Khóa luận Giải thích pháp luật ở Việt Nam hiện nay

pdf 76 trang thiennha21 16/04/2022 4491
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Giải thích pháp luật ở Việt Nam hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfkhoa_luan_giai_thich_phap_luat_o_viet_nam_hien_nay.pdf

Nội dung text: Khóa luận Giải thích pháp luật ở Việt Nam hiện nay

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN DIỆU HUYỀN GIẢI THÍCH PHÁP LUẬT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC NGÀNH LUẬT HỌC Hệ đào tạo: Chính quy Khóa học: QH – 2015 – L NGƯỜI HƯỚNG DẪN: PGS.TS NGUYỄN HOÀNG ANH HÀ NỘI, 2019
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN DIỆU HUYỀN GIẢI THÍCH PHÁP LUẬT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC NGÀNH LUẬT HỌC Hệ đào tạo: Chính quy Khóa học: QH – 2015 – L NGƯỜI HƯỚNG DẪN: PGS.TS NGUYỄN HOÀNG ANH HÀ NỘI, 2019
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi và được sự hướng dẫn khoa học của PGS.TS Nguyễn Hoàng Anh. Các nội dung nghiên cứu, kết quả trong khóa luận này là trung thực và chưa được công bố dưới bất kì hình thức nào trước đây. Ngoài ra, trong khóa luận còn sử dụng một số nhận xét, đánh giá cũng như số liệu của các tác giả, cơ quan tổ chức khác đều có trích dẫn và chú thích nguồn gốc. Sinh viên thực hiện Nguyễn Diệu Huyền 1
  4. LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành Khóa luận tốt nghiệp này, em xin bày tỏ lòng biết ơn và gửi lời cảm ơn sâu sắc tới PGS.TS Nguyễn Hoàng Anh đã tận tình hướng dẫn trong suốt quá trình thực hiện Khóa luận. Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội đã truyền đạt những kiến thức quý báu cũng như tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất cho chúng em trong suốt quãng thời gian học tập, nghiên cứu. Do kiến thức còn nhiều hạn chế nên bài báo cáo của em không thể tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được sự đóng góp của Thầy, Cô để đề tài được hoàn thiện hơn. Cuối cùng, em xin kính chúc quý Thầy, Cô dồi dào sức khỏe và thành công trong sự nghiệp cao quý! 2
  5. DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT Từ viết tắt Từ viết đầy đủ GTPL Giải thích pháp luật QPPL Quy phạm pháp luật TAND Tòa án nhân dân TANDTC Tòa án nhân dân Tối cao UBTVQH Ủy ban Thường vụ Quốc hội VBQPPL Văn bản quy phạm pháp luật 3
  6. MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN 1 LỜI CẢM ƠN 2 DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT 3 MỤC LỤC 4 MỞ ĐẦU 7 1. Bối cảnh 7 2. Tính cấp thiết của đề tài 7 3. Mục đích nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu 9 4. Phương pháp nghiên cứu 9 CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIẢI THÍCH PHÁP LUẬT 11 1.1. Khái niệm, đặc điểm về giải thích pháp luật 11 1.1.1. Khái niệm về giải thích pháp luật 11 1.1.2. Đặc điểm về giải thích pháp luật 12 1.2. Các hình thức giải thích pháp luật 13 1.3. Vai trò, mục đích của giải thích pháp luật 15 1.4. Nguyên tắc, phương pháp giải thích pháp luật 17 1.4.1. Nguyên tắc giải thích pháp luật 17 1.4.2. Phương pháp giải thích pháp luật 17 1.5. Một số mô hình giải thích pháp luật trên thế giới 21 1.5.1. Mô hình Tòa án giải thích pháp luật 22 4
  7. 1.5.2. Mô hình cơ quan lập pháp giải thích pháp luật 24 1.5.3. Mô hình các cơ quan thuộc cả ba nhánh quyền lực nhà nước giải thích pháp luật 27 KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 30 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG GIẢI THÍCH PHÁP LUẬT TẠI VIỆT NAM HIỆN NAY 31 2.1. Các quy định pháp luật hiện hành về giải thích pháp luật 31 2.2. Thực trạng giải thích pháp luật ở Việt Nam 36 2.2.1. Hoạt động giải thích pháp luật của UBTVQH 36 2.2.2. Hoạt động giải thích pháp luật của cơ quan hành pháp 39 2.2.3. Hoạt động giải thích pháp luật của Tòa án 42 2.3. Một số đánh giá về hoạt động giải thích pháp luật hiện nay 46 2.3.1. Thành tựu 46 2.3.2. Hạn chế 48 KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 51 CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN HOẠT ĐỘNG GIẢI THÍCH PHÁP LUẬT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 52 3.1. Mở rộng thẩm quyền giải thích pháp luật của Tòa án 52 3.1.1. Cơ sở để mở rộng thẩm quyền giải thích pháp luật của Tòa án 52 3.1.2. Một số biện pháp hỗ trợ việc mở rộng thẩm quyền giải thích pháp luật chính thức của Tòa án 54 5
  8. 3.1.2.1. Xây dựng mô hình Tòa án giải thích pháp luật, đồng thời thiết lập một cơ chế đặc biệt đối với hoạt động giải thích Hiến pháp 55 3.1.2.2. Xây dựng và phát triển án lệ, công khai các bản án, quyết định của Tòa án 58 3.1.2.3. Nâng cao đạo đức và năng lực giải thích pháp luật của Thẩm phán 61 3.2. Các biện pháp khác nâng cao hiệu quả của hoạt động giải thích pháp luật 62 3.2.1. Xây dựng và ban hành Luật về giải thích pháp luật 62 3.2.2. Nâng cao chất lượng lập pháp 64 3.2.3. Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực giải thích pháp luật 66 KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 68 KẾT LUẬN CHUNG 69 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 72 6
  9. MỞ ĐẦU 1. Bối cảnh Như chúng ta đã biết, để phát huy được vai trò của mình thì pháp luật cần phải được thực hiện một cách nghiêm chỉnh. Tuy nhiên, qua thực tiễn xây dựng, ban hành và thực hiện pháp luật trong thời gian vừa qua đã cho thấy tình trạng quy phạm pháp luật chứa đựng quy định có nhiều nghĩa, nhiều cách hiểu khác nhau dẫn đến việc gây khó khăn cho hoạt động thực hiện pháp luật của các cơ quan, tổ chức, cá nhân. Vì vậy, để nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật, đảm bảo tính thống nhất của pháp luật, nhu cầu giải thích pháp luật là rất lớn, đồng thời, hoạt động giải thích pháp luật đòi hỏi cần phải diễn ra thường xuyên, kịp thời. Giải thích pháp luật được hiểu là việc làm rõ hơn về tinh thần, nội dung, phạm vi, ý nghĩa và mục đích của các quy định của pháp luật. Đây là một hoạt động tất yếu, có vai trò quan trọng trong việc đảm bảo thực thi các quy định của pháp luật một cách chính xác và thống nhất. Hoạt động giải thích pháp luật ở nước ta do Ủy ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH) đảm nhiệm, tuy vậy, hoạt động trên chưa thực sự có hiệu quả và đáp ứng được những yêu cầu giải thích pháp luật của xã hội. Để giải quyết kịp thời nhu cầu giải thích pháp luật mà thực tiễn đặt ra, những chủ thể khác (cơ quan hành pháp, cơ quan tư pháp) buộc phải thực hiện các hoạt động giải thích pháp luật. Rất gần đây, TANDTC được trao thẩm quyền ban hành án lệ, tuy nhiên việc thực hiện vẫn còn khá hạn chế. Hơn nữa, hiện nay việc giải thích pháp luật chưa được quan tâm đúng mức đã dẫn đến việc giải thích pháp luật không thống nhất, chồng chéo và ít có hiệu quả. 2. Tính cấp thiết của đề tài Đề tài có tính cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn, xuất phát từ các lý do sau đây: 7
  10. Thứ nhất, giải thích pháp luật là một trong những khái niệm cơ bản của khoa học pháp lý, việc nghiên cứu về giải thích pháp luận có ý nghĩa về cả mặt lý luận và thực tiễn. Tuy nhiên, một số vấn đề lý luận về giải thích pháp luật chưa được nghiên cứu một cách đầy đủ, thấu đáo và toàn diện, đó là những lý thuyết về giải thích pháp luật chưa có điều kiện để hệ thống lại, những quan điểm trên những phương diện căn bản chưa được thống nhất, việc giải thích pháp luật hiện nay cũng chưa được quan tâm đúng mức. Thứ hai, hoạt động giải thích pháp luật ở nước ta do UBTVQH đảm nhiệm tuy đã có một số thành tựu nhưng chưa thực sự đáp ứng được nhu cầu. Nghiên cứu về giải thích pháp luật vừa góp phần sáng tỏ về mặt lý luận, vừa có thể chỉ ra những điểm chưa hợp lý trong thực tiễn, để đưa ra những đánh giá, những giải pháp cụ thể, từ đó góp phần hoàn thiện và nâng cao chất lượng, hiệu quả của hoạt động này. Thứ ba, trên thực tế, để đảm bảo giải quyết kịp thời nhu cầu giải thích pháp luật thực tiễn đặt ra, những chủ thể khác (Tòa án) buộc phải thực hiện các hoạt động giải thích pháp luật. Cho đến nay Toà án đã được ban hành án lệ, tuy nhiên vẫn còn hạn chế (quy trình lựa chọn, công bố án lệ còn nhiều bất cập; số lượng án lệ chưa nhiều; thực tiễn tạo lập án lệ của Tòa án chưa thực sự tập trung vào việc nâng cao chất lượng của lập luận tạo lập án lệ ). Trong thời gian vừa qua, có thể thấy, Tòa án cũng đóng một vị trí, vai trò nhất định trong hoạt động giải thích pháp luật. Việc mở rộng thẩm quyền giải thích pháp luật của Tòa án hiện nay vẫn còn có nhiều tranh cãi về mặt lý luận cũng như thực tiễn (Có nên mở rộng thẩm quyền giải thích pháp luật không? Thẩm phán nên có quyền giải thích pháp luật nhằm đáp ứng với các nhu cầu mới, hay thẩm phán buộc phải tuân thủ nghiêm ngặt ý chí của nhà làm luật dù ý chí đó có lỗi thời, khiếm khuyết, hoặc không mang tính dự liệu tốt?) 8
  11. Xuất phát từ những lý do trên, có thể thấy đề tài “Giải thích pháp luật ở Việt Nam hiện nay” là một đề tài nghiên cứu có ý nghĩa cả về mặt lý luận và thực tiễn. 3. Mục đích nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu Việc nghiên cứu đề tài này nhằm mục đích sau: - Tổng hợp và làm sáng tỏ thêm những vấn đề lý luận chung về giải thích pháp luật. - Đánh giá, xem xét tình hình giải thích pháp luật ở Việt Nam hiện nay, những thành tựu đã đạt được, những hạn chế còn tồn tại, ưu điểm, nhược điểm thông qua đó có cái nhìn đầy đủ và toàn diện hơn về hoạt động trên, đưa ra những giải pháp hoàn thiện hoạt động giải thích pháp luật ở Việt Nam. Trên cơ sở của mục đích nghiên cứu, đối tượng nghiên cứu của khóa luận được xác định như sau: - Những nội dung cơ bản về lý luận giải thích pháp luật (khái niệm, vai trò, mục đích, nguyên tắc, phương pháp giải thích ) - Thực tiễn giải thích pháp luật ở Việt Nam, thực tế hoạt động và những vấn đề đang đặt ra. - Trên cơ sở lý luận và thực tiễn, đánh giá tình hình giải thích pháp luật ở Việt Nam hiện nay, từ đó đề xuất giải pháp hoàn thiện hoạt động giải thích pháp luật ở Việt Nam một cách phù hợp, nâng cao chất lượng giải thích pháp luật. 4. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp luận: Trên cơ sở các quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về nhà nước và pháp luật mà chủ yếu là trên cơ sở quan điểm duy vật và phép biện chứng. 9
  12. - Phương pháp cụ thể: Phương pháp thu thập tài liệu, hệ thống, so sánh (sử dụng trong chương 1, 3), phân tích (phân tích các quy định của pháp luật, từ đó đưa ra các thực trạng của hoạt động giải thích pháp luật), tổng hợp, liên hệ logic 5. Kết cấu khóa luận Ngoài phần Mở đầu và Kết luận chung, phần nội dung của khóa luận được kết cấu thành 3 chương như sau: Chương 1: Một số vấn đề lý luận về giải thích pháp luật Chương 2: Thực trạng giải thích pháp luật tại Việt Nam hiện nay Chương 3: Một số giải pháp hoàn thiện hoạt động giải thích pháp luật ở Việt Nam hiện nay 10
  13. CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIẢI THÍCH PHÁP LUẬT 1.1. Khái niệm, đặc điểm về giải thích pháp luật 1.1.1. Khái niệm về giải thích pháp luật Cho tới nay, giải thích pháp luật chưa phải là một khái niệm được định nghĩa thống nhất. Giải thích pháp luật được tiếp cận từ nhiều phương diện khác nhau, mỗi một quốc gia, mỗi một học giả lại có một cách tiếp cận, nhận định riêng về khái niệm này. Khái niệm giải thích pháp luật được một số tác giả đưa ra như sau: • “Giải thích pháp luật được hiểu là việc làm sáng tỏ về mặt tư tưởng và nội dung của các quy phạm pháp luật; là nhằm xây dựng lại ý tưởng mà tác giả mong muốn truyền đạt qua các quy định của văn bản pháp luật đó” [11] • Hoặc “Về thực chất, giải thích pháp luật là việc xác định nội dung và phạm vi áp dụng của văn bản hay một quy định cụ thể của văn bản đó” [15, tr.3] • “Giải thích pháp luật là hoạt động của các chủ thể có thẩm quyền theo một quy trình pháp lý nhằm xác định chính xác ý nghĩa, nội dung quy tắc xử sự trong văn bản quy phạm pháp luật (mà chủ yếu là những quy phạm pháp luật khi áp dụng gặp vướng mắc) để nhận thức, thực hiện pháp luật đúng đắn, thống nhất.” [14, tr.30] Có thể thấy, có những định nghĩa tiếp cận vấn đề trên dưới góc độ ngữ nghĩa của thuật ngữ giải thích; có định nghĩa tiếp cận phạm vi giải thích pháp luật; hay tiếp cận dưới góc độc chung, phổ quát. Tuy nhiên dù tiếp cận từ góc độ nào thì khái niệm giải thích pháp luật cần thể hiện được các nội dung: tính thẩm quyền của hoạt động giải thích pháp luật; 11
