Khóa luận Đạo đức Phật giáo và vai trò của nó đối với việc giáo dục đạo đức cho thanh niên Việt Nam hiện nay

pdf 92 trang thiennha21 15/04/2022 4181
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Đạo đức Phật giáo và vai trò của nó đối với việc giáo dục đạo đức cho thanh niên Việt Nam hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfkhoa_luan_dao_duc_phat_giao_va_vai_tro_cua_no_doi_voi_viec_g.pdf

Nội dung text: Khóa luận Đạo đức Phật giáo và vai trò của nó đối với việc giáo dục đạo đức cho thanh niên Việt Nam hiện nay

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN KHOA TRIẾT HỌC NGUYỄN THỊ THƯ ĐẠO ĐỨC PHẬT GIÁO VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ ĐỐI VỚI VIỆC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO THANH NIÊN VIỆT NAM HIỆN NAY KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC NGÀNH TRIẾT HỌC Hệ đào tạo: Chính quy Khóa học: QH-2015-X NGƯỜI HƯỚNG DẪN: PGS. TS. Đặng Thị Lan HÀ NỘI, 2019
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN KHOA TRIẾT HỌC NGUYỄN THỊ THƯ ĐẠO ĐỨC PHẬT GIÁO VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ ĐỐI VỚI VIỆC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO THANH NIÊN VIỆT NAM HIỆN NAY KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC NGÀNH TRIẾT HỌC Hệ đào tạo: Chính quy Khóa học: QH-2015-X NGƯỜI HƯỚNG DẪN: PGS. TS. Đặng Thị Lan HÀ NỘI, 2019
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan khóa luận này là kết quả nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng dẫn của PGS. TS Đặng Thị Lan. Các kết quả nghiên cứu trong khóa luận là hoàn toàn trung thực, đảm bảo tính khách quan. Các tài liệu tham khảo có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng. Tôi xin chịu trách nhiệm về khóa luận của mình. Hà Nội, ngày 28 tháng 4 năm 2019 Tác giả Nguyễn Thị Thư
  4. LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành chương trình đại học và viết Khóa luận tốt nghiệp này, tôi xin chân thành gửi lời cảm ơn tới các thầy, cô giáo Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, đặc biệt là các thầy, cô khoa Triết học – những người dạy dỗ, chỉ bảo và trang bị cho tôi những kiến thức bổ ích trong suốt 4 năm học vừa qua. Đặc biệt, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới PGS. TS. Đặng Thị Lan, người đã dành rất nhiều tâm huyết và thời gian hướng dẫn tôi hoàn thành khóa luận này. Mặc dù tôi đã có nhiều cố gắng xong khóa luận không thể tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy, tôi rất mong nhận được những đóng góp quý báu của quý thầy, cô và các bạ để khóa luận của tôi được hoàn thiện hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, ngày 28 tháng 4 năm 2019 Sinh viên Nguyễn Thị Thư
  5. MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 NỘI DUNG 9 CHƯƠNG 1: ĐẠO ĐỨC PHẬT GIÁO VÀ NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA ĐẠO ĐỨC PHẬT 9 1.1. Đạo đức Phật giáo và vị trí của đạo đức Phật giáo trong hệ tư tưởng Phật giáo. 9 1.1.1. Khái niệm đạo đức Phật giáo 9 1.1.2. Vị trí của đạo đức Phật giáo trong hệ tư tưởng Phật giáo 14 1.2. Những nội dung cơ bản của đạo đức Phật giáo 16 1.2.1. Quan niệm về Thiện – Ác, Từ bi 16 1.2.2. Quan niệm về Ngũ giới 20 1.2.3. Quan niệm về thuyết Nhân quả, Luân hồi, Nghiệp báo 29 1.3. Đánh giá chung về đạo đức Phật giáo 35 1.3.1. Giá trị của đạo đức Phật giáo 35 1.3.2. Hạn chế của đạo đức Phật giáo 37 CHƯƠNG 2: VAI TRÒ CỦA ĐẠO ĐỨC PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI VIỆC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO THANH NIÊN VIỆT NAM HIỆN NAY 40 2.1. Vài nét về thực trạng đạo đức thanh niên Việt Nam hiện nay và những vấn đề đặt ra. 40 2.1.1. Khái niệm thanh niên và vai trò của thanh niên đối với xã hội 40 2.1.2. Vài nét về thực trạng đạo đức của thanh niên Việt Nam hiện nay và những yêu cầu đặt ra đối với việc giáo dục đạo đức thanh niên Việt Nam hiện nay. 43 2.2. Một số vai trò chủ yếu của đạo đức Phật giáo đối với việc giáo dục đạo đức cho thanh niên Việt Nam hiện nay 50
  6. 2.2.1. Đạo đức Phật giáo góp phần hình thành ý thức đạo đức tích cực cho thanh niên Việt Nam. 50 2.2.2. Đạo đức Phật giáo góp phần điều chỉnh hành vi đạo đức cho thanh niên Việt Nam 56 2.3. Một số khuyến nghị nhằm phát huy vai trò của đạo đức Phật giáo đối với giáo dục đạo đức cho thanh niên Việt Nam hiện nay 63 2.3.1. Nâng cao hiểu biết, nhận thức của xã hội về vai trò của đạo đức Phật giáo trong việc giáo dục đạo đức cho thanh niên Việt Nam hiện nay. 63 2.3.2. Hoàn thiện cơ chế pháp lý và tăng cường công tác quản lý đối với các hoạt động và tổ chức của tôn giáo nói chung và Phật giáo nói riêng. . 64 2.3.3. Tăng cường vai trò của các tổ chức, chức sắc Phật giáo trong công tác tuyên truyền những giá trị của đạo đức Phật giáo đến với thanh niên Việt Nam hiện nay. 66 2.3.4. Khuyến khích thanh niên tự giác tìm hiểu và tiếp thu các giá trị tốt đẹp của đạo đức Phật giáo. 67 KẾT LUẬN 70 PHỤ LỤC 73 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 83
  7. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Phật giáo là một tôn giáo lớn ra đời ở Ấn Độ vào thế kỉ VI trước công nguyên và được du nhập vào Việt Nam khoảng đầu công nguyên. Là một học thuyết có tính triết học sâu sắc cùng giá trị nhân văn cao cả, Phật giáo đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong công cuộc dựng nước và giữ nước. Ngay từ khi du nhập vào Việt Nam, với những tư tưởng giáo lý gần gũi, Phật giáo đã nhanh chóng hòa hợp với tín ngưỡng bản địa, với những nguyện vọng, ước mơ của người lao động và hội nhập với văn hóa Việt Nam. Phật giáo đã thấm sâu vào trong dân chúng, tồn tại và phát triển qua nhiều đời, nhiều thế hệ và được đông đảo nhân dân Việt Nam tiếp nhận với thái độ cởi mở. Trải qua gần 2000 năm gắn bó, đồng hành cùng dân tộc, Phật giáo luôn chứng tỏ được vị thế của mình và để lại dấu ấn sâu sắc trong đời sống tâm linh, văn hóa, đạo đức của con người Việt Nam. Những triết lý nhân sinh cùng với những giá trị đạo đức cao cả của Phật giáo đã có tác động không nhỏ đến đạo đức của người Việt, luôn hướng họ đến cái thiện, cái tốt đẹp với tinh thần “từ, bi, hỉ, xả”, “vô ngã”, “vị tha”. Cho đến ngày nay, Phật giáo nói chung và hệ thống đạo đức cùng với các chuẩn mực đạo đức Phật giáo nói riêng vẫn phát huy được những giá trị tích cực, hòa nhập với nền đạo đức, văn hóa hiện đại của dân tộc Việt Nam và được nhiều người tin theo. Như Đảng và Nhà nước ta đã khẳng định: “Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu và quyền lợi tinh thần của một bộ phận nhân dân, nó còn tồn tại lâu dài và chi phối đời sống tinh thần văn hóa của một bộ phận dân chúng, trong đó có những giá trị đạo đức phù hợp với lợi ích của toàn dân, với công cuộc xã hội mới” [3,67]. Từ năm 1986, Việt Nam bắt tay vào công cuộc đổi mới đất nước. Dưới những tác động mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và xu hướng hội nhập quốc tế, nước ta đã đạt được những 1
