Khóa luận Một số vấn đề về nhà nước pháp quyền và thực tiễn xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Một số vấn đề về nhà nước pháp quyền và thực tiễn xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- khoa_luan_mot_so_van_de_ve_nha_nuoc_phap_quyen_va_thuc_tien.pdf
Nội dung text: Khóa luận Một số vấn đề về nhà nước pháp quyền và thực tiễn xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN NGUYỄN THỊ THANH TRÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN VÀ THỰC TIỄN XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC NGÀNH TRIẾT HỌC Hệ đào tạo: Chính quy Khóa học: QH-2015-X Hà Nội – 2019
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN NGUYỄN THỊ THANH TRÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN VÀ THỰC TIỄN XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC NGÀNH TRIẾT HỌC Hệ đào tạo: Chính quy Khóa học: QH-2015-X NGƯỜI HƯỚNG DẪN: TS. TRẦN THỊ ĐIỂU Hà Nội – 2019
- LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này, trước hết em xin chân thành cảm ơn sự dạy dỗ nhiệt tình của các thầy cô giáo trong khoa Triết học, trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội trong suốt thời gian em học tập tại khoa, tại trường. Đặc biệt, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất tới TS. Trần Thị Điểu đã giúp đỡ và hướng dẫn em rất tận tình trong quá trình thực hiện và hoàn thiện khóa luận tốt nghiệp này. Mặc dù đã rất cố gắng, nhưng chắc chắn khóa luận sẽ không tránh khỏi những hạn chế và thiếu sót. Vì vậy, em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy, các cô, cùng toàn thể các bạn để khóa luận này được hoàn thiện hơn. Hà Nội, ngày 1 tháng 5 năm 2019. Sinh viên Nguyễn Thị Thanh Trà
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 NỘI DUNG 7 CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM 7 1.1. Tư tưởng và học thuyết về nhà nước pháp quyền trong lịch sử nhân loại 7 1.1.1. Tư tưởng nhà nước pháp quyền thời kì cổ đại 7 1.1.2. Tư tưởng nhà nước pháp quyền thời kì trung cổ và thời kì Phục hưng 12 1.1.3.Tư tưởng nhà nước pháp quyền thời kì cận – hiện đại 15 1.2. Khái niệm và đặc trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền 20 1.2.1. Khái niệm 20 1.2.2. Đặc trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền 22 1.3. Quá trình nhận thức và đặc trưng cơ bản Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam 23 1.3.1. Quá trình nhận thức về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa 23 1.3.2. Đặc trưng của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam 32 TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 35 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM. 37 2.1. Các nguyên tắc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam 37 2.2. Những thành tựu đã đạt được và những khó khăn trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. 41 2.2.1. Những thành tựu đã đạt được trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. 42 2.2.2. Những khó khăn trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam 48
- 2.3. Một số giải pháp trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam 54 KẾT LUẬN 65 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 67
- MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Ngay từ thời cổ đại, mầm mống của tư tưởng về Nhà nước pháp quyền đã xuất hiện ở cả phương Đông và phương Tây với tư cách là một phương pháp giữ gìn trật tự xã hội, chống lại việc lạm dụng quyền lực trong xã hội. Hiện nay, mô hình Nhà nước pháp quyền được coi là một cách thức tổ chức quyền lực nhà nước tối ưu dựa trên nguyên tắc công bằng, nhân văn và được nhiều quốc gia lựa chọn làm mô hình hoạt động của mình. Mỗi quốc gia, vùng lãnh thổ lại có những điều kiện cụ thể khác nhau nên việc xây dựng mô hình Nhà nước pháp quyền ở từng nước cũng có những đặc điểm riêng biệt khác nhau. Ở mỗi quốc gia, chế độ pháp quyền đều có sự điều chỉnh nhất định cho phù hợp với điều kiện cụ thể của đất nước. Tư tưởng về Nhà nước pháp quyền đã hình thành từ rất lâu đời từ trong lịch sử nhân loại (cả phương Đông và phương Tây) tuy nhiên hiện nay để phân định và đánh giá rạch ròi các tư tưởng này thì rất khó khăn với nhiều luồng ý kiến khác nhau. Thực tiễn xây dựng và phát triển nhà nước pháp quyền trên thế giới hiện nay đang đặt ra vấn đề cần có những khái quát chung về đặc trưng bản chất cũng nhờ tính quy luật cho sự phát triển của mô hình nhà nước này từ phương diện triết học. Tùy theo đặc điểm kinh tế, xã hội, truyền thống văn hóa, lập trường giai cấp, quan điểm nhận thức với những nét đặc thù riêng đã tạo nên các mô hình nhà nước pháp quyền khác nhau. Điều đó thể hiện tính đa dạng muôn vẻ của các quốc gia trong quá trình tồn tại và phát triển. Điều 2 Hiến pháp 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001) “Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với nông dân và tầng lớp trí thức”. Đó là cơ sở pháp lý và cũng là văn bản pháp luật quan trọng nhất để xây dựng đất nước, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội 1
- chủ nghĩa Việt Nam, đồng thời cũng thể chế hoá đường lối của Đảng đề ra trong “cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” và “chiến lược ổn định phát triển kinh tế - xã hội”. Theo đó, Nhà nước pháp quyền Việt Nam là Nhà nước của giai cấp công nhân với nông dân và tầng lớp trí thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Nhà nước pháp quyền Việt Nam là Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, tôn trọng và thực sự bảo vệ quyền con người. Do vậy việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trở thành một nguyên tắc bắt buộc trong hoạt động của Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam để tạo cơ sở thực thi nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, đảm bảo vai trò của nhân dân trong công cuộc xây dựng và quản lí đất nước và là giải pháp cho các vấn đề về tổ chức quyền lực Nhà nước, mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân Xây dựng nhà nước pháp quyền vừa tạo nên thiết chế phục vụ cho công cuộc đổi mới đất nước toàn diện vừa tạo ra các cơ cấu tổ chức, pháp luật phù hợp, cơ chế tuân thủ nghiêm chỉnh pháp luật để đảm bảo cho việc thực hiện đầy đủ các quyền, lợi ích của công dân, tổ chức và xã hội; đảm bảo cho các cơ quan nhà nước trở về với xã hội công dân, chấm dứt tình trạng Nhà nước đứng trên xã hội. Như vậy, việc xây dựng và từng bước hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đã trở thành nhiệm vụ cấp thiết của công cuộc đổi mới toàn diện đất nước nói chung cũng như đổi mới hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa nói riêng. Tuy nhiên cho đến nay, vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam vẫn là một vấn đề có ộn i dung lớn, đòi hỏi phải có sự nghiên cứu toàn diện cả về lý luận và thực tiễn. Chính vì vậy, tôi đã mạnh dạn chọn đề tài “Một số vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước pháp quyền và thực tiễn xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay” nhằm góp phần vào quá trình nghiên cứu về nhà nước pháp quyền hiện nay ở nước ta. Nghiên cứu vấn đề này trong thời điểm hiện nay không chỉ có ý nghĩavề mặt lý luận 2
- mà còn có ý nghĩa lớn lao trong thực tế để xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Vấn đề nhà nước nói chung và nhà nước pháp quyền nói riêng luôn được các học giả trong và ngoài nước đặc biệt quan tâm nghiên cứu. Nhà nước pháp quyền là một vấn đề không hề mới trong nhiều nghiên cứu khoa học bởi tính cấp thiết của nó trong việc đáp ứng nhu cầu cả về lý luận và thực tiễn đối với các lĩnh vực quan trọng trong đời sống như luật học, chính trị học thu hút sự quan tâm của đông đảo các nhà nghiên cứu trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Tôi xin phép được điểm qua một số các công trình ở các mảng nghiên cứu sau: Thứ nhất, các công trình nghiên cứu về vấn đề lý luận cơ bản về khái niệm nhà nước pháp quyền Ở mảng nghiên cứu này, có thể kể đến các công trình: Tư tưởng pháp trị của pháp gia với sự nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam của nhóm tác giả Doãn Chính, Nguyễn Văn Trịnh; bài viết Tư tưởng đề cao pháp luật trong quản lý xã hội theo học thuyết pháp trị 3 của Hàn Phi Tử của Đỗ Đức Minh; Công trình triết học pháp quyền của Lão Tử của Bùi Ngọc Sơn Đây là những công trình đi sâu nghiên cứu những tư tưởng về nhà nước pháp quyền ở phương Đông, thông qua một số tư tưởng của các nhà triết học Trung Quốc thời cổ, trung đại từ đó chỉ ra ý nghĩa, giá trị của những tư tương này trong xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay. Trong công trình Triết học chính trị Montesquieu với việc xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam, ngoài phần giới thiệu về Montesquieu với triết học chính trị phương Tây, tác giả Lê Tuấn Huy đặt ra vấn đề nhà nước pháp quyền, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam và học thuyết phân quyền của Montesquieu. Trong đó, tác giả chú ý đến sự chuyển hóa nhận thức trong tiến trình đổi mới và vấn đề phân quyền xã hội chủ nghĩa. Trong cuốn sách chuyên khảo Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các tác giả đã dùng 3
- một dung lượng tương đối lớn để nghiên cứu quan niệm về nhà nước pháp quyền trong lịch sử tư tương ở cả phương Đông và phương Tây, phân tích sự thay đổi nội hàm của khái niệm nhà nước pháp quyền trong lịch sử để từ đó xác lập nên nội dung chủ yếu của khái niệm nhà nước pháp quyền. Công trình Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân của Trần Hậu Thành cũng phân tích quá trình hình thành và phát triển tư tưởng nhà nước pháp quyền trong tiến trình lịch sử nhân loại, một số quan điểm và thực tiễn tổ chức nhà nước pháp quyền hiện nay trên thế giới, cũng như việc xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Bài viết Khái quát về tư pháp của mốt số nước trên thế giới của Nguyễn Đức Minh thiên về việc điểm qua những tư tưởng nhà nước pháp quyền ở phương Tây trong lịch sử, đặc biệt là quan niệm về quyền tư pháp. Nhìn chung, các nghiên cứu thuộc nhóm này đã khảo cứu lịch sử quan niệm về nhà nước pháp quyền, các tư tưởng chi phối quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền .Các tác giả khẳng định, trải qua quá trình phát triển nhà nước pháp quyền với các mô hình trên thế giới đã thể hiện tính hiệu quả và những giá trị ưu việt mà nhân loại hướng tới. Thứ hai, các công trình nghiên cứu về thực trạng xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Những năm qua, các văn kiện của Đảng và Nhà nước, các bài phát biểu của các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước tại các diễn đàn đã đề cập nhiều đến vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền. Đây là định hướng cơ bản và quan trọng nhằm hoàn thiện nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đây là mảng nghiên cứu nhận được sự quan tâm nghiên cứu đông đảo của giới học thuật Việt Nam. Có thể nêu tên một số công trình tiêu biểu sau: Công trình: Xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn của Nguyễn Văn Niên; sách chuyên khảo Xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân của Nguyễn Trọng Thóc; Nguyễn Thúy Vân, “Nhận thức triết học về nhà nước pháp quyền và sự vận dụng nó 4
- trong thực tiễn xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt nam hiện nay”; công trình Cải cách hành chính và công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Đoàn Trọng Truyến là những công trình nêu ra nội dung lý luận và thực tiễn quan trọng trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Công trình Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân, vì dân – Lý luận và thực tiễn do Nguyễn Duy Quý, Nguyễn Tất Viễn chủ biên khái quát lịch sử hình thành và phát triển của học thuyết nhà nước pháp quyền; chủ nghĩa Mác- Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về nhà nước và nhà nước pháp quyền. Các tác giả nêu khái niệm, những đặc trưng cơ bản và chức năng của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân; thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và các yếu tố quy định, chi phối quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Về cơ bản, phần lớn các vấn đề về nhà nước nói chung và về nhà nước pháp quyền nói riêng đã được các học giả, các nhà nghiên cứu đi trước nghiên cứu rất khoa học và chi tiết, do đó, khóa luận tốt nghiệp xin được tổng hợp các nghiên cứu của các học giả đi trước và đưa ra một số ý kiến mới cho công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay. 3. Mục đích của khóa luận và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích: Nghiên cứu một số vấn đề về nhà nước pháp quyền, từ đó tìm ra những phương hướng để xây dựng và ngày càng hoàn thiện nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Với mục đích đó, nhiệm vụ chính của khóa luận là: Thứ nhất, làm rõ một số nội dung cơ bản về nhà nước pháp quyền. Thứ hai, khái quát về thực trạng xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay; từ đó đưa ra một số giải pháp trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta . 5
