làng ngoại thành Hà Nội, từ đó đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của mô hình thư viện này nhằm thỏa mãn tốt hơn nhu cầu thông tin của người dùng tin trên địa bàn ngoại thành Hà Nội. Để thực hiện mục tiêu trên, khóa luận tập trung giải quyết các nhiệm vụ sau: - Nghiên cứu đặc điểm người dùng tin và nhu cầu tin tại một số thư viện thôn, làng ngoại thành Hà Nội - Khảo sát thực trạng hoạt động của một số thư viện thôn, làng ngoại thành Hà Nội - Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động của các thư viện thôn, làng ngoại thành Hà Nội. 3. Tình hình nghiên cứu theo hƣớng đề tài Hiện nay, tài liệu viết về mô hình thư viện thôn, làng không nhiều. Trên các diễn đàn, Tập san thư viện có một số ít bài viết đề tài này [7, 8], tuy nhiên trong các bài viêt trên, các tác giả mới chỉ đề cập một cách chung nhất về mô hình thư viện thôn, làng, mà không khảo sát một mô hình cụ thể nào, cũng như không chỉ rõ những tồn tại của mô hình thư viện thôn, làng ngoại thành Hà Nội. Có thể nói cho tới nay vấn đề “Nghiên cứu giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của các thư viện thôn, làng ngoại thành Hà Nội” mà tác giả khóa luận thực hiện, không trùng lặp với bất cứ công trình nào đã được công bố trước đây. Ở đây, trong khóa luận này, tác giả tiến hành phân tích cụ thể, rõ ràng hơn về đặc điểm nhu cầu tin và người dùng tin tại các thư Nguyễn Thị Thu 9 K51-Thông tin –Thƣ viện
  10. Khóa luận tốt nghiệp Trƣờng Đại học Khoa học xã hội & Nhân văn viện thôn, làng ngoại thành Hà Nội cũng như đưa ra những nhận xét về hoạt động của một số thư viện tại đây. Trên cơ sở đó, khóa luận cũng đề xuất các giải pháp và phân tích kỹ hơn tính hữu ích của các giải pháp tăng cường hiệu quả hoạt động của mô hình thư viện thôn, làng, đáp ứng nhu cầu tin của người dùng tin tại các vùng ngoại thành Hà Nội trong giai đoạn hiện nay. Đây cũng chính là hướng nghiên cứu mới của đề tài. 4. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu chính của đề tài là hoạt động của các thư viện thôn, làng ngoại thành Hà Nội Do điều kiện thời gian có hạn, địa bàn nông thôn ngoại thành Hà Nội lại quá rộng, nên tác giả đã giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài là hoạt động của 3 thư viện thôn làng tại 3 huyện ngoại thành Hà Nội từ năm 2005 đến nay, đó là 3 thư viện sau: - Thư viện thôn Bình Vọng, xã Văn Bình, huyện Thường Tín, TP. Hà Nội - Thư viện thôn Giang Cao, xã Bát Tràng, huyện Gia Lâm, TP. Hà Nội - Thư viện thôn Yên Xá, xã Tân Triều, huyện Thanh Trì, TP. Hà Nội Trong 3 mô hình đó, có 2 thư viện (Thư viện thôn Bình Vọng và Thư viện thôn Giang Cao)có thể nói là thành công trong việc tổ chức hoạt động, đáp ứng khá tốt nhu cầu của người dùng tin. Tác giả cũng hy vọng kinh nghiệm của 2 mô hình thư viện này sẽ được nhân rộng và áp dụng trong các địa phương khác của Thủ đô. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu của đề tài Để thực hiện đề tài này, tác giả khóa luận đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu sau: - Phương pháp phân tích tổng hợp tài liệu - Phương pháp điều tra xã hội học (phỏng vấn, trao đổi trực tiếp, thông qua phiếu điều tra,) Nguyễn Thị Thu 10 K51-Thông tin –Thƣ viện
  11. Khóa luận tốt nghiệp Trƣờng Đại học Khoa học xã hội & Nhân văn - Phương pháp quan sát - Phương pháp thống kê - Phương pháp so sánh 6. Đóng góp về mặt lý luận và thực tiễn của khóa luận - Về mặt lý luận: Khóa luận góp phần làm rõ vai trò của mô hình thư viện thôn, làng ngoại thành Hà Nội trong việc nâng cao đời sống văn hóa cơ sở trong giai đoạn hiện tại và trong tương lai. - Về mặt thực tiễn: Khóa luận đã khảo sát, đánh giá thực trạng hoạt động tại các thư viện thôn, làng ngoại thành Hà Nội thông qua mức độ đáp ứng nhu cầu tin của người dùng tin, đồng thời đề xuất các giải pháp hữu ích nhằm tăng cường hoạt động thông tin, đáp ứng nhu cầu tin của người dùng tin tại các thư viện này. Những nghiên cứu này chắc chắn sẽ có ích khi triển khai hoạt động “xã hội hóa” hoạt động thư viện. 7. Bố cục của khóa luận Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phần phụ lục, khóa luận chia làm 3 chương chính: - Chương 1: Giới thiệu khái quát về mô hình thư viện thôn, làng - Chương 2: Thực trạng hoạt động của một số thư viện thôn, làng ngoại thành Hà Nội - Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động của các thư viện thôn, làng ngoại thành Hà Nội Trong quá trình thực hiện đề tài tôi đã nhận được sự hướng dẫn nhiệt tình của TS. Nguyễn Viết Nghĩa cùng sự giúp đỡ nhiệt tình của các cán bộ thư viện tại thư viện thôn Bình Vọng, thư viện thôn Giang Cao, thư viện thôn Yên Xá. Tuy nhiên do thời gian và trình độ có hạn, khóa luận không tránh khỏi những khiếm khuyết. Tác giả khóa luận rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của các thầy cô giáo trong và ngoài Khoa Thông tin Nguyễn Thị Thu 11 K51-Thông tin –Thƣ viện
  12. Khóa luận tốt nghiệp Trƣờng Đại học Khoa học xã hội & Nhân văn – Thư viện, các cán bộ thư viện thôn Văn Bình, thư viện thôn Giang Cao, thư viện thôn Yên Xá để khóa luận hoàn thiện hơn. CHƢƠNG 1. GIỚI THIỆU KHÁI QUÁT VỀ MÔ HÌNH THƢ VIỆN THÔN, LÀNG 1.1. Vài nét về điều kiện kinh tế - chính trị - xã hội của Hà Nội Hà Nội là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá và khoa học lớn của cả nước, là đầu mối giao thông quan trọng của Việt Nam. Hiện nay, sau khi mở rộng địa giới hành chính, Hà Nội có 29 đơn vị hành chính cấp huyện gồm 10 quận, 18 huyện, 1 thị xã và 580 đơn vị hành chính cấp xã gồm 404 xã, 154 phường và 22 thị trấn. Hà Nội có diện tích tự nhiên 334.470,02 ha với dân số là 6.448.837 người (năm 2009). Mật độ dân số Hà Nội hiện nay không đồng đều giữa các quận nội đô và khu vực ngoại thành. Tính chung toàn thành phố, mật độ dân cư trung bình 1.979 người/km², nhưng tại quận Đống Đa, mật độ lên tới 35.341 người/km², trong khi đó, ở những huyện như ngoại thành như Sóc Sơn, Ba Vì, Mỹ Đức, mật độ không tới 1.000 người/km². Toàn thành phố Hà Nội có 2.632.087 cư dân thành thị, (chiếm 41,1%) và 3.816.750 cư dân nông thôn, (chiếm 58,1%). Do nhiều nguyên nhân khác nhau, sự khác biệt giữa nội thành và ngoại thành không chỉ thể hiện ở mức độ thu nhập tính trên đầu người mà còn thể hiện qua mức sống, điều kiện chăm sóc y tế, giáo dục, mức độ hưởng thụ văn hóa, Về mặt kinh tế, giai đoạn từ năm 2007 – 2009, mặc dù có sự tác động của khủng hoảng tài chính và sự suy giảm kinh tế diễn ra trên toàn thế giới Nguyễn Thị Thu 12 K51-Thông tin –Thƣ viện
  13. Khóa luận tốt nghiệp Trƣờng Đại học Khoa học xã hội & Nhân văn nói chung và Việt Nam nói riêng, thiên tai dịch bệnh diễn biến phức tạp, kinh tế Thủ đô vẫn tăng trưởng khá, cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch theo hướng tích cực, hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng hơn, cụ thể: Tăng trưởng GDP bình quân của thành phố giai đoạn từ 2007 - 2009 tăng 9,92 % (GDP năm 2009 tăng 6,7% so với năm 2008). Cơ cấu kinh tế chuyển biến tích cực theo hướng tăng tỉ trọng ngành dịch vụ, công nghiệp, giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp. Năm 2009 ngành dịch vụ đóng góp 52,3% trong GDP; công nghiệp - xây dựng 41,4% nông nghiệp giảm chỉ còn 6.3% (năm 2008 là 6,5%). Hà Nội là một trong những địa phương nhận được đầu tư trực tiếp từ nước ngoài nhiều nhất, với 1.681,2 triệu USD và 290 dự án. Tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu bình quân 3 năm 2007-2009 đạt 17,2% . Năm 2008, GDP bình quân đầu người của Hà Nội lên tới 31,8 triệu đồng, trong khi con số bình quân của cả nước là 13,4 triệu đồng. Về phát triển kinh tế ngoại thành, Thành phố đã thực hiện nhiều dự án, mô hình sản xuất mới có hiệu quả kinh tế cao, tạo điều kiện phát triển các ngành nghề mới ở các vùng nông thôn ngoại thành. Thành phố cũng đã vận động và hỗ trợ nông dân chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, áp dụng tiến bộ kỹ thuật, đưa giống mới vào sản xuất và đã thu được kết quả tốt. Sản xuất nông nghiệp tiếp tục tăng trưởng, hiệu quả sản xuất nông nghiệp có tiến bộ. Các sản phẩm chủ lực của nông nghiệp Hà Nội (rau an toàn, hoa, lợn hướng lạc) tiếp tục được khuyến khích phát triển thông qua hỗ trợ đầu tư của Thành phố cho hạ tầng phục vụ sản xuất. Thành phố đã hỗ trợ về giống, quy trình sản xuất, hỗ trợ quảng bá và tiêu thụ sản phẩm cho bà con nông dân. Thành phố cũng đã quy hoạch và triển khai xây dựng vùng chăn nuôi thủy Nguyễn Thị Thu 13 K51-Thông tin –Thƣ viện
  14. Khóa luận tốt nghiệp Trƣờng Đại học Khoa học xã hội & Nhân văn sản tập trung và nuôi trồng một số giống thủy sản đặc sản có giá trị kinh tế cao (tại Ứng Hòa, Mỹ Đức), đẩy mạnh quy hoạch và triển khai xây dựng các vùng trồng rau an toàn toàn tập trung tại các huyện Đan Phượng, Phúc Thọ, Chương Mỹ, Thanh Trì. Nhờ những hỗ trợ của Thành phố, không ít mô hình phát triển kinh tế như mô hình kinh tế hộ, kinh tế trang trại, kinh tế hợp tác xã, mô hình hợp tác xã nông, lâm, ngư gắn với ngành nghề, làng nghề đã thành công và đang được nhân rộng, góp phần đắc lực vào công cuộc xây dựng nông thôn mới. Thực hiện “Đề án xây dựng thí điểm nông thôn mới”, ngành ngành nông nghiệp đã có nhiều đóng góp tích cực, sản xuất nông nghiệp Hà Nội trong những năm qua đạt kết quả khá cả về sản lượng và giá trị. Giá trị sản xuất nông, lâm, thủy sản đạt 131 triệu đồng/ha. Chính sự phát triển ổn định, khá vững chắc của nông nghiệp đã góp phần quan trọng bảo đảm an sinh xã hội, tạo đà thúc đẩy kinh tế ngoại thành, cải thiện một bước đáng kể đời sống của bà con nông dân. Bên cạnh những thành tựu đạt được, các huyện ngoại thành Hà Nội vẫn gặp không ít khó khăn hạn chế sự phát triển kinh tế, như đất nông nghiệp tiếp tục bị thu hẹp do xu hướng đô thị hóa, thời tiết không thuận lợi, nguy cơ bùng phát dịch ở cây trồng, vật nuôi ở mức cao, nhiều nơi người dân có mức sống thấp. Về chính trị, Hà Nội là nơi tập trung các cơ quan đầu não của cả nước. Hà Nội là nơi có truyền thống nghìn năm văn hiến và lừng lẫy chiến công đánh giặc, nơi định đô của các vương triều phong kiến tự chủ Việt Nam. Ngay từ buổi đầu cách mạng, Hà Nội đã chứng kiến nhiều sự kiện lịch sử trọng đại của dân tộc. Là trái tim đất nước, Hà Nội hội tụ các cơ quan lãnh đạo của Trung ương Đảng, Quốc hội, Chính phủ, các đoàn thể xã hội. Thủ Nguyễn Thị Thu 14 K51-Thông tin –Thƣ viện
  15. Khóa luận tốt nghiệp Trƣờng Đại học Khoa học xã hội & Nhân văn đô cũng là nơi diễn ra các Đại hội Đại biểu toàn quốc của Đảng, các kỳ họp Quốc hội, mà từ đó đã đưa ra các nghị quyết, đường lối, sách lược đối nội và đối ngoại cho từng giai đoạn xây dựng và chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Đại sứ quán của nhiều quốc gia trên thế giới đều đặt ở Hà Nội. Mọi hoạt động ngoại giao, thăm viếng, trình quốc thư, hội đàm, ký hiệp ước hữu nghị và hợp tác được tiến hành tại đây. Hà Nội vinh dự được đón nhận danh hiệu "Thành phố vì hòa bình" và đang khẩn trương, hào hứng hướng tới đại lễ 1000 năm Thăng Long – Đông Đô – Hà Nội. Về văn hoá, các cơ quan thông tấn, báo chí, xuất bản cấp quốc gia đều đóng tại Hà Nội và cụ thể hơn là tại khu vực nội thành Hà Nội. Không những thế, đây còn là một trong những địa phương đi đầu trong cả nước về xây dựng nếp sống văn minh và gia đình văn hóa mới. Về khoa học, giáo dục và đào tạo, Hà Nội là nơi tập trung 44 trường đại học và cao đẳng của đất nước, với hơn 330 nghìn học sinh - sinh viên. Hà Nội tự hào là cái nôi rèn luyện và tạo dựng các thế hệ trí thức của thời đại. Các thế hệ trí thức với nhiều danh nhân lỗi lạc đã bồi đắp trở lại cho Hà Nội ngày càng thực sự tiêu biểu cho nền văn hóa Việt Nam. Về khoa học, với hơn một trăm viện nghiên cứu trong đó có hai trung tâm nghiên cứu lớn là Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam và Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, nhiều viện nghiên cứu ở các các bộ, các ngành. Hàng năm, Hà Nội tổ chức một số lượng lớn hội thảo, hội nghị với các tổ chức quốc tế song phương và đa phương. Tuy nhiên, có thể thấy rằng, đang tồn tại một sự khác biệt rất lớn giữa vùng nông thôn ngoại thành và nội đô thành phố Hà Nội. Sự chênh lệch về thu nhập, về mức sống, điều kiện chăm sóc y tế, hưởng thụ văn hóa đang Nguyễn Thị Thu 15 K51-Thông tin –Thƣ viện