  8. thành tựu to lớn về kinh tế, từng bước ổn định và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân. Tuy nhiên, cũng không thể phủ nhận được một thực trạng mà chúng ta đang phải đối mặt, đó là sự xuống cấp trầm trọng của nền đạo đức xã hội: nạn tham nhũng, buôn lậu có xu hướng phát triển, xuất hiện nhiều tệ nạn xã hội, lối sống thực dụng và các hành vi phạm đạo đức, pháp luật ngày càng gia tăng đang dần hủy hoải những giá trị thuần phong mỹ tục của dân tộc. Một bộ phận không nhỏ thanh niên sống không có lý tưởng, sa ngã vào con đường ăn chơi, hưởng thụ. Đối với nước ta, thanh niên được coi là lực lượng quan trọng, đóng vai trò to lớn đối với sự thành công của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đây là lớp người năng động, dễ tiếp thu, đón nhận cái mới trong xã hội, họ cũng là tầng lớp chịu ảnh hưởng lớn trước những điều kiện kinh tế - xã hội mới, của cơ chế thị trường và việc mở rộng giao lưu, quan hệ, hợp tác quốc tế. Vì thế, vấn đề xây dựng đạo đức, lối sống cho thanh niên Việt Nam hiện nay đã không chỉ là nhiệm vụ riêng của ngành giáo dục mà nhiều cấp, nhiều ngành cũng đều hết sức quan tâm.Tại Đại hội X, Đảng đã chỉ ra việc phải kế thừa, phát huy và phát triển giá trị văn hóa trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế: “Xây dựng và hoàn thiện giá trị, nhân cách con người Việt Nam, bảo vệ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập kinh tế quốc tế. Bồi dưỡng các giá trị văn hóa trong thanh niên, học sinh, sinh viên, đặc biệt là lý tưởng sống, lối sống năng lực trí tuệ, đạo đức và bản lĩnh văn hóa con người Việt Nam” [15, 106]. Ở đây, những giá trị truyền thống, trong đó phải kể đến những giá trị đạo đức dân tộc, đặc biệt là đạo đức Phật giáo sẽ trở thành nền tảng vững chắc cho sự hình thành và phát triển toàn diện con người Việt Nam, đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng đạo đức mới cho thanh niên Việt Nam. Tinh thần từ bi, hướng thiện chính là một trong những nguồn gốc của chủ nghĩa nhân văn; tư tưởng bình đẳng, hòa bình của Phật giáo phù hợp với xu hướng hội nhập cùng phát triển hiện nay của các quốc gia trên thế giới. Chính vì thế, việc kế 2
  9. thừa, phát huy và có những biện pháp cụ thể nhằm truyền tải các giá trị, nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức Phật giáo đến với thanh niên sẽ góp phần không nhỏ vào công cuộc xây dựng nền đạo đức mới ở Việt Nam. Có thể thấy, việc khai thác và phát triển các yếu tố của đạo đức Phật giáo, đồng thời, hạn chế những tác động tiêu cực của nó để giáo dục đạo đức cho thanh niên Việt Nam hiện nay là điều rất cần thiết. Xuất phát từ yêu cầu lý luận và thực tiễn đó, tác giả đã lựa chọn đề tài “ Đạo đức Phật giáo và vai trò của nó đối với việc giáo dục đạo đức cho thanh niên Việt Nam hiện nay” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Phật giáo được truyền vào Việt Nam từ đầu công nguyên, trải qua gần 2000 năm đồng hành cùng dân tộc. Phật giáo đã để lại nhiều dấu ấn sâu sắc trong đời sống tâm linh, văn hóa, đạo đức của con người Việt Nam. Chính vì vậy, nghiên cứu Phật giáo luôn thu hút được sự quan tâm của nhiều học giả và giới lý luận. Cho đến nay, ở nước ta đã có rất nhiều công trình nghiên cứu Phật giáo dưới những góc độ khác nhau. Có thể tóm lược thành những hướng nghiên cứu cơ bản sau: 2.1. Những công trình nghiên cứu, tìm hiểu Phật giáo Việt Nam nói chung. Bộ sách: “Việt Nam Phật giáo sử luận” (3 tập, 1994, Nhà xuất bản Văn học) của Nguyễn Lang và cuốn “Lịch sử Phật giáo Việt Nam” (3 tập, 1999, Nhà xuất bản thành phố Hồ Chí Minh) của Lê Mạnh Thát đã khái quát một cách toàn diện sự phát triển Phật giáo Việt Nam theo từng giai đoạn. Đây là những tư liệu có giá trị đã khảo cứu Phật giáo Việt Nam một cách hệ thống, trong đó có nhiều phần viết về vai trò của Phật giáo đối với đời sống văn hoá tinh thần của dân tộc. Các cuốn sách: “Việt Nam Phật giáo sử lược” (1943, Nhà xuất bản Hội Tăng Ni Bắc Việt) của Hoà thượng Thích Mật Thể và “Lịch sử Phật giáo Việt Nam” (1988, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội) do tác giả Nguyễn Tài Thư chủ biên đã hệ thống hoá lịch sử Phật giáo Việt Nam từ khi du nhập đến 3
  10. thế kỷ XX. Các tác giả đã chỉ rõ Phật giáo đến Việt Nam bằng nhiều con đường khác nhau, vào các thời điểm khác nhau từ đầu Công nguyên cho đến thế kỷ XVI. Cuốn “Tư tưởng Phật giáo Việt Nam” (1999, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội) của tác giả Nguyễn Duy Hinh có nội dung bước đầu tìm hiểu hệ thống hóa tư liệu nội dung tư tưởng Phật giáo Việt Nam, nghiên cứu tư tưởng Phật giáo Việt Nam qua đó làm rõ đặc điểm Phật giáo Việt Nam với tư cách là một sản phẩm tôn giáo được hình thành trên cơ sở tín ngưỡng, tâm linh cư dân bản địa có tiếp thu tôn giáo ngoại nhập. 2.2. Những công trình nghiên cứu về đạo đức Phật giáo Cuốn sách “Đạo đức học Phật giáo” của Giáo hội Phật giáo Việt Nam do Hòa thượng Thích Minh Châu chủ biên, được Nhà xuất bản Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam ấn hành năm 1995 bao gồm các bài viết của nhiều tác giả, hầu hết những bài viết này đều đã được phát biểu tại các hội thảo khoa học do Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam tổ chức vào năm 1993. Nội dung cuốn sách nêu bật được những nét cơ bản về đạo đức học Phật giáo, từ đó thấy được tầm quan trọng của việc bảo tồn và phát huy những giá trị của đạo đức Phật giáo trong việc giữ gìn truyền thống văn hóa của dân tộc. Tác giả Đặng Thị Lan với công trình “Đạo đức Phật giáo với đạo đức con người Việt Nam”, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia, Hà Nội, 2006 đã đề cập đến những vấn đề trọng tâm của đạo đức Phật giáo và ảnh hưởng của đạo đức Phật giáo trong việc xây dựng nền tảng đạo đức xã hội, đồng thời đưa ra những giải pháp nhằm phát huy các mặt tích cực và hạn chế những mặt tiêu cực của đạo đức Phật giáo, vận dụng những giá trị tốt đẹp của đạo đức Phật giáo trong việc hoàn thiện đạo đức, nhân cách con người Việt Nam ở bối cảnh phát triển nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế hiện nay. 2.3. Những công trình nghiên cứu về ảnh hưởng đạo đức Phật giáo đến đạo đức con người Việt Nam và thanh niên Việt Nam 4