- 4. Phương pháp nghiên cứu Khóa luận triển khai dựa trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa duy vật biện chứng và Chủ nghĩa duy vật lịch sử và sử dụng các phương pháp nhận thức cụ thể sau: Phương pháp văn bản học, phương pháp phân tích, tổng hợp, thống nhất lịch sử và logic 5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu: Khóa luận nghiên cứu về một số vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước pháp quyền và thực tiễn xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay. Phạm vi nghiên cứu: Khóa luận chỉ nghiên cứu trong phạm vi các vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước pháp quyền và thực tiễn xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam từ khi đổi mới (năm 1986) cho đến nay. 6. Kết cấu của khóa luận Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tham khảo nội dung của khóa luận gồm có 2 chương, 6 tiết. 6
- NỘI DUNG CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM 1.1. Tư tưởng và học thuyết về nhà nước pháp quyền trong lịch sử nhân loại 1.1.1. Tư tưởng nhà nước pháp quyền thời kì cổ đại Ngay từ thời cổ đại, mầm mống tư tưởng về nhà nước pháp quyền đã xuất hiện ở cả phương Đông và phương Tây Tư tưởng nhà nước pháp quyền ở phương Đông thời kì cổ đại. Trong lịch sử tư tưởng chính trị - pháp luật ở phương Đông thời kì cổ đại đã xuất hiện tư tưởng nhà nước pháp quyền tập trung chủ yếu ở Trung Quốc, được thể hiện trong quan điểm của một số nhà tư tưởng ở thời kì này. Đầu tiên không thể không nhắc đến Mạnh Tử (372 –289 TCN). Mạnh Tử cho rằng, vua vâng mệnh trời để trị dân, nhưng mệnh trời phải hợp với lòng dân, vai trò chủ chốt là của dân và sự phụ thuộc của nhà cầm quyền vào nhân dân. Nhà cầm quyền nếu có đạo đức sẽ cảm hóa được người dân. Giải pháp chính trị của Mạnh Tử có thể gọi là một nhà nước nhân nghĩa. Nền chính trị nhân nghĩa yêu cầu nhà cầm quyền phải coi trọng dân. “Nhà nước cầm quyền phải thực thi điều nghĩa đối với người dân: phải coi dân làm trọng, lấy dân làm gốc, làm cho dân đủ ăn đủ mặc, có đời sống vật chất đầy ủđ sung túc, giáo hóa đạo đức cho dân. Một nhà nước nhân nghĩa đã gợi mở những tư tưởng về một nhà nước do dân và vì dân”[4,101]. Học thuyết thứ hai có thể kể đến trong hệ tự tưởng về nhà nước pháp quyền ở phương Đông thời kì cổ đại đó là học thuyết của Mặc Tử (479- 381TCN). Tư tưởng chính trị của Mặc gia mang tính nhân bản cao, và đã tiềm ẩn những quan điểm về bình đẳng và dân chủ. Kiêm ái có thể hiểu là vì hạnh phúc chung của mọi người. Thuyết kiêm ái muốn hướng tới một trật tự xã hội công bằng, mọi người yêu thương nhau không phân biệt đẳng cấp hay 7
- bất cứ một lí do gì và cùng nhau xây dựng cuộc sống tốt đẹp, và xã hội đó cũng không có những cuộc chiến tranh. Mục đích của chính sách kiêm ái là vì người dân, có ý nghĩa xác định trách nhiệm của nhà nước trong việc phục vụ những lợi ích cho nhân dân. Nhân dân được đặt vào trung tâm của những chính sách của nhà nước. Có thể nói rằng đó chính là những tư tưởng dân chủ sơ khai. Lão Tử (nhiều học giả hiện đại cho rằng ông sống vào thế kỉ IV TCN) nổi tiếng với thuyết vô vi về nhà nước và pháp luật. Những quan điểm của Lão Tử về nhà nước vô vi có một mức độ trừu tượng hóa rất cao, không đơn thuần chỉ là những tư tưởng chính trị - pháp lý đơn thuần mà đã được nâng lên đến tầm triết học. Lý thuyết vô vi của ông thực chất là muốn đặt vấn đề rằng nhà nước và pháp luật phải tôn trọng bản tính tự nhiên của con người, tự do của con người. Đây là một tư tưởng có nhiều nét gần gũi với lý thuyết tự nhiên của triết học phương Tây. Học thuyết pháp lý tự nhiên chủ trương cũng giống như lý thuyết vô vi của Lão Tử rằng các đạo luật do nhà nước ban hành phải phù hợp với sự tự nhiên vốn có của con người, tôn trọng tự do của con người. Lý thuyết vô vi, cũng như lý thuyết pháp lí tự nhiên có ý chống lại sự chuyên chế của nhà nước, nó vạch ra những giới hạn là những sự tự nhiên của con người, tự do của con người mà nhà nước và pháp luật của nhà nước phải tôn trọng, không được vi phạm, và chỉ có những tác động phù hợp. Chủ trương xây dựng nhà nước pháp quyền trong lịch sử tư tưởng chính trị - pháp lý phương Tây có nội dung nhằm giới hạn sự lộng quyền của nhà nước, sự can thiệp quá mức của quyền lực công vào khu vực tư nhân. Nhà nước pháp quyền được chỉ ra nhiều dấu hiệu đặc trưng. Nhưng suy cho cùng, thì những dấu hiệu đặc trưng của nhà nước pháp quyền đều hướng đến mục đích hạn chế sự lạm quyền của nhà nước, chống lại sự can thiệp quá mức của quyền lực nhà nước và xã hội dân sự, bảo vệ các quyền tự do, dân chủ của con người. Nhà nước pháp quyền là một nhà nước thừa nhận và có nghĩa vụ bảo đảm tự do của con người, không được can thiệp vào đời sống cá nhân của con người. Tư tưởng này rất gần với tư tưởng vô vi của Lão Tử. Lý thuyết vô 8
- vi của Lão Tử có sự gặp gỡ với học thuyết nhà nước pháp quyền. Nếu như có tư tưởng về nhà nước pháp quyền ở phương Đông thì có lẽ đầu tiên phải kể đến tư tưởng của Lão Tử [4, 144 -145]. Đối lập với thuyết đức trị của Khổng Tử là thuyết pháp trị của các học giả phái pháp gia, sản sinh cùng thời với đạo Khổng Tử do Quản Trọng, Tử Sản, Thương Ưởng, Thân Bất Hại, Thận Đáo đề xướng. Sau này Hàn Phi Tử phát triển và hoàn chỉnh. Nội dung cơ bản và quan điểm cai trị của phái này là: pháp trị là phương pháp duy nhất dùng để cai trị. Vì vậy, học thuyết này không thừa nhận Nho giáo. Theo thuyết pháp trị thì Vua trị nước phải có ba yếu tố: pháp, thế, thuật. Nghĩa là: pháp luật, mệnh lệnh, chiếu chỉ của Vua là khuôn mẫu của thiên hạ; nhằm trừng trị, răn đe, dân phải sợ, phải tuân thủ. Vua phải có thế, phải tạo ra uy quyền tuyệt đối của mình. Vua phải có thuật dùng người và chế độ thưởng phạt. Một khi Vua đã có đủ ba yếu tố pháp, thế, thuật thì vua phải chuyên quyền, độc đoán, thẳng tay dùng nghiêm hình phạt để cai trị. Quản Trọng và Tử Sản chủ trương dùng pháp luật làm công cụ cơ bản để cai trị đất nước và đề ra nguyên tắc “pháp bất vị thân”[19, 25], bất cứ ai đều phải tuân thủ pháp luật. Pháp luật ban ra phải cẩn trọng và ít thay đổi, pháp luật của Vua phải rành mạch về luật - hình - chính. Đây là luận điểm của phái pháp trị chống lại phái đức trị là phái chủ trương “hình phạt chỉ dành cho hạng thứ dân mà bậc trương phu không phải chịu hình phạt”[1,17]. Đến Hàn Phi Tử (280 -233TCN) là người phát triển tư tưởng pháp trị lên đỉnh cao, nội dung chủ yếu của tư tưởng này là lấy pháp luật thay cho lễ làm công cụ trị nước, an dân. Theo Hàn Phi Tử, hình phạt không trừ bậc đại phu “pháp luật không thể a dua người sang cũng như dây mực không thể uốn theo gỗ cong (cho nên) trị tội thì không chừa các quan lớn, thưởng công thì không bỏ sót dân thường”[4, 165]. Mô hình pháp luật Trung Quốc đã ảnh hưởng lớn đến các quốc gia phương Đông thời cổ đại, trung đại, cận đại và cả đến ngày nay. Tóm lại, tư tưởng về nhà nước ở phương Đông thời kì cổ đại do có các quan điểm khác nhau, cách đánh giá xã hội khác nhau, chính vì vậy mà có nhiều luận giải khác nhau. Nếu Nho gia chủ trương dùng Nhân trị hay “Đức 9
- trị” để lấy “nhân nghĩa làm gốc” để cải tạo xã hội, để xoá bỏ tình trạng loạn lạc; Mặc gia lấy “Kiên ái”, “Thượng đồng”, “Thượng hiền” để xoả bỏ tình trạng đó; Đạo gia thì lại chủ trương “Vô vi nhi trị”, “thuận theo tự nhiên”, Còn riêng đối với pháp gia, để trị nước họ đã dùng các căn cứ, thực tiễn lịch sử xã hội và những tiền đề lý luận của mình và có chủ trương dùng pháp luật của Nhà nước làm công cụ quan trọng để thúc đẩy sự phát triển của đời sống xã hội và củng cố, cải tạo trật tự xã hội phong kiến Trung Hoa lúc bấy giờ. Có thể nói, những tư tưởng này có để lại những giá trị nhất định về vấn đề xây dựng nhà nước ở Trung Hoa lúc bấy giờ và các nước phong kiến chịu ảnh hưởng bởi văn hóa Trung Hoa, song, phần lớn những tư tưởng trên vẫn có những hạn chế về thời đại, về văn hóa. Tư tưởng nhà nước pháp quyền ở phương Tây thời kì cổ đại Arixtot (384 - 322 TCN) - nhà tư tưởng vĩ đại nhất của thời cổ đại cho rằng pháp luật cần thống trị trên tất cả. Theo ông thì yếu tố cấu thành cơ bản của phẩm chất chính trị trong luật pháp là sự phù hợp của tính đúng đắn về chính trị của nó với tính pháp quyền; không thể có pháp luật nếu như việc cầm quyền không tuân theo pháp luật, chà đạp lên pháp luật, mưu toan thống trị bằng bạo lực. Pôlybi (Polybe, 201-120 tr. CN) là người La Mã đầu tiên nêu lên những tư tưởng quan trọng về Nhà nước pháp quyền. Theo ông, ''không phải lý trí mà kinh nghiệm đã dạy chúng ta rằng hình thức chính phủ hoàn hảo nhất là hình thức được tạo nên từ ba chính thể quân chủ, quý tộc và cộng hoà". Trong đó cơ quan chấp chính tối cao thuộc về vua, nguyên lão viện (nghị viện) thuộc về quý tộc và các cơ quan dân biểu (hội đồng) thuộc về nhân dân (chủ nô). Phân bố và giám sát quyền lực hợp lý, chặt chẽ là hai yếu tố cơ bản bảo đảm một Nhà nước vững mạnh và phát triển quốc gia La Mã thành một đế quốc hùng mạnh. Xixêrôn (Ceceron, 106 - 43 TCN) cho rằng, Nhà nước là ''một cộng đồng pháp lý''. Nhà nước là của chung nhân dân và là trật tự chung. Nhà nước 10
- chỉ có ở nơi nào không có bạo lực và chuyên quyền. Sự cần thiết của Nhà nước bắt nguồn từ bản chất trốn chạy sự cô đơn và khao khát đời sống cộng đồng của con người. Công bằng là mệnh lệnh từ lý trí của con người mà Nhà nước phải tuân theo. Pháp luật là ''lẽ phải chính trực phù hợp với bản chất có trong tất cả mọi sinh vật''. Pháp luật là công pháp giữ vai trò điều chỉnh các mối quan hệ xã hội. ''Phục tùng pháp luật là bắt buộc đối với tất cả mọi người”. Xixêrôn đã xác định được pháp quyền tự nhiên, nhưng pháp quyền đó chưa tìm thấy điểm tựa trong hiện thực. Như vậy có thể thấy, ngay từ thời cổ đại đã có những tư tưởng đề cao vấn đề dân chủ như một hình thức Nhà nước. Theo đó, Nhà nước chỉ là sự thể hiện quyền lợi chung của công dân và lấy việc phục vụ con người cá nhân và xã hội làm mục đích. ý tưởng về sự kết hợp giữa Nhà nước và pháp luật là cách tốt nhất để khách quan hoá Nhà nước, hạn chế ý muốn chủ quan của nhà cầm quyền. Nhà nước tuân theo pháp luật là tuân theo ý chí chung của xã hội. Xuất hiện yêu cầu về Nhà nước pháp quyền nhằm bảo đảm sự phát triển của kinh tế - xã hội, vừa bảo đảm sự tồn tại của bản thân Nhà nước. Bên cạnh đó, quyền lực Nhà nước dù của vua, của quý tộc hay của dân đều thông qua các cá nhân cầm quyền và có xu hướng bị lạm dụng. Quyền lực Nhà nước luôn luôn cũng có xu hướng bành trướng và hạn chế quyền tự do của con người. Để khắc phục tình trạng này cần phân biệt quyền lực Nhà nước thành các quyền khác nhau theo chức năng, nhiệm vụ của nó. Cùng với tư tưởng quản lý xã hội bằng pháp luật, tư tưởng phân chia, kiểm soát quyền lực trong một Nhà nước đã bắt đầu có những mầm mống xuất hiện. Socrates, Platon, Democritus, Arixtot, Polibius và Ciciro là những người đã đưa ra quan niệm về sự liên hệ tương tác giữa pháp luật và quyền lực nhà nước và về nhà nước như một tổ chức thực hiện hoạt động của mình trên cơ sở luật. Theo họ, quyền lực nhà nước được xem là công bằng, khi nó thừa nhận luật pháp và đồng thời bị hạn chế bởi luật pháp. Socrates, Polibius và Ciciro thì đưa ra các luận điểm về vị thế quyền lực của luật như là sự kết 11
