Khóa luận Đổi mới tư duy lý luận của Đảng về mô hình kinh tế thị trường ở việt nam hiện nay

pdf 79 trang thiennha21 15/04/2022 5711
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Đổi mới tư duy lý luận của Đảng về mô hình kinh tế thị trường ở việt nam hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfkhoa_luan_doi_moi_tu_duy_ly_luan_cua_dang_ve_mo_hinh_kinh_te.pdf

Nội dung text: Khóa luận Đổi mới tư duy lý luận của Đảng về mô hình kinh tế thị trường ở việt nam hiện nay

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN NGUYỄN THỊ LAN HƯƠNG ĐỔI MỚI TƯ DUY LÝ LUẬN CỦA ĐẢNG VỀ MÔ HÌNH KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC NGÀNH TRIẾT HỌC Hệ đào tạo: Chính quy Khóa học: QH-2015-X Hà Nội – 2019
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN NGUYỄN THỊ LAN HƯƠNG ĐỔI MỚI TƯ DUY LÝ LUẬN CỦA ĐẢNG VỀ MÔ HÌNH KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC NGÀNH TRIẾT HỌC Hệ đào tạo: Chính quy Khóa học: QH-2015-X Người hướng dẫn: TS. Lương Thùy Liên Hà Nội – 2019
  3. LỜI CẢM ƠN Hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này, trước hết em xin chân thành cảm ơn sự dạy dỗ nhiệt tình của các thầy cô giáo trong khoa Triết học, trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội trong suốt thời gian em học tập tại khoa, tại trường. Đặc biệt, em xin chân thành cảm ơn TS. Lương Thùy Liên đã trực tiếp hướng dẫn tận tình và chu đáo trong quá trình em thực hiện và hoàn thiện khóa luận tốt nghiệp này. Mặc dù đã rất cố gắng, nhưng chắc chắn khóa luận sẽ không tránh khỏi những hạn chế và thiếu sót. Vì vậy, em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy, các cô, cùng toàn thể các bạn để khóa luận này được hoàn thiện hơn. Hà Nội, ngày 26 tháng 4 năm 2019 Nguyễn Thị Lan Hương
  4. MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TƯ DUY LÝ LUẬN VÀ ĐỔI MỚI TƯ DUY LÝ LUẬN VỀ MÔ HÌNH KINH TẾ THỊ TRƯỜNG 8 1.1. Một số vấn đề lý luận chung về tư duy lý luận và đổi mới tư duy lý luận 8 1.1.1. Tư duy lý luận. 8 1.1.2. Đổi mới tư duy lý luận 21 1.2. Tính tất yếu của đổi mới tư duy lý luận của Đảng ta về mô hình xây dựng kinh tế thị trường ở Việt Nam. 27 1.2.1. Điều kiện khách quan. 27 1.2.2. Nhân tố chủ quan. 31 Tiểu kết chương 1 36 Chương 2. QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI TƯ DUY LÝ LUẬN VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN ĐỂ TIẾP TỤC ĐỔI MỚI TƯ DUY LÝ LUẬN CỦA ĐẢNG VỀ MÔ HÌNH KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM. 38 2.1. Quá trình đổi mới tư duy lý luận về mô hình kinh tế thị trường của Đảng từ 1986 đến nay 38 2.1.1. Đổi mới tư duy lý luận về kết cấu, thành phần kinh tế. 40 2.1.2. Đổi mới về cơ chế quản lý kinh tế. 50 2.2. Một số giải pháp cơ bản nhằm tiếp tục đổi mới tư duy lý luận của Đảng về mô hình kinh tế thị trường ở Việt Nam 54 Tiểu kết chương 2 67 KẾT LUẬN 69 TÀI LIỆU THAM KHẢO 72
  5. MỞ ĐẦU 1. Lý do lựa chọn đề tài Mô hình Chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu và Liên Xô (cũ) sụp đổ đã đem đến những tổn thất vô cùng to lớn cho các phong trào cách mạng Xã hội chủ nghĩa trên thế giới. Điều này đã khiến cho sự phát triển của hình thái kinh tế xã hội Cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu là Chủ nghĩa xã hội trở nên thụt lùi so với trước kia. Chiến tranh lạnh kết thúc, Mỹ và Tây Âu chiến thắng. Tuy nhiên, họ cũng phải chịu những tổn thất vô cùng nặng nề do chiến tranh gây ra. Chính vì vậy, các nước Mỹ và Tây Âu càng phải gấp rút phát triển kinh tế và trang bị sức mạnh quân sự cho mình ngày càng hoàn bị hơn. Sự phát triển của cuộc cách mạng khoa học công nghệ đã và đang thúc đẩy các nước Tư bản chủ nghĩa phát triển mạnh mẽ trên các lĩnh vực kinh tế, quân sự Các nước này đang tiến hành đẩy mạnh âm mưu diễn biến hòa bình trên tất cả các lĩnh vực đặc biệt là kinh tế, chính trị. Chính tình hình đó đã làm nảy sinh tư tưởng hoang mang ở một số nhà lãnh đạo, nhà nghiên cứu. Họ bắt đầu nghi ngờ về tính khả thi của Chủ nghĩa xã hội, họ đòi xem xét lại con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội, đồng thời ca tụng Chủ nghĩa tư bản. Nhiều khuynh hướng cải lương đã xuất hiện và có không ít người cho rằng việc phát triển theo Tư bản chủ nghĩa sẽ đem lại một tương lai xán lạn hơn đối với những nước Chủ nghĩa xã hội còn lại, cũng như các nước thuộc thế giới thứ ba. Điều này đã đặt ra những yêu cầu và thách thức lớn trong sự kiên định chọn lựa mục tiêu và định hướng xây dựng Chủ nghĩa xã hội. Việt Nam đã áp dụng mô hình xây dựng Chủ nghĩa xã hội của Liên Xô (cũ) trong những năm 1960, 1970 và nửa đầu những năm 1980 của thế kỷ XX một cách thụ động, máy móc. Đường lối đó đã gây ra cuộc khủng hoảng trên nhiều lĩnh vực của đời sống, đặc biệt là kinh tế. Biểu hiện cụ thể của sự khủng 1
  6. hoảng này được thể hiện rõ qua các vấn đề xã hội như sau: kinh tế tụt hậu, kém phát triển; sản phẩm tiêu dùng nghèo nàn, không đa dạng; khoa học- kĩ thuật và công nghệ lạc hậu, quan liêu trong tổ chức hành chính Những thực tiễn trên đã dần dần đánh mất và làm giảm dần lòng tin vào chế độ Xã hội chủ nghĩa của một bộ phận quần chúng nhân dân. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên. Trong đó phải kể đến một nguyên nhân quan trọng là do xuất phát từ tư duy, nhận thức chưa đúng, chưa đầy đủ về những khó khăn, phức tạp trên con đường phát triển lên Chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Do đó, thực tiễn yêu cầu phải có tư duy mới, phải đổi mới tư duy lý luận về Chủ nghĩa xã ộh i và con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội. Đây là vấn đề cấp bách trong sự lãnh đạo của Đảng, đồng thời là vấn đề có ý nghĩa chiến lược đối với sự tồn tại và phát triển của mô hình Xã hội chủ nghĩa hiện thực ở nước ta. Do những nguyên nhân nêu trên, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986) đã đánh dấu bước ngoặt trong đổi mới tư duy lý luận của Đảng về Chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Từ đó cho đến nay, nội dung của vấn đề này ngày càng được Đảng ta làm rõ hơn. Trong văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986) đã nhấn mạnh: “Đối với nước ta, đổi mới đang là yêu cầu bức thiết của sự nghiệp cách mạng, là vấn đề có ý nghĩa sống còn Vì vậy, phải đổi mới- trước hết là đổi mới tư duy" [12,132- 133]. Đại hội này đã đánh dấu bước ngoặt trong quá trình đổi mới tư duy của Đảng về con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội đặc biệt trong vấn đề đổi mới tư duy lý luận về mô hình kinh tế thị trường ở nước ta. Đổi mới tư duy lý luận của Đảng là một trong những yêu cầu cấp bách đối với sự lãnh đạo Đảng, đồng thời đây cũng là một vấn đề cơ bản, lâu dài, có ý nghĩa chiến lược đối với cách mạng nước ta. Chính sự coi trọng việc đổi mới tư duy của Đảng đã thúc đẩy sự hoạt động của các nhà nghiên cứu, của đội ngũ cơ quan nghiên cứu lý luận cách mạng Đảng. Để nghiên cứu về quá 2
  7. trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng về mô hình phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam. Thông qua đó, thấy được ý nghĩa ủc a tư duy lý luận trong nhận thức xã hội, trong hoạt động thực tiễn và đặc biệt đưa ra được những giải pháp cơ bản để tiếp tục đổi mới tư duy lý luận của Đảng ta về mô hình phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam trong thời gian tới, nhằm góp phần đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả việc xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh Mặc dù đã có nhiều nghiên cứu về vấn đề này nhưng tôi nhận thấy vẫn cần có thêm những nghiên cứu một cách toàn diện và cấp thiết hơn. Do đó, tôi chọn đề tài “Đổi mới tư duy lý luận của Đảng ta về mô hình phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam” làm đề tài khóa luận của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài. Từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (12/ 1986) với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, nói đúng sự thật. Đảng ta đã tiến hành đổi mới toàn diện trên tất cả các lĩnh vực. Đã có nhiều tác giả và tập thể tác giả, nhiều công trình nghiên cứu và nhiều bài viết liên quan đến vấn đề này. Có thể điểm qua một số công trình nghiên cứu sau: Lại Văn Toàn: “Đổi mới tư duy lý luận- tư duy lý luận trong sự nghiệp đổi mới”, tạp chí triết học, số 1-1988; tác giả đề cập vấn đề đổi mới tư duy lý luận đã được đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đề ra, cũng như tính cấp thiết của vấn đề đổi mới được thông qua, để thấy được vai trò của tư duy lý luận trong sự nghiệp đổi mới đất nước- đó là một nhân tố không nhỏ trong việc định hướng các sách lược, chiến lược phát triển đất nước. Trong cuốn sách: “Đổi mới tư duy lý luận của Đảng ta” của TS. Nguyễn Đức Tài, Nxb Chính trị quốc gia, 2005: Tác giả đã khảo sát quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng ta về Chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội. Trên cơ sở nghiên cứu sự đổi mới tư duy lý luận của Đảng ta trong các lĩnh vực cụ thể như kinh tế, văn hoá Từ đó, chứng minh việc 3
  8. đổi mới tư duy lý luận là tất yếu để phát triển đất nước trong bối cảnh mới của thực tiễn. Trong cuốn sách: “Quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng ta từ 1986 đến nay” do tập thể các tác giả Tô Huy Rứa, Hoàng Chí Bảo, Trần Khắc Việt, Lê Ngọc Tòng (chủ biên), Nxb Chính trị quốc gia, 2006: Đây là cuốn sách tập hợp sự đóng gópủ c a rất nhiều nhà nghiên cứu, là một công trình nghiên cứu có uy tín với sự tổng kết những hạn chế và thành tựu trong công cuộc đổi mới tư duy lý luận của Đảng ta về Chủ nghĩa xã hội, con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội từ sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI. Đồng thời chỉ ra những hạn chế trong nhận thức, tư duy về Chủ nghĩa xã hội trước đổi mới. Các tác giả đi vào khảo sát vấn đề đổi mới tư duy lý luận trong từng lĩnh vực cụ thể. Để từ đó, rút ra những bài học kinh nghiệm và yêu cầu tiếp tục đổi mới. Qua các công trình nghiên cứu, các tác giả đều cho rằng cách tư duy máy móc, siêu hình, chủ quan, duy ý chí v.v là nguyên nhân cản trở quá trình xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Do vậy, việc đòi hỏi phải đổi mới tư duy lý luận là tất yếu. Đồng thời các bài viết, các công trình nghiên cứu cũng nhận định quá trình đổi mới phải dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, ầc n bổ sung và phát triển những thành tựu lý luận đã đạt được để đổi mới phương pháp tư duy, khắc phục lối tư duy kinh nghiệm Các tác giả đã chỉ ra trong quá trình đổi mới cần phải bám sát vào thực tiễn, tổng kết thực tiễn để phát triển lý luận, đây là yêu cầu mang tính chiến lược mà thực tiễn đặt ra cho hoạt động lý luận của Đảng. Như vậy, đổi mới tư duy lý luận đã nhận được nhiều sự quan tâm trong việc nhận thức, tổng kết, khái quát thực tiễn để từ đó tìm ra mô hình kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa. Vì thế, vấn đề đổi mới tư duy lý luận của Đảng về mô hình kinh tế thị trường là phù hợp với yêu cầu, đòi ỏh i phát triển của đất nước, là vấn đề mang tính ấc p thiết hiện nay. 4
  9. Có thể nói, khi nghiên cứu về vấn đề đổi mới tư duy kinh tế của Đảng qua việc khảo sát các văn kiện của Đảng, mỗi tác giả sẽ có những phương pháp, cách thức tiếp cận vấn đề khác nhau. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu đó vẫn chỉ dừng lại ở cấp độ khái quát vấn đề một cách chung nhất, chưa có những nghiên cứu cụ thể đối với từng vấn đề, đặc biệt trong vấn đề đổi mới tư duy kinh tế của Đảng còn ít được đề cập đến. Trong khi đó, đời sống kinh tế- xã hội ở các nước nói chung và ở Việt Nam nói rieng đang không ngừng vận động, biến đổi và phát triển. Chính vì vậy mà đã làm xuất hiện rất nhiều vấn đề mới cần nghiên cứu. Từ những phân tích nêu trên, khóa luận muốn tiếp cận và làm rõ hơn quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng về mô hình kinh tế thị trường, góp phần làm phong phú hơn kho tàng lý luận và thực tiễn về kinh tế trong giai đoạn hiện nay 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu. - Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở hệ thống hóa những nội dung liên quan đến tư duy lý luận và đổi mới tư duy lý luận, khóa luận làm rõ quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng về mô hình phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam nhằm tìm ra tính quy luật của quá trình này. Từ đó đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm tiếp tục thúc đẩy hơn nữa sự nghiệp đổi mới tư duy lý luận về mô hình phát triển kinh tế thị trường của nước ta hiện nay. - Nhiệm vụ nghiên cứu: Để đạt được mục đích như đã nêu ở trên, khóa luận có những nhiệm vụ cụ thể như sau: Thứ nhất làm rõ các vấn đề lý luận chung về: lý luận, tư duy lý luận và đổi mới tư duy lý luận; tính tất yếu của việc đổi mới tư duy lý luận của Đảng về mô hình kinh tế thị trường ở Việt Nam. Thứ hai, làm rõ quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng về mô hình kinh tế thị trường ở Việt Nam thông qua các văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc và Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ từ năm 1986 đến nay. 5
