Khóa luận Diễn giải của Berdyaev về tư tưởng triết học Dostoevsky trong tác phẩm “Thế giới quan của Dostoevsky”

pdf 47 trang thiennha21 15/04/2022 5330
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Diễn giải của Berdyaev về tư tưởng triết học Dostoevsky trong tác phẩm “Thế giới quan của Dostoevsky”", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfkhoa_luan_dien_giai_cua_berdyaev_ve_tu_tuong_triet_hoc_dosto.pdf

Nội dung text: Khóa luận Diễn giải của Berdyaev về tư tưởng triết học Dostoevsky trong tác phẩm “Thế giới quan của Dostoevsky”

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN KHOA TRIẾT HỌC DƯƠNG VĂN CẢNH DIỄN GIẢI CỦA BERDYAEV VỀ TƯ TƯỞNG TRIÊT HỌC DOSTOEVSKY TRONG TÁC PHẨM “THẾ GIỚI QUAN CỦA DOSTOEVSKY” KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC NGÀNH TRIẾT HỌC Hệ đào tạo: Chính quy Khóa học: QH-2015-X NGƯỜI HƯỚNG DẪN: PGS.TS Đỗ Minh Hợp HÀ NỘI, 2019
  2. 1 Lời cam đoan và cảm ơn: Tôi xin cam đoan đề tài khóa luận tốt nghiệp “Diễn giải của Berdyaev về tư tưởng triết học của Dostoevsky trong tác phẩm “Thế giới quan của Dostoevsky” là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng dẫn của PGS.TS Đỗ Minh Hợp . Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về nội dung đề tài của mình. Để có thể hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này , tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến giáo viên hướng dẫn của tôi là PGS.TS Đỗ Minh Hợp , người đã giúp đỡ và động viên tôi rất nhiều trong suốt quá trình thực hiện đề tài. Đồng thời, tôi cũng xin được gửi lời cảm ơn đến các thầy giáo , cô giáo trong khoa Triết học, trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, đã trang bị cho tôi những kiến thức và kỹ năng cần thiết trong suốt bốn năm học vừa qua. Tôi xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, ngày 3 tháng 6 năm 2019 Sinh viên thực hiện Dương Văn Cảnh
  3. 2 MỤC LỤC MỞ ĐẦU 3 CHƯƠNG 1: BỐI CẢNH VÀ TIỀN ĐỀ RA ĐỜI NHỮNG TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA BERDYAEV TRONG TÁC PHẨM “THẾ GIỚI QUAN CỦA DOSTOEVSKY” 6 1.1.Bối cảnh ra đời tư tưởng triết học của N.A.Berdyaev 6 1.2 Những tiền đề lý luận ra đời tư tưởng của N.A.Berdyaev 7 1.3 N.A.Berdyaev: cuộc đời, tư tưởng và tác phẩm “Thế giới quan của Dostoevsky” 9 1.3.1 N.A.Berdyaev: cuộc đời và tư tưởng 9 1.3.2. Tác phẩm “Thế giới quan của Dostoevsky” 16 1.3.2.1 Vài nét về cuộc đời và sự nghiệp của Dostoevsky 16 1.3.2.2 Khái quát tác phẩm “Thế giới quan của Dostoevsky” 20 TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 23 CHƯƠNG 2. NHỮNG NỘI DUNG TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA DOSTOEVSKY DƯỚI GÓC NHÌN CỦA BERDYAEV TRONG TÁC PHẨM “THẾ GIỚI QUAN CỦA DOSTOEVSKY” 24 2.1 Tư tưởng triết học của Dostoevsky về con người dưới diễn giải của triết gia Berdyaev 24 2.2 Tư tưởng của Dostoevsky về người Nga dưới sự diễn giải của Berdyaev 36 TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 42 KẾT LUẬN 44 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 45
  4. 3 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài nghiên cứu Nước Nga là một đất nước có nền triết học lớn với nhiều triết gia , nhà tư tưởng nổi tiếng như N.A.Berdyaev, F.Dostoevsky. Các tác phẩm của Dostoesky đã được dịch sang tiếng Việt từ nửa sau thế kỷ XX với hầu hết tác phẩm như: “Anh em nhà Karamazov”, “Tội ác và trừng phạt”, “Lũ người qủy ám”, “Chàng ngốc”, “Con Bạc”, “Ghi chép dưới hầm”, “Những đêm trắng”, “Những kẻ tủi nhục”, “Là bóng hay là hình”, “Đầu xanh tuổi trẻ”, “Người chồng vĩnh cửu”, “Trái tim yếu mềm”. Tuy nhiên có được thuận lợi ấy song việc nghiên cứu Dostoevsky ở Việt Nam lại không có nhiều những bước tiến . Đến nay vẫn chưa có một chuyên khảo của một học giả Việt về ông trong khi những nhà văn khác như Lev Tolstoy, N.V.Gogol đều đã có những chuyên khảo . Hơn thế , việc khám phá những tư tưởng triết học của Dostoevsky lại càng ít , chủ yếu có một số luận văn luận án nghiên cứu về tư tưởng triết học của Dostoevsky từ khía cạnh đạo đức học . Tác phẩm “Thế giới quan của Dostoevsky” của triết gia Berdyaev mới được dịch sang tiếng Việt trong bối cảnh như vậy có thể xem như một bước ngoặt trong sự hiểu và tiếp nhận Dostoevsky ở Việt Nam . Berdyaev đã phân tích , diễn giải những tư tưởng triết học của Dostoevsky một cách toàn diện , hệ thống. Từ đó , chúng ta sẽ có hình dung một cách hệ thống những tư tưởng triết học của Dostoevsky. Với lý do trên , tôi chọn “Tư tưởng của Dostoevsky dưới góc nhìn của triết gia Berdyaev trong tác phẩm Thế giới quan của Dostoevsky” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu Ở Việt Nam, tình hình nghiên cứu về Berdyaev đã có những thành tựu bước đầu. Về tình hình nghiên cứu Berdyaev , theo tôi tìm hiểu lần đầu tiên ông được dịch sang tiếng Việt là năm 2003 do Từ Thị Loan dịch tập hợp 2 bài viết của Berdyaev về nước Nga với tựa đề là Tâm hồn Nga- nước Nga in trong Tạp chí
  5. 4 văn học nước ngoài 6/2003 . Gần đây , những tác phẩm của ông đã được dịch sang tiếng Việt gồm có “Triết học của Tự do” do Đỗ Minh Hợp dịch , “Con người trong thế giới tinh thần” và mới đây nhất chính là tác phẩm “Thế giới quan của Dostoevsky” do Nguyễn Văn Trọng dịch . Việc những bản dịch được xuất bản là một cơ sở quan trọng đối với sự phát triển những nghiên cứu . Về mặt nghiên cứu , Berdyaev xuất hiện lần đầu trong công trình Đại cương lịch sử triết học phương Tây hiện đại của các tác giả Nguyễn Thanh , Đỗ Minh Hợp , Nguyễn Anh Tuấn , trong đó phần viết về Berdyaev các tác giả đã khái quát cuộc đời và sự nghiệp , những tác phẩm tiêu biểu cũng như những tư tưởng chính của Berdyaev . Gần đây, năm 2017 tại khoa Triết học đã có ộm t luận văn thạc sĩ là “Quan niệm về con người trong tác phẩm Con người trong thế giới tinh thần của N.A.Berdyaev”. Như vậy , có thể thấy tình hình nghiên cứu về triết học của N.A.Berdyaev ngày càng chuyên sâu, từ việc có những bản dịch, khái quát cuộc đời và sự nghiệp tư tưởng cho đến những công trình chuyên sâu vào những tác phẩm và nội dung cụ thể. Qua tổng hợp các công trình nghiên cứu và các tác phẩm dịch , có thể nói Berdyaev là một triết gia quan trọng trong triết học Nga hiện đại , ông có nhiều tác phẩm và có những tác phẩm quan trọng như “Triết học của tự do”, “Mục đích của sáng tạo. Kinh nghiệm lịch sử của số phận loài người”. Ông quan tâm đến nhiều vấn đề và trong đó vấn đề con người và sự khủng hoảng của con người là một chủ đề quan trọng . Đó cũng là chủ đề quan trọng và then chốt trong tác phẩm “Thế giới quan của Dostoevsky”. Chưa có một nghiên cứu hay bài viết nào về tác phẩm “Thế giới quan của Dostoevsky” của Berdyaev . Vì ậv y, nghiên cứu của chúng tôi có thể coi là những tìm hiểu bước đầu về tác phẩm này. Đã định dạng: Thụt lề: Dòng đầu tiên: 0 cm 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Phân tích những tư tưởng nhân học triết học của Dostoevsky dưới sự diễn giải của N.Berdyaev trong tác phẩm “Thế giới quan của Dostoevsky” và có những nhận định về giá trị và hạn chế.
  6. 5 4. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là tư tưởng triết học của Dostoevsky dưới góc nhìn của triết gia Berdyaev 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Đề tài nghiên cứu dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lenin về lịch sử , xã hộ, phương pháp thống nhất logic-lịch sử, phương pháp so sánh, phương pháp nghiên cứu văn bản 6. Đóng góp của nghiên cứu: làm rõ những nội dung mà Berdyaev diễn giải về tư tưởng nhân học triết học của Dostoevsky và có những nhận xét giá trị và hạn chế. 7. Kết cấu nghiên cứu Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận gồm có hai chương và năm tiết.
  7. 6 CHƯƠNG 1: BỐI CẢNH VÀ TIỀN ĐỀ RA ĐỜI NHỮNG TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA BERDYAEV TRONG TÁC PHẨM “THẾ GIỚI QUAN CỦA DOSTOEVSKY” 1.1.Bối cảnh ra đời tư tưởng triết học của N.A.Berdyaev Nước Nga cuối thế kỷ XIX- đầu thế kỷ XX có những biến chuyển mạnh mẽ . Ở cuối thế kỷ XIX , nước Nga là nước lạc hậu, kém phát triển . Năm 1861, Nga hoàng Alexander II thực hiện cuộc cải cách nông nô dẫn đến chủ nghĩa tư bản đã phát triển manh chóng ở nước Nga . Tuy phát triển sau các nước tư bản Tây Âu nhưng đến đầu thế kỷ XX , nước Nga cũng chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa . Tư bản nước ngoài đầu tư mạnh mẽ vào Nga như Anh , Pháp , Đức đặc biệt là Pháp đầu tư 5 tỉ rúp . Từ đó các ngành công nghiệp nặng ở Nga bắt đầu phát triển như luyện kim , cơ khí , hóa dầu đạt nhiều thành tựu trong giai đoạn từ 1860-1890 , sản lượng thép đã tăng gấp 3 lần , than đá tăng 19 lần. Năm 1913 , sản lượng công nghiệp Nga chiếm 5,5% sản lượng công nghiệp thế giới , đứng thứ 5 thế giới . Đến đầu thế kỷ XX , 150 công ty độc quyền thao túng toàn bộ nền kinh tế Nga tiêu biểu là ngân hàng Nga Á chiếm 1/3 tổng số vốn ngân hàng toàn nước Nga. Tuy nhiên , sự phát triển nhanh chóng nhưng muộn màng của chủ nghĩa tư bản Nga vẫn không thể thay đổi một thực tế là nước Nga vẫn là một nước lạc hậu với nền sản xuất nông nghiệp và mối quan hệ sản xuất phong kiến . Tàn tích của chế độ nông nô vẫn còn tồn tại sâu rộng ở nước Nga thể hiện rõ nét ở việc phần lớn ruộng đất tập trung trong tay quý tộc, địa chủ . 2/3 ruộng đất trong nước nằm trong tay địa chủ , quý tộc , 30 000 đại địa chủ chiếm tới 70 triệu mẫu Nga (1 mẫu Nga = 1,09 hecta) ruộng đất . Nga hoàng đồng thời cũng là địa chủ lớn nhất với 7 triệu mẫu Nga ruộng đất . Địa chủ bóc lột nông dân hết sức nặng nề và tàn bạo , nhất là chế độ lao dịch . Trình độ sản xuất nông nghiệp lạc hậu do đó năng suất thấp , nạn mất mùa và đói kém xảy ra thường xuyên . Sau khi Nga tham gia chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918) bị thất bại , chiến tranh đã làm cho nền kinh tế bị kiệt quệ . Nhiều lãnh thổ trù phú , nhiều nhà máy ở vùng phía Tây nước Nga bị quân Đức chiếm nên tiềm lực công nghiệp chỉ còn một nửa mức trước chiến tranh , sản lượng nông nghiệp bị giảm 20% , chỉ còn lại 1/2 chiều dài đường sắt và các phương tiện vận tải , tiền tệ lạm phát nghiêm trọng . Những khó khăn về kinh tế đã làm bùng ổn mâu thuẫn chính trị , xã ộh i.
  8. 7 Về chính trị- xã ộh i , đến đầu thế kỷ XX và trước thế chiến thứ nhất , Nga vẫn là nước theo chế độ quân chủ chuyên chế dưới sự cai trị của Nga hoàng Nikolai II . Sự tồn tại của chủ nghĩa tư bản độc quyền và những quan hệ tiền tư bản chủ nghĩa , sự kết hợp giữa hình thái kinh tế tiên tiến nhất và lạc hậu nhất đã làm cho nước Nga trở thành nơi tập trung cao độ các mâu thuẫn : mâu thuẫn giữa toàn thể nhân dân Nga với chế độ Nga hoàng , mâu thuẫn giữa địa chủ và nông dân , mâu thuẫn giữa các tộc người với nhau , mâu thuẫn giữa nước Nga với các nước đế quốc khác như Anh,Pháp, Những mâu thuẫn trong lòng xã hội Nga là tiền đề quan trọng dẫn đến các cuộc cách mạng Nga đầu thế kỷ XX. Năm 1917 , cuộc cách mạng tháng Mười Nga nổ ra trở thành một sự kiện chính trị quan trọng ảnh hưởng tới toàn bộ lịch sử thế giới thế kỷ XX . Có thể nói, nước Nga đầu thế kỷ cuối thế kỷ XIX- đầu thế kỷ XX có những biến đổi mạnh mẽ đặt ra hàng loạt vấn đề tinh thần như nước Nga lên đi theo con đường nào? Tôn giáo có vai trò như thế nào? Chính những đòi hỏi sôi sục của thời đại đã thúc đấy các triết gia Nga tìm tòi suy tư , sáng tạo để tìm ra con đường cho nước Nga , vận mệnh của nước Nga trong thời đại mới trong đó nổi bật có triết gia N.A.Berdyaev , người để lại nhiều tác phẩm và là một triết gia Nga có tầm vóc ảnh hưởng ở thế kỷ XX. 1.2 Những tiền đề lý luận ra đời tư tưởng của N.A.Berdyaev Berdyaev sinh ra trong gia đình quý tộc nên ông có điều kiện học triết học và thần học bài bản . Chính việc học tập và nghiên cứu này đã khiến cho ông tiếp thu nhiều di sản của các triết gia trong lịch sử triết học mà đó trở thành những tiền đề tư tưởng của ông , đó là Augustino, Kant , Nietzsche và Dostoevsky. Đầu tiên là Augustino, ông là một triết gia , thần học gia nổi tiếng trong lịch sử Kitô giáo . Augustino cho rằng con người có tự do ý chí song tự do ý chí là do Chúa ban cho . Điều này ảnh hưởng tới Berdyaev khi ông cũng là một người Kitô giáo và vấn đề tự do ý chí của con người là một chủ đề quan tâm chính yếu của ông trong sự nghiệp . Augustino cho rằng mọi thứ trong vũ trụ đều có có thiện, cái ác . Cả con người cũng ậv y . Ông quan niệm , cái ác thực sự là sự vắng mặt của cái thiện , cũng như bóng tối là sự thiếu vắng ánh sáng . Cái ác mà chúng ta tìm thấy trong vũ trụ là do Chúa sắp đặt ở đây để tạo nên cái thiên trọn vẹn của vũ trụ . Berdyaev cũng quan niệm rằng vũ trụ có cả cái thiện và cái ác là điều đó là do Chúa sắp đặt . Augustino cũng nổi tiếng với quan niệm cho rằng con người thuộc về hai thế giới là thế giới trần thế và thế giới siêu trần thế mà ông gọi là “nước Trời” và “nước trần gian”.