  11. Hướng nghiên cứu này có các tác phẩm chủ yếu sau: “Tìm về bản sắc văn hoá Việt Nam”của Trần Ngọc Thêm, Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh (1997); “Văn hoá Phật giáo và lối sống của người Việt ở châu thổ Bắc Bộ” của Nguyễn Thị Bảy, Nhà xuất bản Thông tin, Hà Nội (1997); “Phật giáo với văn hoá Việt Nam” của Nguyễn Đăng Duy, Nhà xuất bản Hà Nội (1999) Ngoài các công trình khoa học trên còn có rất nhiều bài viết đăng trên tạp chí thuộc các ngành khoa học xã hội về đạo đức như: Đặng Hữu Toàn “Hướng các giá trị truyền thống theo hệ chuẩn giá trị chân - thiện - mỹ trong bối cảnh toàn cầu hoá và phát triển kinh tế thị trường”(Tạp chí triết học, số 4 – 2001, tr.27- 32); tác giả Trần Nguyên Việt với “Giá trị đạo đức truyền thống Việt Nam và cái phổ biến toàn nhân loại của đạo đức trong nền kinh tế thị trường”(Tạp chí triết học, số 5 – 2002, tr.20 - 25) . Cuốn “Phật giáo và sự hình thành nhân cách con người Việt Nam hiện nay” của Nguyễn Tài Thư (Tạp chí triết học số 4/1993); “Đạo đức Phật giáo với kinh tế thị trường” của tác giả Hoàng Thơ (Tạp chí triết học số 7/ 2002). Về ảnh hưởng của Phật giáo đến đời sống đạo đức xã hội cũng có nhiều công trình luận án đã nghiên cứu. Tiêu biểu như công trình nghiên cứu của tác giả Tạ Chí Hồng với “Ảnh hưởng của Đạo đức Phật giáo đối với đời sống đạo đức của xã hội Việt Nam hiện nay” (Luận án Tiến sĩ triết học, năm 2003). Luận án đã nhận định vị trí của vấn đề đạo đức trong tư tưởng Phật giáo, nội dung, đặc điểm, nếp sống và giá trị đạo đức Phật giáo, sự dung hợp giữa đạo đức Phật giáo với đạo lý Việt Nam, sự ảnh hưởng của đạo đức Phật giáo đối với đời sống đạo đức ở Việt Nam hiện nay và những giải pháp chủ yếu định hướng đối với những ảnh hưởng của Phật giáo. Luận án Tiến sĩ “Đạo đức Phật giáo với công tác giáo dục thanh thiếu niên tín đồ Phật giáo Thừa Thiên Huế hiện nay” của Ngô Văn Trân bảo vệ tại Học viện Khoa học Xã hội Việt Nam (2012), đã đề cập khá sâu về đạo đức Phật giáo, chỉ ra nhân sinh quan tiến bộ và độc đáo của đạo đức Phật giáo. 5
  12. Đồng thời, luận án giới thiệu mô hình “Gia đình Phật tử” - một mô hình giáo dục thanh thiếu niên tín đồ Phật giáo tại Huế, các chủ thể khác tham gia giáo dục thanh thiếu niên tín đồ Phật giáo Huế và những giải pháp nhằm phát huy đạo đức Phật giáo thông qua gia đình Phật tử trong công tác giáo dục thanh thiếu niên Phật tử ở Huế. Nhìn chung, các công trình nghiên cứu đã nêu trên đã mang lại một cái nhìn khá toàn diện về lịch sử Phật giáo Việt Nam và ảnh hưởng của đạo đức Phật giáo trong mọi mặt của đời sống, đối với xã hội nói chung và thanh niên Việt Nam nói riêng. Tuy nhiên, vấn đề “Đạo đức Phật giáo và vai trò của nó đối với việc giáo dục đạo đức cho thanh niên Việt Nam hiện nay” còn ít công trình nghiên cứu một cách hệ thống. Chính vì thế, tác giả mong muốn có một số đóng góp nhất định trong việc phân tích, làm rõ nội dung của đạo đức Phật giáo và vai trò của nó đối với việc giáo dục đạo đức cho thanh niên Việt Nam hiện nay. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở phân tích những nội dung cơ bản của đạo đức Phật giáo, khóa luận làm rõ vai trò của đạo đức Phật giáo đối với việc giáo dục đạo đức cho thanh niên Việt Nam hiện nay, qua đó đưa ra một số khuyến nghị nhằm phát huy vai trò của đạo đức Phật giáo đối với việc giáo dục đạo đức cho thanh niên Việt Nam hiện nay. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để thực hiện được các mục tiêu trên, khóa luận thưc hiện các nhiệm vụ sau: + Thứ nhất: Trình bày khái niệm đạo đức Phật giáo và những nội dung cơ bản của đạo đức Phật giáo. + Thứ hai: Trình bày vài nét về thực trạng đạo đức thanh niên Việt Nam hiện nay và những vấn đề đặt ra đối với việc giáo dục đạo đức thanh niên. 6
  13. +Thứ ba: Phân tích vai trò của đạo đức Phật giáo đối với việc giáo dục đạo đức thanh niên Việt Nam hiện nay. + Thứ tư: Đề xuất một số khuyến nghị nhằm phát huy những vai trò của đạo đức Phật giáo đối với việc giáo dục đạo đức thanh niên Việt Nam hiện nay. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là đạo đức Phật giáo và vai trò của nó đối với việc giáo dục đạo đức cho thanh niên Việt Nam. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Khóa luận tập trung nghiên cứu những giáo lý, giới luật cơ bản của Phật giáo thể hiện nội dung đạo đức, ảnh hưởng của đạo đức Phật giáo đến đạo đức thanh niên. - Về mặt thời gian: Khóa luận tập trung nghiên cứu ảnh hưởng của đạo đức Phật giáo đối với việc giáo dục đạo đức thanh niên Việt Nam kể từ khi đất nước bắt đầu quá trình đổi mới đến nay (từ 1986 đến nay). 5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Khóa luận dựa trên quan điểm triết học Mác – Lênin về tôn giáo, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về tôn giáo nói chung và Phật giáo nói riêng; những quan điểm đổi mới nhận thức về tôn giáo và những chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước từ khi đất nước đổi mới; sự cần thiết vận dụng, phát huy giá trị văn hóa, đạo đức của tôn giáo vào trong đời sống. 5.2. Cơ sở thực tiễn Cơ sở thực tiễn của khóa luận là quá trình tồn tại, phát triển lâu dài của Phật giáo ở Việt Nam và ảnh hưởng của Phật giáo đến đời sống văn hóa tinh thần của dân tộc nói chung cũng như đối với đạo đức con người nói riêng và đặc biệt là thanh niên. 7
  14. 5.3. Phương pháp nghiên cứu Khóa luận sử dụng phương pháp nghiên cứu của Chủ nghĩa duy vật biện chứng và Chủ nghĩa duy vật lịch sử như: phân tích, tổng hợp, diễn dịch, quy nạp, logic - lịch sử, khái quát hóa, đối chiếu, so sánh 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của khóa luận - Khóa luận góp phần làm rõ những nội dung cơ bản của đạo đức Phật giáo và vai trò của đạo đức Phật giáo đối với việc giáo dục đạo đức cho thanh niên Việt Nam hiện nay. - Khóa luận có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, tìm hiểu và giảng dạy những vấn đề có liên quan đến Phật giáo, đạo đức Phật giáo, góp thêm cơ sở để đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao đạo đức cho thanh niên Việt Nam trong bối cảnh hiện nay. 7. Kết cấu của khóa luận Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận gồm 2 chương, 5 tiết. 8
  15. NỘI DUNG CHƯƠNG 1: ĐẠO ĐỨC PHẬT GIÁO VÀ NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA ĐẠO ĐỨC PHẬT 1.1. Đạo đức Phật giáo và vị trí của đạo đức Phật giáo trong hệ tư tưởng Phật giáo. 1.1.1. Khái niệm đạo đức Phật giáo 1.1.1.1. Khái niệm đạo đức Đạo đức là gì ? Có lẽ, câu hỏi này đặt ra khó có thể trả lời một cách vắn tắt và ngắn gọn được. Bởi lẽ đạo đức xuất hiện từ rất sớm, cùng với sự hình thành của xã hội loài người và sẽ không bao giờ biến mất nếu như con người vẫn còn tồn tại. Chính vì thế, khái niệm đạo đức là gì, nguồn gốc của đạo đức, các yếu tố cấu thành của đạo đức hay những biểu hiện của đạo đức như thế nào luôn là những vấn đề được nhiều học giả quan tâm và cũng đã có rất nhiều quan niệm khác nhau khi giải quyết các vấn đề đó. Trước hết, chúng ta cần tìm hiểu khái niệm đạo đức là gì? Theo Từ điển Tiếng Việt, Nhà xuất bản Đà Nẵng, 1997, “đạo đức” được giải thích theo hai nghĩa như sau: 1. Những tiêu chuẩn, nguyên tắc được dư luận xã hội thừa nhận, quy định hành vi, quan hệ của con người đối với nhau và đối với xã hội. 2. Phẩm chất tốt đẹp của con người do tu dưỡng theo những tiêu chẩn đạo đức mà có. Trong chữ Hán, từ đạo đức được chú giải: “nguyên lý tự nhiên là đạo, được vào trong lòng người là đức. Cái lượng pháp người ta nên noi theo (morale, vertu)”. Trong tiếng La tinh, đạo đức là moralitas, có nghĩa là thái độ, tính cách, ứng xử là sự khác biệt của ý định, quyết định, hành động giữa những cái tốt hoặc đúng và giữa những cái xấu và cái sai. Ở phương Đông, đạo đức là một trong những phạm trù quan trọng nhất của triết học Trung Hoa cổ đại. Đạo được hiểu là con đường sống của con 9