  10. Từ đó đề ra một số giải pháp cơ bản nhằm tiếp tục đổi mới tư duy lý luận của Đảng về mô hình kinh tế thị trường ở Việt Nam. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. - Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng về mô hình phát triển kinh tế thị trường ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. - Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu các quan điểm đổi mới thông qua các văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng, cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ về đổi mới và định hướng con đường đi lên Chủ nghĩa xã ộh i ở nước ta. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu. - Cơ sở lý luận: Cơ sở lý luận của đề tài là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, nhất là các nguyên lý của chủ nghĩa duy vật biện chứng về nhận thức và tư duy. - Phương pháp nghiên cứu: Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Phương pháp chủ yếu là phân tích- tổng hợp, thống nhất lịch sử- logic, khái quát hoá, trừu tượng hoá, so sánh, thống kê Các phương pháp được sử dụng đan xen để làm rõ mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu. 6. Đóng góp của đề tài. Đề tài đã hệ thống hoá và phân tích ở góc độ triết học vấn đề đổi mới tư duy lý luận về mô hình phát triển kinh tế thị trường của Đảng, thông qua các văn kiện Đại hội Đảng và Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ. Từ đó đề tài kiến nghị một số phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm tiếp tục thực hiện đổi mới tư duy lý luận về mô hình phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam trong giai đoạn sắp tới. 7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn. - Ý nghĩa lý luận: Khóa luận đã góp phần làm rõ vai trò của lý luận đối với việc chỉ đạo hoạt động thực tiễn trong quá trình xây dựng Chủ nghĩa xã hội. 6
  11. - Ý nghĩa thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của khóa luận có thể làm tài liệu tham khảo phục vụ nghiên cứu, giảng dạy, học tập môn học “Những nguyên lý của chủ nghĩa Mác- Lênin”, “Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam” cho sinh viên đại học, cao đẳng; hoặc môn học “giáo dục lý luận chính trị” ở các trường trung cấp, dạy nghề. 8. Kết cấu của đề tài. Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, nội dung chính của đề tài gồm 2 chương, 4 tiết. 7
  12. Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TƯ DUY LÝ LUẬN VÀ ĐỔI MỚI TƯ DUY LÝ LUẬN VỀ MÔ HÌNH KINH TẾ THỊ TRƯỜNG 1.1. Một số vấn đề lý luận chung về tư duy lý luận và đổi mới tư duy lý luận. 1.1.1. Tư duy lý luận. 1.1.1.1. Khái niệm của tư duy lý luận Tư duy được nghiên cứu ở nhiều góc độ khác nhau và cũng là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học khác nhau như: triết học, tâm lý học, lịch sử, ngôn ngữ học, logic học Ví dụ như: triết học nghiên cứu tư duy trong quá trình nhận thức tri thức và hiện thực, trong mối liên hệ giữa chủ thể với khách thể; tâm lý học nghiên cứu tư duy trong các mối liên hệ với hành vi của con người, sự tác động của hệ thần kinh cấp cao não người với môi trường xung quanh; ngôn ngữ học nghiên cứu tư duy trong mối liên hệ với các tín hiệu ngôn ngữ; trong khi đó logic học nghiên cứu tư duy dưới góc độ tính chân thực hay tính giả đối của tư tưởng, nghiên cứu hình thức hay tính quy luật của tư duy Mỗi ngành khoa học đều muốn khám phá tư duy dưới những góc độ riêng và thông qua những khám phá đó có thể chứng minh được vai trò to lớn của tư duy trong hoạt động thực tiễn cũng như trong nhận thức của con người. Vậy tư duy là gì? Có nhiều cách định nghĩa tư duy khác nhau. Trong cuốn giáo trình Lôgic học đại cương tư duy được định nghĩa như sau: “Tư duy là sự phản ánh gián tiếp và khái quát hiện thực khách quan vào đầu óc con người, được thực hiện bởi con người xã hội trong quá trình hoạt động thực tiễn cải biến thế giới xung quanh” [40,9]. Với tư cách là sự phản ánh gián tiếp và khái quát hiện thực khách quan vào đầu óc con người nên tư duy đóng vai trò vô cùng quan trọng không chỉ trong nhận thức mà ngay cả trong hoạt động thực tiễn của con người. Nhờ có tư duy mà con người có thể hoạt động theo những mô hình đã dự kiến, hoạch định sẵn. Nếu không có tư duy 8
  13. thì con người không thể hoạt động được. Cũng nhờ có tư duy không ngừng được đổi mới và biến đổi nên con người có thể cải biến các hoạt động nhận thức sao cho phù hợp với hoạt động trong thực tiễn. Tư duy góp phần tạo ra trong đời sống con người hình ảnh của toàn bộ thế giới với những chuẩn mực sống và các hệ giá trị phong phú, phức tạp. Cũng chính tư duy góp phần làm xóa bỏ những chuẩn mực cũ, hình thành nên những chuẩn mực mới cao hơn, phù hợp và hợp lý với nhu cầu xã hội hơn. Tư duy có khả năng phản ánh hiện thực khách quan nhưng nếu không sử dụng đúng cách tư duy có thể cản trở sự vận động của đời sống khách quan cũng như trong hoạt động kinh tế của con người. Trong hoạt động sống của mình con người chịu tác động của môi trường tự nhiên, đồng thời chính con người tại tác động trở lại môi trường tự nhiên ấy nhằm cải tạo thiên nhiên và phục vụ cho đời sống của chính bản thân mình. Trong mối quan hệ ấy, con người với tư cách là chủ thể đã tác động vào đối tượng khách quan bằng phương thức riêng biệt đặc trưng riêng cho loài của mình, đó chính là quá trình tư duy. Thực chất, tư duy chính là chức năng riêng có, riêng biệt của não người. Đó chính là quá trình ý thức con người tiếp cận và nắm bắt hiện thực. Tư duy là hình thức cao trong sự phản ánh hiện thực khách quan, trong đó con người qua các tài liệu thu được từ nhận thức cảm tính, thực hiện thông qua các thao tác tư duy (phân tích, tổng hợp, so sánh, phán đoán, suy lý ) phân tích các dữ kiện, tài liệu để đưa kết luận cuối cùng trong chuỗi phản ánh. Mỗi kết luận được đưa ra thường đem lại những tri thức mới. Nội dung của tư duy hình thành trên cơ sở các tài liệu của cảm giác, tri giác, biểu tượng về các sự vật và hiện tượng của thế giới bên ngoài tác động vào chủ thể tư duy. Nhưng quá trình tư duy không phải là sự tổng hợp đơn giản các cảm giác và tri giác ấy. Tư duy giúp cho chủ thể nhận thức phản ánh được những thuộc tínhv à mối liên hệ cơ bản không chỉ có ở những sự vật riêng lẻ, mà cònở một nhóm sự vật. Tư duy có khả năng nắm bắt, phát hiện được bản chất của sự vật 9
  14. ngày càng sâu sắc hơn. Tư duy con người có nhiều đặc trưng, trong đó phải kể đến những đặc trưng cơ bản sau: tính gián tiếp, khái quát hoá, trừu tượng hoá, tính tích cực và sáng tạo. Thế giới khách quan là vô cùng phong phú và đa dạng mà tư duy là kết quả của sự tác động bởi yếu tố khách quan và chủ quan. Vì vậy, quá trình tư duy là một quá trình phức tạp, nó không tiến hành phản ánh một lần mà phải thực hiện cả một chuỗi phản ánh để đi đến nhận thức sâu sắc về đối tượng. Khả năng “tư duy của con người vừa tối cao vừa không tối cao, và khả năng nhận thức của con người vừa vô hạn vừa có ạh n. Tối cao và vô hạn là xét theo bản tính, sứ mệnh, khả năng và mục đích lịch sử cuối cùng; không tối cao và có ạh n là xét theo sự thực hiện riêng biệt và thực tế trong mỗi thời điểm nhất định” [27, 127]. Do đó, tư duy của con người với sản phẩm của nó, không phải tất cả đều là chân lý, và không thể là một “chân lý vĩnh cửu”. Trên thực tế, vì tư duy có tính sáng tạo; do đó, nó có khả năng vượt trước thực tiễn, đi trước hiện thực khách quan. Tuy nhiên, cũng vì sự linh động này mà đôi khi tư duy dễ mắc phải những sai lầm trong quá trình phản ánh. Điều này làm cho tư duy được thể hiện ra rất phong phú về độ phản ánh cũng như phương pháp phản ánh. Ở đây, chúng ta xem xét đến mối quan hệ giữa tư duy kinh nghiệm và tư duy lý luận để xem xét và trả lời cho câu hỏi: Vậy thì trình độ tư duy có mối liên hệ như thế nào với phương pháp tư duy và nó có vai trò như thế nào trong đời sống hiện thực, điểm khác biệt của chúng là ở đâu? Trong mối quan hệ giữa tư duy kinh nghiệm và tư duy lý luận, chúng ta thấy rõ được sự tác động qua lại giữa hai trình độ tư duy này, chúng không hoàn toàn phủ định nhau một cách sạch trơn mà đó là sự phủ định có tính kế thừa, mặc dù có sự khác biệt rõ nét. Tư duy kinh nghiệm là một giai đoạn tất yếu của nhận thức lý tính, nó có vai trò quan trọng trong hoạt động nhận thức và thực tiễn của con người. Việc đánh giá đúng vai trò, vị trí ủc a tư duy kinh nghiệm để có thể phát huy 10
  15. những ưu điểm, khắc phục những hạn chế của nó là việc làm cần thiết trong quá trình phát triển kinh tế- xã hội. Tư duy kinh nghiệm được hình thành một cách trực tiếp trong quá trình hoạt động thực tiễn của chủ thể nhằm mục đích cải biến khách thể. Nó thường phản ánh những thuộc tính, tính chất của các đối tượng có tác động trực tiếp tới chủ thể. Đối tượng phản ánh của nó là những thuộc tính, tính chất của khách thể hiện thực; ngược lại, đối tượng của tư duy lý luận là những khách thể trừu tượng. Sự khác nhau về mặt đối tượng được xem là dấu hiệu căn bản để phân biệt hai giai đoạn kinh nghiệm và lý luận trong nhận thức. Từ những phân tích ở trên, có thể rút ra định nghĩa như sau: Tư duy lý luận là giai đoạn cao nhất của tư duy, là quá trình mà tư duy tiếp cận, nắm bắt, nhận thức và tái tạo hiện thực khách quan bằng lý luận và thường được thể hiện ra ở các giả thuyết, các lý thuyết có quan hệ tương hỗ với nhau. Tư duy lý luận có những đặc trưng cơ bản sau: Là giai đoạn cao nhất của tư duy. Tư duy lý luận không phản ánh hiện thực bằng các khái niệm thông thường mà nó phản ánh thông qua các khái niệm lý luận. Sản phẩm hay hình thức biểu hiện của tư duy thường được biểu hiện thông qua các giả thuyết khoa học. Tư duy lý luận là trình độ cao hơn về chất so với tư duy kinh nghiệm. Sản phẩm của tư duy lý luận là những tri thức lý luận, trong khi đó sản phẩm của tư duy kinh nghiệm lại là những mảnh đoạn rời rạc. Tư duy lý luận phản ánh bản chất, quy luật ở các cấp độ, các giai đoạn, các hình thức của sự vật, hiện tượng. Nó nghiên cứu một cách kỹ càng các tầng lớp bên trong của sự vật và bóc tách các vấn đề để phản ánh một cách sâu nhất về đối tượng, phản ánh xu thế vận động của đối tượng nên tư duy lý luận có khả năng bao quát, bám sát sự vận động của đối tượng cũng như có khả năng vượt lên trên và dẫn đường, định hướng cho sự vận động và phát triển của đối tượng. Tư duy lý luận có thể được hiểu theo 3 cách là động từ, tính từ và danh từ. 11