  9. 8 Thứ hai là triết gia Immanuel Kant , triết gia duy tâm nổi tiếng của nước Đức. Ở nước Nga thế kỷ XIX , Kant trở thành một tâm điểm trong giới triết học , không ai học triết học mà không biết tới Kant , hình thành trường phái Kant tại Nga . Kant phân biệt vương quốc của tự do và vương quốc tự nhiên , điều này ảnh hưởng tới Berdyaev sau này khi ông phân biệt hai thế giới là thế giới tự nhiên và thế giới tinh thần . Tư tưởng của Kant về tự do và vai trò của chủ thể nhận thức cũng ảnh hưởng mạnh mẽ tới Berdyaev khi Berdyaev vô cùng coi trọng vai trò tự do và sáng tạo của chủ thể, của con người cá nhân . Tuy nhiên , Berdyaev khác biệt với Kant ở chỗ Kant đã đóng lại con đường nhận thức thế giới chân thực của hiện hữu bằng việc thừa nhận vật tự nó nên trong triết học của ông hầu như vắng bóng phạm trù tinh thần. Thứ ba là triết gia Friedrich Nietzsche , triết gia nổi tiếng của Đức thế kỷ XIX. Từ cuối thế kỷ XIX , tư tưởng của Nietzsche đã bắt đầu du nhập và có ảnh hưởng tại Nga . Nietzsche nhìn thấy sự khủng hoảng của con người phương Tây, sự khủng hoảng của giáo lý Kitô giáo . Theo ông , những lời giáo huấn đạo đức của giáo hội , những giáo lý Kitô giáo lúc đó đã cổ hủ , lạc hậu và mang đầy tính đạo đức giả . Berdyaev cũng bị ảnh hưởng bởi cái nhìn đó và từ đó mà Berdyaev cố gắng phục hồi Kitô giáo bằng cách kết hợp nó với những tư tưởng triết học đương thời mà nổi bật là triết học hiện sinh . Nietzsche cũng đặc biệt đề cao vai trò của con người cá nhân với tự do ý chí của mình , đó là triết lý siêu nhân mà Nietzsche tuyên bố để con người trở nên đích thực là chính mình , xây dựng chính mình khi mà ọm i giá trị đã sụp đổ , con người cần xây dựng giá trị mới . Từ Nietzsche mà Berdyaev nhìn ra những vấn đề hệ trọng của con người như sự nguy hiểm của tự do như triết lý siêu nhân của Nietzsche , sự nô dịch con người từ những nhân tố bên ngoài khi con người đánh mất bản diện cá nhân của mình. Thứ tư là văn hào Nga F.Dostoevsky. Ngay từ nhỏ , Berdyaev đã đọc và chịu ảnh hưởng sâu đậm bởi các tác phẩm của Dostoevsky . Berdyaev đã nhìn thấy chiều sâu của vấn đề bản diện cá nhân và số phận cá nhân ở Dostoevsky . Các nhân vật trong tiểu thuyết của Dostoevsky luôn sống và chịu đựng nỗi giày vò lương tâm và muốn vượt qua nỗi giày vò ấy, chính ở đó Berdyaev nhìn thấy bản chất lưỡng diện của con người, con người có cả thiện và ác . Trong các tác phẩm của Dostoevsky , sự nô lệ của con người hiện lên muôn màu muôn vẻ, kẻ thì nô lệ bởi đồng tiền , kẻ nô lệ bởi văn hóa ngoại lai , kẻ nô lệ ý chí kẻ khác và đặc biệt là kẻ nô lệ bởi ý chí quyền lực của chính mình . Chính những điều đó đã khiến cho Berdyaev quan tâm đến nô lệ và tự do của con người , chủ đề được Berdyaev bàn trong nhiều tác phẩm khác nhau . Một sự ảnh hưởng sâu đậm nữa của Dostoevsky tới Berdyaev đó chính là tư tưởng Kitô giáo . Huyền thoại về Viên đại pháp quan trong tác phẩm Anh em nhà Karamazov là một hình tượng
  10. 9 được Berdyaev rất chú ý và để lại ảnh hưởng sâu đậm trong tâm trí của Berdyaev . Viên đại pháp quan dụ dỗ con người bằng ba cám dỗ để tước đoạn tự do của con người , cho rằng con người chỉ cần lo ấm là đủ và không cần tự do , sợ hãi tự do . Đáng chú ý , cũng chính từ lời của Viên đại pháp quan lại toát lên toàn bộ tinh thần của Chúa Kitô , của Kitô giáo , đó là con người phải giành lấy tự do , con người chỉ là con người khi nó có tự do dù phải trả giá như thế nào đi nữa . Ở đây đã toát lên tinh thần của việc dám sống với tự do , với bản diện cá nhân đích thực của mình , đây là tư tưởng mà Berdyaev theo đuổi trong suốt sự nghiệp của mình , tư tưởng này cũng chính là tư tưởng đích thực của Kitô giáo thuở ban đầu. 1.3 N.A.Berdyaev: cuộc đời, tư tưởng và tác phẩm “Thế giới quan của Dostoevsky” 1.3.1 N.A.Berdyaev: cuộc đời và tư tưởng N.Berdyaev (1874-19480 là một trong những triết gia Nga kiệt xuất nhất thế kỷ XX . Ông sinh năm 1874 tại Kiev trong một gia đình quý tộc quân sự . Vào năm 1884, ông được gửi vào trường võ bị . Sau đó ông nhập học tại đại học Tổng hợp Kiev mang tên Thánh Vladimir , đầu tiên là ở khoa tự nhiên , sau đó chuyển sang khoa luật nhưng thu hút sự chú ý ủc a ông nhiều hơn cả là triết học. Ông tham dự nghe các bài giảng của nhà giáo , nhà triết học và nhà logic học tài năng là G.I.Chelpanov . Vào thời sinh viên , Berdyaev ham mê nghiên cứu chủ nghĩa Marx , đến dự thính các câu lạc bộ dân chủ xã ộh i . Việc tham gia vào phong trào sinh viên đã để lại hệ quả : năm 1898 , ông bị đuổi khỏi đại học tổng hợp Kiev . Hơn nữa, khi đó ông bị giam một tháng , tại đây ông làm quen với các đại diện khác nhau của các nhánh trong phong trào đối lập Nga như A.Lunacharski , B.Savinov , B.Kistyakovski , A.Bogdonov, Do vậy, ảnh hưởng của chủ nghĩa Marx chiếm ưu thế trong ngôi trường này. Song Berdyaev cùng với sự tự chủ về trí tuệ sớm hình thành đã bắt đầu tìm kiếm con đường độc đáo của mình trong chủ nghĩa Marx. Ông nhận được sự hiểu biết và giúp đỡ của các nhà tư tưởng khai phá khuynh hướng phê phán trong chủ nghĩa Marx ở Nga- cái gọi là các nhà Marxism hợp pháp như : P.B.Struve,
  11. 10 S.N.Bulgakov, S.L.Frank.Các tác phẩm đầu tay của Berdyaev với tư cách là một nhà triết học chính trị và xã hội (bài viết”A.F.Lange và triết học phê phán trong quan hệ với chủ nghĩa xã hội”,1899; cuốn sách “chủ nghĩa chủ quan và chủ nghĩa cá nhân trong triết học xã hội.Tiểu phẩm phê phán bàn về N.K.Mikhaylovski”,1901) đã trình bày các tư tưởng của chủ nghĩa Marx phê phán. Sau vài năm, vào năm 1904 , trên tạp chí “Con đường mới” đã xuất hiện các bài viết của Berdyaev , chúng cho thấy triết học Thiên Chúa giáo chiếm ưu thế trong thế giới quan của Berdyaev , thái độ của ông đối với chủ nghĩa Marx và chủ nghĩa duy vật không còn đơn thuần mang tính chất phê phán mà còn mang tính chất tiêu cực. Vào các năm 1905-1906 , Berdyaev nghiên cứu nhiều triết học và tham gia các hoạt động báo chí . Cùng với S.N.Bulgakov , ông làm tổng biên tập tạp chí “Các vấn đề cuộc sống”. Ông viếng thăm Paris vào năm 1907-1908 . Trở lại Moscow năm 1908 , ông tiếp xúc với nhóm các nhà triết học Nga tập hợp xung quanh nhà xuất bản “Con đường” ( E.Trubexkoi, V.Ern, S.Bulgakov , Florenski ) Khi đó ông tham gia vào hợp tuyển “Những cái mốc”. Berdyaev cũng trở thành một trong những người sáng lập Hội triết học tôn giáo “Tưởng nhớ Vladimir Soloviev”. Các tư tưởng triết học của ông đã hình thành trong môi trường này . Mùa đông 1912-1913, Berdyaev sống ở Italy , ông viết cuốn Mục đích của sáng tạo . Cuốn sách rất quan trọng này được hoàn thành vào năm 1914 nhưng chỉ được công bố vào năm 1916. Cuốn sách “Mục đích của sáng tạo” tổng kết lại quá trình Berdyaev xem xét lại di sản triết học một cách sâu sắc . Ông nghiên cứu một cách căn bản triết học kinh điển Đức , phân tích tỉ mỉ triết học Kant và triết học Hegel . Ông mê tư tưởng của các nhà thần bí Đức M.Echart, Ya.Bohme . Có ảnh hưởng đến ông là các học thuyết triết học mới nhất khi đó , trước hết là triết học Nietzsche . Việc quan tâm đến các nguyên lý của triết học Nga đóng một vai trò quan trọng trong sáng tạo của Berdyaev . Ông xem xét một cách sâu sắc tất cả những gì tốt đẹp nhất trong triết học Nga . Sáng tạo của V.Soloviev có ảnh hưởng mạnh mẽ nhất
  12. 11 đến Berdyaev ; một thời gian Berdyaev coi nhiệm vụ của mình là tiếp tục phát triển những tư tưởng độc đáo của Soloviev trên mảnh đất Nga . Khi đó một tư tưởng phổ biến trong triết học Nga là triết học vũ trụ , triết học toàn thống , tức triết học hợp nhất Chúa , con người và tự nhiên . Nắm bắt tư tưởng này, Berdyaev kiên định rằng con người cần phải nằm trong chính trung tâm của tồn tại , rằng cái có tính người, có nhân cách đem lại bản nguyên và nguồn gốc cho vũ trụ. Vào năm 1917 , Berdyaev lúc đầu đã chào đón cách mạng . Nhưng, ông dần dần hiểu cách mạng sẽ đem lại bi kịch nào cho số phận nước Nga . Ông tiên đoán địa ngục có thể xuất hiện trên mảnh đất Nga . Sau cách mạng, Berdyaev có khả năng làm việc tại Nga . Vào năm 1918 , ông viết cuốn sách “Triết học của bất bình đẳng, Những bức thư gửi cho kẻ thù của triết học xã hội” nhưng nó không được xuất hiện ở Nga mà xuất bản ở Berlin vào năm 1923 . Cũng vào năm này , ông tham gia vào việc sáng lập Viện Văn hóa tâm linh Tự do . Tại đây , ông đọc các bài giảng về triết học lịch sử , tiến hành thảo luận về Dostoevsky . Ông được bầu làm giáo sư khoa lịch sử ngôn ngữ học năm 1920 . Năm 1921 , ông bị bắt và tra hỏi . Năm 1922 , ông bị trục xuất rời khỏi nước Nga. Thời gian ở nước ngoài , Bẻrdyaev công bố hàng loạt tác phẩm . Đó là “Triết học hòa bình” (Berlin ,1923), “Mục đích của lịch sử. Kinh nghiệm triết học về số phận loài người” (Berlin ,1923) , “Thế giới quan của Dostoevsky” (Praha ,1923) , “Về sứ mệnh của con người. Kinh nghiệm đạo đức học nghịch lý” (1931) , “Về nô lệ và tự do của con người. Kinh nghiệm triết học nhân cách chủ nghĩa” (1939) , “Kinh nghiệm siêu hình học tận thế luận. Sáng tạo và khách quan hóa” (1947) . Một số tác phẩm của ông được công bố sau khi ông mất(“ Biện chứng hiện sinh của cái thần thánh và cái có tính người”(Paris ,1952), Chân lý và mặc khải(Paris ,1954). Năm 1922 , do không ủng hộ cách mạng , nhìn thấy những nguy cơ đen tối của cách mạng , Berdyaev bị trục xuất khỏi nước Nga trên con tàu triết học chở hàng loạt danh nhân , nhà tư tưởng văn hóa Nga ra nước ngoài . Đó là bi