  16. người, về sau khái niệm đạo đức được vận dụng trong triết học để chỉ con đường của tự nhiên. Đức dùng để nói đến nhân đức, đức tính và là biểu hiện của đạo, là đạo nghĩa, là nguyên tắc luân lý. Như vậy có thể nói đạo đức của người Trung Hoa cổ đại chính là những yêu cầu, những nguyên tắc do cuộc sống đặt ra mà mỗi người phải tuân theo. Ở phương Tây, ngay từ thời cổ đại, các nhà triết học nổi tiếng như Socrate (469 -399 TCN), Epiquya (341 – 271 TCN), Aristote (384 -322 TCN) đã đặc biệt quan tâm đến vấn đề đạo đức và giáo dục đạo đức. Trong đó, Socrate được coi là người đặt nền móng cho khoa học đạo đức. Theo Socrate, đạo đức có mối liên hệ mật thiết với vấn đề ổn định xã hội, bởi vì một xã hội ổn định, con người mới có thể nắm bắt được cái tinh hoa của luân lý. Tiếp sau Socrate, Aristote đã viết tác phẩm “Đạo đức học” gồm 10 quyển với luận điểm nổi tiếng đó là: chúng ta bàn về đạo đức không phải để biết đức hạnh là gì mà là để trở thành con người có đức hạnh Đạo đức là một vấn đề phức tạp, có thể tiếp cận dưới góc độ của nhiều lĩnh vực khác nhau. Mỗi lĩnh vực lại đem đến một cái nhìn riêng về phạm trù đạo đức. Cụ thể: Dưới góc độ xác định đạo đức là một thuật ngữ khoa học, Từ điển triết học đã giải thích khái niệm đạo đức như sau: “Đạo đức là một trong những hình thái ý thức xã hội, một chế định xã hội thực hiện chức năng điều chỉnh hành vi của con người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội không trừ lĩnh vực nào. Đạo đức khác với những hình thức điều chỉnh hoạt động quần chúng khác (pháp quyền, những quy chế hành chính sản xuất, những sắc lệnh nhà nước, những truyền thống dân tộc ) ở phương thức luận chứng và thực hiện những yêu cầu của mình. Trong đạo đức, sự cần thiết xã hội, những nhu cầu, lợi ích của xã hội hoặc các giai cấp biểu hiện dưới hình thức những quy định và những sự đánh giá đã được mọi người thừa nhận và đã hình thành một cách tự phát, được củng cố bằng sức mạnh của tấm gương quần chúng, của thói quen, phong tục, dư luận xã hội. Cho nên, những yêu cầu của đạo đức 10
  17. mang hình thức bổn phận phải làm không riêng một ai, như nhau đối với tất cả, nhưng không chịu sự ra lệnh của ai cả. Những yêu cầu này là có tính chất tương đối bền vững.” [52]. Trong khi đó, Từ điển chính trị vắn tắt lại cho rằng: “Đạo đức là toàn bộ các chuẩn mực hành vi trong xã hội, trong gia đình. Khác với các quy phạm pháp luật mà việc tuân thủ chúng do cơ quan nhà nước duy trì và kiểm tra, đạo đức dựa trên cơ sở dư luận và tác động của xã hội, dựa trên những quan điểm , truyền thống và thói quen” [51,115]. Còn dưới góc nhìn đạo đức học của chủ nghĩa Mác thì “Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là tập hợp những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực xã hội nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con người trong quan hệ với nhau và quan hệ xã hội, chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền thống sức mạnh của dư luận xã hội” [18,8]. Theo định nghĩa này, đạo đức được xem xét ở ba phương diện chủ yếu: Thứ nhất, đạo đức với tư cách là một hình thái ý thức xã hội bao gồm toàn bộ những quan điểm, quy tắc, chuẩn mực nhằm điều chỉnh hành vi và đánh giá cách ứng xử trong quan hệ con người với con người, con người với xã hội nhằm đảm bảo quan hệ lợi ích của cá nhân với cộng đồng. Thứ hai, đạo đức là phương thức để điều chỉnh hành vi của con người. Những chuẩn mực và quy tắc là những yêu cầu của xã hội nhằm điều chỉnh hành vi của mỗi cá nhân trong mới quan hệ với nhau và với xã hội. Thứ ba, đạo đức là một hệ thống giá trị, bao gồm các giá trị vật chất và tinh thần, giá trị sản xuất và tiêu dùng và các giá trị chính trị - xã hội, tôn giáo Đạo đức còn là một phạm trù lịch sử. Ở mỗi giai đoạn, mỗi thời kì hay mỗi dân tộc, giai cấp đều có những nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức nhất định. Trong tác phẩm “Chống Đuy – rinh”, Ăng- ghen đã phê phán sự thừa nhận của Đuy –rinh về một thứ đạo đức vĩnh cửu cho mọi thời đại và khẳng định: “Xét cho cùng, mọi học thuyết đạo đức đã có từ trước đến nay đều là sản 11
  18. phẩm của tình hình kinh tế, của xã hội lúc bấy giờ” và do vậy, “từ dân tộc này sang dân tộc khác, từ thời đại này sang thời đại khác, những quan niệm thiện và ác đã biến đổi nhiều đến mức chúng thường trái ngược hẳn nhau”. Mỗi giai cấp khác nhau trong những giai đoạn lịch sử nhất định của lịch sử xã hội đều có những quan niệm đạo đức riêng của mình. Những giai cấp đại diện cho xu thế phát triển theo hướng đi lên của xã hội thì sẽ đại diện cho một nền đạo đức tiến bộ. Ngược lại, các giai cấp phản động, đi ngược với sự phát triển của xã hội thì sẽ đại diện cho một nền đạo đức suy thoái. Thực tiễn xã hội cho thấy, đạo đức không chỉ là phương tiện, hơn thế nữa, nó còn là nội dung, mục đích của cuộc sống con người vươn tới cái chân, thiện, mỹ. Đó cũng chính là khát vọng, ước mơ của nhân loại từ ngàn xưa cho đến tận mai sau. Một mặt, đạo đức được hình thành một cách tự phát dưới ảnh hưởng trực tiếp của đời sống con người nhằm đáp ứng các yêu cầu khách quan của đời sống cộng đồng. Mặt khác, ý thức đạo đức khi đạt đến trình độ lý luận sẽ phản ánh đời sống đạo đức xã hội được hình thành và phát triển chủ yếu bằng con người giáo dục nói chung và giáo dục đạo đức nói riêng. Tóm lại, có thể thấy đạo đức ra đời, tồn tại và phát triển gắn liền với sự tồn tại và phát triển của con người và xã hội loài người. Đạo đức được coi là một trong những nhân tố cơ bản điều chỉnh hành vi của con người, là cội nguồn của hạnh phúc và là động cơ, sức mạnh để chống lại cái ác, góp phần thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế, sự tiến bộ của xã hội. Đạo đức đặt ra những nguyên tắc ứng xử, những quan niệm về các mối quan hệ xã hội, như đối với bản thân, gia đình, xã hội và với tự nhiên. Vì vậy, tính thiết yếu của đạo đức là rất mạnh mẽ, nó tác động thuận hay nghịch vào quá trình xây dựng hạnh phúc và phát triển xã hội, chuẩn mực của đạo đức bao giờ cũng được đặt ở vị trí cao nhất để khích lệ con người vươn tới mức hoàn thiện bản thân mình. 1.1.1.2. Khái niệm đạo đức Phật giáo Trong mọi thời kì lịch sử, tôn giáo luôn là một bộ phận quan trọng trong nền văn hóa, văn minh của nhân loại. Tôn giáo không chỉ là nơi để các 12