  16. Với tư cách là động từ: tư duy lý luận được hiểu là quá trình mà tư duy lý luận đang vận động để khám phá, nắm bắt, tái tạo hiện thực. Với tư cách là danh từ: Tư duy lý luận được hiểu như là một quá trình, một kết quả đã có, đã hình thành. Với tư cách là tính từ: tư duy lý luận thường được hiểu thông qua các cặp đối lập của nó. Có hai yếu tố chủ yếu để cấu thành nên tư duy lý luận là chủ thể và khách thể của tư duy lý luận. Mặt khách thể của tư duy lý luận là toàn bộ những mối liên hệ chung nhất bên trong, tất yếu làm nên bản chất và quy luật của tự nhiên, xã hội và của chính con người. Mặt chủ thể của tư duy lý luận là những thứ liên quan đến hoạt động của não người và thường được thể hiện ra ở ba chủ thể chính là cá nhân, tập thể, dân tộc. Tư duy lý luận cần đáp ứng được các đặc trưng và yêu cầu sau: Thứ nhất, tư duy đó phải có một hệ thống ngôn ngữ chọn lọc là ngôn ngữ lý luận; thứ hai, về yêu cầu: tư duy lý luận mỗi thời đại bao giờ cũng đạt đến trình độ khái quát và tính chân lý cao nhất. Chính vì vậy mà chủ thể của tư duy lý luận cần thỏa mãn bốn yêu cầu sau: Một là, chủ thể của tư duy lý luận phải là những người có khả năng trí tuệ cao bao gồm khả năng quan sát, ghi nhớ tốt, năng lực tư duy trừu tượng cao, năng lực tưởng tượng và năng lực thực tiễn duy lý; hai là, chủ thể tư duy lý luận phải được đào tạo, rèn luyện, trang bị về tri thức, ngôn ngữ, logic toán, và các phương pháp khoa học; ba là, chủ thể tư duy lý luận phải được trang bị các điều kiện vật chất như là các công cụ, thiết bị, phương tiện và các điều kiện vật chất khác vào trong phương tiện kĩ thuật; bốn là, chủ thể tư duy lý luận phải được rèn luyện trong phong trào Cách mạng, thực tiễn và quần chúng. Đặc trưng riêng của tư duy lý luận đó là: hệ thống ngôn ngữ và kí hiệu này được xây dựng rất khái quát, chặt chẽ, chính xác, rõ ràng và được sử dụng tương đối thống nhất; ngôn ngữ lý luận là ngôn ngữ được chuyên môn hóa sâu sắc để giúp cho tư duy lý luận phản ánh ngày càng đầy đủ hơn đối tượng nghiên cứu của mình. 12
  17. Cũng giống tư duy thông thường tư duy lý luận sử dụng các thao tác sau: Phân tích- tổng hợp; so sánh- phân loại; trừu tượng hóa; lý tưởng hóa; trung gian hóa và cụ thể hóa; hệ thống hóa; khái quát hóa. Các thao tác này trong tư duy lý luận được sử dụng đầy đủ nhất, chính xác nhất và có hiệu quả nhất vì: Các thao tác này trong tư duy lý luận thường lặp đi lặp lại gần như chuyên dụng trong tư duy lý luận. Trong tư duy lý luận, các thao tác này thường được sắp xếp thành một hệ thống chặt chẽ, tương ứng với các phương pháp tư duy khoa học. Trong việc vận động và phát triển của các thao tác này, từ việc mở rộng phạm vi ứng dụng đến việc nâng cao năng lực của các thao tác đã biết, đồng thời còn phát hiện ra những khả năng mới của các thao tác đó hoặc phát hiện, xây dựng và sử dụng những thao tác mới hoàn toàn của tư duy đều nhờ tư duy lý luận đóng vai trò là chất xúc tác chủ yếu. Là những cấp độ khác nhau của cùng một quá trình nhận thức lý tính, nhưng tư duy kinh nghiệm và tư duy lý luận không đối lập, tách rời nhau, mà thống nhất với nhau thông qua hoạt động thực tiễn. V.I.Lênin đã từng khẳng định: “Muốn hiểu biết thì phải bắt đầu tìm hiểu, nghiên cứu từ kinh nghiệm, từ kinh nghiệm mà đi đến cái chung” [21,220]. Ở nước ta, một số công trình nghiên cứu đã đồng nhất tư duy kinh nghiệm với nhận thức cảm tính; hoặc chỉ coi “tư duy kinh nghiệm là thứ tư duy tiền khoa học” [24,55]. Quan niệm đó đã dẫn đến việc tuyệt đối hoá vai trò của tư duy lý luận; coi thường tư duy kinh nghiệm. Thực chất, tư duy kinh nghiệm là giai đoạn tất yếu của nhận thức lý tính. Do vậy, nó cũng có khả năng phát hiện các quy luật và định hướng hoạt động thực tiễn của con người, chứ không chỉ tư duy lý luận mới có thể làm được việc này. Có thể thấy, vai trò ủc a tư duy kinh nghiệm đối với hoạt động nhận thức và thực tiễn kém hơn tư duy lý luận, tuy nhiên không vì thế mà chúng ta có thể tuyệt đối hoá vai trò của tư duy lý luận, hoặc xem nhẹ vai trò ủc a tư duy kinh nghiệm. Tư duy kinh nghiệm hướng tới giải quyết những nhiệm vụ trước mắt, cụ thể, đang đặt ra; phát hiện và giải quyết vấn đề một cách trực tiếp. Do có 13
  18. khả năng trực tiếp phản ánh hiện thực khách quan, nên tư duy kinh nghiệm rất mềm dẻo, linh hoạt, năng động và nhạy cảm trước thực tiễn, dễ thích nghi với những thay đổi của thực tiễn. Giữa lý luận và thực tiễn vẫn còn là một khoảng cách, tư duy kinh nghiệm là nhịp cầu nối quan trọng giữa tư duy lý luận và thực tiễn, gắn lý luận với thực tiễn. Tư duy lý luận có khoảng cách rất xa thực tiễn nên nhiều khi các phương án giải quyết vấn đề của tư duy lý luận thiếu tính đặc thù, nghĩa là thiếu sự phù hợp giữa khách thể trừu tượng, chung với khách thể hiện thực cụ thể. Do vậy, tư duy lý luận có thể dẫn đến những giải pháp không phù hợp để giải quyết những vấn đề thực tiễn đặt ra. Việc trong một thời gian dài, chúng ta quan niệm cần phải phát triển quan hệ sản xuất trước một bước nhằm tạo điều kiện, mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển đã dẫn đến kết quả ngược lại, là một ví ụd . Hiện nay, do tư duy lý luận ở nước ta còn nhiều yếu tố giáo điều, tư biện, nên chưa đưa ra được giải pháp phù ợh p trong việc giải quyết những vấn đề mà thực tiễn đang đặt ra một cách hiệu quả. Ví ụd , việc quy hoạch mạng lưới giao thông ở các thành phố lớn, các chiến lược giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực, một số chương trình phát triển kinh tế Về vấn đề này, tác giả Ngô Đình Xây đã viết: “Kiểu tư duy lý luận một cực là sách vở giáo điều và cực kia là thực tiễn vụn vặt là nét nổi bật thứ ba trong tư duy lý luận và cũng là của tư duy lý luận ở nước ta hiện nay. Khi lý tưởng hoá đi đến tuyệt đối hoá chức năng trừu tượng, tuyệt đối hoá khía cạnh lý thuyết thuần tuý tư duy lý luận đã bỏ rơi nguyên tắc: sức mạnh có thể có ở lý luận là ở chỗ nó gắn liền với thực tiễn và khi tư duy lý luận đã quên mất nguyên tắc đó, nó chỉ có thể tạo dựng những lý thuyết trừu tượng cách biệt quá lớn với thực tiễn, và như vậy nó giúp ích được gì cho thực tiễn?” [41, 34]. Chính vì vậy, nếu kết hợp tư duy lý luận và tư duy kinh nghiệm một cách hợp lý thì chắc chắn chúng ta sẽ đưa ra được những giải pháp phù hợp hơn với thực tiễn. 14
  19. Trong mối quan hệ với tư duy lý luận, tư duy kinh nghiệm không những là cơ sở, tiền đề cho tư duy lý luận, mà còn đóng vai trò trung gian để lý luận thực hiện có hiệu quả vai trò định hướng và chỉ đạo thực tiễn. Lý luận không có thực tiễn là lý luận suông, thực tiễn không có lý luận là thực tiễn mù quáng. Những tri thức khoa học có mức độ trừu tượng hoá và khái quát hoá rất cao, nhưng trong thực tiễn hầu như hoàn toàn không có những khách thể trừu tượng như vậy. Trải qua hơn ba mươi năm tiến hành đổi mới, sự phát triển, bổ sung lý luận về xây dựng Chủ nghĩa xã hội của Đảng qua các kỳ đại hội đã khẳng định rằng, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn là nhiệm vụ hết sức quan trọng, là cơ sở khoa học để đẩy mạnh đổi mới tư duy lý luận của Đảng. Qua quá trình phân tích ở trên, chúng ta có thể thấy rằng, tư duy kinh nghiệm là nấc thang tất yếu và không thể thiếu của tư duy trong quá trình nhận thức và chỉ đạo hoạt động thực tiễn cải biến thế giới khách quan của con người. Tuy nhiên, cũng cần phải thấy rằng, bên cạnh những ưu điểm, tư duy kinh nghiệm cũng còn có những mặt hạn chế nhất định. Trong quá trình phát triển và hội nhập hiện nay, nếu chúng ta không khắc phục một cách kịp thời những tác động tiêu cực đó, thì chúng sẽ gây ra nhiều hậu quả hết sức nghiêm trọng. Do được hình thành trực tiếp trong quá trình con người nhận thức và cải tạo thế giới khách quan, nên tư duy kinh nghiệm vẫn mang tính tự phát trong việc giải quyết những vấn đề cụ thể của thực tiễn đặt ra. Một hạn chế khác của tư duy kinh nghiệm là tính duy lý yếu. Vì vậy, tư duy kinh nghiệm thường có độ chính xác không cao, ít có khả năng định hướng, chỉ đạo hoạt động thực tiễn ở tầm chiến lược một cách hiệu quả. Do yếu về tính duy lý, tư duy kinh nghiệm thường mang tính định tính nhiều hơn định lượng, thiếu chính xác hơn tư duy lý luận. Đồng thời, do ít có khả năng phân tích, phê phán và tự phê phán, người tư duy kinh nghiệm thường suy nghĩ đơn giản, máy móc, thụ động, ít sáng tạo. Chính điều này đã dẫn đến việc áp dụng một 15
  20. cách máy móc kinh nghiệm của người khác, địa phương khác mà không tính đến những yếu tố đặc thù của địa phương mình. Trong hoạt động thực tiễn, nếu người ta chỉ dừng lại ở trình độ tư duy kinh nghiệm sẽ không có khả năng nhận thức được bản chất của các sự vật và hiện tượng, do đó sẽ không nắm được những biến đổi phong phú, đa dạng của hiện thực để cải biến nó phục vụ lợi ích ủc a con người. Do đó, muốn cải biến hiện thực theo nghĩa sáng tạo ra hiện thực mới, con người phải nhận thức, khám phá được bản chất, quy luật vận động khách quan của nó bằng tính chặt chẽ, chính xác và sáng tạo của tư duy lý luận. Hơn nữa, cần phải kết hợp nhuần nhuyễn tư duy lý luận với tư duy kinh nghiệm để phát huy những mặt mạnh, cũng như khắc phục những mặt hạn chế của mỗi loại hình tư duy. Đó là cách để phát huy vai trò định hướng và chỉ đạo của lý luận đối với hoạt động thực tiễn nhằm cải tạo hiện thực khách quan một cách có hiệu quả. Ph. Ăngghen nói: “Một dân tộc muốn đứng vững trên đỉnh cao của khoa học thì không thể không có tư duy lý luận” [26, 489]. Bởi vì, tư duy lý luận cho phép nhà nghiên cứu vạch mở được bản chất phát triển của khách thể nghiên cứu, tạo bước chuyển về chất của đối tượng từ trạng thái này sang trạng thái khác phát hiện và phản ánh vào khoa học các luận điểm, lý thuyết, quy luật tồn tại và phát triển của nó mà nhận thức cảm tính không thể tiếp cận được. “Nhưng làm thế nào khoa học tự nhiên đã chuyển sang lĩnh vực lý luận và trong lĩnh vực này những phương pháp kinh nghiệm trở nên bất lực, chỉ có tư duy lý luận mới có thể giúp ích được” [26, 487]. Bằng tư duy lý luận con người khám phá bản chất, khoan sâu đến bản chất của hiện tượng. Tư duy lý luận đóng vai trò là chất keo dính các sự kiện, hiện tượng, các mối liên hệ, quan hệ của sự vật, hiện tượng. “Dù người ta tỏ ý khinh thường tư duy lý luận như thế nào đi nữa, nhưng không có tư duy lý luận thì người ta cũng không thể liên kết hai sự kiện trong giới tự nhiên với nhau được, hay không thể hiểu được mối liên hệ giữa hai sự liên kết đó” [26, 508]. Tư duy lý luận gắn kết 16
  21. các hình ảnh hoạt động, vận hành bộ máy công cụ của mình để giúp cho nhận thức đi vào bản chất của sự vật. Có thể thấy tư duy kinh nghiệm có vai trò quan trọng trong quá trình nhận thức và cải tạo thực tiễn của con người, song về bản chất, những tri thức kinh nghiệm vẫn mang tính chất hạn hẹp. Vì vậy, để phát huy được vai trò của tư duy kinh nghiệm, nhất thiết phải đặt nó trong mối liên hệ thống nhất với tư duy lý luận, bởi chỉ có tư duy lý luận với bản chất sáng tạo và sự sâu sắc trong sự phản ánh hiện thực khách quan mới có thể khắc phục được tính chất hạn hẹp, phiến diện của tư duy kinh nghiệm. Nhận thức xã hội là quá trình phản ánh đời sống xã hội vào ý thức con người. Là bộ phận của ý thức xã hội, bao gồm những thành tố, những hình thái khác nhau của hiện tượng tinh thần và những hiện tượng tinh thần đó phản ánh xã hội bằng những phương thức khác nhau. Mối quan hệ giữa tư duy lý luận và nhận thức xã hội là mối quan hệ bản chất, vì vậy tư duy lý luận có vai tròấ r t quan trọng trong nhận thức xã hội. Nhận thức xã hội bao gồm những đặc trưng sau: Thứ nhất, nhận thức xã hội có tính cá nhân xong không rõ nét (đậm nét). Thứ hai, nhận thức xã hội mang tính xã hội rất cao. Thứ ba, nhận thức xã hội mang tính giai cấp trong xã hội có giai cấp. Nhận thức đó do lợi ích của giai cấp cầm quyền (lãnh đạo) chi phối và bao giờ cũng bị hệ tư tưởng chi phối. Thứ tư, nhận thức xã hội mang tính dân tộc rõ nét. Thứ năm, nhận thức xã hội mang tính nhân văn trực tiếp. Tính tích cực của tư duy lý luận đối với nhận thức xã hội được thể hiện ở những điểm sau: Thứ nhất, tư duy lý luận tạo điều kiện và làm tiền đề cho việc hình thành các giả thuyết xã hội, lý thuyết xã hội và mô hình phát triển xã hội. Thứ hai, tư duy lý luận đóng vai trò là phương pháp luận cho nhận thức xã hội. Thứ ba, tư duy lý luận đóng vai trò là phương pháp cho nhận thức xã hội. Thứ tư, tư duy lý luận còn cung cấp cho nhận thức xã hội những lý thuyết cụ thể về xã hội. 17
