Bài thu hoạch Chuyên đề: Đánh giá trong giáo dục đại học

docx 12 trang thiennha21 15/04/2022 5960
Bạn đang xem tài liệu "Bài thu hoạch Chuyên đề: Đánh giá trong giáo dục đại học", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docxbai_thu_hoach_chuyen_de_danh_gia_trong_giao_duc_dai_hoc.docx

Nội dung text: Bài thu hoạch Chuyên đề: Đánh giá trong giáo dục đại học

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC ♦ ♦ ♦ CHƯƠNG TRÌNH BỒI DƯỠNG NGHIỆP VỤ SƯ PHẠM ĐẠI HỌC BÀI THU HOẠCH CHUYÊN ĐỀ: ĐÁNH GIÁ TRONG GIÁO DỤC ĐẠI HỌC Học viên: PHẠM ANH XUÂN Ngày sinh: 25/02/1992 Nơi sinh: Liên Bang Nga Đơn vị công tác: Công ty TNHH Thiên Tường Năm 2021
  2. NỘI DUNG THU HOẠCH Câu hỏi: Anh chị hãy nêu thực trạng kiểm tra đánh giá kết quả học tập cho sinh viên tại trường đại học nơi anh/chị công tác để làm rõ hệ thống lý luận về đánh giá kết quả học tập ở đại học hiện nay và đưa ra các đề xuất để tăng cường hiệu quả và đảm bảo chất lượng đào tạo. BÀI LÀM: Thực trạng kiểm tra đánh giá kết quả học tập cho sinh viên tại trường đại học nơi tôi công tác Kiểm tra, đánh giá kết quả học tập là quá trình thu thập và xử lý thông tin từ hoạt động học tập của người học, so sánh với mục tiêu đề ra nhằm xác nhận kết quả học tập của người học sau một giai đoạn học tập và cung cấp thông tin Kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của sinh viên là quá trình thu thập, xử lý thông tin về trình độ, khả năng thực hiện mục tiêu đã xác định nhằm tạo cơ sở cho những quyết định sư phạm của giáo viên, cho nhà trường và cho bản thân sinh viên. Như vậy, đánh giá kết quả học tập của sinh viên là đánh giá mức độ hoàn thành các mục tiêu đề ra cho sinh viên sau một giai đoạn đánh giá kết quả học tập môn Tiếng Anh là việc đưa ra những kết luận nhận định, nhận xét trình độ Tiếng Anh của sinh viên. Muốn đánh giá kết quả học tập của sinh viên thì việc đầu tiên là phải kiểm tra, xem xét lại toàn bộ công việc hoc tập môn Tiếng Anh của họ, sau đó tiến hành đo lường để thu thập những cùng là đưa ra một quyết định. Do vậy kiểm tra và đánh giá kết quả học tập nói chung và kết quả học tập môn Tiếng Anh nói riêng là hai khâu có quan hệ mật thiết với nhau. Kiểm tra nhằm cung cấp thông tin để đánh giá và đánh giá thông của kiểm tra. Hai khâu đó hợp thành một quá trình thống nhất là kiểm tra- đánh giá. 1. Phân loại kiểm tra, đánh giá kết quả học tập Tương ứng với 2 mục đích thì kiểm tra, đánh giá kết quả học tập được phân - Kiểm tra, đánh giá quá trình (formavie assessment) nhằm cung cấp thông tin phản hồi liên tục từ hoạt động học của người học để điều chỉnh quá trình dạy tập và lên kế hoạch can thiệp để giúp sinh viên sửa chữa đồng thời lựa chọn các biện pháp hỗ trợ trong những môn học gặp khó khăn
  3. - Kiểm tra, đánh giá tổng kết (summative assessment) nhằm cung cấp thông tin phản hồi cho SV về kết quả học tập các môn học và thành tích tổng thể toàn khoá học. KT, ĐG đánh giá tổng kết ghi nhận trình độ của người học tại từng giai đoạn cụ thể được tiến hành định kỳ sau một khoảng thời gian hoặc sau khi kết thúc một phần, một chương của môn, hay sau khi kết thúc môn học, khoá học, làm căn cứ để xếp loại, công nhận sinh viên tốt nghiệp. Trong quá trình dạy - học, 2 loại kiểm tra, đánh giá này không loại trừ nhau mà bổ sung, hỗ trợ cho nhau. Vì vậy, kiểm tra, đánh giá kết quả học tập phải bao gồm kiểm tra, đánh giá quá trình và kiểm tra, đánh giá tổng kết. 2. Mục đích của kiểm tra, đánh giá Trong quá trình dạy học, kiểm tra đánh giá kết quả học tập của sinh viên là một khâu quan trọng nhằm xác định thành tích học tập và mức độ chiếm lĩnh kiến thức, kỹ năng, vận dụng của