  19. tín đồ thể hiện niềm tin của mình mà còn là cầu nối văn hóa giữa các nước, các khu vực, vì vậy nó có ảnh hưởng mạnh mẽ đến đời sống của con người. Mỗi tôn giáo đều sẽ có một hệ thống giáo lý, triết lý riêng song nhìn chung thì đều nhằm mục đích là hướng con người tới các giá trị Chân, Thiện, Mỹ. Và Phật giáo cũng không phải là trường hợp ngoại lệ. Phật giáo là một trong ba tôn giáo lớn nhất thế giới. Trong suốt quá trình lịch sử, từ khi hình thành cho đến nay, Phật giáo đã không ngừng phát triển và đã để lại cho nhân loại nhiều tư tưởng về tôn giáo, triết học, chính trị, mỹ học, văn hóa, trong đó nổi bật hơn cả là nội dung tư tưởng đạo đức. Về cơ bản, Phật giáo không phải là một học thuyết về đạo đức, tuy xuất phát điểm của nó lại là sự chỉ dạy của đức Phật cho con người biết nguyên nhân của nỗi khổ và con đường giải thoát. Từ những quan niệm về vũ trụ, nhân sinh, Phật giáo rút ra hệ quả của chúng để xây dựng một hệ thống quan niệm đạo đức. Xuyên suốt nội dung giáo lý Phật giáo đều đề cập đến vấn đề đạo đức với mục đích cao cả là hướng con người tới điều thiện, sự bình đẳng và hạnh phúc. Như vậy, đạo đức là nền tảng quan trọng trong hệ thống giáo lý của Phật giáo. Đạo đức Phật giáo với các chuẩn mực, giá trị đạo đức mang tính phổ quát và nhân bản có giá trị không chỉ cho những người theo đạo Phật mà có rất nhiều điểm phù hợp với đạo đức xã hội nói chung. Trong Luận án tiến sĩ “Đạo đức Phật giáo và ảnh hưởng của nó đến đạo đức con người Việt Nam”, tác giả Đặng Thị Lan đã đưa ra khái niệm về đạo đức Phật giáo như sau: “Đạo đức Phật giáo là toàn bộ những quan niệm, giá trị, những quy tắc đạo đức được thể hiện trong các giáo lý Phật giáo (đặc biệt trong các điều răn cấm) nhằm điều chỉnh hành vi của con người cho phù hợp với lợi ích, hạnh phúc của mình và xã hội theo thế giới quan và nhân sinh quan Phật giáo”. Tôi cho rằng đây là khái niệm phù hợp với cách mà tôi triển khai khóa luận, chính vì thế, tôi sẽ kế thừa và phân tích các nội dung của đạo đức Phật giáo dựa trên cơ sở của khái niệm này. 13
  20. 1.1.2. Vị trí của đạo đức Phật giáo trong hệ tư tưởng Phật giáo Với lịch sử hơn 2500 năm tồn tại và phát triển, Phật giáo đã để lại cho nền văn mình nhân loại một hệ thống giáo lý đồ với những tư tưởng về tôn giáo, triết học, chính trị, văn hóa, nghệ thuật, và đặc biệt là tư tưởng đạo đức. Cũng như các tôn giáo khác, Phật giáo chủ trương hướng con người tới Chân,Thiện, Mỹ. Bản chất của đạo đức Phật giáo được thể hiện qua rõ nét qua các giáo lý từ, bi, hỷ, xả, vô ngã, vị tha, cứu khổ, cứu nạn Những giáo lý này luôn khuyến khích con người làm điều thiện, bình đẳng trước chúng sinh, xây dựng một cái tâm trong sáng, tốt đẹp, loại trừ mọi dục vọng. Phật giáo cho rằng, mọi sự vật, hiện tượng tồn tại trong vũ trụ này đều có nguyên nhân của nó. Khi nhân kết hợp với duyên thì sẽ sinh ra quả (nhân – duyên – quả), quả lại tiếp tục kết hợp với duyên để trở thành nhân khác và lại sinh ra quả khác. Cứ như vậy, vạn vật vận động, biến đổi không ngừng, bất tận. Thế giới là vô thường, vô ngã, bởi lẽ không có gì là bất định, vĩnh viễn, mọi sự vật đều biến đổi, đều trôi đi như dòng sông đang chảy, kể cả linh hồn con người cũng không thể bất tử. Xuất phát từ quan niệm về thế giới như vậy, Phật giáo đã đi đến giải quyết vấn đề nhân sinh quan. Và đây chính là cơ sở để Phật giáo xây dựng và thực hiện các nguyên tắc đạo đức. Đức Phật cho rằng cuộc đời con người là bể khổ, ngay chính sự hiện hữu của con người trên thế giới này cũng đã là khổ. Cái khổ của con người được Phật giáo khẳng định qua “Tứ diệu đế” bao gồm: khổ đế, tập đế, diệt đế và đạo đế. Theo Phật giáo, nguyên nhân gây ra đau khổ là do con người vô minh, không hiểu biết về sự vô thường, vô ngã. Chính vì không hiểu được bản chất của sự vật, hiện tượng nên con người bị “vọng tưởng” và bị “dục” làm cho mù quáng, tạo ra nghiệp báo, luôn quẩn quanh trong nhân – quả, không thể thoát được khỏi vòng luân hồi khổ. Từ đây, Phật giáo chỉ ra mục đích sống trong cuộc đời đó là giải thoát con người ra khỏi khổ đau. Chính vì vậy, tư tưởng đạo đức cũng như các triết lý của đạo Phật đều xoay quanh vấn đề làm sao cho chúng sinh thoát khỏi cái 14
  21. khổ. Và đạo đức Phật giáo chính là sự nghiệp tu hành của chúng sinh theo đạo Phật để tự giải thoát mình. Nguyên tắc thực hiện đạo đức Phật giáo yêu cầu cần phải có cả 3 yếu tố Giới – Định – Tuệ đi liền với nhau. Đây được coi là điều kiện tiên quyết để diệt dục, hết vọng tưởng, hết ngã chấp, đoạn tuyệt vô minh và đạt giác ngộ. Trong giáo lý Phật giáo, đạo đức giữ một vị trí vô cùng quan trọng bởi nó là phương tiện cụ thể để những người tu hành thực sự thoát khỏi mọi ràng buộc, thoát khỏi mọi nỗi đau khổ nơi trần thế và chứng được Niết bàn. Do đó, có thể thấy Phật giáo không chỉ dừng lại ở những lý thuyết cao siêu mà hơn hết nó thúc giục mọi người phải tự thực hành, tự giải thoát mình. Những quy tắc đạo đức Phật giáo được thể hiện trong các giới luật, quy định nguyên tắc ứng xử của các tín đồ, các cư sĩ và thế tục. Đây là những quy phạm đạo đức giúp cho người tu hành có thể vượt qua những giá trị đạo đức thông thường trong xã hội để đạt đến sự lìa bỏ ngã chấp. Giới luật chung cho cả cư sĩ và thế tục là đạo đức nhân gian, tức từ, bi, hỉ, xả nhằm đạt tới cuộc sống hòa vui, tránh tạo nghiệp ác, tích lũy nghiệp thiện. Có thể nói rằng, đạo đức Phật giáo là một hệ đạo đức xuất thế, luôn đề cao tính tự chủ cá nhân trong việc thực hành các quy tắc đạo đức. Phật giáo với những khung chuẩn giá trị đạo đức của mình đã trở thành một chiếc gương trong sáng về giá trị nhân sinh để mỗi người soi mình vào trong đó và tự nhận thức được các giá trị đích thực của mình trong thế giới này. Xem xét ở góc độ “vị nhân sinh”, ở góc độ “đạo đức” theo cách hiểu của người phương Đông thì đạo đức Phật giáo là trung tâm, chiếm vị trí số một, đóng vai trò quyết định trong tư tưởng Phật giáo. Tóm lại, từ nhận thức cho đến thực hành giáo lý theo tinh thần Phật giáo, đạo đức là cái nền để con người nói riêng và chúng sinh nói chung làm phương tiện tiến tu trên con đường giải thoát. Đạo đức cũng chính là cái nền tảng để giữ gìn và phát triển Phật pháp. Đó là vị trí và vai trò quan trọng không thể thiếu được của đạo đức Phật giáo trong hệ tư tưởng Phật giáo. 15
  22. 1.2. Những nội dung cơ bản của đạo đức Phật giáo Phật giáo là một tôn giáo lớn, đã đồng hành cùng dân tộc Việt Nam trong suốt gần 2000 năm lịch sử và thực sự đã trở thành một yếu tố không thể thiếu, có tác động mạnh mẽ tới đời sống tinh thần của mỗi người dân Việt. Những triết lí nhân sinh, những giá trị đạo đức mà Phật giáo mang lại đã hòa quyện với các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam, được duy trì cho đến tận ngày nay và ảnh hưởng rõ nét đến nền đạo đức của xã hội. Tồn tại lâu dài trên đất Việt, đạo Phật nói chung và đạo đức Phật giáo nói riêng đã thích ứng được với điều kiện kinh tế xã hội, với đời sống văn hóa tinh thần của dân tộc Việt Nam và đã trở thành một cái gì đó gần gũi, thân thuộc với người Việt. Những giáo lí, những lời răn dạy của đức Phật đã ăn sâu, bám rễ trong tâm hồn của mỗi người Việt một cách rất tự nhiên, không hề có một sự ép buộc nào. Những chuẩn mực đạo đức Phật giáo không hề xa lạ đối với xã hội hiện tại, trái lại nó rất cụ thể, hữu ích. Chính vì vậy, có thể nói, chính những giá trị, chuẩn mực của đạo đức Phật giáo đã góp phần hình thành những chuẩn mực, giá trị, nguyên tắc đạo đức cho xã hội hiện nay. Những vấn đề cơ bản của đạo đức Phật giáo bao gồm những quan niệm sau: 1.2.1. Quan niệm về Thiện – Ác, Từ bi * Quan niệm về Thiện- Ác Thiện, Ác được coi là hai phạm trù cơ bản, xuất hiện ở hầu hết các quan niệm về đạo đức. Thiện, ác được thể hiện trong hành vi của con người. Hai phạm trù này luôn hiện hữu trong đời sống hàng ngày, trong xử thế. “Thiện” là một tính từ dùng để chỉ phẩm chất, hành vi của con người tốt, nó phù hợp với các giá trị đạo đức. Cái thiện là những cái tốt đẹp, thể hiện sự nhân từ, lòng yêu thương của con người trong cuộc sống hàng ngày. “Ác” là một tính từ chỉ hành vi của con người không tốt lành, gây ra đau khổ, tai họa cho người khác. 16