  16. Khóa luận tốt nghiệp Trƣờng Đại học Khoa học xã hội & Nhân văn ngày càng trở nên rõ rệt. Cách trung tâm thành phố chỉ khoảng 30-40 km, nhưng nhiều vùng chưa có đường ô tô, không có nước sạch, đời sống vật chất của dân cư còn rất khó khăn, điều kiện hưởng thụ văn hóa tinh thần lại càng khó khăn hơn. Qua những phân tích trên có thể thấy một nhu cầu cấp thiết là phải tăng cường đầu tư hơn nữa cho khu vực ngoại thành, không chỉ để thúc đẩy phát triển kinh tế mà còn phải nhanh chóng thu hẹp khoảng cách hưởng thụ văn hóa giữa nông thôn ngoại thành và nội thành. Mô hình thư viện thôn, làng chính là một trong các giải pháp để giải quyết nhiệm vụ nặng nề trên. 1.2. Giới thiệu khái quát về mô hình thƣ viện thôn, làng Năm 1924, N.C.Crúp - xcai - a, nhà thư viện học người Nga đã viết “Thư viện là phương thức đưa sách báo đến với quần chúng tiết kiệm nhất và hợp lý nhất. Thư viện là hình thức sử dụng sách, báo tập thế”. Năm 1970, trong đề nghị tiêu chuẩn hóa quốc tế về lĩnh vực thống kê thư viện, UNESCO đã đưa ra định nghĩa về thư viện “Thư viện không phụ thuộc vào tên gọi của nó, là bất cứ bộ sưu tập có tổ chức nào của sách, ấn phẩm định kỳ hoặc các tài liệu khác, kể cả đồ họa, nghe, nhìn và nhân viên phục vụ có trách nhiệm tổ chức cho bạn đọc sử dụng các loại tài liệu đó nhằm phục vụ mục đích thông tin, nghiên cứu khoa học, giáo dục hoặc giải trí”. Theo đó, có thể coi khái niệm về thư viện thôn, làng là những cơ sở văn hóa hạt nhân trọng yếu, là nơi tập trung sinh hoạt văn hóa, tinh thần của dân cư địa phương, hay nói cách khác, thư viện thôn, làng là những kho sách dùng chung, phục vụ cho mọi đối tượng có nhu cầu trong thôn, trong làng, hay một nhóm người cụ thể theo quy định riêng của thư viện. Như chúng ta đã biết, hệ thống thư viện công cộng đứng đầu là thư viện Quốc gia với một mạng lưới các thư viện công cộng các cấp tỉnh, thành Nguyễn Thị Thu 16 K51-Thông tin –Thƣ viện
  17. Khóa luận tốt nghiệp Trƣờng Đại học Khoa học xã hội & Nhân văn phố, quận, huyện. Và như vậy, thư viện thôn, làng cùng với tủ sách cơ sở nên được xem là cấp cuối cùng trong hệ thống thư viện công cộng. So với mô hình điểm bưu điện văn hóa xã, mô hình tủ sách pháp luật, mô hình tủ sách thanh niên, mô hình tủ sách - câu lạc bộ, mô hình tủ sách trường học thì mô hình thư viện thôn, làng có nhiều ưu điểm hơn. Hiện nay, trên địa bàn Hà Nội có 740 thư viện thôn làng và tủ sách cơ sở (năm 2010). Đã có nhiều thư viện thôn, làng hoạt động rất tốt và sách báo đã thực sự trở thành món ăn tinh thần không thể thiếu đối với nhiều người dân ở các vùng làng quê Hà Nội như các thư viện Bình Vọng (Thường Tín), Giang Cao (Gia Lâm), Các thư viện này đã trở thành các điểm sinh hoạt văn hóa, tinh thần lành mạnh đối với nhân dân địa phương. Tiêu chí đánh giá thư viện cơ sở Thông tư 56/2003 của Bộ Văn hóa Thông tin, ban hành ngày 16/9/2003 “Hướng dẫn chi tiết về điều kiện thành lập thư viện và thủ tục đăng ký hoạt động thư viện” quy định rõ tiêu chí đánh giá thư viện cơ sở về trang thiết bị chuyên dùng, cụ thể: - Vốn sách báo của thư viện cơ sở: + Đối với vùng đồng bằng: 1500 bản sách và 10 loại báo, tạp chí. + Đối với vùng miền núi: 100 bản sách và 5 loại báo, tạp chí Thư viện cấp cơ sở phải có trụ sở ở vị trí thuận lợi cho người sử dụng thư viện, ngoài diện tích kho sách và nơi làm việc của nhân viên, thư viện phải có ít nhất 15 chỗ ngồi đối với vùng đồng bằng và 10 chỗ ngồi đối với vùng miền núi Nếu so sánh với tiêu chí đánh giá như trên thì có thể thấy ngay rằng nhiều thư viện thôn, làng hoàn toàn có đủ điều kiện trở thành thư viện cơ sở. Sự hình thành thư viện thôn làng Nguyễn Thị Thu 17 K51-Thông tin –Thƣ viện
  18. Khóa luận tốt nghiệp Trƣờng Đại học Khoa học xã hội & Nhân văn Phần lớn các thư viện thôn, làng ban đầu được hình thành do sự đề xuất, khởi xướng của những người cao tuổi trong địa phương. Cùng với sự quan tâm của những cá nhân, tổ chức và của ban lãnh đạo các cấp, các thư viện thôn, làng được hình thành và từng bước phát triển. Có những thư viện tiền thân là tủ sách của thôn, được sự đóng góp của cộng đồng dân cư và phát triển thành thư viện với đầy đủ chức năng của một thư viện cơ sở. Gắn với sự hình thành và phát triển của thư viện thôn làng luôn có sự tham gia tích cực của các tổ chức chính trị xã hội tại địa phương như Hội Người cao tuổi, Hội Khuyến học Thƣ viện thôn Bình Vọng Thôn Bình Vọng thuộc xã Văn Bình, huyện Thường Tín, Tp. Hà Nội. Thư viện thôn Bình Vọng là thư viện thôn đầu tiên được thành lập trong xã. Đầu năm 1999, cụ Dương Văn Phi, một giáo viên về hưu, Chi hội trưởng Chi hội Người cao tuổi của thôn, đã đề xuất thành lập thư viện thôn. Đề xuất của cụ Phi được lãnh đạo thôn, xã và bà con nhân dân rất đồng tình ủng hộ. Năm 1999, thư viện thôn Bình Vọng được thành lập. Điều độc đáo ở đây không chỉ về ý tưởng mà còn về cách thức xây dựng thư viện. Người dùng tin của thư viện cũng đồng thời là thủ thư, các bác cán bộ về hưu là những người say mê sách nhất và đồng thời cũng là những người nhiệt tình nhất trong việc xây dựng và quản lý thư viện. Hiện nay, bác Lương Văn Tăng, cũng là một cán bộ hưu trí, là độc giả trung thành của thư viện, đồng thời là chủ nhiệm của thư viện. Khẩu hiệu mà thư viện Thôn Bình Vọng luôn đề cao hàng đầu là chính là câu nói nổi tiếng của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Học ở trường, học ở sách vở, học lẫn nhau và học ở dân”. Thƣ viện thôn Giang Cao Thôn Giang Cao thuộc xã Bát Tràng, huyện Gia Lâm, TP. Hà Nội. Tiền thân của thư viện thôn Giang Cao là tủ sách của thôn với khoảng hơn Nguyễn Thị Thu 18 K51-Thông tin –Thƣ viện
  19. Khóa luận tốt nghiệp Trƣờng Đại học Khoa học xã hội & Nhân văn 200 cuốn sách. Năm 1999, ông Nguyễn Huy Truy là một người cao tuổi trong thôn đề xuất thành lập thư viện thôn. Đến tháng 7/1999 thư viện thôn Giang Cao được thành lập và hoạt động khá hiệu quả cho tới nay. Thƣ viện thôn Yên Xá Thôn Yên Xá thuộc xã Tân Triều, huyện Thanh Trì, TP. Hà Nội. Thư viện thôn Yên Xá do Hội Người cao tuổi của thôn thành lập năm 2005. Chức năng, nhiệm vụ của thư viện thôn làng Căn cứ vào Pháp lệnh Thư viện được chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam ban hành ngày 11/1/2001 thì chức năng và nhiệm vụ của thư viện được chỉ ra như sau: “Thư viện có chức năng, nhiệm vụ là giữ gìn di sản thư tịch của dân tộc, thu thập tàng trữ, tổ chức việc khai thác và sử dụng vốn tài liệu trong xã hội nhằm truyền bá tri thức, cung cấp thông tin phục vụ nhu cầu học tập, nghiên cứu, công tác và giải trí của mọi tầng lớp nhân dân; góp phần nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, phát triển khoa học, công nghệ, kinh tế, văn hóa, phục vụ công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” (Điều 1- Pháp lệnh Thư viện), xây dựng thói quen tự học, tự nghiên cứu trong học sinh, sinh viên. Với chức năng chủ yếu là luân chuyển sách, báo, thông qua nội dung sách báo thư viện thôn, làng góp phần tích cực vào việc nâng cao chất lượng dân trí, tuyên truyền các chủ trương đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước tới người dân trong thôn, xây dựng nếp sống văn minh cho cộng đồng dân cư. Bên cạnh đó, thư viện còn có các hoạt động như tuyên truyền và giới thiệu sách, triển lãm sách nhân các ngày kỷ niệm, những hoạt động này đã tác động tích cực tới việc giáo dục tư tưởng và truyền thống cách mạng cho người dân, đồng thời chống lại mọi tàn dư của văn hóa tiêu cực xâm nhập. Nguyễn Thị Thu 19 K51-Thông tin –Thƣ viện
  20. Khóa luận tốt nghiệp Trƣờng Đại học Khoa học xã hội & Nhân văn Bằng cách giới thiệu các tiến bộ kỹ thuật áp dụng trong trồng trọt, chăn nuôi, hay nghề thủ công, thư viện thôn, làng đã góp phần thay đổi thói quen canh tác lạc hậu, làm thay đổi kinh tế nông thôn. Một nhiệm vụ mà các thư viện thôn, làng thực hiện rất hiệu quả trong thời gian qua là xây dựng nếp sống văn hóa cho nhân dân, giúp họ bài trừ các tàn tích lạc hậu, hủ tục, mê tín dị đoan. Thư viện thôn làng còn là nơi bà con trong thôn đến giao lưu sau những giờ lao động vất vả, điều này làm tăng thêm tình đoàn kết xóm làng. Nhờ có hoạt động đọc sách báo trong thư viện, mà nhiều thanh thiếu niên trong thôn tránh xa được các tệ nạn cờ bạc, rượu chè, ma túy, Đây chính là một điểm sáng mà thư viện thôn làng đã làm được Đối tượng phục vụ của thư viện Các thư viện thôn, làng phục vụ đông đảo mọi tầng lớp nhân dân trong địa phương, từ trẻ em, thanh niên, người trung niên, người cao tuổi của làng và các địa phương lân cận. Thư viện Bình Vọng, ngoài đối tượng người dùng tin của địa phương mình còn mở rộng phục vụ đối tượng người dùng tin địa phương khác, mặc dù đối tượng này đến thư viện vẫn còn ít. Điều đặc biệt ở các thư viện này là đội ngũ cộng tác viên, họ vừa là người cán bộ thư viện vừa là người độc giả. Cán bộ thư viện Tại mỗi thư viện đều có người phụ trách, quản lý sách báo và trông coi giữ gìn. Chủ yếu là lực lượng cựu chiến binh, cán bộ hưu trí và các cán bộ kiêm nhiệm công tác khác của địa phương. Với đội ngũ này, họ có điều kiện về thời gian, kinh nghiệm hoạt động xã hội và vốn hiểu biết về các lĩnh vực công tác. Khi tự nguyện tham gia công tác thư viện, họ rất quan tâm đến việc đưa sách báo đến tay người dân. Bằng uy tín và mối quan hệ rộng rãi của mình, họ đứng ra mượn sách báo, vận động các đối tượng nhân dân, các Nguyễn Thị Thu 20 K51-Thông tin –Thƣ viện
  21. Khóa luận tốt nghiệp Trƣờng Đại học Khoa học xã hội & Nhân văn tổ chức ở địa phương ủng hộ tài trợ mọi mặt cho hoạt động của thư viện. Thư viện thôn Bình Vọng, ngoài 1 người phụ trách chính, 2 cán bộ thư viện có những thư viện có thêm “mạng lưới cộng tác viên”, 113 cộng tác viên là những người nông dân, cán bộ hưu trí được huy động và đảm bảo các hoạt động thường xuyên của thư viện. Thư viện thôn Giang Cao, hiện nay chỉ có một người làm người phụ trách thư viện kiêm cán bộ thư viện, và không có đội ngũ cộng tác viên. Thư viện thôn Yên Xá từ khi thành lập cho đến nay, vẫn chưa có người đứng ra làm cán bộ phụ trách thư viện. Thư viện không giao nhiệm vụ cho những cá nhân hay tổ chức để thực hiện các hoạt động của thư viện. Vốn tài liệu Tại các thư viện thôn, làng, số lượng sách báo không nhiều. Có những thư viện có số sách lên tới 4000 – 8000 cuốn, nhưng có những thư viện chỉ có vài trăm cuốn. Số báo và tạp chí mà thư viện có được phần lớn từ nguồn biếu tặng, cho nên số đầu báo, tạp chí của từng tên báo và tạp chí không theo định kỳ phát hành. Có những tên báo, tạp chí được cập nhật thường xuyên nhưng cũng có khi chỉ có 2,3 số cho 1 tên báo, tạp chí. Thực tế, mỗi thư viện thôn, làng bước đầu chỉ cần vài trăm cuốn sách và 4-5 loại báo là bắt đầu đưa vào hoạt động. Tại thư viện thôn Bình Vọng, hiện nay thư viện có tổng số 6772 cuốn sách, gồm nhiều môn loại như chính trị, y học, nông nghiệp, văn học Thư viện có 20 tên tạp chí, một số tên tạp chí như Thiếu niên, Tự học, Nhi đồng, Hoa học trò, Tuổi trẻ cười, Hạnh phúc gia đình, Nông nghiệp, Văn học nghệ thuật, Đại đoàn kết, Thuốc và sức khỏe, Văn nghệ quân đội, Quốc phòng, Toàn cảnh, Xưa và nay, Tạp chí Cộng sản .8 tờ báo mà thư viện có như báo Người cao tuổi, Nhân dân, Nông thôn, Sức khỏe và đời sống, Văn hóa, Ngày nay, Lao động xã hội, Tiền Phong. Nguyễn Thị Thu 21 K51-Thông tin –Thƣ viện