  13. 12 kịch của họ và của Berdyaev . Từ đó, ông luôn nhớ về tổ quốc , viết nhiều về nước Nga . Ngay sau thế chiến thứ hai , vào năm 1946, Berdyaev công bố cuốn sách “Tư tưởng Nga”. Những sai lầm cơ bản của tư tưởng Nga cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX được ông phân tích mổ sẻ . Đồng thời ông cũng nghiên cứu nhiều triết học phương Tây hiện đại , các khuynh hướng cơ bản của nó . Berdyaev là một nhà nghiên cứu có phê phán . Tất cả các trào lưu triết học thống trị khi đó đều được ông phân tích kỹ lưỡng như hiện tượng học Husserl và Scheler , triết học Heidegger , bản thể luận của Nikolai Hartman . Nhưng , vì bản thân Berdyaev là một nhà triết học tôn giáo nên các triết gia như J.Maritain , E.Mounier, H.Marcel , K.Barth tức các đại diện của các phân nhánh tư tưởng triết học tôn giáo phương Tây khác nhau thu hút sự chú ý quan tâm đặc biệt của Berdyaev. Ông giao tiếp thường xuyên với họ và trở thành một nhà triết học Nga nổi tiếng nhất ở nước ngoài. Ông bị lãng quên và nguyền rủa tại nước Nga khi ông còn sống . Năm 1948, Berdyaev mất ở ngoại ô Paris. Sự nghiệp sáng tạo của Berdyaev phản ánh sâu sắc sự hòa nhập của tinh thần Nga với tinh thần chung của triết học phương Tây hiện đại . Những tư tưởng cách tân của Berdyaev phải nói tới tác phẩm đầu tay chiếm vị trí quan trọng trọng sự nghiệp sáng tạo của ông và đối với cả nền triết học phương tây hiện đại- đó là tác phẩm “Triết học của tự do”. Tác phẩm này mang đậm sắc thái tiên tri . “Tất cả đều thừa nhận rằng triết học đang trải qua khủng hoảng nặng nề Niềm tin vào triết học đã bị đánh mất”[3,tr17]. Luận điểm này đã không còn là mới mẻ cùng thời nhưng những luận giải về thực chất nguồn gốc của sự khủng hoảng triết học của ông là độc đáo và sâu sắc : “Toàn bộ triết học hiện đại- kết quả tối hậu của toàn bộ triết học cận-hiện đại-rõ ràng đã bộc lộ sự bất lực chết người trong việc nhận thức tồn tại , trong việc hợp nhất với tồn tại của chủ thể nhận thức. Thậm chí còn đi tới chỗ thủ tiêu tồn tại đã đẩy chủ thể nhận thức vào vương quốc của những bóng ma . Nhận thức luận phê phán đã bắt đầu kiểm tra thẩm quyền của nhận thức và đi đến kết luận cho rằng , nhận thức không có quyển gắn chủ thể đang nhận thức với khách thể của nhận thức , với
  14. 13 tồn tại . Cảm nhận duy thực về tồn tại và thái độ duy thực với tồn tại là thiên đàng đã bị đánh mất . Tất nhiên là không có con đường triết học để trở về với thiên đàng”[3,tr18]. Vào đầu thế kỷ XX , các khuynh hướng nhận thức luận đang chiếm ưu thế trong triết học phương Tây còn các vấn đề khác đều không phải là trọng tâm , nó chỉ quan tâm đến con người với tư cách là đối tượng nhận thức chứ bản chất con người là gì thì không đặt ra trả lời , Berdyaev cho rằng sở dĩ xảy ra hiện tượng này là do sự ảnh hưởng và chiếm ưu thế của triết học Kant và chủ nghĩa Kant mới . Ông phê phán triết học Kant : “Kant là người biểu thị thiên tài căn bệnh nan y trong tồn tại người , về mặt triết học ông tạo dựng sự tách tời chết người với các cội rễ và các gốc rễ của tồn tại . Triết học Kant để con người đối diện với vực thẳm trống rỗng , dành cho con người quyền tự mình tái tạo tồn tại đã bị đánh mất ngoài chủ ý của mình . Chỉ có con người cô độc, con người sống ẩn dật , biệt lập mới có thể và cần phải sáng tạo ra thứ triết học như triết học Kant”[3,tr36]. Không chỉ thế , theo Berdyaev, nguy hiểm nhất là triết học đã đánh mất cội nguồn tôn giáo(đạo đức) của mình . Ông viết: “Căn bệnh của triết học hiện đại là căn bệnh về dinh dưỡng . Các nguồn dinh dưỡng của nó đã bị đánh mất , do vậy tư duy triết học trở nên héo hon Tôn giáo là cơ sở sống còn của triết học , tôn giáo nuôi dưỡng triết học bằng tồn tại hiện thực”[3,tr20-21] Bên cạnh sự khủng hoảng của triết học , theo Berdyaev điều đó cũng cho thấy sự khủng hoảng của loài người : Sự khủng hoảng nặng nề của loài người hiện đại gắn liền với lối thoát nan giản khỏi thời đại tâm lý , thời đại của chủ nghĩa duy chủ quan , của chủ nghĩa duy cá nhân khép kín Sự nô dịch của chủ nghĩa thực chứng và của lí luận môi trường xã hội gây nên nỗi khiếp đảm về tính tất yếu, sự bắt buộc cá nhân phục tùng một cách vô nghĩa cho mục đích của loài. Loài người bắt con người phục tùng bản thân một cách mù quáng , bắt nó làm nô lệ cho các mục đích của mình . Như vậy , Berdyaev nhận thấy sự khủng hoảng của loài người với tư cách là khủng hoảng của lịch sử là ở chỗ chủ nghĩa
  15. 14 khách quan giả dối đã đàn áp con người . Thời đại của những cái tôi tâm lý , cái tôi chủ quan là sự phản ứng với thực tế đó vì nó đang nô dịch con người. Một tác phẩm quan trọng và thú vị nữa trong sự sáng tạo của Berdyaev là tác phẩm “Mục đích của sáng tạo.Kinh nghiệm minh biện cho con người”(công bố 1816). Ông nhận thấy thực tế là: “Tinh thần con người đang bị cầm tù . Tôi gọi sự cầm tù này là thế giới , là thực tại , là tính tất yếu của thế giới. thế giới không phải là vũ trụ, nó là trạng thái bị chia cắt và thù địch của vũ trụ con đường chân chính là con đường giải phóng tinh thần khỏi “thế giới” là sự vận động bên trong tinh thần chứ không phải ở bên trong thế giới”[14,tr488]. Để thoát khỏi tình trạng này theo Berdyaev cần phải sáng tạo : Sáng tạo là lối thoát , là chiến thắng sự sáng tạo cần đánh bại nỗi sợ hãi , nỗi đau , sự bạc nhược , sự diệt vọng . Ở đây con người phải là trung tâm , là biện nhân luận chứ không phải là biện thần luận , người ta biện minh quá nhiều cho Chúa , nay đã tới lúc biện minh cho con người. Theo Berdyaev, khởi đầu cho sự cải biến tinh thần này là việc biến triết học thành hành vi sáng tạo mà trở ngại của nó là những quan niệm đã lỗi thời về triết học đó là muốn biết triết học thành một khoa học . Theo Berdyaev, khoa học không thể trở thành đối tượng lý tưởng của triết học vì khoa học không phải là sự sáng tạo mà là sự vâng lời , bản chất của nó không phải là tự do mà là tính tất yếu trong khi bản chất triết học là tự do. Theo Berdyaev, triết học sáng tạo là phải giống Platon , đó là không phải đặt các phạm trù hay nhận thức mà tình yêu mới ở trung tâm trong triết lý của ông . Chỉ có tình yêu mới mở ra những tiềm năng của sáng tạo tinh thần. Từ việc phê phán các khuynh hướng triết học phương Tây hiện đại, Berdyaev tự đi một con đường triết học riêng của mình là triết học hiện sinh cá biệt luận với khái niệm chung tâm là bản diện cá nhân (hay nhân cách) . Ông bàn về con người ,xem nó là một tiểu vũ trụ với cá tính riêng biệt . Ông tin vào tính hiện thực tiên khởi của tinh thần , hiện thực ấy được phản ánh lại thông qua các biểu tượng và kí hiệu của thế giới bên ngoài vẫn được người ta xem là “hiện thực khách quan” của thế giới tự nhiên và lịch sử nhưng với ông đó chỉ là hiện
  16. 15 thực thứ cấp . Berdyaev cho rằng con người đồng thời thuộc về hai thế giới : thế giới tinh thần và thế giới tự nhiên và bản diện cá nhân là thuộc thế giới tinh .Berdyaev cho rằng bản diện cá nhân là tự do và độc lập của con người trong mối quan hệ với thiên nhiên , với xã hội song nó không phải là tự khẳng định vị kỷ mà còn ngược lại , nó dịch chuyển những giá trị chung khách quan như xã hội , nhà nước , dân tộc , tập thể sang giá trị của bản diện cá nhân . Bản diện cá nhân không phải thói vị kỷ vì thói ịv kỉ nó khép kín vào bản thân mình trong khi bản diện cá nhân đi điến những bản diện cá nhân khác trong mối quan hệ tương thông cộng- đồng nhưng không ngoại hiện hóa và khách quan hóa . Berdyaev cho rằng không thể có bản diện cá nhân nếu không có tồn tại đứng cao hơn nó. Bản diện cá nhân phải được tư duy không phụ thuộc vào dòng tộc mà ở trong mối quan hệ và giao lưu với bản diện cá nhân khác , với thế giới và với Thượng Đế . Bản diện cá nhân mang tính giá trị luận và trở thành bản diện cá nhân là nhiệm vụ của con người . Bản diện cá nhân không sinh ra từ cha mẹ như cá thể mà Thượng Đế sáng tạo ra nó và nó tự sáng tạo ra bản thân mình . Bản diện cá nhân trong mối quan hệ với Thượng Đế-như một bản diện cá nhân khác mong mỏi con người-bản diện cá nhân đáp lại lời hiệu triệu của Ngài và Ngài có thể giao lưu tình yêu với nó . Thượng Đế bộc lộ mình trong thế giới tinh thần con người nhưng không cai quản thế gian như một quân vương mà nó phải tự phát triển và không hoàn tất: “Bản diện cá nhân là không hoàn tất , nó phải thực hịện bản thân mình , đây là nhiệm vụ vĩ đại đặt ra cho con người , nhiệm vụ thực hiện hình tượng và tương đồng với Thượng Đế , dung nạp cái phổ quát , sự đầy đủ vào trong bản thân mình dưới hình thức cá biệt . Bản diện cá nhân sáng tạo ra bản thân mình trong suốt cuộc đời”[2,tr368]. Vì thế , bản diện cá nhân là những bản diện khác biệt , đơn nhất, không lặp lại và nó là ngoại lệ , không mang tính quy luật Và để bản diện cá nhân có thể đáp ứng lời hiệu triệu của Thượng Đế , con người phải sáng tạo mà sáng tạo là một hành vi tự do vượt ra ngoài tồn tại và mang tính thần thánh . Vì vậy , hành vi sáng tạo của con người là tự bộc lộ trong tính đầy đủ của cuộc sống thần thánh mà tính thần thánh ở đây
  17. 16 theo ông là tính chất Kitô : “Sáng tạo chân chính của con người có tính chất Kitô ,mặc dù trong ý thức điều này không được bộc lộ ra. Chủ nghĩa nhân văn không hiểu được chiều sâu ấy của vấn đề sáng tạo , nó vẫn ở trong tính thứ cấp”[2,tr385] Có thể thấy, tư tưởng triết học của Berdyaev có nhiều điểm độc đáo , ông học tập , tiếp thu kế thừa và có phê phán nhiều trường phái triết học trong lịch sử cũng như đương thời để hình thành tư tưởng triết học cho riêng mình. 1.3.2. Tác phẩm “Thế giới quan của Dostoevsky” 1.3.2.1 Vài nét về cuộc đời và sự nghiệp của Dostoevsky Fedor Dostoevsky(1821-1881) là nhà văn , nhà tư tưởng nổi tiếng người Nga. Dostoevsky sinh ra trong một gia đình quý tộc tại Moscow năm 1821 song gia đình ngày càng sa sút . Ngay từ nhỏ ông đã được trao truyền tình yêu văn chương từ người mẹ , ông say mê đọc Puskin, Gogol, Sharespare, Hugo . Lớn lên ông theo học Cao đẳng theo yêu cầu gia đình song khi cha qua đời, ông đã bỏ học và quyết tâm theo nghiệp văn chương. Năm 1846 , ông cho ra mắt liền nhau hai tác phẩm đầu tay là “Những người nghèo” và “Kẻ song trùng”. Hai tác phẩm lập tức đưa Dostoevsky trở thành một ngôi sao mới trên văn đàn Nga lúc đó . Sau đó ông tiếp tục viết báo để kiếm sống và ông viết nhiều truyện ngắn, truyện vừa như “Bà chủ” , “Trái tim yếu đuối”, “Những đêm trắng”, các tác phẩm này được cho là mang màu sắc lãng mạn không tưởng. Bên cạnh viết văn , Dostoevsky còn tham gia một số hoạt động chính trị , ông khao khát hành động biến lý tưởng xã hội của mình thành hiện thực . Lúc đó , ở nước Nga chịu ảnh hưởng bởi các cuộc cách mạng ở châu Âu cộng với phong trào nông dân Nga đang phát triển khiến cho tầng lớp trí thức Nga đang tìm tòi những tư tưởng , những con đường nhằm trả lời cho câu hỏi tương lai của nước Nga sẽ như thế nào. Dostoevsky kết giao với nhóm Petrashevski nhằm mưu toan khởi nghĩa vũ trang giành lấy những quyền tự do dân chủ nhưng đến năm 1849 thì ảc nhóm bị bắt . Tưởng như tất cả sẽ bị xử tử thì đến phút cuối cùng , Sa hoàng hạ lệnh chuyển thành hình phạt bị lưu đày biệt sứ . Sau 4 năm sống với thân phận tù tội lưu đày ở Xibia rồi ông tiếp tục bị điều vào quân đội mãi đến 1859 mới được xuất ngũ vì ốm yếu bệnh tật . Tháng 12 năm đó , ông trở lại