người học. Kiểm tra, đánh giá là hai công việc được tiến hành theo trình tự nhất định hoặc đan xen lẫn nhau nhằm khảo sát, xem xét về cả định lượng và định tính kết quả học tập, đánh giá mức độ chiếm lĩnh nội dung học vấn của sinh viên. Bởi vậy, cần phải xác định “thước đo” và chuẩn đánh giá một cách khoa học, khách quan. Đối với sinh viên, nhân vật trung tâm của quá trình dạy học, kiểm tra, đánh giá có tác dụng thúc đẩy quá trình học tập phát triển không ngừng. Qua kết quả kiểm tra, sinh viên tự đánh giá mức độ đạt được của bản thân, để có phương pháp tự mình ôn tập, củng cố bổ sung nhằm hoàn thiện học vấn bằng phương pháp tự học với hệ thống thao tác tư duy của chính mình. Đối với giáo viên, kết quả kiểm tra, đánh giá giúp mỗi giáo viên tự đánh giá quá trình giảng dạy của mình. Trên cơ sở đó không ngừng nâng cao và hoàn thiện mình về trình độ học vấn, về phương pháp giảng dạy. Đối với các cấp quản lý, lãnh đạo nhà trường thì kiểm tra, đánh giá là biện pháp để đánh giá kết quả đào tạo về cả định lượng và định tính. Đó là cơ sở để xây dựng đội ngũ giáo viên, về vấn đề đối mới nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức hoạt động dạy học, v.v 3. Các nguyên tắc đánh giá - Đánh giá phải đảm bảo tính khách quan: đánh giá đảm bảo tính khách quan là yêu cầu cơ bản trong đánh giá. Đánh giá khách quan trong giáo dục là sự phản ánh chính
  4. xác kết quả của hoạt động giáo dục như nó tồn tại trên cơ sở đối chiếu với mục tiêu đã đề ra. Đánh giá đảm bảo tính khách quan có ý nghĩa quan trọng vì: trước hết đó là yêu cầu của xã hội đối với chất lượng giáo dục, sau đó đánh giá khách quan còn tạo ra các yếu tố tâm lý tích cực cho đối tượng được đánh giá, động viên đối tượng được đánh giá vươn lên. - Đánh giá đảm bảo tính toàn diện: đòi hỏi phải đánh giá đầy đủ các mặt, các khía cạnh cần đánh giá theo yêu cầu, mục đích của giáo dục. Trong quá trình kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của sinh viên về khối lượng và chất lượng chiếm lĩnh kiến thức, kỹ năng, vận dụng thuộc về các môn học; về kết quả phát triển năng lực hoạt động trí tuệ, tư duy sáng tạo, ý thức, thái độ trong đó, chú ý đánh giá cả số lượng và chất lượng, cả nội dung và hình thức. Đánh giá toàn diện cho phép xem xét đối tượng được đánh giá một cách đầy đủ, khách quan, chính xác, tránh sự đánh giá phiến diện - Đánh giá đảm bảo tính hệ thống: đòi hỏi phải tiến hành đánh giá liên tục và đều đặn theo kế hoạch nhất định. Đánh giá có hệ thống sẽ giúp cho việc thu thập thông tin đầy đủ, rõ ràng, tạo cơ sở để đánh giá một cách toàn diện, giúp cung cấp cho giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục đầy đủ những thông tin để điều chỉnh kịp thời các hoạt động giáo dục. - Đánh giá đảm bảo tính phát triển: đòi hỏi đánh giá phải tạo ra động lực để thúc đẩy đối tượng được đánh giá vươn lên. Có tác dụng thúc đẩy các mặt tốt, hạn chế mặt tiêu cực. Trân trọng sự cố gắng của người học, đánh giá cao những tiến bộ trong học tập của họ. Cần đảm bảo tính công khai trong đánh giá]. - Đánh giá đảm bảo tính dân chủ, công bằng trước tập thể sinh viên nhằm đảm bảo rằng những sinh viên thực hiện các hoạt động học tập với cùng một mức độ và thể hiện cùng một nỗ lực trong học tập sẽ thu được những kết quả như nhau. Một số quy tắc thực hiện nguyên tắc công bằng. + Giúp mỗi sinh viên có thể tích cực vận dụng phát triển kiến thức và kĩ năng đã học. + Hình thức các bài tập, bài kiểm tra là quen thuộc với sinh viên. + Ngôn ngữ sử dụng để kiểm tra rõ ràng đơn giản không mang hàm ý đánh đố sinh viên. + Việc chấm điểm hay ghi nhận xét kết quả phản ánh đúng khả năng của sinh viên.