  22. Khóa luận tốt nghiệp Trƣờng Đại học Khoa học xã hội & Nhân văn Thư viện thôn Giang Cao có tổng số khoảng 5000 cuốn sách, thuộc nhiều môn loại. Thư viện có trên 30 tên tạp chí và báo. Một số tên tạp chí mà thư viện có như Mỹ phẩm, Mua sắm, Người đẹp, kinh tế gia đình, Thuốc và sức khỏe, Sức khỏe và đời sống, Bếp gia đình, Phụ nữ, Sinh viên, Toán học, Tạp chí Cộng Sản, Văn hóa thông tin, Em là bông hồng nhỏ, Tuổi học trò, Thế giới mới, Trí thức trẻ, Khoa học đời sống, Nhi đồng, Thanh niên Thư viện có một số tên báo như báo Nhân dân, Kinh tế đô thị, Hà Nội mới, Khoa học đời sống, Lao động, Nông nghiệp, Văn hóa, Tài chính, An ninh, Văn nghệ Còn vốn tài liệu của thư viện thôn Yên Xá rất ít ỏi chỉ 397 cuốn sách và 8 tên báo và tạp chí như Hạnh phúc gia đình, Truyền hình, Gia đình và xã hội, Tri thức trẻ, Kiến thức gia đình, Thời trang trẻ, Lao động, Văn hóa nghệ thuật, Cơ sở vật chất Trụ sở của các thư viện thôn, làng nhìn chung còn rất chật chội và được đặt ở nhiều nơi khác nhau: Phần lớn trụ sở thư viện xuất phát từ nơi đặt tủ sách của thôn. Hơn nữa, địa điểm của các thư viện trong các thôn làng là những nơi tập trung đông người (những nơi đã được dùng để họp tổ hợp tác xã thời trước), hoặc đặt tại UBND xã, trong Câu lạc bộ Người cao tuổi, hay được đặt tại đình làng là nơi dân làng thường tập trung để sinh hoạt văn hóa. Đình làng thường là nơi rộng rãi, thoáng mát, là trungtaam của làng, rất thuận lợi cho việc đi lại mượn sách báo. Nếu trụ sở thư viện đặt ở đình làng thì quả là một lợi thế, một kinh nghiệm cần được nhân rộng, các thư viện tại các địa phương khác cần học tập phát huy, góp phần nâng cao hoạt động văn hóa tại các vùng cơ sở. Hiện nay nhiều thư viện đã chuyển trụ sở đến nhà văn hóa Nguyễn Thị Thu 22 K51-Thông tin –Thƣ viện
  23. Khóa luận tốt nghiệp Trƣờng Đại học Khoa học xã hội & Nhân văn của thôn. Đây cũng là một địa điểm khá thuận tiện cho nhân dân, giúp nhân dân có thể đến tham gia hoạt động thư viện được thuận tiện hơn. Diện tích trung bình của các thư viện thôn làng chỉ khoảng từ 20-30 m² và có khoảng 15-25 chỗ ngồi. Về ánh sáng, bên cạnh những thư viện tổ chức phòng đọc thoáng mát, đủ ánh sáng còn có những nơi đèn thắp sáng để phục vụ bạn đọc tại chỗ thường chỉ là một, hai bóng túyp hoặc một bóng đèn vàng, vài ba chiếc quạt trần, Với diện tích hạn hẹp và trang thiết bị như vậy, các thư viện gặp nhiều khó khăn khi phục vụ bạn đoc, nhất là trong những ngày hè oi bức Thư viện thôn Bình Vọng Ban đầu được đặt tại 3 gian đình của thôn, sau đó Thư viện được chuyển đến nhà văn hóa thôn với 2 phòng có diện tích 57 m². Về trang thiết bị, thư viện hiện có 5 kệ sách, 1 máy tính (do Hội Khuyến học tặng), các bàn ghế phục vụ người đọc. Năm 2009 thư viện thôn Giang Cao thay đổi trụ sở từ một gian miếu của thôn sang 1 phòng 30 m² tại nhà văn hóa thôn. Hiện nay thư viện có 4 tủ sách, 1 giá sách, 30 chỗ ngồi dành cho bạn đọc. Còn thư viện thôn Yên Xá hiện vẫn đặt tại ngôi đình của thôn, với phòng đọc rất rộng rãi, thoáng mát 70 m² và trên 100 chỗ ngồi phục vụ bạn đọc. Hình thành và hoạt động tại cộng đồng dân cư, hoạt động của thư viện thôn làng lấy trọng tâm là đẩy mạnh phong trào đọc sách báo ở cơ sở theo hướng xây dựng làng văn hóa, gia đình văn hóa và xây dựng nếp sống văn minh. 1.3. Vai trò của thƣ viện thôn làng trong việc thỏa mãn nhu cầu tin của ngƣời dùng tin và đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phƣơng. Bên cạnh việc tìm hiểu thông tin qua các thư viện trường học, thư viện huyện, các điểm bưu điện văn hóa, hay các phương tiện truyền thông khác như đài, ti vi hay thông qua mượn sách của bạn bè , nhân dân nông thôn còn tìm thông tin họ cần ở thư viện ở địa phương. Có thể thấy rằng thư Nguyễn Thị Thu 23 K51-Thông tin –Thƣ viện
  24. Khóa luận tốt nghiệp Trƣờng Đại học Khoa học xã hội & Nhân văn viện thôn, làng đóng vai trò rất quan trọng trong việc thỏa mãn nhu cầu thông tin của người dân trên địa bàn cũng như sự phát triển kinh tế, xã hội, nếp sống văn hóa tại địa phương. 1.3.1. Thƣ viện thôn làng trong việc thỏa mãn nhu cầu tin của ngƣời dùng tin Do ảnh hưởng của đời sống kinh tế xã hội, nên độ biến động về nhóm NDT của thư viện là rất lớn, do đó việc nắm vững nhu cầu, đặc điểm của nhóm NDT và việc triển khai phục vụ có phân biệt cho từng nhóm đối tượng sẽ từng bước nâng cao chất lượng hoạt động của các thư viện thôn, làng, đáp ứng được nhu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn mới, nhất là trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn của nước ta hiện nay. Trong nội dung này tác giả nghiên cứu những nhóm NDT, đặc điểm nhu cầu tin của những nhóm NDT cũng như mức độ thỏa mãn nhu cầu tin đó của một số thư viện thôn, làng. Trong hoạt động thông tin thư viện, NDT là người sử dụng thông tin (trực tiếp hoặc thông qua các sản phẩm, dịch vụ của thư viện) để tìm kiếm thông tin phù hợp với nhu cầu của mình, mặt khác họ cũng chính là người đánh giá chất lượng về các sản phẩm, dịch vụ được cung cấp, là người điều chỉnh hoạt động thông tin thư viện thông qua các thông tin phản hồi về mức độ thỏa mãn nhu cầu tin của mình. Tuy nhiên, mỗi cơ quan thông tin thư viện có đối tượng NDT khác nhau tùy thuộc vào loại hình, chức năng, nhiệm vụ của cơ quan thông tin thư viện đó. Ở đây, tại những thư viện thôn làng, là những thư viện tại địa bàn cơ sở, đối tượng phục vụ của thư viện thôn, làng là đông đảo mọi tầng lớp nhân dân trong địa phương, từ các em thiếu nhi, tới các cán bộ, giáo viên, các bác nông dân, cán bộ hưu trí, Nguyễn Thị Thu 24 K51-Thông tin –Thƣ viện
  25. Khóa luận tốt nghiệp Trƣờng Đại học Khoa học xã hội & Nhân văn Nghiên cứu nhu cầu tin là cơ sở để tổ chức phục vụ NDT hiệu quả hơn. Từ những điều đó, chúng tôi đã tiến hành điều tra, nghiên cứu nhu cầu tin của NDT các thư viện thôn, làng ngoại thành Hà Nội bằng nhiều phương pháp khác nhau, hỗ trợ cho nhau, nhưng phương pháp chủ yếu được sử dụng là điều tra bằng phiếu. Để nghiên cứu nhu cầu tin của NDT, tác giả khóa luận đã gửi 300 phiếu điều tra đến NDT tại các thư viện thôn, làng ngoại thành Hà Nội và thu về 285 phiếu (đạt 95%). Số lượng các câu hỏi trong phiếu điều tra gồm 15 câu (được trình bày cụ thể ở phần phụ lục). Ngoài việc sử dụng phương pháp điều tra bằng phiếu, tác giả khóa luận còn tiến hành quan sát trực tiếp người dùng tin đến sử dụng thư viện, phỏng vấn trực tiếp cán bộ thư viện và một số đối tượng là người dùng tin của thư viện. Việc điều tra được tiến hành trên 3/18 huyện. Qua điều tra cho thấy nhu cầu tin ở 3 vùng có nhiều nét tương đồng. Kết quả nghiên cứu nhu cầu tin của người dùng tin cho thấy nhu cầu tin của người dùng tin tại các thư viện thôn, làng có những đặc điểm sau: NDT của các thư viện thôn, làng không chỉ đông về số lượng mà còn rất đa dạng và phong phú về thành phần. Có những thư viện thôn, làng mở rộng đối tượng phục vụ không chỉ với người dân tại địa phương mình mà còn phục vụ đối tượng NDT là người dùng tin địa phương khác. Đó là học sinh và người cao tuổi từ địa phương khác đến, tuy nhiên số lượng còn hạn chế. Qua khảo sát và điều tra thực tế tại các thư viện thôn, làng, dựa vào nghề nghiệp của NDT, đối tượng phục vụ chính của thư viện được chia thành 2 nhóm chính như sau: Nhóm 1: Nhóm người dùng tin khoa học, công nghệ, nhóm này gồm các thành phần sau: Cán bộ quản lý lãnh đạo Nguyễn Thị Thu 25 K51-Thông tin –Thƣ viện
  26. Khóa luận tốt nghiệp Trƣờng Đại học Khoa học xã hội & Nhân văn Giáo viên, giảng viên Cán bộ kỹ thuật Nhóm 2: Nhóm người dùng tin phổ thông, gồm có: Cán bộ hưu trí Thiếu nhi Học sinh, sinh viên Nông dân Nhu cầu về lĩnh vực tài liệu của ngƣời dùng tin Nhóm 1: Nhóm ngƣời dùng tin khoa học, công nghệ Người dùng tin là cán bộ quản lý lãnh đạo (chiếm 1,2%) NDT là cán bộ quản lý, lãnh đạo tại địa phương, tuy là những người rất cần thông tin cho công tác quản lý, lãnh đạo nhưng nhóm NDT này đến thư viện tương đối ít, có thể do tính chất công việc luôn bận rôn mà họ không có thời gian, hoặc vì chất lượng sách tại các thư viện không cao, chưa đáp ứng được nhu cầu của họ. Nhu cầu tin của nhóm NDT này cũng rất đa dạng và phong phú, ngoài thông tin thường nhật về đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước ra họ cũng có nhu cầu tin về thị trường, kinh tế, khoa học công nghệ, môi trường và những thông tin về đối tượng bị quản lý. Yêu cầu tin của các nhà quản lý, lãnh đạo là những thông tin đã được sơ chế, xử lý và trở thành những thông tin có giá trị gia tăng cao. Đó là những thông tin cô đọng, logic, kịp thời, đầy đủ và chính xác. Người dùng tin là giáo viên, giảng viên (chiếm 2,3%) Họ là những giáo viên, giảng viên đang giảng dạy tại các trường tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông và một số trường cao đẳng trên địa bàn ngoại thành Hà Nội. Nguyễn Thị Thu 26 K51-Thông tin –Thƣ viện
  27. Khóa luận tốt nghiệp Trƣờng Đại học Khoa học xã hội & Nhân văn Đối tượng này đến thư viện với mục đích tham khảo tài liệu để phục vụ giảng dạy. Đó là những tài liệu phục vụ trực tiếp cho những môn học mà giáo viên hay giảng viên đảm nhiệm giảng dạy, đặc biệt là tài liệu về văn học, lịch sử Người dùng tin là cán bộ kỹ thuật (chiếm 1,5%) Họ là các cán bộ khoa học, kỹ thuật đang công tác, làm việc tại các khu công nghiệp, các cán bộ kỹ thuật ở địa phương, các cán bộ tại các trung tâm khoa học và công nghệ ở huyện Đối tượng NDT này có trình độ học vấn tương đối cao. Đây là lực lượng nòng cốt đóng vai trò quan trọng trong việc nghiên cứu, chỉ đạo và hướng dẫn người nông dân áp dụng khoa học và công nghệ mới vào thực tế sản xuất và đời sống. Do đó nhu cầu thông tin của họ có tính chất chuyên sâu về nhiều lĩnh vực nghề nghiệp khác nhau: trồng trọt, chăn nuôi, thủy lợi, và một số ngành khoa học mang tính bổ trợ khác. Nhóm NDT này đến thư viện để tìm những thông tin về các phát minh, sáng chế mới, các thành tựu về khoa học, hoặc tìm các tài liệu về kỹ thuật, công nghệ để áp dụng vào sản xuất hay chỉ đạo sản xuất. Nhóm 2: Nhóm ngƣời dùng tin phổ thông Cán bộ hưu trí (chiếm 39%) Đây là nhóm NDT chủ yếu tại các thư viện thôn, làng ngoại thành Hà Nội, là nhóm người dùng tin đặc biệt của thư viện. Đặc biệt bởi chính họ là những người đi tiên phong trong việc thành lập và phát triển hoạt động của các mô hình thư viện thôn làng. Điều đặc biệt còn là ở một số thư viện có đội ngũ cộng tác viên là cán bộ hưu trí đông đảo, họ vừa là người cán bộ thư viện vừa là độc giả. Do được nhân dân trong thôn tín nhiệm và nể trọng, nên một số người cao tuổi không chỉ tham gia hoạt động của thư viện mà họ còn là thành viên Nguyễn Thị Thu 27 K51-Thông tin –Thƣ viện