- hợp giữa sức mạnh và luật pháp, về việc phân biệt giữa các hình thức cẩm quyền đúng đắn và không đúng đắn. Democritus và các nhà ngụy biện thì đưa ra các luận điểm về vai trò của luật pháp trong các loại hình nhà nước, về môì quan hệ giữa các quyền tự nhiên và quyền do ý chí xác lập. Một số nhà ngụy biện đưa ra tư tưởng khởi đầu vềs ự bình đẳng của các cá nhân, về quyền tự nhiên. Đặc biệt, Polybius (200-118 TCN), một sử gia Hy Lạp cổ đại đã đưa ra tư tường phân quyền mà sau này được Montesquieu kế thừa trong tác phẩm “Tinh thần pháp luật“. Ciciro (106 TCN – 43 TCN), một nhà tư tưởng chính trị nổi tiếng trong thời kỳ La Mã cổ đại, coi nhà nước là “công việc của nhân dân”, như là sự liên kết về mặt luật và như là “trật tự luật pháp chung”. Tư tưởng nhà nước pháp quyền trong thời kỳ Hy Lạp, La Mã cổ đại có ảnh hưởng quan trọng đến sự hình thành và phát triển các quan niệmvề nhà nước pháp quyền sau này. 1.1.2. Tư tưởng nhà nước pháp quyền thời kì trung cổ và thời kì Phục hưng Trong suốt hơn một nghìn năm thời kỳ Trung cổ ở Tây Âu, mô hình nhà nước thần quyền ngự trị trong đó có sự thống trị công khai, toàn bộ của thần học và học thuyết nhà thờ. Trong bổi cảnh đó, chưa xuất hiện lý thuyết chính trị tự do có khả năng phản ánh một cách rõ ràng sự xung đột giữa cá nhân và nhà nước. Tuy nhiên, ngay trong lòng xã hội phong kiến, đã xuất hiện những lực lượng mới đề cao quốc gia có chủ quyền và quyền tự trị của cá nhân, gắn liền với sự hình thành đạo Tin lành và các tư tưởng nhân văn của thời kỳ Phục hưng. Trong thời kỳ Phục hưng ở Tây Âu, khi chủ nghĩa tư bản đang được hình thành để thay thế cho chế độ phong kiến đang dần suy tàn, xuất hiện các tư tưởng và quan niệm mới hướng đến việc xây dựng lý thuyết về nhà nước pháp quyền, được khởi xướng bởi các nhà tư tưởng chính trị tiên phong đại diện cho thế giới quan của giai cấp tư sản thời kỳ đó như N. B. Machiavelli ở Ý, Lev Sapega ở Lithuania và Jean Bodin ở Pháp. 12
- Trên cơ sở khái quát các kinh nghiệm hình thành và phát triển của các nhà nước qua nhiều thế kỷ, cố gắng lý giải nguyên tắc của chính trị, N.B.Machiavelli (1469-1527) xem xét nhà nước trong mối quan hệ giữa chính phủ và thần dân dựa vào nỗi sợ hãi và tình yêu của các thần dân. Nhà nước trở nên vững chắc, khi chính phủ không tạo ra lý do đưa đến sự phẫn uất và các âm mưu lật đổ, khi nỗi sợ hãi của các thần dân không chuyển thành lòng hận thù, và khi tình yêu không chuyển thành sự khinh bỉ. Là người đầu tiên chú ý đến vai trò của vĩ nhân trong lịch sử, Machiavelli đề cao năng lực thực tế của chính phủ trong việc điều khiển các thần dân. Trong tác phẩm nổi tiêng “Quân vương” (hoàn thành năm 1513 và xuất bản năm 1532), Machiavelli đã hệ thống hóa các tri thức về nhà nước và quản lý nhà nước, đưa ra các nguyên tắc giành quyền lực và duy trì chế độ quân chủ và nền cộng hòa[11]. Cơ sở cho sự bền vững của nhà nước, theo ông, là việc bảo đảm an toàn cho cá nhân và tính bất di bất dịch của sở hữu tư nhân. Ông cho rằng, điều nguy hiểm nhất đối với nhà cầm quyền là động chạm đến tài sản của các thần dân, bởi vì đây là yếu tố đưa đến sự hận thù. Kế thừa tư. tưởng của Polybius về sự xuất hiện của nhà nước và vòng tuần hoàn của các hình thức cai trị, Machiavelli ủng hộ hình thức nhà nước hỗn hợp (giữa chế độ quân chủ, chế độ quý tộc và chế độ dân chủ). Tuy vậy, ông vẫn coi nền chế độ quân chủ tuyệt đối là hình thức quản lý tốt nhất. Trong các hình thức nhà nước, Machiavelli đề cao nền cộng hòa, vì nền cộng hòa có khả năng tốt nhất trong việc thực hiện quyền tự do và bình đẳng của công dân.Với việc tách chính trị khỏi thần học, đưa ra cách giải thích duy lý về nhà nước và pháp quyền, và chủ trương gắn nhà nước và pháp quyền với các lợi ích của các thần dân, quan niệm của Machiavelli về nhà nước đã có ảnh hường đáng kể đến các quan niệm sau này. Trong khi đó, các nguyên tắc của nhà nước pháp quyền như phân chia quyền lực hay ưu thế của luật có thể thấy rất sớm ở Quy chế của Lithuania năm 1529, một trong những bộ luật được hệ thống hóa đầu tiên ở châu Âu được Lev Sapega (1557-1633), một nhà tư tưởng chính trị Lithuania soạn 13
- thảo. Theo Sapega, không phải con người, mà các luật thống trị trong quốc gia. Trong quy chế này, ông chia quyền lực nhà nước thành quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp. Quyền lập pháp thuộc nghị viện, quyết hành pháp thuộc quốc vương hay quận vương, quyền tư pháp thuộc các tòa án trung ương và các địa phương. Trong tác phẩm “Sáu cuốn sách về nhà nước” xuất bản năm 1586, Jean Bodin (1530-1596) cho rằng, nhà nước là sự quản lý về mặt pháp luật được thực hiện bởi quyền lực tối cao đối với tập hợp các hộ gia đình và đối với các tài sản chung. Theo ông, quyền lực tự chủ của nhà nước là quyền lực thường xuyên và tuyệt đối, không bị hạn chế bởi bất cứ điều kiện nào. Chủ thể của quyền lực đó có thể chuyển nó cho người khác. Quyển lực tự chủ của nhà nước có tính thống nhất, tức là nó không thể bị phân chia, không thể đồng thời thuộc về quốc vương, tầng lớp quý tộc và dân chúng. Bodin chống lại quan niệm về hình thức nhà nước hỗn hợp được đưa ra bởi Polybius, Ciciro, và Machiavelli. Đưa ra ba kiểu nhà nước: dân chủ, quý tộc và quân chủ, Bodin cho rằng hạn chế chung của nhà nước dân chủ và nhà nước quý tộc là ở chỗ trong các kiểu nhà nước này, các phiếu bầu được kiểm, nhưng không được cân theo trọng lượng của phẩm hạnh. Theo Bodin, chế độ quân chủ là kiểu nhà nước tốt nhất có thể giúp khắc phục cuộc khủng hoảng về chính trị và tôn giáo, vì chế độ đó phù hợp với bản chất của quyền lực tự chủ, vói tính thống nhất và tính không thể bị phân chia của quyền lực đó. Ông chỉ ra ba hạn chế có thể đối với quyền lực tuyệt đối, liên quan đến: (1) các luật do Thượng Đế xác lập; (2) Các quy luật do giới tự nhiên xác lập và (3) các luật của con người, được xác lập bởi quyền lực tự chủ, bởi thỏa thuận chung và bởi các dân tộc [11] . Theo Bodin, mục đích của nhà nước không phải là mang đến hạnh phúc cho con người, mà là đảm bảo hòa bình bên trong, công bằng và sự hài hòa xã hội, đặc biệt là bảo vệ khỏi kẻ thù bên ngoài. Kế thừa tư tưởng của Machiavelli, Bodin cho rằng, nguyên nhân của các xung đột xã hội là do sự 14
- phân chia tài sản không đều, do cuộc đấu tranh của các đảng phái và do sự thiêu kiên nhẫn về tôn giáo. 1.1.3.Tư tưởng nhà nước pháp quyền thời kì cận – hiện đại Trong thời kỳ cận đại thế kỷ XVII – XVIII, xuất hiện một loạt quan niệm có tính cách mạng của các nhà Khai sáng Tây Âu về nhà nước pháp quyển Hugo Grotius (1583-1645) và Benedictus de Spinoza (1583-1645) ở Hà Lan, Thomas Hobbes (1588 -1679), John Locke (1632-1704) ở Anh, B. Montesquieu (1588-1679), Denis Diderot (1713-1784), Jean Jacques Rousseau (1712-1778) ở Pháp, Thomas Jefferson (1743-1826) ở Mỹ, v.v Đây là các quan niệm nền tảng cho các cuộc cách mạng tư sản ở các nước phương Tây. Được coi là nhà lý luận đầu tiên của trường phái về quyền tự nhiên, xem thể chế pháp luật phong kiến là trái với bản chất con người, Hugo Grotius (1583-1645) đòi hỏi thể chế pháp quyền mới phải đáp ứng được các quy luật của lý tính. Theo ông, mục đích của nhà nước là duy trì sở hữu tư nhân thông qua các quy định của pháp luật nhằm đảm bảo cho mỗi người quyền sử dụng các tài sản của mình phù hợp với tất cả mọi người. Grotius coi khế ước xã hội là nguồn gốc của bất kỳ hình thức nhà nước nào, vì khi xây dựng nhà nước, nhân dân có thể lựa chọn một hình thức nhà nước nào đó, nhưng một khi đã chọn, nhân dân không thể không tuân thủ các nhà cầm quyền. Mặc dù là người bảo vệ chế độ quân chủ tuyệt đối ở Anh, phát triển quan niệm về nhà nước pháp quyền, Thomas Hobbes (1588 -1679) đã đưa ra những luận điểm tiến bộ về sự thông trị của pháp quyền trong đời sống xã hội, trong đó có luận điểm về bình đẳng hình thức trước pháp luật và luận điểm về tính bất di bất dịch của các khế ước. Đặc biệt, theo Hobbes, quyền tự ảo của con người là quyền làm tất cả những gì mà luật không cấm [11]. Với luận điểm này, Hobbes đã đóng góp vào việc hoàn thành cơ sở lý luận cho một nguyên tắc điều tiết về mặt pháp quyền các mối quan hệ xã hội. 15
- Chia sẻ quan niệm của Hobbes, John Locke (1632-1704) đã đưa ra tư tưởng về sự thống trị của pháp quyền, theo đó luật pháp được coi là có tính tối thượng, một khi nó phù hợp với các quyền tự nhiên, thừa nhận các quyền tự nhiên và các quyền tự do của cá nhân. Các quyền tự nhiên của con người được Locke luận chứng, bao gồm quyền sống, quyền tự do và quyền sở hữu. Chúng được coi như những nguyên tắc cơ bản. Nhiệm vụ của nhà nước là ở chỗ bảo vệ các nguyên tắc này. Còn quyền tự do cá nhân của con người được Locke xem là quyền tự do theo đuổi mong muốn của mình mà luật không cấm và không phụ thuộc vào ý chí độc đoán thường xuyên nào đó của người khác. Mặt khác, John Locke đã đặt cơ sở cho học thuyết về phân chia quyền lực. Để loại bỏ các khả năng lạm dụng quyền lực, theo ông, quyền lực nhà nước phải được phân chia thành một số quyền lực độc lập và việc tập trung toàn bộ quyền lực vào tay một số người là không được phép. Một nhà nước dựa vào sự thống trị của pháp quyền như vậy, là hoàn toàn đối lập với chế độ chuyên chế. Theo đánh giá của Marx, John Locke là người thể hiện kinh điển các quan niệm pháp quyền của xã hội tư bản đối lập với xã hội phong kiến [11]. Liên quan đến đóng góp cho lịch sử tư tưởng phương Tây về nhà nước pháp quyền, phải kể đến tên tuổi của nhà triết học Hà Lan B.Spinoza (1632- 1677), một trong những người đầu tiên đưa ra luận chứng về nhà nước dân chủ. Ông cho rằng, bị ràng buộc bởi các đạo luật, nhà nước phải đảm bảo các quyền và tự do thực tế của con người. Theo ông, nhà nước chỉ hùng mạnh, khi nhà nước đảm bảo việc duy trì cuộc sống và việc thỏa mãn các lợi ích của mỗi công dân, và khi những người cầm quyền không xâm phạm đến sở hữu, an ninh, danh dự, tự do và các lợi ích khác của các thần dân. Các tư tưởng về nhà nước pháp quyền đạt được bước ngoặt đặc biệt ở các nhà Khai sáng Pháp, đặc biệt là B. Montesquieu, Denis Diderot, Jean Jacques Rousseau. B. Montesquieu (1588-1679) có thể coi là một trong những nhà tư tưởng vĩ đại nhất trong lịch sử các học thuyết về nhà nước pháp quyền. Công 16
- lao của Montesquieu trước hết là ở chỗ đã hệ thống hóa các quan niệm mới về phân chia quyền lực. Ông cho rằng, để ngăn ngừa nguy cơ lạm dụng quyền lực, cần phải phân chia các quyền lực nhà nước trong mỗi quốc gia thành ba loại: quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp, rằng các quyền lực này có thể kìm chế lẫn nhau. Theo ông, chính sự phân chia quyền lực, sự kiềm chế và đối trọng lẫn nhau của ba loại quyền lực này là điều kiện cơ bản cho việc đảm bảo các quyền và tự do chính trị của công dân trong mối quan hệ với bộ máy nhà nước. Sự phân chia quyền lực được ông coi là nguyên tắc pháp quyền mà bản chất của nó là không cho phép tập trung toàn bộ quyền lực nhà nước vào một trong ba loại quyền lực: quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp nhằm ngăn ngừa sự lạm quyền [11]. Sau này, nguyên tắc này được xem là dâu hiệu quan trọng của một nhà nước dân chủ. Quan niệm “tam quyền -phân lập” này của Montesquieu có ảnh hưởng rõ nét không chỉ đến các lý thuyết sau này về chế độ nhà nước pháp quyền, mà còn đến quá trình lập hiến và thực tiễn xây dựng nhà nước pháp quyền ở các nước phương Tây cho đến ngày nay. Montesquieu đã được coi là người sáng lập của quan niệm phân quyền, mặc dù trước ông, những tư tưởng như vậy đã được J. Locke ở Anh, và xa hơn nữa Polybius ở La Mã cổ đại đưa ra. Denis Diderot (1713-1784) là một nhà tư tưởng Khai sáng Pháp đưa ra những tư tưởng quan trọng về nhà nước pháp quyền. Ông cho rằng, quyền lực nhà nước là sản phẩm của khế ước xã hội. Để bảo đảm các quyền lợi và sự thông nhất ý chí và sức mạnh của tất cả mọi người, các cá nhân chuyển giao cho nhà nước phần nào sự phụ thuộc tự nhiên của mình. Như vậy, quyền lực nhà nước phải dựa trên ý chí của nhân dân với tính cách là người có chủ quyền. Ông viết: “Chỉ dân tộc mới là người có chủ chân chính; chi có nhân dân mới là người lập pháp chân chính, chỉ có ý chí của nhân dân mới là nguồn gốc của quyền lực chính trị” [11]. Theo quan điểm của Diderot, mục đích chủ yêu của nhà nước là ở chỗ đảm bảo những quyền không thể tách rời và hạnh 17