  18. 17 Peteburg . Đây là một giai đoạn đặc biệt để lại ấn tượng sâu đậm trong cuộc đời ông , trong ông luôn in đậm ký ức về mấy nghìn ngày bị đày ải khốn cùng , về bao người đã gặp gỡ , quen biết, tìm hiểu về ngục tù nơi heo hút xa xôi . Ở đây, ông đã có một vốn hiểu biết phong phú làm cứ liệu cho ông suy nghĩ về bản chất và những khả năng của con người , nguồn gốc của cái ác , quan hệ giữa môi trường và nhân cách , giữa tự do và trách nhiệm của con người . Trở lại Peteburg trong lòng ông trĩu nặng suy tư về con người Nga , xã hội Nga , vận mệnh nước Nga . Năm 1860 , ông viết tác phẩm Bút kí từ nhà chết , tác phẩm này gây chấn động dư luận Nga thời đó , nó miêu tả các trại tù nước Nga thời đó như một địa ngục giữa trần gian làm tha hóa bản chất của con người . Những người ở đây đều trải qua thân phân phận ngựa trâu khốn cùng do hoàn cảnh ép buộc nên họ buộc phải đứng lên chống lại tầng lớp thống trị . Càng đau xót hơn nữa là những người bị tù đày đa phần là biết đọc biết viết trong khi đa số nhân dân Nga bấy giờ mù chữ . Ở trại lưu đày , họ chăm chỉ lao động, thông minh sáng tạo , giàu tình thân ái . Ở cái địa ngục đó , cai trị họ là lũ quan cai trị tham lam độc ác hết sức tàn bạo đến mức việc giày xéo con người trở thành một đam mê bệnh hoạn. Tuy nhiên trong tầng lớp bị tù đày họ cũng có những trường hợp khiến ta phải giật mình như tên tội phạm Gađin , hắn đặc biệt thích bắt cóc trẻ con, đem ra nơi khuất vắng chặt sẻ thành nhiều mảnh . Trước hiện tượng bệnh hoạn đó, Dostoevsky đưa ra một suy ngẫm sâu sa về bản chất con người: “Ở hầu hết mỗi con người thời nay , ngay từ trong bào thai đã có đặc tính của tên đao phủ”[10,tr364]. Hè năm 1862 , Dostoevsky thực hiện chuyến viễn du đầu tiên sang châu Âu. Kết quả của nó là ông viết một tiểu luận triết học dưới hình thức bút ký Ghi“ chép mùa đông về những cảm tưởng mùa hè”(1863) . Ông tập trung quan sát hai thành phố lớn là Paris và London , ông nhận định: “Nền văn minh châu Âu đã đi vào ngõ cụt , nó đã phản bội lý tưởng cao đẹp mà chính nó đề xướng , nó bóc lột thậm tệ giai cấp cần lao để đem lại lợi ích cho một thiểu số nhỏ ấy là lối sống
  19. 18 vị kỷ , “mỗi người vì mình , Thượng Đế vì tất cả”; sự giải phóng cá nhân ở đây chỉ dẫn đến sự cô đơn , tha hóa và thui chột nhân cách con người”[12,tr195] Từ đó mà ông cho rằng con đường của nước Nga khác với Tây Âu , ở Nga lí tưởng bác ái của Đức Kitô vẫn sáng chói trong tâm thức dân tộc , chế độ xã ộh i hay quan hệ cá nhân-tập thể đều phải dựa trên cơ sở tình yêu và tự do. Cũng trong năm 1863 , mấy tháng sau khi Dostoevsky công bố tác phẩm “Ghi chép mùa đông về những cảm tưởng mùa hè” , Chernyshevski viết tiểu thuyết Làm gì? trình bày cương lĩnh cải tạo xã hội , xây dựng con người mới của ông và vẽ lên bức tranh tốt đẹp về tương lai tươi sáng của nhân loại . Dostoevsky lập tức tranh luận lại với tác phẩm này bằng tác phẩm “Ghi chép dưới hầm” trong đó vấn đề tự do của con người trở thành trung tâm tư tưởng và tác phẩm này được coi là mầm mống cho toàn bộ tư tưởng nhân học của Dostoevsky thể hiện trong những kiệt tác cuối đời của ông . Dostoevsky nhìn thấy ở Chernyshevski màu sắc của một nhà chủ nghĩa xã ộh i không tưởng châu Âu , học thuyết mà Dostoevsky đã biết và có chịu ảnh hưởng phần nào từ chúng nhưng ông nhận ra nó không ổn trước đó rồi . Tiểu thuyết Làm gì? có ý định xây dựng cái “lâu đài bằng pha lê” nơi loài người trong tương lai sẽ sống , lao động và hưởng thụ một cách tập thể , có những thông số cơ bản chung dành cho tất cả mọi người mà với Dostoevsky cuộc sống ở đấy còn đáng ghét hơn nhà tù khổ sai . Cách giải quyết mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội như thế là không thể chấp nhận được, cá nhân ở đây thực chất đã bị xóa bỏ , chỉ còn lại những cá thể được nhân bản vô tính . Đặc điểm chung của các mô hình xã hội không tưởng là nó xây dựng mô hình bất biến , quy định từng li từng tí một , duy lý hóa triệt để nhằm tránh mọi mâu thuẫn mà ông gọi nó là học thuyết tổ kiến , là”chủ nghĩa bầy đàn”. Trong “Ghi chép dưới hầm” , Dostoevsky có nhiều đoạn khẳng định quan niệm này: “Chính những ảo mộng , chính cái ngu xuẩn đê tiện nhất là cái hắn muốn giữ lại cho mình , cốt chỉ để khẳng định rằng con người dù sao vẫn là con người chứ không phải những phím dương cầm mà quy luật tự nhiên muốn dạo tay chơi sao thì tùy thích”[7,tr51]. Nhân vật trong “Ghi chép dưới hầm” đưa
  20. 19 ra ba mô hình biểu tượng về tổ chức xã hội loài người là “tổ kiến”, “chuồng gà” và “lâu đài pha lê”. Tổ kiến thì đương nhiên không chấp nhận nhưng lâu đài pha lê thì cũng không ưng vì lâu đài pha lê nó ban cái quy chế vĩnh cửu ở đó không ai được phép thay đổi cái gì cả , trong đó mọi người đều hạnh phúc và phải hạnh phúc , không ai được phép đau khổ , thực chất nó cũng là một tổ kiến , tổ kiến được cải tạo vì thực chất trong đó không có tự do . Hắn nói nếu chẳng còn gì ốt t hơn thì chọn chuồng gà , nó là nơi có thể qua đêm , tránh mưa , một cái gì đó tạm thời, có thể phá đi làm lại , tức là có thể tự do , khát vọng được độc lập: “chính vì là con người , cho dù hắn là ai , bao giờ và ở đâu , đều khao khát hành động theo ý muốn chứ không theo mệnh lệnh Con người chỉ cần một thứ dục vọng duy nhất là dục vọng độc lập , bất chấp cái độc lập ấy đáng giá thế nào và dẫn tới hậu quả thế nào”[7,tr44]. Vấn đề mấu chốt ở đây là tự do cá nhân , tính chủ động và quyền tự chủ của con người , con người phải là một giá trị tự thân và vô điều kiện nên phải được phát triển tối đa . Hạnh phúc là tự con người chứ không thể ban phát và cưỡng bức hạnh phúc . Có thể khẳng định , với ông tự do là bản chất con người , tước đoạt tự do là tước đoạt nhân tính của con người-đó là luận điểm trung tâm trong nhân học của Dostoevsky . Việc đòi hỏi tự do tối đa sẽ đưa con người không có lý tưởng đến con đường nô lệ của chính mình . Tự do sẽ là ảo tưởng bởi vì ọm i hành vi của con người đều bị ảnh hưởng bởi cái nhìn của người khác , tự do sẽ là nguy hại nếu nó muốn độc lập tuyệt đối , con người ấy sẽ gạt bỏ một cách tàn nhẫn món quà cao quý mà cuộc đời đem lại cho nó –tình yêu . Tự do phải là tự do trong chân lý nếu không cũng sẽ thủ tiêu con người . Tự do là khó khăn nhưng nó mới xứng đáng với phẩm giá của con người. Trong khoảng 16 năm cuối đời , Dostoevsky đã viết lên những cuốn tiểu thuyết triết lý bất hủ của nhân loại : “Tội ác và trừng phạt”, “Chàng ngốc”, “Lũ người quỷ ám”, “Đầu xanh tuổi trẻ” , “Anh em nhà Karamazov”. Tất cả các tác phẩm này, với khả năng phân tích tâm lý nhân vật tài tình ềđ u vẫn chỉ là ngoại vi thế giới nghệ thuật của Dostoevsky . Phạm Vĩnh Cư viết : “ở Dostoevsky , phân
  21. 20 tích tâm lý không phải là mục đích tự thân , mà là phương tiện khám phá tinh thần,thế giới của các tư tưởng,các tín niệm chiếm lĩnh tinh thần con người và chi phối hành vi của nó . Dostoevsky là nhà tinh thần học nhiều hơn là nhà tâm lý học”[12,tr201]. Có thể nói , tinh thần con người thực sự là đề tài trung tâm trong tiểu thuyết của Dostoevsky , ở đó ông đã đặt ra hàng loạt vấn đề hệ trọng mang tính triết học như : sự tha hóa của con người như thế nào , bản chất của cái ác là gì , mối quan hệ giữa tự do và nhân cách , tôn giáo hay vô thần , bản chất tự do của Kitô giáo. Chính đề tài này là những đề tài mà Berdyaev đã quan tâm và viết trong tác phẩm “Thế giới quan của Dostoevsky”. 1.3.2.2 Khái quát tác phẩm “Thế giới quan của Dostoevsky” Tác phẩm “Thế giới quan của Dostoevsky” được xuất bản lần đầu năm 1923 tại Praha . Đây là cuốn sách tổng kết những suy tư của Berdyaev về Dostoevsky trong suốt hơn 10 năm . Tác phẩm này đã được hoàn thành vào ngày 23/9/1921 . Động cơ thúc đẩy ông viết tác phẩm này là những buổi sinh hoạt khoa học do ông dẫn dắt tại viện Hàn lâm tự do về Văn hóa tinh thần vào mùa đông 1920-1921 . Viện này do ông thành lập ở Moskva và tồn tại cho đến khi ông bị trục xuất khỏi nước Nga 8/1922 . Berdyaev xác định cách tiếp cận của ông dối với Dostoevsky: “tôi đã viết một cuốn sách mà ở đó tôi không chỉ toan tính khai mở thế giới quan của Dostoevsky mà còn đưa vào đó rất nhiều thứ thuộc thế giới quan của chính tôi”[1,tr11]. Ngay từ nhỏ , Berdyaev đã chịu ảnh hưởng sâu đậm bởi những tác phẩm của Dosteovsky , có ý nghĩa quan trọng trong đời sống tinh thần của Berdyaev bởi ông gây chấn động trong tâm hồn và ông phân chia thành hai loại là loại người Dostoevsky và loại người xa lạ với tinh thần của ông . Những vấn đề triết học được Berdyaev quan tâm ngay từ khi còn nhỏ gắn liền với “những câu hỏi đáng nguyền rủa” trong tác phẩm của Dostoevsky . Đặc biệt ông ấn tượng bởi hình tượng Viên đại pháp quan tôn giáo trong “Anh em nhà Karamazov” in vào trong tâm trí sâu đậm và trong tác phẩm này ông đã dành một chương để viết về huyền thoại Viên đại pháp quan . Trong
  22. 21 lời dẫn cho tác phẩm , ông đã nêu lên những cảm nhận và ảnh hưởng của mình từ Dostoevsky: “Ý tưởng về tự do luôn luôn là cơ sở cho cảm nhận tôn giáo và thế giới quan của tôi , và trong trực giác sơ khai ấy về tự do , tôi đã gặp gỡ Dostoevsky như gặp gỡ quê hương tinh thần của mình”[1,tr15-16] Berdyaev phải có những buổi thảo luận và rồi viết về Dostoevsky là bởi lúc đó quả thực là có một bối cảnh lịch sử xã hội đặc biệt và việc người ta chưa nhận ra tầm quan trọng trong những tư tưởng của Dostoevsky cũng như chưa hiểu đúng Dostoevsky. Yếu tố thứ nhất là bối cảnh lịch sử xã ộh i. Đầu thế kỷ XX , nước Nga vẫn đang là một nước nông nô lạc hậu, thất bại trong chiến tranh Nga-Nhật 1905 khiến cho Nước Nga phải bồi thường và lâm vào tình trạng kiệt quệ.sự khủng hoảng về mọi mặt của nước Nga về kinh tế-chính trị-xã hội đã khiến cho xã hội Nga lâm vào tình trạng mâu thuẫn sâu sắc báo hiệu sắp có những cuộc cách mạng nổ ra . Năm 1917 , nước Nga trải qua hai cuộc cách mạng liên tục là Cách mạng tháng 2 và cách mạng tháng 10 . Sự thành công của Cách mạng tháng 10 đưa nước Nga theo con đường chủ nghĩa xã hội , chủ nghĩa cộng sản . Lúc ầđ u , Berdyaev còn ủng hộ cách mạng nhưng sau khi cách mạng thành công thì ông đã nhận thấy những mặt trái của chủ nghĩa xã ộh i lúc đó như chỉ coi con người như cá nhân vô diện mạo ai cũng như ai, Bên cạnh đó, trên thế giới diễn ra chiến tranh thế giới thứ nhất 1914-1918 với hàng chục triệu người chết , có thể nói là một tương lai vô cùng bất an . Những hiện tượng lịch sử như thế Berdyaev đã nhìn ấth y màu sắc của nó trong những tác phẩm tiên tri của Dostoevsky. Thứ hai là yếu tố tinh thần trong giới trí thức . Từ nửa sau thế kỷ XIX, nước Nga du nhập hàng loạt trào lưu triết học phương Tây như chủ nghĩa duy vật vô thần , chủ nghĩa Marx , chủ nghĩa thực chứng , triết học Khai sáng , triết học duy tâm Đức Ngay từ lúc đó , Dostoevsky đã nhìn thấy nhiều mặt trái của các triết thuyết này và đến đầu thế kỷ XX , hàng loạt trí thức Nga từ chủ nghĩa duy vật , chủ nghĩa Marx sang chủ nghĩa duy tâm tôn giáo . Đây là một sự tái