  28. Khóa luận tốt nghiệp Trƣờng Đại học Khoa học xã hội & Nhân văn của hội người cao tuổi, tham gia vào tích cực trong việc đóng góp ý kiến xây dựng kinh tế - xã hội của địa phương. Vì vậy, họ có vai trò tác động tích cực đến sự phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa của địa phương. Nhóm bạn đọc cao tuổi bao gồm cán bộ hưu trí, các cán bộ công nhân viên trong các nhà máy, cơ quan xí nghiệp. Nhóm NDT này cũng là nhóm dành nhiều thời gian sử dụng tài liệu và các dịch vụ của thư viện nhất. Nhu cầu đọc của nhóm này không đòi hỏi chuyên sâu cũng như không có sự tổng hợp cao. Nhu cầu đọc của nhóm này chủ yếu là sách văn học nghệ thuật có nội dung đề cập đến cuộc sống hàng ngày, các mối quan hệ ứng xử giữa con người với con người, sách về y học, lịch sử, chính trị Thông tin của họ mang tính khoa học phổ thông thường thức về khoa học tự nhiên, khoa học xã hội. Nhìn chung, đối tượng này chiếm tỷ lệ cao và ổn định về nhu cầu tài liệu. Người dùng tin là học sinh, sinh viên (chiếm 29,3%) Đây là nhóm NDT có sự biến động thường xuyên bao gồm: các em học sinh các trường cao đẳng, các trường trung học phổ thông, các sinh viên thuộc các trường cao đẳng, các trường trung học chuyên nghiệp nằm trên địa bàn các huyện ngoại thành Hà Nội. Nhu cầu tin của họ rất đa dạng, họ cần tài liệu và thông tin phục vụ cho việc học tập. Thông tin mà họ cần thường là những thông tin mang tính hệ thống và không quá chuyên sâu, đó là những kiến thức khái quát về các ngành khoa học. Người dùng tin là thiếu nhi (chiếm 24%) Nhóm NDT thiếu nhi gồm các em ở các trường tiểu học, trung học cơ sở của các huyện ngoại thành Hà Nội. Nhu cầu đọc sách của các em khá đơn giản, chủ yếu các em đến mượn sách khoa học tự nhiên và xã hội để khám phá cuộc sống, những sách báo về tuổi học trò, truyện tranh, truyện vui, truyện cổ tích Các em đến thư viện đọc sách lễ phép, có ý thức và ham đọc Nguyễn Thị Thu 28 K51-Thông tin –Thƣ viện
  29. Khóa luận tốt nghiệp Trƣờng Đại học Khoa học xã hội & Nhân văn sách với mục đích giải trí và tham khảo thêm một số sách báo để trau dồi thêm vốn hiểu biết. Người dùng tin là nông dân (chiếm 2,7%) Phần lớn họ là những người nông dân thuần nông, những người trực tiếp sản xuất trên đồng ruộng, sống phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên, cần cù, chịu khó song trình độ lại hạn chế, chủ yếu dựa vào kinh nghiệm đúc rút từ bản thân. Nhóm người dùng tin này chiếm 2,7% tổng số người đọc của thư viện. Mỗi nhóm NDT khác nhau có nhu cầu về lĩnh vực tài liệu quan tâm khác nhau. Tuy nhiên, xét một cách tổng thể, nhu cầu tin và sử dụng thông tin của người dùng tin tương đối cao so với nhiều năm trước. Họ quan tâm đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Bảng 1 Nhu cầu về lĩnh vực tài liệu của người dùng tin Lĩnh vực tài liệu Tỷ lệ (%) Văn học nghệ thuật 30,3 Khoa học kỹ thuật 9 Nhà nước và pháp luật 12 Chính trị - xã hội 21,1 Sách thiếu nhi 27,6 Số liệu trên cũng là cơ sở cho các thư viện thôn, làng định hướng cho các hoạt động của mình nhằm phục vụ người dùng tin được tốt nhất. Về loại hình tài liệu Nguyễn Thị Thu 29 K51-Thông tin –Thƣ viện
  30. Khóa luận tốt nghiệp Trƣờng Đại học Khoa học xã hội & Nhân văn Các loại hình tài liệu trong xã hội phong phú và đa dạng. Nhu cầu của người dùng tin tại các thư viện thôn, làng cũng không ngừng tăng lên và đa dạng. Bảng 2 Nhu cầu về loại hình tài liệu của người dùng tin Loại tài liệu Tỷ lệ (%) Sách 76 Báo 11 Tạp chí 13 Nhìn chung NDT chủ yếu sử dụng sách 76%, báo là 11% và tạp chí là 13%. Về ngôn ngữ tài liệu Theo kết quả điều tra, tiếng Việt là ngôn ngữ tài liệu mà NDT sử dụng nhiều nhất (chiếm tới 100%). Lý giải điều đó bởi vì các thư viện ở đây chỉ có tài liệu bằng tiếng Việt. Qua những phân tích trên, cho thấy thư viện thôn tại các địa phương góp phần quan trọng trong việc đáp ứng nhu cầu tin của NDT. Không những thế, thư viện thôn còn có ý nghĩa thiết thực đối với sự phát triển kinh tế xã hội của địa phương, góp phần làm đổi mới diện mạo của quê hương. 1.3.2. Vai trò của thƣ viện thôn, làng đối với sự phát triển kinh tế xã hội của địa phƣơng Với mỗi cá nhân, càng tham gia nhiều hoạt động khác nhau, nhu cầu tin càng cao và đa dạng hơn. Ở cấp độ xã hội, các lĩnh vực hoạt động càng đa dạng, phức tạp, nhu cầu tin càng lớn đòi hỏi được đáp ứng ở mức độ cao hơn. Đồng thời, nhu cầu tin phát triển cao lại tác động trở lại tới sự phát triển của hoạt động sản xuất, góp phần phát triển xã hội. Tầm quan trọng của thư viện nói chung, và vai trò của thư viện thôn, làng trên các mặt kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội là không thể phủ nhận. Nguyễn Thị Thu 30 K51-Thông tin –Thƣ viện
  31. Khóa luận tốt nghiệp Trƣờng Đại học Khoa học xã hội & Nhân văn Mô hình thư viện thôn, làng ra đời, góp phần nâng cao sự hiểu biết của người dân, nâng cao ý thức pháp luật, giáo dục truyền thống quê hương, giúp người dân hiểu biết thêm chủ trương, đường lối chính sách, pháp luật của Đảng và nhà nước. Từ đó góp phần nâng cao dân trí cho người dân. Thư viện thôn, làng cũng giúp cho những ngành nghề mà người dân tham gia lao động, sản xuất có hiệu quả hơn. Ở đây, thông qua sách, báo chủ trương của Hội Nông dân về chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi cũng dễ đi vào cuộc sống. Đặc biệt là việc cải tiến kỹ thuật trong trồng trọt, chăn nuôi, áp dụng cải tiến khoa học - kỹ thuật nông nghiệp vào đồng ruộng, Nhiều bà con nông dân đã tìm thấy trong các trang sách các kiến thức trồng trọt, chăn nuôi cho năng suất cao, giúp họ cải tiến công việc hàng ngày, tìm ra các giống cây trồng, vật nuôi phù hợp với điều kiện địa phương. Đáp ứng nhu cầu giải trí của một bộ phận dân cư trong thôn là điều mà thư viện thôn, làng đã làm được. Thanh thiếu niên và cả người lớn tuổi trong thôn thường xuyên đến thư viện đọc sách, báo. Trình độ dân trí cũng vì vậy mà được nâng lên đáng kể, sự hiểu biết về pháp luật cũng được nâng lên, điều đó làm giảm đáng kể những tệ nạn xã hội như cờ bạc, rượu chè, trộm cắp Hoạt động thư viện cũng tạo điều kiện cho phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” có nhiều chuyển biến tích cực, đời sống tinh thần của nhân dân ổn định và từng bước phát triển. Về mặt giáo dục, thư viện thôn, làng đã giúp đỡ các em học sinh, đặc biệt là các em học sinh lứa tuổi thiếu nhi tiếp cận với các loại sách, báo, bổ sung cho kiến thức học tập trong trường. Thông qua sinh hoạt tại phòng đọc sách, báo các em bổ sung được những kiến thức phục vụ cho việc học tập của mình. Hoạt động của các thư viện thôn xóm còn góp phần thúc đẩy công tác khuyến học khuyến tài, xây dựng xã hội học tập của địa phương ngày Nguyễn Thị Thu 31 K51-Thông tin –Thƣ viện
  32. Khóa luận tốt nghiệp Trƣờng Đại học Khoa học xã hội & Nhân văn càng phát triển. Các thư viện đã thu hút được một lượng lớn các em trong độ tuổi học sinh đến đọc. “Trước chúng tôi ở xóm nào biết xóm đấy, nhưng nay có thư viện, ngoài việc có nơi đến đọc sách, báo nắm tin tức chúng tôi còn có dịp trò chuyện với nhau, bàn luận các vấn đề với nhau, giúp tăng tình đoàn kết xóm làng. Các cháu học sinh có chỗ để học tập, đọc sách, bớt đi chơi bời, lêu lổng sau giờ học”, ông Trần Đình Lan (một bạn đọc của thư viện thôn Bình Vọng) chia sẻ. Hoạt động thư viện cũng góp phần thắt chặt tình đoàn kết trong nhân dân: theo ông Lương Văn Tăng (chủ nhiệm thư viện thôn Bình Vọng) cho biết: “Nhờ có thư viện mà kiến thức văn hóa xã hội của người dân được nâng lên đáng kể. Qua mỗi buổi gặp gỡ, cùng đọc sách báo, trao đổi, trò chuyện, thì tình làng nghĩa xóm được gắn kết hơn”. Phải thấy rằng, thư viện thôn, làng là một mắt xích quan trọng trong sự nghiệp xã hội hóa hoạt động thư viện. Không chỉ đóng góp vào sự phát triển kinh tế xã hội của địa phương, thư viện thôn Bình Vọng và thư viện thôn Giang Cao còn là tấm gương điển hình để các thư viện khác học tập và đúc rút kinh nghiệm. Hai thư viện thôn này đã có khoảng 40 đoàn khách trong nước đã tìm đến đây học hỏi, trao đổi kinh nghiệm. CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA MỘT SỐ THƢ VIỆN THÔN, LÀNG NGOẠI THÀNH HÀ NỘI 2.1. Công tác nghiệp vụ 2.1.1. Thu thập và bổ sung vốn tài liệu Từ kết quả nghiên cứu cho thấy, vốn tài liệu mà các thư viện có được phần lớn là do nguồn biếu tặng. Nhìn chung, nguồn tài liệu của thư viện các thôn làng chủ yếu là nguồn sách từ sự đóng góp của nhân dân địa phương và những cá nhân trong và ngoài nước, trong đó, có sự tích cực tham gia của Nguyễn Thị Thu 32 K51-Thông tin –Thƣ viện
  33. Khóa luận tốt nghiệp Trƣờng Đại học Khoa học xã hội & Nhân văn những thành viên trong hội người cao tuổi tại địa phương và chính sách luân chuyển sách từ thư viện tỉnh và thư viện huyện, Thư viện Quốc gia. Trong các nguồn sách được bổ sung thì nguồn sách luân chuyển cũng có ý nghĩa hết sức thiết thực và hiệu quả. Đặc biệt là trong điều kiện kinh phí dành cho hoạt động thư viện cơ sở vẫn còn hạn chế như hiện nay. Trong những năm qua, với sự tài trợ có hiệu quả của Hiệp hội hỗ trợ giáo dục và thư viện Hoa Kỳ (LEAF) các thư viện thôn làng hoạt động hiệu quả hơn. Thông qua Thư viện Quốc gia “Dự án phát triển vốn tài liệu cho các thư viện làng xã Việt Nam 2006-2009". Dự án được Hội hỗ trợ Thư viện và Giáo dục (LEAF) tài trợ với mục đích tăng cường vốn tài liệu cho một số thư viện làng, xã; qua đó giúp các thư viện phát huy được vị trí là trung tâm văn hóa, giáo dục, khoa học và thông tin trong cộng đồng dân cư. Một số thư viện được tiếp nhận 1.000 bản sách và 3 đầu báo là báo Nông nghiệp Việt Nam, Sức khoẻ và đời sống, Văn hóa. Tại thư viện thôn Bình Vọng, để có được vốn tài liệu như hiện nay, đầu tiên, Hội người cao tuổi của thôn đã thành lập một đội tuyên truyền tự nguyện, họ kêu gọi những người dân trong làng ai có sách cũ thì ủng hộ thư viện. Khi biết được tin thư viện thôn thành lập, những người dân Bình Vọng sinh sống ở khắp nơi đã gửi về ủng hộ rất nhiều sách báo, tài liệu. Có những người gửi tủ sách gia đình về biếu thư viện, Không những thế nhiều người dân trong nước cũng gửi sách, báo về thư viện. Thư viện huyện Thường Tín và thư viện thành phố Hà Nội đã cho thư viện Bình Vọng mượn luân chuyển 350-500 đầu sách/ năm; số lượng sách đó mỗi năm thư viện Bình Vọng được mượn luân chuyển 2 lần. Thư viện Quốc gia còn gửi tặng một số cuốn sách trị giá 2 triệu đồng cho thư viện thôn Bình Vọng. Do không có một nguồn kinh phí nào dành cho hoạt động bổ sung tài liệu của thư viện, nên những nguồn bổ sung nêu trên là vô cùng Nguyễn Thị Thu 33 K51-Thông tin –Thƣ viện
  34. Khóa luận tốt nghiệp Trƣờng Đại học Khoa học xã hội & Nhân văn có giá trị trong việc thỏa mãn nhu cầu thông tin của bạn đọc. Và đó cũng trở thành khó khăn lớn nhất mà thư viện phải tìm cách khắc phục trong thời gian tới cũng như lâu dài. Nguồn bổ sung của thư viện thôn Giang Cao phần lớn từ nguồn biếu tặng từ những người dân trong thôn, và người dân sinh sống ở những nơi khác, cùng với đó là sự ủng hộ của một số đoàn thể như Ban Khánh tiết, Hội người cao tuổi, Hội Khuyến học của thôn, Thư viện huyện Gia Lâm cũng thực hiện luân chuyển sách theo đợt cho thư viện thôn Giang Cao. Bên cạnh đó, Thư viện thôn Giang Cao cũng được UBND xã cấp 1 triệu đồng mỗi năm và cấp báo đều đặn. Và số tiền đó cũng được cán bộ thư viện sử dụng một phần làm kinh phí mua sách, báo. Tuy nhiên, số lượng sách, báo được bổ sung bằng nguồn mua không nhiều, thường thì một năm thư viện mua sách từ 1 đến 2 đợt với số lượng mỗi đợt vài ba chục cuốn. Tuy vậy, đối với thư viện thôn Yên Xá, việc vận động nhân dân và các tổ chức, đoàn thể trong xã hội tham gia đóng góp sách báo ủng hộ thư viện đem lại hiệu quả không cao. Cùng với thu thập và bổ sung vốn tài liệu, một số thư viện cũng tiến hành thanh lý vốn tài liệu nhằm nâng cao chất lượng vốn tài liệu của thư viện, đáp ứng nhu cầu tin của NDT được tốt hơn. Thư viện thôn Bình Vọng đã tiến hành đánh giá chất lượng và mức độ phù hợp của những tài liệu với nhu cầu đọc của bạn đọc và thanh lý những cuốn sách có nội dung không tốt, và những cuốn sách không còn sử dụng được nữa do quá rách nát. Còn thư viện thôn Giang Cao và Yên Xá, chính sách thanh lý tài liệu không được thực hiện do vốn tài liệu còn quá ít. 2.1.2. Xử lý và sắp xếp tài liệu thƣ viện Nguyễn Thị Thu 34 K51-Thông tin –Thƣ viện