  5. Có như vậy, việc đánh giá sẽ đạt được độ tin cậy cao, chuẩn mực hơn, giúp cho sinh viên nhận ra những điểm yếu của mình một cách nhanh chóng và kịp thời cải thiện, sửa chữa. - Đánh giá đảm bảo tính công khai: khi đánh giá sinh viên cần phải được biết các yêu cầu, các tiêu chuẩn đánh giá mà các em sẽ thực hiện. Đồng thời sinh viên cũng cần được biết cách tiến hành các nhiệm vụ ấy để đạt được tốt hơn các tiêu chí và yêu cầu đã định [38]. - Đánh giá đảm bảo tính giáo dục: việc đánh giá nhất thiết phải góp phần vào việc nâng cao ý thức học tập cho sinh viên. Thông qua đánh giá sinh viên nhận ra được sự tiến bộ của mình từ đó cố gắng hơn trong môn học [38]. 4. Công cụ kiểm tra, đánh giá kết quả học tập - Đánh giá chuyên cần: là điểm điều kiện để các bạn sinh viên được tham gia kì thi lần 1. Theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo thì sinh viên nghỉ quá 20% số tiết học thì sẽ không được thi môn đó. Giáo viên đánh giá chuyên cần dựa vào số buổi tham gia lớp và tinh thần tham gia của sinh viên trong tiết học và các giờ thảo luận. Việc sinh viên đi học chuyên cần là cần thiết để tiếp thu những kiến thức cơ bản từ giáo viên. Trên cơ sở đó, sinh viên tự nghiên cứu và trình bày ý kiến của mình trong các buổi thảo luận. Vì vậy, việc đánh giá tính chuyên cần sẽ tạo điều kiện cho sinh viên nắm được những nội dung cơ bản của môn học và định hướng tự nghiên cứu. - Kiểm tra trắc nghiệm hay còn gọi là trắc nghiệm khách quan (objective test): là công cụ để khảo sát trình độ học tập của học sinh, có 4 đặc điểm cơ bản: tính tin cậy, tính giá trị, độ khó của câu trắc nghiệm và của bài trắc nghiệm, và độ phân biệt. + Tính tin cậy: tính tin cậy của trắc nghiệm không phụ thuộc vào người chấm nên còn gọi là kiểm tra khách quan, ngoài ra kết quả đo lường còn phân biệt được trình độ của sinh viên + Tính giá trị: một bài trắc nghiệm có giá trị khi nó đáp ứng được mục đích đề ra. Nếu mục đích nhằm đo lường trình độ tiếp thu khối lượng kiến thức của sinh viên về một môn học thì những điểm số từ bài trắc nghiệm của sinh viên phải phản ánh đúng khả năng lĩnh hội của sinh viên về môn học đó. Tùy mục đích khảo sát khác nhau mà
  6. có những loại giá trị khác nhau của trắc nghiệm: giá trị nội dung, giá trị chương trình, giá trị mục tiêu và giá trị tiên đoán [33] + Độ khó của câu trắc nghiệm: Độ khó cao thể hiện ở số người thực hiện ít, ngược lại, mọi người đều làm được thì độ khó thấp [27]. + Độ phân biệt: một bài trắc nghiệm tốt thể hiện ở dộ phân cách hợp lý, tức là phân biệt được sinh viên giỏi, khá, trung bình hay yếu, kém [27]. - Kiểm tra tự luận: là công cụ để khảo sát tính chuyên cần của học sinh vì có thể sử dụng ngay trong lúc giảng, ngoài ra còn khảo sát kỹ năng viết, suy luận, diễn giải. Tuy nhiên, kiểm tra tự luận thường đòi hỏi nhiều thời gian để viết bài cũng như chấm bài. Kiểm tra viết thường có 2 loại: luận đề và câu hỏi ngắn. Luận đề có thời gian