  22. Tính tích cực của nhận thức xã hội đối với tư duy lý luận được thể hiện ở các điểm sau: Thứ nhất, nhận thức xã hội làm tri thức nguồn cho tư duy lý luận. Thứ hai, nhận thức xã hội giúp tư duy lý luận được hiện thực hóa. Thứ ba, nhận thức xã hội giúp tư duy lý luận được sâu sắc thêm, đa dạng thêm, phong phú thêm, hoàn chỉnh thêm. Thứ tư, nhận thức xã hội cung cấp những công cụ mới (khái niệm mới) cho tư duy lý luận. 11.1.1.2. Đặc trưng của tư duy lý luận người Việt Nam hiện nay. 1) Sự chủ đạo của tư duy định tính tiền định lượng. Tư duy lý luận trải qua các giai đoạn sau từ kinh nghiệm và trên cơ sở kinh nghiệm đến giai đoạn đầu của tư duy lý luận, sau đó tư duy lý luận phân tách, phân tầng sự vật và cuối cùng tư duy lý luận đi khái quát, đến cái bản chất của sự vật, đó là định tính sau định lượng. Tư duy lý luận đích thực là tư duy định tính sau định lượng. Nếu chỉ dừng lại ở định tính tiền định lượng thì tư duy chỉ có cái nhìn chung về sự vật, cái bề ngoài của sự vật. Nó có thể đúng nhưng nó là cái đúng mang tính hình thức, bề ngoài. Trong thực tế, tư duy lý luận là “bà đỡ” cho các chính sách xã hội, nó sẽ hình thành đường lối, chủ trương chính sách giả. Bởi lẽ nó không nắm bắt được bản chất sự vật, không có cụ thể hóa trong tư duy. Vì vậy những đường lối chủ trương chính sách này không có cơ sở để phổ cập hóa trong xã hội vì nó là đường lối chủ trương chính sách giả. Điều này giải thích tại sao ở nước ta ban hành nhiều chính sách nhưng ít đi vào thực tế. Nguyên nhân của sự chủ đạo của tư duy định tính tiền định lượng là do trình độ khoa học chưa phát triển và chuyên môn yếu kém. 2) Tư duy thiên về lập, yếu về luận. Tư duy lý luận đích thực có hai thao tác cơ bản lập và luận. Lập được hiểu là cách đặt vấn đề, tiếp cận vấn đề. Luận là sự lý giải, giải quyết vấn đề. Luận làm cho tư duy lý luận không những được sâu sắc, phát hiện các bản chất của sự vật mà còn vạch ra con đường đưa ra biện pháp để hiện thực hóa nó. Đây là hai thao tác trong tư duy lý luận mà không thể thiếu thao tác nào. 18
  23. Thiếu một trong hai thao tác này thì tư duy lý luận không còn hoàn chỉnh. Nếu thiếu lập thì không có luận đúng hướng và đúng đắn, nếu chỉ có lập mà không có luận thì dẫn đến sự hiểu biết nửa vời, không triệt để, nhiều khi mang tính ngộ nhận và với một kiểu tư duy thiên về lập, yếu về luận làm bàn đỡ cho các lý thuyết xã hội, chính sách xã hội thì sẽ dẫn đến không triệt để, nửa vời. Và từ đây, khi áp dụng trong thực tế, thì lý luận chỉ được khuôn lại ở một số công thức, máy móc đơn điệu và lý luận hiện ra là tổng số các công thức cứng đờ, phiến diện và sự công thức hóa chỉ làm cho lý luận chỉ còn là một “sạp”. Hai căn nguyên chính dẫn đến việc tư duy thiên về lập yếu về luận đó là: Bị chi phối bởi tư duy kinh nghiệm và vừa không có truyền thống, vừa yếu về tư duy logic. 3) Sự đè nặng của tư duy kinh nghiệm. Tư duy kinh nghiệm chính là tư duy được dựa trên, vận hành trên tri thức kinh nghiệm. Tri thức kinh nghiệm có hai loại là: tri thức kinh nghiệm thông thường (tiền khoa học) và tri thức kinh nghiệm khoa học. Dẫu là tri thức thông thường hay khoa học đều có 3 đặc trưng cơ bản sau: Là những tri thức kinh nghiệm đã mang tính gián tiếp và khái quát nhất định xong mới chỉ là bước đầu và còn hạn chế; chỉ giới hạn ở lĩnh vực miêu tả sự việc, phân loại các dữ liệu thu được từ những quan sát và thí nghiệm; là những tri thức mang tính hiểu biết về các mặt riêng lẻ, về các mối liên hệ bề ngoài cho nên nó còn rời rạc, chưa nắm được mối liên hệ tất yếu, bản chất bên trong. Do vậy theo Angghen: sự quan sát dựa vào kinh nghiệm tự nó không bao giờ có thể chứng minh được đầy đủ tính tất yếu. Và với một tư duy còn chi phối, đè nặng bởi tư duy kinh nghiệm thì nó sẽ dẫn đến trong thực tế chủ nghĩa kinh nghiệm sẽ thay thế và kinh nghiệm sẽ lên ngôi. Do vậy cho nên mọi đường lối, chủ trương, chính sách đều được triển khai thực hiện dựa trên kinh nghiệm và chủ nghĩa kinh nghiệm, và như vậy tư duy lý luận trở nên thiếu sắc bén. 4) Tư duy mang tính lưỡng cực. Tư duy mang tính lưỡng cực: Một cực là sách vở giáo điều nhưng cực kia lại khái quát thực tiễn vụn vặt. Lý luận đích thực có hai khía cạnh nổi bật: 19
  24. một khía cạnh lý thuyết và một khía cạnh thực tiễn của lý luận. Nếu như tuyệt đối hóa khía cạnh lý thuyết thuần túy thì lý luận đã bỏ rơi một nguyên tắc là sức mạnh có thể có của lý luận chỉ khi nó gắn với thực tiễn. Như vậy nguyên tắc thực tiễn và lý luận bị vi phạm. Song ngược lại, khi nhấn mạnh tuyệt đối hóa chủ nghĩa thực tiễn trong lý thuyết lý luận, nghĩa là thiên về khái quát thực tiễn vụn vặt thì tư duy lý luận đã hạ thấp lý luận xuống cấp độ khái quát vụn vặt. Vi phạm một nguyên tắc khác là lý luận chỉ có sức mạnh thực sự khi đóng vai trò là lý luận, nghĩa là phải đạt đúng tầm lý luận chứ không phải chỉ khái quát thực tiễn vụn vặt. Lý luận có hai khía cạnh là lý thuyết và thực tiễn. Nếu như người ta cảm thấy khía cạnh lý thuyết yếu hay rời rạc thì người ta lấy trích dẫn trong sách vở để bổ sung cho nó. Lý luận hiện ra là tổng số các trích dẫn và tư duy logic, lập luận logic trong lý luận được thay bằng sự viện dẫn sách vở. Hệ quả là, trích dẫn thay cho lập luận và suy nghĩ. Mặt khác, khi nhận thấy lý luận mang tính sách vở, lý thuyết thì người ta lại dẫn đến cực thứ hai, đó là bổ sung thực tiễn cho lý luận. Nhưng ở đây thực tiễn không được hiểu là tổng thể các hoạt động vật chất của con người mà chỉ là những hoạt động riêng lẻ của con người, những mảnh vụn thực tiễn. Sự khái quát những mảnh vụn thực tiễn này làm cho lý luận hiện ra chỉ là tổng số những ví dụ. Kết quả là chúng ta vừa thừa vừa thiếu lý luận. Thừa lý luận không đúng tầm của nó, thiếu lý luận đích thực. Nguyên nhân cơ bản của vấn đề tư duy mang tính lưỡng cực là do bệnh hình thức trong suy nghĩ của người Việt. 5) Có sự đồng nhất tư duy lý luận với tư duy chính trị. Việc đồng nhất giữa tư duy lý luận và tư duy chính trị đã đem lại những hệ quả sau: nội dung của lý luận chỉ còn khuôn lại ở đường lối, quan điểm chính trị; nghiên cứu lý luận không phải là sự tìm tòi, phát minh từ những vấn đề thực tiễn mà chủ yếu chỉ là đi nghiên cứu, thuyết minh, chứng minh cho đường lối, quan điểm chính trị; nhà nghiên cứu lý luận cũng đồng thời là nhà hoạt động chính trị. 20
  25. 1.1.2. Đổi mới tư duy lý luận. Mọi sự vật- hiện tượng trong thế giới khách quan xung quanh chúng ta đều trải qua các quá trình sinh thành, vận động, phát triển và tiêu vong. Các sự vật, hiện tượng đó không do một lực lượng siêu nhiên nào tạo ra, không phải chịu sự tác động của bất kỳ sức mạnh thần thánh nào, mà sự hình thành, tồn tại và phát triển của chúng chỉ chịu sự tác động, chi phối của các quy luật khách quan, phổ biến như sự tích luỹ dần dần về lượng dẫn tới sự thay đổi về chất và ngược lại, sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập, sự phủ định của phủ định. Sự tác động của các quy luật đó trong đối tượng đã tạo ra cơ chế, cơ sở, tiền đề, nguồn gốc và kết quả của sự phát triển. Tuy nhiên, quá trình vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng không diễn ra theo đường thẳng, mà thường là quanh co, phức tạp, đôi khi bao gồm cả những “bước thụt lùi tạm thời”. Trong quá trình phát triển đó đôi lúc sự vật, hiện tượng bộc lộ những hạn chế, lỗi thời không phù hợp với thực tiễn, với điều kiện và hoàn cảnh mới. Chính vì vậy mà nó nghiễm nhiên trở thành yếu tố cản trở sự phát triển của chính ảb n thân sự vật, hiện tượng. Và do vậy, để tiếp tục tồn tại và phát triển không có cách nào khác là phải loại bỏ những yếu tố đang cản trở ấy, phải có sự thay đổi, đổi mới nhất định trong tiến trình vận động và phát triển. Tuỳ theo đối tượng, lĩnh vực mà hình thức thay đổi phù hợp, có thể là tiến hành cải tổ, cải cách, đổi mới hay là tiến hành cuộc cách mạng. Mọi hình thức tiến hành đều nhằm một điểm là giải quyết những hạn chế, bế tắc, khủng hoảng để nhằm cải tạo đối tượng hoàn thiện hơn, tiến bộ hơn. Sự phát triển của tư duy là khách quan và có tính quy luật. Nó diễn ra đồng thời với quá trình hoạt động của thực tiễn. Tư duy chính là đối tượng của nhận thức. Sự phát triển của tư duy không diễn ra theo một đường thằng mà tùy vào từng không gian, điều kiện, hoàn cảnh cụ thể mà tư duy có lúc nhanh, lúc chậm, lúc ngưng đọng hay nhảy vọt. Mặt khác, sự phát triển nội tại của tư duy không dừng lại ở đó, mà vòng tròn “trôn ốc” của sự phát triển sẽ 21
  26. hình thành một hình thức tư duy tiến bộ hơn phủ định hình thức tư duy cũ. Với tư duy biện chứng được phát triển và hoàn thiện từ phép biện chứng “lộn ngược đầu xuống đất” của Heghen, các nhà kinh điển Mácxit đã xây dựng được một phương pháp tư duy khoa học và cách mạng- đó là tư duy biện chứng duy vật. Khi tư duy biểu hiện những dấu hiệu của tư duy kinh viện, kinh nghiệm, hình thức, thực dụng thì buộc chủ thể tư duy phải có sự thay đổi. Sự thay đổi không phải đơn thuần là sự thay thế tư duy hình thức bằng tư duy kinh nghiệm, tư duy thực dụng bằng tư duy kinh viện mà sự đổi mới này phải theo hướng tốt hơn, tiến bộ hơn. Nó phải cho phép khắc phục được những hạn chế của tư duy hiện thời và đáp ứng được yêu cầu của sự phát triển. Do vậy, “đổi mới là thay đổi hoặc làm cho sự thay đổi tốt hơn, tiến bộ hơn so với trước” [1, 657]. Đổi mới tư duy nhằm mục đích phản ánh bản chất, xác thực về đối tượng. Để đổi mới được, tư duy cần gắn liền với đối tượng, theo dõi sự vận động và phát triển của đối tượng. Có thể thấy, mọi sự vật hiện tượng không ngừng vận động và phát triển, thực tiễn luôn thay đổi nên yêu cầu chủ thể cũng cần phải luôn đổi mới trên tất cả các mặt, các lĩnh vực hoạt động thực tiễn và nhận thức của mình. Trong tiếng Việt, đổi mới được hiểu là thay đổi hoặc làm thay đổi cho tốt hơn, tiến bộ hơn so với trước, đáp ứng được yêu cầu của sự phát triển. Đổi mới là đặc điểm có tính quy luật của quá trình phát triển nói chung, của chủ nghĩa xã hội nói riêng. Thời kỳ đầu (nửa sau những năm 80 của thế kỷ trước) ở nước ta đổi mới được hiểu như là những suy nghĩ, những hành động riêng lẻ, cụ thể nhằm thay đổi một nhận thức, một cách làm nhất định nào đó có tính tình thế. Càng về sau, chúng ta càng nhận thức đầy đủ hơn về đổi mới như là vấn đề chiến lược lâu dài trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội; nó bao quát toàn diện, không trừ lĩnh vực nào của quá trình đó. Đổi mới còn là quá trình sửa lại những nhận thức chưa đúng về “cái cũ”, vận dụng nó hiệu quả hơn vào thực tiễn mới. Đổi mới còn là làm rõ cái gì là 22
  27. đúng ủc a ngày hôm qua, nhưng do hoàn cảnh đã thay đổi, hôm nay không còn thích hợp, cần từ tổng kết thực tiễn để khái quát lý luận nhằm bổ sung, phát triển nhận thức, phát triển nền tảng tư tưởng của chúng ta, nhằm làm cho nền tảng tư tưởng đó thực hiện hiệu quả hơn chức năng là cơ sở hoạch định và triển khai đường lối của Đảng, thúc đẩy đất nước phát triển. Như vậy, đổi mới có thể có nhiều mức độ, quy mô và phương thức khác nhau. Từ yêu cầu cấp bách là sửa chữa sai lầm cho đến yêu cầu căn bản là xóa bỏ hệ thống quan điểm cũ kỹ lạc hậu lỗi thời để thay thế bằng hệ thống quan điểm mới hiện đại, tiên tiến. Đổi mới từ phương pháp tư duy cho đến nội dung tư duy. Tư duy lý luận là những quá trình vận dụng hệ thống các khái niệm, phạm trù theo những nguyên tắc lôgic chặt chẽ, nhằm đạt đến chân lý, là quá trình tái tạo hiện thực, có khả năng phản ánh hiện thực một cách đúng đắn, sâu sắc. Sức mạnh của sự sáng tạo phải gắn liền với thực tiễn chứ không được thoát ly thực tiễn. Như vậy quá trình đổi mới tư duy lý luận được hiểu như sau: Đổi mới tư duy trước hết cần đổi mới nhận thức của con người về đối tượng. Có thể thấy, khi thực tiễn thay đổi, những vấn đề cũ, những hoạch định, con đường phát triển cũ có thể còn phù hợp nhưng cũng có thể đã bị lỗi thời, lạc hậu. Chính vì vậy, khi xã hội ngày càng phát triển, những vấn đề mới cũng sẽ được phát sinh trên cơ sở những nền tảng của sự phát triển cũ. Những vấn đề lý luận của sự phản ánh hiện thực cũ có thể tiếp tục thúc đẩy sự phát triển, tuy nhiên nó cũng có thể kìm hãm sự phát triển đó cả ở trong nhận thức và trong vấn đề cải tạo thực tiễn. Hệ thống những lý luận với các khái niệm, phạm trù không phải là những chân lý vĩnh viễn mà nó có thể thay đổi khi hoàn cảnh thay đổi. Hệ thống các lý luận biểu hiện ra thành các khái niệm ấy có thể còn đúng nhưng chưa đầy đủ, nhưng cũng có thể nó đã lỗi thời, lạc hậu hoặc nếu trong trường hợp thực tiễn phát sinh ra một vấn đề hoàn toàn mới mà hệ thống lý luận chưa có một khái niệm nào để phản ánh cũng như giải quyết thì khi đó, chủ thể tư duy bắt buộc phải hoạt động để tạo ra những nhận 23