  23. 22 nhận thức lại những vấn đề mới của thời đại ở những trí thức Nga khi họ thấy ở nơi văn minh phát triển như phương Tây nhưng lại là ngọn nguồn khơi mào cho chiến tranh gây ra cái chết của hàng triệu người , chủ nghĩa duy lý bắt đầu bị hoài nghi cực độ và người ta bắt đầu quan tâm đến những bí ẩn , những điều phi lý của thế giới và cả trong con người . Đó là cơ sở để người ta xét lại tôn giáo, Kitô giáo. Yếu tố cuối cùng đó là trong sự chuyển biến tư tưởng ấy, rất nhiều triết gia Nga hiện đại , đặc biệt là các nhà triết học tôn giáo hầu như không có ai bỏ qua cái tên Dostoevsky , tất cả bọn họ đều viết về ông trong những cuốn sách, những bài báo hay để lại những phát ngôn để dựa vào đó xây dựng tư tưởng của mình , Berdyaev cũng vậy . Berdyaev biến Dostoevsky thành điểm tựa cho tất cả những sáng tạo của ông về triết học-lịch sử và đạo đức- thẩm mỹ từ sự tiếp thu Kitô giáo và Đức Kitô theo huyền thoại Viên đại pháp quan và trải qua sự khắc phục quan điểm của Stavrogin trong bản thân mình . Berdyaev khẳng định Dostoevsky như nhà tư tưởng nhân học , nhà khí thiêng học , nhà siêu hình học và nhà tiên tri thiên tài của nước Nga , người theo Tân- Kitô giáo , người theo cá biệt luận và hiện sinh. Tác phẩm Thế giới quan của Dostoevsky được viết thành 9 chương theo một quan điểm thống nhất , các chương chỉ là các chủ đề riêng lẻ khác nhau . Theo tôi có thể xếp các chủ đề thành 2 nhóm chính : nhóm thứ nhất là chủ đề về quan niệm con người bao gồm chương 1(hình tượng tinh thần của Dostoevsky), chương 2(Con người) , chương 3(Tự do) , chương 4(Cái ác) , chương 5(Tình yêu) , chương 8(Viên đại pháp quan.Thần nhân và nhân thần) ; nhóm thứ hai là các chương còn lại bàn về các chủ đề nhỏ như chương 6(cách mạng.chủ nghĩa xã ộh i) , chương 7(Nước Nga) và chương 9(Dostoevsky và chúng ta). Trong những chương viết về vấn đề con người thì chương đầu tiên mang tính khái quát nội dung , cách tiếp cận và các chương sau là triển khai chủ đề riêng lẻ . Chương 6, Berdyaev phân tích những căn nguyên của những cuộc cách mạng đang và đã diễn ra ở nước Nga mà đã được Dostoevsky cảnh báo trong
  24. 23 các tác phẩm của mình, đồng thời chỉ ra bản chất của chúng đặc biệt là chủ nghĩa xã ộh i , ông xem nó như là một tư tưởng phản Kitô giáo . Chương 7 là những phân tích về nước Nga , Berdyaev xem Dostoevsky là nhà văn mang tính dân tộc cao nhất và ông cho rằng chỉ có thể nhìn Dostoevsky ộm t cách thấu sấu khi hiểu ông là một nhà văn Nga điển hình , Berdyaev mổ sẻ những điểm yếu và điểm mạnh của nước Nga , quan niệm về vị trí lịch sử của nước Nga đã thể hiện qua những tác phẩm của Dostoevsky như thế nào . Chương 9 , Berdyaev cho rằng sau Dostoevsky nhân loại đã bước vào một thời kỳ lịch sử mới mà chúng ta không còn có thể nhìn thế giới như cũ được nữa, thế giới mà giờ mọi thứ đều lung lay đến tận rể đồng thời chỉ ra ảnh hưởng lớn lao của Dostoevsky đến lịch sử tư tưởng và văn hóa Nga giai đoạn sau ông. TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 Nước Nga trong cuối thế kỷ 19- thế kỷ 20 có những biến động xã ộ h i mạnh mẽ , từ một nước nông nghiệp lạc hậu đã cải cách và hình thành chủ nghĩa tư bản đế quốc như ở châu Âu song đất nước vẫn còn rất nhiều mặt yếu kém, đặc biệt chế độ Nga hoàng đã ảnh hưởng tới sự phát triển của nước Nga cùng với đó là trong lòng xã hội Nga có vô vàn những mâu thuẫn xã ộ h i gay gắt, chính điều đó đã khiến cho nước Nga bùng nổ cuộc cách mạng tháng Mười năm 1917 , một sự kiện lịch sử quan trọng trong thế kỷ XX . Chính bối cảnh đó đã sản sinh ra hai nhà tư tưởng kiệt xuất của nhân loại đại diện cho hai thế hệ tinh
  25. 24 hoa của nước Nga . Đó là F.Dostoevsky- nhà văn kiệt xuất của nước Nga trong thế hệ vàng của văn học Nga và N.A.Berdyaev- triết gia hàng đầu của nước Nga thế kỷ 20 , một đại diện nổi bật trong thế hệ bạc với nhiều triết gia kiệt xuất. Dostoevsky với một cuộc đời nhiều thăng trầm đã ểđ lại một di sản đồ sộ với những kiệt tác bất hủ của nhân loại như “Tội ác và trừng phạt”, “Anh em nhà Karamazov”. Những tác phẩm của ông để lại nhiều ảnh hưởng và cảm hứng cho thế hệ sau . Berdyaev ngay từ nhỏ đã chịu ảnh hưởng sâu sắc của Dostoevsky, sự nghiệp sáng tạo của ông gắn nhiều với bối cảnh của triết học phương Tây hiện đại , ông đi theo khuynh hướng chủ nghĩa hiện sinh mà triết học của ông gọi là triết học hiện sinh cá biệt luận . Tác phẩm “Thế giới quan của Dostoevsky” là một tác phẩm đúc kết nhiều năm suy tư của ông về Dostoevsky , người mà ông xem như một bậc tiền bối tinh thần,người mà với ông đã khai mở nhiều vấn đề mới về con người . Tác phẩm đã phân ícht sâu sắc và nhiều kiến giải mới về các vấn đề quan trọng của Dostoevsky như con người tự do , cái ác hay vấn đề nước Nga. CHƯƠNG 2. NHỮNG NỘI DUNG TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA DOSTOEVSKY DƯỚI GÓC NHÌN CỦA BERDYAEV TRONG TÁC PHẨM “THẾ GIỚI QUAN CỦA DOSTOEVSKY” 2.1 Tư tưởng triết học của Dostoevsky về con người dưới diễn giải của triết gia Berdyaev Ngay từ đầu tác phẩm , Berdyaev khẳng định cách tiếp cận của mình không phải là cách tiếp cận phê bình văn học mà là cách tiếp cận “khí thiêng học” chứ không phải tâm lý học , đó là thuộc lĩnh vực thần học , nó bàn về tác động của khí thiêng lên con người và thế gian . Berdyaev khẳng định Dostoevsky là một nhà tư tưởng vĩ đại và những ý tưởng đóng vai trò trung tâm trong sáng tác của Dostoevsky : “bằng nghệ thuật của mình ông thâm nhập vào những cơ sở tiên khởi nhất của cuộc sống tư tưởng những ý tưởng nơi ông có cuộc sống hữu cơ và có số phận không sao tránh khỏi . Cuộc sống ấy của các ý tưởng là cuộc trong trạng thái động , trong đó không hề có gì tĩnh tại,không có điểm dừng và
  26. 25 sự chai cứng lại Và Dostoevsky nghiên cứu quá trình động trong cuộc sống của các ý tưởng Mọi thứ trong ông đều rực lửa mọi thứ đều ở trong chuyển động,ở trong những mâu thuẫn và ở trong đấu tranh đây chính là những dòng lửa”[1,tr18-19]. Ở đây , Berdyaev cho rằng có những ý tưởng cơ bản , những ý tưởng mang tính khởi nguyên mà Dostoevsky thâm nhập vào nó , dõi theo sự chuyển động của nó , những ý tưởng trong tinh thần con người nó có số phận hữu cơ của nó tức là nó có sự vận động biến đổi của nó mà không có điều gì khống chế được , không ai có thể ngăn cản bất kỳ ý tưởng nào đó xuất hiện và thay đổi trong tinh thần con người. Thế giới quan của một nhà văn có nhiều cách hiểu , có cách hiểu rằng đó là hệ thống trừu tượng các ý tưởng nhưng thế giới quan của Dostoevsky lại khác: “Thế giới quan của Dostoevsky chính là trực giác thiên tài của ông đối với số phận con người và thế giới . Đó là trực giác tư tưởng cũng là trực giác tư tưởng , nhận thức và triết học”[1,tr21]. Như vậy , thế giới quan ở đây mang tính triết học và Berdyaev viết về thế giới quan của Dostoevsky là những tư tưởng triết học của Dostoevsky mà ở đây chủ yếu là nhân học triết học. Berdyaev khẳng định với những hiện tượng tinh thần vĩ đại thì phải tiếp thu một cách toàn vẹn chứ không thể mổ xẻ phân tích : “Không thể mổ xe một hiện tượng hữu cơ vĩ đại của tinh thần , nó sẽ bị chết dưới lưỡi đao của nhà phẫu thuật và không còn có thể thấu hiểu tính toàn vẹn của nó được nữa cần phải tiếp cận với tâm hồn đầy xác tín chứ không đoán mò với nghi hoặc và ngờ vực”[1,tr 24]. Theo chúng tôi , quan điểm này của Berdyaev là hoàn toàn xác đáng bởi những vấn đề tinh thần là những vấn đề mà để hiểu chúng ta cần có một sự xác tín về nó nếu không chúng ta sẽ không thể hiểu được tinh thần đó. Từ điểm nhìn và cách tiếp cận đó , Berdyaev khái quát những ý tưởng con người trong sáng tác của Dostoevsky : “Sáng tác của ông(Dostoevsky) thể hiện trạng thái động đầy bão táp và say đắm của bản chất con người . Con người bị bứt ra khỏi mọi nếp sống bền vững , không còn tiếp tục hiện hữu theo luật pháp nữa và đi vào một chiều kích khác của tồn tại”[1,tr32]. Nietzsche phân chia hai kiểu
  27. 26 sáng tạo là Appolo và Dionysus1. Berdyaev cho rằng sáng tạo của Dostoevsky là sáng tạo Dionysus : “toàn bộ con người ông chìm đắm vào trong bản năng Dionysus và cái Dionysus ấy sinh ra bi kịch”[1,tr35]. Berdyaev cũng khẳng định Dostoevsky là một nhà văn hiện thực nhưng không phải là hiện thực của sinh hoạt đời thường mà là hiện thực tinh thần: “Ở ông hiện thực là cái chiều sâu tinh thần của con người , hiện thực là số phận của tinh thần con người . Hiện thực là mối quan hệ của con người với Thượng Đế , của con người với ác quỷ , hiện thực ở ông là những ý tưởng mà con người sống bằng chúng”[1,tr42]. Berdyaev phê phán quan niệm con người của chủ nghĩa nhân văn và cho rằng sáng tạo của Dostoevsky đã chạm đến con người ở một chiều sâu mới : “con người không được xem xét trong chiều kích hời hợt bằng phẳng của chủ nghĩa nhân văn , mà ở trong chiều kích của độ sâu , ở trong thế giới tinh thần mới mẻ được khám phá lại lần nữa”[1,tr46]. Quan niệm con người ở chủ nghĩa nhân văn dựa trên hai niềm tin lớn là tin vào sự hoàn thiện tất định của con người và tin vào chủ nghĩa không tưởng tin rằng con người có thể xây dựng vương quốc của cái thiện ngay tại trần gian này dựa vào lý trí . Chính do quan niệm này mà con người quên mất Thượng Đế và cũng không hiểu vì sao thế gian lại có nhiều điều phi lý đến thế . Đó là hạn chế của con người trong chủ nghĩa nhân văn mà Berdyaev đã phê phán. Theo Berdyaev , Dostoevsky chỉ có một mối quan tâm duy nhất, đó là con người và số phận của nó bởi vì: m“ ọi thứ đều ở trong con người và vì con người .Câu đố đời sống thế gian là ở trong con người . Giải quyết được vấn đề con người tức là giải quyết được vấn đề về Thượng Đế . Toàn bộ sáng tác của Dostoevsky là sự trình diễn của ông về con người và số phận của nó,đưa đến chỗ tranh đấu với Thượng Đế , nhưng được hóa giải bằng việc trao số phận của con người cho Thần nhân Kitô . Cái ý thức thuần túy nhân học như thế chỉ có thể có ở trong thế giới Kitô giáo , chỉ có thể có vào thời đại Kitô giáo của lịch 1 Apollo và Dionysus là hai vị thần Hi Lạp cổ đặc trưng cho hai kiểu sáng tạo đối lập nhau.Apollo đại diện cho sự hài hòa,trật tự và lý trí còn Dionysus đại diện cho sự hỗn loạn và phi lý.