  23. Để hiểu được cái thiện, cái ác một cách toàn diện nhất thì thực sự không hề đơn giản. Xét theo thủ pháp phủ định liên tục để hướng con người tới chứng ngộ và hội nhập Niết bàn, cùng là một hành vi thiện ở thân, khẩu, ý nhưng ở tầng này là thiện thì ở tầng cao hơn nó lại là ác bởi vì còn vô minh. Trước hết, có thể khái quát cái thiện trong quan niệm của Phật giáo bằng một số ý chính là: điều tốt lành, lẽ phải, có ích, có lợi cho mình và cho người, còn đối lập lại với những điều đó chính là cái ác. Cái thiện được Phật giáo bàn đến rất nhiều và được đúc kết lại trong quan niệm về Thập thiện và Tứ vô lượng tâm. Đức Phật luôn khuyên con người hướng thiện, sống thiện và không ngừng làm việc thiện. Trong Kinh Pháp Cú 118 có nói: “Nếu người làm điều thiện Nên tiếp tục làm thêm Hãy ước muốn điều thiện Chứa thiện, được an lạc” [8,35] Phật giáo cho rằng con người sinh ra đã có sẵn cái mầm thiện hay ác. Cái mầm ấy không phải do Trời tạo ra mà là “quả” do nghiệp của kiếp trước tạo ra và trở thành “nhân” của kiếp này. Chủ trương của Phật giáo đó là chuyển hóa ác nghiệp thành thiện nghiệp và thanh lọc tâm cho thanh tịnh. Một người xấu vẫn có thể chuyển hóa thành người tốt nếu như biết ăn năn, hối lỗi, xám hối, thay đổi tính cách. Chính vì thế, đối với không chỉ việc làm, mà ngay cả lời nói hay những ý nghĩ chớm xuất hiện trong tâm, Đức Phật đều khuyên con người phải xem xét kĩ lưỡng là thiện hay ác. Nếu là thiện thì phải học tập và phát huy. Còn nếu là ác thì phải cố gắng hết sức để diệt trừ, xóa bỏ. Khi con người đã vượt qua được sự cố chấp thiện và ác thì tức là bản thân đã thoát khỏi sự trói buộc của thiện nghiệp và ác nghiệp, từ đó mới đi đến giác ngộ, giải thoát hoàn toàn. Theo giáo lý Phật giáo thì con người có thể phạm phải mười điều ác do thân, khẩu, ý gây ra. Cụ thể: 17
  24. Ba điều ác do thân làm ra là sát sinh, trộm cắp, tà dâm. Bốn điều ác thuộc về lời nói là nói dối, nói thêu dệt, ác khẩu, lưỡng thiệt Ba điều ác thuộc về ý là tham lam, sân hận, si mê Tất cả mười điều trên đều gây hại cho con người và muôn vật nên gọi là ác. Và khi con người làm điều ác thì chắc chắn sẽ không thể tránh được quả là ác nghiệp. Như kinh Pháp Cú 127 có nói: “Không trên trời, giữa biển Không lánh vào động núi Không chỗ nào trên đời, Trốn được quả ác nghiệp” [8,37]. Trái ngược với điều ác là điều thiện. Con người nếu không làm việc ác thì đã là thiện rồi, nếu còn làm thêm các điều khác mà đem lại lợi ích cho muôn loài thì lại càng thiện hơn. Đối lập lại với mười điều ác trên là mười điều thiện (Thập thiện): Một là, không sát sinh, không sát hại sinh linh, đoạt mạng của loài khác, người khác mà cứu mạng, giúp đỡ họ trong lúc hoạn nạn. Hai là, không trộm cắp, không lấy những thứ không thuộc quyền sở hữu của mình, hơn nữa phải thường xuyên bố thí cho những người khó khăn. Ba là, không tà dâm, đối với người xuất gia phải đoạn trừ dâm tục, đối với người tại gia thì cần giảm bớt sự dâm dục. Bốn là, không nói dối mà nói lời thật thà. Năm là, không nói lời thêu dệt mà nói lời đúng đắn, thẳng thắn. Sáu là, không ác khẩu mà nói những lời nhẹ nhàng, dễ nghe, nhã nhặn. Bảy là, không lưỡng thiệt mà nói lời hòa giải. Tám là, không tham lam. Chín là, không sân hận, trái lại phải từ bi, luôn điềm tĩnh, không nổi nóng, giận hờn, biết thương xót muôn loài. 18
  25. Mười là, không si mê, luôn giữ trí tuệ sáng suốt, biết phân biệt lành, dữ, biết làm điều thiện, tránh điều ác. Theo đạo Phật, con người muốn sống hạnh phúc, thanh thản thì phải thực hiện được những điều thiện trên, tức là thực hành những chuẩn mực đạo đức do Đức Phật răn dạy. Những người nào thực hiện được thì sẽ có thể cảm hóa được mọi người xung quanh, luôn được mọi người yêu quý và bản thân họ cũng sẽ tiêu diệt được sự ganh đua, hóa giải được những đố kị để tạo ra sự bình yên trong tâm. Những người theo đạo Phật cần phải phân biệt thiện – ác sao cho đúng đắn, sáng suốt, những việc có hại cho người thì nhất quyết không làm, còn những việc có lợi cho người thì quyết làm bằng được. * Quan niệm về Từ bi Nổi bật lên trong giáo lý của Phật giáo chính là luôn khuyên con người sống từ bi, bác ái, có tình thương với muôn loài. Tứ vô lượng bao gồm : Từ , Bi, Hỉ, Xả được coi là một trong những giá trị cốt lõi của Phật giáo, có ảnh hưởng sâu sắc tới đời sống đạo đức của người Việt kể cả trong lịch sử cũng như trong giai đoạn hiện nay. Đặc biệt, trong Tứ vô lượng, đạo Phật nhấn mạnh hai chữ Từ và Bi, nó là biểu hiện của tình thương bao la không giới hạn, hoàn toàn vị tha, không hề có một chút vị kỷ nào đối với muôn loài, không chỉ là con người mà còn là đối với các loài vật, cỏ cây, tồn tại trong vũ trụ này. “Từ” được hiểu theo nghĩa là sự hiền hòa, đem lại niềm vui, hạnh phúc cho muôn loài, là lòng khoan dung độ lượng, vị tha. “Bi” được hiểu là lòng thương xót người hay vật khi thấy họ đau khổ hay gặp hoạn nạn và cố cứu họ ra khỏi hoàn cảnh ấy. Từ bi là đem lại hạnh phúc cho muôn vật chúng sinh, cứu khổ, cứu nạn mà không đòi hỏi đến sự báo đáp. Những người tu hành đạo Phật trước hết phải coi từ bi là chuẩn mực đạo đức trước nhất, như lời đức Phật đã dạy: “Người tu hạnh Bồ tát phải lấy từ bi làm gốc. Cây Bồ Đề lớn mạnh nhờ bám sâu gốc rễ trong đất, kẻ tu hành lấy từ bi, lợi lạc hữu tình làm lẽ sống”. 19
  26. Nguồn gốc của tâm từ bi chính là xuất phát từ triết lý bình đẳng triệt để của đạo Phật. Phật giáo cho rằng: “mọi người đều như nhau, mọi người đều bình đẳng, phải yêu thương lẫn nhau. Hãy nhìn thế giới xung quanh bằng ánh mắt vị tha hơn, bao dung hơn. Với tâm từ bi, với lòng yêu thương con người, Phật giáo đã phá đi hàng rào ngăn cách vô nhân đạo giữa con người với con người” [26,53]. Để có được tâm từ bi thì trước hết người Phật tử phải có được cái tâm bình đẳng với tất cả chúng sinh, coi mọi vật là như nhau và không có sự phân biệt đối xử. Chính từ thế giới quan này, Phật giáo đã hướng con người đến tâm từ bi rộng mở, hướng tới tha nhân, giúp con người quên đi thói tham lam, ích kỉ. 1.2.2. Quan niệm về Ngũ giới “Giới” được hiểu là những điều không được vi phạm, cần tránh để bảo vệ đạo đức và nhân phẩm của một con người. Phạm trù “giới” trong đạo Phật là một phạm trù khá rộng, bao gồm các giới của người xuất gia, giới luật của tỳ kheo, tỳ kheo ni, giới luật Bồ tát của Đại thừa Nhìn chung, tất cả các giới đó đều lấy Ngũ giới làm nền tảng , từ đó mà cụ thể hóa hoặc nâng cao lên. Trong hệ thống giáo lý Phật giáo, Ngũ giới giữ một vị trí hết sức quan trọng, được coi là chuẩn mực cơ bản của đạo đức Phật giáo. Theo Phật giáo, đạo đức thể hiện rõ nhất chính là trong việc giữ giới. Giới là điều kiện không thể thiếu được trong quá trình tu tập của người tu hành. Đồng thời, giới còn là một phương tiện giúp cho con người vượt qua bể khổ luân hồi để vươn tới chốn giải thoát, an lạc. Chức năng của giới luật Phật giáo đó là tạo ra hạnh phúc và lợi ích thực sự cho đời sống của con người và của toàn xã hội từ cấp độ thấp nhất (là con người đúng nghĩa) cho tới cấp độ cao nhất là giải thoát tối hậu (đạt tới cõi Niết bàn). Sở dĩ đức Phật đặt ra năm giới vì Ngài mong muốn cho người Phật tử tại gia hưởng được quả báo tốt đẹp. Người Phật tử không thể chỉ thọ Tam Quy mà không trì Ngũ Giới. Người đã quy y là đã bước một nấc thang đầu tiên, nếu không giữ giới có nghĩa là dừng lại tại đó, không tiến bước tới nữa. 20