  14. tính chất, phạm vi; đối tượng giải thích (quy phạm pháp luật hoặc quy tắc xử sự nào đó) và mục đích của việc giải thích pháp luật. Như vậy, một cách chung nhất, có thể hiểu, giải thích pháp luật là việc làm rõ hơn về tinh thần, nội dung, ý nghĩa và mục đích các quy định của pháp luật so với nội dung ban đầu của chúng, giúp cho việc các cá nhân, tổ chức, cơ quan hiểu và thực thi các quy định pháp luật đó một cách chính xác và thống nhất. 1.1.2. Đặc điểm về giải thích pháp luật Giải thích pháp luật có những đặc điểm sau: - Giải thích pháp luật là một hoạt động tất yếu, đóng vai trò quan trọng trong quá trình thực hiện pháp luật, giúp cho pháp luật được thực hiện một cách đúng đắn và thống nhất. Đây là một hoạt động giúp đưa pháp luật đi vào cuộc sống. Để thực hiện pháp luật, thì trước hết việc nhận thức pháp luật sao cho đúng và thống nhất cần phải được đặt ra, muốn làm được điều đó thì cần phải thực hiện giải thích pháp luật. Hoạt động giải thích pháp luật là hoạt động tất yếu để hoàn thiện hoạt động lập pháp, đưa những khái niệm tư duy trừu tượng đi vào thực tiễn. - Hoạt động giải thích pháp luật được thực hiện theo một quy trình nhất định. Để đảm bảo cho kết quả giải thích pháp luật hợp pháp, mang tính khoa học và khách quan thì các chủ thể giải thích và hoạt động giải thích cần phải được quy định và tuân theo một phương thức, quy trình nhất định. Đó là những phương pháp và cách thức tiếp cận các quy phạm pháp luật theo một trình tự chặt chẽ, từ việc xác định nhu cầu, nghiên cứu, phân tích, giải thích và công bố kết quả. - Hoạt động giải thích pháp luật là một hoạt động đòi hỏi sự tư duy, sáng tạo. Bằng những kĩ năng, trải nghiệm và kinh nghiệm của mình, các chủ thể giải thích pháp luật nghiên cứu, đưa ra những phân tích, 12
  15. những sản phẩm giải thích pháp luật với mục đích chính là nhằm xác định tinh thần, nội dung, ý nghĩa của các quy phạm pháp luật, giúp cho việc thực thi các quy định đó chính xác và thống nhất. - Bên cạnh đó, hoạt động giải thích pháp luật cũng có tính phụ thuộc vào bối cảnh. Để có thể giải thích đúng tinh thần của văn bản luật, cần phải căn cứ vào các điều kiện kinh tế – xã hội đương thời, đặc biệt phải đặt việc giải thích luật vào bối cảnh phù hợp với sự hình thành và tồn tại của văn bản luật. 1.2. Các hình thức giải thích pháp luật Dựa vào các tiêu chí phân loại khác nhau, giải thích pháp luật có những hình thức cơ bản sau: - Căn cứ theo chủ thể tiến hành giải thích pháp luật, giải thích pháp luật có thể được phân loại: (1) Giải thích pháp luật của cơ quan lập pháp (Nghị viện, Quốc hội); (2) Giải thích pháp luật của các cơ quan hành pháp (Chính phủ); (3) Giải thích pháp luật của các cơ quan tư pháp (Tòa án); (4) Giải thích pháp luật của các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác (các học giả, nhà khoa học, luật sư ) - Căn cứ theo tiêu chí đối tượng của giải thích pháp luật, giải thích pháp luật được phân thành giải thích VBQPPL (Hiến pháp, Luật ); giải thích tập quán pháp; giải thích tiền lệ pháp - Căn cứ vào giá trị pháp lý của nội dung giải thích, giải thích pháp luật được phân loại thành giải thích pháp luật chính thức và giải thích pháp luật không chính thức. Có thể hiểu về giải thích pháp luật chính thức và giải thích pháp luật không chính thức như sau: (1) Giải thích pháp luật chính thức là hoạt động được tiến hành bởi các chủ thể có thẩm quyền theo một trình tự, thủ tục do pháp luật quy định. Nội dung giải thích thường được thể hiện dưới dạng văn 13
  16. bản, có giá trị pháp lý bắt buộc. Giải thích pháp luật chính thức lại được chia làm hai loại, bao gồm giải thích chính thức mang tính quy phạm và giải thích tình huống [12, tr.17-21] • Giải thích chính thức mang tính quy phạm là giải thích pháp luật được tiến hành bởi chủ thể có thẩm quyền theo trình tự nhất định, được thực hiện trên cơ sở khái quát từ thực tế của hoạt đông thực hiện và áp dụng pháp luật. Thông thường, trong thực tế, giải thích pháp luật chính thức mang tính quy phạm thường là giải thích các văn bản quy phạm pháp luật. Những văn bản thể hiện nội dung giải thích có giá trị pháp lý và mang tính bắt buộc chung. • Giái thích tình huống là hoạt động giải thích pháp luật được tiến hành khi phát sinh một tình huống, gắn liền với vụ việc cụ thể. Đây là hoạt động giải thích trong quá trình áp dụng pháp luật (ví dụ: giải thích của Tòa án trong khi xét xử một vụ án, giải quyết một tranh chấp để đưa ra phán quyết). Nội dung của giải thích tình huống không mang tính quy phạm, chỉ có giá trị pháp lý đối với các chủ thể trong vụ việc được giải quyết (có hiệu lực đối với các vụ việc pháp lý khác trong trường hợp khi giải thích này được xây dựng thành án lệ). (2) Giải thích pháp luật không chính thức là hình thức giải thích pháp luật có thể được thực hiện bởi bất kì cá nhân hoặc tổ chức nào, thường được thực hiện bởi các chủ thể như các cơ quan, tổ chức, cá nhân nghiên cứu khoa học Có thể tìm thấy hình thức giải thích pháp luật không chính thức tại những bài báo, tạp chí nghiên cứu, sách chuyên khảo, bình luận Những nội dung giải thích trong hình thức giải thích này có giá trị tham khảo, không mang tính bắt buộc thực hiện. Đây là loại giải thích phổ biến nhất, đa 14
  17. dạng nhất, vì ai cũng có thể giải thích được. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng loại giải thích pháp luật này có thể có những hạn chế như không chính xác, mang tính chủ quan, không thống nhất. Mặc dù vậy, chúng cũng có ảnh hưởng nhất định tới ý thức pháp luật, hành vi pháp lý của các chủ thể pháp luật và thông qua đó ảnh hưởng tới hoạt động thực hiện và áp dụng pháp luật của họ. 1.3. Vai trò, mục đích của giải thích pháp luật Giải thích pháp luật là một hoạt động tất yếu, đóng vai trò quan trọng trong việc đưa các quy định của pháp luật vào cuộc sống và mọi nhà nước đều phải thực hiện. Giải thích pháp luật ngày càng có vai trò quan trọng trong hoạt động nhận thức, thực thi và áp dụng pháp luật. Giải thích pháp luật có một số vai trò có thể kể đến như: • Thông qua mục tiêu trực tiếp là làm sáng tỏ những nội dung chưa được hiểu thống nhất của các quy phạm pháp luật, công tác giải thích pháp luật nhằm xóa đi ngăn cách giữa pháp luật thành văn với thực tiễn, là cầu nối giúp cho các quy phạm có thể áp dụng đuọc trong thực tiễn [6, tr.41]. • Giải thích pháp luật là một phương thức góp phần bảo vệ và phát huy những giá trị của pháp luật. Pháp luật nói chung chứa đựng những giá trị chính trị, xã hội sâu sắc. Tuy nhiên, chúng không tự bảo vệ và phát huy được những giá trị của mình, đặc biệt là trong trường hợp pháp luật có thể chứa đựng những yếu tố không rõ ràng. Pháp luật cũng không thể tránh khỏi những khiếm khuyết vô tình hoặc mang tính chủ quan. Vì vậy, chúng cần được bảo vệ và phát huy những giá trị của mình phù hợp với từng điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể thông qua hoạt động giải thích pháp luật. 15
  18. • Nâng cao chất lượng áp dụng pháp luật, khắc phục, hạn chế sự tùy tiện trong việc hiểu, vận dụng pháp luật, sự vô ý hay cố tình hiểu sai các quy định của pháp luật với những động cơ, mục đích khác nhau • Nâng cao ý thức pháp luật của các chủ thể, đem lại nhận thức đúng đắn cho người dân về pháp luật; xây dựng một thái độ đúng đắn, bao gồm cả trong công tác lập pháp, hành pháp, tư pháp. [14, tr. 41-44] • Góp phần hoàn thiện hoạt động lập pháp, giúp cho hoạt động áp dụng pháp luật (đặc biệt là trong hoạt động xét xử của Tòa án) được chính xác, đúng với ý đồ của nhà lập pháp trong từng vụ việc cụ thể. Sở dĩ giải thích pháp luật có vai trò lớn lao như vậy bởi vì những mục đích của hoạt động này: giải thích pháp luật là hoạt động làm rõ tư tưởng, nội dung quy phạm pháp luật được lựa chọn để ra quyết định áp dụng pháp luật đúng đắn. Giải thích pháp luật còn là hoạt động nhằm tạo ra sự nhận thức thống nhất và thực hiện đúng đắn pháp luật. Sự thống nhất trong việc thực hiện pháp luật là một yêu cầu của hệ thống pháp luật tại bất kì quốc gia nào, đó còn là minh chứng cho trình độ áp dụng pháp luật, chất lượng pháp luật và những điều này phụ thuộc không nhỏ vào hiệu quả hoạt động giải thích pháp luật. Thông qua việc làm rõ nội dung, tư tưởng các quy phạm pháp luật, giải thích pháp luật giúp cho các chủ thể pháp luật có sự nhận thức thống nhất và đúng đắn về pháp luật, giúp cho pháp luật tăng cường tính nghiêm minh, hiệu lực và hiệu quả trong quá trình thi hành và áp dụng; qua đó, tăng cường pháp chế và bảo vệ trật tự pháp luật. Với những vai trò và mục đích trên, giải thích pháp luật là một hoạt động cần được quan tâm đúng mức, nghiên cứu đầy đủ, thấu đáo, toàn diện. Giải thích pháp luật phải được thực hiện một cách đúng đắn, chính xác để có thể 16
  19. phát huy được tối đa vai trò của mình, đem lại hiệu quả tích cực và góp phần hoàn thiện pháp luật. 1.4. Nguyên tắc, phương pháp giải thích pháp luật 1.4.1. Nguyên tắc giải thích pháp luật Giải thích pháp luật là một hoạt động phức tạp, đòi hỏi yêu cầu, kĩ thuật, phương pháp chuẩn xác. Khi giải thích pháp luật cần chú ý một số nguyên tắc cơ bản sau: - Khi tiến hành giải thích cần giữ vững nguyên tắc khách quan, trung thực, phải căn cứ vào văn bản, không được làm sai lệch nội dung, thêm bớt, không vì lợi ích riêng của một hoặc một nhóm chủ thể nào đó. - Về ngôn ngữ quy phạm: Cần nghiên cứu ngôn ngữ quy phạm của văn bản khi đặt trong bối cảnh của chúng, khi giải thích không làm thay đổi nội dung, ý nghĩa ban đầu của ngôn ngữ trong văn bản. - Tôn trọng ý chí của cơ quan lập pháp, mục đích khách quan của văn bản: khi giải thích cần tìm hiểu, bám sát ý chí, mục đích của cơ quan lập pháp; xác định ý nghĩa của văn bản trên cơ sở ý tưởng của chủ thể ban hành, tránh việc giải thích xa rời, sai lệch mục đích ban đầu của văn bản. - Hệ thống hóa, tập hợp các sản phấm giải thích pháp luật để dễ dàng sử dụng, đối chiếu, kiểm soát và quản lý. 1.4.2. Phương pháp giải thích pháp luật Là một công việc phức tạp và có những yêu cầu khắt khe, khi thực hiện giải thích pháp luật luôn cần tới những phương pháp giải thích. Những phương pháp này có ảnh hưởng rất lớn tới chất lượng và hiệu quả của hoạt động giải thích pháp luật. Để làm sáng tỏ nội dung, tư tưởng và ý nghĩa của các quy phạm 17
  20. pháp luật, khoa học pháp lý đưa ra các phương pháp giải thích pháp luật sau: [18, tr.518] - Phương pháp giải thích ngôn ngữ, văn phạm (giải thích theo nghĩa đen): là phương pháp làm sáng tỏ nội dung, tư tưởng của quy phạm pháp luật bằng cách làm rõ nghĩa của từng chữ, từng câu, và xác định mối liên hệ ngữ pháp giữa chúng trong lời văn của quy phạm đó. Đây là phương pháp phổ biến và không thể thiếu khi tiến hành giải thích pháp luật, đặc biệt là khi giảỉ thích những quy phạm mà trong đó có những câu chữ, ngôn từ chuyên môn mới lạ, được sử dụng lần đầu, không dễ nhận thức đối với những người không có chuyên môn trong lĩnh vực. - Phương pháp logic là phương pháp sử dụng những suy đoán logic để làm sáng tỏ nội dung quy phạm pháp luật. Thông qua những phán đoán, suy luận logic cho pháp người nhận thức đạt tới chân lý trong quá trình phân tích nội dung quy phạm pháp luật. Phương pháp này thường được sử dụng trong trường hợp lời văn của quy phạm không trực tiếp thể hiện rõ ý chí của Nhà nước. - Phương pháp giải thích chính trị - lịch sử là phương pháp tìm hiểu nội dung quy phạm thông qua việc nghiên cứu các điều kiện hoàn cảnh chính trị - lịch sử đã dẫn đến việc ban hành các quy phạm hoặc văn bản quy phạm pháp luật đó và nhiệm vụ chính trị mà Nhà nước mong muốn đạt được khi ban hành quy phạm đó. Ví dụ, với cùng một quy định về chế độ sở hữu thì với điều kiện chính trị – lịch sử năm 1980 thì chỉ được hiểu gồm hai chế độ là sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể, nhưng với các điều kiện chính trị – lịch sử năm 1992 thì phải được hiểu gồm ba chế độ là sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân [16, tr.17-21] 18
  21. Thành tố chính trị - lịch sử đóng góp vào việc giải thích pháp luật thông qua việc căn cứ vào ý chí của nhà làm luật tại thời điểm ban hành văn bản luật. Hoàn cảnh ban hành và tồn tại của luật có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc giải thích pháp luật vì nếu muốn giải thích đúng tinh thần của văn bản luật, cần căn cứ vào các điều kiện kinh tế – xã hội đương thời, phải đặt việc giải thích luật vào bối cảnh phù hợp với sự hình thành và tồn tại của văn bản luật. Đây là một phương pháp cần được lưu ý đến trong hoạt động giải thích pháp luật, bởi xã hội không ngừng vận động và luôn luôn có những biến đổi quan trọng. - Phương pháp giải thích hệ thống là làm sáng tỏ nội dung, tư tưởng quy phạm pháp luật thông qua việc đối chiếu với các quy phạm khác; xác định vị trí của quy phạm đó trong chế định pháp luật, ngành luật cũng như trong toàn bộ hệ thống pháp luật. Phương pháp giải thích hệ thống có thể chỉ ra những mâu thuẫn, sự không thống nhất hay chồng chéo, thiếu sót của các quy phạm pháp luật cũng như các bộ phận trong hệ thống pháp luật. - Phương pháp giải thích so sánh, đối chiếu là phương pháp đưa ra những sự tương đồng, khác biệt (về quy định, cách thức điều chỉnh, cách giải quyết vấn đề) giữa các hệ thống pháp luật khác nhau, từ sự so sánh, đánh giá để rút ra những lập luận và giải thích có tính khoa học. - Ngoài ra, trong hoạt động giải thích pháp luật, căn cứ theo tiêu chí về khối lượng giải thích, phương pháp giải thích theo khối lượng gồm giải thích theo đúng nguyên văn; giải thích mở rộng; giải thích hạn chế cũng được sử dụng. Về nguyên tắc, pháp luật phải được giải thích đúng nguyên văn. Tức là, nội dung của lời văn quy phạm pháp luật được hiểu theo từng câu, từng chữ của chúng. Đây là cách giải thích phổ biển trong thực tế. 19