- phúc của các công dân. Tư tưởng này sau đó được I. Kant phát triển trong quan niệm của ông về nhà nước pháp quyền. Jean Jacques Rousseau (1712-1778) đã phát triển tư tưởng về nhà nước pháp quyền trên co sở kế thừa những nhà tư tưởng trước đó theo cách riêng của mình. Quan niệm của Rousseau về nhà nước pháp quyển Rousseau đã dựa vào các quan niệm về quyền tự nhiên của con người, về quyền tự do và bình đẳng, về nguồn gốc của sự bất bình đẳng, đặc biệt là về khế ước xã hội, về ý chí chung và về quyền lực tối cao. Theo Rousseau, con người, tạo hóa sinh ra có quyền tự do và bình đẳng, và những quyền đó về thực chất, trong bản chất con người là không thể tách rời, không thể chuyển nhượng [11]. Ông coi tự do và bình đẳng là hai mục tiêu cao nhất của các hệ thống lập pháp, hoàn toàn phù hợp với quyền tự nhiên bẩm sinh của con người. Theo ông, với tính cách là hiện thân của ý chí chung của toàn thể nhân dân, khế ước xã hội là một trong những giải pháp hữu hiệu để khắc phục tình trạng bất bình đẳng trong xã hội. Rousseau luôn đặt quyền lực nhân dân với tính cách là quyền lực tối cao ở vị trí cao nhất, chi phối các quyền lực khác. Theo Rousseau, quyền lực tối cao là thống nhất và không thể phân chia được. Tuy nhiên, để quyền lực tối cao có thể được thực thi một cách hữu hiệu và thống nhất, cần được phân định thông qua ba bộ phận hợp thành và không thể tách rời của nó. Đó là quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp. Rousseau viết: “Nhà lập pháp là kỹ sư sáng chế ra máy; ông vua chỉ là người thợ dựng máy lên và vận hành máy Người lập pháp quyết không phải là một vị pháp quan hay một quốc vương” [11]. Đề cập đến khả năng lạm dụng quyền lực, Rousseau cho rằng, chính phủ cũng thường hay có xu hướng làm trái với quyền lực tối cao và ý chí chung của toàn thể dân chúng, không chịu cai trị theo pháp luật, thậm chỉ lấn át cơ quan quyền lực tối cao. Theo ông, để tránh nguy cơ này, tất yếu phải có sự phân định rạch ròi giữa các quyền lực chính trị trong một quốc gia: quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp như những quyền lực độc lập không 18
- thể để trong tay một người, một tổ chức. Tư tưởng này của Rousseau sau này được áp dụng trong việc xây dựng mô hình nhà nước pháp quyền và được phổ biến một cách hiệu quả trong thực tiễn chính trị ở nhiều nước phương Tây chống lại các nguy cơ độc tài về chính trị và tham nhũng về kinh tế. Kế thừa các quan niệm của các nhà tư tưởng Khai sáng Anh và Pháp, Immanuel Kant (1724-1804) đã đưa ra luận chứng triết học cho lý luận về nhà nước pháp quyền. Đặt con người, cá nhân và quyền tự do ở vị trí trung tâm của nhà nước, Kant cho rằng, nguyên tắc quan trọng nhất của pháp quyền là ở chỗ nhân dân có đặc quyền đòi sự tham gia của mình vào việc xác lập trật tự pháp luật bằng quyền phúc quyết, thông qua hiến pháp thể hiện ý chí của mình [11]. Theo ông, quyền tối thượng của nhân dân xác định quyền tự do, quyền bình đẳng và quyền độc lập của tất cả các công dân trong quốc gia với tính cách là sự liên kết của tập hợp các cá nhắn tuân thủ các bộ luật của pháp quyền. Đây là luận điểm thể hiện đóng góp của Kant cho việc phát triển học thuyết về nhà nước pháp quyền. Nhà nưóc pháp quyền, theo Kant, chỉ có ở nơi mà bộ máy nhà nước được vận hành trên cơ sở quyền hiến định, phù hợp với ý chí chung của nhân dân, nơi mà không có việc hạn chế các quyền công dân như quyền tự do cá nhân, tự do tín ngưỡng, tự do tư tưởng, tự do hoạt động kinh tế. Theo quan niệm của Kant, công dân trong nhà nước pháp quyền phải có khả năng buộc những người cầm quyển phải thực thi luật một cách chính xác. Cũng như Locke và các nhà tư tưởng Khai sáng Pháp, Kant gắn cơ cấu pháp quyển với việc phân chia quyền lực thành quyền lập pháp thuộc nghị viện, quyền hành pháp thuộc chính phủ và quyền tư pháp được thực thi qua xét xử của các hội thẩm được nhân dân bầu ra. Theo Kant, cách thực tổ chức quyền lực như vậy cần bảo đảm không chỉ sự phân chia quyền lực, mà còn sự cân bằng quyền lực. Có thể nói, quan niệm của I. Kant về nhà nước pháp quyền có ảnh hưởng đáng kể đến sự phất triển của tư tưởng chính trị – pháp quyền và thực tiễn xây dựng nhà nước pháp quyền ở nhiều nước phương Tây. 19
- Ở George VVilhelm Friedrich Hegel (1770-1831) có thể thấy rõ ảnh hưởng của quan niệm Kant về nhà nước pháp quyền. Hegel coi nhà nước cũng chính là pháp quyền, bởi vì nhà nước thừa nhận “tất cả các quyển còn lại của cá nhân, gia đình và xã hội” [12,185]. Đề cao nhà nước thành cái tuyệt đối vượt lên trên cá nhân và xã hội, Hegel cho rằng, nhà nước đó có trước xã hội công dẫn, là tổ chức hoàn thiện nhất của đời sống xã hội, trong đó tất cả đều được xây dựng trên cơ sở luật. Coi đây là hạn chế chủ yếu của quan niệm của Hegel về nhà nước, Karl Marx cho rằng, xã hội là có trước nhà nước, rằng nhà nước chi là sản phẩm và kết quả của sự phát triển xã hội. Mặt tích cực của quan niệm của Hegel về nhà nước là ở chỗ chống lại tình trạng tùy tiện vô luật trong việc sử dụng bạo lực dưới mọi hình thức từ phía các cá nhân, các phe phái chính trị và quyền lực nhà nước, và ở chỗ cho rằng, chức năng trấn áp và bạo lực của nhà nước là không phải là quan trọng. Mô hình hiện thực về nhà nước pháp quyền được áp dụng phổ biến ở nhiều quốc gia phương Tây hiện nay là thành quả vĩ đại, là sự kết tinh các giá trị mang tính phổ quát mà nhân loại đã chắt lọc được từ thực tiễn lịch sử xây dựng các thể chế nhà nước qua hàng ngàn năm và từ các quan niệm về nhà nước pháp quyền trong lịch sử tư tưởng phương Tây kể từ thời kỳ cổ đại đến nay. 1.2. Khái niệm và đặc trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền 1.2.1. Khái niệm Trong những thập kỷ gần đây, nhà nước pháp quyền là một trong các chủ đề thu hút được sự quan tâm nghiên cứu của các ngành khoa học khác nhau như triết học, chính trị học, luật học, sử học, xã hội học, hành chính công, v.v Đối với nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam, nhà nước pháp quyền được xem vừa là một cứu cánh, vừa là một mô hình nhà nước hữu hiệu nhất, dân chủ nhất và phù hợp nhất trong thời đại hiện nay như một phương tiện có khả năng khắc phục hoặc hạn chế tình trạng bất bình đẳng xã hội, bất công xã hội, tình trạng tham nhũng lãng phí, tình trạng lạm quyền lực của các cơ quan quyền lực nhà nước như quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền 20
- tư pháp, đặc biệt tình trạng chính phủ lạm quyền hoặc cướp quyền để mưu đồ cho lợi ích nhóm và lợi ích cá nhân. Ở các quốc gia này, xây dựng nhà nước pháp quyền với tính cách là một nhà nước đảm bảo tốt nhất các quyền và tự do con người, là một nhiệm vụ khó khăn, một sứ mạng lớn lao hướng đến một xã hội phồn vinh, dân chủ, công bằng và văn minh, thể hiện tính nhân văn cao cả của nhân loại trong thế giới hội nhập toàn cầu. Khái niệm “nhà nước pháp quyền” trong tiếng Việt, “Rule of law”, “state of law” trong tiếng Anh lần đầu tiên được đưa ra vào năm 1797 bởi nhà triết học Đức Immanuel Kant trong tác phẩm “Siêu hình học đạo đức”, và sau đó được sử dụng và phổ biến bởi Robert von Mohl trong cuốn sách “Khoa học cảnh sát Đức theo các nguyên lý của nhà nước pháp quyền xuất bản năm 1832. Vậy nhà nước pháp quyền là gì? Có nhiều quan điểm khác nhau, nhưng các quan điểm đó đều thừa nhận tư tưởng cơ bản sau đây: Nhà nước pháp quyền là nhà nước 1) tuyệt đối tuân thủ vào tính tối thượng của pháp luật nhân bản và công bằng, thể hiện ý chí chung, khế ước xã hội và chủ quyền tối cao của toàn thể nhân dân, 2) thực thi các hoạt động của mình trong giới hạn được xác định bởi pháp luật và có trách nhiệm bảo vệ các quyền con người cho các công dân của mình. Tính tối thượng của pháp luật được hiểu là: không một tổ chức xã hội hay cá nhân nào được đứng trên pháp luật, hay ngoài pháp luật, được miễn trừ việc tuân thủ và thực thi luật. Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật. Nguyên tắc cơ bản của nhà nước pháp quyền là 1) có sự phân chia rạch ròi, kiểm soát quyền lực giữa quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp; 2) Có quyền tư pháp hoàn toàn độc lập. Tuy nhiên, quan niệm về nhà nước pháp quyền đã trải qua một quá trình hình thành và phát triển lâu dài trong suốt lịch sử tư tưởng nhân loại từ các tư tưởng ban đầu từ thời cổ đại. Nhà nước pháp quyền là nhà nước tạo ra được các điều kiện đảm bảo đầy đủ nhất các quyền và tự do của con người, là hình thức tối ưu của mối quan hệ tương tác giữa cá nhân, nhà nước và xã hội. Với tính cách là cơ sở 21
- cho các mô hình nhà nước pháp quyền tiên tiến trên thế giới, các quan niệm hiện nay về nhà nước pháp quyền chủ yếu dựa vào tư tưởng của C. Montesquieu (1689-1755) và I. Kant (1724-1804), đồng thời ở mức độ nào đó còn dựa vào tư tưởng của các triết gia khác thời kỳ cận đại như Hugo Grotius (1583-1645), Baruch Spinoza (1632-1677), John Locke (1632-1704), Denis Didro (1713-1784), Ịean Ịacques Rousseau (1712- 1778), v.v Cho đến nay kể hơn hai thế kỷ qua, những quan niệm ấy đã biên thành lý luận chặt chẽ về nhà nước pháp quyền và được hiện thực hóa ở hàng loạt nước trên thế giới. 1.2.2. Đặc trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền Qua nghiên cứu các quan niệm của các nhà triết học, có thể thấy rằng tư tưởng về nhà nước pháp quyền là một trong những giá trị chung có tính chất phổ biến của nhân loại. Những giá trị phổ biến này thể hiện những đặc trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền và đánh dấu sự phát triển không ngừng trong nhận thức và thực tiễn tổ chức nhà nước nhằm đáp ứng yêu cầu vận động khách quan của xã hội. Bằng việc tổng kết lịch sử về nội dung phạm trù khái niệm nhà nước pháp quyền, có thể chỉ ra một số đặc trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền như sau. Thứ nhất, nhân dân là chủ thể quyền lực trong nhà nước pháp quyền. Thứ hai, nhà nước pháp quyền bảo vệ những quyền tự nhiên, căn bản của con người như quyền được sống, quyền tự do, bình đẳng, quyền mưu cầu hạnh phúc. Thứ ba, pháp luật giữ vị trí tối thượng trong đời sống nhà nước và xã hội. Nhà nước không những hành động theo pháp luật mà còn phải đặt dưới pháp luật. Sự hạn chế quyền lực của nhà nước có thể được đảm bảo theo cách thức tổ chức quyền lực nhà nước thành các cơ quan có năng lưc kiểm soát, hạn chế lẫn nhau. Thứ tư, tổ chức nhà nước theo nguyên tắc phân chia quyền lực, dùng quyền lực để kiểm tra và giám sát quyền lực. Thứ năm, nhà nước pháp quyền kết hợp với xã hội dân sự thành một chỉnh thể thống nhất. 22
- 1.3. Quá trình nhận thức và đặc trưng cơ bản Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam 1.3.1. Quá trình nhận thức về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Trong chủ nghĩa xã hội hiện thực trước đây, chưa có nhà nước nào thể hiện đầy đủ các tiêu chuẩn của một nhà nước pháp quyền. Một trong những nguyên nhân của tình trạng đó chính là do nhận thức không đúng về nhà nước pháp quyền, coi nhà nước pháp quyền là nhà nước của giai cấp tư sản mà không thấy được tính hợp lý và tiến bộ của hệ thống cơ chế, thiết chế tổ chức và vận hành bộ máy của nó. Chúng ta có những sự rút kinh nghiệm, kế thừa và phát huy từ quan niệm nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa tiêu biểu là tư tưởng ở Liên Xô và Trung Quốc. Cũng như nhiều nước xã hội chủ nghĩa khác, việc nhận thức về nhà nước pháp quyền ở Liên Xô cũng bắt đầu khá muộn. Cho tới những năm 70 – 80 của thế kỷ XX, “sự hiểu biết có tính lý luận về quan hệ giữa chủ nghĩa xã hội và quan niệm về nhà nước pháp quyền còn là một vấn đề mới của nền khoa học” [28, 10]. Những thông tin đầu tiên về quan điểm xây dựng nhà nước pháp quyền được Đảng Cộng sản Liên Xô công bố tại Hội nghị toàn liên bang lần thứ XIX (họp từ 28-6 đến 1-7-1988), trong đó nêu rõ quan niệm nhà nước pháp quyền gắn bó chặt chẽ với việc mở rộng tự do dân chủ. Tuy nhiên,việc xây dựng nhà nước pháp quyền để thay thế cho chế độ quan liêu mệnh lệnh được triển khai ở Liên Xô một cách nóng vội, chủ quan, duy ý chí đã đẩy xã hội vào cuộc khủng hoảng trầm trọng không thể cứu vãn được vào cuối những năm 80 – đầu những năm 90 của thế kỷ trước. Thất bại của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu cho thấy tầm quan trọng to lớn của việc nghiên cứu, vận dụng những yếu tố hợp lý và tiến bộ của nhà nước pháp quyền vào quá trình xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa. Qua việc nhân thức một cách nghiêm túc nguyên nhân sụp đổ của Liên Xô và các nước Đông Âu, các nước còn lại trong hệ thống xã hội chủ nghĩa trước đây đã tập trung nghiên cứu về vấn đề nhà nước và cải cách bộ máy nhà 23