  28. 27 sử nhân học của Dostoevsky là nhân học mang tính Kitô giáo sâu sắc”[1,tr63- 64] Quan niệm con người như thế chưa từng có ở chủ nghĩa nhân văn bởi với họ con người chỉ là một thực thể tự nhiên . Con người ở Dostoevsky là một thực thể độc lập , ông chỉ quan tâm đến con người với tư chất tâm hồn của họ , hình tượng đời sống của họ , những cảm xúc và ý nghĩ của họ còn lại mọi thứ khác đều không đáng quan tâm : “Con người tách rời khỏi thiên nhiên,bứt ra khỏi những gốc rể hữu cơ và rơi vào những ống khói thành phố đầy kinh tởm mà ở đó nó quằn quại trong những khổ đau tất cả những thứ đó chỉ là những dấu hiệu, những biểu tượng của thế giới tinh thần nội tâm con người , chỉ là những phản ánh số phận bên trong của con người”[1-tr65-66] Sự mất rễ này của con người ở Dostoevsky cũng được Claudio Margis cảm nhận : “con người-dưới hầm , không tìm được một cái nền về sinh tồn và tư duy để mà tựa chân , cũng chẳng tìm được một mảnh đất sống còn để mà bẳt rễ và hút nhựa sống”[20,tr 64]. Sự khủng hoảng , sự bật rễ này của con người là một đặc trưng quan trọng khiến những nhân vật trong tác phẩm của Dostoevsky luôn luôn lạc đường , suy nghĩ lệch lạc mà không thể tìm được con đường đúng đắn , họ luôn lao tới tăm tối , tội lỗi và cái ác. Các tiểu thuyết của Dostoevsky đều có tính tập trung cao , tất cả mọi thứ đều hướng về một con người trung tâm hoặc là con người trung tâm ấy hướng tới tất cả mọi thứ . Berdyaev ví dụ về một nhân vật trung tâm trong tiểu thuyết Đầu xanh tuổi trẻ của Dostoevsky là Versilov : “Mọi người chỉ có một công chuyện- giải đoán bí mật của Versilov , giải đoán bản ngã của ông ta , số phận kỳ lạ của ông ta Đập vào mắt mọi người là tính chất phi lý thật sâu sắc trong tính cách của ông ta . Một câu đố về cuộc đời của Versilov được đặt ra . Đây là câu đố về con người và số phận con người.”[1,tr67-69]. Ở một tiểu thuyết khác là Lũ người quỷ ám lại có một nhân vật trung tâm khác là Stavrogin : “Shatov , P.Verkhovensky , Kirillov đều chỉ là những nhân
  29. 28 vật phân rã từ nhân vật Stavrogin , chỉ là bức xạ phát ra từ nhân vật phi thường này mà anh ta sẽ bị kiệt quệ ở trong tình trạng đó”[1,tr70] Ngược lại với hai tiểu thuyết trên theo khuynh hướng tất cả hướng về một con người trung tâm thì ở chiều ngược lại nhân vật trung tâm hướng tới tất cả là Myshkin trong Chàng ngốc: “Myshkin giải đoán được tất cả mọi người , trước hết là hai người phụ nữ , Nastasia Philippovna và Aglaya , đầy những tiên cảm minh mẫn , những thức ngộc trực giác . Ông ta đi đến giúp đỡ tất cả mọi người .Những quan hệ con người , ấy là chuyện duy nhất mà ông ta bận rộn”[1,tr71]. Có thể thấy , cách nhìn của Berdyaev là khác lạ và độc đáo . Đây là một đặc trưng mà từ đó con người nhìn thấy những khủng hoảng của chính mình như việc bị cuốn hút bởi người khác đánh mất mình , không còn bản diện cá nhân mà chỉ còn là bản sao hoặc việc một nhân vật trung tâm hướng về mọi người có thể tượng trưng như mối quan hệ giữa con người và Thượng Đế , chỉ có Thượng Đế mới giải quyết được những khủng hoảng của con người. Con người kể từ thời đại của Dostoevsky đến nay đã hình thành cho mình một nếp sống bền vững với nhiều lớp phủ như xã hội , văn hóa , lý tính , luật pháp vì thế muốn khám phá thực chất của con người cần phải làm thí nghiệm tinh thần và Berdyaev cho rằng Dostoevsky là một nhà nhân học vĩ đại , nhà thực nghiệm bản chất con người . Phương pháp thực nghiệm của Dostoevsky đó chính là phương pháp nghệ thuật Dionysus : “lôi cuốn vào chiều sâu đầy huyền bí của bản chất con người , cơn lốc xoáy hứng phấn mê dại lôi cuốn vào chiều sâu ấy Toàn bộ sáng tác của Dostoevsky đều là môn nhân học lốc xoáy . Mọi thứ khai mở ra ở đó trong bầu không khí hưng phấn-rực lửa mà chỉ những ai đã từng bị lôi cuốn vào cơn lốc xoáy ấy mới thấu đạt được tri thức của Dostoevsky”[1,tr74]. Muốn thực hiện được phương pháp Dionysus ấy,con người phải được tự do: “Dostoevsky xem xét cho con người để được tự do , bước ra khỏi luật pháp,tách rời khỏi trật tự vũ trụ và tìm hiểu số phận của nó ở trong tự do, khai mở ra những kết quả không tránh khỏi của những nẻo đường tự do”[1,tr74-75]. Như
  30. 29 vậy Berdyaev thấy rằng chính sự khủng hoảng của con người cũng là thời điểm thích hợp và thuận lợi để Dostoevsky thực nghiệm nhằm khám phá bản chất đích thực của con người , đồng thời để thực hiện điều ấy Dostoevsky đã để con người tự do bước ra khỏi mọi sự kiểm soát . Ở đây , chúng tôi thấy lập luận của Berdyaev là hợp lý và tường minh đã chỉ ra căn cơ đằng sau những số phận con người, số phận nhân vật trong tác phẩm của Dostoevsky , như Berdyaev nói đó là những kết quả không tránh khỏi trên những con đường của tự do . Theo tôi , sự tự do không chỉ là xác tín của Dostoevsky mà còn cả của Berdyaev , điều đó thể hiện rõ nét trong hai tác phẩm “Triết học của tự do” hay “Con người trong thế giới tinh thần”, cũng chính vì thế mà Berdyaev mới nhìn thấy điều ấy ở Dostoevsky bởi đó là sự xác tín chung của cả hai. Để hiểu được những vấn đề mới mẻ trong từ con người ở Dostoevsky , Berdyaev đã so sánh với con người trong các nhà văn lớn khác là Dante và Sharespare: “Ở Dante con người là bộ phận hữu cơ của một trật tự thế gian mang tính khách quan , của một vũ trụ thần thánh . Con người là thành viên của một hệ thống ngôi thứ , bên trên nó là bầu trời,phía dưới nó là địa ngục Thượng Đế và quỷ dữ , bầu trời và địa ngục khai mở ra không phải ở trong chiều sâu tinh thần của con người Vũ trụ như cơ thể có ngôi thứ còn chưa bị lung lay , con người ở trong đó thật vững chãi”[1,tr76]. So sánh với Dante ở đây , Berdyaev đã chỉ rõ một sự khác biệt lớn lao Dante và Dostoevsky , đó là sự khác biệt giữa con người như là ngôi thứ với con người như là trung tâm , giữa con người ổn định vững chắc với con người ở trong sự khủng hoảng đến tận rễ. Đến thời Sharespare , con người đã có những thay đổi nhất định: “Sharespare Sáng tác của ông lần đầu tiên khai mở ra thế giới linh hồn của con người vô cùng phức tạp và đa dạng Thế giới quan nhân văn ấy hướng về thế giới linh hồn của con người chứ không phải thế giới tinh thần , không hướng về chiều sâu cuối cùng của tinh thần . Con người di chuyển về vùng ngoại vi của đời sống linh hồn,tách rời khỏi những trung tâm tinh thần.Sharespare là nhà tâm lí học vĩ đại nhất của nghệ thuật nhân văn”[1,tr 77-78]. Những nhận
  31. 30 định của Berdyaev rất xác đáng , những giới hạn trong tư tưởng con người của Sharespare cũng tương đồng với những hạn chế của về tư tưởng con người trong chủ nghĩa nhân văn mà chúng tôi đã lý giải phần trước về chủ nghĩa nhân văn. Sharespare chỉ là một nhà tâm lý học chứ không phải nhà nhân học như Dostoevsky bởi con người của Sharespare chỉ là con người đã tách rời khỏi trung tâm tinh thần là Thượng Đế dẫu cho con người ở Sharespare đã được tự do thoát khỏi sự kìm kẹp của một định mệnh , một vũ trụ thần thánh. Berdyaev cho rằng con người của Dostoevsky xuất hiện vào một thời kỳ mới của con người mà ông gọi là tân lịch sử : “con người cảm nhận thấy rằng nền tảng ở dưới nó không thật rắn chắc và vững bền như nó hằng tưởng tính chất núi lửa ngầm dưới nền đất bắt đầu bộc lộ ra .Vực thẳm mở rộng ra trong chiều sâu của chính con người toàn bộ tân lịch sử là sự thử thách tự do của con người,trong lịch sử ấy các sức mạnh của con người được buông thả tự do Ở đó Thượng Đế và bầu trời lại khai mở ra cho con người , chứ không phải chỉ có quỷ dữ và địa ngục , thế nhưng không phải như một trật tự khách quan có sẵn với con người từ bên ngoài , mà như cuộc gặp gỡ với chiều sâu cuối cùng của tinh thần con người , như là những hiện thực khai mở từ bên trong”[1,tr 78-79]. Như vậy , Berdyaev cho rằng con người ở Dostoevsky xuất hiện đồng nghĩa mới một kỷ nguyên mới của lịch sử , ở kỷ nguyên đó con người sẽ là trung tâm trong đời sống của mình , ở đó Thượng Đế , quỷ dữ đều sẽ khai mở cho con người nhằm tìm thấy bản diện cá nhân , bản diện tinh thần đích thực của mình . Luận điểm này của Berdyaev theo chúng tôi rất xác đáng và giàu sức thuyết phục. Sự khác biệt và mới mẻ này trong con người nơi Dostoevsky cũng được một nhà tư tưởng hàng đầu của nước Ý chia sẻ , đó là Cladio Margis : “Dostoevsky muốn tường thuật và cử hành cuộc biến thái của diện mạo con người từ hàng ngàn năm nay,ngả người sang bên kia cái cá thể truyền thống-mà theo Nietzsche , là một chiếc cầu phải được vượt qua-hướng tới một hình thái mới của nhân cách , giải thoát khỏi những tôn ti đạo đức thế tục và tâm linh giam hãm dòng chảy tự do của cuộc sống trong chiếc áo-trói bản sắc cá thể,trong cái
  32. 31 tính thống nhất rắn đặc và chuyên chế của ý thức”[20,tr 63]. Có thể thấy , cái nhìn của Claudio Margis rất tương đồng với Berdyaev ở chỗ nó cho rằng cái cá thể (hay “bản diện cá nhân” của Berdyaev) đã thay đổi khác với truyền thống , giờ đây cái cá thể phải là trung tâm của diện mạo con người , nó thoát khỏi sự kiềm tỏa của những tôn ti đạo đức hay sự trói buộc bản sắc thống nhất của ý thức , giờ đây nó có thể luôn thay đổi , đa bản sắc khác nhau chứ không phải chỉ có một bản sắc duy nhất. Từ việc nhìn nhận như vậy về con người mà Dostoevsky mới nhìn thấy bản chất con người như thế nào ở trong sự tự do đích thực : “bản chất con người mang tính phân cực,đầy nghịch lý và phi lý tính . Con người có một nhu cầu không sao dứt bỏ được muốn có tự do phi lí tính , muốn được đau khổ tự do cao hơn no ấm tự do bản thân nó là phi lí tính và điên rồ , nó dẫn tới việc đi quá giới hạn đặt ra cho con người . Cái tự do vô giới hạn ấy giày vò con người,dẫn nó đến tiêu vong . Nhưng con người quý trọng nỗi giày vò ấy và sự tiêu vong ấy”[1,tr 81]. Khi con người tự do thì sẽ có hai con đường xuất hiện , đó là con đường trở thành Nhân thần hoặc Thần nhân : “con đường tự do hoặc là dẫn đến nhân-thần , và trên con đường ấy con người sẽ tìm thấy cái chết và sự tiêu vong của mình , hoặc là dẫn đến Thần-nhân , và trên con đường ấy con người sẽ tìm được sự cứu rỗi của mình và sự khẳng định triệt để hình tượng của mình . Con người chỉ hiện hữu , nếu nó là hình tượng và đồng dạng với Thượng Đế , nếu con người tự mình là Thượng Đế , thì khi đó cũng không còn con người nữa”[1,tr89] Con đường trở thành nhân-thần tiêu biểu chính là ở triết học Nietzsche nơi con người bị tiêu vong và biến thành hư vô : “Nietzsche bị khống chế bởi ý tưởng con người tự mình làm thần thánh ; ý tưởng siêu nhân tiêu hủy mất con người ở ông ta Ở Nietzsche không có cả Thượng Đế lẫn con người,, mà chỉ có siêu nhân chưa được biết đến”[1,tr 101-102] Cũng có sự thấu hiểu như vậy là lý giải của triết gia S.L.Frank về bản chất của triết học Nietzsche : “Vì lẽ Nietzsche bị cầm tù trong truyền thống phản Kitô
  33. 32 giáo và phản tôn giáo của chủ nghĩa nhân văn thô thiển , cho nên ý tưởng “siêu nhân” không những buộc phải mang tính chất chủ nghĩa thần nhân Titan chiến đấu chống lại thần linh , mà còn không thể được đặt trên cơ sở nào khác hơn là cơ sở sinh học . Đòi hỏi “vượt qua con người” ở đây đồng thời có nghĩa là lật đổ bản thân ý tưởng con người”[16,tr 61-62] Đối ngược lại với con đường trở thành nhân-thần của Nietzsche là con đường trở thành Thần-nhân mà tiêu biểu chính là tư tưởng nhân học Kitô giáo của Dostoevsky : “Ở Dostoevsky con người được bảo toàn đến cùng Ở Dostoevsky có cả Thượng Đế và con người.Thượng Đế ở nơi ông không bao giờ nuốt mất con người , con người không biến mất trong Thượng Đế , con người còn lại cho đến cùng và còn lại mãi đời đời kiếp kiếp”[1,tr 102]. Có thể thấy cả hai con đường này đều chỉ xuất hiện khi con người có tự do và có khát vọng muốn xây dựng bản diện cá nhân đích thực . Sự đề cao và khẳng định con đường Thần-nhân là con đường đúng đắn theo chúng tôi là một điều thể hiện khuynh hướng tôn giáo Nga , người Nga không thể sống thiếu tôn giáo, ở bối cảnh hiện nay người ta ngày càng khẳng định vai trò của tôn giáo trong đời sống xã hội và con người thì luận điểm này càng thể hiện sự hợp lý của nó. Quá trình tự do trở thành Thần-nhân của con người là một quá trình phức tạp và đầy bi kịch . Berdyaev cho rằng Dostoevsky là người có những ý tưởng thiên tài về tự do, đặc trưng của nó là: “Tự do đối với ông(Dostoevsky) là biện nhân luận và biện thần luận , cần phải tìm thấy ở trong tự do cả biện minh cho con người và cả biện minh cho Thượng Đế”[1,tr 108]. Để phân biệt tư tưởng về tự do của Dostoevsky cần phân biệt hai loại tự do : tự do đầu tiên và tự do cuối cùng . Tự do đầu tiên là ở việc tự do tìm kiếm lựa chân lý và tự do cuối cùng là ở bên trong chân lý đã định sẵn phải theo . Nổi bật trong một tư tưởng về tự do đã ảnh hưởng lớn đến lịch sử Kitô giáo , đó là thần học gia , triết gia Agustino khi ông cho rằng chỉ có một tự do đó là tự do cuối cùng , tự do ở trong chân lý , mà chân lý với Augustino ở đây chính là Kitô giáo, tức là với ông chân lý đã được định sẵn chứ không phải lựa chọn ví như ta được