  28. thức mới về vấn đề phát sinh. Cần phải đổi mới để tiếp nhận hiện thực khách quan một cách chính xác và hiệu quả nhất. Đổi mới tư duy giúp tạo ra được những bước phát triển mới trong tư duy, những bước chuyển trong tư duy đồng thời từ đó có thể tạo ra những bước chuyển trong hiện thực. Trước đây chúng ta xây dựng mô hình kinh tế hiện vật với sự tuyệt đối hoá sở hữu xã hội (nhà nước và tập thể), với sự phát triển vượt trước của quan hệ sản xuất đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất đã dẫn tới sự kìm hãm sự phát triển kinh tế trong một thời gian dài. Sau khi tiến hành đổi mới tư duy về kinh tế, chúng ta xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường. Và khi hình thành mô hình kinh tế thị trường, vận hành dưới sự quản lý của nhà nước, thay thế cho cơ chế bình quân và bao cấp đã tạo ra bước chuyển về chất, góp phần thúc đẩy sự phát triển của kinh tế. Và đã tạo ra sự cải biến thực sự đời sống kinh tế- xã hội ở nước ta. Điều này cho thấy, các khái niệm cũ khi đã lỗi thời thì chúng sẽ không có khả năng tạo ra giá trị sử dụng cho việc thúc ẩđ y sự phát triển mà nó làm cho khả năng phát triển ấy bị hạn chế. Vì vậy, chúng ta phải loại bỏ những khái niệm, phạm trù cũ không còn phù hợp và xây dựng những khái niệm, phạm trù mới. Tư duy phải tiếp cận với sự biến đổi của hiện thực để phản ánh hiện thực một cách nhanh chóng, chính xác. Đổi mới tư duy lý luận là phương thức duy nhất có thể giải thoát tư duy ra khỏi phạm vi của cái cũ, cái lạc hậu, của cái khả năng để trở thành cái hiện thực. Đồng thời, việc mở rộng các lĩnh vực phản ánh, lĩnh vực đổi mới tư duy như kinh tế, chính trị, văn hoá, giáo dục sẽ giúp cho hệ thống lý luận ngày càng phong phú và đa dạng hơn, có khả năng chắt lọc được những tinh tuý để đủ khả năng đáp ứng vai trò chỉ đạo và định hướng cho hoạt động thực tiễn. Đổi mới tư duy lý luận để tạo ra những chân lý mới có khả năng khám phá, thám hiểm được nhiều hơn các góc cạnh của đời sống kinh tế- xã hội. Đổi mới tư duy lý luận về các lĩnh vực phải tiến hành đồng bộ và toàn diện. Nhằm 24
  29. thúc đẩy mục tiêu Xã hội chủ nghĩa và thúc đẩy phát triển của xã hội, phát triển của con người. Thứ hai, đổi mới tư duy lý luận là phải đổi mới cách thức, thao tác tư duy. Tức là đổi mới việc sử dụng các thao tác tư duy như phân tích- tổng hợp, phân loại- so sánh, lịch sử- logic Các thao tác này phải được sử dụng một cách linh hoạt, tích ực c, chủ động và sáng tạo. Quá trình đổi mới các thao tác tư duy này không phải là sự thay đổi các quy luật tư duy mà là làm cho sự vận dụng các thao tác tư duy có hiệu quả cao nhất. Phải có sự liên kết, kết hợp giữa các thao tác để nhằm phản ánh nhanh nhất và chính xác nhất về đối tượng. Việc vận dụng linh hoạt và sáng tạo các thao tác tư duy sẽ giúp chúng ta sẽ có thể bỏ qua những cái ngẫu nhiên, bề ngoài trong quá trình xử lý các dữ kiện. Đồng thời giúp cho quá trình tư duy có thể “rút ngắn” những thao tác nhất định trong quá trình phản ánh mà không nhất thiết phải trải qua những bước tuần tự vẫn có thể tìm ra được logic vận động của đối tượng một cách chính xác. Việc đổi mới thao tác tư duy giúp chủ thể tư duy có thể loại bỏ những tiểu tiết mà đi vào cái bản chất của đối tượng. Sự kết hợp các thao tác và sử dụng các thao tác có hiệu quả thì sẽ tạo ra những tri thức có tính chính xác ngày càng cao, càng tiến gần đến chân lý hơn, và góp phần tạo cải tạo thực tiễn. Thứ ba, đổi mới tư duy lý luận là đổi mới phương pháp tư duy, đổi mới phương pháp phản ánh ốđ i tượng. Đối tượng phản ánh không nằm trong sự khu biệt, riêng lẻ mà thường xuyên nằm trong mối liên hệ phổ biến, phong phú, đa dạng. Bản thân các thuộc tính ủc a đối tượng cũng luôn liên hệ và tác động qua lại với nhau. Nếu chỉ dùng phương pháp kinh nghiệm, kinh viện, hình thức để tiếp cận đối tượng thì sẽ bó hẹp đối tượng trong phạm vi nhỏ lẻ, trong sự tĩnh tại, cô lập mà không thấy được sự rộng lớn và phong phú của sự vật, hiện tượng được phản ánh. Do đó, phương pháp tư duy biện chứng được xem như là phương pháp tối ưu nhất trong quá trình phản ánh sự vật, hiện tượng. Tư duy biện chứng luôn xem xét sự vật, hiện tượng trong sự vận động 25
  30. và phát triển, trong sự biến đổi không ngừng. Tư duy biện chứng luôn xem xét đối tượng trong các mối liên hệ, trong sự tác động qua lại với các đối tượng khác nhau, cũng như mối quan hệ giữa các thuộc tính trong cùngộ m t sự vật. Ở đây, tư duy biện chứng phản ánh được cả sự cô đọng, tĩnh tại, cả sự biến đổi, phản ánh nhanh nhạy và kịp thời với sự biến đổi của thực tiễn. Khi nói đến tư duy mới hay đổi mới tư duy phát triển kinh tế- xã hội là nói ớt i những thay đổi lớn trong quan điểm, chủ trương, đường lối, chính sách phát triển kinh tế- xã hội, trong pháp luật, thể chế và chính sách quản lý. Tư duy mới sẽ có chính sách mới, chính sách mới sẽ tạo ra phong trào mới, phong trào mới sẽ tạo ra kết quả mới. Vì thế, đổi mới tư duy là khởi đầu cho quá trình phát triển mới. Với tư cách là hình thức phản ánh cao nhất về hiện thực khách quan, đổi mới tư duy là sự đổi mới một cách căn bản, sâu sắc, toàn diện, hệ thống cách nhìn nhận, phản ánh về sự vật, hiện tượng. “Đổi mới tư duy lý luận là việc thay đổi cách tiếp cận, phương pháp tiếp cận trong việc nghiên cứu, tìm hiểu đối tượng. Quá trình đổi mới tư duy lý luận chính là quá trình làm cho tư duy phản ánh kịp thời, phản ánh đúng, khách quan về sự vật, hiện tượng. Đồng thời có khả năng đưa ra những dự báo được khả năng phát triển của sự vật, hiện tượng. Nâng cao tính khoa học, tính cách mạng và khả năng cải tạo thế giới của nó. ổĐ i mới tư duy lý luận góp phần tạo ra tri thức lý luận mới để có thể định hướng, chỉ đạo sự phát triển cho sự vận động của thực tiễn.” [5, 29-30]. “Đổi mới tư duy lý luận không có nghĩa là phủ nhận những thành tựu lý luận đã đạt được, phủ nhận những quy luật phổ biến của sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa xã hội, phủ nhận đường lối đúng đắn đã xác định, trái lại, chính là ổb sung và phát triển những thành tựu ấy”[6, 125]. Có thể nhận thấy rằng, Đại hội VI của Đảng đã khởi xướng đường lối đổi mới, bắt đầu từ đổi mới tư duy kinh tế. Tư duy đổi mới của Đại hội đã đi vào thực tiễn đời sống kinh tế- xã hội, phù hợp với yêu cầu và đòi hỏi của 26
  31. thực tiễn phát triển kinh tế- xã hội, là nhân tố quyết định tạo nên những thắng lợi to lớn, có ý nghĩa lịch sử của đất nước, mà thành tựu nổi bật là nước ta đã thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế- xã hội vào cuối những năm 80, đầu những năm 90 của thế kỷ trước, và hiện đã trở thành nước có thu nhập trung bình, đang trong công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức Tuy vậy, bên cạnh những thành tựu đạt được, sự phát triển kinh tế- xã hội ở nước ta còn bộc lộ những hạn chế, yếu kém, mà một trong những nguyên nhân là tư duy về phát triển kinh tế- xã hội đã tới hạn, nhiều chủ trương, chính sách không còn phát huy được tác dụng mạnh mẽ như giai đoạn đầu. Thời kỳ mới đòi hỏi phát triển đất nước toàn diện và đồng bộ hơn về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội trong đó phát triển kinh tế- xã hội là trung tâm. Vì thế, cần tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy phát triển kinh tế- xã hội, tạo động lực mới cho sự phát triển đột phá kinh tế- xã hội của đất nước. 1.2. Tính tất yếu của đổi mới tư duy lý luận của Đảng ta về mô hình xây dựng kinh tế thị trường ở Việt Nam. 1.2.1. Điều kiện khách quan. Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 thắng lợi đã mở ra một thời đại mới trong lịch sử thế giới, mở ra con đường giải phóng mới cho lịch sử và cho loài người- thời đại quá độ từ Chủ nghĩa tư bản sang Chủ nghĩa xã hội trên toàn thế giới. Nhân dân Liên Xô cũng đã đạt được những thành tựu rất quan trọng trong sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa. Thành công của Liên Xô được thể hiện bước đầu thông qua những thành tựu về kinh tế và khoa học kỹ thuật. Tuy nhiên, chính vì những thành công quá lớn trong các lĩnh vực kể trên đã khiến cho suy nghĩ và hành động của những người lãnh đạo Đảng cộng sản Liên Xô mắc phải những sai lầm. Họ đã vi phạm một thời gian dài các quy luật khách quan của sự phát triển xã hội dẫn đến sự trì trệ của xã hội trong những năm 80 của thế kỷ trước. Khi nhìn nhận được những sai lầm, khuyết điểm của mình, Liên Xô đã cố gắng khắc phục, sửa chữa những sai 27
  32. lầm đó bằng cách tiến hành những công cuộc cải tổ. Tuy nhiên công cuộc cải tổ đó đã không đem lại được kết quả tốt đẹp hơn mà nguyên nhân trực tiếp là do sự không tính toán kỹ các bối cảnh quốc tế và điều kiện trong nước. Trong khi đó, họ lại liên tiếp đưa ra những quyết định chính trị duy ý chí khiến cho tình hình càng thêm rối ren dẫn đến sự khủng hoảng toàn diện đời sống kinh tế- xã hội vào cuối những năm 80 của thế kỷ XX. Tóm lại, công cuộc cải tổ của Liên Xô đã không thành công và đã làm sụp đổ cả một cường quốc, tan rã chế độ xã hội chủ nghĩa đã tồn tại hơn 70 năm. Chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô sụp đổ đã kéo theo sự sụp đổ mô hình xã hội chủ nghĩa ở các nước Đông Âu, khiến cho phong trào cách mạng xã hội chủ nghĩa lâm vào tình trạng thoái trào. Có thể nói đã có không ít người nuôi hy vọng đi theo con đường Xã hội chủ nghĩa sẽ phát triển một cách nhanh chóng, không bị những khó khăn, rào cản quá lớn nào. Tuy nhiên họ đã nhanh chóng rơi vào trạng thái bi quan, dần mất niềm tin và đi đến phủ nhận nội dung và tính chất quá độ lên Chủ nghĩa xã hội trong thời đại ngày nay. Khi Chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô tan rã, các nước Xã hội chủ nghĩa cũ đều ra sức tìm thêm những hướng đi mới cho dân tộc mình. Tuy nhiên, trong quá trình tìm kiếm những hướng đi mới đó, các nước Xã hội chủ nghĩa cũ đều có điểm chung đó là không lựa chọn định hướng Xã hội chủ nghĩa cũ nữa mà ngả theo sự phát triển của Tư bản chủ nghĩa và dựa vào sự giúp đỡ của các nước tư bản phương Tây. Sự sụp đổ của chế độ Chủ nghĩa xã hội cũ ở Liên Xô và Đông Âu càng khiến cho người ta phải suy nghĩ về những giá trị và ý nghĩa đích thực của Chủ nghĩa xã hội. Muốn Chủ nghĩa xã hội thành công thì chúng ta cần trung thành một cách có phê phán đối với những di tích kinh điển của chủ nghĩa Mác- Lenin. Cần biết vận dụng và phát triển sáng tạo nó trong điều kiện hoàn cảnh mới. Để Chủ nghĩa xã hội thành công trong tương lai cần phải xây dựng một niềm tin khoa học vào chủ nghĩa xã hội chứ không phải là tin tưởng một cách mù quáng, giáo điều, máy móc. 28
  33. Cuộc khủng hoảng của Chủ nghĩa xã hội hiện thực và những vấn đề thời đại là nhân tố tác động trực tiếp tới nhận thức và những quyết sách đổi mới của Đảng cộng sản Việt Nam- một Đảng luôn trung thành với lợi ích của giai cấp công nhân và của dân tộc, luôn lấy chủ nghĩa Mác, Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng, tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của mình. Một ví dụ điển hình cho những lập luận trên là trường hợp của Trung Quốc. Cũng như Liên Xô, Trung Quốc chọn con đường đi lên Xã hội chủ nghĩa bỏ qua chế độ Tư bản chủ nghĩa. Việc lựa chọn con đường này thời gian đầu đã gặp rất nhiều khó khăn. Trung Quốc đã rơi vào tình trạng khủng hoảng trong một thời gian dài vào những năm 60- 70 của thế kỷ XX. Trong khoảng thời gian này, đời sống của nhân dân rất khó khăn, nhân dân dần mất niềm tin đối với Đảng và nhà nước. Tuy nhiên, sau đó Trung Quốc đã tìm được hướng đi riêng của mình thông qua cuộc cải cách mở cửa. Họ vẫn luôn kiên định với mục tiêu Xã hội chủ nghĩa để xây dựng Chủ nghĩa xã hội hài hòa, mang màu sắc Trung Quốc. Sang đến thế kỷ XXI, Trung Quốc lại chủ trương xây dựng một “xã hội hài hòa”. Những thành tựu mà Trung Quốc đạt được trên các lĩnh vực khoa học- kỹ thuật, công nghệ đã và đang làm cho các nước tư bản phải kính nể và thận trọng hơn trong các đối sách với nước này. Bối cảnh thế giới và xu thế toàn cầu hoá đang đặt ra những thách thức và yêu cầu lớn đối với các nước nêu trên. Bởi toàn cầu hoá (đặc biệt là toàn cầu hoá về lĩnh vực kinh tế) có tác động nhân quả đối với sự vận động của phương thức sản xuất, là một quá trình xã hội hoá ngày càng lớn, ngày càng sâu sắc, sự phát triển của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất cùng với sự tác động biện chứng giữa hai mặt ở phạm vi toàn cầu. Xu thế toàn cầu hóa đang đặt các nước đang phát triển và chậm phát triển vào những thách thức và khó khăn lớn như vấn đề bùng nổ dân số, khan hiếm, cạn kiệt tài nguyên môi trường và tình trạng phát triển kinh tế quá nhanh sẽ dễ rơi vào trạng thái khủng hoảng. Điều đó buộc các nước đang phát 29