kiểm tra dài, đầu đề là câu hỏi về một vấn đề lớn, dàn bài thường gồm mở đề, thân bài và kết luận. Loại câu hỏi ngắn có thời gian trả lời mỗi câu là 15 đến 20 phút, học sinh được yêu cầu trả lời ngắn gọn, đúng trọng tâm, không cần viết nhập đề, kết luận, các ý chính được gạch đầu dòng [33]. - Kiểm tra nghe: là dạng bài kiểm tra kỹ năng nghe của sinh viên trong các môn học ngoại ngữ. Kiểm tra nghe thường có các phương tiện hỗ trợ giáo viên như: máy cát-xét, máy vi tính và loa, hoặc phòng Lab [42]. - Kiểm tra nói, vấn đáp: thời gian kiểm tra rất linh động, có thể là đầu buổi học (kiểm tra bài cũ), đang lúc giảng bài (đặt câu hỏi liên quan đến kiến thức cũ hay để phát hiện tình hình kiến thức của sinh viên), cuối bài học và trước khi thực hành thí nghiệm (củng cố bài học), hoặc kiểm tra định kỳ và cuối kỳ. Kiểm tra vấn đáp gồm: kiểm tra cá nhân, kiểm tra đồng loạt và kiểm tra phối hợp. Bài kiểm tra nói trong các môn ngoại ngữ có thể là một bài hội thoại sắm vai, một vở kịch ngắn, hoặc một bài thuyết trình. - Bài tập nhóm, thảo luận nhóm: là phương pháp thu thập thông tin về một chủ đề được xác định từ cuộc thảo luận giữa các thành viên có cùng một đặc điểm hoặc kinh nghiệm. Cuộc thảo luận được dẫn dắt bởi một người điều hành sao cho các thành viên cùng tham gia vào cuộc thảo luận sôi nổi và tự nhiên. Đặc điểm của công cụ này là chủ đề thảo luận tập trung trong phạm vi hẹp, các thành viên có cùng đặc điểm hay kinh nghiệm. Cùng một lúc có thể kiểm tra được nhiều sinh viên. Qua thảo luận nhóm, các em sẽ hình thành kĩ năng làm việc nhóm, đặc biệt là tính năng động.
  7. 5. Quy trình của việc đánh giá kết quả học tập Đánh giá trong giáo dục là một vấn đề hết sức phức tạp và khó khăn vì nó mang tính tổng hợp nhiều yếu tố. Vì vậy để đánh giá chính xác một sinh viên, một lớp, hay một khóa học, điều đầu tiên người giáo viên phải làm là xây dựng quy trình, lựa chọn một phương pháp cũng như thu thập các thông tin cần thiết cho việc đánh giá. Hệ thống lý luận về đánh giá kết quả học tập ở đại học hiện nay Tổng quan nghiên cứu vấn đề 1. Những nghiên cứu về ĐGKQHT và quản lý ĐGKQHT của SV ở nước ngoài Đánh giá kết quả học tập (ĐGKQHT) của người học là vấn đề được nhiều nhà nghiên cứu giáo dục ở các trường đại học trên thế giới quan tâm; các công trình nghiên cứu liên quan đến ĐGKQHT của SV phản ánh theo các hướng: Nghiên cứu lý thuyết chung về kiểm tra – đánh giá (KT-ĐG) trong lớp học như công trình của C.A. Paloma; Về phương pháp đo lường đánh giá định lượng kết quả học tập của người học được tác giả Robert L.Ebel mô tả chi tiết trong cuốn “Measuring Educational Achievement”. Tác giả Norman E.Gronlund đề cập những nguyên tắc và quy trình đánh giá cần thiết cho việc dạy học hiệu quả trong cuốn “Measurement and Evaluation in Teaching”; Những lý luận cơ bản của đánh giá trong lớp học, cách lập kế hoạch đánh giá, cách đánh giá, cho điểm, được D.S. Frith và H.G. Macintosh viết trong cuốn “A Teacher’s Guide to Assessment”. 