  34. 33 định sẵn sinh ra là theo Kitô giáo chứ không phải được lựa chọn . Thế nhưng với Berdyaev cũng như Dostoevsky thì cần phải có cả tự do đầu tiên và tự do cuối cùng bởi vì chân lý có thể khiến con người tự do thế nhưng con người phải tự do tiếp thu chân lý , nó không thể bị cưỡng bức , bị ép buộc dẫn đến chân lý bởi đó là phẩm giá của con người. Vấn đề tự do lại dẫn đến vấn đề đạo đức , vấn đề thiện và ác . Berdyaev diễn giải rằng tự do có bản chất độc đáo của riêng nó , tự do là tự do chứ không phải là điều thiện , không thể đồng nhất nó với điều thiện mà nó có thể biến thành cái ác . Và bi kịch của tự do chính là ở đây , bi kịch ấy đã được Dostoevsky khảo sát và đạt đến tận chiều sâu và bí ẩn của Kitô giáo cũng chính là ở trong điều này . Dostoevsky để cho con người có được tự do đầu tiên , tự do trong tiếp thu chân lý vốn sẽ phải làm để cho con người được tự do triệt để . Con đường tự do ấy là con đường đi qua bóng tối,đi qua vực thẳm , đi qua sự phân đôi , đi qua bi kịch thế nhưng con đường ấy không được cắt ngắn đi hoặc giảm nhẹ đi bởi như thế nó cắt mất tự do của con người. Vì sao gọi nhân học của Dostoevsky là nhân học Kitô giáo? Berdyaev đã phân tích làm rõ tư tưởng nhân học của Kitô giáo trong sự phân biệt với tư tưởng con người phương Đông cổ đại , tư tưởng con người trong Hy Lạp cổ đại : “Con người cổ đại hay con người của phương Đông cổ đại chưa biết đến tự do ấy , nó bị xiềng xích vào tính tất yếu , vào trật tự tự nhiên , bị khuất phục trước định mệnh Tư duy Hi Lạp chỉ chấp nhận tự do hợp lí tính . Kitô giáo khám phá ra khởi nguyên phi lý tính của tự do Ý thức văn minh Hi Lạp cổ đại kính sợ nội dung phi lí tính ấy Chỉ có Kitô giáo cho con người tự do ấy,tự do đầu tiên và tự do cuối cùng”[1,tr 117]. Có thể thấy , lập luận của Berdyaev là chính xác và vì thế Berdyaev cho rằng tư tưởng nhân học của Dostoevsky là nhân học Kitô giáo bởi vì ảc hai đều thừa nhận tự do đầu tiên và tự do cuối cùng. Như vậy , tự do trong lịch sử đã trải qua các giai đọan khác nhau . Tự do trong các nhân vật của Dostoevsky đi đến giới hạn mới của tinh thần con người và sự tìm kiếm tự do bước vào một giai đoạn mới : “tự do ở Dostoevsky không phải
  35. 34 chỉ là hiện tượng Kitô giáo mà còn là hiện tượng của tinh thần mới . Nó thuộc về một thời kì mới ngay trong Kitô giáo . Đây là thời kì quá độ của Kitô giáo chuyển từ thời kì thấu hiểu nó thuần túy siêu việt sang thời kì mang tính chất nội tại nhiều hơn Mọi thứ đều chuyển vào chiều sâu cuối cùng của tinh thần con người”[1,tr 120]. Tự do đặt ra một vấn đề hệ trọng , đó là vấn đề cái ác . Cái ác là một trong những vấn đề gai góc mà Dostoevsky đặt ra trong các tác phẩm của mình . Các nhân vật trung tâm trong các tác phẩm của Dostoevsky như Raskolnikov , Stavrogin , Kirillov , Versilov , Ivan Karamazov đều bị đau khổ rằn vặt bởi cái ác . Tự do bản chất nó là phi lí tính mà bản chất cái ác là con đẻ của tự do nên cái ác cũng mang tính chất phi lí . Dostoevsky đòi hỏi chúng ta phải nhìn ra bản chất thực sự của cái ác : “tinh thần của Dostoevsky nổi dậy chống lại sự giải thích bề ngoài , xem cái ác và tội ác là môi trường xã hội và dựa trên cơ sở ấy mà phủ nhận sự trừng phạt Nếu xem con người chỉ là phản xạ thụ động của môi trường xã hội bên ngoài , nếu nó không phải là thực thể có trách nhiệm , thì tức là không có con người , không có Thượng Đế , không có tự do , không có cái ác và không có cái thiện”[1,tr 145]. Theo Berdyaev , những tác phẩm của Dostoevsky là sự vạch trần lời vu khống đối với bản chất con người . Với Dostoevsky , cái ác gắn với bản diện cá nhân , chỉ có cá nhân mới tạo ra cái ác và chịu trách nhiệm về nó , bản chất của cái ác mang tính chất bên trong , mang tính chất siêu hình chứ không phải mang tính bề ngoài, tính xã hội . Những nỗi giày vò trong các nhân vật của ông,những nhân vật đã bước vào con đường của cái ác thì các thứ đạo đức đã được luật hóa trong các sách giáo lí không thể giải thích được . Cách để thủ tiêu cái ác duy nhất là phải bị hỏa thiêu trong ngọn lửa địa ngục . Dostoevsky tìm hiểu và phát hiện ra những giày vò lương tâm và sự sám hối ở một chiều sâu mới , ông khám phá ra ý chí phạm tội ác ở trong chiều sâu cuối cùng của con người , trong những ý đồ bí mật của con người,những giày vò lương tâm thiêu đốt linh hồn con người ngay cả khi con người chưa hề thực hiện những tội ác nhìn thấy được . Đó là điều mà bất kể nhà nước,luật pháp
  36. 35 hay dư luận xã hội đều không đi tới được . Ở Dostoevsky, vấn đề của lương tâm được đi sâu và tinh tế hơn tiêu biểu là nhân vật Ivan Karamazov . Ivan đã không giết người cha của mình là Fedor , Xmerdyakov đã giết ông ta , thế nhưng ý đồ giết cha là của Ivan còn Xmerdyakov chỉ là người thừa hưởng ý chí của Ivan mà thôi . Vì thế , Ivan tự xử mình ột i giết cha , những giày vò của lương tâm khiến anh ta mất trí . Cái ác làm phân đôi con người , ở anh ta hình thành nên hai “tôi”. Họ bị mất đi tính toàn vẹn của bản ngã cá nhân , họ tựa hồ như đang sống cuộc sống hai mặt , một bên là thánh thiện là anh hùng , một bên là một tên sát nhân, ví như nhân vật Raskolnikov . Sự phân đôi của con người được Dostoevsky phát hiện ra trong cơn ác mộng của Ivan Karamazov , trong cuộc nói chuyện của anh ta với con quỷ : “Mi là hiện thân của bản thân ta , nhưng cũng chỉ là một phương diện của ta những ý nghĩ và cảm xúc của ta , chỉ có điều đó là những thứ đáng ghê tởm và ngu ngốc nhất . Mi là chính ta,chính ta , chỉ với một bộ mặt khác . Mi không phải là tự bản thân mi , mi là ta,mi là ta , không có gì hơn . Mi là đồ tệ , mi là tưởng tượng hoang đường của ta”[1,tr 176]. Như vậy , có thể thấy Berdyaev đã dùng nhiều phạm trù của mình như cá biệt luận , tự do để diễn giải tư tưởng của Dostoevsky. Theo tôi , tư tưởng triết học về con người của Dostoevsky dưới diễn giải của Berdyaev là hết sức sắc sảo và toàn diện và qua đó thấy được tầm vóc đích thực của Dostoevsky cũng như tầm ảnh hưởng lớn lao của ông về sau đối với văn hóa tư tưởng nước Nga cũng như toàn nhân loại. Những sáng tạo , những tư tưởng của Dostoevsky là xuất phát từ đâu? Trên căn nền nào? Theo Berdyaev , cơ sở đó chính là người Nga , tầm hồn Nga bởi Berdyaev cho rằng chỉ có tâm hồn Nga mới thích hợp cho việc thực nghiệm khám phá bản chất tinh thần con người , đó là vì con người Nga không hướng tâm hồn mình về sự ổn định , về những giới hạn mà có khuynh hướng luôn hướng về cái vô hạn , rơi vào khủng hoảng và hư vô nên chỉ ở đó mới thích hợp để con người bộc lộ bản chất của mình .Vì vậy, tôi tiếp tục nghiên cứu về tư tưởng của Dostoevsky về người Nga mà chính Berdyaev diễn giải trong tác
  37. 36 phẩm này nhằm soi chiếu mối liên hệ với tư tưởng về con người của Dostoevsky được Berdyaev diễn giải trước đó. 2.2 Tư tưởng của Dostoevsky về người Nga dưới sự diễn giải của Berdyaev Theo Berdyaev , mọi thiên tài đều mang dân tộc tính trong mình và tính phổ quát ở trong tính dân tộc đó thì Dostoevsky là trường hợp tiêu biểu, đầy đủ tính cách Nga trong đó : “Dostoevsky là người Nga và nhà văn Nga cho đến tận chiều sâu . Không thể hình dung ông lại ở bên ngoài nước Nga được . Dựa vào ông có thể giải đoán tâm hồn Nga được ông còn là người tuyên xướng có ý thức ý tưởng Nga và ý thức dân tộc Nga nữa . Và ngay ở ông cũng phải ánh lại tất cả những nghịch thường và tất cả những bệnh hoạn của tình trạng tự ý thức dân tộc của chúng ta . Sự khiêm nhường Nga và thói tự cao tự đại , tính toàn nhân loại Nga và tính bản sắc dân tộc Nga có thể được khám phá ở Dostoevsky”[1,tr 257-258] Tâm hồn Nga là một điều đầy bí ẩn không dễ lý giải bởi nó không có giới hạn cố định nào cả , như nhà thơ F.Tiutchev đã từng cảm nhận về dân tộc mình : “Bằng trí óc không thể hiểu nước Nga Không thể đo bằng thước đo chung Nước Nga có dáng dấp đặc biệt Chỉ có thể tin vào nước Nga” Tính chất không giới hạn , không cố định, không định hình và đầy bí ẩn là những đặc trưng của nước Nga đã được Berdyaev nhiều lần đề cập : “Nước nga là một bình nguyên vĩ đại với những miền đất xa xăm vô hạn . Trên khuôn mặt của đất Nga không có hình thù rõ nét , không có những đường ranh giới . Trong cấu tạo của đất Nga không có tính phức tạp đa dạng của núi non và thung lũng , không có những đường giới hạn cho biết hình dạng của mỗi bộ phận . Khí chất Nga chảy tràn ra khắp bình nguyên , lúc nào nó cũng đi về nơi vô hạn . Và ở trong địa lí của đất Nga có sự tương đồng với địa lí của tâm hồn Nga . Mọi thứ bề ngoài bao giờ cũng chỉ là biểu hiện của cái bên trong , chỉ là biểu tượng của
  38. 37 tinh thần tất cả những tính chất ấy chỉ là biểu hiện của tính chất bình nguyên,tính chất không có bờ cạnh của tâm hồn Nga , chỉ là biểu hiện những miền đất xa xăm của tâm hồn ấy , tính tùy thuộc của nó theo khí chất của dân tộc không có định hình”[1, tr 260-261]. Có thể thấy , chính những tính chất này đã khiến cho tâm hồn Nga , người Nga không dễ hiểu được với người bên ngoài và với cả ngay chính bên trong họ . Sự không bờ cạnh , không giới hạn định hình khiến cho tính cách người Nga , dân tộc Nga trở thành một điều bí ẩn lớn của thế giới. Chính vì sự không định hình ấy mà nó gây ra nhiều khó khăn và hạn chế cho nước Nga : “Không đủ hình thức , yếu kém kỉ luật dẫn đến tình trạng con người Nga không có được bản năng chân chính cho tự bảo vệ , anh ta dễ dàng hủy hoại bản thân , tự thiêu cháy mình , tan thành tro bụi trong không gian Tâm hồn Nga có khả năng đi đến niềm hân hoan với sự tiêu vong . Nó ít trân trọng điều gì , ít gắn bó chặt chẽ với cái gì . Nó không có sự gắn kết với văn hóa , sự ràng buộc với truyền thống và truyền thuyết lịch sử như là ở tâm hồn Tây Âu. Con người Nga còn chưa biết được văn hóa thực sự , nên quá dễ dàng sống trong cơn khủng hoảng văn hóa. Từ đó mà chủ nghĩa hư vô là đặc trưng cho con người Nga. Anh ta dễ dàng chối bỏ khoa học và nghệ thuật , nhà nước và nền kinh tế , nổi loạn chống lại những mối liên kết được thừa kế và lao vào vương quốc của điều còn chưa biết”[1,tr 263]. Có thể thấy , chính điều này đã khiến cho văn hóa Nga không đạt được nhiều thành tựu và lịch sử Nga hay biến động gặp khủng hoảng : “Những người Nga , một khi họ thể hiện những nét đặc trưng độc đáo của mình, thì họ là những người tin vào tận thế và là những người hư vô . Điều này có nghĩa là họ không thể ở trong khoảng trung dung của cuộc sống linh hồn , ở trong khoảng trung dung của nền văn hóa , là tinh thần của họ hướng về kết cục và giới hạn tận cùng . Kết cấu linh hồn Nga là khó khăn nhất cho sáng tạo văn hóa, cho con đường lịch sử của nhân dân”[1,tr 26-27]. Sự đặc thù về mặt tâm
  39. 38 hồn này được Berdyaev nhìn nhận như một sự khó khăn khiến cho người Nga thiếu sự ổn định cần thiết cho việc sáng tạo văn hóa lâu dài. Để hình dung được những vấn đề của tinh thần Nga , Berdyaev đã phải đặt họ trong cái nhìn với những kiểu tinh thần giới hạn, đó là tinh thần của các nước châu Âu: “tâm hồn châu Âu quá định hình,quá phân tầng , quá bị ràng buộc ở trong các giới hạn và đường ranh giới , quá gắn bó với truyền thống và truyền thuyết của dòng tộc”[1, tr 264] “Và kết cấu của tinh thần Nga khác biệt sâu sắc với cấu trúc tinh thần Đức-người Đức là những nhà huyền học hay là những người theo chủ nghĩa phê phán , còn cấu trúc tinh thần Pháp-người Pháp là những người giáo điều hay là những người theo chủ nghĩa hoài nghi”[1, tr 27] Sự khác biệt như vậy giữa tâm hồn Nga và tâm hồn châu Âu khiến cho Dostoevsky chỉ có thể là nhà văn Nga bởi vì chỉ có tâm hồn Nga mới là chất liệu cho những khảo sát, những khám phá tinh thần của Dostoevsky. Ông khám phá những khả năng vô hạn của tâm hồn con người nên chỉ có thể phù hợp với tâm hồn mà họ thường xuyên hướng về cái vô hạn , đó là tâm hồn Nga còn tâm hồn châu Âu thì gắn với văn hóa và sự chai cứng của lí tính hẳn sẽ hạn chế cho những khảo sát thí nghiệm như thế. Nổi bật trong đặc trưng của tâm hồn Nga , đó là chủ nghĩa dân túy . Berdyaev viết : “chủ nghĩa dân túy là sản phẩn độc đáo của tâm hồn Nga. chủ nghĩa dân túy không có ở phương Tây đây là hiện tượng Nga thuần túy”. Theo Berlin , chủ nghĩa dân túy Nga không phải là tên gọi của một đảng phái riêng biệt nào , cũng không phải là một nội dung mạch lạc của một học thuyết nào mà là phong trào cấp tiến phổ biến rộng rãi ở Nga vào giữa thế kỷ XIX . Theo Berlin , biểu tượng của chủ nghĩa dân túy là lợi ích của nhân dân , thỏa mãn các nhu cầu của số đông hay như Macxim Gorki tuyên bố rằng Thượng Đế thực chất chính là nhân dân.Theo chúng tôi, ở thời điểm của Berdyaev có thể coi đó là hiện tượng thuần túy Nga song hiện nay nó đã lan ra trở thành hiện tượng phổ biến nhiều nơi trên thế giới đều có màu sắc của chủ nghĩa dân túy . Berdyaev phân tích những đặc