  34. triển (trong đó có Việt Nam) phải lựa chọn cho mình một hướng đi đúng đắn, bắt kịp, đón đầu được bước tiến của thời đại. Thách thức cũng là cơ hội để cho các nước đang phát triển thể hiện mình và khai thác được tiềm năng của chính mình vì ụm c tiêu phát triển của đất nước, vấn đề là ở chỗ phải nắm bắt được thời cơ và chọn thời cơ. Toàn cầu hoá như một quá trình vận động lớn bao hàm trong đó những diễn biến mạnh mẽ của quá trình quốc tế hoá và khu vực hoá, từ sản xuất và kinh tế đã thâm nhập vào các lĩnh vực đời sống văn hoá, chính trị, xã hội. Mở cửa hội nhập với thế giới toàn cầu, việc chuẩn bị tiềm lực, việc thường xuyên chăm lo bảo vệ và phát huy bản sắc dân tộc là vấn đề cần giải quyết ở tầm chiến lược chính trị thông qua các quyết sách, chính sách trên nhiều lĩnh vực. Mà điều này cũng đòi hỏi phải có tư duy mới, tức là phải đổi mới tư duy. Chính yêu cầu này trong bối cảnh toàn cầu hoá và các vấn đề toàn cầu nói chung đã có tác động mạnh mẽ tới sự nghiệp đổi mới ở nước ta. Nó không chỉ tác động ở thời kỳ mở đầu đổi mới mà còn tác động lâu dài trong suốt tiến trình đổi mới ở Việt Nam. Nửa sau thế kỷ XX, thế giới bước vào thời kỳ cách mạng khoa học- công nghệ phát triển mạnh mẽ và nhanh chóng, thời kỳ này đã xuất hiện nhiều hơn các nghiên cứu, phát minh mới tạo ra sự bùng ổn thông tin mạnh mẽ tác động đến mọi lĩnh vực đời sống xã hội. Chính những thành tựu to lớn của cách mạng khoa học và công nghệ dẫn tới sự ra đời một nền kinh tế mới: nền kinh tế tri thức. Nền kinh tế này đã tác động làm thay đổi cơ cấu kinh tế thế giới, nó không những tạo ra bước phát triển vượt bậc của lực lượng sản xuất mà còn tác động đến quan hệ sản xuất, đến tư duy (nhất là tư duy kinh tế). Trong điều kiện kinh tế tri thức được triển khai nhanh chóng ở các nước phát triển, thì các nước đang phát triển lại sở hữu một nguồn nhân lực dồi dào. Đây sẽ là thế mạnh cho phát triển kinh tế, nếu biết huy động hết các khả năng sáng tạo của con người, nếu không thì chính nguồn lực to lớn không công ăn việc làm này sẽ là gánh nặng cho các nước với nhiều hậu quả xã hội tiêu cực. Như 30
  35. vậy, sự tác động to lớn tới đời sống xã hội của khoa học- công nghệ, của sự bùng ổn thông tin và sự hình thành xã hội thông tin, của nền văn minh tin học và kinh tế tri thức đã buộc các nước đang phát triển (trong đó có Việt Nam) phải lựa chọn cho mình một hướng đi đúng đắn, bắt kịp, đi tắt, đón đầu bước tiến của thời đại. Trước một thế giới đổi thay và phát triển nhanh, làm thế nào để chúng ta thoát khỏi tình trạng khủng hoảng, trì trệ, bắt trúng nhịp sống chung của thế giới hiện đại để bước vào sự phát triển năng động, thích ứng với những đòi hỏi mới của thời đại? Đổi mới- trước hết là đổi mới tư duy đã trở thành một nhu cầu bức thiết, mang tính sống còn và ngày càng trở nên chín muồi, đòi ỏh i phải được hiện thực hóa không chậm trễ. 1.2.2. Nhân tố chủ quan. Cách mạng Việt Nam bước sang một giai đoạn mới đó là xây dựng và phát triển đất nước theo những đường lối, tư tưởng của chủ tịch Hồ Chí Minh. Với đại thắng mùa xuân năm 1975, miền Nam được giải phóng, đất nước thống nhất hai miền Nam Bắc và cùng quá độ đi lên Chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa xã hội được coi là quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam trong thời đại mới. Cách mạng Việt Nam từ đây cũng đã chuyển sang một giai đoạn mới. Nhiệm vụ chiến lược thời kỳ này đó là xây dựng Chủ nghĩa xã hội và bảo vệ nhà nước Xã hội chủ nghĩa. Thời kỳ mới đã làm xuất hiện những yêu cầu mới, đòi hỏi sự đổi mới và chuyển biến một cách đồng bộ của Đảng, nhà nước và của nhân dân ta trên mọi mặt, mọi phương diện từ tổ chức đến hoạt động, từ bộ máy đến con người, từ phương thức, phương pháp lãnh đạo, quản lý, đến cơ chế, chính sách thực hiện, từ nhận thức đến hành động của mỗi cá nhân và tổ chức, của các cấp, các ngành từ trung ương tới địa phương. Có thể nói độc lập dân tộc và Chủ nghĩa xã hội chính là định hướng tư tưởng chính trị nòng cốt nhất, không thay đổi trong sự nghiệp chính trị của Đảng và nhà nước ta. Định hướng đó được thể hiện nhất quán và toàn diện trong mọi nhiệm vụ, chương trình, kế hoạch hành động của 31
  36. toàn Đảng, toàn dân nhằm thực hiện đầy đủ và tốt nhất mục tiêu của đổi mới: dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Việt Nam đi lên Chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp nghèo nàn, lạc hậu, bỏ qua chế độ Tư bản chủ nghĩa. Trong quá trình đi lên Chủ nghĩa xã hội, nước ta gặp phải vô vàn những khó khăn như: là một nước nghèo, những tiền đề cơ sở vật chất kỹ thuật cho Chủ nghĩa xã hội còn chưa có. Một quốc gia trải qua nhiều cuộc chiến tranh kéo dài nên sức sản xuất kém phát triển, trình độ công nghệ còn lạc hậu, người lao động đông về số lượng nhưng lại yếu kém về tay nghề; tài nguyên thiên nhiên phong phú, đa dạng nhưng lại có trữ lượng ít và rất khó khai thác Từ những khó khăn nêu trên có thể chỉ ra rằng, muốn tiến tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh thì trước tiên nhân dân ta phải thoát ra khỏi nghèo đói. Nhìn lại thời kỳ trước đổi mới có thể thấy chúng ta đã mắc phải những sai lầm như sau: trong quá trình tổ chức thực hiện đi lên Xã hội chủ nghĩa chúng ta đã quá nóng vội, dẫn đến xác định sai lầm bước đi, không tập trung phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ mà tập trung ngay vào phát triển công nghiệp nặng. Đảng ta muốn làm nhanh, làm nhiều mà không biết tận dụng và phát triển lực lượng sản xuất đã có, cải tạo một cách ồ ạt, xây dựng kế hoạch tập trung, quan liêu, chưa biết kết hợp kế hoạch hóa với sử dụng thị trường, chưa phát huy được vai trò định hướng của kinh tế quốc doanh và vai trò là động lực phát triển của các thành phần kinh tế khác, do vậy đã có những hành động nóng vội, giản đơn trong công cuộc cải tạo Xã hội chủ nghĩa. Chúng ta quá nôn nóng nên đã mắc nhiều sai lầm khi xác định mục tiêu và các bước đi trong xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, cải tạo xã hội chủ nghĩa và quản lý kinh tế Chính vì vậy đã làm cho quan hệ sản xuất biến dạng mà vẫn bắt lực lượng sản xuất phải phù hợp với quan hệ sản xuất đó. Trong quá trình sản xuất chúng ta chỉ quan tâm đến số lượng mà không quan tâm đến chất lượng, hàng hóa khan hiếm, cơ chế phân phối bất cập, tệ nạn quan liêu, tham những vẫn còn tồn tại và không ngừng gia tăng. Trong khi đó, chúng ta vẫn giữ lối tư duy kinh tế cũ, 32
  37. việc áp dụng theo mô hình kinh tế cũ “mệnh lệnh- chỉ huy” đã làm cho nền kinh tế bị khủng hoảng trầm trọng, sảm xuất bị trì trệ, lạm phát ra tăng, đời sống nhân dân gặp rất nhiều khó khăn; cung không đủ cầu cùng với chế độ phân phối theo tem phiếu kéo dài do hàng hoá khan hiếm đã làm cho khó khăn càng chồng chất những khó khăn. Từ những phân tích nêu trên, có thể thấy rằng: những sai lầm trong việc thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng đã làm tăng thêm khó khăn của tình hình kinh tế- xã hội; làm cuộc khủng hoảng ở nước ta thời kỳ này dường như rơi vào trạng thái bế tắc, không có lối thoát. Đây được coi là nhân tố chủ quan khiến tư duy lý luận của Đảng cần phải đổi mới. Nguyên nhân dẫn đến những sai lầm trong việc lãnh đạo kinh tế bắt nguồn từ những tư tưởng chỉ đạo chủ quan, nóng vội, bảo thủ, trì trệ trong việc xác định mục tiêu, con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội. Từ những thực tiễn đặt ra có thể thấy rằng, việc sửa chữa những sai lầm trong lãnh đạo của Đảng và quản lý của nhà nước là một trong những việc làm quan trọng, cấp thiết cần phải tiến hành ngay. Đảng đã thừa nhận những lạc hậu, yếu kém về tư duy lý luận của các cán bộ, Đảng viên. Điều này được thể hiện rõ ở trình độ tư duy. Chúng ta vẫn đang đi theo lối tư duy thiên về kinh nghiệm, khái quát thực tiễn một cách vụn vặt, nhỏ lẻ, mảnh đoạn; chưa liên kết được các khối tri thức kinh nghiệm với nhau; chưa có khả năng phân tích, tổng hợp, khái quát tình hình thực tiễn. Đảng và nhà nước ta vẫn còn quá câu nệ vào câu chữ, sách vở mà không có khả năng vận dụng lý luận vào đời sống thực tiễn một cách nhuần nhuyễn, linh hoạt, sáng tạo và biện chứng. Tư duy lý luận ở nước ta đang thiên về lập, yếu về luận. Lối tư duy lưỡng cực: một cực thì khái quát thực tiễn vụn vặt, một cực thì lại mang tính chất sách vở làm cho khả năng phản ánh, nhận thức bị hạn chế. Lối tư duy thiên về kinh nghiệm, coi trọng kinh nghiệm, đề cao kinh nghiệm mà không thấy được ý nghĩa sâu sắc của tri thức lý luận trong phản 33
  38. ánh đời sống hiện thực, không thể đi sâu vào bản chất bên trong, không phản ánh được mối liên hệ cơ bản, tất yếu của sự vật, không nắm bắt được quy luật vận động và phát triển của xã hội. Trong tư duy, nhận thức có dấu hiệu của tâm lý phục tùng mệnh lệnh của cấp trên, họ dường như bị rập khuôn vào một mẫu số tư duy chung. Chủ thể tư duy ít có điều kiện và cơ hội để phát huy hết khả năng sáng tạo của mình. Sự khái quát thực tiễn một cách vụn vặt, không phản ánh được mối liên hệ mang tính quy luật, tất yếu của các sự vật, hiện tượng đã làm cho chức năng dự báo khoa học của tư duy rơi vào thoát ly thực tiễn, không bám sát thực tiễn, phản ánh không đúng xu thế vận động của thực tiễn, cũng như không đáp ứng được những yêu cầu của thực tiễn đang biến đổi về mặt lý luận. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã rút ra được bốn bài học lớn trong chỉ đạo của Đảng đối với sự phát triển của đất nước. Đó là, trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải lấy dân làm gốc, Đảng phải chăm lo xây dựng và phát huy quyền làm chủ cho nhân dân; xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới; và chăm lo xây dựng Đảng ngang tầm với nhiệm vụ chính trị của một Đảng cầm quyền lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc cách mạng . Những bài học đó cũng thể hiện tư tưởng chỉ đạo quan trọng của đổi mới, là cơ sở dẫn dắt Đảng ta trên con đường đổi mới để phát triển. Trong quá trình xây dựng Chủ nghĩa xã hội, Đảng ta luôn nhận thấy vai trò quan trọng của cán bộ lãnh đạo trong công cuộc xây dựng đất nước. Ngay từ Đại hội lần thứ II (1951) Đảng đã chỉ ra một số bệnh mà cán bộ và đảng viên thường mắc phải, đó là bệnh chủ quan, quan liêu, mệnh lệnh, hẹp hòi. Điều này ảnh hưởng không tốt đến việc thực hiện mục tiêu cách mạng và đến quá trình xây dựng Chủ nghĩa xã hội. Với tư duy sai lầm đó, những vấn đề cơ bản của học thuyết hình thái kinh tế- xã hội như quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, quy luật kiến trúc thượng tầng phù hợp với cơ sở hạ tầng, quy luật đấu tranh giai cấp trong thời kỳ 34
  39. quá độ lên Chủ nghĩa xã hội đã bị hiểu và giải thích sai lệch, dẫn tới việc cải tạo Xã hội chủ nghĩa đã mắc phải nhiều sai lầm. Trong việc củng cố quan hệ sản xuất mới và sử dụng các thành phần kinh tế, chúng ta đã nóng vội muốn xoá bỏ ngay các thành phần kinh tế tư nhân, tư bản nhà nước, mà ít chú ý đến đặc điểm của từng lĩnh vực ngành nghề hay địa phương để chọn lựa những hình thức phát triển phù hợp. Do vậy, để tồn tại và phát triển, Đảng và Nhà nước ta nhất thiết phải đổi mới mà trước hết là đổi mới trong tư duy, trong nhận thức về xây dựng Chủ nghĩa xã hội, đặc biệt là đổi mới tư duy về xây dựng kinh tế. Mọi sự vật đều nằm trong quá trình vận động, biến đổi và phát triển không ngừng nên khi xem xét bất kỳ sự vật, hiện tượng nào chúng ta cần phải xem xét và nhìn nhận nó trong sự vận động và phát triển, tìm xem xu hướng biến đổi và chuyển hóa của nó. Cần thấy rõ khuynh hướng vận động và phát triển của sự vật đấy trong tương lai, thấy được sự biến đổi đi lên tất yếu trong tương lai theo quy luật đường trôn ốc. Nắm vững được quan điểm này, trong vấn đề đổi mới kinh tế chúng ta cũng cần phải tìm ra phương pháp nhận thức đúng trong tư duy, từ đó có những tác động phù hợp nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế của đất nước theo hướng tích cực, mang lại lợi ích cho con người. Sự vật, hiện tượng luôn trong trạng thái vận động phát triển nên yêu cầu trong tư duy nhận thức của con người tuyệt đối không được phép bảo thủ trì trệ, mà phải luôn đổi mới, thay đổi sao cho phù hợp với điều kiện, tình hình thực tiễn ở mỗi giai đoạn nhất định. 35