  27. Năm giới này không những để tiến bước trên đường giải thoát, mà còn đem lại trật tự, an vui, hòa bình cho gia đình, xã hội. Đức Phật không bắt buộc người Phật tử phải tuân theo triệt để, cũng không hăm dọa nếu không tuân theo thì phải bị chịu hình phạt, có giữ giới hay không là tùy thuộc mỗi người tự liệu lấy. Đạo Phật khác với các tôn giáo khác một phần là ở điểm này. Năm giới là năm thành trì ngăn chặn cho chúng ta đừng đi vào đường ác, là năm hàng rào cản cho chúng ta khỏi rơi vào vực sâu tội lỗi. Ngũ giới bao gồm: Không sát sinh; không trộm cướp; không tà dâm; không nói dối; không uống rượu. Xét về bản chất thì năm giới này là những điều răn dạy cơ bản về đạo đức cho con người dù người đó có tu Phật hay không. Việc giữ gìn các giới luật trước hết nhằm mục đích là phát huy được bản tính thiện có trong tâm mỗi người, hơn nữa diệt trừ tam nghiệp là tham, sân, si, đem đến sự trong sạch, thanh tịnh cho thân tâm người tu tập. * Giới thứ nhất: Không sát sinh Không sát sinh là không sát hại sự sống, không làm tổn hại đến các loài vật có sinh mạng. Đây là giới đầu tiên và cơ bản của Phật giáo bởi nền tảng đạo đức Phật giáo là sự từ bi, hướng thiện. Không sát sinh ở đây bao gồm không giết hại từ con người đến súc vật lớn như voi, ngựa, trâu, bò , cho đến các loài nhỏ bé như côn trùng, sâu bọ, kiến Không những không giết hại mà còn không làm tổn thương, đau đớn con người và các loài. Người Phật tử cũng không bảo người khác, bày mưu kế cho người khác làm các việc hành hạ, giết hại chúng sinh các loài. Khi thấy người khác đánh đập, sát hại con người và súc vật thì sinh lòng thương xót và khuyên can ngăn cản. Sự giữ giới không sát sinh nhằm mục đích bảo vệ công bằng, mọi chúng sinh đều muốn sống, mọi chúng sinh đều có Phật tính như nhau. Chúng ta coi sinh mạng mình là quý, là một của báu tuyệt đối. Nếu ai có ý định mưu hại là bản thân sẽ chống trả triệt để để bảo vệ sinh mạng. Bản thân mình đã biết quý trọng thân mạng của mình thì không có lý gì lại muốn chà đạp lên 21
  28. sinh mạng người? Suy rộng ra, các loài vật cũng biết quý trọng mạng của chúng. Chẳng hạn như một con bò hay một con heo sắp bị đập đầu, thọc huyết, chúng ta thấy sự phản kháng mãnh liệt, sự đau thương cùng cực của chúng bằng những tiếng kêu gào, những cái giãy giụa mong thoát chết. Theo lẽ công bằng, đìều ta không muốn ai làm cho ta, thì ta cũng đừng làm cho người khác, hay loài khác. Phật dạy: "Ai ai cũng sợ gươm dao, ai ai cũng sợ sự chết. Vậy nên lấy lòng mình suy lòng người, chớ giết! Chớ bảo giết!" Không những thế, giữ giới sát sinh còn là nuôi dưỡng lòng từ bi. Lòng từ bi của Đức Phật xem mọi loài như con, nên Ngài không đồng ý cho đệ tử sát hại sinh vật, bất cứ trong trường hợp nào. Bởi vì đang tâm giết hại sinh mạng là lòng độc ác đã cực thịnh, tâm từ bi bị bóp chết. Nhẫn tâm vô cớ giết hại một con vật, tính bạo ác không kém giết một con người. Nhẫn tâm làm cho kẻ khác hay vật khác phải giãy giụa, rên siết, quằn quại trước khi trút hơi thở cuối cùng chính là hành động tự giết lòng từ bi của mình. Người làm điều này khó có thể tu hành để thành chính quả được. Đức Khổng Tử có dạy: "Văn kỳ thanh bất nhẫn kiến kỳ thực, kiến kỳ sanh bất nhẫn kiến kỳ tử". (Nghe tiếng kêu la của con vật, không nỡ ăn thịt nó; thấy nó sống không đành thấy nó chết). Như vậy người có tâm từ bi hay lòng nhân đều sẽ không nỡ giết hại người hay loài vật. Giữ giới sát sinh còn giúp tránh được nhân quả báo ứng, vì nợ máu sẽ phải trả bằng máu không ở kiếp này thì ở kiếp sau, như vậy nghiệp oán xoay vần không có ngày chấm dứt. Khi ta giết một người hay một con vật thì sự oán hận của người và vật đó sẽ tràn trề khó dập tắt được. Họ vì cô thế, vì yếu sức nên mới bị ta giết hại. Trong khi ấy, họ ôm lòng căm hận, chờ gặp dịp báo thù, hay con cái thân nhân họ sẽ báo thù lại. Càng tạo nghiệp sát, ta lại càng lao mình vào đau khổ. Phật dạy: "Người thường sanh tâm sát hại, càng tăng trưởng nghiệp khổ, mãi xoay vần trong sanh tử, không có ngày ra khỏi". 22
  29. Đạo Phật là đạo từ bi nhằm mục đích xóa tan mọi đau khổ, đem lại sự an vui. Giới không sát sinh là một quan niệm sống nhằm con người tránh xa những điều ác, làm điều thiện, yêu thương sự sống. Nếu tất cả nhân loại trên thế giới này đều giữ đúng giới thứ nhất của Phật dạy thì chiến tranh sẽ không có, mà các nghiệp sinh tử luân hồi cũng đươc giải thoát. Một người không sát sinh thì trong lòng không bứt rứt, hối hận, thân tâm được nhẹ nhàng, giấc ngủ được an lành, nét mặt được hiền hòa, trong sáng. Giới này khi đi vào cuộc sống gặp không ít khó khăn, dù vô tình hay hữu ý thật khó tránh khỏi giới sát. Chúng ta nên cố gắng giữ lấy điều cốt yếu của giới này: không được giết người, không giết hại sinh vật một cách vô lý. Nói rộng ra, không gây chiến tranh hủy diệt con người và môi trường sống, bảo vệ hòa bình và bảo vệ môi sinh là những điều có ý nghĩa trong cuộc sống hiện đại của chúng ta ngày nay. Ngày nay, vấn đề “cấm sát sinh” đã được nhận thức một cách sâu sắc hơn. Con người thấy được tầm quan trọng của việc bảo vệ sự sống của muôn loài trong đó có việc bảo vệ môi trường sống, bảo vệ các loài động vật quý hiếm nhằm cân bằng môi trường sống, bảo vệ cuộc sống của chính con người. * Giới thứ hai: Không trộm cướp Giới thứ hai, không trộm cướp là không được lấy vật gì không thuộc quyền sở hữu của mình khi không có sự đồng ý của người khác, dù vật đó đang tồn tại trong tự nhiên. Người Phật tử không được bày mưu kế cho người khác trộm cướp. Khi thấy người khác làm các việc trộm cướp thì phải khuyên bảo can gián. Cũng gọi là trộm cắp, khi lấy của tư hay của công, của công ty hay của nhà nước, khi cưỡng ép người ta bằng vũ lực hay quyền hành, khi dùng những thủ đoạn lừa gạt, mưu mẹo để đoạt chiếm sở hữu, tiền bạc như quỵt nợ, giật hụi, đầu cơ tích trữ, cân non đong thiếu, cũng như trộm cướp không khác. Tóm lại tất cả các việc gian tham, lấy của bất chính đều là trộm cướp. Như Hòa thượng Thích Minh Châu đã chỉ ra: “Thuộc phạm vi giới này, không phải chỉ là hoạt động trộm cắp lộ liễu, mà còn cả những hành vi buôn 23