2. Những nghiên cứu về ĐGKQHT và quản lý ĐGKQHT của SV ở Việt Nam: Ở nước ta, các trường ĐH đã tổ chức nhiều hội thảo để đánh giá thực trạng và tìm kiếm những giải pháp quản lý ĐGKQHT của SV; Những công trình nghiên cứu, các hội thảo khoa học, hội nghị về lĩnh vực ĐGKQHT trong GDĐH ở nước ta tập trung vào các hướng nghiên cứu: - Nghiên cứu lý luận về đánh giá kết quả (ĐGKQ) giáo dục theo các khía cạnh: các quan điểm về hoạt động đánh giá giáo dục (ĐGGD), các khái niệm cơ bản, quan hệ giữa đánh giá và các thành tố của quá trình dạy học, cách phân loại mục tiêu đánh giá. - Nghiên cứu về ứng dụng những lý luận vào quá trình dạy học, vào ĐGKQHT môn học, ngành học. Với những khía cạnh cơ bản gồm: kỹ thuật đo lường kết quả học tập môn học/ngành học; phương pháp, kỹ thuật xử lý thông tin giáo dục theo định tính, định lượng và cách sử dụng kết quả đánh giá để nâng cao chất lượng giáo dục. - Nghiên cứu kinh nghiệm đánh giá, trong đó tập trung vào: giới thiệu các
  8. mô hình ứng dụng lý luận vào đánh giá môn học, đánh giá giờ học của các nước tiên tiến, phân tích thực trạng ĐG kết quả giáo dục ở Việt Nam, đề xuất cách sử dụng kết quả đánh giá để điều chỉnh hoạt động dạy và học, xác nhận sự tiến bộ của SV, điều chỉnh chính sách giáo dục, 1.2. Các khái niệm cơ bản của đề tài 1.2.1. Đánh giá và đánh giá kết quả học tập 1.2.1.1. Đánh giá Có rất nhiều khái niệm khác nhau về đánh giá, mỗi khái niệm nhấn mạnh đến một khía cạnh cần đánh giá; Theo chúng tôi, Đánh giá là đưa ra những nhận định, những phán xét về giá trị mà sinh viên tích lũy được trên cơ sở xử lý những thông tin, minh chứng thu thập được đối chiếu với mục tiêu đã đề ra. 1.2.1.2. Kết quả học tập Kết quả học tập là bằng chứng xác nhận người học đã tích lũy được kiến thức, kĩ năng, năng lực, thái độ đối với một môn học, ngành học hay một bậc học. 1.2.1.3. Đánh giá kết quả học tập ĐGKQHT có thể coi là phép đo dựa trên những thông tin thu được từ kiểm tra nhằm xác định mức độ nắm vững từng nội dung học tập của người học, cho điểm và xếp hạng người học sau khi hoàn thành một môn học, một khoá học, từ đó đưa ra kết luận về thành tích và khả năng của người học. Đánh giá kết quả học tập của sinh viên là đánh giá mức độ nắm được và vận dụng kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo của họ vào giải quyết các vấn đề của thực tiễn cuộc sống (đánh giá năng lực); làm cơ sở để phân loại thành tích học tập của sinh viên; từ đó đưa ra các giải pháp điều chỉnh phương pháp dạy của giảng viên và phương pháp học của sinh viên và các khuyến nghị góp phần thay đổi các chính sách đào tạo. 1.2.2. Quản lý và quản lý đánh giá kết quả học tập 1.2.2.1. Quản lý Quản lý được hiểu là sự tác động có mục đích mang tính khoa học, tính nghệ thuật, tính định hướng, thông qua một tổ chức, có sự lựa chọn các phương thức tác động có thể có của chủ thể dựa trên các thông tin về đối tượng và môi trường nhằm làm cho đối tượng bị quản lý vận động ổn định, phát triển để đạt tới mục tiêu đã hướng đích thông qua các điều kiện, phương tiện xác định. 1.2.2.2. Quản lý đánh giá kết quả học tập Quản lý ĐGKQHT là một trong ba khâu của quản lý đào tạo (đó là quản lý giảng dạy, quản lý học tập và quản lý ĐGQKHT); quản lý ĐGKQHT là quản lý quá trình tổ chức thực hiện các hoạt động kiểm tra- đánh giá