  22. Tuy nhiên, có những trường hợp cần giải thích theo cách phát triển mở rộng, hoặc giải thích hạn chế: • Giải thích pháp luật theo cách phát triển mở rộng có nghĩa là giải thích nội dung văn bản pháp luật rộng hơn so với nghĩa của từ ngữ văn bản, sao cho đúng với nghĩa đích thực mà nhà làm luật muốn thể hiện trong quy phạm (nội dung lời giải thích rộng hơn so với nội dung lời văn của quy phạm pháp luật mà nó giải thích). Ví dụ: lời văn của quy định pháp luật là: “ thì sẽ bị xử lý theo luật định”, theo phương pháp giải thích mở rộng, nội dung giải thích đưa ra sẽ là “thì sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật” [4, tr.65] • Ngược lại với giải thích pháp luật theo cách phát triển mở rộng, giải thích hạn chế là cách giải thích nội dung văn bản pháp luật hẹp hơn so với nghĩa của từ ngữ trong văn bản sao cho đúng với ý nghĩa thực mà nhà làm luật muốn thể hiện trong quy phạm. Ví dụ, lời văn của quy định pháp luật là: “ tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân”, theo phương pháp giải thích hạn chế, nội dung giải thích đưa ra là: “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, tầng lớp trí thức và những người lao động khác”. Như vậy, chữ “nhân dân” sau khi được giải thích chỉ gồm những đối tượng trên, không bao gồm tất cả mọi người trong xã hội, hẹp hơn so với lời văn mà quy định nó chứa đựng. [4, tr.65] Giải thích mở rộng và giải thích hạn chế là những trường hợp ngoại lệ, khi áp dụng không được tùy tiện để tránh làm sai lệch ý chí của nhà làm luật. Chúng được áp dụng để bổ sung, khắc phục những thiếu sót của kỹ thuật lập pháp, làm cho các chủ thể hiểu đúng, đủ nội dung thực sự của các quy định. Trong trường hợp, lời văn của quy định pháp luật thực sự rộng hơn hoặc hẹp hơn so với nội dung thật của nó 20
  23. thì đó gọi là giải thích mở rộng hoặc hạn chế, nếu không thì việc giải thích mở rộng hoặc hạn chế này là sự vi phạm pháp chế. Trong một số trường hợp, việc giải thích mở rộng hoặc hạn chế phụ thuộc vào điều kiện chính trị - lịch sử của đất nước. Giữa các phương pháp giải thích pháp luật luôn có quan hệ mật thiết và không loại trừ lẫn nhau. Trong thực tế, khi tiến hành giải thích pháp luật, các chủ thể thường không sử dụng một phương pháp nhất định mà kết hợp một số phương pháp với nhau để mang lại hiệu quả cao. Việc lựa chọn này tuỳ thuộc vào nhận thức chủ quan, tư duy khoa học của người giải thích và mức độ tương ứng, phù hợp với từng loại quy định cần giải thích, hoàn cảnh giải thích, đồng thời cần phải cân nhắc đến sự thay đổi và quá trình phát triển liên tục của xã hội, thời điểm giải thích, mục đích giải thích, người đề nghị giải thích Vậy nên, người giải thích pháp luật cần sử dụng, kết hợp những phương pháp thích hợp, phù hợp với từng vấn đề, từng giai đoạn giải thích để đem lại một sản phẩm giải thích pháp luật có chất lượng tốt nhất. 1.5. Một số mô hình giải thích pháp luật trên thế giới Chủ thể tiến hành giải thích pháp luật là yếu tố có tính quyết định trong nội dung của hoạt động này. Vì vậy có thể sử dụng tên của chủ thể giải thích pháp luật để gọi tên cho những mô hình giải thích pháp luật cơ bản trên thế giới. Hiện nay trên thế giới chủ yếu có 3 mô hình giải thích pháp luật cơ bản dựa trên các chủ thể chính tiến hành hoạt động giải thích: - Mô hình Tòa án giải thích pháp luật; - Mô hình cơ quan Lập pháp giải thích pháp luật; - Mô hình các cơ quan thuộc cả ba nhánh quyền lực nhà nước giải thích pháp luật. 21
  24. 1.5.1. Mô hình Tòa án giải thích pháp luật Là một mô hình giải thích pháp luật khá phổ biến trên thế giới và là xu hướng chung hiện nay. Theo mô hình này, chủ thể giải thích pháp luật thuộc về Tòa án. Quyền giải thích pháp luật được trao cho Tòa án với mục đích nhằm hạn chế quyền lực Nhà nước và tạo ra sự cân bằng giữa các nhánh quyền lực còn lại. Mô hình này có thể dễ bắt gặp tại các nước có cách thức tổ chức quyền lực Nhà nước theo thuyết “Tam quyền phân lập”, điển hình như là Anh, Mỹ. Cách thức tổ chức và hoạt động của các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp ở các nước này có tính kiềm chế và đối trọng nhau. Đây cũng là các quốc gia có truyền thống sử dụng án lệ. Các quốc gia đề cao án lệ thường cũng chính là các quốc gia giao trọng trách giải thích pháp luật cho Tòa án. Ở Anh, các thẩm phán có thể tạo ra luật và đưa ra những quyết định để giải thích cho chính phán xét của họ. Hoạt động giải thích pháp luật chính là một phần trong những phán xét của Tòa án, được thể hiện thông qua việc trong các quyết định của Thẩm phán luôn luôn có phần giải thích đi kèm. Phán xét của Thẩm phán được chia thành 2 phần: Tranh luận và Quyết định. Phần Quyết định sẽ không được xem là án lệ bởi vì nó liên quan cụ thể đến từng trường hợp. Phần Tranh luận được xem là Án lệ bởi vì Thẩm phán đưa ra những lý do và ý kiến về trường hợp đó. Khi phán xét của Tòa án được cân nhắc thành Án lệ, giải thích pháp luật của phán xét cũng được tuân theo. Thẩm phán chính là người giải thích pháp luật cho chính phán xét của họ. Khi đó, giải thích pháp luật sẽ có hiệu lực và giá trị của giải thích pháp luật phụ thuộc vào Án lệ. Hơn nữa, hoạt động giải thích pháp luật của các Thẩm phán, bồi thẩm đoàn, luật sự, nhà nghiên cứu luật đều được tôn trọng. [10] Là điển hình của trường phái Common Law, đối với hệ thống pháp luật Mỹ thì Tòa án cần phải diễn giải luật. Chánh án John Marshall là người đã tuyên bố công khai quyền xem xét lại theo thủ tục tư pháp qua vụ Marbury kiện Madison (1803), ông đã tuyên bố “Trách nhiệm và bổn phận chính của cơ quan tư pháp là giải thích luật”. Thậm chí, bổn phận đó còn bao hàm quyền của các 22
  25. Tòa án được bác bỏ những đạo luật của Quốc hội nếu những đạo luật này trái với Hiến pháp. Để đảm bảo được sự thống nhất và tính lường trước trong việc áp dụng pháp luật, các Tòa án Mỹ tự rằng buộc bởi nguyên tắc: “theo quyết định trước” – hay còn gọi là án lệ. Để giải quyết việc các Tòa án đưa ra những diễn giải khác nhau, thì Tòa án cấp cao hơn sẽ tìm cách giải quyết sự không thống nhất này. Và những phán quyết đó của các Toà án cấp cao có giá trị rằng buộc đối với bất kì Tòa án nào sau này nếu gặp phải vấn đề đó. Quy trình chung của hoạt động giải thích pháp luật trong mô hình này về cơ bản nằm trong quy trình xét xử, sản phẩm giải thích được thể hiện trong nội dung của bản án, đặc biệt là phần lý lẽ. Là phần trọng tâm của bản án, phần lý lẽ chứa đựng các lập luận, luận cứ, cách giải thích pháp luật, các giải thích về phán quyết. Những lý lẽ này được đưa ra dựa trên nhiều nguồn khác nhau: các ý kiến, tranh luận của các thẩm phán; các dữ kiện từ các phán quyết trước ). Các tranh luận và quan điểm này thường được công bố (trong phiên tòa đối với Anh hoặc được tổng hợp lại và xuất bản đối với Mỹ). Nhìn chung, theo mô hình Tòa án giải thích pháp luật thì đối tượng của giải thích pháp luật không bị hạn chế, đối tượng của giải thích pháp luật có thể là bất kì hình thức pháp luật nào (Hiến pháp, các đạo luật, văn bản dưới luật và những hình thức khác). Khi bản án trở thành một án lệ, thì hiệu lực của sản phẩm giải thích pháp luật cũng có giá trị áp dụng. Giải thích pháp luật được trao cho Tòa án là xu hướng tất yếu trong cách thức tổ chức hoạt động giải thích pháp luật ở các quốc gia hiện nay. Mô hình này đã tồn tại và trở nên phổ biến bới những ưu điểm sau: - Trao quyền cho Tòa án trong việc giải thích pháp luật là một cách tốt hất để hạn chế việc lạm quyền, tạo nên sự cân bằng, đối trọng về quyền lực đối với hai nhánh quyền lực còn lại. Tòa án cần độc lập với hai nhánh trên để giữ vai trò trọng tài, và bản thân Tòa án ít có khả 23
  26. năng lạm quyền nhất, cũng là cơ quan có nhiều khả năng hạn chế sự lạm quyền nhất. - Nhu cầu giải thích pháp luật của Tòa án là luôn tồn tại, bởi Tòa án là nơi xét xử, giải quyết các vụ việc và trong quá trình đó luôn luôn phát sinh những tình huống mới. Tòa án cũng là cơ quan thực hiện việc giải thích pháp luật một cách tốt nhất, vì bằng những trải nghiệm và kinh nghiệm thực tiễn thông qua việc xét xử rất nhiều vụ việc, Tòa án là cơ quan sẽ thực hiện việc giải thích pháp luật một cách phù hợp và có hiệu quả. Việc trao quyền giải thích pháp luật cũng giúp cho Tòa án phát huy được thế mạnh của mình, nâng cao trách nhiệm và bổn phận của Tòa án, góp phần tạo được sự độc lập đối với nhánh Tư pháp; sự độc lập và chỉ tuân theo pháp luật khi xét xử của các Thẩm phán. - Đối với các nước có truyền thống sử dụng án lệ, khi giải quyết mỗi vụ việc cần xem xét, đánh giá và phân tích, giải thích các án lệ, quy định pháp luật có liên quan. Án lệ chính là nơi chứa đựng các nội dung giải thích pháp luật, và giữa án lệ và nội dung giải thích pháp luật có sự liên hệ với nhau. Khi sử dụng án lệ cũng có nghĩa là Tòa án có quyền giải thích và cần phải giải thích pháp luật. 1.5.2. Mô hình cơ quan lập pháp giải thích pháp luật Theo mô hình này, chủ thể có thẩm quyền giải thích pháp luật một cách chính thức là các cơ quan lập pháp (Nghị viện, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ). Các chủ thể này được ghi nhận chính thức về thẩm quyền của mình thông qua các văn bản pháp luật (Hiến pháp, các loại văn bản pháp luật khác). Đối tượng giải thích chủ yếu trong mô hình này là các văn bản pháp luật như Hiến pháp, luật, một số văn bản pháp luật của UBTVQH hay Nghị định của Chính phủ. Các đối tượng này được giải thích thông qua một quy trình giải thích pháp luật được quy định khá cụ thể và chi tiết. 24
  27. Mô hình cơ quan Lập pháp giải thích pháp luật tồn tại điển hình ở một số nước như Liên Xô cũ, Trung Quốc, Bắc Triều Tiên, Việt Nam Một ví dụ điển hình đó chính là Trung Quốc. Nhằm duy trì tính chất chính thống của học thuyết lập hiến ở Trung Quốc, Trung Quốc không áp dụng hệ thống tam quyền phân lập, toàn bộ quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân và nhân dân thi hành quyền lực của mình thông qua các cuộc họp hội đồng nhân dân. [23, tr.203] Hiến pháp hiện hành của Trung Quốc ghi nhận Ủy ban Thường vụ Quốc hội là cơ quan có thẩm quyền giải thích Hiến pháp và pháp luật [20]. Thực hiện quyền giải thích pháp luật của mình, kể từ năm 1982 UBTVQH Trung Quốc đã tiến hành giải thích pháp luật một số ít trường hợp [2, tr.35] : • Giải thích Điều 93 Luật hình sự 1997 • Giải thích Điều khoản 228, 342 và 410 Luật Hình sự 1997 (31/08/2001) • Giải thích Điều khoản 294 Luật Hình sự 1997 (28/04/2002) • Giải thích Điều 384 Luật Hình sự 1997 (28/04/2002) • Giải thích Điều 313 Luật Hình sự 1997 (29/08/2002) • Giải thích những vấn đề chung về chủ thể trong “Tội thoái thác trách nhiệm” ở Chương IX Luật Hình sự 1997 (28/09/2002) • Giải thích cụm từ “Thẻ tín dụng” (29/12/2004) • Giải thích về cụm từ “Các hóa đơn hoàn thuế xuất khẩu khác và việc hoàn thuế” (29/12/2005) Đối với Trung Quốc, khác với hệ thống “tam quyền phân lập”, luật pháp được định nghĩa “là bản tuyên ngôn của ý chí giai cấp thống trị” – định nghĩa này có ảnh hưởng nhất định tới cơ chế thi hành và giải thích pháp luật, khiến cho hệ thống tư pháp ở Trung Quốc đóng vai trò ít quan trọng hơn trong hoạt động giải thích pháp luật. Mặc dù vậy, hiện nay Tòa án Trung Quốc cũng đã đang được thực hiện nhiều hơn trong việc ủy quyền giải thích pháp luật, được thực hiện giải thích pháp luật trong một phạm vi nhất định. Tòa án Tối cao 25
  28. Trung Quốc đã ban hành các văn bản dưới luật (các thông tư) để thực thi luật, các văn bản làm rõ ý nghĩa của các quy định pháp luật cho các Tòa án cấp dưới. Như vậy, ngoài chủ thể chính thức có thẩm quyền giải thích pháp luật là UBTVQH, Trung Quốc cũng đang dần có sự thay đổi, chuyển mình theo một lẽ tất yếu, mở rộng thẩm quyền giải thích pháp luật hơn cho Tòa án. Cũng tương tự như Trung Quốc, các quốc gia có cùng mô hình giải thích pháp luật trên đều trao cho cơ quan lập pháp quyền giải thích pháp luật – mà ở đó quyền giải thích pháp luật của nhánh lập pháp là chủ yếu, đóng vai trò chính, quan trọng hơn so với hai nhánh quyền lực còn lại. Giải thích cho đặc điểm này là bởi lẽ, các quốc gia này cùng có những sự tương đồng, những đặc điểm chung cơ bản về tổ chức nhà nước, về nguyên tắc “tập quyền” – quyền lực là tập trung, thống nhất, không có hoặc ít có sự kiềm chế, đối trọng. Là cơ quan quyền lực cao nhất, Quốc hội (Nghị viện) đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, là cơ quan lập pháp, với khả năng lý giải chính xác nhất ý chí, mục đích của văn bản quy phạm pháp luật được ban hành (Latin Quilibet verborum suorum optimus interpres – người giải thích từ ngữ tốt nhất chính là người viết [8, tr.55-62, 68]), thì theo sự lý giải này, thì cơ quan lập pháp là cơ quan được cho rằng có thể đảm nhiệm trọng trách giải thích pháp luật một cách tốt nhất. Tuy nhiên, các quốc gia có mô hình giải thích pháp luật này cũng không còn giữ nguyên mô hình truyền thống với chủ thể giải thích pháp luật duy nhất là cơ quan lập pháp. Hiện nay, theo xu hướng chung, các quốc gia này đang dần dần có xu hướng mở rộng thẩm quyền giải thích pháp luật cho Tòa án, ủy quyền nhiều hơn cho Tòa án thực hiện chức năng này. Đây cũng là một xu thế tất yếu, ngày càng phổ biến trên thế giới. 26