  35. Khóa luận tốt nghiệp Trƣờng Đại học Khoa học xã hội & Nhân văn Tại một số thư viện thôn làng hiện nay, bên cạnh những thư viện sắp xếp tài liệu trong thư viện một cách khoa học thì vẫn tồn tại những thư viện sắp xếp tài liệu theo cách riêng của thư viện. Điều đó đã gây ra không ít khó khăn cho bạn đọc khi tra cứu tài liệu nhằm phục vụ cho mục đích của mình. Tại thư viện thôn Bình Vọng và Giang Cao, công việc đầu tiên khi tài liệu được nhập về thư viện là đăng ký cá biệt cho tài liệu, sau đó, tài liệu được sắp xếp theo quy định. Tài liệu của thư viện thôn Bình Vọng được sắp xếp tài liệu đó theo 5 môn loại tri thức trong 7 ngăn trong tủ sách của thư viện. Đó là 5 môn loại sau: KH- Sách Khoa học - Kỹ thuật; PL - Sách Nhà nước và Pháp luật; CT - Sách Chính trị - Xã hội; TN - Sách Thiếu nhi; VH - Sách Văn học - Nghệ thuật. Ngoài ra thư viện còn có những ngăn sách đặc thù như: Người Bình Vọng viết về người Bình Vọng, sách viết về Bác Hồ. Tài liệu của thư viện thôn Giang Cao được sắp xếp theo cách riêng của thư viện trong các tủ sách như sau: Tủ 1: 1. Pháp luật, Quy định - chế độ 2, 3. Văn học Tủ 2: 1. Phương pháp kinh doanh, Thơ và ca dao 2. Bách khoa, Nữ công - Gia đình 3. Y học, phòng và trữa bệnh Tủ 3: 1. Tiểu thuyết 2. Nông nghiệp 3. Sách giáo dục: Lớp 1- lớp 12 4. Sách tham khảo Nguyễn Thị Thu 35 K51-Thông tin –Thƣ viện
  36. Khóa luận tốt nghiệp Trƣờng Đại học Khoa học xã hội & Nhân văn 5. Báo Tủ 4: 1. Hà Nội phố phường, Thăng Long Hà Nội 2. Tác phẩm nói về Bác 3. Lịch sử - Các danh nhân 4. Khoa học kỹ thuật 5. Văn học Tài liệu của thư viện thôn Yên Xá không được xử lý và cách sắp xếp tài liệu không khoa học, còn lộn xộn. Thậm chí có những tủ sách không có bảng chỉ dẫn môn loại. Điều đó gây khó khăn rất lớn cho người dùng tin khi tra cứu tài liệu vì mất thời gian và công sức để tìm kiếm. Do vốn tài liệu của các thư viện thôn làng không nhiều, hơn nữa diện tích cho hoạt động thư viện còn hạn chế nên các thư viện đều tổ chức phục vụ bạn đọc dưới hình thức kho mở. Cũng bởi vậy mà khó tránh khỏi sự thất thoát tài liệu và tài liệu dễ bị rách nát hơn. Nhưng thư viện thôn Bình Vọng và Thư viện thôn Yên Xá (có 2 phòng, đó là 1 phòng đọc, và 1phòng mượn) tài liệu là sách được sắp xếp theo hình thức kho mở tại phòng mượn và báo, tạp chí được tổ chức tại phòng đọc của thư viện. Với thư viện thôn Giang Cao, diện tích của thư viện được tận dụng làm cả phòng đọc, phòng mượn, trong đó tài liệu được tổ chức theo hình thức kho mở. 2.1.3. Chính sách bảo quản tài liệu Với hoạt động này, hầu như các thư viện thôn, làng không thực hiện các biện pháp để bảo quản vốn tài liệu của thư viện mình. Đặc biệt, tại thư viện thôn Yên Xá, không đủ điều kiện bảo quản sách báo như tủ sách không có khóa nên sách báo trong tủ rất bụi. Điều này gây ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng tài liệu và chất lượng của công tác phục vụ NDT. 2.2. Công tác phục vụ ngƣời dùng tin Nguyễn Thị Thu 36 K51-Thông tin –Thƣ viện
  37. Khóa luận tốt nghiệp Trƣờng Đại học Khoa học xã hội & Nhân văn 2.2.1. Hình thức phục vụ ngƣời dùng tin Tại các thư viện thôn, làng, đọc tài liệu tại chỗ và mượn tài liệu về nhà là hai hình thức chủ yếu mà các thư viện thôn, làng phục vụ NDT. Tuy nhiên, cách thức tổ chức và phục vụ NDT không giống nhau. Vì có những thư viện, hai hình thức phục vụ chủ yếu của thư viện được tổ chức và phục vụ tại cùng một phòng và có những thư viện thì hai hình thức đó được tổ chức và phục vụ tại hai phòng riêng biệt. Điều đó, tùy thuộc vào điều kiện về cơ sở vật chất và đội ngũ cán bộ của từng thư viện. * Đọc tài liệu tại chỗ: Tại thư viện thôn Bình Vọng Để thực hiện hai hình thức phục vụ này, đội ngũ cộng tác viên được chia làm 7 tổ thực hiện phục vụ NDT. Đội ngũ cộng tác viên này phục vụ NDT theo “Bảng phân công công việc”, trong đó quy định nhiệm vụ cụ thể cho từng cộng tác viên. Khi vào thư viện đọc tài liệu tại thư viện thôn Bình Vọng và thư viện thôn Giang Cao, NDT phải xuất trình thẻ thư viện (với những đối tượng bắt buộc phải làm thẻ thư viện) cho cán bộ thư viện. Nhưng người cao tuổi thì vào đọc sách không cần thẻ. Sau đó bạn đọc tự vào kho chọn tài liệu mà cần thiết. Quy trình mượn tài liệu đọc tại chỗ của thư viện thôn Yên Xá giống hai thư viện trên, nhưng NDT không phải xuất trình thẻ thư viện. Về phƣơng thức phục vụ: * Thẻ thư viện: Để tham gia hoạt động của thư viện, NDT phải làm thẻ thư viện Từ khi thành lập đến nay, thư viện thôn Bình Vọng đã cấp được gần 500 thẻ thư viện, trong đó người cao tuổi được miễn phí làm thẻ, các đối tượng khác phải nộp lệ phí làm thẻ 1.000 đồng/ năm. Nguyễn Thị Thu 37 K51-Thông tin –Thƣ viện
  38. Khóa luận tốt nghiệp Trƣờng Đại học Khoa học xã hội & Nhân văn Thư viện Giang Cao đã cấp được hơn 1000 thẻ thư viện. Lệ phí làm thẻ thư viện là 12.000 đồng. Thư viện có chính sách miễn phí làm thẻ cho người cao tuổi và học sinh vượt khó đạt thành tích cao trong học tập. Tuy nhiên cũng có thư viện như thư viện thôn Yên Xá không làm thẻ thư viện cho NDT, ở đây, NDT có thể vào thư viện đọc sách mà không cần có thẻ thư viện. * Lịch phục vụ của thư viện: Thư viện thôn Bình Vọng mở cửa phục vụ bà con nhân dân vào tất cả các buổi chiều trong tuần từ 14h30 – 4h30 và những ngày Lễ, Tết. Trong quá trình phục vụ, nếu NDT có nhu cầu đọc hoặc mượn tài liệu thì thư viện sẽ phục vụ thêm giờ. Giờ phục vụ của Thư viện thôn Giang Cao cũng giống với thư viện thôn Bình Vọng, tuy nhiên, vào mùa hè, thời điểm mà các em học sinh được nghỉ học thư viện mở cửa tất cả các buổi sáng trong tuần, thời gian từ 8h đến 10h. Thư viện thôn Yên Xá, hiện nay vẫn chưa có lịch phục vụ NDT cụ thể, vì vậy nếu NDT muốn đọc hay mượn tài liệu thì một người trong hội người cao tuổi có thể cho mượn. Bởi vì tại đây, chưa có ai đứng ra làm chủ nhiệm thư viện và vì vậy cũng chưa có người chính thức làm cán bộ thư viện phục vụ NDT. * Mƣợn tài liệu về nhà: Mỗi thư viện có những quy định riêng về việc cho mượn tài liệu, nhưng có những thư viện không đưa ra những quy định cần thiết mà thực hiện cho mượn tài liệu không có một quy định về số cuốn sách mỗi lần mượn và thời gian hợp lý. Hơn nữa, do kho sách của phòng đọc và phòng mượn là một cho nên hiện tượng thất thoát tài liệu là không tránh khỏi. Nguyễn Thị Thu 38 K51-Thông tin –Thƣ viện
  39. Khóa luận tốt nghiệp Trƣờng Đại học Khoa học xã hội & Nhân văn Do điều kiện công việc và thời gian không cho phép nên hầu như các đối tượng đến và mượn tài liệu về nhà nghiên cứu trong những khoảng thời gian rảnh rỗi. Về phương thức phục vụ, về cơ bản giống như phòng đọc, chỉ khác là phòng mượn thì cho mượn về nhà. Mượn sách về nhà tại thư viện thôn Bình Vọng thì cần thực hiện theo đúng quy định của thư viện. Cụ thể như sau: Mỗi tuần, thư viện cho mượn sách mang về nhà vào hai ngày là ngày thứ Năm và Chủ nhật. Đối với đối tượng là trẻ em, gia đình hoặc nhà trường đăng ký mượn tài liệu cho các em. Số lượng tài liệu được mượn là 1-2 cuốn/ lần. Thư viện cũng quy định bạn đọc được sử dụng tài liệu trong thời hạn 10 ngày. Nhưng NDT có thể đến thư viện và xin ra hạn nếu muốn tiếp tục sử dụng tài liệu đó. Những quy định đối với việc mượn tài liệu của thư viện thôn Giang Cao cũng giống như thư viện thôn Bình Vọng. Về quy trình mượn tài liệu, trước tiên, NDT xuất trình thẻ thư viện cho cán bộ thư viện (đối với những đối tượng bắt buộc phải làm thẻ thư viện), sau đó tự vào kho sách tìm tài liệu, sau đó mang tài liệu đến cho cán bộ thư viện ghi vào sổ mượn, sau đó ký tên. * Hệ thống tra cứu của các thư viện: Hầu hết các thư viện thôn làng chỉ tổ chức những hình thức tra cứu truyền thống chứ không tổ chức các hình thức tra cứu hiện đại để phục vụ nhu cầu tra cứu tài liệu của NDT. Tồn tại thực trạng trên vì các thư viện thôn làng đều không có kinh phí và nhân lực có trình độ để tổ chức các hình thức tra cứu hiện đại. Thư viện thôn Bình Vọng và thư viện thôn Giang Cao có sổ tra cứu mục lục, trong đó tài liệu thư viện được sắp xếp theo môn loại tri thức giúp bạn đọc tiện tra cứu. Tuy nhiên, thư viện thôn Bình Vọng sử dụng sổ tra cứu Nguyễn Thị Thu 39 K51-Thông tin –Thƣ viện
  40. Khóa luận tốt nghiệp Trƣờng Đại học Khoa học xã hội & Nhân văn mục lục để phục vụ NDT, nhưng thư viện thôn Giang Cao, không sử dụng sổ tra cứu mục lục để NDT tra cứu tài liệu. Thậm chí, sổ mục lục tra cứu không được thư viện thôn Yên Xá tổ chức. 2.2.2. Công tác tuyên truyền, giới thiệu tài liệu Công tác tuyên truyền và giới thiệu tài liệu tại các thư viện được thực hiện nhằm phục vụ những phong trào thi đua nhân những ngày kỷ niệm lớn của đất nước hoặc mang tính chất định hướng và phát triển nhu cầu đọc cho nhân dân. Tại đây, các hình thức tuyên truyền và giới thiệu tài liệu được tổ chức và thực hiện khá linh hoạt. Các hình thức mà các thư viện thường sử dụng đó là thông báo, giới thiệu sách mới qua bảng tin của thư viện và trên đài phát thanh của thôn, xã, hay tổ chức trưng bày, triển lãm sách báo. Tuy nhiên, căn cứ vào tình hình thực tế, một số thư viện cũng đã rất linh hoạt khi triển khai công tác này nhằm đạt hiệu quả cao nhất. Cụ thể, hàng quý thư viện thôn Bình Vọng còn tổ chức các buổi nói chuyện thời sự, chuyên đề, thi tìm hiểu về kiến thức đời sống xã hội, biểu dương những người hay đọc sách tại các cuộc họp thôn, hay hoạt động tổng kết kiến thức pháp luật để thông qua đó thư viện khuyến khích nhiều người học tập và noi theo. Hoạt động tổ chức triển lãm sách theo chuyên đề được thư viện thôn Giang Cao tiến hành. Khoảng 2, 3 năm thư viện lại tổ chức triển lãm sách theo chuyên đề 1 lần. Tại thư viện thôn Yên Xá, các hoạt động này không được thực hiện bởi thiếu cán bộ tổ chức thực hiện và thiếu kinh phí. Cũng với mục đích hưởng ứng các phong trào thi đua nhân những ngày kỷ niệm lớn của đất nước, thông qua việc cung cấp tài liệu cho NDT các thư viện thôn, làng cũng góp phần không nhỏ tạo nên các phong trào đó trở nên sôi nổi và đạt hiệu quả cao hơn. Nguyễn Thị Thu 40 K51-Thông tin –Thƣ viện
  41. Khóa luận tốt nghiệp Trƣờng Đại học Khoa học xã hội & Nhân văn Thư viện còn tư vấn, hướng dẫn tìm kiếm thông tin cho NDT của thư viện khi bạn đọc có yêu cầu về tài liệu theo chuyên đề để phục vụ cho mục đích nghiên cứu, học tập, hay phục vụ cho thực tiễn hoạt động sản xuất thư viện sẽ tư vấn và hướng dẫn kịp thời. 2.2.3. Hiệu quả phục vụ NDT đến thư viện với những mục đích nhất định. Số liệu điều tra cho thấy, người dùng tin đến thư viện với mục đích học tập, nâng cao trình độ (37%), giải trí (53%), ứng dụng vào đời sống sản xuất (10%), điều này phản ánh rõ sự phát triển của xã hội, đời sống vật chất của người dân ngày càng được cải thiện thì nhu cầu hưởng thụ văn hóa và các giá trị tinh thần ngày càng cao. Như vậy đọc sách báo là nhu cầu không thể thiếu trong nhân dân. Song, về cơ bản họ đến thư viện ngoài việc học tập, nghiên cứu, lĩnh hội tri thức và giải trí, thư viện còn tập trung vào việc giới thiệu sách, báo chính trị, kinh tế, văn hóa, Xuất phát từ ngành nghề của nhân dân khác nhau nên trình độ của họ cũng khác nhau. Họ đến thư viện nhằm tìm những thông tin và tài liệu phục vụ cho ngành nghề của mình như: phát triển trồng trọt, chăn nuôi, nghề thủ công, học tập Đó là những ngành nghề phục vụ cho hoạt động sống hàng ngày của người dân, phục vụ trực tiếp cho cuộc sống của họ. Để những hoạt động đó đạt hiệu quả cao, việc hướng dẫn và mang đến cho họ loại tài liệu gì, để tạo ra nhu cầu, tạo ra thói quen đọc là nhiệm vụ quan trọng của những người làm công tác thư viện. Bên cạnh đó, cũng đòi hỏi tính tích cực, chủ động của người dân, phải không ngừng tìm kiếm, cập nhật những thông tin mới, có khả năng áp dụng vào thực tiễn mới có thể đảm bảo nâng cao hiệu quả của các ngành nghề mang lại và đồng thời nâng cao chất lượng học tập. Bác Lương Văn Tăng (chủ nhiệm thư viện thư viện thôn Bình Vọng) cho biết: “Sách về sức khỏe và đời sống và báo nhân dân được bạn đọc quan Nguyễn Thị Thu 41 K51-Thông tin –Thƣ viện