  9. trong nhà trường nhằm xác nhận KQHT của SV đảm bảo chính xác, khách quan, công bằng; thông qua cơ sở dữ liệu điểm thi/kiểm tra của SV tiến hành phân tích, đo lường, đánh giá để đưa ra nhận xét về chất lượng đề thi, về KQHT của SV, về hiệu quả của công tác đào tạo và đưa ra những kiến nghị nhằm không ngừng nâng cao chất lượng dạy và học. 1.2.3. Đào tạo theo hệ thống tín chỉ 1.2.3.1. Tín chỉ * Khái niệm về tín chỉ Tín chỉ học tập là một đại lượng đo toàn bộ thời gian bắt buộc của một sinh viên để học một môn học cụ thể, bao gồm: (1) thời gian lên lớp; (2) thời gian ở trong phòng thí nghiệm, thực tập hoặc các phần việc khác đã được quy định ở thời khóa biểu; và (3) thời gian dành cho đọc sách, nghiên cứu, giải quyết vấn đề, viết hoặc chuẩn bị bài ; đối với các môn học lí thuyết một tín chỉ là một giờ lên lớp (với hai giờ chuẩn bị bài) trong một tuần và thực hiện trong một học kì có thời lượng 15 tuần. * Giờ tín chỉ trong các hình thức tổ chức dạy- học theo HTTC Một tín chỉ gồm 15 giờ tín chỉ, thực hiện trong một học kì kéo dài 15 tuần, mỗi tuần 01 giờ tín chỉ; nếu một môn học lý thuyết có 03 tiết lên lớp mỗi tuần trong một học kỳ (kéo dài 15 tuần) thì môn học đó được công nhận là 3 tín chỉ. Có thể có những môn học chỉ gồm một kiểu giờ tín chỉ, nhưng cũng có thể có những môn học gồm nhiều hơn một kiểu giờ tín chỉ bao gồm cả giờ tín chỉ lý thuyết, giờ tín chỉ thực hành thí nghiệm và giờ tín chỉ tự học tập nghiên cứu của SV. 1.2.3.2. Đào tạo Đào tạo là việc huấn luyện, giảng dạy, tập huấn cho một nhóm người, một tổ chức, một xã hội về một vấn đề và nhằm đạt đến một mục tiêu nhất định; Là các hoạt động truyền tải thông tin và dữ liệu từ người này (huấn luyện viên hoặc giảng viên) sang người khác (học viên); Kết quả là có sự thay đổi về kiến thức, kĩ năng và thái độ của người học từ mức độ thấp đến mức độ cao. 1.2.3.3. Đào tạo theo HTTC Đào tạo theo HTTC là phương thức đào tạo đòi hỏi tính tích cực, chủ động của GV và SV rất rõ rệt. Đào tạo theo HTTC lấy hoạt động học của SV làm trung tâm, đây chính là phương pháp sư phạm tích cực. Khi sử dụng phương pháp này, chúng ta đã biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo; GV không những là người truyền thụ kiến thức cho SV mà còn phải là người tổ chức, hướng dẫn, điều khiển giúp SV chủ động trong việc chiếm lĩnh tri thức, biết cách tìm đọc tài liệu, phát hiện và giải quyết các vấn đề, biết cách khai thác, chọn nhập và xử lý thông tin trong thời đại nguồn thông tin phong phú đến vô tận.