  40. Tiểu kết chương 1 Tóm lại làm rõ những vấn đề lý luận chung về tư duy lý luận và đổi mới tư duy lý luận cũng như tính tất yếu của đổi mới tư duy lý luận về mô hình kinh tế thị trường là cơ sở quan trọng để nghiên cứu rõ vấn đề đổi mới tư duy lý luận của Đảng về mô hình kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay. Tư duy lý luận là giai đoạn cao nhất của tư duy, đó là quá trình mà tư duy tiếp cận, nắm bắt, nhận thức và tái tạo hiện thực khách quan bằng lý luận và thường được thể hiện ra ở các giả thuyết, các lý thuyết có quan hệ tương hỗ với nhau. Khi đã hiểu rõ được tư duy lý luận, phân biệt rõ sự khác nhau giữa tư duy lý luận và tư duy kinh nghiệm, có thể khái quát được mối quan hệ giữa hai loại hình tư duy là mối quan hệ tương hỗ nhau thì từ đó có thể tìm ra được những vai trò cũng như tầm quan trọng của tư duy lý luận đối với việc định hướng phát triển Xã hội Việt Nam đặc biệt là trong vấn đề định hướng mô hình phát triển kinh tế thị trường. Có thể nói, tư duy lý luận giúp nhà nước vạch mở được bản chất của khách thể nghiên cứu, từ đó tạo ra bước chuyển về chất của đối tượng từ trạng thái này sang trạng thái khác. Tư duy lý luận đóng vai trò như là chất “keo dính” các sự vật, hiện tượng, cũng như các mối liên hệ của các sự vật hiện tượng ấy. Tư duy lý luận giúp gắn kết các hình ảnh hoạt động, vận hành bộ máy công cụ của mình để giúp cho nhận thức đi sâu vào bản chất của sự vật. Cần kết hợp một cách nhuần nhuyễn giữa tư duy lý luận với tư duy kinh nghiệm để phát huy những mặt mạnh cũng như khắc phục những hạn chế của mỗi loại hình tư duy. Cần đặt tư duy kinh nghiệm trong mối liên hệ thống nhất với tư duy lý luận vì chỉ có tư duy lý luận mới có thể khắc phục được tính chất hạn hẹp, phiến diện của tư duy kinh nghiệm. Đổi mới tư duy lý luận được hiểu là đổi mới nhận thức của con người về đối tượng; đổi mới các cách thức, thao tác tư duy cũng như đổi mới phương pháp tư duy, phương pháp phản ánh về đối tượng. Đổi mới tư duy có vai trò quan trọng trong việc mở đường và tạo không gian cho sự phát triển 36
  41. Tính tất yếu của đổi mới tư duy lý luận về mô hình kinh tế thị trường ở Việt Nam được chia làm hai loại. Nhân tố khách quan khiến tư duy lý luận của Đảng ta tất yếu phải đổi mới đó là do cuộc khủng hoảng của Chủ nghĩa xã hội hiện thực và vấn đề thời đại tác động trực tiếp đến nhận thức và những quyết sách đổi mới của Đảng ta. Bên cạnh đó, do những sai lầm trong việc thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng khiến cho tình hình kinh tế xã hội càng trở nên khó khăn. Điều đó thúc đẩy Đảng ta cần có những đổi mới một cách kịp thời để khắc phục những khó khăn đó. Có thể thấy, mọi sự vật hiện tượng đều luôn trong trạng thái vận động, biến đổi không ngừng. Chính vì vậy khi xem xét bất cứ một sự vật nào chúng ta đều cần nhìn nhận, đặt chúng trong xu hướng biến đổi để từ đó tìm ra quy luật vận động của sự vật, hiện tượng đó. Nắm vững được những quan điểm này, trong vấn đề đổi mới tư duy kinh tế, trước tiên chúng ta cần tìm ra phương pháp nhận thức đúng trong tư duy từ đó có những tác động, đổi mới nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế của đất nước. Để làm được điều đó, tư duy của mỗi người cần không ngừng thay đổi và sáng tạo cho phù hợp với sự vận động, phát triển của các sự vật, hiện tượng. Khi đã tìm hiểu rõ các vấn đề lý luận chung về tư duy lý luận và đổi mới tư duy lý luận, chúng ta sẽ dễ dàng tiếp cận, phân tích và tìm hiểu một cách cụ thể hơn quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng về mô hình kinh tế thị trường cũng như đưa ra được những giải pháp cơ bản nhằm tiếp tụ đổi mới tư duy mà tôi muốn đề cập đến ở chương 2. 37
  42. Chương 2 QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI TƯ DUY LÝ LUẬN VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN ĐỂ TIẾP TỤC ĐỔI MỚI TƯ DUY LÝ LUẬN CỦA ĐẢNG VỀ MÔ HÌNH KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM 2.1. Quá trình đổi mới tư duy lý luận về mô hình kinh tế thị trường của Đảng từ 1986 đến nay. Từ những phân tích chung ở chương 1, chúng ta thấy vấn đề đổi mới tư duy lý luận về mô hình kinh tế thị của Đảng có nguồn gốc sâu xa từ chính thực tiễn của đất nước. Hơn nữa, tư duy mới của Đảng về kinh tế còn là sự phát triển hợp logic từ quan niệm mới khoa học hơn, đúng đắn hơn về con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam nói chung, con đường phát triển kinh tế của đất nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội nói riêng. Để thoát khỏi tình trạng khủng hoảng về kinh tế- xã hội, cần có những chủ trương và biện pháp mạnh mẽ, kiên quyết nhằm đẩy mạnh sản xuất, ổn định và từng bước cải thiện đời sống của nhân dân. Với tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật” [6, 12], Đảng ta đã nhận ra rằng nền kinh tế nước ta rơi vào tình trạng khủng hoảng, kém phát triển là do trong quá trình tổ chức và thực hiện, chúng ta đã quá chủ quan, nóng vội, xác định sai lầm bước đi, không biết tận dụng và phát triển lực lượng sản xuất sẵn có, cải tạo ồ ạt, muốn nhanh chóng xoá bỏ các thành phần kinh tế tư nhân để xác lập một cách phổ biến hình thức sở hữu tập thể và toàn dân đối với tư liệu sản xuất ngay cả khi lực lượng sản xuất còn ấr t thấp kém, xây dựng kế hoạch tập trung quan liêu, chưa kết hợp chặt chẽ kế hoạch hoá với sử dụng thị trường, chưa phát huy vai trò của kinh tế quốc doanh Từ việc rút ra được những yếu kém như vậy, Đảng ta nhận ra rằng cần phải có sự đổi mới tư duy lý luận, đặc biệt là tư duy lý luận về mô hình kinh tế thị trường thì mới có thể đưa nền kinh tế của nước ta thoát khỏi khủng hoảng. Thực tế hiện nay của đất nước đã chứng minh được sự đổi mới tư duy 38
  43. kinh tế của Đảng ta trong suốt quãng thời gian vừa qua là hoàn toàn đúng đắn, phù ợh p. Khái quát quan niệm của Đảng được nêu ra trong các văn kiện của mình và căn cứ vào thực tiễn đổi mới những năm qua, có thể thấy rằng “đổi mới kinh tế” ở Việt Nam là quá trình chuyển từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp, căn bản dựa trên chế độ sở hữu toàn dân và tập thể, sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng Xã hội chủ nghĩa, dưới sự lãnh đạo của Đảng, chuyển từ một nền kinh tế cơ bản là khép kín sang nền kinh tế “mở” đối với khu vực và thế giới, kết hợp tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái và từng bước đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng Xã hội chủ nghĩa. Thành công của đổi mới tư duy lý luận của Đảng về mô hình kinh tế thị trường chính là sự biểu hiện của quá trình đổi mới toàn diện, sâu sắc tư duy về kinh tế- xã hội của Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước trong điều kiện và tình hình mới. Đổi mới và hoàn thiện tư duy lý luận là một quá trình lâu dài, thường xuyên và phải trải qua nhiều bước, nhiều công đoạn với cùng một mục tiêu đó là xây dựng thành công Chủ nghĩa xã hội ở nước ta và toàn diện trên tất cả các mặt như quan hệ sở hữu, quản lý và phân phối nhằm đảm bảo sự phù hợp với lực lượng sản xuất và kiến trúc thượng tầng. Để đất nước phát triển một cách toàn diện định hướng theo mô hình Xã hội chủ nghĩa thì Đảng và nhà nước ta phải không ngừng đổi mới trên tất cả các lĩnh vực như: đổi mới trên lĩnh vực chính trị; lĩnh vực văn hóa, xã hội và con người; đổi mới trên lĩnh vực quốc phòng an ninh và đối ngoại Trong các lĩnh vực trọng yếu của đời sống xã hội, Đảng và nhà nước ta cần đặc biệt chú trọng đến việc đổi mới tư duy lý luận về mô hình kinh tế. Có thể nói, lực lượng sản xuất luôn được ưu tiên phát triển để trở thành lực lượng tiên phong, mở đường cho phát triển 39
  44. kinh tế. Đồng thời quan hệ sản xuất phải luôn được đổi mới hoàn thiện nhằm hỗ trợ cho việc giải phóng, khai thác có hiệu quả những tiều lực kinh tế. Quá trình phát triển tư duy lý luận cần gắn liền với thực tiễn nhằm đảm bảo lý luận và thực tiễn luôn có sự phù hợp. Trong đó thực tiễn chính là thước đo lý luận và kiểm nghiệm nhận thức lý luận về nền kinh tế thị trường. “Đổi mới và hoàn thiện tư duy lý luận về mô hình kinh tế- kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa- phải trên cơ sở kết hợp tổng kết, đúc rút kinh nghiệm và nhận thức quá trình phát triển kinh tế trên thực tế” (trong và ngoài nước) [35, 121]. Cùng với đó cần kết hợp với những nhận định, đánh giá đúng xu thế, những nhân tố quan trọng của thời đại nhằm tạo được những “bước đột phát” trong tư duy lý luận và thực tiễn. “Lý luận về xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa của Đảng- lấy chủ nghĩa Mác- Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng” [35, 121] nhằm xây dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Trong đó các nhân tố của nền kinh tế thị trường, quy luật kinh tế đóng vai trò là động lực phát triển, đảm bảo nền kinh tế phát triển có hiệu quả cao. Có thể nói, mô hình kinh tế thị trường ở Việt Nam là mô hình kinh tế mà ở đó các quy luật, các nhân tố của nền kinh tế thị trường đều được thể hiện nhưng được hướng tới mục tiêu kinh tế xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa. 2.1.1. Đổi mới tư duy lý luận về kết cấu, thành phần kinh tế. Trên cơ sở nhận thức ngày càng rõ hơn về con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội và dựa vào tình hình thực tiễn của đất nước, trong suốt mấy chục năm qua, nhất là từ Đại hội lần thứ VI đến nay, Đảng ta đã không ngừng đổi mới quan điểm, chính sách về chế độ sở hữu và các thành phần kinh tế. Đại hội VI được coi là bước ngoặt lịch sử về đổi mới tư duy của Đảng và là mốc quan trọng đánh dấu bước phát triển mới của Đảng ta, đặc biệt là đã xác định nền kinh tế Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội là nền kinh tế cơ cấu nhiều thành phần. 40
  45. Trước đổi mới, nước ta chỉ tồn tại 3 thành phần kinh tế: kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể. Trong thời kỳ 1976- 1986, đại đa số người dân Việt Nam sinh sống ở nông thôn và làm các nghề nông nghiệp theo kiểu tự cung, tự cấp, họ sống dựa vào nguồn thu nhập có tính chất cá thể, không hoàn toàn dựa vào hợp tác xã. Do vậy, khi hợp tác xã bị đổ vỡ, thì đa số nông dân vẫn tiếp tục sản xuất, sinh sống, nhất là khi hợp tác xã chuyển đổi hình thức hoạt động thì càng thuận lợi cho người nông dân, các hộ gia đình nông dân chuyển mạnh sang sản xuất nông nghiệp hàng hóa. Đối với thành phần kinh tế nhà nước, do áp lực của các khó khăn về kinh tế, nên cán bộ và công nhân viên thuộc khu vực kinh tế nhà nước cũng đều nhanh chóng tham gia kinh tế thị trường để tăng thu nhập và do vậy cũng nâng cao nhận thức, thay đổi thái độ và hành vi đối với kinh tế thị trường. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (12/1986) tổng kết việc thực hiện Nghị quyết Hội nghị trung ương 6 khoá IV, khẳng định: “quá trình từ sản xuất nhỏ đi lên sản xuất lớn ở nước ta là quá trình chuyển hoá từ nền kinh tế còn nhiều tính chất tự cấp, tự túc, thành nền kinh tế hàng hoá” [6, 65]. Từ trước tới nay, trong các văn kiện, Đảng ta chỉ mới nói tới việc sử dụng các quan hệ hàng hoá- tiền tệ, thì nay đã khẳng định vấn đề chuyển từ nền kinh tế tự nhiên, tự túc, tự cấp sang nền kinh tế hàng hoá. Sau đại hội VI, một số Hội nghị trung ương diễn ra trong năm 1987 mới đưa ra một số quyết sách liên quan đến việc hình thành tư duy về vận dụng cơ chế thị trường trong phát triển kinh tế. Hội nghị trung ương 6, khoá VI (1989) đã nêu ra 6 nguyên tắc đổi mới sau: 1) Đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu Chủ nghĩa xã hội mà là làm cho mục tiêu ấy được thực hiện bằng những hình thức, bước đi và biện pháp thích hợp. 2) Đổi mới tư duy là nhằm vận dụng sáng tạo nguyên lý của chủ nghĩa Mác- Lênin trong điều kiện mới. 41