  42. Khóa luận tốt nghiệp Trƣờng Đại học Khoa học xã hội & Nhân văn tâm và sử dụng nhiều nhất”. Để theo dõi và đánh giá hiệu quả hoạt động phục vụ của mình, thư viện đã thống kê số lượt phục vụ NDT thông qua sổ “Nhật ký thư viện làng Bình Vọng”. Qua số liệu tổng kết được, bình quân mỗi ngày thư viện thu hút 30 - 40 lượt người đến đọc sách báo. Mỗi năm có khoảng 13.000 lượt người đến mượn sách, báo về nhà. Giang Cao là một làng nghề mà phần lớn cư dân đều sống bằng nghề gốm mà sách về hướng dẫn kỹ thuật cho làng nghề không có, nhu cầu về tài liệu phục vụ cho đời sống kinh tế chưa được đáp ứng kịp thời. Thư viện cũng đã thống kê số lượt phục vụ để đánh giá hoạt động phục vụ của mình. Mỗi năm thư viện có khoảng 20.000 lượt người đến mượn sách, báo/ năm. Lượt tài liệu mỗi năm của thư viện là 75.000 lượt mượn tài liệu/ năm. Thư viện thôn Yên Xá, từ khi hoạt động không thống kê lượt mượn tài liệu mỗi năm cho nên khó đánh giá được hiệu quả hoạt động của thư viện. Do tính chất công việc, môi trường sinh hoạt nên NDT sử dụng hình thức mượn sách về nhà là 57%, đọc tại chỗ là 43%, nghe giới thiệu trên loa đài là 14%. Tỷ lệ NDT đến phòng mượn lớn hơn phòng đọc. Tỷ lệ NDT bị từ chối khi mượn tài liệu của thư viện là 6%, thỉnh thoảng bị từ chối là 19%, không bị từ chối là 75% và lý do mà NDT bị từ chối là phần lớn là do tài liệu đó đã được người dùng tin khác mượn. Như vậy có thể thấy, vốn tài liệu mà thư viện có được chưa thật sự thỏa mãn được nhu cầu của NDT. Mặc dù với nhiều công việc cần hoàn thành như vậy, nhưng với tấm lòng “tất cả vì bạn đọc và hướng tới bạn đọc” người cán bộ thủ thư tại đây vẫn luôn giữ thái độ nhã nhặn, tận tình hướng dẫn phục vụ độc giả những tài liệu mà họ cần, giới thiệu những tài liệu phù hợp với yêu cầu và sở thích của họ. Vì vậy, các thư viện thôn làng đã để lại ấn tượng rất tốt đẹp trong lòng độc giả. Nguyễn Thị Thu 42 K51-Thông tin –Thƣ viện
  43. Khóa luận tốt nghiệp Trƣờng Đại học Khoa học xã hội & Nhân văn 2.3. Nhận xét về hoạt động của một số thƣ viện thôn làng ngoại thành Hà Nội Nhận thức rõ vai trò và tác dụng của sự nghiệp thư viện, từ nhiều năm nay, Đảng và Nhà nước và Bộ Văn hóa –Thông tin cùng các cấp chính quyền đã đề ra nhiều chủ trương, biện pháp nhằm tăng cường hiệu quả của thư viện từ trung ương đến địa phương. Vì thế, hệ thống thư viện trên toàn quốc đã có nhiều tiến bộ đáng kể, hòa mình vào thành tích chung trong công cuộc đổi mới toàn diện trên đất nước. Hệ thống thư viện công cộng cũng được củng cố và phát triển cả về số lượng và chất lượng, cả về chiều rộng và chiều sâu. Với sự cố gắng và nỗ lực khắc phục khó khăn, một số thư viện thôn làng đã đạt được những kết quả bước đầu đáng khích lệ. Các thư viện thôn, làng tại các huyện ngoại thành Hà Nội nói riêng đã phần nào đáp ứng được nhu cầu tin của NDT, song do những yếu tố khách quan và chủ quan, cũng có những thư viện chưa đạt được kết quả tốt do còn tồn tại không ít những khó khăn cần phải giải quyết. Ƣu điểm Hoạt động của thư viện thôn, làng đã thu hút được đông đảo người dân tham gia, góp phần xây dựng nếp sống văn hóa trong các khu dân cư và phát triển kinh tế. Qua hoạt động của thư viện người dân đã áp dụng được nhiều kiến thức thu nhập được từ sách báo vào thực tế đời sống sản xuất, góp phần xóa đói giảm nghèo. Thực tế tại đây đã xuất hiện nhiều mô hình sản xuất, kinh doanh có hiệu quả do việc ứng dụng khoa học công nghệ để tăng sản lượng lương thực, chủ động chuyển dịch cơ cấu kinh tế, hình thành các nguồn nguyên liệu tập trung, chuyên canh có quy mô, dựa trên cơ sở chọn giống cây trồng, vật nuôi phù hợp. Sự hình thành cũng như phát triển của thư viện nhận được sự quan tâm và đóng góp nhiệt tình từ các tổ chức và cá nhân trong cũng như ngoài nước. Nguyễn Thị Thu 43 K51-Thông tin –Thƣ viện
  44. Khóa luận tốt nghiệp Trƣờng Đại học Khoa học xã hội & Nhân văn Đó cũng là nguồn động viên, khích lệ rất lớn cho những người làm thư viện khắc phục khó khăn để tiếp tục duy trì và phát triển mô hình thư viện này Đầu tiên phải kể đến đội ngũ cán bộ những người làm công tác thư viện ở cơ sở đều hết lòng tận tụy, yêu sách, yêu nghề. Nhiều cán bộ phụ trách thư viện rất tận tâm với công việc, phục vụ nhân dân bằng lòng nhiệt huyết mặc dù không có chế độ thù lao. Sự tâm huyết của những người tham gia hoạt động thư viện tình nguyện không quản khó khăn. Đó là những người đầu tiên sáng lập ra thư viện và những người chủ nhiệm thư viện như bác Lương Văn Tăng, bác Đào Ngọc Thụy. Điều đặc biệt chỉ có ở thư viện Bình Vọng là nơi đây có một mạng lưới cộng tác viên đông đảo, họ tham gia hoạt động của thư viện một cách nhiệt tình, tận tâm vì công việc chung. Thêm vào đó là sự nhiệt tâm của những nhà tài trợ, những tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước. Họ không chỉ đóng góp sách, báo mà còn động viên tinh thần đội ngũ cộng tác viên ở đây. Hội Khuyến học, Hội người cao tuổi, các công ty, các doanh nghiệp và các cá nhân trong địa phương và nhân dân cả nước và ngoài nước. đặc biệt nhân dân địa phương tích cực tham gia vào việc đóng góp sách bảo với phương châm “góp một cuốn để đọc ngàn cuốn”. Điều đó đã thể hiện sự quan tâm của cộng đồng đến sự phát triển của thư viện thôn làng, và điều đó cũng đã góp phần làm cho hoạt động thư viện trở nên hiệu quả hơn và có ý nghĩa hơn. Điều thuận lợi mà thư viện thôn, làng có được đó là sự quan tâm của các cấp lãnh đạo. Ủy ban Nhân dân xã, Chi ủy, Đảng ủy xã, địa phương đã tạo điều kiện về cơ sở vật chất cũng như có những chính sách luân chuyển sách rất thiết thực và hiệu quả. Đồng thời, thư viện thôn, làng cũng nhân được sự quan tâm, kiểm tra, đôn đốc và động viên về tinh thần cho thư viện của Ủy ban Nhân dân xã. Nguyễn Thị Thu 44 K51-Thông tin –Thƣ viện
  45. Khóa luận tốt nghiệp Trƣờng Đại học Khoa học xã hội & Nhân văn Về công tác tuyên truyền và giới thiệu tài liệu: Đây là các hình thức hết sức quen thuộc với NDT và do đặc điểm của đối tượng NDT phổ thông, trình độ học vấn không cao, các hình thức tuyên truyền sách, giới thiệu sách trục tiếp, đánh vào trực quan của con người nên độc giả dễ ghi nhớ và tiếp thu hơn. Nhờ vào công tác này mà nhiều thông tin hữu ích đã đến với người dân một cách nhanh chóng và hiệu quả. Về công tác phục vụ, tại các thư viện thôn, làng chỉ có những sổ mục lục tra cứu dưới dạng in và đóng thành tập. Đối với thư viện Bình Vọng, công cụ tra cứu này trở thành công cụ tra cứu đắc lực của NDT. Hai hình thức phục vụ chủ yếu của thư viện là đọc sách tại chỗ và mượn tài liệu về nhà đều được NDT đánh giá cao. Người dùng tin đã sử dụng triệt để hai hình thức phục vụ này của thư viện và đem lại hiệu quả cao. Như vậy, các thư viện thôn làng ngoại thành Hà Nội làm tương đối tốt chức năng thông tin, văn hóa, giáo dục góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động thư viện, vận động nhân dân sử dụng thư viện, đọc sách và làm theo sách báo. Công tác phục vụ NDT luôn được các thư viện thôn làng quan tâm, tạo điều kiện cho NDT có thời gian sử dụng thư viện. Những tồn tại Thiếu kinh phí Trên thực tế, việc thành lập được thư viện thôn, làng đã khó, duy trì hoạt động và phát triển nó còn khó hơn nhiều. Lý do trước hết là thiếu hụt kinh phí bổ sung tài liệu và duy trì hoạt động của thư viện. Tại các thư viện mà tác giả khảo sát, việc đầu tư kinh phí từ cấp trên hầu như là không có hoặc có rất ít. Kinh phí cho những hoạt động của thư viện và trả lương cho cán bộ thư viện đều không có, hoặc có không đáng kể. Điều này có ảnh hưởng lớn đến sự bền vững của thư viện thôn, làng vì nếu kinh phí không có Nguyễn Thị Thu 45 K51-Thông tin –Thƣ viện
  46. Khóa luận tốt nghiệp Trƣờng Đại học Khoa học xã hội & Nhân văn dẫn đến vốn tài liệu không được đổi mới và cập nhật phù hợp với nhu cầu thông tin của NDT. Theo kết quả khảo sát cho thấy, tại thư viện thôn Bình Vọng, vốn tài liệu mà thư viện có được đều do nguồn biếu tặng chứ không có tài liệu do nguồn mua, chi phí trả cho cán bộ thư viện và cộng tác viên cũng không có. Còn thư viện thôn Giang Cao, tuy từ năm 2008, Ủy ban Nhân dân xã cấp 1 triệu đồng/tháng và cán bộ cũng được nhận lương 100.000 đồng/tháng do Hội Khuyến học trả, nhưng đó vẫn là con số quá ít ỏi để đáp ứng cho những hoạt động của thư viện và lương trả cho cán bộ thư viện. Về mặt pháp lý, các thư viện thôn làng chưa được công nhận là thư viện cơ sở Thư viện thôn, làng là nơi đáp ứng mọi nhu cầu thông tin của NDT trong địa phương và là nơi tuyên truyền các chủ trương, chính sách của Nhà nước đến người dân một cách dễ dàng và nhanh chóng. Trong thời đại bùng nổ thông tin ngày nay khi nói đến thư viện là người ta không nói đến một thư viện đơn độc mà nói đến một hệ thống thư viện hay là mạng lưới thư viện - những thư viện cùng ngành, cùng chức năng, hay trong cùng một vùng địa lý liên kết với nhau. Thư viện thành phố, thư viện quận, huyện không được chủ động về nguồn kinh phí hoạt động cũng như cách thức quản lý và tổ chức chưa được thống nhất theo ngành dọc từ Trung ương xuống cơ sở. Thư viện thôn làng trong cả nước nói chung chưa được công nhận là thư viện cơ sở, chưa là một bộ phận trong hệ thống thư viện công cộng. Đây là một trong những khó khăn lớn đối với các thư viện thôn, làng sẽ không được hưởng những chính sách theo quy định của nhà nước dành cho các thư viện trong hệ thống các thư viện công cộng. Đó là những chính sách chỉ đạo, Nguyễn Thị Thu 46 K51-Thông tin –Thƣ viện
  47. Khóa luận tốt nghiệp Trƣờng Đại học Khoa học xã hội & Nhân văn hướng dẫn cụ thể, chi tiết từ cấp trên xuống về mặt nghiệp vụ của ngành và cả vấn đề về kinh phí cấp theo quy định để thư viện thôn được tạo điều kiện cho thư viện thôn được thừa nhận, duy trì và ngày càng phát triển hơn nữa. Vốn tài liệu chưa đáp ứng được đầy đủ nhu cầu của người dùng tin Số lượng sách báo ít, chất lượng thông tin trong sách báo chưa cao, không thường xuyên bổ sung sách mới là những tồn tại đặc trưng của các thư viện thôn, làng. Vấn đề không chỉ ở sự đổi mới tài liệu mà nội dung của tài liệu cũng không được phong phú và thật sự phù hợp với nhu cầu thông tin của bạn đọc. Nếu không được bổ sung tài liệu mới, thanh lọc những tài liệu lỗi thời thì hiệu quả phục vụ của thư viện sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Đặc biệt là với đối tượng NDT là thiếu nhi vì với đối tượng này, việc đọc loại sách, báo gì và đọc như thế nào cần phải có sự định hướng của cán bộ thư viện. Hơn nữa, một thực tế cho thấy khi “Dự án phát triển vốn tài liệu cho các thư viện làng xã Việt Nam 2006-2009” kết thúc thì các thư viện này đều không có kinh phí để mua ít nhất là 3 đầu báo mà trước kia thư viện được dự án tài trợ. Báo Nông nghiệp Việt Nam, Sức khoẻ và đời sống, Văn hóa, đó là những tờ báo rất thiết thực với NDT. Cơ sở vật chất còn hạn chế Nhìn chung, cơ sở vật chất của các thư viện thôn, làng còn rất thiếu. Về trang thiết bị, phần lớn các thư viện này chỉ mới có tủ, giá sách để sách báo nhưng có những nơi, sự sắp xếp sách báo tại thư viện không phù hợp và khoa học. Có những nơi trang thiết bị còn nghèo nàn và lạc hậu, sự chưa đáp ứng được việc quản lý cũng như việc tổ chức sách báo phục vụ NDT. (Thư viện thôn Giang Cao chưa có máy tính), trụ sở của thư viện thôn, làng thuộc nhà văn hóa của thôn chứ chưa phải là một thư viện độc lập. Phương tiện quản lý sách báo còn đơn giản. Về thành phần NDT đến thư viện thôn, làng Nguyễn Thị Thu 47 K51-Thông tin –Thƣ viện