  40. 39 trưng của chủ nghĩa dân túy Nga : “Chủ nghĩa dân túy luôn là dấu hiệu sự yếu ớt của giai tầng văn hóa ở nước Nga , sự thiếu vắng ở nó một ý thức lành mạnh về sứ mệnh của mình , đứng đầu bởi sa hoàng , với sự kém phát triển của các giai cấp , với một giai tầng giai tầng văn hóa cao ít về số lượng và tương đối yếu ớt”[1,tr 265] Việc giai tầng văn hóa cao không có truyền thống vững chắc trong lịch sử Nga đã ảnh hưởng sâu sắc tới việc sáng tạo văn hóa của nước Nga . Họ luôn cảm thấy mình có khả năng bị nuốt chửng . Nhân dân được giới trí thức hình dung như một sức mạnh huyền bí,xa lạ và lôi cuốn . Họ không cảm thấy mình là một giai tầng có tính chất hữu cơ của đời sống Nga nên họ không đủ sức thừa nhận sứ mệnh văn hóa của mình ồđ ng thời nó còn hoài nghi giá trị tuyệt đối của văn hóa : “Văn hóa sinh ra trong trá ngụy , nó được mua bằng giá quá đắt Văn hóa là tội lỗi trước nhân dân,là xa rời nhân dân và lãng quên nhân dân , cái cảm giác tội lỗi ấy đeo đuổi giới trí thức Nga suốt thế kỷ XIX và huỷ hoại năng lượng sáng tạo văn hóa Điều này rất đặc trưng cho chủ nghĩa dân túy Nga . Người ta tìm kiếm sự thật không ở trong văn hóa , không ở trong những thành tựu khách quan của nó , mà ở trong nhân dân , ở trong cuộc sống hữu cơ tự phát”[1,tr 268] “Những thiên tài Nga vĩ đại nhất trên đỉnh cao đời sống tinh thần và sáng tạo văn hóa của mình đã không chịu đựng nổi thử thách chiều cao và tự do tinh thần trên núi , họ đã sợ hãi tình cảnh cô đơn của mình và lao xuống dưới , xuống vùng thấp của đời sống nhân dân và hy vọng hòa nhập với khí chất ấy sẽ lấy được sự thật cao nhất”[1,tr 272-273]. Như vậy, có thể thấy Berdyaev đã chỉ ra sự nguy hiểm và tác hại của chủ nghĩa dân túy Nga đối với nước Nga , điều mà ông luôn lưu tâm khi nghĩ về dân tộc mình , đất nước mình Theo Berdyaev , chủ nghĩa dân túy của Dostoevsky là một chủ nghĩa dân túy đặc biệt , ấy là chủ nghĩa dân túy mang tính tôn giáo . Dostoevsky có khuynh hướng cứu thế tôn giáo và đánh giá vị trí quan trọng của nước Nga trong khuynh hướng cứu thế ấy : “Dostoevsky đưa ra nhiệm vụ cứu rỗi toàn thể như vậy trước
  41. 40 nhân dân Nga , nhân dân mang theo Thượng Đế ở trong tim mình . Họ đã tin rằng nhân dân Nga là hiện thân kiểu cách cao nhất của văn hóa Kitô giáo”[1,tr 289] Ý thức cứu thế đầu tiên khởi thủy là từ nhân dân Do Thái cổ đại khi họ cho rằng mình là dân tộc được Chúa lựa chọn , trong nhân dân ấy có sứ mệnh cứu thế . Tuy nhiên , Cứu thế luận Do Thái dựa trên sự gần gũi đặc biệt và sự đồng nhất hóa ý thức tôn giáo với ý thức dân tộc . Khuynh hướng cứu thế của Dostoevsky đặc biệt xem trọng vị trí lịch sử của nước Nga, điều này được Soloviev khẳng định trong Ba diễn từ tưởng niệm Dostoevsky : “Có điều ông xem nước Nga là một dân tộc được Chúa trời tuyển trọn , nhưng được tuyển trọn không phải để kình địch với các dân tộc khác và không phải để thống trị và cầm đầu họ , mà để tự do phụng sự tất cả các dân tộc và để thực hiện , trong liên minh anh em với họ , một nhân loại toàn vẹn chân chính hay là Giáo hội hoàn vũ”[13,tr 98] Berdyaev cho rằng Dostoevsky là người phiêu lãng Nga , là người Nga đi chu du qua các thế giới tinh thần , ông đã hiểu và tôn trọng các giá trị của châu Âu chứ không như phái Slavơ phủ nhận cực đoan nhiều giá trị của văn hóa châu Âu tuy nhiên ông vẫn xem dân tộc Nga là dân tộc chứa đúng tinh thần Kitô giáo nhất : “vẫn Dostoevsky ấy , người cổ xúy cho con người nhân loại và kêu gọi hướng tới tinh thần thế giới , cũng tuyên truyền cho một chủ nghĩa dân tộc cuồng tín nhất , chà đạp người Ba Lan và Do Thái , phủ nhận ở phương Tây mọi quyền được trở thành thế giới Kitô giáo”[21, tr 205]. Theo chúng tôi , vấn đề này hàm chứ một vấn đề tôn giáo quan trọng , đó là dân tộc nào cũng muốn tôn giáo ở nơi mình là chính thống nhất , tốt đẹp nhất . Đây là vấn đề mà hiện nay cũng khó tránh được. Về tính cách con người Nga , Berdyaev khảo sát nhiều quan điểm trong đó có quan điểm của K.Leontiev : “con người Nga có thể là Thánh thiện , nhưng không thể là lương thiện . Lương thiện là đức hạnh trung dung , đức hạnh tư sản , mà những người tin vào tận thế và những kẻ hư vô thì không quan tâm đến
  42. 41 chuyện này”[1,tr 28]. Luận điểm này theo cảm nhận của chúng tôi là khá xác đáng bởi người Nga luôn mang đến cảm nhận rằng họ vô cùng tuyệt vời , họ giúp đỡ hết mình mà không tính toán, không sợ phiền hà Berdyaev cũng đã viết về con người Nga với cả mặt trái của nó : “Nó ước muốn sự thánh thiện trong cuộc sống tuyệt đối và chỉ có sự thánh thiện quyến rũ nó,nhưng lại sẵn sàng sống chung với bẩn thỉu và thấp kém trong cuộc sống tương đối . vì thế nước Nga thánh thiện luôn luôn có mặt trái của mình là nước Nga dã man Tính thánh thiện tuyệt trần và sự thấp kém dã thú - đó là những dao động vĩnh cửu của dân tộc Nga mà những dân tộc phương Tây trung bình hơn không biết đến . Con người Nga say mê chất thánh thiện,nhưng nó cũng say mê tội lỗi , sự thấp hèn.Tính tội lỗi khiêm nhường , không dám vươn quá cao , thật đặc trưng cho tính tôn giáo Nga”[21,tr 217]. Luận điểm này của Berdyaev là hết sức sâu sắc , nó giúp ta hiểu được tại sao người Nga có thể rất thánh thiện song lại phạm phải những lỗi lầm bất ngờ không nên có ở một người thấp hèn. Theo Berdyaev , dân tộc Nga còn có một đặc điểm nổi bật , đó là trạng thái tự cảm nhận , tự ý thức mà nó thể hiện đậm nét trong các tác phẩm của Dostoevsky : “Trong thái độ của ông đối với châu Âu toát ra tính toàn nhân loại của tinh thần Nga , khả năng của con người Nga có thể trải nghiệm đồng cảm tất cả những điều vĩ đại trên thế giới . Nhưng ông lại phủ nhận nhân dân châu Âu là các nhân dân Kitô giáo,ông tuyên án tử hình cho châu Âu Trạng thái tự cảm nhận và tự ý thức dân tộc Nga bao giờ cũng là vậy , trong đó hoặc là phủ nhận một cách mê dại tất cả tính chất Nga và thực hiện việc chối bỏ tổ quốc cùng nền tảng quê hương , hoặc là khẳng định một cách mê dại tất cả các tính chất Nga đều độc đáo và khi đó tất cả các nhân dân khác trên thế giới đều thuộc chủng tộc thấp kém hơn . Trong ý thức dân tộc của chúng ta chưa bao giờ có được sự chừng mực,chưa bao giờ có được sự tự tin và vững chãi thật điềm tĩnh để không có kích động giả tạo và cơn động kinh”[1,tr 259]. Như vậy , có thể thấy tâm hồn Nga có khả năng trải nghiệm đồng cảm với những giá trị phổ quát của nhân loại rất cao song nó cũng hay dẫn tới trạng thái ngược lại đó là khẳng định những
  43. 42 đặc điểm tính cách Nga đều là ưu việt và phổ quát , coi thường các giá trị khác . Điều này cho thấy những vấn đề trong tâm hồn Nga luôn phức tạp và di chuyển từ cực này sang cực khác , từ mặt tốt sang mặt xấu rất nhanh. TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 Tác phẩm “Thế giới quan của Dostoevsky” hàm chứa nhiều ý tưởng mới mẻ và sâu sắc về con người và nước Nga mà trước đó còn chưa được thấu hiểu , như những mâu thuẫn trong bản tính người của Dostoevsky. Con người ở nơi ông là một con người của kỷ nguyên mới , kỷ nguyên của những ngọn lửa sôi sục trong tâm hồn con người . Ở đó con người được tự do thoát khỏi mọi ràng buộc như pháp luật , văn hóa, gia đình để tìm thấy bản diện cá nhân đích thực của mình ở trong Thượng Đế . Ở trên con đường đó đầy thử thách và bi kịch, cần có sự dũng cảm . Lúc đó bản diện cá nhân của con người bị phân đôi , cái ác xuất hiện làm con người đau khổ giày vò trong tội lỗi xong đó là phẩm giá của con người ở trong tự do và cái ác phải bị thiêu hủy trong địa ngục của lò lửa tinh thần chứ không phải cái ác bị xóa bỏ để đồng nhất với điều thiện . Dostoevsky là một nhà văn mang đầy tinh thần dân tộc Nga , trong ông thể hiện đầy đủ những phẩm chất của con người Nga như ham muốn tự do vô hạn nên thiếu kỷ luật nề nếp, đề cao đời sống tinh thần hơn vật chất, coi trọng tự nhiên hơn văn hóa, thiếu sự tự tin nên hay có khuynh hướng hư vô chủ nghĩa , yêu mến Kitô giáo nên đề cao vị trí của dân tộc mình như là dân tộc dẫn dắt nhân loại Có thể thấy
  44. 43 , Berdyaev đã có một quá trình suy nghĩ chín muồi trong rất nhiều năm để có thể thấu hiểu Dostoevsky , một bậc tiền bối và một thiên tài của dân tộc mình , một người mà luôn là cảm hứng tư tưởng cho ông trong sự nghiệp sáng tạo của mình.
  45. 44 KẾT LUẬN Sau khi nghiên cứu tác phẩm “Thế giới quan của Dostoevsky”, chúng tôi có một số những kết luận sau: Thứ nhất , tác phẩm giúp chúng tôi hiểu sâu hơn về Dostoevsky với tư cách là một nhà tư tưởng lớn của nhân loại . Dostoevsky trước đó trong sự hiểu biết của chúng tôi là một nhà văn đầy hiện thực không ngần ngại phơi bày bản chất xấu xa của con người , chỉ ra những mâu thuẫn của bản tính người , chỉ ra những cái phi lí mà lí tính không giải quyết được . Bây giờ, trong hình dung của chúng tôi Dostoevsky là ộm t nhà văn vĩ đại , một người đã khám phá ra bản chất sâu xa cuối cùng , bản chất vô hạn của tinh thần con người , một nhà văn đề cao bản diện cá nhân và tự do của con người đồng thời cũng là một người thấm đẫm tinh thần Kitô giáo , khai mở một kỷ nguyên mới của Kitô giáo . Những diễn giải của Berdyaev là có logic chặt chẽ , giàu sức thuyết phục đồng thời cũng cho thấy những tư tưởng của chính ông ở trong đó Thứ hai , nghiên cứu của chúng tôi đã phân tích những nội dung cơ bản của tác phẩm , góp phần mở rộng thêm những cách tiếp cận về Dostoevsky ở Việt Nam, giúp soi ọr i Dostoevsky từ một chiều kích mới , có thể gọi đó là nhân học triết học cá biệt luận. Thứ ba , chúng tôi thấy rằng tác phẩm mang một hàm nghĩa lớn đó là phải kết hợp Dostoevsky và tinh thần nước Nga , con người Nga . Hai chủ đề là một điều kết hợp quan trọng đã góp phần soi sáng cho nhau , từ nước Nga nhìn về Dostoevsky và từ Dostoevsky nhìn vào nước Nga. Thứ tư , Kitô giáo là một tôn giáo có số tín đồ cao nhất toàn cầu . Trong tác phẩm cũng như nghiên cứu của chúng tôi đã chỉ rõ sự khác nhau giữa các tinh thần Kitô giáo của các dân tộc . Qua Dostoevsky, chúng tôi hiểu về lịch sử cũng như tầm vóc của tư tưởng Kitô giáo ở một tầm mới . Tư tưởng Kitô giáo mang nhiều tính chất phổ quát của nhân loại và có cái nhìn đầy sâu sắc về bản chất con người
  46. 45 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. N.A.Berdyaev(2017), “Thế giới quan của Dostoevsky”, Nxb Tri thức, Hà Nội 2. N.A.Berdyaev(2017), “Con người trong thế giới tinh thần”, Nxb Tri thức, Hà Nội 3. N.A.Berdyaev(2017) , “Triết học của tự do”, Nxb Tri thức, Hà Nội 4. F.Dostoevsky(2013), “Anh em nhà Karamazov’, Nxb Văn học , Hà Nội 5. F.Dostoevsky(2010), “Tội ác và hình phạt”, Nxb Văn học, Hà Nội 6. F.Dostoevsky(2016), “Đầu xanh tuổi trẻ’, Nxb Thế giới, Hà Nội 7. F.Dostoevsky(2017), “Ghi chép dưới hầm”, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội 8. F.Dostoevsky(2000), “Lũ người quỷ ám”, Nxb Văn học, Hà Nội 9. F.Dostoevsky(2015), “Là bóng hay là hình”,Nxb văn học , Hà Nội 10. Đỗ Hồng Chương và nhiều tác giả(2010), “Lịch sử văn học Nga”, Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội 11. Đỗ Lai Thúy biên soạn và giới thiệu(2007), “Phân tâm học và tính cách dân tộc”, Nxb Tri thức, Hà Nội 12. Phạm Vĩnh Cư(2007), “Sáng tạo và giao lưu”, Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội 13. V.Soloviev(2011), “Siêu lý tình yêu tập 3”, Nxb Tri thức, Hà Nội 14. Nguyễn Thanh, Đỗ Minh Hợp, Nguyễn Anh Tuấn(2008), “Đại cương lịch sử triết học phương Tây hiện đại”, Nxb Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh, tp HCM 15. Nguyễn Vũ Hảo (chủ biên)(2018), “Giáo trình triết học phương tây hiện đại”, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội 16. S.L.Frank(2017), “Ánh sáng trong bóng tối”, Nxb Tri thức, Hà Nội
  47. 46 17. Nguyễn Văn Trọng(2015), “Những ghi chép về quyền tự do lựa chọn”, Nxb Tri thức, Hà Nội 18. V.M.Mezhuev(2012), “Tư tưởng văn hóa”,Nxb Chính trị quốc gia-sự thật, Hà Nội 19. Albert Camus(2018), “Thần thoại Sisyphus”, Nxb Trẻ, tp HCM 20. Claudio Margis(2006), “Không tưởng và thức tỉnh”, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội 21.N.Berdyaev(2003), phần “Tâm hồn Nga-Nước Nga” trang 199-237 trong Tạp chí văn học nước ngoài 6/2003, Hà Nội 22.M.Bakhtin(1998), “Những vấn đề thi pháp Đôxtôievxki”, Nxb Giáo dục, Hà Nội 23. Stefan Zweig(1996), “Ba bậc thầy Đôxtôievxki-Balzac-Đickenx”, Nxb Giáo dục, Hà Nội 24.Trần Thị Thanh Thủy(2009), “Motip Kitô giáo trong tác phẩm Anh em nhà Karamazov của F.Dostoevsky”, Đại học quốc gia Hà Nội