  46. 3) Đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị là nhằm tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước. 4) Sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam là điều kiện quyết định thắng lợi của sự nghiệp đổi mới. 5) Xây dựng nền dân chủ Xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. 6) Kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vô sản. Đại hội VI nhận định: “Thời kỳ quá độ ở nước ta, do tiến thẳng lên Chủ nghĩa xã hội từ một nền sản xuất nhỏ, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa đương nhiên phải rất lâu dài và khó khăn. Đó là một thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc, toàn diện và triệt để, xây dựng từ đầu một chế độ xã hội mới cả về lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng” [6, 41]. Đại hội coi việc phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần có ý nghĩa chiến lược lâu dài, có tính quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên chủ nghĩa xã hội, và thực hiện theo tinh thần dân chủ về kinh tế, đảm bảo cho mọi người đều được tự do làm ăn theo pháp luật. Đảng thừa nhận nước ta có 6 thành phần kinh tế: quốc doanh, tập thể, tiểu sản xuất hàng hoá, tư bản tư nhân, tư bản nhà nước, và tự nhiên tự cung tự cấp. Các thành phần kinh tế trên vận hành theo quy luật khách quan về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Trong đó, kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo, cụ thể là thành phần kinh tế này chiếm tỷ trọng lớn hơn cả trong sản xuất và trong lưu thông. Đó là một giải pháp có ý nghĩa chiến lược, góp phần giải phóng và khai thác mọi tiềm năng để phát triển lực lượng sản xuất. Chính sách cơ cấu nhiều thành phần kinh tế thực sự là một bước ngoặt có tính cách mạng làm thay đổi tư duy về kinh tế trong sự phát triển, chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường với nền tảng của nó là các chủ thể kinh tế độc lập, tự chủ. Thực tiễn nước ta đòi ỏh i phải thừa nhận sự tồn tại của những hình thức kinh tế trung gian, quá độ từ thấp lên cao, từ quy mô nhỏ lên quy mô lớn. Như 42
  47. vậy, Đại hội VI của Đảng đã đánh dấu bước chuyển tư duy, đánh giá đúng vai trò của phát triển kinh tế nhằm khắc phục khó khăn, khai thác được những tiềm năng phát triển vốn có của đất nước. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII (1991) tiến thêm bước lý luận mới về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đại hội kiên định chủ trương phát triển kinh tế xã hội theo con đường củng cố độc lập dân tộc, xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở nước ta là một quá trình thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh, xây dựng mô hình kinh tế nước ta là nền kinh tế có nhiều thành phần với nhiều dạng sở hữu và hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển có hiệu quả của nền sản xuất xã hội. Đại hội nhận định: “Cơ chế vận hành nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa là cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách và các công cụ khác” [8, 52-57]. Đại hội khẳng định, nước ta bước đầu đã hình thành nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước với 5 thành phần kinh tế: quốc doanh, tập thể, cá thể, tư bản nhà nước, tư bản tư nhân. Trong đó, kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo và thực hiện chức năng là công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước, được củng cố và phát triển trong những ngành và lĩnh vực kinh tế then chốt, Nhà nước nắm những doanh nghiệp chủ yếu, đảm đương những hoạt động mà các thành phần kinh tế khác không có điều kiện đầu tư kinh doanh. Đại hội chỉ rõ việc đổi mới kinh tế là chuyển nền kinh tế từ mang nặng tính tự cấp, tự túc sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý ủc a Nhà nước nhằm vừa giải quyết và phát huy được tiềm năng sản xuất trong xã hội, vừa khắc phục được những hạn chế và tiêu cực của kinh tế thị trường. Sau đại hội VII, tình hình thế giới có nhiều biến đổi phức tạp, đó là sự tan rã mô hình Chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu, sự tan rã 43
  48. này đã tác động tới nước ta một cách sâu sắc. Quan hệ kinh tế giữa nước ta với thị trường truyền thống đã bị đảo lộn. Đại hội VIII (1996) đã nhận xét: “nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực vẫn là thách thức to lớn và gay gắt do điểm xuất phát của ta quá thấp, lại đi lên trong môi trường cạnh tranh khốc liệt” [10, 19]. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII đã xác định rõ hơn mô hình kinh tế tổng quát của nước ta là “phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý ủc a Nhà nước theo định hướng Xã hội chủ nghĩa” [10, 82] và đề ra mục tiêu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, có quan hệ sản xuất, chế độ sở hữu, cơ chế quản lý và chế độ phân phối gắn kết tương thích với nhau. Như vậy, tại đại hội này, Đảng cộng sản Việt Nam cũng mới chỉ nói đến nền kinh tế hàng hoá, cơ chế thị trường, mà chưa sử dụng khái niệm “kinh tế thị trường”. Đại hội khẳng định tiếp tục thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách kinh tế nhiều thành phần, khuyến khích mọi doanh nghiệp, cả người trong và ngoài nước đều đầu tư phát triển, yên tâm làm ăn lâu dài, hợp pháp, có lợi cho quốc kế dân sinh, đối xử bình đẳng với mọi thành phần kinh tế trước pháp luật, không phân biệt sở hữu và hình thức tổ chức kinh doanh. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo và cùng với kinh tế tập thể trở thành nền tảng. Kinh tế tư bản nhà nước dưới các hình thức khác nhau cũng tồn tại phổ biến. Kinh tế cá thể tiểu chủ và tư bản tư nhân chiếm tỷ trọng đáng kể. Như vậy, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII đã làm rõ hơn định hướng Xã hội chủ nghĩa trong việc xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, điều này có ý nghĩa vô cùng to lớn tạo mục tiêu và động lực thúc ẩđ y nền kinh tế của nước ta phát triển. Đại hội toàn quốc lần thứ IX (4/2001) Đảng khẳng định con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên Chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Đại hội chính thức đưa ra khái niệm “kinh tế thị trường định 44
  49. hướng Xã hội chủ nghĩa" và khẳng định kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa là đường lối nhất quán, là mô hình kinh tế tổng quát trong suốt thời kỳ quá ộđ lên Chủ nghĩa xã hội ở nước ta: “thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng Xã hội chủ nghĩa, đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa” [11, 86]. Đại hội khẳng định: “Thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân” [11, 95-96]. Đại hội IX cũng xác định ở nước ta có 3 hình thức sở hữu cơ bản và có 6 thành phần kinh tế (đại hội bổ sung thêm 1 thành phần kinh tế mới nữa là kinh tế có vốn đầu tư của nước ngoài). Trong đó, kinh tế nhà nước vẫn giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng, là công cụ để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Kinh tế nhà nước vẫn giữ vai trò chủ đạo, tuy nhiên, cũng không phủ nhận sự tồn tại và vai trò của các thành phần kinh tế khác và đòi hỏi nó phải chấp nhận sự cạnh tranh và phân hoá trong quá trình phát triển, buộc các thành phần kinh tế phải cải tổ, đổi mới không ngừng để phát huy được tiềm năng của mình. Như vậy, cho đến đại hội IX, Đảng ta đã tìm ra được con đường thích hợp để phát triển kinh tế và đi lên từng bước phù hợp với điều kiện tình hình của một nước đang phát triển, quá trình đó đòi hỏi xây dựng và phát triển lực lượng sản xuất, tạo ra được cơ sở vật chất kỹ thuật cho Chủ nghĩa xã hội. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X (2006) khẳng định “phải tranh thủ cơ hội, vượt qua thách thức, tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, toàn diện và ồđ ng bộ hơn, phát triển với tốc độ nhanh hơn và bền vững hơn” [14, 24], tiếp tục đẩy 45
  50. mạnh toàn diện công cuộc đổi mới trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, lấy đổi mới kinh tế làm trung tâm để đổi mới hệ thống chính trị và các lĩnh vực khác của đời sống xã hội. Đại hội đề ra mục tiêu và phương hướng tổng quát 5 năm 2006–2010 “phát huy mọi nguồn lực, tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa” [14, 26] và đánh giá 5 năm 2006-2010 có ý nghĩa quyết định đối với việc hoàn thành chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm đầu thế kỷ XXI do đại hội IX đề ra. Cũng tại đại hội X, nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa không những chỉ được định tính, mà đã được định lượng cùng với những giải pháp thực hiện nó. Theo đó, nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay có những đặc trưng chủ yếu sau: 1) Về hệ thống mục tiêu: xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa nhằm thực hiện mục tiêu tổng quát dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. 2) Về chế độ sở hữu và thành phần kinh tế: “trên cơ sở 3 chế độ sở hữu (toàn dân, tập thể, tư nhân), hình thành nhiều hình thức sở hữu và nhiều thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân (cá thể tiểu chủ và tư bản tư nhân), kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có ốv n đầu tư của nước ngoài” [14, 75]. Đại hội khẳng định, ở Việt Nam nền kinh tế đã chuyển hẳn từ kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp dựa chủ yếu vào 2 chế độ sở hữu với 2 thành phần kinh tế cơ bản là nhà nước và tập thể, sang nền kinh tế với 3 chế độ sở hữu và 5 thành phần kinh tế cơ bản. Xét từ góc độ đối tượng quản lý Nhà nước, có lẽ nâng cao vai trò và hiệu lực quản lý của Nhà nước trong nền kinh tế ấy là một trong những nhiệm vụ chủ yếu của Nhà nước Việt Nam hiện nay. Từ sau đại hội X đến nay, quan điểm của Đảng vẫn là hoàn thiện hơn nữa thể chế kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa, từng bước xây dựng đồng bộ hệ thống luật pháp, đảm bảo cho nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phát triển thuận lợi, phát huy vai trò chủ đạo của kinh 46
  51. tế nhà nước, “phải tăng cường tiềm lực và nâng cao hiệu quả của kinh tế nhà nước” [15, 101]. Đại hội XI (2011) cũng khẳng định trong dài hạn cần nghiên cứu xây dựng một chiến lược tổng thể điều hành nền kinh tế với những giải pháp đồng bộ hướng đến giải quyết triệt để các nguyên nhân gây bất ổn để nền kinh tế Việt Nam phát triển bền vững, bảo đảm các cân đối kinh tế vĩ mô, nâng cao chất lượng tăng trưởng và bảo đảm an sinh xã hội. Việc thúc đẩy tái cơ cấu nền kinh tế là cấp bách, nhưng trước mắt cần thực hiện thông qua tái cơ cấu đầu tư. Đồng thời chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế theo chiều rộng sang mô hình tăng trưởng theo chiều sâu với động lực là khoa học công nghệ và tiêu dùng trong nước. Từ khi đổi mới, nền kinh tế Việt Nam tuy phát triển tốc độ có lúc nhanh có lúc chậm nhưng nhìn chung nhịp độ tăng trưởng khá cao, điều đó đã chứng minh sự lãnh đạo đúng đắn trong đường lối đổi mới kinh tế của Đảng ta. Sự nghiệp đổi mới được bắt đầu bằng việc thừa nhận trong quá trình lãnh đạo quản lý kinh tế đã có những sai lầm chủ quan nên nó đươc bắt đầu từ chính sự đổi mới tư duy kinh tế, xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần có hiệu quả, chấm dứt hơn 10 năm khủng hoảng, điều đó đã chứng minh đường lối đổi mới tư duy về quản lý kinh tế của Đảng ta là hoàn toàn đúng đắn. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI cũng đưa ra dự thảo chiến lược phát triển kinh tế xã hội từ 2011 đến 2020. Ổn định kinh tế vĩ mô, ổđ i mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế, nâng cao chất lượng và hiệu quả của nền kinh tế, đảm bảo phát triển nhanh và bền vững, nâng cao tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế, huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của đất nước, tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa. Đại hội lần thứ XI tiếp tục nhấn mạnh: phát triển nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, nhiều hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức phân phối. Đại hội 47