  29. 1.5.3. Mô hình các cơ quan thuộc cả ba nhánh quyền lực nhà nước giải thích pháp luật Theo mô hình này, chủ thể giải thích pháp luật có thể là các cơ quan thuộc cả ba nhánh quyền lực nhà nước. Một số quốc gia có mô hình giải thích pháp luật này có thể kể đến như Nhật Bản, Hàn Quốc, Liên bang Nga - Nhật Bản là một trong các quốc gia theo hệ thống luật Civil law. Ghi nhận sự cần thiết của hoạt động giải thích pháp luật và nhận định rằng “Trong quá trình lập pháp, các nhà lập pháp không thể lường được tất cả những tình huống cũng như những khó khăn khi mang văn bản quy phạm pháp luật nào đó áp dụng trong thực tế cuộc sống” [17, tr.74]. Việc giải thích pháp luật tại Nhật Bản được thực hiện như sau: • Nghị viện có thể giải thích đạo luật của chính họ bằng cách đưa ra một đạo luật sau đó. • Chính phủ cũng có thể giải thích pháp luật thông qua các văn bản chi tiết hóa các điều khoản trong luật. • Trong thực tiễn áp dụng luật, các Thẩm phán của Tòa án cấp dưới có nhu cầu yêu cầu Tòa án cấp trên giải thích, hướng dẫn về các điều khoản khó của luật hiện hành trước khi áp dụng nó. Như vậy, Tòa án Tối cao có vai trò rất quan trọng trong việc giải thích pháp luật đối với hệ thống Tòa án cấp dưới. Tại Nhật Bản, án lệ được công nhận là một hình thức giải thích pháp luật, bổ sung cho những khiếm khuyết của pháp luật trong những trường hợp cần thiết. Và án lệ cũng được xem là một nguồn luật của pháp luật Nhật Bản. [10] - Tại Hàn Quốc, quyền tối cao về giải thích pháp luật được trao cho các cơ quan Tư pháp, các Tòa án và Tòa Hiến pháp. Cơ quan lập pháp và hành pháp cũng có quyền giải thích pháp luật trong một chừng mực nhất định, trong phạm vi thẩm quyền mà pháp luật cho phép. Hoạt động của các cơ quan này chủ yếu theo dạng kiêm nhiệm, với đối 27
  30. tượng giải thích chủ yếu là các sản phẩm pháp luật do chính họ ban hành và giải thích theo sự ủy quyền của các chủ thể khác. Tuy nhiên, giải thích pháp luật của bất kỳ chủ thể nào cũng có thể được xem xét lại bởi cơ quan tư pháp trong từng vụ việc cụ thể. Nếu giải thích pháp quy đúng thẩm quyền, giải thích đó sẽ được tòa án thừa nhận, còn ngược lại, nếu không đúng thẩm quyền, chúng sẽ bị hủy giá trị. “Quyền năng giải thích Hiến pháp và các văn bản luật khác được trao cho vài thiết chế nhà nước. Tòa án Hiến pháp có thẩm quyền tối cao giải thích Hiến pháp và các văn bản luật khác. Tuy nhiên, cơ quan lập pháp và hành pháp cũng được ủy quyền giải thích hiến pháp và các văn bản luật. Trong chừng mực văn bản pháp luật không viện chứng giới hạn của luật cấp trên, cơ quan lập pháp và hành pháp có quyền giải thích Hiến pháp và văn bản luật” [22, tr.271] - Đối với Liên bang Nga, Tòa án Hiến pháp được công nhận là cơ quan có thẩm quyền trong việc thực hiện giải thích Hiến pháp (“Với mục đích bảo vệ nền tảng của chế độ Hiến pháp, bảo vệ quyền và tự do cơ bản của con người và công dân, đảm bảo tính tối thượng và hiệu lực trực tiếp của Hiến pháp Liên bang trên toàn bộ lãnh thổ Liên bang Nga, Tòa án Hiến pháp thực hiện giải thích hiến pháp Liên bang” [21]). Đối với giải thích văn bản pháp luật, thì hoạt động này không được pháp luật trao quyền cho cơ quan chuyên biệt nào mà tùy thuộc vào những quy định của pháp luật chuyên ngành mà một số cơ quan được trao quyền giải thích pháp luật. Ví dụ, các cơ quan như Tòa án tối cao và Tòa án trọng tài tối cao giải thích việc áp dụng pháp luật liên quan đến hoạt động xét xử; các cơ quan hành pháp như Chính phủ hay các bộ cũng có quyền giải thích pháp luật trong lĩnh vực quản lý của mình; các cơ quan công tố như Tổng chưởng lí có thể ban hành chỉ 28
  31. thị giải thích nội dung các QPPL để thi hành trong hoạt động của các cơ quan công tố. [1, tr.11] Nhìn chung, đặc điểm bao trùm của mô hình này là đồng thời có nhiều chủ thể được trao quyền giải thích pháp luật. Đối với chủ thể thuộc nhóm cơ quan hành pháp thì đối tượng giải thích pháp luật chủ yếu là các văn bản được ban hành dưới thẩm quyền của họ, sản phẩm giải thích pháp luật có thể là các chỉ thị, thông bảo, hướng dẫn thi hành hoặc qua việc trả lời các câu hỏi Còn đối với cơ quan lập pháp, họ giải thích pháp luật bằng cách ban hành chính các văn bản luật giải thích. Mặc dù vậy, Tòa án vẫn có vai trò quan trọng trong hoạt động giải thích pháp luật, bởi lẽ Tòa án có thể xem xét lại việc giải thích pháp luật của các cơ quan khác. Có thể thấy, nguyên tắc chung để vận hành cơ bản trong quyền lực nhà nước của các quốc gia này là nguyên tắc pháp quyền, đặc biệt nhấn mạnh đến sự cần thiết của hoạt động giải thích pháp luật và đề cao vai trò của Tòa án. Dễ nhận thấy rằng, không có một khuôn mẫu chung cho các quốc gia về giải thích pháp luật, bởi cách thức tổ chức nhà nước, kinh nghiệm, trình độ phát triển, đời sống, văn hóa ở mỗi quốc gia là khác nhau. Tuy nhiên, có thể nhận thấy dù là theo mô hình nào, thì theo sự phát triển xu thế chung, vai trò của Tòa án ngày càng được chú trọng và nhấn mạnh hơn trong hoạt động giải thích pháp luật. 29
  32. KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 Với các nội dung chính đã được trình bày ở các tiểu mục, Chương 1 đã đề cập đến những nội dung cơ bản nhất của những vấn đề lý luận chung về giải thích pháp luật, những khái niệm, vị trí, vai trò, đặc điểm, hình thức, phương pháp và nguyên tắc của giải thích pháp luật cũng như tầm quan trọng của hoạt động này. Đồng thời, Chương 1 cũng đã đề cập đến các mô hình giải thích pháp luật của một số quốc gia trên thế giới. Với nhiều cách thức tổ chức và tiến hành giải thích pháp luật rất đa dạng, tuy nhiên, nhìn chung đó đều thuộc những mô hình chung xuất phát từ chủ thể tiến hành hoạt động này. Đó là những mô hình do tòa án giải thích pháp luật, cơ quan lập pháp giải thích pháp luật và mô hình do các cơ quan thuộc ba nhánh quyền lực giải thích pháp luật. Mặc dù ở bất kì mô hình nào, cũng không thể phủ nhận vị trí, vai trò của Tòa án trong hoạt động giải thích pháp luật ngày càng trở nên quan trọng và đang trở thành một xu thế chung, phổ biến trên thế giới. 30
  33. CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG GIẢI THÍCH PHÁP LUẬT TẠI VIỆT NAM HIỆN NAY 2.1. Các quy định pháp luật hiện hành về giải thích pháp luật Một cách chung nhất, khung pháp lý của giải thích pháp luật bao gồm các quy định pháp luật điều chỉnh các nội dung về: - Chủ thể có thẩm quyền đề nghị giải thích pháp luật; - Chủ thể có thẩm quyền giải thích pháp luật; - Hình thức và giá trị pháp lý của văn bản giải thích pháp luật; - Quy trình thủ tục khi tiến hành giải thích pháp luật. Các quy định này nằm rải rác trong các văn bản quy phạm pháp luật – từ Hiến pháp (2013), Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (2015), Nghị quyết số 1075/2015/UBTVQH về Ban hành quy chế làm việc của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Nghị định số 34/2016/NĐ-CP Quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật Hoạt động giải thích pháp luật được quy định với những nội dung cơ bản như sau: a. Về chủ thể có thẩm quyền đề nghị giải thích pháp luật Theo quy định của pháp luật, được quy định tại Khoản 1 Điều 158 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015, các chủ thể chính thức có thẩm quyền yêu cầu đề nghị UBTVQH giải thích pháp luật hiện nay là: Chủ tịch nước, Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm toán nhà nước, Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, cơ quan trung ương của tổ chức thành viên của Mặt trận và đại biểu Quốc hội. 31
  34. b. Chủ thể có thẩm quyền giải thích pháp luật Chủ thể chính thức có thẩm quyền giải thích pháp luật ở Việt Nam hiện nay là Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Quy định này được thể hiện tại Hiến pháp 1959 (Điều 53), Hiến pháp 1992 (Điều 91), Hiến pháp 2013 (Điều 74), Luật Ban hành Văn bản quy phạm pháp luật năm 1996, 2008, 2015. Hiến pháp 1980 quy định chủ thể giải thích pháp luật là Hội đồng Nhà nước (Điều 100) – là “cơ quan cao nhất hoạt động thường xuyên của Quốc hội, là Chủ tịch tập thể của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Theo quy định của pháp luật Việt Nam, tại khoản 2, Điều 74, Hiến pháp 2013), Ủy ban thường vụ Quốc hội là chủ thể được trao thẩm quyền giải thích pháp luật chính thức. “Điều 74 Uỷ ban thường vụ Quốc hội có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây: 2. Ra pháp lệnh về những vấn đề được Quốc hội giao; giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh;” Như vậy, chủ thể có thẩm quyền giải thích pháp luật chính thức ở Việt Nam là cơ quan thuộc nhánh quyền lực lập pháp. Tuy nhiên, bằ ng thưc̣ tế hoaṭ đông̣ của mình, để đảm bảo giải quyết kịp thời nhu cầu giải thích pháp luật thực tiễn đặt ra, các cơ quan thuộc hai nhánh quyền lực còn lại đều tham gia vào hoạt động giải thích pháp luât,̣ ví du ̣ như hoạt động ban hành các Nghi ̣đinḥ quy đinḥ chi tiết các quy định của Luâṭ của Chính phủ, trong đó có thể đưa ra các đinḥ nghiã về môṭ số thuâṭ ngữ mà Luâṭ chưa giải thích chi tiết; Tòa án thực hiện các hoạt động giải thích pháp luật như ban hành văn bản hướng dẫn, ban hành án lệ. 32
  35. c. Hình thức và giá trị pháp lý của văn bản giải thích pháp luật Hình thức của văn bản giải thích pháp luật hiện nay là Nghị quyết của UBTVQH, hình thức thể hiện và giá trị pháp lý của văn bản giải thích pháp luật được quy định tại Luật Ban hành Văn bản quy phạm pháp luật 2015 như sau: “Điều 161. Đăng Công báo, đăng tải và đưa tin nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh 1. Nghị quyết của Ủy ban nhân dân thường vụ Quốc hội giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh phải được đăng Công báo theo quy định tại Điều 150 của Luật này, đăng tải trên Cổng thông tin điện tử của Quốc hội và đăng tải, đưa tin theo quy định tại Điều 157 của Luật này. 2. Nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh được áp dụng cùng với văn bản được giải thích.” d. Quy trình thủ tục khi tiến hành giải thích pháp luật Quy trình giải thích pháp luật được quy định cụ thể tại Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015: “Điều 160. Trình tự, thủ tục giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh 1. Tùy theo tính chất, nội dung của vấn đề cần được giải thích, Ủy ban thường vụ Quốc hội giao Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội soạn thảo dự thảo nghị quyết giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh trình Ủy ban thường vụ Quốc hội. Ủy ban thường vụ Quốc hội giao Hội đồng dân tộc hoặc Ủy ban của Quốc hội thẩm tra về sự phù hợp của dự thảo nghị quyết giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh với tinh thần và nội dung của văn bản được giải thích. 33
  36. 2. Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét, thông qua dự thảo nghị quyết giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh theo trình tự sau đây: a) Đại diện cơ quan được phân công chuẩn bị dự thảo nghị quyết giải thích thuyết trình và đọc toàn văn dự thảo; b) Đại diện cơ quan chủ trì thẩm tra trình bày báo cáo thẩm tra; c) Đại diện cơ quan, tổ chức, cá nhân được mời tham dự phiên họp phát biểu ý kiến, d) Ủy ban thường vụ Quốc hội thảo luận; đ) Chủ tọa phiên họp kết luận; e) Ủy ban thường vụ Quốc hội biểu quyết; g) Chủ tịch Quốc hội ký nghị quyết giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh.” Về cơ bản quy trình, thủ tục trong hoạt động giải thích Hiến pháp, luật, được thực hiện giống như quy trình, thủ tục thông qua luật. Tuy nhiên với tính chất, nội dung và phạm vi nghị quyết nên quy trình cũng có phần đơn giản hóa hơn, cụ thể gồm các bước: - Đề nghị giải thích pháp luật: Khi phát sinh nhu cầu, các chủ thể có thẩm quyền đề nghị UBTVQH giải thích. Văn bản đề nghị phải thể hiện được các nội dung cơ bản như sự cần thiết, nội dung quy định cần giải thích, các cách hiểu khác nhau về quy định UBTVQH có trách nhiệm xem xét và thông báo cho bên đã đề nghị biết ý kiến của mình về vấn đề này. - Soạn thảo dự thảo nghị quyết giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh: Sau khi đề nghị giải thích được UBTVQH chấp nhận thì Ban soạn thảo được thành lập để chuẩn bị dự thảo nghị quyết giải thích. Dự 34