- nước theo hướng pháp quyền. Việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đặc sắc Trung Quốc lần đầu tiên chính thức được đặt ra tại Đại hội XV của Đảng Cộng sản Trung Quốc vào năm 1997, trong đó nêu rõ: “Quản lý đất nước bằng pháp luật, chính là quảng đại quần chúng nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng, dựa vào các quy định của Hiến pháp và pháp luật, thông qua các con đường và hình thức thực hiện quản lý các công việc của Nhà nước, quản lý sự nghiệp kinh tế văn hóa, quản lý công việc xã hội, bảo đảm các công tác của Nhà nước đều được tiến hành theo pháp luật, từng bước thực hiện chế độ hóa, pháp luật hóa nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, làm cho chế độ và pháp luật không vì sự thay đổi người lãnh đạo mà thay đổi theo, không vì sự thay đổi quan điểm và sự chú ý của người lãnh đạo mà thay đổi theo”[24, 24]. Quan điểm về một nhà nước pháp trị “dĩ pháp trị quốc” truyền thống đã tồn tại lâu đời trong xã hội Trung Quốc cũng đang dần được thay thế bởi quan điểm về nhà nước pháp quyền “y pháp trị quốc” hiện đại với các đặc trưng cơ bản là: pháp luật là tối thượng; hoạt động lập pháp phải đảm bảo tính dân chủ; hệ thống pháp luật phải hoàn thiện; tư pháp phải đảm bảo công bằng; quyền lực nhà nước phải được chế ước; pháp luật phải giải quyết hợp lý mối quan hệ giữa quyền lợi và nghĩa vụ [24, 41-51]. Tuy nhiên, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là một quá trình hoàn thiện lâu dài, đòi hỏi các nhà lãnh đạo Đảng, nhà nước cũng như các nhà nghiên cứu Trung Quốc phải vừa tìm hiểu, vừa tổng kết và rút kinh nghiệm. Ở Việt Nam, có hình thành rất nhiều những quan niệm về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Nhưng trong khóa luận, tôi xin phép chỉ nêu ra hai quan niệm tiêu biểu nhất Thứ nhất, quan niệm của Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Ở Việt Nam, các nhà nghiên cứu cũng đưa ra một số quan niệm về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin. Tuy nhiên, các hướng tiếp cận với khái niệm nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa hết sức đa dạng, phức tạp với nhiều các cách tiếp cận khác 24
- nhau, do đó chưa đạt tới sự thống nhất về khái niệm “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”. Có rất ít các công trình nghiên cứu đưa ra được một khái niệm cụ thể về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mà chủ yếu đưa ra các đặc trưng cơ bản thuộc nội hàm khái niệm này. Có quan điểm cho rằng: nhà nước pháp quyền là một hình thức nhà nước vì nó có cách tổ chức đối nghịch với các nhà nước độc tài, chuyên chế; đối nghịch với hình thức nhà nước được tổ chức theo phương pháp nhân trị và cũng đối nghịch với hình thức nhà nước được tổ chức theo pháp trị [4, 32-33]. Nhà nước pháp quyền nói chung và nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa nói riêng là hình thức tổ chức nhà nước có nhiều khả năng nhất trong việc chế ước quyền lực nhà nước [2, 121] Ngoài chịu sự ảnh hưởng của các quan niệm về nhà nước pháp quyền trong lịch sử tư tưởng nhân loại, quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta còn chịu ảnh hưởng khá sâu sắc bởi tư tưởng của các nhà chính trị học Việt Nam như Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông, Hồ Quý Ly, Nguyễn Trường Tộ, mà trực tiếp nhất chính là tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền và sự thay đổi về mặt nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa hiện nay. Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh - người cộng sản Việt Nam đầu tiên – mặc dù Người chưa đề cập trực tiếp tới thuật ngữ “nhà nước pháp quyền” nhưng đã tiếp thu giá trị phổ biến, tiến bộ trong tư tưởng của các nhà triết học về nhà nước pháp quyền và vận dụng vào thực tiễn đất nước ta.Tư tưởng về nhà nước của Hồ Chí Minh có hạt nhân là quan điểm về quyền lực và chủ thể quyền lực nhà nước. Nhà nước Việt Nam mới, theo Người, là nhà nước dân chủ, trong đó "nhân dân là ông chủ nắm chính quyền. Nhân dân bầu ra đại biểu thay mặt mình thi hành chính quyền ấy” [10, 218 –219]. Đó là nhà nước của dân, do dân và vì dân, được nhân dân lập nên, hoạt động vì lợi ích của nhân dân và đặt dưới quyền kiểm tra, giám sát của nhân dân. 25
- Luôn có ý thức và quan điểm rõ ràng về việc thiết lập quyền lực của nhân dân, Hồ Chí Minh cho rằng, việc sớm xây dựng Hiến phápvà pháp luật của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà là đặc biệt cần thiết và quan trọng. Ngay từ năm 1919, trong “Việt Nam yêu cầu ca”, Hồ Chí Minh đã đòi hỏi phải ban hành Hiến pháp và khẳng định “trăm điều phải có thần linh pháp quyền”. Ngay trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định rằng, chúng ta phải có một hiến pháp dân chủ. Điều này cho thấy Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh đã sớm chú ý đến Hiến pháp và pháp luật,coi đó là công cụ bảo vệ công lý và quyền con người cũng như nhằm bảo đảm quyền tự do dân chủ cho các tầng lớp nhân dân, trên cơ sở công nông liên minh và do giai cấp công nhân lãnh đạo. Người khẳng định, "Phép luật là phép luật của nhân dân, dùng để ngăn cản những hành động có hại cho nhân dân, để bảo vệ lợi ích chung của đại đa số nhân dân" [10,453]. Vì vậy, để có ộm t "chính quyền trong sạch", Chủ tịch Hồ Chí Minh đòi hỏi pháp luật phải nghiêm minh, cần phải thẳng tay trừng trị những ai làm hại đến tính mệnh và lợi ích của dân, làm tổn hại đến thanh danh, uy tín của Đảng và Nhà nước. Đồng thời, “pháp trị” phải nâng đỡ, phát huy cái tốt, cái thiện trong mỗi con người bằng cách kết hợp với “đức trị”, thể hiện ở nguyên tắc “có tình, có lý” trong xử lý các hành vi vi phạm pháp luật, không vì công mà quên lỗi, không vì lỗi mà quên công. Về vấn đề tổ chức bộ máy nhà nước, Hiến pháp năm 1946 được soạn thảo và ban hành dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thể hiện tư tưởng của Người về cơ chế tổ chức quyền lực nhà nước, trong đó nêu lên quan điểm về ba bộ phận cấu thành quan trọng của nhà nước là Nghị viện nhân dân (cơ quan lập pháp), chính phủ (cơ quan hành pháp) và toà án (cơ quan tư pháp). Người đặc biệt quan tâm tới vai trò, vị trí của Chính phủ trong bộ máy Nhà nước, khẳng định “chế độ của ta là chế độ dân chủ. Nhân dân là chủ. Chính phủ là đày tớ của nhân dân. Nhân dân có quyền đôn đốc và phê bình Chính phủ. Chính phủ thì việc to việc nhỏ đều nhằm mục đích phục vụ 26
- lợi ích của nhân dân. Vì vậy, nhân dân lại có nhiệm vụ giúp đỡ Chính phủ, theo đúng kỷ luật của Chính phủ và làm đúng chính sách của Chính phủ, để Chính phủ làm tròn phận sự mà nhân dân đã giao phó cho" [10,368]. Người cũng khẳng định tư tưởng về một Chính phủ toàn dân, liêm khiết, biết làm việc, một Chính phủ của toàn dân đoàn kết và tập hợp nhân tài không đảng phái, coi trọng tính hiệu quả và thiết thực: "Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có ỗ l i; nếu dân dốt là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân ốm là Đảng và Chính phủ có lỗi" [10, 572-574]. Thứ hai là quan điểm của Đảng về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Có thể thấy, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam là một tất yếu khách quan trên con đường tạo lập một xã hội mới, đạt được các mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Nhưng tính tất yếu đó chỉ có thể được thực hiện thông qua hoạt động chủ quan của con người, mà trước hết chính là sự nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam – đảng duy nhất cầm quyền, đại diện cho lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động cũng như toàn dân tộc Việt Nam. Tiếp thu tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước, Đảng ta đã ý thức được nhiệm vụ của cuộc cách mạng do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo là chuyển giao quyền lực cho nhân dân chứ không phải cho thiểu số thống trị. Tuy nhiên, trong thời kỳ đầu và trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mĩ, do hoàn cảnh chiến tranh, vấn đề nhà nước và pháp quyền đề cập nhiều trong văn kiện Đại hội I (3/1935), Đại hội II (2/1951), Đại hội III (9/1960) của Đảng ta. Tuy nhiên, từ Đại hội II, trong Báo cáo chính trị của Đại hội II (tháng 2/1951), Đảng ta vẫn đề cập tới vấn đề “xây dựng Việt Nam dân chủ mới”, khẳng định: “Hình thức của nhà nước Việt Nam hiện nay là cộng hoà dân chủ nhân dân. Nội dung của nó là nhân dân dân chủ chuyên chính” [5, 93 –94]. Từ đây, quan điểm về Nhà nước chuyên chính vô sản trở thành quan điểm chủ đạo về Nhà nước của Đảng ta trong suốt thời kỳ trước đổi mới, được thể hiện tiếp tục qua các Đại hội IV (12/1976), Đại hội V (3/1982), trong đó đặc biệt 27
- nhấn mạnh:“tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa là một yêu cầu cấp thiết để nâng cao hiệu lực quản lý của nhà nước, bảo đảm quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, khẩn trương cụ thể hóa Hiến pháp mới bằng hệ thống pháp luật, các cơ quan quản lý nhà nước phải cải tiến phương pháp hoạt động, đổi mới phong cách làm việc, làm cho hoạt động quản lý có tính chiến đấu, sắc bén, dứt khoát và thiết thực” [6,115 –116]. Đại hội VI (12/1986) là Đại hội đổi mới về chất của Đảng Cộng sản Việt Nam trong mọi mặt, trong đó có cả quan điểm về Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Báo cáo chính trị của Đại hội khẳng định: “Nhà nước ta là công cụ của chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa Trong thời kì quá độ, đó là Nhà nước chuyên chính vô sản thực hiện chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, chức năng của Nhà nước là thể chế hóa bằng pháp luật quyền hạn, lợi ích, nghĩa vụ của nhân dân lao động và quản lí kinh tế, xã hội theo pháp luật” [13, 799]. Tại Đại hội VI cũng đã nêu ra phương châm "lấy dân làm gốc" và cơ chế "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra" nhằm bảo đảm chế độ nhân dân lao động tự quản lí Nhà nước của mình, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Có thể nói tư tưởng về nhà nước pháp quyền của Đảng ta chỉ mới bắt đầu định hình từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (tháng 6 –1991) với việc thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, trong đó không đề cập tới khái niệm Nhà nước chuyên chính vô sản nữa, mà thay vào đó là khái niệm “Nhà nước xã hội chủ nghĩa, Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, và vì nhân dân" và nền "dân chủ xã hội chủ nghĩa ". Nhà nước chính là “tổ chức thể hiện và thực hiện ý chí, quyền lực của nhân dân, thay mặt nhân dân, Nhà nước ta phải có đủ quyền lực và đủ khả năng định ra luật pháp và tổ chức quản lí mọi mặt đời sống xã hội bằng luật pháp. Sửa đổi hệ thống tổ chức Nhà nước, cải cách bộ máy hành chính, kiện toàn các cơ quan lập pháp để thực hiện có hiệu quả chức năng quản lí Nhà nước" [7, 151]. Do đó, cần “tiếp tục cải cách bộ máy nhà nước theo phương hướng nhà nước 28
- thực sự là của dân, do dân, vì dân. Nhà nước quản lý xã hội bẳng pháp luật, dưới sự lãnh đạo của Đảng; tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ, thực hiện thống nhất quyền lực nhưng phân công, phân cấp rành mạch” [7, 152-153]. Đảng cũng khẳng định: "Nhà nước Việt Nam thống nhất ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp với sự phân công rành mạch ba quyền đó" 7[ , 153]. Đây là lần đầu tiên các chức năng lập pháp, hành pháp và tư pháp được định danh “các quyền” trong văn kiện của Đảng, cũng là một trong những dấu hiệu đầu tiên trong việc nhận thức về nhà nước pháp quyền của Đảng ta. Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ, khóa VII (năm 1994) đã chính thức đưa vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam vào văn kiện của Đảng. Trong văn kiện của Đảng tại Hội nghị này đã nêu ra nhiệm vụ: "Tiếp tục xây dựng và từng bước hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam. Đó là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, quản lý mọi mặt đời sống xã hội bằng pháp luật, đưa đất nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước pháp quyền Việt Nam được xây dựng trên cơ sở tăng cường, mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân, lấy liên minh giữa giai cấp công nhân với nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, do Đảng ta lãnh đạo” [8, 230]. Đây là lần đầu tiên trong văn kiện của Đảng chính thức nêu cụ thể những quan điểm, nguyên tắc, nội dung xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Từ đây, việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trở thành một chủ trương có tầm chiến lược, bao trùm toàn bộ tổ chức, hoạt động của Nhà nước trong cho tới nay. Đại hội VIII (tháng 6 –1996) đã khẳng định quan điểm xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân; quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan Nhà nước; quán triệt nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước; tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam. Quản lý xã hội bằng pháp luật, đông thời coi trọng giáo dục, nâng cao đạo đức; tǎng 29
- cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước. Đồng thời, để xây dựng, kiện toàn bộ máy nhà nước vững mạnh, trong sạch, có hiệu lực và hiệu quả, Đảng ta đề ra 4 nhiệm vụ chính là: đổi mới, nâng cao chất lượng công tác lập pháp và giám sát tối cao của Quốc hội đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước, cải cách hành chính Nhà nước, cải cách tổ chức và hoạt động tư pháp, đẩy mạnh đấu tranh chống tham nhũng. Khái niệm “nhà nước pháp quyền” lần đầu tiên được đề cập trong văn kiện Đại hội Đảng VIII đã khẳng định: “nhà nước pháp quyền từ những ý tưởng ban đầu của Chủ tịch Hồ Chí Minh được thể hiện rất ngắn ngủi trong những năm 1945 -1946, qua giai đoạn bước lùi do hoàn cảnh của hai cuộc kháng chiến, đến chỗ là những thể hiện lí luận tự phát có yếu tố pháp quyền, rồi trở thành một quan điểm chưa gọi tên, nay chính thức được định danh. Nhận thức về nhà nước pháp quyền đã đạt đến trình độ tự giác trong quan điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam" [17, 171- 172]. Đại hội IX (tháng 4 –2001) đã thể hiện rõ sự tự giác trong nhận thức về nhà nước pháp quyền của Đảng ta khi khẳng định tính chất của nhà nước Việt Nam là “ công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, là Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trongviệc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật. Mọi cơ quan, tổ chức, cán bộ, công chức, mọi công dân có nghĩa vụ chấp hành Hiến pháp và pháp luật” [9, 131–132]. Đồng thời, Đảng đề ra nhiệm vụ điều chỉnh chức năng và cải tiến phương thức hoạt động của Chính phủ, nguyên tắc bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực; phân công, phân cấp; tách cơ quan hành chính công quyền với tổ chức sự nghiệp, dịch vụ công; tách chức năng quản lý nhà nước với sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp; tiếp tục cải cách thủ tục hành chính; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, có năng lực; thiết lập trật tự kỷ cương, chống quan liêu, tham nhũng 30
- Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X (tháng 4/2006) của Đảng tiếp tục khẳng định mạnh mẽ đường lối xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Về phương hướng, Đảng ta nêu rõ: xây dựng cơ chế vận hành của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân; quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Hoàn thiện hệ thống pháp luật, tăng tính cụ thể, khả thi của các quy định trong văn bản pháp luật. Xây dựng và hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát tính hợp hiến và hợp pháp trong các hoạt độngvà quyết định của các cơ quan công quyền. Theo phương hướng đó, Đại hội X nêu lên mục tiêu trước mắt là; đẩy nhanh công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trên cả bốn mặt: chức năng, nhiệm vụ; tổ chức bộ máy; cán bộ và phương thức hoạt động; định rõ những việc Nhà nước phải làm và bảo đảm đủ các điều kiện để làm tốt; mối quan hệ giữa các cơ quan của Đảng và cơ quan nhà nước; hiện đại hoá nền hành chính nhà nướcvới các nhiệm vụ cụ thể như: tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, của Chính phủ, của các cơ quan tư pháp; đẩy mạnh cải cách hành chính và cải cách tư pháp; tăng cường hiệu lực và hiệu quả các hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp; xây dựng cơ chế phán quyết về những vi phạm Hiến pháp trong hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp; nâng cao chất lượng hoạt động của Hội đồng nhân dân và uỷ ban nhân dân các cấp. Ngay sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng, tại phiên khai mạc kỳ họp đầu tiên Quốc hội khóa XII, Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh có bài phát biểu quan trọng, trong đó chủ yếu đề cập đến quan điểm đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước. Dẫn Nghị quyết Đại hội X, Tổng Bí thư khẳng định: mấu chốt của đổi mới phương thức lãnh đạo là Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng cương lĩnh, đường lối, quan điểm, chủ trương, các nghị quyết, nguyên tắc giải quyết các vấn đề lớn, có ý nghĩa chính trị quan trọng. 31
- Đảng lãnh đạo nhưng không làm thay Nhà nước và các tổ chức trong hệ thống chính trị. Đề phòng và khắc phục khuynh hướng tổ chức Đảng buông lỏng sự lãnh đạo hoặc làm thay, cũng như khuynh hướng các cơ quan Nhà nước thụ động, né tránh trách nhiệm, việc gì cũng xin ý kiến cấp ủy Đảng nhằm thực hiện tốt cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả. Như vậy, quan điểm về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là sự tổng kết những tinh hoa của lịch sử tư tưởng nhân loại, tiếp thu học thuyết của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp quyền. Đó là ộm t quá trình đi từ nhận thức về vai trò của pháp luật trong quản lý xã hội tới thừa nhận nhà nước pháp quyền, từ nhận thức được những yếu kém, khuyết điểm trong quá trình xây dựng mô hình nhà nước xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam tới thừa nhận tính tất yếu khách quan của việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa phù hợp với đặc điểm kinh tế - xã hội truyền thống Việt Nam. Từ đó, những đặc trưng cơ bản của mô hình nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Đảng khởi xướng và lãnh đạo xây dựng đã hình thành. 1.3.2. Đặc trưng của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam được xác định trên cơ sở kinh tế là tiền đề kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cơ sở chính trị là một chế độ dân chủ nhất nguyên do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, cơ sở xã hội là khối đại đoàn kết dân tộc - những tiền đề mang đặc thù Việt Nam. Trên nền thực tiễn đó, sự vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh của Đảng ta vào sự nghiệp xây dựng nhà nước theo hướng pháp quyền đã khẳng định nhà nước ta mang bản chất giai cấp công nhân và cũng chính nhờ có ảb n chất này mà thật sự có được tính nhân dân và tính dân tộc, phản ánh sự thống nhất giữa tính chính trị và tính nhân văn của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đó là Nhà nước của dân, 32
- do dân, vì dân; đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối của một đảng, đó là Đảng Cộng sản Việt Nam; trên cơ sở liên minh vững chắc giữa giai cấp công nhân với nông dân và đội ngũ trí thức; là công cụ quyền lực chủ yếu để nhân dân xây dựng một quốc gia dân tộc độc lập xã hội chủ nghĩa theo mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ trên thế giới. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam được hình thành và phát triển trên cơ sở điểm xuất phát của quá trình xây dựng nhà nước rất thấp cùng với những khó khăn, yếu kém của hạ tầng cơ sở và thượng tầng kiến trúc xã hội. Qua mấy chục năm phấn đấu, xây dựng và đổi mới phương thức tổ chức và hoạt động, đến Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (1994), lần đầu tiên trong văn bản chính thức của Đảng, chúng ta mới xác định việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Đó là một nhà nước vừa phải thể hiện được các giá trị phổ biến của nhà nước pháp quyền trên thế giới, vừa phải khẳng định được bản sắc, đặc trưng của riêng mình. Các đặc trưng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là: Một là, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của dân, do dân và vì dân, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Hai là, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền công dân, nâng cao trách nhiệm pháp lý giữa Nhà nước và công dân. Ba là, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải được tổ chức và hoạt động trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật và phải đảm bảo cho Hiến pháp và các đạo luật giữ vị trí tối thượng trong điều chỉnh các quan hệ thuộc tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Bốn là, quyền lực nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thống nhất, có sự phân công rành mạch và phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. 33
- Năm là, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Sáu là, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đây là đặc điểm nổi bật của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam được Hiến pháp ghi nhận và nhân dân Việt Nam đồng tình ủng hộ. Đảng lãnh đạo Nhà nước thông qua cương lĩnh, đường lối, chính sách được thể chế bằng pháp luật. Đảng không làm thay Nhà nước và phải hoạt động trong khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật. Đảng không ngừng đổi mới phương thức lãnh đạo của mình nhằm tạo điều kiện cho bộ máy nhà nước hoạt động có hiệu quả, đặc biệt trong điều kiện xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Mặt khác, Đảng không ngừng đổi mới công tác tổ chức và xây dựng bộ máy để bảo đảm Đảng vẫn giữ được vai trò lãnh đạo Nhà nước, nhưng không chồng chéo với các cơ quan chức năng tương ứng trong bộ máy của Quốc hội, Chính phủ và các cơ quan tư pháp. Nguồn gốc, nội dung quyền lãnh đạo của Đảng cũng như quyền lực quản lý của Nhà nước đều xuất phát từ nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước đều phản ánh ý chí, nguyện vọng và lợi ích của nhân dân, do đó không thể tách rời Đảng với Nhà nước, tách rời chủ trương, đường lối của Đảng với chính sách, pháp luật của Nhà nước. Bộ máy Nhà nước phải lấy đường lối, chính sách của Đảng làm mục tiêu, định hướng cho toàn bộ hoạt động của mình. Theo đó, pháp luật do Nhà nước ban hành và tổ chức thực hiện phải thể hiện được đầy đủ, sâu sắc quan điểm, nội dung đường lối, chính sách của Đảng. Thực hiện được điều đó mới đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân ở nước ta hiện nay. 34
- TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 Tư tưởng về nhà nước pháp quyền đã xuất hiện ở cả phương Đông và phương Tây từ thời Cổ đại. Ban đầu nó chỉ là những tư tưởng về mối quan hệ giữa quyền lực và pháp luật, về vai trò của pháp luật trong nhà nước và trong xã hội. Trải qua các giai đoạn lịch sử khác nhau, tư tưởng về nhà nước pháp quyền ngày càng hoàn thiện, dần trở thành học thuyết và được hiện thực hóa trong xã hội. Nhà nước pháp quyền là lý thuyết đang nhận được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu hiện nay. Tuy nhiên, việc đưa ra một khái niệm về nhà nước pháp quyền vẫn chưa được thống nhất, mặc dù các giá trị chung của mô hình nhà nước pháp quyền đã được đông đảo các nhà nghiên cứu thừa nhận. Quan điểm của chúng tôi là, nhà nước pháp quyền là khái niệm dùng để chỉ hình thức tổ chức và phương thức vận hành của bộ máy nhà nước với tinh thần cơ bản là hạn chế quyền lực nhà nước bằng pháp luật và nguyên tắc tổ chức bộ máy nhà nước là tam quyền phân lập, tăng cường tính tự quản của nhân dân nhằm bảovệ các quyền cơ bản của con người. Ở trình độ phát triển cao, nhà nước pháp quyền chính là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bởi chỉ có trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, người dân mới thực sự là chủ thể của nhà nước, quyền con người, quyền công dân được pháp luật và nhà nước với nguyên tắc thống nhất, phân công và phối hợp trong tổ chức và hoạt động bảo đảm thực hiện. Để đi đến quan điểm về nhà nước pháp quyền và nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là một quá trình nhận thức và hoạt động thực tiễn lâu dài của Đảng ta. Tiếp thu quan điểm của các nhà tư tưởng phương Đông, phương Tây về nhà nước và pháp quyền, với tiền đề kinh tế - chính trị - xã hội là sự phát triển của đất nước sau đổi mới, Đảng ta đã xây dựng nên quan điểm về nhà nước xã hội chủ nghĩa mang tính pháp quyền ở Việt Nam. Đó là nhà nước do Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo, Nhà nước của dân, do dân và vì dân, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; trong đó, quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành 35
- mạch và phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp; được tổ chức và hoạt động trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật; tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền công dân, nâng cao trách nhiệm pháp lý giữa Nhà nước và công dân.Từ nhận thức đó, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo, chỉ đạo việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta, coi đó là một trong những nội dung quan trọng trong sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước ta hiện nay. Quá trình này đã đạt được những thành tựu nhất định, đồng thời cũng làm bộc lộ những tồn tại, hạn chế cần nhanh chóng tìm ra những giải pháp khắc phục. Đây chính là những nội dung mà tôi sẽ đề cập đến trong chương 2 của khóa luận này. 36
- CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM. 2.1. Các nguyên tắc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam với những đặc điểm được nêu ở chương 1 chỉ có thể được xây dựng thành công và đảm bảo không chệch hướng xã hội chủ nghĩa khi được thực hiện theo hệ thống các nguyên tắc nhất định. Khóa luận xin được nêu các nguyên tắc cơ bản của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Một là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải giữ vững tính chất giai cấp công nhân, tính chất nhân dân và tính chất nhân đạo của Nhà nước [21,86]. Nhà nước Việt Nam được hình thành với tính cách là sản phẩm của cuộc cách mạng dân chủ nhân dân và được tổ chức theo mô hình một nhà nước vô sản -nhà nước của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. có vai trò lịch sử là cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới –xã hội xã hội chủ nghĩa.Giữ vững tính chất giai cấp công nhân của Nhà nước ta là giữ cho Nhà nước ta luôn luôn là nhà nước của giai cấp công nhân Việt Nam, do giai cấp công nhân Việt Nam lãnh đạo, được tổ chức, hoạt động, hoàn thiệntheo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, chính sách của Đảng cộng sản Việt Nam. Giữ vững tính chất nhân dân là giữ cho Nhà nước ta luôn là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, là hình ảnh của khối đại đoàn kết toàn dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Giữ vững tính nhân đạo là đảm bảo mọi chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước đều xuất phát từ nhu cầu, lợi ích cơ bản của con người và đều nhằm đáp ứng nhu cầu, lợi ích của con người; các quyền tự do được mở rộng đối với mỗi cá nhân, sự công bằng, quyền bình đẳng được ghi nhận và bảo vệ; bên cạnh những chủ trương, chính sách, pháp luật có giá trị như nhau đối với mọi người còn có chủ trương, chính sách pháp luật dành riêng cho các đối tượng được hưởng chính sách ưu đãi của Nhà nước như thanh niên, trẻ em, người già, người tàn tật, người và gia đình có hoàn cảnh khó khăn, đồng 37
- bào dân tộc thiểu số, đồng bào vùng sâu, vùng xa, vùng núi cao Trong điều kiện hiện nay của Việt Nam, bên cạnh việc giữ vững tính chất của giai cấp công nhân, tính chất nhân dân, tính chất nhân đạo của Nhà nước, Nhà nước còn phải phát huy vai trò bảo vệ và điều hòa lợi ích xã hội. Năng lực chính trị và vị trí của Nhà nước được bộc lộ qua khả năng bảo đảm quyền lợi của các giai cấp, tầng lớp, những nhóm người, các tập thể trong xã hội theo định hướng của các lợi ích chung. Để Nhà nước thực hiện và phát huy vai trò của mình trong hệ thống chính trị, cần có những điều kiện khách quan khác mà một trong đó là yếu tố xã hội. Dân cư, các giai cấp, tầng lớp người, các tập thể, cá nhân trog cơ cấu xã hội chính là chỗ dựa vững chắc của Nhà nước và giờ đây, hơn lúc nào hết, chức năng xã hội của Nhà nước phải được đề cao ở thứ tự ưu tiên. Vì vậy, cùng với việc giữ vững tính chất giai cấp công nhân của Nhà nước, cần củng cố cơ sở rộng lớn của xã hội. Hai là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải nhằm phát huy được các giá trị của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân [21,87]. Xây dựng nhà nước pháp quyền là thiết lập một nhà nước đại diện và thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, đồng thời là người tổ chức thực hiện đường lối chính trị của Đảng. Mọi đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước đều phải xuất phát từ lợi ích của nhân dân và có sự tham gia ý kiến của nhân dân. Xã hội dân chủ đòi hỏi cán bộ, đảng viên và công chức phải thực sự là công bộc của nhân dân, phải xác định các hình thức tổ chức và có cơ chế để nhân dân thực hiện quyền dân chủ trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Một nhà nước như vậy mới có thể phát huy được quyền dân chủ của nhân dân, đảm bảo quyền sống, quyền được làm việc, được lao động, được học hành, được đảm bảo an ninh trật tự, an toàn xã hội. Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân cần được tiến hành trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong nhà nước đó, dân chủ đi đôi với kỷ cương trật tự, được thể chế hoá thành pháp luật, trong khuôn khổ của pháp luật. Nhà nước pháp 38
- quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân biểu hiện trực tiếp sức mạnh của hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản. Đó là một nhà nước đại diện cho quyền lực chân chính của nhân dân; một tổ chức nhà nước dựa trên nền dân chủ, vì dân chủ và do đó bằng pháp luật và vì công lý. Ba là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải được tiến hành đồng bộ với với phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và đổi mới hệ thống chính trị [21,87]. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải được đặt trong tổng thể công cuộc đổi mới tổ chức và hoạt động của cả hệ thống chính trị nước ta, bởi vì Nhà nước là một bộ phận cấu thành hệ thống chính trị, có quan hệ chặt chẽ, tác động qua lại với Đảng và các tổ chức xã hội khác; việc đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước theo hướng nhà nước phápquyền do Đảng chỉ đạo và cần có sự giúp đỡ của các tổ chức chính trị xã hội; bộ máy Đảng đang được đổi mới về cơ cấu tổ chức, nội dung, hình thức phương pháp, năng lực hoạt động để lãnh đạo Nhà nước có chất lượng và hiệu quả hơn; các tổ chức xã hội khác cũng đang được đổi mới về tổ chức và hoạt động để tham gia tích cực và hiệu quả hơn vào quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Có thể nói, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là kết quả tổng hợp của toàn bộ công cuộc đổi mới hệ thống chính trị chứ không chỉ là kết quả của riêng đổi mới bộ máy nhà nước. Sự ra đời và vận hành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã tạo ra bước chuyển mạnh mẽ trong đời sống kinh tế, xã hội của đất nước, trình độ của lực lượng sản xuất có sự phát triển nhanh chóng làm thay đổi và xuất hiện nhiều loại quan hệ kinh tế mới trong xã hội. Điều này tất yếu dẫn đến nhu cầu khách quan là Nhà nước phải thực hiện các biện pháp mà trước hết là xây dựng hệ thống pháp luật. Như vậy, nền kinh tế thị trường tự nó đã là ộm t đòi hỏi tất yếu, khách quan buộc Nhà nước phải thay đổi phương thức quản lý kinh tế, xã hội. Nhà nước phải quản lý kinh tế, xã hội bằng pháp luật, phải xây dựng thể chế kinh tế thị trường đủ ở mức tạo hành lang pháp lý an toàn cho hoạt động sản xuất kinh doanh, bảo đảm công bằng, bình đẳng, hợp tác 39
- cùng phát triển lâu dài giữa các thành phần kinh tế. Đó là tiền đề quan trọng để xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam chỉ có thể được xây dựng trên cơ sở nềnvăn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc và xã hội thật sự dân chủ, bình đẳng; ngược lại, nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc và xã hội thật sự dân chủ, bình đẳng cũng chỉ có thể được xây dựng khi có nhà nước pháp quyền thật sự của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Bởi vậy, cần gắn xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam với phát triển văn hoá, xã hội. Bốn là, cần tiếp thu và vận dụng các giá trị phổ biến và kinh nghiệm thế giới về xây dựng nhà nước pháp quyềnvào quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam [21,88]. Đảng ta coi việc xây dựngvà hoàn thiện nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân là nhiệm vụ trung tâm của sự nghiệp xây dựng và phát huy nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Cùng với việc khẳng định chủ thể tối cao củaquyền lực nhà nước là nhân dân, tôn trọng và bảo đảm quyền tự do của công dân, thực hiện chế độ dân chủ, chế độ lập hiến lý luận về nhà nước pháp quyền hướng tới xác lập một phương thức quản lý xã hội bằng pháp luật và tổ chức nhà nước theo nguyên tắc phân công và giám sát quyền lực. Sự phát triển của xã hội có giai cấp ở mọi thời đại đều cần đến một nhà nước mạnh mẽ và sáng suốt chứ không phải nhà nước độc tài, quan liêu. Đây là tiến bộ xã hội, là giá trị chung có tính phổ biến và không phải là giá trị riêng của nhà nước tư sản. Những giá trị có tính phổ biến này cần được tiếp thu có chọn lọc trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân của Việt Nam là một nhà nước vừa phải thể hiện được các giá trị phổ biến của nhà nước pháp quyền đã được xác định trong lý luận và thực tiễn của một chế độ dân chủ hiện đại, vừa khẳng định được bản sắc, đặc điểm của riêng mình. Do đó, để xây dựng thành công nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đòi hỏi phải 40
- tiếp thu và vận dụng sáng tạo những giá trị phổ biến của tư tưởng về nhà nước pháp quyền trong lịch sử nhân loại, các bài học kinh nghiệm có giá trị của thế giới về xây dựng nhà nước pháp quyền trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Năm là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam [21,88]. Đảng cộng sản Việt Nam là đảng cầm quyền và sự lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị và đối với xã hội là một tất yếu lịch sử. Việc quán triệt nguyên tắc Đảng lãnh đạo sẽ đảm bảo cho việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam luôn phù hợp với ý chí, nguyện vọng của toàn dân và đáp ứng được lợi ích của nhân dân.Nguyên tắc này đòi hỏi trách nhiệm của Đảng, Nhà nước và nhân dân. Đảng phải thường xuyên tổng kết, đánh giá thực tiễn, phân tích thực tiễn để kịp thời đưa ra những quyết sách đúng đắn cho nhà nước và nhân dân thực hiện; thường xuyên kiểm tra, giám sát hoạt động của Nhà nước và nhân dân; đề xuất quan điểm và giải pháp khắc phục những thiếu sót, khuyết điểm của nhân dân. Nhà nước thường xuyên chủ động và kịp thời thể chế hóa đường lối, chính sách của Đảng thành pháp luật, tổ chức tốt việc thực hiện và bảo vệ pháp luật; thường xuyên tổng kết thực hiện để vừa có thêm bài học kinh nghiệm cho mình, vừa cung cấp cho Đảng những luận cứ để Đảng tiếp tục hoàn thiện đường lối, chính sách của mình; phản biện đường lối, chính sách của Đảng; nhân dân phản biện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, kiểm tra, giám sát hoạt động của Đảng và Nhà nước; tham gia tích cực vào việc thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; kiến nghị với Đảng, Nhà nước về mọi vấn đề liên quan đến tổ chức và hoạt động của Đảng và Nhà nước trên tinh thần vì một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. 2.2. Những thành tựu đã đạt được và những khó khăn trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Qua hơn 20 năm đổi mới đất nước, chúng ta đã thu được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử quan trọng. Đó là: “Chúng ta đã từng bước xây 41
- dựng được nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa với Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng khối đoàn kết toàn dân tộc mà nền tảng là liên minh công nhân -nông dân -trí thức; xây dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân với lực lượng vũ trang nhân dân cách mạng chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, ngày càng đủ mạnh để bảo vệ Tổ quốc và cuộc sống yên lành của nhân dân; xây dựng một nền ngoại giao độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa với tinh thần Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển, không ngừng mở rộng các quan hệ đối ngoại, nâng cao uy tín, vị thế của nước ta trên trường quốc tế"[16, 3] Đặc biệt, Nhà nước ta đã có những bước tiến quan trọng trong việc đổi mới tổ chức và hoạt động theo hướng xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Sự quyết tâm xây dựng và hoàn thiện nhà nước không chỉ dừng ở chủ trương, quan điểm mà còn thể hiện trong việc xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền công dân, quyền con người, xây dựng hệ thống pháp luật và tổ chức bộ máy nhà nước Việt Nam hiện nay. Thực tiễn đổi mới trong giai đoạn vừa qua một mặt cho thấy những thành tựu, mặt khác bộc lộ rõ những vấn đề mới, phức tạp về tổ chức và hoạt động của Nhà nước, của nền hành chính và của cả hệ thống chính trị nước ta. 2.2.1. Những thành tựu đã đạt được trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Lênin đã chỉ ra rằng, nhà nước là một bộ máy dễ rơi vào tình trạng quan liêu và biến dạng. Việc nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt động của nhà nước không chỉ là mục tiêu mà còn là yêu cầu cấp bách của nhà nước ta hiện nay. Bước chuyển căn bản nhất, quan trọng nhất ở Việt Nam trong những năm qua là pháp luật đã trở thành công vụ quản lý chủ yếu của Nhà nước, nguyên tắc pháp quyền ngày càng được khẳng định và phát huy hiệu quả, tổ 42