  48. Khóa luận tốt nghiệp Trƣờng Đại học Khoa học xã hội & Nhân văn Thư viện thôn, làng đã thu hút được một số lượng lớn đối tượng NDT là người cao tuổi và học sinh. Tuy nhiên, thư viện thôn vẫn chưa thu hút được đối tượng là NDT khoa học tham gia mặc dù đó là thành phần NDT cần phải đến thư viện để tìm hiểu những kiến thức về nhiều lĩnh vực khác nhau để phục vụ cho nghề nghiệp của mình. Sự quan tâm chưa đúng mức của các cấp lãnh đạo Nhiều nơi do sự nhận thức còn hạn chế của một số lãnh đạo về vai trò và vị trí của thư viện thôn, làng trong việc xây dựng đời sống văn hóa ở địa phương, nên địa phương chỉ tập trung kinh phí vào các hoạt động văn hóa có tính chất bề nổi, mà chưa quan tâm, chú ý một cách đúng mức cho các hoạt động thư viện. Vì vậy, trên thực tế cho thấy nhiều thư viện thôn làng chỉ hoạt động cầm chừng và không phát huy được tác dụng. Đặc biệt có nơi việc hình thành thư viện thôn làng trong làng văn hóa chỉ mang tính chất hình thức, cốt sao chỉ đủ tiêu chuẩn, đủ điểm để được công nhận là làng văn hóa, chứ không thực sự đi sâu vào nội dung và chất lượng hoạt động của thư viện. Đa số các thư viện thôn, làng chưa nhận được sự đầu tư về kinh phí hoạt động cũng như kinh phí bổ sung vốn sách, báo mới, ngoài số sách hạt nhân do thư viện thành phố tài trợ cùng với số sách báo do quyên góp từ các cá nhân, các tổ chức xã hội thì không còn nguồn bổ sung sách, báo nào khác. Trình độ của cán bộ thư viện chưa đáp ứng được yêu cầu Nhiều cán bộ phụ trách thư viện chưa qua trường lớp đào tạo nghiệp vụ thư viện, hoặc hoạt động thư viện không có thù lao tương xứng dẫn đến chất lượng hoạt động thư viện, cũng như công tác phục vụ và công tác quản lý sách báo bị ảnh hưởng nhiều. Các hình thức phục vụ bạn đọc chƣa đa dạng Nguyễn Thị Thu 48 K51-Thông tin –Thƣ viện
  49. Khóa luận tốt nghiệp Trƣờng Đại học Khoa học xã hội & Nhân văn Mặc dù hai hình thức phục vụ mà các thư viện cung cấp được NDT đánh giá cao nhưng so với nhu cầu của người dùng tin thì 2 hình thức đó chưa đủ để đáp ứng. Bởi vì, qua phỏng vấn trực tiếp một số NDT là học sinh, họ rất mong muốn được sử dụng những hình thức phục vụ khác như sử dụng máy tính để tra cứu tài liệu trong thư viện, truy cập internet để đọc báo, tạp chí trực tuyến. Đây là nhu cầu chính đáng, phù hợp với đặc điểm của đối tượng NDT này, họ mong muốn được tiếp xúc với máy tính để khám phá và để mở mang sự hiểu biết cho bản thân. CHƢƠNG 3. CÁC GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC THƢ VIỆN THÔN, LÀNG NGOẠI THÀNH HÀ NỘI Hoạt động của các thư viện thôn, làng đã góp phần thỏa mãn nhu cầu tin của một bộ phận dân cư trong thôn, giúp bà con nông dân có thêm kiến thức phục vụ công việc hàng ngày. Thư viện thôn làng cũng góp phần tuyên truyền các chủ trương, chính sách cuả Đảng và Nhà nước, nâng cao hiểu biết pháp luật và ý thức tôn trọng pháp luật của người dân. Để duy trì và phát triển mô hình thư viện thôn xóm, cần thực hiện các giải pháp sau: 3.1. Tăng cƣờng nguồn thông tin Nguồn lực thông tin là thành phần quan trọng trong hoạt động thông tin – thư viện. Chất lượng của nguồn lực thông tin ảnh hưởng lớn đến việc thỏa mãn tối đa nhu cầu tin cho NDT. Tăng cường và phát triển nguồn lực thông tin là tạo điều kiện đáp ứng nhu cầu tin cho NDT trong việc học tập và giải trí tại các thư viện thôn, làng. Nguyễn Thị Thu 49 K51-Thông tin –Thƣ viện
  50. Khóa luận tốt nghiệp Trƣờng Đại học Khoa học xã hội & Nhân văn Để phát triển nguồn lực thông tin theo đúng hướng, cần xây dựng kế hoạch bổ sung tài liệu hợp lý, đảm bảo phù hợp với nhu cầu tin của NDT. Trước hết nên tăng cường bổ sung các loại sách, báo, tạp chí phổ biến nhất. Mỗi thư viện tùy thuộc vào hoàn cảnh thực tế mà bổ sung số lượng sách báo cho phù hợp để đổi mới chất lượng sách báo góp phần thu hút NDT đến với thư viện nhiều hơn. Những loại báo, tạp chí có nội dung phù hợp với yêu cầu của người dùng tin như báo Nhân dân, báo Hà Nội mới, báo Tiền phong, Phụ nữ, Gia đình, Môi trường và sức khỏe, Cựu chiến binh, nên được ưu tiên bổ sung. Đặc biệt thư viện cần phát huy nguồn lực, lắp đặt đường mạng internet để người dùng có thể truy cập và đọc các loại báo trực tuyến và cơ sở dữ liệu toàn văn có nội dung phù hợp trong khả năng cho phép. Để đảm bảo phát triển nguồn thông tin của các thư viện thôn, làng, hàng năm các cấp chính quyền địa phương nên dành một khoản kinh phí nhất định để bổ sung các sách, báo, ngoài nguồn kinh phí đó có thể động viên các tập thể, tổ chức cá nhân ủng hộ sách báo. Các thư viện này cũng phải chủ động xây dựng kế hoạch bổ sung sách mới kịp thời và hiệu quả. Đa số ý kiến NDT muốn tăng số lượng và chất lượng sách báo, đặc biệt là sách về sức khỏe, văn học nghệ thuật, sách thiếu nhi và lịch sử. Đây cũng là cơ sở để các thư viện thành phố Hà Nội có kế hoạch và hướng bổ sung sách báo vào kho sách luân chuyển xuống các thư viện thôn, làng ngoại thành. Tăng cường sự liên kết và hợp tác với các tổ chức chính trị tại xã hội tại địa phương như Hội Người cao tuổi, Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên , với các thư viện trong hệ thống thư viện công cộng để kêu gọi sự hỗ trợ từ các tổ chức này để thư viện có thêm kinh phí bổ sung tài liệu. 3.2. Tạo điều kiện để thƣ viện thôn, làng đƣợc công nhận là thƣ viện cơ sở Nguyễn Thị Thu 50 K51-Thông tin –Thƣ viện
  51. Khóa luận tốt nghiệp Trƣờng Đại học Khoa học xã hội & Nhân văn Xét về tiêu chí của một thư viện cơ sở thì các thư viện thôn Bình Vọng và Giang Cao đều đủ tiêu chuẩn được công nhận là thư viện cơ sở. Tuy nhiên, cho tới nay,các thư viện này vẫn chưa được thừa nhận là thư viện cơ sở, vì vậy việc hoạt động của các thư viện này mới chỉ mang tính tự phát, không được cấp kinh phí để hoạt động. Các cơ quan quản lý văn hóa mà trước hết là Vụ Thư viện, Sở Văn hóa Thông tin Hà Nội cần tạo điều kiện về mặt pháp lý để các thư viện thôn, làng được công nhận là thư viện cơ sở, nằm trong hệ thống thư viện công cộng, được cấp kinh phí hoạt động đều đặn và hướng dẫn nghiệp vụ để thư viện thôn, làng có điều kiện phát triển hơn. 3.3. Tăng cƣờng kinh phí cho các thƣ viện thôn, làng Thư viện thôn, làng có duy trì và phát triển tốt hay không là vấn đề có tính chất then chốt trong việc duy trì và phát triển đời sống văn hóa địa phương. Để duy trì và phát triển bền vững loại hình thư viện này thì vần đề kinh phí phải được đặt lên hàng đầu. Theo ý kiến của những người làm phụ trách một số thư viện thôn, làng, để bổ sung vốn tài liệu cần nguồn kinh phí khoảng 10 triệu đồng/ năm. Kinh phí cho thư viện thôn, làng có thể huy động từ nhiều nguồn khác nhau. Các địa phương nên khuyến khích, kêu gọi những thành viên có đều kiện kinh tế trong thôn, làng và đặc biệt là những người con của quê hương đang làm ăn, lập nghiệp ở thành phố đóng góp vật chất để phát triển thư viện thôn. Có thể tạo thêm kinh phí bằng nguồn làm thẻ của NDT. Lệ phí làm thẻ có thể thu từ 5.000 đồng đến 10.000 đồng/ năm. Nên thu hút nguồn kinh phí từ cấp trên để tạo thêm nguồn kinh phí cho thư viện. Nguyễn Thị Thu 51 K51-Thông tin –Thƣ viện
  52. Khóa luận tốt nghiệp Trƣờng Đại học Khoa học xã hội & Nhân văn Ngoài ra, thư viện nên kêu gọi sự đóng góp, giúp đỡ từ các cá nhân, tổ chức, ban ngành, đoàn thể như Hội Khuyến học, Hội người cao tuổi, Hội thanh niên, kêu gọi các công ty, xí nghiệp trên địa bàn đóng góp kinh phí cho thư viện Kinh phí này chủ yếu để mua thêm sách báo và để trả một phần thù lao cho người làm thư viện và cho hoạt động của thư viện. Đặc biệt, nên gắn sự phát triển của thư viện với sự phát triển của làng nghề nếu như địa phương đó là một làng nghề. Ví dụ như Thư viện thôn Giang Cao nên gắn với làng nghề Bát Tràng để thúc đẩy sự phát triển của làng nghề. 3.4. Đa dạng hóa các dịch vụ thông tin – thƣ viện Đa dạng hóa các sản phẩm thông tin – thư viện nhằm giúp cho NDT sử dụng một cách có hiệu quả các nguồn tin (trong đó có các sản phẩm thông tin – thư viện) của các cơ quan này. Trên thực tế, các thư viện thôn, làng ngoại thành Hà Nội mới chỉ thực hiện hai hình thức là đọc tài liệu tại chỗ và mượn tài liệu. Bên cạnh việc cải thiện một số dịch vụ của mình, thì thư viện cũng nên đa dạng hóa các dịch vụ thông tin – thư viện. Mà đa dạng hóa các loại hình dịch vụ phải dựa trên nhu cầu thực tế của NDT, vì lợi ích của NDT dựa trên điều kiện thực tế của thư viện. Tuy nhiên muốn đa dạng hóa được các dịch vụ thông tin thư viện, các thư viện thôn, làng nên áp dụng những biện pháp sau: - Thông qua kết quả điều tra, dịch vụ mượn tài liệu được NDT sử dụng nhiều nhất, sau đó là dịch vụ đọc tài liệu tại chỗ. Vì vậy, các thư viện thôn, làng nên tạo điều kiện cho NDT sử dụng hai dịch vụ này hiệu quả hơn. - Kết hợp chặt chẽ giữa hệ thống sản phẩm và dịch vụ thông tin thư viện, ứng với mỗi sản phẩm đặc biệt là các sản phẩm loại mới, cần tạo ra một số dịch vụ thích hợp nhằm giúp khai thác có hiệu quả nhất những sản phẩm đó. Nguyễn Thị Thu 52 K51-Thông tin –Thƣ viện
  53. Khóa luận tốt nghiệp Trƣờng Đại học Khoa học xã hội & Nhân văn - Nhanh chóng lắp đặt đường truyền internet để người dùng có thêm lựa chọn truy cập và đọc các loại báo, tạp chí trực tuyến, có thể bổ sung một số loại băng đĩa video về chăn nuôi, trồng trọt, chăm sóc sức khỏe, những loại tài liệu này đang có nhu cầu rất lớn từ phí người dùng tin. - Thường xuyên chú ý đến việc phát triển hoàn thiện các dịch vụ của mình, tiếp thu ý kiến đánh giá từ phía NDT về việc sử dụng các sản phẩm của thư viện. Đó là cơ sở để phát triển để hoàn thiện các dịch vụ mà thư viện cung cấp. - Xây dựng và phát triển mối quan hệ giữa thư viện với các thư viện trong mạng lưới thư viện. Một số thư viện thôn, làng vẫn chưa sử dụng sổ mục lục tra cứu phục vụ NDT. Vì vậy, nên đưa sổ tra cứu mục lục để bạn đọc tra cứu thuận tiện hơn. Bên cạnh đó, các thư viện cũng cần tạo điều kiện giúp NDT tra cứu thông tin và đồng thời bước đầu sử dụng máy tính hiệu quả hơn. Qua thực tế cho thấy, trong hoạt động phục vụ NDT tại các thư viện thôn, làng nói chung, sách văn học và giải trí từ xưa đến nay vẫn luôn được đông đảo NDT sử dụng, còn sách về khoa học kỹ thuật chưa được nhiều người sử dụng. Vì vậy các thư viện này nên sử dụng những hình thức tuyên truyền như tổ chức triển lãm, tuyên truyền giới thiệu sách mới trên các phương tiện thông tin đại chúng của địa phương. Có như vậy thư viện mới đa dạng hóa được các dịch vụ Thông tin – thư viện của mình nhằm đáp ứng nhu cầu khai thác và sử dụng thông tin của NDT tại thư viện. 3.5. Tăng cƣờng cơ sở vật chất Để đảm bảo hiệu quả phục vụ NDT, thư viện cũng cần đảm bảo về cơ sở vật chất, đặc biệt là mở rộng diện tích các phòng đọc. Trang bị thêm máy tính phục vụ tra cứu và tìm kiếm thông tin trong mỗi phòng phục vụ. Nguyễn Thị Thu 53 K51-Thông tin –Thƣ viện
  54. Khóa luận tốt nghiệp Trƣờng Đại học Khoa học xã hội & Nhân văn Thư viện thôn Bình Vọng và thư viện thôn Giang Cao nên mở rộng diện tích, tăng thêm khoảng 30-50 chỗ ngồi, trang bị thêm 1, 2 máy tính để phục vụ tra cứu tìm tin. Diện tích trong phòng mượn hẹp làm cho khoảng không gian NDT vào thư viện mượn sách hạn chế. Thư viện nên sớm mở rộng khoảng không gian tại phòng mượn để NDT vào tra cứu, mượn tài liệu. Đối với thư viện thôn Yên Xá, nên thay ổ khóa cho tủ sách của thư viện nhằm bảo quản được tài liệu tốt hơn và tránh tình trạng mất tài liệu. 3.6. Nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ thƣ viện và đào tạo ngƣời dùng tin Theo quan niệm trước đây, cán bộ thư viện được xem như là người trông sách, giữ sách. Nhưng ngày nay, quan niệm như vậy không còn đúng nữa. Cán bộ thư viện giờ đây là người định hướng thông tin, là nhịp cầu nối NDT đến với thông tin, tài liệu mình cần một cách nhanh chóng, kịp thời. Xã hội ngày càng phát triển thì vai trò của người cán bộ thư viện ngày càng được nâng cao. Nhưng để làm tốt vai trò của mình, người cán bộ thư viện phải có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và các kiến thức nhất định về tin học. Vì thế, để đáp ứng nhu cầu tin cho NDT tại các thư viện thôn, làng cán bộ thư viện cần nâng cao chất lượng phục vụ NDT cũng như năng lực quản lý của thư viện; nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và đặc biệt là trình độ tin học. Cán bộ nghiệp vụ phải thường xuyên nâng cao trình độ nghiệp vụ thư viện thông tin, để có thể tạo ra nhiều sản phẩm và dịch vụ thông tin đáp ứng nhu cầu đa dạng của NDT thuộc các chuyên ngành khác nhau. Tham gia vào việc hướng dẫn nghiệp vụ cho thư viện thôn, làng có sự đóng góp không nhỏ của các thư viện trong mạng lưới thư viện công cộng. Nguyễn Thị Thu 54 K51-Thông tin –Thƣ viện