  37. thảo nghị quyết giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh sau khi đã soạn thảo sẽ được trình UBTVQH để tiến hành thẩm tra. - Thẩm tra dự thảo nghị quyết giải thích: UBTVQH giao Hội đồng dân tộc hoặc Ủy ban của Quốc hội thẩm tra về sự phù hợp của dự thảo nghị quyết giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh với tinh thần và nội dung của văn bản được giải thích. Cơ quan thẩm tra tiến hành thẩm tra về tất cả các mặt của dự thảo, tập trung chủ yếu vào các vấn đề sau: • Sự cần thiết ban hành nghị quyết; đối tượng, phạm vi điều chỉnh; • Sự phù hợp của nội dung dự thảo với đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng; tính hợp hiến, hợp pháp của dự thảo và tính thống nhất của văn bản với hệ thống pháp luật; • Việc tuân thủ thủ tục và trình tự soạn thảo; • Tính khả thi của dự thảo. - Thảo luận tại phiên họp và xem xét thông qua dự thảo nghị quyết giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh. - Công bố nghị quyết giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh. Bên cạnh quy trình, thủ tục giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh của UBTVQH như đã nêu trên, các cơ quan hành pháp hay tư pháp cũng thực hiện việc giải thích pháp luật. Đối với các hoạt động như ban hành các Nghi ̣đinḥ quy đinḥ , hướng dẫn chi tiết các quy định của Luâṭ của Chính phủ; hay Tòa án thực hiện các hoạt động giải thích pháp luật như ban hành ban hành án lệ cũng đều được tuân theo một quy trình nhất định được quy định bởi pháp luật. Một cách vắn tắt, các quy trình này được thực hiện như sau: - Hoạt động ban hành các văn bản hướng dẫn, quy định chi tiết của Chính phủ được tuân theo quy định của quy trình ban hành VBQPPL. Theo Nghị định 34/2016/NĐ-CP Quy định chi tiết một số điều và biện 35
  38. pháp thi hành Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, quy trình ban hành VBQPPL gồm 03 bước. • Bước 1: Lập đề nghị xây dựng VBQPPL; • Bước 2: Soạn thảo, thẩm định dự án, dự thảo VBQPPL; • Bước 3: Công báo và niêm yết VBQPPL. - Theo quy định tại Nghị quyết 03/2015/NQ–HĐTP của Hội đồng thẩm phán TANDTC năm 2015 Về quy trình lưạ chon,̣ công bố và áp dung̣ án lê,̣ thì quy trình lựa chọn, công bố án lệ phải trải qua các bước sau: • Bước 1: Rà soát, phát hiện các bản án, quyết định để đề xuất phát triển thành án lệ (Điều 3); • Bước 2: Lấy ý kiến đối với bản án, quyết định được đề xuất lựa chọn, phát triển thành án lệ (Điều 4); • Bước 3: Thành lập Hội đồng tư vấn (Điều 5); • Bước 4: Thông qua án lệ (Điều 6); • Bước 5: Công bố án lệ (Điều 7). Về thực chất, hoạt động giải thích pháp luật của các cơ quan trên được thực hiện bằng các hình thức như đối với các cơ quan hành pháp là thực hiện ban hành các nghị định của Chính phủ, thông tư của các Bộ, cơ quan ngang Bộ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành, một dạng nội dung phổ biến trong các loại văn bản này chính là “giải thích từ ngữ” trong luật. Hay như Tòa án đã thực hiện hoạt động giải thích pháp luật thông qua việc ban hành án lệ. Những sản phẩm giải thích pháp luật của các cơ quan này đều là những sản phẩm có giá trị pháp lý, góp phần giải quyết một phần nhu cầu giải thích pháp luật tại Việt Nam hiện nay. 2.2. Thực trạng giải thích pháp luật ở Việt Nam 2.2.1. Hoạt động giải thích pháp luật của UBTVQH Vấn đề “giải thích pháp luật” được ghi nhận lần đầu tiên trong Hiến pháp 1959, các bản Hiến pháp 1980, 1992, 2013 đều có ghi nhận về vấn đề này. Trên 36
  39. cơ sở đó, Luật Ban hành VBQPPL 1996, 2008, 2015 đã có quy định và trao thẩm quyền giải thích pháp luật chính thức cho UBTVQH. Tuy nhiên, trên thực tế, cho đến nay thì hoạt động này của Ủy ban thường vụ Quốc hội chưa đạt hiệu quả cao. Việc giải thích pháp luật diễn ra không thường xuyên (chỉ giải thích được vài lần trong một khoảng thời gian dài), không đáp ứng nhu cầu giải thích pháp luật trên thực tiễn. Trong khi nhu cầu giải thích pháp luật là ngày càng nhiều, điều này gây bất cập lớn cho hoạt động thực thi và áp dụng pháp luật của các chủ thể có liên quan. Một số lần giải thích pháp luật của UBTVQH có thể kể đến như sau: - Nghị quyết số 746/2005/NQ–UBTVQH ngày 26/01/2005 của UBTVQH giải thích điểm c Khoản 2 Điều 241 của Luật Thương mại 1997 theo đề nghị của Chính phủ, nội dung về “Ba tháng kể từ khi bên vi phạm phải hoàn thành nghĩa vụ theo hợp đồng đối với khiếu nại về các hành vi thương mại khác, trừ trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 170 của Luật thương mại” Điểm c Khoản 2 Điều 241 Luật Thương mại 1997 được giải thích: “Đối với khiếu nại về vi phạm các nghĩa vụ khác trong việc thực hiện các hành vi thương mại thì thời hạn khiếu nại là ba tháng kể từ khi bên vi phạm phải hoàn thành nghĩa vụ theo hợp đồng, trừ trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 170 của Luật thương mại. Như vậy, trừ khiếu nại về số lượng hàng hoá quy định tại điểm a khoản 2 Điều 241 và khiếu nại về quy cách, chất lượng hàng hoá quy định tại điểm b khoản 2 Điều 241 của Luật thương mại thì thời hạn khiếu nại đối với các vi phạm nghĩa vụ về thanh toán, thời hạn giao hàng và các vi phạm khác trong mua bán hàng hoá, đại lý mua bán hàng hóa, môi giới thương mại và trong các hành vi thương mại khác được qui định tại Điều 45 của Luật thương mại là ba tháng, kể từ khi bên vi phạm 37
  40. phải hoàn thành nghĩa vụ theo hợp đồng, trừ trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 170 của Luật thương mại.” - Nghị quyết số 1053/2006/NQ–UBTVQH ngày 10/11/2006 của UBTVQH giải thích nội dung về “Quyết định, chỉ thị” quy định tại khoản 6 Điều 19 của Luật Kiểm toán Nhà nước 2005 (theo đề nghị của Ủy ban Kiểm tra và Ngân sách của Quốc hội năm 2006) Theo đó, nội dung trên được giải thích như sau” “Quyết định, chỉ thị” quy định tại khoản 6 Điều 19 của Luật Kiểm toán Nhà nước được hiểu như sau: 1. “Quyết định, chỉ thị” do Tổng Kiểm toán Nhà nước ban hành bao gồm quyết định, chỉ thị là văn bản quy phạm pháp luật và quyết định, chỉ thị là văn bản áp dụng pháp luật. 2. “Quyết định, chỉ thị” do Tổng Kiểm toán Nhà nước ban hành theo thẩm quyền để hướng dẫn thi hành Luật Kiểm toán Nhà nước và các văn bản quy phạm pháp luật khác của Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội liên quan đến các cơ quan, tổ chức, cá nhân là văn bản quy phạm pháp luật./. - Nghị quyết số 58/1998/NQ-UBTVQH10 ngày 24/08/1998 Hướng dẫn, giải thích về giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 01/07/1991. - Nghị quyết số 755/2005/NQ-UBTVQH11 ngày 02/04/2005 Quy định về việc giải quyết đối với một số trường hợp cụ thể về nhà đất trong quá trình thực hiện các chính sách quản lý nhà đất và chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa trước ngày 01/07/1991. - Nghị quyết số 1037/2006/NQ-UBTVQH ngày 27/07/2006 Hướng dẫn, giải thích vè giao dịch dân sự đối với nhà ở được xác lập trước ngày 01 tháng 07 năm 1991 có người Việt Nam định cư ở nước ngoài tham gia. 38
  41. Đối với hai trường hợp đầu tiên, UBTVQH đã tiến hành giải thích pháp luật trên cơ sở xuất phát từ yêu cầu của các chủ thể liên quan trong quá trình áp dụng pháp luật. Đối với ba trường hợp sau, khi giải thích, UBTVQH đã cân nhắc, dựa trên cơ sở hoàn cảnh mới, đã đưa ra những quy định bổ sung và mang tính hướng dẫn để phù hợp với tình hình hiện tại. Tuy nhiên, những văn bản này mang tính lập pháp bổ sung hơn là giải thích pháp luật. Trên thực tế, nhu cầu giải thích pháp luật ở nước ta là rất lớn, do các sản phẩm lập pháp thường mang tính chung chung, trừu tượng. Nhưng một phần do là cơ quan thường trực của Quốc hội không chuyên trách, phải đảm nhiệm rất nhiều công việc quan trọng, UBTVQH cũng không thể tham gia được nhiều vào hoạt động giải thích pháp luật. Với số lần giải thích pháp luật ít, hoạt động giải thích pháp luật không được diễn ra thường xuyên, cách thức giải thích còn nặng về tính ban hành những quy phạm bổ sung. Nhìn chung, hoạt động giải thích pháp luật ở nước ta do Ủy ban Thường vụ Quốc hội đảm nhiệm chưa thực sự có hiệu quả, hơn nữa, trước một nhu cầu khá đồ sộ và cấp thiết về việc giải thích pháp luật, thì hoạt động này chưa thể đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn hiện tại cũng như trong tương lai. 2.2.2. Hoạt động giải thích pháp luật của cơ quan hành pháp Với hoạt động giải thích pháp luật do UBTVQH đảm nhiệm không được diễn ra thường xuyên, mà nhu cầu giải thích pháp luật lại luôn luôn tồn tại, vì vậy, để quy phạm pháp luật đã được ban hành đi được vào đời sống, để pháp luật được giải thích, thực hiện một cách thống nhất trong thực tiễn thì cần có những chủ thế khác tiến hành hoạt động này. Có thể dễ dàng bắt gặp rất nhiều nghị định của Chính phủ, thông tư của các Bộ, cơ quan ngang Bộ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành, một dạng nội dung phổ biến trong các loại văn bản này chính là “giải thích từ ngữ” trong luật. Theo các quy định của pháp luật, Chính phủ được ban hành các nghị định để quy định “chi tiết điều, khoản, điểm 39
  42. được giao trong luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước ”; Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ được ban hành thông tư để quy định “chi tiết điều, khoản, điểm được giao trong luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước, nghị định của Chính phủ, quyết định của Thủ tướng Chính phủ ” (trích Luật Ban hành văn bản Quy phạm pháp luật 2015). Có thể xem đây là một trong những nhiệm vụ đặc biệt quan trọng của các chủ thể này. Các văn bản pháp luật trên thường được ban hành bởi được sự ủy quyền của Quốc hội hoặc UBTVQH; hay do tự các cơ quan trên ban hành theo thẩm quyền; cũng có thể mặc dù luật, pháp lệnh chưa quy định, nhưng do đòi hỏi của các yêu cầu trên thực tiễn cuộc sống mà các cơ quan này phải ban hành để điều chỉnh kịp thời các quan hệ xã hội. Về hình thức thể hiện, việc giải thích pháp luật của chủ thể hành pháp có thể có nhiều hình thức thể hiện: dưới dạng quy phạm, hướng dẫn, diễn giải quy định chi tiết (nghị định, thông tư); dưới dạng pano, áp phích cổ động, khẩu hiệu (ví dụ: “đóng thuế là nghĩa vụ và vinh dự của mọi công dân”, “trốn thuế là vi phạm pháp luật” ). [9] Trên thực tế, có thể kể đến một số hoạt động giải thích pháp luật của các cơ quan này như: - Hoạt động giải thích pháp luật của Chính phủ: phổ biến nhất là hình thức diễn giải tại văn bản pháp luật mà Chính phủ ban hành (Nghi định) để hướng dẫn, quy định chi tiết các luật, pháp lệnh. Ví dụ: • Nghị định 126/2014/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật Hôn nhân và gia đình; • Điều 10 của Luật Luật sư quy định: “Bằng cử nhân luật” đối với luật sư. Để hiểu bằng cử nhân là gì, Điều 1, Nghị định của Chính phủ số 28/2007/NĐ-CP ngày 26/02/2007 quy định: 40
  43. “Người có bằng cử nhân luật quy định tại Điều 10 của Luật Luật sư là người có bằng tốt nghiệp đại học chuyên ngành luật do cơ sở giáo dục đại học của Việt Nam cấp . Các nội dung trong các văn bản này thường xen lẫn giữa các nội dung giải thích pháp luật và nội dung hướng dẫn. Nhìn chung, các văn bản này cũng chứa đựng những phần giải thích pháp luật nhất định. - Hoạt động giải thích pháp luật của các Bộ và các cơ quan ngang Bộ: tùy thuộc theo thẩm quyền và lĩnh vực của mình, các Bộ thường được giao thẩm quyền ban hành các văn bản để giải thích, hướng dẫn, quy định chi tiết các văn bản pháp luật có liên quan tới ngành, lĩnh vực đó. Hình thức phổ biến nhất của loại văn bản này là các Thông tư do các Bộ và các cơ quan ngang bộ ban hành. Đại đa số các văn bản đó thường có cụm từ “giải thích” hay “hướng dẫn”. Ví dụ: Thông tư 63/2018/TT-BTC hướng dẫn Nghị định 70/2018/NĐ-CP về quản lý tài sản hình thành từ thực hiện nhiệm vụ khoa học, công nghệ; Thông tư quy định chi tiết thi hành một số điều của Nghị định số 91/2017/NĐ-CP ngày 31 tháng 7 năm 2017 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật thi đua, khen thưởng. Thực tế có thể thấy rằng, các cơ quan hành pháp ở Việt Nam đã tiến hành hoạt động giải thích pháp luật, nội dung giải thích pháp luật đã ít nhiều được thể hiện qua các văn bản hướng dẫn, quy định chi tiết. Tuy vậy, các sản phẩm này vẫn còn có sự đan xen, chưa rõ ràng và khó phân biệt giữa hướng dẫn, giải thích hay là quy định chi tiết, chưa thể hiện được sự phân biệt đặc trưng giữa giải thích pháp luật và ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Trong khi đó, số lượng văn bản pháp luật ngày càng đồ sộ và có sự chồng chéo lẫn nhau. Cho đến nay, pháp luật cũng chưa có những quy định chi tiết về mặt pháp lý cho hoạt động giải thích pháp luật của các cơ quan này, vì vậy khiến cho hoạt động giải thích pháp luật chung có phần rối ren và phức tạp. 41