  10. 1.3. Những vấn đề cơ bản về ĐGKQHT của SV trong GDĐH 1.3.1. Vị trí, vai trò của ĐGKQHT trong đào tạo ở trường ĐH ĐGQKHT có vị trí, vai trò quan trọng trong chương trình đào tạo tại các trường ĐH; ĐGKQHT có các vai trò xác nhận, tạo động lực, định hướng, phản hồi- điều chỉnh, hình thành nhu cầu và kỹ năng tự đánh giá đối với người học; đồng thời ĐGKQHT là công cụ của các nhà quản lý giáo dục; 1.3.2. Các thành tố của quá trình ĐGKQHT Các thành tố của ĐGKQHT trong đào tạo theo HTTC là mục đích, phương pháp, nội dung, hình thức và quy trình đánh giá; 1.3.3. Xu hướng mới của ĐGKQHT và các nguyên tắc trong tổ chức thực hiện 1.3.3.1. Xu hướng của ĐGKQHT hiện nay Những xu hướng thay đổi trong ĐGKQHT có thể tóm lược như sau: i)Nhiều bài tập đa dạng trong suốt quá trình học; ii)Do SV chủ động; iii)Việc lựa chọn câu hỏi và tiêu chí đánh giá được nêu rõ từ trước; iv)Nhấn mạnh sự hợp tác; v)Quan tâm đến kinh nghiệm học tập của SV; vi)Chú trọng đến đánh giá quá trình; vii)Tập trung vào năng lực thực tế. 1.3.3.2. Các nguyên tắc ĐGKQHT theo xu hướng mới hiện nay Nguyên tắc ĐGKQHT trong GDĐH được xem như là những quy định có tính khách quan, bắt buộc và có tác dụng chỉ dẫn hoạt động ĐG trong quá trình dạy– học ĐH. Những quy định này dựa trên cơ sở của khoa học về đo lường– đánh giá trong giáo dục và các quy chế đào tạo mang tính pháp lý; chúng làm căn cứ xác lập các chuẩn mực (về chất lượng) cũng như các quy trình, kỹ thuật, thủ tục để xây dựng các bước tiến hành hoạt động ĐGKQHT của SV. 1.4. Đặc điểm của đào tạo (ĐT), quản lý ĐT theo HTTC và yêu cầu đặt ra cho quản lý ĐGKQHT 1.4.1. Đặc điểm của ĐT và quản lý ĐT theo HTTC Qua nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy những đặc điểm cơ bản trong đào tạo theo HTTC như sau:
  11. Thứ nhất, có sự thay đổi tỷ lệ về nội dung lý thuyết và nội dung thực hành so với đào tạo theo niên chế; đào tạo theo HTTC đòi hỏi giảm lý thuyết hàn lâm, tăng cường thực hành nhằm nâng cao kỹ năng thực hành cho SV đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động và xã hội, vì vậy các trường đều có những yêu cầu nhất định trong quá trình xây dựng chương trình để thực hiện yêu cầu này của HTTC. Thứ hai, có sự thay đổi về tỷ lệ sử dụng quỹ thời gian làm việc giữa GV với SV: Trong phương thức đào tạo theo truyền thống, vai trò của GV được coi trọng; vì vậy, hoạt động của GV chiếm tỷ lệ lớn trong hoạt động dạy học. Tuy nhiên trong phương thức đào tạo theo HTTC, vai trò của SV đặc biệt được coi trọng; chính vì vậy, tỷ lệ hoạt động của GV đã có sự thay đổi. GV không giảng giải, phân tích, trình bày, diễn đạt toàn bộ nội dung kiến thức trong giáo trình mà chủ yếu là hướng dẫn SV tự chiếm lĩnh kiến thức, kỹ năng và nâng cao hứng thú học tập. Tùy theo từng buổi lên lớp, GV có thể chọn các hoạt động phù hợp như: giảng giải những vấn đề mà SV có thể gặp khó khăn khi tự học, nhấn mạnh những vấn đề trọng tâm, hướng dẫn và tổ chức cho SV thảo luận, hướng dẫn làm bài tập, thực hành, thực tế, giải thích những vấn đề SV hiểu chưa đúng, giới thiệu những nhà khoa học đã nghiên cứu những vấn đề mà SV đang học tập, đánh giá kết quả học tập trên lớp và kết quả tự học ở nhà của SV. Thứ ba, trao quyền chủ động cho người học: Trong đào tạo theo HTTC, người học được quyền chủ động nắm bắt chương trình, lịch trình giảng dạy, chủ động