- chức bộ máy Nhà nước ngày càng hoàn thiện, quyền dân chủ của nhân dân được mở rộng, tạo điều kiện để nhân dân tham gia và thực hiện quyền giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước. Tổng kết lý luận và thực tiễn sau hơn hai mươi năm đổi mới ở nước ta cho thấy, việc thực hiện các nguyên tắc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể, tạo ra những bước tiến cơ bản cho quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Cụ thể là: Đầu tiên, đối với nguyên tắc phải giữ vững tính chất giai cấp công nhân và tính chất nhân dân, tính nhân đạo của Nhà nước được thực hiện và phát huy ở mức độ cao. Trên cơ sở của Hiến pháp năm 1992, tính chất nhà nước ta đã được xác định là sự thống nhất giữa tính chất giai cấp công nhân, tính nhân dân và tính nhân đạo. Sau hơn 20 năm đổi mới, nguyên tắc giữ vững tính chất giai cấp công nhân và tính chất nhân dân, tính nhân đạo của Nhà nước đã được giữ vững và phát huy, trở thành mặt mạnh cơ bản của hệ thống chính trị và của nền dân chủ ở nước ta. Giai cấp công nhân nước ta đang tiếp tục phát huy vai trò là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiền phong là Ðảng cộng sản Việt Nam, giai cấp tiên phong trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế, lực lượng nòng cốt trong liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Ðảng; đóng góp trực tiếp to lớn vào sự phát triển của đất nước. Thành tựu trong việc thực hiện nguyên tắc này của Nhà nước còn thể hiện ở những kết quả của đổi mới hệ thống chính trị và Nhà nước trong hơn hai mươi năm qua, được thể hiện cụ thể trong các quy định về nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước từ trung ương đến địa phương; của các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp. Đó là, bộ máy nhà nước được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ nhằm phát huy dân chủ đến mức cao độ. Nhà nước từng bước quản lý, điều hành xã hội trên tất cả các 43
- lĩnh vực theo pháp luật, từng bước thực hiện nhiệm vụ đại diện cho quyền lực chân chính của nhân dân. Đồng thời nỗ lực xây dựng một nền pháp luật mang tính dân chủ thực sự, bảo đảm đầy đủ quyền làm chủ của nhândân lao động và xuất phát từ nhu cầu, lợi ích cơ bản của con người và đều nhằm đáp ứng nhu cầu, lợi ích của con người. Nhà nước tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; nâng cao trách nhiệm pháp lý giữa Nhà nước và công dân, thực hành dân chủ, đồng thời tăng cường kỷ cương, kỷ luật. Thứ hai là nguyên tắc phát huy các giá trị của nền dân chủ, xây dựng một nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân đã được coi là mục tiêu, động lực của công cuộc đổi mới. Để thực hiện nguyên tắc này, Ðảng ta đã xác định xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu vừa là động lực của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thể hiện mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Ðảng, Nhà nước và nhân dân. Kết quả là, dưới sự lãnh đạo của Ðảng, cơ chế dân chủ được từng bước hoàn thiện đã phát huy cao sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, tạo nên động lực to lớn phát triển đất nước. Nhờ cơ chế dân chủ từng bước được xây dựng, bổ sung và hoàn thiện trên tất cả các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã ộh i, các tầng lớp nhân dân trở nên tích cực, chủ động, sáng tạo, năng động trong việc tham gia công việc của đất nước. Các quan hệ xã hội được xây dựng hài hòa, sự đồng thuận xã hội và dân chủ hóa trên các lĩnh vực của đời sống -xã hội được tăng cường. Ðặc biệt, nội dung và hình thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân ngày càng thiết thực. Quy chế dân chủ ở cơ sở được thực hiện rộng rãi hơn, nhất là ở xã, phường, được thực hiện tốt ở nhiều địa phương, đơn vị, cơ quan, trường học, đã phát huy được công sức, trí tuệ của tập thể của đội ngũ cán bộ, công nhân, viên chức và người lao động, tạo động lực để họ hăng hái thi đua lao động, sản xuất, giảng dạy và học tập, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Thứ ba là nguyên tắc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải tiến hành đồng bộ với với phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và 44
- đổi mới hệ thống chính trị đã được quán triệt trong nhận thức và hành động. Điểm lại kết quả của 20 năm đổi mới khẳng định rằng chúng ta đã bảo đảm tốt hơn sự gắn kết, đồng bộ giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Ðảng là then chốt với phát triển văn hóa -nền tảng tinh thần của xã hội. Cùng với đổi mới kinh tế và trên cơ sở đổi mới kinh tế, chúng ta đã từng bước đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị;đổi mới và chỉnh đốn Ðảng, đổi mới công tác tổ chức và cán bộ, mở rộng dân chủ trong Ðảng, đổi mới phương thức lãnh đạo của Ðảng đối với Nhà nước và xã hội; quá trình đổi mới hệ thống chính trị, phát triển kinh tế đã gắn kết chặt chẽ kinh tế với văn hóa - xã hội, đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển; gắn kết chặt chẽ phát triển kinh tế với nhiệm vụ quốc phòng - an ninh và đối ngoại. Kết quả là, các mặt của đời sống xã hội đều có những bước tiến quan trọng: thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được xây dựng bước đầu, kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, hội nhập kinh tế quốc tế và kinh tế đối ngoại có bước tiến mới rất quan trọng. Giáo dục vàđào tạo có bước phát triển khá, quy mô giáo dục được mở rộng và trình độ dân trí đã được nâng lên rõ rệt. Khoa học và công nghệ có tiến bộ, tập trung hơn vào nghiên cứu ứng dụng, phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội; văn hóa,xã hội có tiến bộ trên nhiều mặt, việc gắn kết giữa phát triển kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội có chuyển biến tích cực, chỉ số phát triển con người được nâng lên; đại đoàn kết dân tộc vì sự nghiệp phát triển đất nước tiếp tục được tăng cường; chính trị, xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh được tăng cường, quan hệ đối ngoại được mở rộng, tạo môi trường thuận lợi để phát triển kinh tế, xã hội. Thứ tư: nguyên tắc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam cần có sự tiếp thu và vận dụng các giá trị phổ biến và kinh nghiệm thế giới về xây dựng nhà nước pháp quyền được nhận thức đầy đủ và được thực hiện thường xuyên trên thực tế.Trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, chúng ta đã cơ bản thực hiện nguyên tắc tiếp thu và 45
- vận dụng sáng tạo các giá trị phổ biến và kinh nghiệm của thế giới về xây dựng nhà nước pháp quyền, không phủ định sạch trơn thành tựu của quá khứ, mà trân trọng và kế thừa những kinh nghiệm dựng nước và giữ nước của cha ông, những thành tựu của cách mạng, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, đồng thời kế thừa, tiếp thu có chọn lọc những thành quả của văn minh nhân loại, trong đó có mặt tích cực của kinh tế thị trường, những giá trị trong tư tưởng về nhà nước pháp quyền - những thứ trước đây bị coi là riêng có của chủ nghĩa tư bản. Nhà nước và nhân dânta đã lĩnh hội và tiếp thu được những tinh hoa văn hóa của nhân loại –các chế định pháp lý được thừa nhận chung của cộng đồng quốc tế như: sự ngự trị của pháp luật trong các lĩnh vực sinh hoạt của xã hội; tính tối cao của pháp luật trong các lĩnh vực hoạt động của nhà nước, quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, sự tôn trọng và bảo vệ các quyền tự do của con người như là những giá trị xã hội cao quý nhất. Bên cạnh đó, chúng ta không áp dụng nguyên tắc “tam quyền phân lập” gắn với chế độ đa nguyên, đa đảng như ở các nước tư bản chủ nghĩa mà khẳng định quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp dưới sự lãnh đạo của một chính đảng duy nhất - Đảng Cộng sản Việt Nam. Như vậy, việc tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa của trí tuệ nhân loại về nhà nước pháp quyền ở nước ta đang từng bước được tích cực thực hiện. Bên cạnh những đặc điểm chung nhất của nhà nước pháp quyền, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam có những nét riêng, phù hợp với đặc điểm về kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá của đất nước. Cuối cùng là nguyên tắc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng công sản Việt Nam thường xuyên được quán triệt và thực hiện nghiêm túc. Trong hơn hai mươi năm đổi mới, Đảng cộng sản Việt Nam đã thực hiện thành công vai trò là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.Trải qua nhiều tìm tòi, khảo nghiệm, tổng kết sáng kiến của nhân dân, Đảng ta đã đề ra và lãnh đạo thực hiện đường lối 46
- đổi mới, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa phù hợp với thực tiễn Việt Nam và bối cảnh quốc tế mới. Hai mươi năm qua, dưới sự lãnh đạo toàn diện của Đảng, quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử:nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được phát triển đẩy mạnh; đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt; hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường;chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng và an ninh được giữ vững; vị thế nước ta trên trường quốc tế không ngừng được nâng cao; sức mạnh tổng hợp của quốc gia đã tăng lên rất nhiều, tạo ra thế và lực mới cho đất nước tiếp tục đi lên với triển vọng tốt đẹp. Những thành tựu đó chứng tỏ đường lối lãnh đạo của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo; con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng sáng tỏ hơn; hệ thống quan điểm lý luận về công cuộc đổi mới, về xã hội xã hội chủ nghĩa, về nhà nước pháp quyềnvà quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã hình thành trên những nét cơ bản. Công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là cả một cuộc cách mạng lâu dài và nhiều khó khăn, đòi hỏi phải thực hiện từng bước mà bắt đầu từ việc đề ra và thực hiện nghiêm túc các nguyên tắc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa nhằm đảm bảo sự phát triển đúng hướng của đất nước. Để thực hiện thành công các nguyên tắc ấy lại cần có sự tập trung, thống nhất cao độ về nhận thức và tư tưởng của toàn Đảng, toàn dân. Như trên đã phân tích, việc thực hiện các nguyên tắc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong thời gian qua đã thu được những thành tựu đáng khích lệ. Nguyên nhân của những kết quả đó trước hết là do đã sự thống nhất về nhận thức của toàn dân về mục tiêu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng ta, một đảng chân chính do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, luôn trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin vận dụng và phát triển sáng tạo vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của nước ta; gắn bó mật 47
- thiết với nhân dân, lãnh đạo, tổ chức, tập hợp và phát huy sức mạnh đoàn kết của dân tộc; giữ vững nguyên tắc nhưng luôn mềm dẻo và đổi mới. Một nguyên nhân khác rất quan trọng là, Nhà nước ta, trong mỗi giai đoạn cách mạng, luôn thể hiện rõ bản chất tốt đẹp của mình. Đó là một nhà nước tận tâm, tận lực vì dân tộc, vì tự do, hạnh phúc của nhân dân, làm tốt nhiệm vụ quản lý, điều hành xã hội và đất nước; tổ chức toàn dân tập trung mọi nguồn lực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. 2.2.2. Những khó khăn trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam Bên cạnh những thành tựu đã nêu trên, việc đổi mới tổ chức và hoạt động của Nhà nước ta theo hướng xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa cũng còn có nhiều hạn chế cho thấy những khó khăn, vướng mắc cần giải quyết. Đó chínhlà những khó khăn, vướng mắc cản trở con đường đổi mới, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân ở nước ta. Thứ nhất, việc giữ vững tính chất giai cấp công nhân và tính chất nhân dân, tính chất nhân đạo của Nhà nước chưa được thực hiện triệt để. Địa vị chính trị của giai cấp công nhân chưa thể hiện đầy đủ. Giai cấp công nhân còn hạn chế về phát huy vai trò nòng cốt trong liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Ðảng. Giác ngộ giai cấp và bản lĩnh chính trị của công nhân không đồng đều; sự hiểu biết về chính sách, pháp luật còn nhiều hạn chế.Tuy trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, việc làm và đời sống của nhân dân ngày càng được cải thiện; nhưng lợi ích của một bộ phận được hưởng chưa tương xứng với những thành tựu của công cuộc đổi mới và những đóng gópủ c a chính mình; việc làm, đời sống vật chất và tinh thần của một bộ phận nhân dân đang có nhiều khó khăn, bức xúc. Thứ hai, các giá trị của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa đã được phát huy nhưng chưa xứng tầm với yêu cầu của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa . Biểu hiện ở chỗ, thể chế luật pháp để bảo đảm dân chủ được thực thi 48