  44. 2.2.3. Hoạt động giải thích pháp luật của Tòa án Trước khi thừa nhận quyền ban hành án lệ, Tòa án Việt Nam không phải là một chủ thể được trao quyền giải thích pháp luật một cách chính thức. Tuy nhiên, là một chủ thể với nhiệm vụ chính gắn liền với hoạt động xét xử, mà hoạt động này khiến cho việc giải thích pháp luật đối với chủ thể này là cần thiết và nhiều hơn cả. Vì vậy, ta thường bắt gặp những trường hợp mà Tòa án giải thích pháp luật, được thể hiện rõ nét nhất qua các Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao, Thông tư liên tịch của TANDTC với các chủ thể khác theo thẩm quyền, án lệ Hoạt động giải thích pháp luật của Tòa án được thể hiện trong việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật; tiến hành giải thích pháp luật trong quá trình xét xử; hoặc qua quá trình tống kết, xây dựng và ban hành các án lệ. Khi xem xét các nội dung các văn bản quy phạm pháp luật mà TANDTC đã ban hành, dễ nhận thấy trong nội dung các văn bản đó có các yếu tố nhằm diễn giải, với mục đích làm cho pháp luật được hiểu một cách minh bạch, rõ ràng hơn. Đó chính là việc mà Tòa án đã thực hiện hoạt động giải thích pháp luật thông qua việc ban hành các văn bản pháp luật theo thẩm quyền. Ví dụ: Tại Nghị quyết 03/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012 Hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ nhất “Những quy định chung” của Bộ Luật Tố tụng Dân sự, Hội đồng thẩm phán TANDTC đã giải thích về “Đương sự ở nước ngoài” bao gồm: “a) Đương sự là người nước ngoài không định cư, làm ăn, học tập, công tác ở Việt Nam có mặt hoặc không có mặt tại Việt Nam vào thời điểm Tòa án thụ lý vụ việc dân sự; b) Đương sự là người Việt Nam định cư, làm ăn, học tập, công tác ở nước ngoài có mặt hoặc không có mặt tại Việt Nam vào thời điểm Tòa án thụ lý vụ việc dân sự; 42
  45. c) Đương sự là người nước ngoài định cư, làm ăn, học tập, công tác ở Việt Nam nhưng không có mặt tại Việt Nam vào thời điểm Tòa án thụ lý vụ việc dân sự; d) Đương sự là người Việt Nam định cư, làm ăn, học tập, công tác ở Việt Nam nhưng không có mặt tại Việt Nam vào thời điểm Tòa án thụ lý vụ việc dân sự; đ) Cơ quan, tổ chức không phân biệt là cơ quan, tổ chức nước ngoài hay cơ quan, tổ chức Việt Nam mà không có trụ sở, chi nhánh, văn phòng đại diện tại Việt Nam vào thời điểm Tòa án thụ lý vụ việc dân sự.” Có thể thấy, nội dung trong các văn bản này lại rất gần với giải thích pháp luật mang tính quy phạm. Nghị quyết do Hội đồng Thẩm phán TANDTC, Thông tư của TANDTC chính là các văn bản quy phạm pháp luật, có hiệu lực bắt buộc và giá trị pháp lý đối với các chủ thể pháp luật. Các nội dung, yếu tố giải thích pháp luật trong các văn bản, hướng dẫn mang tính chuyên môn của TANDTC có giá trị pháp lý, buộc các tòa án địa phương phải thi hành, nếu không tuân thủ có thể dẫn đến việc kết quả áp dụng pháp luật của tòa án cấp dưới có thể bị hủy bỏ. Bên cạnh các văn bản như Nghị quyết, Thông tư trên, Tòa án còn thực hiện giải thích pháp luật thông qua các văn bản khác trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ, hoạt động của mình. Có thể nhắc đến các báo cáo tổng kết công tác xét xử hàng năm. Các báo cáo này được đúc rút lại, báo cáo lên TANDTC nhằm tổng kết các vụ việc, lập luận diễn giải, bày tỏ quan điểm với những vấn đề còn nhiều tranh cãi. Việc thực hiện tổng kết báo cáo này nhằm đạt được mục đích xác định chính xác các quy định pháp luật, làm rõ và hiểu rõ pháp luật qua quá trình tổng kết các vụ việc, để đạt được sự thống nhất khi áp dụng pháp luật trong hệ thống các tòa án. Hay các Quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng thẩm phán TANDTC, nội dung của các quyết định này cũng 43
  46. thường chứa đựng nhận định, lập luận, giải thích các quy phạm pháp luật liên quan nhằm phục vụ cho việc ra phán quyết. Trong thực tế, Tòa án cũng thực hiện hoạt động giải thích pháp luật trong quá trình xét xử, đây là một hoạt động giải thích mang tính vụ việc, tình huống cụ thể. Trong quá trình giải quyết một vụ việc, thẩm phán không thể áp dụng một cách máy móc các quy phạm, mà luôn luôn cần có sự phân tích, giải thích tại sao cần áp dụng quy phạm này, tại sao lại áp dụng cho tình huống này hay quy phạm này được hiểu như thế nào Hoạt động xét xử luôn luôn yêu cầu và đòi hỏi sự giải thích khi áp dụng pháp luật. Như vậy, trong hoạt động chuyên môn của mình, thẩm phán vẫn luôn phải tiến hành việc giải thích pháp luật. Dễ thấy, Luâṭ Tổ chứ c Tòa án nhân dân số 62/2014/QH13 ngày 24/11/2014 đa ̃ ngầ m trao cho Tòa án quyền giải thích pháp luâṭ thông qua quy đinḥ “Tòa á n nhân dân tố i cao tổng kế t thưc̣ tiêñ xé t xử của cá c tòa á n, bảo đảm á p dung̣ thố ng nhấ t phá p luâṭ trong xé t xử” và “Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao có nhiệm vụ lựa chọn Quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, bản án quyết định pháp luật đã có hiệu lực pháp luật, có tính chuẩn mực của Tòa án, tổng kết phát triển thành án lệ và công bố án lệ để các Tòa án nghiên cứu và áp dụng trong xét xử”. Như vậy, Tòa án cũng đã giải thích pháp luật thông qua quá trình tổng kết, báo cáo, xây dựng và ban hành các án lệ. Cho đến nay Toà án đã được ban hành án lệ. Ngày 17/10/2018, Chánh án TANDTC ký Quyết định số 199/QĐ-CA về việc công bố 11 án lệ. Các án lệ này được áp dụng xét xử từ ngày 03/12/2018. Như vậy, quyết định này đã nâng tổng số án lệ của Việt Nam lên con số chính thức là 27 án lệ. Á n lê ̣là môṭ công cu ̣ hữu hiêụ trong viêc̣ giải thích pháp luâṭ trên thế giớ i nói chung và ở Viêṭ Nam nói riêng. Tuy nhiên, việc xây dựng và ban hành án lệ vẫn còn hạn chế. Quy trình xây dựng và ban hành án lệ còn nhiều bất cập, 44
  47. số lượng án lệ còn ít, không theo kịp tốc độ thay đổi của văn bản pháp luật. Theo quy định của Nghị quyết 03/2015/NQ–HĐTP năm 2015 thì từ khi đề xuất án lệ đến khi án lệ có hiệu lực có thể mất gần 1 năm (bao gồm: rà soát đề xuất án lệ 06 tháng; lấy ý kiến 02 tháng; Vụ Pháp chế và Quản lý khoa học báo cáo Chánh án TANDTC 01 tháng; tổ chức phiên hợp Hội đồng tư vấn 15 ngày; án lệ có hiệu lực sau 45 ngày kể từ ngày công bố). Thời gian này là chưa tính đến thời gian Chánh án TANDTC ra quyết định thành lập Hội đồng tư vấn và tổ chức phiên họp Hội đồng Thẩm phán TANDTC để thông qua án lệ. Với quy trình lựa chọn, công bố án lệ mất khá nhiều thời gian như vậy, dẫn đến số lượng án lệ được công bố còn ít (số lượng án lệ hiện nay là 27 án lệ). Nhìn vào con số trên, có thể thấy về hiệu quả tạo lập án lệ vẫn còn thấp. Với con số 27 án lệ ở thời điểm hiện tại, đây quả thật là con số án lệ quá sức khiêm tốn để thực hiện vai trò bảo đảm áp dụng pháp luật thống nhất. Hơn nữa, các án lệ đã công bố cho thấy phần lập luận hay lý lẽ của tòa án đưa ra còn khá đơn giản, ngắn gọn chưa đi sâu vào việc vận dụng các nguyên tắc pháp lý hoặc học thuyết pháp lý làm cơ sở cho lập luận của mình. Điều này chắc chắn sẽ làm giảm đi chất lượng hay sức thuyết phục của án lệ. Ví dụ: Tại án lệ số 02, với tình huống người Việt Nam định cư ở nước ngoài đã bỏ tiền ra để nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất và nhờ người ở trong nước đứng tên nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất hộ mình; lý lẽ của tòa án đưa ra để giải quyết vụ việc khi có tranh chấp xảy ra như sau: “Tuy bà Thảnh là người bỏ 21,99 chỉ vàng để chuyển nhượng đất (tương đương khoảng 27.047.700 đồng). Nhưng giấy tờ chuyển nhượng đứng tên ông Tám và sau khi nhận chuyển nhượng ông Tám quản lý đất, sau đó chuyển nhượng cho người khác. Như vậy, lẽ ra phải xác định ông Tám có công sức trong việc bảo quản, giữ gìn, tôn tạo làm tăng giá trị đất nên phải xác định số tiền trên (sau khi trừ tiền gốc tương đương 21,99 chỉ vàng của bà Thảnh) là lợi nhuận chung của bà Thảnh và ông Tám. Đồng thời, xác định công sức của ông Tám để chia cho ông Tám một phần tương ứng với công sức của ông mới đúng và đảm bảo quyền 45
  48. lợi của các đương sự. (Trường hợp không xác định được chính xác công sức của ông Tám thì phải xác định bà Thảnh, ông Tám có công sức ngang nhau để chia).” [7] Như vậy, khi giải quyết tranh chấp thì Tòa án xem xét và tính công sức bảo quản, giữ gìn, tôn tạo làm tăng giá trị quyền sử dụng đất cho người đứng tên hộ; trường hợp không xác định được chính xác công sức của người đó thì cần xác định người thực chất trả tiền để nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất và người đứng tên nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất hộ có công sức ngang nhau để chia phần giá trị chênh lệch tăng thêm so với tiền gốc nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất ban đầu. Trong toàn bộ phần lập luận này chúng ta không tìm thấy tòa án dựa trên các nguyên tắc pháp luật hay đạo đức hoặc học thuyết pháp lý nào để giải thích, làm cơ sở cho giải pháp pháp lý của mình. Điều này dẫn đến chất lượng của giải pháp pháp lý mà tòa án đưa ra bị hoài nghi. Vì vậy, cần có những biện pháp khắc phục để chất lượng án lệ ngày càng được cải thiện và nâng cao hơn, đáp ứng được các nhu cầu giải thích pháp luật và mục đích áp dụng pháp luật một cách thống nhất. Hoạt động giải thích pháp luật do Tòa án thực hiện là một hoạt động xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn, đều là những giải thích do nhu cầu trực tiếp phát sinh và hoạt động giải thích này mang lại những giá trị rất thiết thực. Vì vậy, việc mở rộng thẩm quyền giải thích pháp luật cho Tòa án là rất cần thiết, giúp cho Tòa án có thể thực hiện vai trò của mình, phát huy được những thế mạnh và giải quyết được nhu cầu giải thích pháp luật đang ngày càng tăng cao. 2.3. Một số đánh giá về hoạt động giải thích pháp luật hiện nay 2.3.1. Thành tựu Hoạt động giải thích pháp luật đã được xây dựng một cơ sở pháp lý khá đầy đủ, từ đối tượng, chủ thể, hình thức thể hiện và quy trình giải thích pháp luật tương đối đầy đủ và chi tiết. Xây dựng cơ sở pháp lý cho hoạt động này 46
  49. chính là cơ sở để hoạt động giải thích pháp luật ngày càng được thực hiện một cách hiệu quả hơn. Tại Việt Nam, hoạt động giải thích pháp luật được thực hiện theo mô hình cơ quan lập pháp giải thích pháp luật, với chủ thể chính thức được ghi nhận là UBTVQH. Cơ quan này đã thực hiện giải thích pháp luật một số lần, dựa trên cơ sở những vấn đề phát sinh trong quá trình áp dụng pháp luật. Ví dụ có thể kể đến như trường hợp giải thích pháp luật của UBTVQH, giải thích điểm c, khoản 2 Điều 241 của Luật Thương mại năm 1997, UBTVQH đã thực hiện giải thích pháp luật chính thức xuất phát từ yêu cầu cụ thể của các chủ thể có liên quan trong quá trình áp dụng pháp luật. Ngoài ra, các chủ thể khác (cơ quan hành pháp, Tòa án) cũng tham gia vào hoạt động giải thích pháp luật. Bằ ng thưc̣ tế hoaṭ đông̣ của mình, các cơ quan pháp luâṭ nhà nướ c Viêṭ Nam đều tham gia quá trình vào viêc̣ giải thích pháp luât,̣ ví du ̣ như hoạt động ban hành các Nghi ̣đinḥ quy đinḥ chi tiết các quy định của Luâṭ của Chính phủ, trong đó có thể đưa ra các đinḥ nghiã về môṭ số thuâṭ ngữ mà luâṭ chưa giải thích chi tiết. Mặc dù yếu tố giải thích pháp luật trong các văn bản của các cơ quan hành pháp còn chưa nhiều, chủ yếu mang tính hướng dẫn và ban hành quy phạm bổ sung, tuy nhiên các văn bản này đã giúp cho việc thực hiện pháp luật của các chủ thể được thuận lợi hơn. Về hoạt động giải thích pháp luật của Tòa án, thông qua những sản phẩm như các Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán TANDTC, các sản phẩm án lệ, bản án có thể thấy Tòa án đã đóng góp một cách rất tích cực vào hoạt động giải thích pháp luật, đã giải quyết được một khối lượng lớn của nhu cầu giải thích pháp luật khi áp dụng pháp luật trong thực tiễn. Trong quá trình xét xử, các thẩm phán bước đầu cũng thể hiện sự chủ động của mình trong hoạt động giải thích pháp luật (giải thích pháp luật về mặt tố tụng, đưa ra các lập luận, lý lẽ ). Các sản phẩm giải thích pháp luật của các cơ quan này đã được xã hội tiếp nhận với tư cách là những hướng dẫn, giải thích đáng tin cậy. 47
  50. 2.3.2. Hạn chế Hoạt động của cả các cơ quan thuộc cả ba nhánh quyền lực trong hoạt động giải thích pháp luật đều đem lại những giá trị nhất định. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn rất nhiều hạn chế khiến cho hoạt động giải thích pháp luật chưa thực sự có hiệu quả tốt. Trước hết là về số lượng các sản phẩm giải thích pháp luật của cơ quan được trao thẩm quyền chính thức trong hoạt động giải thích pháp luật không nhiều, hoạt động giải thích này không được thực hiện thường xuyên và ít có hiệu quả. Số lần giải thích pháp luật do UBTVQH thực hiện chỉ khiêm tốn ở một vài lần. So với nhu cầu giải thích pháp luật hiện nay thì con số đó là quá ít ỏi. Vì vậy, để giải quyết kịp thời nhu cầu giải thích pháp luật thực tiễn đặt ra, những chủ thể khác (cơ quan hành pháp, cơ quan tư pháp) đã thực hiện các hoạt động giải thích pháp luật. Điều này dẫn đến tình trạng cơ quan được giao thẩm quyền giải thích pháp luật thì hoạt động ít, các cơ quan thuộc hai nhánh quyền lực còn lại thì lại tiến hành giải thích pháp luật nhiều. UBTVQH thời gian qua mặc dù đã rất cố gắng nhưng vẫn không thể thực hiện chức năng giải thích pháp luật một cách hiệu quả. Điều này có thể lý giải bởi các lý do sau: • “Thứ nhất, UBTVQH không có các chất liệu đời sống: từ phía người dân để cân bằng với các quy phạm hiến định, pháp định từ phía cơ quan nhà nước. • Thứ hai, họ nhìn các quy định hiến định và pháp định dưới con mắt của người trong cuộc chứ không phải dưới con mắt của chủ thể phản biện, chủ thể đánh giá. • Thứ ba, tư cách của họ không hoàn toàn độc lập với các chủ thể lập pháp, lập hiến, bởi vì họ là chủ thể đắc lực tham gia vào quá trình lập pháp, lập hiến đó. • Và, thứ tư, quan trọng hơn, các yêu cầu về giải thích pháp luật không đến với họ, một phần vì họ không nhận thấy, phần khác vì 48