đăng ký GV và các môn học; chủ động về nội dung, chương trình, kiểm tra; chủ động lên kế hoạch và thực hiện nhiệm vụ học tập dựa vào năng lực, điều kiện thời gian và công việc của mình; người học có thể chuyển đổi từ khóa học này sang khóa học khác trong cùng một hệ thống; nâng cao năng lực tự học của người học, Thứ tư, thể hiện sự mềm dẻo, linh hoạt trong giảng dạy: GV không nhất thiết phải cứng nhắc giảng giải, trình bày toàn bộ bài dạy theo quy trình các bước lên lớp như trong dạy học theo niên chế mà căn cứ theo trình độ của SV, vào điều kiện dạy học thực tế, GV có thể lựa chọn và thực hiện một số hình thức và phương pháp dạy học nào đó để đạt mục đích môn học. Do đó, dạy học trong đào tạo theo HTTC đòi hỏi SV phải có tính tự giác cao, có khả năng tư duy nhạy bén, độc lập và sáng tạo thì mới thực hiện được các nhiệm vụ học tập theo HTTC. Thứ năm, có sự đa dạng các hình thức kiểm tra, đánh giá và tiến hành kiểm tra, đánh giá thường xuyên kết quả học tập về kiến thức, thái độ và kỹ năng của người học (trong hệ thống niên chế: kiểm tra, đánh giá là khâu cuối cùng của quá trình dạy- học, kết quả học tập của người học được đánh giá bằng điểm của bài thi kết thúc học phần). Khác với phương thức đào tạo truyền thống, phương thức đào tạo theo HTTC xem tự
  12. học như là một thành phần hợp pháp trong cơ cấu giờ học của SV: ngoài việc nghe giảng và thực hành trên lớp, SV được giao những nội dung để tự học, tự thực hành, tự nghiên cứu; những nội dung này được đưa vào thời khóa biểu để phục vụ cho công tác quản lí và quan trọng hơn, chúng phải được đưa vào nội dung các bài kiểm tra thường xuyên và bài thi hết môn học. Thứ sáu, hệ thống đào tạo thích ứng tốt với cơ chế chuyển đổi và liên thông trong quá trình học tập của SV. Thứ bảy, hệ thống đào tạo thích ứng tốt với cơ chế kiểm soát và đánh giá chất lượng trong quá trình tích lũy tín chỉ của SV. 1.4.2. Yêu cầu đặt ra cho quản lý ĐGKQHT theo HTTC Để đào tạo theo HTTC đạt hiệu quả cao đòi hỏi công tác ĐGKQHT và quản lý ĐGKQHT có sự đổi mới phù hợp với phương thức đào tạo tiên tiến này. Đánh giá theo quá trình dạy- học là đòi hỏi bắt buộc đối với đào tạo theo HTTC, muốn vậy công tác quản lý ĐGKQHT phải đưa ra được kế hoạch chi tiết về số lượng bài thi/kiểm tra, trọng số của mỗi bài thi/kiểm tra và tiến độ thực hiện theo tiến trình dạy- học của từng học phần cụ thể. Đổi mới phương pháp đánh giá theo hướng chuyển dần sang đánh giá năng lực người học vận dụng kiến thức, kỹ năng vào giải quyết các vấn đề trong thực tiễn cuộc sống; chuyển từ đánh giá một chiều sang đánh giá đa chiều, từng bước hình thành năng lực tự đánh giá của người học. Các trường ĐH phải thành lập đơn vị chuyên trách về khảo thí và ĐBCLGD làm đầu mối để xây dựng kế hoạch và quản lý công tác ĐGKQHT của SV, đổi mới phương thức làm việc trong KT-ĐG, chuyển sang giao thức làm việc trực tuyến thông qua mạng internet, nhằm từng bước hình thành hệ thống quản lý ĐGKQHT độc lập với hệ thống quản lý dạy- học, ĐGKQHT phản ánh chất lượng đào tạo. 1.5. Quản lý ĐGKQHT của SV đại học trong đào tạo theo HTTC 1.5.1. Cách tiếp cận về quản lý ĐGKQHT của SV *Tiếp cận theo chức năng quản lý: Quản lý ĐGKQHT của SV là một quá trình hoạt động có tính chất định hướng, chỉ đạo, tổ chức thực hiện, giám sát và giải quyết vấn đề nẩy sinh trong quá trình thực hiện.