  55. Khóa luận tốt nghiệp Trƣờng Đại học Khoa học xã hội & Nhân văn Cụ thể, thư viện thành phố là trung tâm hướng dẫn nghiệp vụ, trở thành thư viện kiểu mẫu về nghiệp vụ, kỹ thuật thư viện. Thư viện thành phố phải thường xuyên tổng kết, phổ biến những kinh nghiệm để nâng cao chất lượng công tác, nhất là đối với phong trào cơ sở; mở các lớp đào tạo, bồi dường nghiệp vụ thư viện cho cán bộ thư viện ở các địa phương. Và tại điều 6 Pháp lệnh thư viện quy định: “Thư viện cấp xã có nhiệm vụ tổ chức phục vụ sách báo cho nhân dân tại cơ sở, xây dựng phong trào đọc và làm theo sách, báo, hình thành thói quen đọc sách, báo trong nhân dân địa phương”. Các cán bộ phải được tập huấn nghiệp vụ thư viện để đưa hoạt động thư viện trở nên chuyên nghiệp hơn. Đồng thời, các tổ chức chính trị, trước hết là chi đoàn thanh niên nên động viên đoàn viên, thanh thiếu niên tham gia vào hoạt động của thư viện, giúp tổ chức thư viện, đào tạo và chuẩn bị lớp cán bộ kế cận tâm huyết để duy trì hoạt động của thư viện được hiệu quả. Thư viện được thành lập nhằm mục đích phục vụ nhu cầu của NDT. Nhưng nhiều khi bản thân người được phục vụ, được sử dụng thông tin lại không hiểu hết cách khai thác, tìm kiếm thông tin mình cần một cách nhanh chóng, kịp thời, tốn ít thời gian nhất, do vậy cần phải đào tạo kỹ năng khai thác thông tin và góp phần định hướng cho NDT có sự tinh thần tự giác và tích cực chủ động trong việc tiếp cận với sách báo. 3.7. Định hƣớng và phát triển văn hóa đọc trong nhân dân Để tiếp tục duy trì và phát triển mô hình thư viện thôn, làng phải gắn chặt với với việc tổ chức, phát động phong trào đọc. Có như vậy, thì văn hóa đọc mới trở thành một thói quen và họ sử dụng tài liệu một cách tự giác hơn. Để làm được việc đó, thư viện phải thực hiện đa dạng hóa các loại hình phòng đọc sách, báo, tạo ra vốn tài liệu phong phú, đa dạng về cả nội dung và hình thức, phù hợp với nhu cầu thông tin của NDT bằng việc thư viện Nguyễn Thị Thu 55 K51-Thông tin –Thƣ viện
  56. Khóa luận tốt nghiệp Trƣờng Đại học Khoa học xã hội & Nhân văn phải có những chính sách hợp lý, xác định được diện bổ sung tài liệu trên cơ sở đánh giá khách quan nhu cầu của NDT và tình hình thực tiễn của thư viện. Qua đó, tạo mọi điều kiện cho bạn đọc có thể đến đọc sách, báo và làm theo sách, báo một cách hiệu quả. 3.8. Mở rộng mô hình thƣ viện thôn, làng Mô hình thư viện thôn, làng đang chứng tỏ vai trò quan trọng của nó trong việc xây dựng đời sống văn hóa nông thôn và đóng góp không nhỏ vào phát triển kinh tế địa phương. Mở rộng mô hình thư viện thôn, làng ra địa các thôn, xã ngoại thành Hà Nội là một việc làm mang ý nghĩa hết sức thiết thực. Để làm được việc đó cần sự vào cuộc của các cấp, mà trực tiếp là cấp huyện và cấp xã và trước hết là Ban Văn hóa của UBND xã, Phòng Văn hóa các huyện. Thư viện Thành phố Hà Nội cần có các văn bản chỉ đạo các thư viện quận huyện hỗ trợ các địa phương tổ chức và duy trì hoạt động của các thư viện thôn, làng. Địa bàn ngoại thành Hà Nội rất rộng và điều kiện kinh tế rất khác nhau, do vậy, cần tổ chức chỉ đạo hợp lý và phù hợp với điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội của từng địa phương. Về kinh nghiệm thực tiễn, có thể lấy mô hình thư viện Bình Vọng và Giang Cao làm các điển hình để các nơi khác học tập. Trong những năm qua, thư viện thôn Bình Vọng và Giang Cao cũng đã tích cực giúp đỡ những các đơn vị khác trong việc học tập và đúc rút kinh nghiệm để xây dựng mô hình thư viện thôn hiệu quả hơn. KẾT LUẬN Mô hình thư viện thôn, làng đang đứng trước những thời cơ và thách thức mới, hiệu quả mà mô hình thư viện này mang lại đã chứng minh vai trò quan trọng của các thư viện thôn, làng như là một thể chế văn hóa không thể Nguyễn Thị Thu 56 K51-Thông tin –Thƣ viện
  57. Khóa luận tốt nghiệp Trƣờng Đại học Khoa học xã hội & Nhân văn thiếu tại mỗi làng văn hóa. Thư viện thôn, làng thực sự cùng với các hoạt động văn hóa khác làm cho bộ mặt nông thôn ngày càng đổi mới và hoàn toàn phù hợp với địa bàn dân cư, với truyền thống sinh hoạt làng xã. Ngoài việc đảm bảo hoàn thành chức năng, nhiệm vụ của mình, các thư viện thôn, làng đã góp phần đáng kể trong việc nâng cao dân trí, làm giảm sự khác biệt về mức hưởng thụ văn hóa giữa các vùng miền, các địa phương. Thư viện thôn, làng còn giúp nâng cao hiểu biết về pháp luật, cùng việc vận dụng những thông tin từ sách báo, áp dụng những khoa học kỹ thuật và những kinh nghiệm tiên tiến vào đời sống sản xuất của nhân dân ngoại thành Hà Nội, góp phần tạo thói quen tự đọc, tự học và tự nghiên cứu trong đông đảo tầng lớp nhân dân. Có thể nói rằng thư viện thôn, làng là thiết chế văn hóa quan trọng và là nơi sinh hoạt văn hóa cho cộng đồng NDT. Tuy nhiên, việc xây dựng và phát triển phong trào đọc sách báo ở cơ sở là công việc lâu dài và gian khó đòi hỏi nhiều công sức, những gì mà các thư viện thôn, làng ngoại thành Hà Nội làm được nhằm nâng cao đời sống văn hóa tinh thần cho nhân dân thực sự còn khiêm tốn và ở nhiều nơi thật sự mới chỉ là bước đầu. Để thực hiện tốt “sự nghiệp thư viện hướng về cơ sở” đòi hỏi những người làm công tác thư viện từ tỉnh, thành phố đến cơ sở cần phải nỗ lực nhiều hơn nữa, tích cực, sáng tạo và chủ động trong việc góp phần thực hiện thành công cuộc vận động “toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, đồng thời để đảm bảo tăng cường năng lực thông tin – thư viện trong thời kỳ mới, phù hợp với xu thế phát triển của xã hội và trong khu vực. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tích đã đạt được, cũng còn nhiều hạn chế, những điểm yếu cần được tháo gỡ và khắc phục. Để đáp ứng được yêu cầu và nhiệm vụ mới trong thời kỳ công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước cần phải có các giải pháp mang tính khả thi tạo điều kiện cho các hoạt Nguyễn Thị Thu 57 K51-Thông tin –Thƣ viện
  58. Khóa luận tốt nghiệp Trƣờng Đại học Khoa học xã hội & Nhân văn động, công tác thông tin, thư viện trong thời kỳ mới ngày càng đạt kết quả cao. Cần thiết phải có sự quan tâm, giúp đỡ và đóng góp thiết thực của tất cả các cấp, các ngành chức năng, các tổ chức xã hội và của mọi thành viên trong cộng đồng dân cư làng xã. Làm được như vậy mới có thể duy trì và phát triển những điểm sáng về phong trào đọc sách, báo ở cơ sở và để thư viện thôn, làng thực sự phát huy được vị trí là trung tâm văn hóa, giáo dục, khoa học và thông tin trong cộng đồng dân cư và để các địa phương khác đúc rút kinh nghiệm, xây dựng mô hình thư viện thôn làng tại địa phương mình một cách hiệu quả nhất. PHỤ LỤC Phụ lục 1. PHIẾU ĐIỀU TRA NHU CẦU CỦA NGƢỜI DÙNG TIN Nhằm mục đích nghiên cứu nhu cầu tin của người dùng tin và hiệu quả hoạt động của mô hình thư viện thôn, xóm phục vụ cho đề tài khóa luận: “Nghiên cứu các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của một số thư viện thôn, làng ngoại thành Hà Nội”, rất mong nhận được sự giúp đỡ từ phía cơ quan, tổ chức và cá nhân để tôi hoàn thành đề tài nghiên cứu này. (Xin đánh dấu X vào ô trống tương ứng với phương án được lựa chọn) 1. Nghề nghiệp của ông (bà), của anh (chị), của bạn? Cán bộ quản lý lãnh đạo Thiếu nhi Giáo viên, giảng viên Học sinh Cán bộ kỹ thuật Nông dân Cán bộ hưu trí Nguyễn Thị Thu 58 K51-Thông tin –Thƣ viện
  59. Khóa luận tốt nghiệp Trƣờng Đại học Khoa học xã hội & Nhân văn 2. Ông (bà), anh (chị), bạn có cần thông tin để phục vụ công việc của mình không? Có Không 3. Nếu trả lời là có, xin cho biết ông (bà), anh (chị) và các bạn cần tài liệu về lĩnh vực gì? Khoa học - kỹ thuật Văn học - nghệ thuật Nhà nước - Pháp luật Thiếu nhi Chính trị - xã hội Nguyễn Thị Thu 59 K51-Thông tin –Thƣ viện
  60. Khóa luận tốt nghiệp Trƣờng Đại học Khoa học xã hội & Nhân văn 4. Loại hình tài liệu nào ông (bà), anh (chị), các bạn thường xuyên sử dụng nhất? Sách Tạp chí Báo 5. Ông (bà), anh (chị), bạn thường sử dụng tài liệu bằng ngôn ngữ nào? Tiếng Việt Tiếng Anh Tiếng Trung Ngôn ngữ khác 6. Ông (bà), anh (chị) và các bạn thường đọc sách, báo ở đâu? Thư viện huyện Tủ sách pháp luật Thư viện xã Tủ sách thanh niên Câu lạc bộ Thư viện trường Điểm bưu điện văn hóa xã Nơi khác 7. Ông (bà), anh (chị), bạn có thường xuyên đến đọc sách báo của thư viện không? Thường xuyên Thỉnh thoảng Ít khi 8. Mục đích đọc sách báo của ông (bà), anh (chị) và các bạn là gì? Giải trí Học tập Ứng dụng vào sản xuất Nguyễn Thị Thu 60 K51-Thông tin –Thƣ viện
  61. Khóa luận tốt nghiệp Trƣờng Đại học Khoa học xã hội & Nhân văn 9. Ông (bà), anh (chị), các bạn thường sử dụng hình thức phục vụ nào của thư viện? Đọc tại chỗ Mượn về nhà Tuyên truyền và giới thiệu tài liệu 10. Giờ phục vụ của thư viện có hợp lý không? Có Không Nếu không hãy đề xuất ý kiến về giờ phục vụ của thƣ viện? 11. Khi đến thư viện ông (bà), anh (chị), các bạn có bị từ chối yêu cầu mượn sách báo không? Có Thỉnh thoảng Không 12. Ông(bà), anh (chị), các bạn có nhu cầu đọc báo trực tuyến trên internet không? Có Không 13. Ông (bà), anh (chị), các bạn có nhận xét gì về thái độ phục vụ của cán bộ thư viện Tốt Bình thường Chưa tốt Nguyễn Thị Thu 61 K51-Thông tin –Thƣ viện
  62. Khóa luận tốt nghiệp Trƣờng Đại học Khoa học xã hội & Nhân văn 14. Theo Ông (bà), anh (chị), các bạn, Thu viện cần làm gì để tăng kinh phí cho các hoạt động của thư viện? Nhà nước cấp ngân sách Nhân dân đóng góp một phần UBND xã cấp ngân sách Phương án khác 15. Theo Ông (bà), anh (chị), bạn hình thức đóng góp của người dân như thế nào là phù hợp? Nộp tiền làm thẻ thư viện Hàng năm đóng góp vào quỹ chung Phương án khác 16. Ông (bà), anh (chị), bạn có đề xuất, kiến nghị gì để nâng cao chất lượng của hoạt động tại các thư viện thôn, làng trong thời gian tới? Xin chân thành cảm ơn! Nguyễn Thị Thu 62 K51-Thông tin –Thƣ viện
  63. Khóa luận tốt nghiệp Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn Phụ lục 2. KẾT QUẢ PHÂN TÍCH PHIẾU ĐIỀU TRA 1. Thành phần người đọc Thiếu nhi; học sinh, sinh viên; cán bộ hưu trí; nông dân : 95% Cán bộ quản lý, lãnh đạo; giáo viên, giảng viên; cán bộ kỹ thuật: 5% 2. Mục đích đến thư viện của người dùng tin Học tập, nâng cao trình độ 37% Ứng dụng vào sản xuất 10% Giải trí 53% 3. Lĩnh vực tài liệu mà người dùng tin quan tâm Văn học nghệ thuật 30,3% Chính trị - xã hội 21,1% Khoa học kỹ thuật 9% Sách thiếu nhi 27,6% Nhà nước và pháp luật 12% 4. Ngôn ngữ tài liệu mà người dùng tin thường xuyên sử dụng: Tiếng Việt 100% 5. Loại hình tài liệu mà người dùng tin thường sử dụng Sách 76% Báo 11% Tạp chí 13% 6. Hình thức sử dụng thư viện Đọc tại chỗ 43% Mượn về nhà 57% 7. Tỷ lệ người dùng tin được hỏi bị từ chối khi mượn sách của thư viện Có 6 % Không 75 % Thỉnh thoảng 19 % 8. Ý kiến của người dùng tin về nguồn vốn huy động Nhà nước cấp ngân sách 33 % UBND xã cấp ngân sách 31 % Sinh viên: Nguyễn Thị Thu 63 Lớp: K51 Thông tin – Thư viện