  51. đã luôn có các chủ thể khác bằng nhiều cách thức, thực hiện công việc giải thích pháp luật trong thực tế.” [19, tr.21] Một hạn chế có thể kể đến nữa, việc cả ba nhóm chủ thể đều tiến hành giải thích pháp luật đã làm xuất hiện nhiều cách thức và nội dung giải thích pháp luật rất đa dạng, xuất hiện dưới các dạng hình thức như Nghị quyết, Công văn, Nghị định Tuy nhiên, với nhiều chủ thể và cách thức giải thích như vậy, nên các sản phẩm giải thích dễ dẫn đến tình trạng không đồng nhất giữa các văn bản, hoạt động giải thích pháp luật khá phức tạp với những quy định chồng chéo và có thể mâu thuẫn với nhau. Điều này có thể khiến cho các nguy cơ về vấn đề liên quan đến giá trị pháp lý của các sản phẩm giải thích pháp luật của các cơ quan này có thể dễ xảy ra. Hơn nữa, hoạt động giải thích pháp luật của các cơ quan thuộc nhánh quyền lực hành pháp và tư pháp cũng còn tồn đọng nhiều hạn chế. Các sản phẩm giải thích pháp luật của các cơ quan hành pháp vẫn còn có sự đan xen, chưa rõ ràng và khó phân biệt giữa hướng dẫn, giải thích hay là ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Bản thân việc đưa ra những hướng dẫn thi hành, chi tiết, cụ thể hóa các văn bản cũng nhằm đưa những tư tưởng, yêu cầu, nguyên tắc, quy định chung của cơ quan ban hành đi vào thực tiễn cuộc sống. Tuy nhiên, việc đưa ra những hướng dẫn này có những lúc cũng đã bộc lộ những mặt tiêu cực như chưa thực sự nhằm vào mục đích làm cho việc áp dụng pháp luật được dễ hiểu, thống nhất như mục đích ban đầu của hoạt động giải thích pháp luật, hay nói một cách khác là đưa ra những hướng dẫn, giải thích để làm dễ hơn cho công tác quản lý nhưng lại gây ra những khó khăn cho các chủ thể thực hiện. Đối với việc xây dựng và ban hành án lệ cũng vẫn còn những hạn chế như quy trình xây dựng và ban hành án lệ còn nhiều bất cập, số lượng án lệ còn ít, không theo kịp tốc độ thay đổi của văn bản pháp luật, kinh nghiệm xây dựng án lệ chưa được nhiều. Nhìn vào các án lệ đã công bố cũng cho thấy phần lập 49
  52. luận hay lý lẽ của tòa án đưa ra còn khá đơn giản, ngắn gọn và chưa đủ sức thuyết phục. Bên cạnh đó, tình trạng quá tải trong công việc của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải thích và trình độ hiểu biết pháp luật, ý thức trách nhiệm của đội ngũ cán bộ ở các cơ quan nhà nước còn hạn chế. Đây cũng là một trong các nguyên nhân chính dẫn đến việc giải thích pháp luật nói chung và giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh còn hạn chế. Những hạn chế trong hoạt động giải thích pháp luật cũng chính là những vấn đề đang đặt ra từ thực tiễn giải thích pháp luật của Việt Nam, và đây cũng chính là những đặc điểm cần được khắc phục để xây dựng, phát triển hoạt động giải thích pháp luật hoàn thiện hơn, đem lại những giá trị và hiệu quả cao hơn trong những sản phẩm giải thích pháp luật. 50
  53. KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 Tại Việt Nam hiện nay, thẩm quyền giải thích pháp luật chính thức được trao cho cơ quan lập pháp (cụ thể là UBTVQH). Thẩm quyền của UBTVQH được ghi nhận chính thức trong Hiến pháp và những văn bản pháp luật khác có liên quan. Tuy nhiên, hoạt động này của UBTVQH chưa thực sự có hiệu quả, UBTVQH mới thực hiện quyền hạn giải thích pháp luật được vài lần, điển hình nhất là tại Nghị quyết số 746/2005/NQ-UBTVQH11 và Nghị quyết 1053/2006/NQ-UBTVQH11. Trên thực tế, bên cạnh UBTVQH, các chủ thể khác như Chính phủ, các Bộ hay Tòa án cũng tiến hành hoạt động giải thích pháp luật. Những sản phẩm của các cơ quan này có giá trị thực tiễn cao và là những sản phẩm có giá trị pháp lý đáng tin cậy, giúp cho thực tiễn việc áp dụng pháp luật được thực hiện một cách dễ dàng hơn. Hoạt động giải thích pháp luật đã ghi nhận một số thành tựu nhất định trên thực tế, tuy nhiên vẫn còn tồn đọng nhiều hạn chế. Đó là những vấn đề bức thiết cần phải khắc phục để hoạt động giải thích pháp luật ngày càng đạt được những hiệu quả tích cực hơn. 51
  54. CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN HOẠT ĐỘNG GIẢI THÍCH PHÁP LUẬT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 3.1. Mở rộng thẩm quyền giải thích pháp luật của Tòa án 3.1.1. Cơ sở để mở rộng thẩm quyền giải thích pháp luật của Tòa án Trao thẩm quyền giải thích pháp luật cho Tòa án là một xu thế phổ biến trên thế giới hiện nay. Và hoạt động giải thích pháp luật ở Việt Nam cũng bắt đầu có những biến chuyển theo xu hướng này (Ví dụ: Tòa án đã được ban hành án lệ, TANDTC đưa ra những hướng dẫn đối với các tòa án cấp dưới, các thẩm phán thực hiện giải thích pháp luật trong quá trình xét xử ) Tuy nhiên, tại Việt Nam vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề này. Đó là những băn khoăn về việc có nên mở rộng thẩm quyền giải thích pháp luật không? Thẩm phán nên có quyền giải thích pháp luật nhằm đáp ứng với các nhu cầu mới, hay thẩm phán buộc phải tuân thủ nghiêm ngặt ý chí của nhà làm luật dù ý chí đó có lỗi thời, khiếm khuyết, hoặc không mang tính dự liệu tốt. Việc mở rộng thẩm quyền giải thích cho Tòa án là cần thiết bởi một số lý do sau: - Thứ nhất, giải thích pháp luật là một hoạt động có quan hệ mật thiết với việc thực hiện pháp luật, nhất là áp dụng pháp luật trong xét xử của Tòa án. Nói một cách chính xác hơn, giải thích chính thức Hiến pháp, luật và pháp lệnh là một đòi hỏi của việc thực hiện pháp luật, đặc biệt là trong việc áp dụng pháp luật của Tòa án. Do đòi hỏi từ thực tiễn, các cơ quan hành pháp và tư pháp đã tiến hành giải thích luật trong quá trình thực hiện pháp luật. Hoạt động giải thích pháp luật do Tòa án thực hiện là một hoạt động xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn, dựa trên những nhu cầu có thực trong quá trình tiến hành hoạt động của cơ quan này. Để đưa ra được những phán quyết đúng 52
  55. pháp luật, thỏa đáng, Tòa án phải tự mình áp dụng các quy định của pháp luật sao cho đúng đắn nhất, trong quá trình để đưa ra được những phán quyết đó, Tòa án phải thực hiện giải thích pháp luật, giải thích tại sao cần áp dụng quy phạm nào, trong trường hợp nào, hay quy phạm đó được hiểu ra sao Đây là một điều tất yếu, rằng giải thích pháp luật luôn xảy ra một cách bức thiết nhất tại Tòa án, trong quá trình áp dụng pháp luật. - Thứ hai, Tòa án là cơ quan nhà nước có điều kiện giải thích pháp luật khi áp dụng pháp luật thuận lợi hơn cả [13]. Tòa án tiếp nhận yêu cầu giải thích pháp luật một cách tự nhiên, trực tiếp, thường xuyên và tất yếu. Bằng những kĩ năng, trải nghiệm thực tế và kinh nghiệm của mình, Tòa án đã có thể đúc rút ra những cách thức giải thích hợp lý, kỹ năng giải thích pháp luật chuyên nghiệp. Việc tìm tòi, trăn trở và tiếp xúc trực tiếp với các bản cáo trạng, các chi tiết của vụ việc, đồng thời lại có điều kiện trực tiếp tiếp xúc với các quy định của pháp luật, với “sự sống” cụ thể của từng quy phạm pháp luật trong sự vận hành của nó, giúp cho Tòa án có thể thực hiện nhiệm vụ giải thích pháp luật một cách dễ dàng và thuận lợi hơn. - Thứ ba, với vị trí và vai trò của mình – là cơ quan bảo vệ pháp luật, bảo vệ công lý, không có khả năng phân chia, tổ chức và chỉ huy quyền lực, Tòa án với nhiệm vụ cụ thể của mình là xét xử, đưa ra những luận cứ, lý lẽ, giải thích pháp luật khi cần để phân xử đúng sai trong các tranh chấp , thì đây chính là cơ quan có vị trí quyền lực thích hợp nhất với giải thích pháp luật. Dù cơ cấu tổ chức quyền lực theo hình thức phân quyền hay tập quyền, thì cơ quan tư pháp (Tòa án) vẫn được xem ở nhánh thứ ba, độc lập với hai nhánh trên, đứng ở vai trò trọng tài, Tòa án vừa là cơ quan ít có khả năng lạm quyền nhất, và cũng là cơ quan có nhiều khả năng hạn chế sự lạm quyền nhất. 53
  56. - Bên cạnh đó, xuất phát từ nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, để đảm bảo đối trọng quyền lực và tính khách quan trung thực (chủ thể ban hành văn bản không đồng thời là chủ thể thực hiện việc giải thích văn bản đó), thì việc giải thích pháp luật nên được trao thêm cho nhánh quyền lực tư pháp. “Tòa án nhân dân tối cao có thẩm quyền giải thích Hiến pháp, luật và pháp lệnh thông qua việc áp dụng pháp luật để giải quyết các vụ việc cụ thể bằng các án lệ hay nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Việc giải thích này theo đề nghị của công dân, tổ chức kinh tế không hạn chế cá nhân, tổ chức yêu cầu giải thích như của cơ quan bảo vệ Hiến pháp chuyên trách. Đây là hình thức giải thích chính thức Hiến pháp, luật, pháp lệnh thông qua vụ việc cụ thể xảy ra trong đời sống xã hội.” [5] Hơn nữa có thể nhận thấy, quyền giải thích pháp luật được trao cho Tòa án là xu thế phát triển của hệ thống pháp luật trên thế giới hiện nay. Hiện nay, Tòa án đã được ban hành án lệ. Và khi án lệ ở Việt Nam đã được công bố, thì đã đến lúc Việt Nam cần có quy phạm chính thức để ghi nhận quyền giải thích pháp luật của Tòa án, để tính hiệu quả và tính pháp lý trong hoạt động giải thích pháp luật ngày càng được nâng cao hơn. 3.1.2. Một số biện pháp hỗ trợ việc mở rộng thẩm quyền giải thích pháp luật chính thức của Tòa án Mở rộng thẩm quyền giải thích pháp luật của Tòa án là một giải pháp mang tính hiệu quả cao, gần như có khả năng giải quyết toàn diện những vướng mắc trong quá trình áp dụng pháp luật. Để thực hiện được việc này, cũng như đảm bảo được vai trò của Tòa án trong hoạt động giải thích pháp luật là một việc không hề dễ dàng, cần có một lộ trình rõ ràng cũng như cần sự cẩn trọng, sự đầu tư kĩ lưỡng, hoạt động nghiêm túc trong quá trình thực hiện. Trước hết, có thể thực hiện một số biện pháp hỗ trợ cụ thể ở phần dưới đây. 54
  57. 3.1.2.1. Xây dựng mô hình Tòa án giải thích pháp luật, đồng thời thiết lập một cơ chế đặc biệt đối với hoạt động giải thích Hiến pháp Từ những phân tích nêu trên và thực tiễn giải thích pháp luật của nước ta, cũng như việc tham khảo các mô hình giải thích pháp luật trên thế giới, có thể thấy sự quan trọng trong việc xây dựng mô hình Tòa án giải thích pháp luật. Mô hình đó có thể được phác thảo như sau: - Về chủ thể giải thích pháp luật, Tòa án nhân dân các cấp cần được trao thẩm quyền giải thích pháp luật chính thức. Tất cả các Tòa án ở các cấp xét xử đều có quyền và nghĩa vụ giải thích pháp luật trong quá trình áp dụng pháp luật. Yêu cầu giải thích có thể xuất phát từ nhu cầu của chính Tòa án khi tiến hành công việc của mình trong hoạt động xét xử, hoặc cũng có thể dựa trên cơ sở yêu cầu giải thích của các chủ thể có thẩm quyền đề nghị giải thích pháp luật. Đối với các trường hợp giải thích pháp luật có sự mâu thuẫn hoặc không thống nhất, TANDTC xem xét lại, thống nhất cách giải thích và giải thích của TANDTC là giải thích mang tính phán quyết. - Đối tượng giải thích pháp luật bao gồm tất cả các văn bản quy phạm pháp luật, cũng có thể mở rộng hơn nữa (chính sách pháp luật, nguyên tắc pháp lý, tập quán pháp ) - Hình thức của sản phẩm giải thích pháp luật cần được thể hiện dưới dạng văn bản, dưới dạng bản án hoặc quyết định của các Tòa án các cấp, Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán TANDTC. Có thể tập hợp lại các sản phẩm giải thích pháp luật điển hình, có giá trị pháp lý cao, xuất bản thành các tập bản án. - Quy trình giải thích pháp luật được thực hiện một cách trực tiếp, công khai, từ việc tiếp nhận yêu cầu, tiến hành giải thích và công bố kết quả giải thích. 55
  58. - Khi giải thích vẫn cần đảm bảo tuân thủ các nguyên tắc chung, không làm thay đổi các nguyên tắc cơ bản của pháp luật (bảo vệ lợi ích chính đáng của công dân, đảm bảo công bằng, minh bạch ), đồng thời cần tôn trọng các nguyên tắc riêng biệt của giải thích pháp luật (khách quan, trung thực, tôn trọng ý chí của cơ quan lập pháp ). - Về phạm vi thẩm quyền của Tòa án và giá trị pháp lý của nội dung giải thích: tất nhiên, khi chúng ta đã trao thẩm quyền giải thích pháp luật cho Tòa án tức là đồng nghĩa với việc chúng ta phải công nhận đây là một hình thức giải thích pháp luật chính thức. Như vậy, trong quá trình tòa án giải quyết một vụ việc cụ thể thuộc thẩm quyền mà phát sinh nhu cầu giải thích pháp luật để áp dụng thì Thẩm phán được giao xét xử vụ việc đó giải thích. Các nội dung giải thích phải được ghi trong các văn bản có liên quan, đặc biệt nội dung giải thích chính thức phải được thể hiện trong bản án, quyết định giải quyết vụ việc đó. Giá trị pháp lý của nội dung giải thích chính là giá trị pháp lý của quyết định, bản án được tuyên. Đối với hoạt động giải thích Hiến pháp, cần phải xây dựng một mô hình cũng như quy trình giải thích Hiến pháp đặc biệt, có tính chặt chẽ để đảm bảo các sản phẩm giải thích Hiến pháp có chất lượng, đảm bảo được mục đích bảo vệ Hiến pháp. Về vấn đề này, do cách thức tiếp cận và căn cứ khác nhau nên còn tồn tại các quan điểm khác nhau. Quan điểm thứ nhất cho rằng, Quốc hội (Nghị viện) là cơ quan quyền lực cao nhất của nhân dân, Quốc hội phải là cơ quan (chủ thể) duy nhất có thẩm quyền giải thích Hiến pháp với tư cách là một chủ thể lập hiến, quyết định tính hợp hiến của một đạo luật. Nếu trao thẩm quyền này cho một cơ quan khác thì Quốc hội không còn là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất nữa. Việc giao Quốc hội giải thích Hiến pháp cũng hoàn toàn phù hợp với truyền thống và nguyên tắc cơ bản của hệ thống pháp luật Việt Nam cũng như nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Hơn nữa, nó còn bảo đảm tính thứ 56
  59. bậc pháp lý trong hệ thống VBQPPL, bảo đảm tính tối cao của Hiến pháp trong nhà nước pháp quyền. Quan điểm thứ hai cho rằng, xuất phát từ vị trí và vai trò đặc biệt của Hiến pháp, việc giải thích Hiến pháp là một trong các nội dung của hoạt động bảo hiến, do đó, nó cần phải được thực hiện theo một cơ chế riêng khác với giải thích các VBQPPL khác. Cụ thể, việc giải thích Hiến pháp cần phải được trao cho một cơ quan bảo hiến (Tòa án Hiến pháp). Tòa án Hiến pháp sẽ giải quyết được vấn đề khó khăn trong việc Quốc hội rất khó thực hiện hoạt động này do lẫn lộn giữa chức năng lập pháp và tư pháp. Tòa án Hiến pháp phán quyết về các vi phạm hiến pháp theo nguyên tắc độc lập và chỉ tuân theo Hiến pháp. Tính độc lập ấy sẽ đảm bảo tính cân bằng trong quan hệ quyền lực giữa các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp. Sự có mặt của tổ chức này sẽ giúp cho việc hoàn thiện vai trò giám sát, đưa luật lên vị trí tối thượng, tạo một nhà nước pháp quyền, không cho bất cứ cá nhân, tổ chức nào đứng trên pháp luật. Mặc dù việc thành lập Tòa án Hiến pháp có nhiều ưu điểm và là một mô hình phổ biến của nhiều quốc gia có hệ thống pháp luật phát triển trên thế giới. Tuy nhiên, ở Việt Nam đây là một mô hình tương đối khó thực thi, bởi về cơ bản, dù đã tiếp thu những lý thuyết về phân quyền, nhưng Quốc hội vẫn là cơ quan lập pháp, lập hiến và là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất; còn Tòa án bảo hiến cho dù có độc lập, vẫn thuộc nhánh tư pháp và không thể đứng cao hơn nhánh lập pháp. Vì vậy, đây vẫn là vấn đề còn gây nhiều tranh cãi. Dù vậy, một cách khách quan thì việc thiết lập Tòa án Hiến pháp sẽ có lợi cho việc quản lý, tạo ra sự tính thống nhất của hệ thống pháp luật, góp phần đưa Hiến pháp, các đạo luật đi vào cuộc sống. Vậy nên, vấn đề này cần được nhìn nhận và thực hiện một cách đúng đắn, khoa học trong tương lai. 57
  60. 3.1.2.2. Xây dựng và phát triển án lệ, công khai các bản án, quyết định của Tòa án Trên thực tế, vì các nhà làm luật không thể dự liệu hết được mọi trường hợp có thể xảy ra theo thời gian, nhất là trong tương lai, vì vậy, có những quy định nhà làm luật quy định có tính chất chung chung, nhiều nghĩa, bên cạnh đó, nhu cầu giải thích pháp luật là rất lớn. Do chức năng phản ảnh thực tiễn pháp lý của mình, án lê ̣là môṭ công cu ̣hữu hiêụ trong viêc̣ giải thích pháp luâṭ trên thế giới nói chung và ở Viêṭ Nam nói riêng. “Án lệ giúp thổi một luồng sinh khí vào thân xác khô khan và bất động của những văn bản pháp lý, nhờ đó các đạo luật có được cuộc sống sinh động gắn liền với thực tiễn.” [3, tr.508] Cho đến nay, Tòa án đã được ban hành án lệ, với số án lệ tính đến thời điểm hiện tại là 27 án lệ. Việc công nhận án lệ và Tòa án có nghĩa vụ trong việc xây dựng án lệ là một trong những điều kiện quan trọng để Tòa án được trao quyền giải thích pháp luật và chứng minh năng lực giải thích pháp luật của mình. Bằng hoạt động sáng tạo của mình, các thẩm phán sẽ đưa ra các cách thức giải thích, lập luận và áp dụng pháp luật phù hợp. Trong đó, án lệ được đưa ra phải đáp ứng được các tiêu chí: “1. Chứa đựng lập luận để làm rõ quy định của pháp luật còn có cách hiểu khác nhau; phân tích, giải thích các vấn đề, sự kiện pháp lý và chỉ ra nguyên tắc, đường lối xử lý, quy phạm pháp luật cần áp dụng trong một vụ việc cụ thể; 2. Có tính chuẩn mực; 3. Có giá trị hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử, bảo đảm những vụ việc có tình tiết, sự kiện pháp lý như nhau thì phải được giải quyết như nhau.” Đây là những tiêu chí được quy định tại Nghi ̣quyết số 03/2015/NQ- HĐTP ngày 28 tháng 10 năm 2015 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao Về quy trình lưạ chon,̣ công bố và áp dung̣ án lê.̣ Để đạt được những 58
  61. yêu cầu, tiêu chí trên, xây dựng được những án lệ đem lại hiệu quả cả về chất lượng lẫn số lượng, cần chú trọng khắc phục đến một số vấn đề mà án lệ Việt Nam vẫn còn thiếu, cụ thể là: - Cần nâng cao chất lượng “đầu vào” của án lệ hay tính thuyết phục của các giải pháp pháp lý của tòa án đưa ra. Để có thể thực hiện được mục tiêu này, phần lập luận của tòa án không những phải có chiều sâu mà còn phải đa dạng về lý lẽ và quan điểm. Tại phần lập luận của các tòa án ở Việt Nam, dễ nhận thấy cơ sở để đưa ra các quan điểm pháp lý trong phần "xét thấy” của quyết định của các thẩm phán còn hết sức nghèo nàn, ngắn gọn và còn lệ thuộc nhiều vào các văn bản quy phạm pháp luật. Vì vậy, cần bổ sung thêm cơ sở hợp lý cho các giải pháp hay lập luận tạo lập án lệ của tòa án dựa vào các nguyên tắc pháp lý, chính sách hoặc học thuyết pháp lý. Bên cạnh đó, cần phải bảo đảm yếu tố tranh luận và sự đa dạng về lý lẽ khi đưa ra lập luận pháp lý của các thẩm phán. Một trong những phương tiện quan trọng để đảm bảo tính hợp lý cho lý lẽ của các thẩm phán khi đưa ra phán quyết là yếu tố tranh luận và độc lập đưa ra lý lẽ của mỗi thẩm phán. Phần lập luận của tòa án cần nêu ra nhiều ý kiến, quan điểm khác nhau và giải pháp pháp lý của tòa án là một sự lựa chọn tốt nhất trong nhiều ý kiến, quan điểm khác nhau đó. - Để nâng cao chất lượng của nguồn luật án lệ, những lập luận của các thẩm phán cần phải được kiểm nghiệm và bổ sung trên cả hai phương diện cả về mặt khoa học lý luận cũng như thực tiễn. Vì vậy, cần có sự kết nối tốt được giữa hoạt động thực tiễn pháp lý và hoạt động khoa học pháp lý, khuyến khích và tạo điều kiện cho hoạt động sưu tầm và bình luận án đối với các nhà khoa học pháp lý, các luật sư và đặc biệt là các thẩm phán. - Về trình tự và thủ tục công bố bản án, quyết định làm án lệ, cẩn xây dựng được một quy trình - thay đổi theo hướng đơn giản hóa nhằm 59
  62. tạo điều kiện thuận lợi cho án lệ được hình thành nhanh chóng và kịp thời khắc phục lỗ hổng của văn bản pháp luật. Bên cạnh đó, để việc sử dụng án lệ có hiệu quả thì việc công bố bản án là việc làm không thể không nhắc đến. Bản án và quyết định của Tòa án chính là những kết quả của việc áp dụng các quy phạm pháp luật vào những tình huống cụ thể. Việc tiếp cận trực tiếp với bản án là một nhu cầu, quyền lợi của tất cả các cá nhân, tổ chức chứ không riêng gì với những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Việc công khai bản án, quyết định của Tòa án cũng là phù hợp với quy định của pháp luật: “Tòa án xét xử công khai, trừ một số trường hợp do luật định”. Hiện nay, tại Việt Nam đã và đang thực hiện việc công khai bản án, quyết định trên Cổng Thông tin điện tử của Tòa án, đồng thời, TANDTC cũng có đưa ra những hướng dẫn để thực hiện việc công bố bản ản (Nghị quyết 03/2017/NQ-HĐTP ngày 16/03/2017 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC về việc đăng tải các bản án, quyết định lên Cổng Thông tin điện tử của Tòa án; Công văn số 144/TANDTC-PC ngày 4/7/2017 hướng dẫn việc công bố bản án, quyết định trên Cổng thông tin điện tử của Tòa án nhân dân). Đây là một bước chuyển biến quan trọng của hệ thống TAND, có ý nghĩa quan trọng góp phần nâng cao chất lượng hoạt động xét xử nhằm thực hiện mục tiêu cải cách tư pháp. “Công bố bản án sẽ góp phần bảo đảm tính minh bạch của pháp luật và có ý nghĩa quan trọng cho cả các thẩm phán lẫn người dân. Khi có các tập bản án sẽ tạo điều kiện cho các thẩm phán áp dụng pháp luật thống nhất, còn người dân có thể hiểu biết các quy định của pháp luật rõ ràng hơn và góp phần nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật”. [16, tr.64-71] Hơn nữa, việc công bố bản án cũng rèn luyện, trau dồi cho các thẩm phán các kỹ năng chuyên môn, tác động trực tiếp đến kỹ năng và chất lượng giải thích pháp luật của Tòa án, đây chính là một bước đệm để chuẩn bị cho việc giải thích pháp luật chính thức của Tòa án. Như vậy, có thể thấy các bản án, quyết định của Tòa án và án lệ đều đem lại những giá trị giải thích pháp luật nhất định, là những công cụ quan trọng 60
  63. trong hoạt động giải thích pháp luật của Tòa án. Giá trị giải thích của các bản án, quyết định của Tòa nằm ở việc áp dụng các quy phạm pháp luật vào những tình huống phát sinh cụ thể trong thực tiễn như thế nào. Còn giá tri ̣giải thích pháp luâṭ của án lê ̣nằm ở chỗ án lê ̣đa ̃ đề câp̣ đến các vu ̣ viêc̣ đa ̃ xảy ra trong thưc̣ tế, chứ không phải là những giả thuyết có tính lý luâṇ về những tình huố ng có thể xảy ra trong tương lai, vậy nên án lệ đa ̃ góp phầ n giải thích, bổ sung những thiếu sót, những lỗ hổng của pháp luâṭ thành văn và khắ c phuc̣ tình trang̣ thiếu pháp luât,̣ taọ điều kiêṇ cho viêc̣ áp dung̣ pháp luâṭ dê ̃ dàng, thuâṇ lơị và thống nhất. Vì vậy, việc xây dựng và phát triển án lệ, công khai các bản án, quyết định của Tòa án có vai trò rất quan trọng, thực hiện tốt các nhiệm vụ này chính là một bước khởi đầu thuận lợi để Tòa án có thể gánh vác được nhiệm vụ và trọng trách giải thích pháp luật. 3.1.2.3. Nâng cao đạo đức và năng lực giải thích pháp luật của Thẩm phán Để Tòa án có thể tiếp nhận và thực hiện hoạt động giải thích pháp luật chính thức một cách nhanh chóng, thuận lợi và đạt được hiệu quả, thì trước hết cần đảm bảo được vấn đề về năng lực cũng như đạo đức của các thẩm phán. Bởi các Thẩm phán không thể tránh khỏi việc giải thích pháp luật khi áp dụng vào các vụ việc cụ thể. Đặc biệt khi thẩm quyền giải thích pháp luật được trao cho Tòa án, các Thẩm phán sẽ luôn cần tiến hành giải thích pháp luật thông qua những vụ việc cụ thể được giải quyết tại Tòa án. Và với quy định của Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 về việc áp dụng án lệ tại Tòa án, thì Thẩm phán cần phải diễn giải pháp luật khi xét xử các vụ án. Như vậy, giải thích pháp luật sẽ trở thành một nghĩa vụ, là một phần công việc hàng ngày của Thẩm phán. Vì vậy, để hoạt động giải thích pháp luật của Tòa án được thực hiện một cách thực sự hiệu quả, thì tính quyết định chất lượng của hoạt động này chính 61
  64. là năng lực, trách nhiệm, phẩm chất và hiệu quả làm việc của đội ngũ thẩm phán. Không thể phủ nhận sự cần thiết trong việc có một đội ngũ thẩm phán giỏi, có kinh nghiệm giải thích pháp luật và chuyên sâu trong từng lĩnh vực của pháp luật. Vì vậy, cần chú trọng đến việc lựa chọn thẩm phán, cũng như việc trau dồi kỹ năng chuyên môn của các thẩm phán là rất quan trọng. Trong đó luôn cần đảm bảo các yếu tố về kiến thức pháp luật, kỹ năng xét xử, đạo đức nghề nghiệp để các thẩm phán có thể gánh vác được các nhiệm vụ và trọng trách mà pháp luật đã trao cho họ. Đồng thời cũng cần có những chính sách cũng như đãi ngộ thỏa đáng, thích hợp để họ có thể thực hiện được tốt nghiệp vụ của mình. 3.2. Các biện pháp khác nâng cao hiệu quả của hoạt động giải thích pháp luật 3.2.1. Xây dựng và ban hành Luật về giải thích pháp luật Để nâng cao hiệu quả của hoạt động giải thích pháp luật, để mở rộng thẩm quyền giải thích pháp luật của Tòa án thì cần phải có những cơ sở pháp lý, những quy định để điều chỉnh, kiểm soát chất lượng giải thích pháp luật. Hiện nay, pháp luật Việt Nam đã có những quy định cơ bản cho hoạt động giải thích pháp luật. Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật đã có quy định cụ thể về việc ban hành văn bản hướng dẫn, quy định chi tiết về các vấn đề như chủ thể có thẩm quyền, các nguyên tắc, trình tự thực hiện Tuy nhiên, về các yếu tố, nội dung mang tính giải thích pháp luật thì còn đang bị bỏ trống và quy định về giải thích pháp luật đang được dùng chung với các quy định pháp luật về hướng dẫn, quy định chi tiết. Tình trạng như vậy dẫn đến việc không có cơ sở pháp lý trực tiếp cho hoạt động giải thích pháp luật, khiến cho việc các nội dung giải thích pháp luật bị xen lẫn trong các văn bản hướng dẫn, quy định chi tiết. Do đó, việc xây dựng Luật về giải thích pháp luật với đầy đủ những quy định cơ bản, phản ánh đúng tính chất của hoạt động giải thích pháp luật là rất quan trọng. Đây là một giải pháp trực tiếp, vừa nâng cao được chất 62