  30. lậu, tham nhũng, lừa đảo, lật lọng trong buôn bán để kiếm những món lời bất chính, lạm dụng chiếm đoạt của công” [7,24]. “Tham” là yếu tố đứng đầu trong “Tam độc” (Tham, Sân, Si). Chính vì vậy, ngăn ngừa lòng tham, không để nó tự do điều khiển hành vi của mình, đó là cơ sở lý luận mà Phật giáo xây dựng giới thứ hai. Lợi ích của giới không trộm cướp là giữ được sự công bằng, bình đẳng giữa con người với con người, mỗi người đều có quyền sở hữu riêng tư, xã hội không công bằng thì khó tồn tại lâu dài được. Không trộm cướp còn thể hiện lòng từ bi, vì một người phải cực khổ để làm ra tiền nuôi thân và gia đình và dành dụm phòng khi đau yếu hoặc tuổi già. Nếu bị mất sẽ đau khổ vô cùng, tuyệt vọng có khi đi đến tự tử. Chúng ta nhiều khi cũng buồn khổ vì mất của, xét người khác cũng vậỵ Chúng ta không muốn ai trộm cướp của mình, thì cũng không nên trộm cướp của người, đó là lẽ công bằng. Người trộm cướp, cho dù có thoát khỏi lưới pháp luật, nhưng lương tâm lúc nào cũng lo sợ, và nhân quả nghiệp báo ở kiếp sau không thể tránh khỏi. Trái lại, người không gian tham thì đời sống hiện tại được an ổn, không bị đòi hỏi, giam cầm, tù tội, đi đâu cũng được người khác tin cậy, giao phó cho mình những địa vị quan trọng. Người không gian tham thì đời sau được hưởng phước báu giàu sang, an vui và con cháu nhiều đời cũng nhờ thừa hưởng âm chất của ông bà, cha mẹ để lại mà được vinh hiển. Trong xã hội, nếu không ai có tâm gian tham, trộm cướp thì nhà không cần đóng cửa, của khỏi lo gìn giữ, vật đánh rơi không mất. * Giới thứ ba: Không tà dâm Không tà dâm được hiểu theo nội hàm “Duy chế tà dâm”, tức phải ngăn ngừa, hạn chế dục vọng trong một giới hạn nhất định mà xã hội cho phép. Hành vi được gọi là “không tà dâm” trước hết phải thể hiện tính nhân sinh, phải đảm bảo về mặt pháp lý và phải đặt trong một quy phạm đạo đức xã hội nhất định. Khi vợ chồng đã được cưới hỏi đàng hoàng, có sự chứng nhận của pháp luật. Ở thực tế, không tà dâm là không dụ dỗ hay dùng thủ đoạn để cướp 24
  31. vợ người khác, không ép buộc người khác phải thỏa mãn tình dục với mình, không hãm hiếp đàn bà, con gái. Người Phật tử không được xui bảo, bày mưu cho người khác làm việc tà dâm. Trong Kinh Thánh của đạo Cơ Đốc cũng dạy: “Chớ ham muốn vợ hoặc chồng người”. Sở dĩ đức Phật cấm tà dâm là vì những lý do sau: - Thứ nhất, cấm tà dâm là để tôn trọng sự công bằng. Mỗi người, ai cũng muốn gia đình của mình êm ấm, hạnh phúc, vợ, chồng hòa thuận thì cớ sao lại phá hoại hạnh phúc gia đình người khác, làm vấy bẩn thanh danh gia môn người, lôi kéo vợ, chồng người vào con đường dâm loạn. - Thứ hai, không tà dâm sẽ giúp bảo vệ hạnh phúc gia đình. Sẽ không có gì đau khổ hơn khi trong một gia đình mà vợ hoặc chồng có lòng dạ riêng tư, quan hệ bất chính với người khác. Khi ấy, hạnh phúc sẽ không còn nữa, vợ chồng lúc nào cũng ngờ vực nhau, không còn sự tin tưởng. Hoàn cảnh ấy không chỉ ảnh hưởng đến vợ, chồng mà còn tác động không nhỏ đến con cái. Sống trong gia đình ấy, con cái luôn cảm thấy xấu hổ, tự ti, bị bạn bè chê bai, một số trường hợp xấu hơn là những đứa trẻ trở nên thô bạo, bất cần, không nghe lời người lớn, sa vào tệ nạn xã hội. Có thể nói, lòng chung thủy là điều kiện thiết yếu để giữ gìn hạnh phúc gia đình. Vì sự tà dâm của một trong hai người mà gia đình thường xảy ra những vụ ghen tuông, cãi vã, đánh đập, có khi dẫn đến cả án mạng, gây ảnh hưởng đến cả trật tự, an toàn xã hội. Cho nên, cấm tà dâm chính là điều kiện không thể thiếu để xây dựng hạnh phúc gia đình và mang đến sự ổn định cho xã hội. - Thứ ba, không tà dâm còn giúp con người tránh được oán thù và quả báo xấu, vì không có sự oán thù nào mãnh liệt cho bằng sự oán thù do lừa dối tình hay phụ tình gây ra. Trong Kinh Tứ Thập Nhị chương, Phật dạy:"Người ôm lòng ái dục cũng như kẻ cầm đuốc đi ngược gió, quyết bị nạn cháy tay". Thật vậy, những người ta có tâm xấu xa, mê đắm sắc dục, không sớm thì thì muộn cũng sẽ bị hại. 25
  32. Ở phương diện cá nhân, như Kinh Thập Thiện nói: "Người thế gian không tà hạnh thì được hưởng bốn điều lợi sau: - Sáu căn (tai, mắt, mũi, lưỡi, thân, ý) đều được vẹn toàn. - Trọn đời được người kính trọng. - Đoạn trừ được hết cả phiền luỵ khuấy nhiễu. - Cuộc tình duyên trọn đời không ai dám xâm phạm." Về phương diện toàn thể, nếu mọi người đều giữ giới không tà dâm thì gia đình được đầm ấm, xã hội có luân thường đạo lý, không có những sự thù hằn chết chóc vì tà dâm nữa. Những đứa con trong các gia đình hạnh phúc sẽ có một môi trường tốt để học tập và rèn luyện bản thân. Hơn nữa, trong xã hội hiện đại ngày này, các vấn nạn về ma túy, mại dâm đang ngày càng trở nên phức tạp hơn. Để thỏa mãn nhu cầu sinh lý, nhiều người đã tìm đến hoạt động mại dâm. Đây cũng chính là nguyên nhân chủ yếu dẫn tới sự lây lan của các căn bệnh xã hội như HIV/AIDS, lậu, giang mai, Từ thực tế này, chúng ta có thể thấy thêm được một giá trị của giới cấm tà dâm trong xã hội hiện tại, đó là giúp con người tránh được các bệnh tật nguy hiểm. * Giới thứ tư: Không nói dối Không nói dối được hiểu là không được “lưỡng thiệt, ác khẩu, vọng ngôn, ỷ ngữ”. Đây là bốn yếu tố độc do khẩu gây ra, nằm trong mười điều ảnh hưởng nguy hại đến nhân cách của con người. Trong giao tiếp, nếu vi phạm vào bốn nguyên tắc này thì đều bị cho là có hành vi nói dối. Trong Kinh Đại Phương Tiện Phật Báo Ân, Phật bảo Tôn Giả A Nan, Thị giả của Phật: "Người ta sinh ra ở đời, họa từ trong miệng mà sinh ra, nên phải giữ gìn cửa miệng hơn cả lửa mạnh, vì lửa mạnh có đốt cháy cũng chỉ đốt cháy một đời này mà thôi, còn như nói ác sẽ đốt cháy trong vô số kiếp. Lửa chỉ đốt cháy nhà cửa, của cải của thế gian, còn lời nói ác đốt cháy bảy thứ của cải của Thánh nhân. Vì thế, này A Nan, chúng sanh họa từ trong miệng mà sinh ra, miệng lưỡi thực là búa sắc tự bổ vào mình, là cái họa để tự diệt mình". 26
  33. Phật tử cần giữ giới này vì đạo Phật là đạo của sự thật nên phải tôn trọng sự thật, vì nuôi dưỡng lòng từ bi, người Phật tử phải tránh sự dối trá, lừa gạt để không gây cho người khác sợ hãi, buồn phiền, đau khổ. Đây cũng là để bảo tồn sự trung tín trong xã hội, mọi người tin cậy, đoàn kết giữ cho xã hội được ổn định, vì nếu một xã hội không ai tin ai thì mọi công việc từ nhỏ đến lớn đều thất bại. Không nói dối ở đây hàm ý không nên nói dối gây hại cho người khác, nói dối để tư lợi cá nhân. Không nói dối dù có tốt cho bản thân và người khác. Chỉ nói lời chánh ngữ ở nơi thuận tiện, thời gian thuận tiện và mang lại kết quả tốt đẹp cho chúng sinh.Giới này cũng nói thêm rằng, trong những trường hợp vì lòng từ bi, để giúp đỡ người khác những điều tốt lành mà buộc lòng phải nói dối thì không sai phạm. Giới không nói dối Phật khuyên sống trung thực và nói năng trung thực. Người trung thực sẽ được người khác trọng nể, tin cậy, không ai oán hận thù hằn; đi đâu cũng được người xung quanh dành cho một địa vị thân tín, niềm nở tiếp đón. Trong nghề nghiệp làm ăn, người chân thật được nhiều người tin tưởng và được giao phó cho nhiều trọng trách quý báu. Xã hội có nhiều người trung thực sẽ đoàn kết, thương yêu nhau hơn và sự nghiệp chung sẽ mau được thành tựu. * Giới thứ năm: Không uống rượu Giới thứ năm, không uống rượu là đòi hỏi con người phải luôn tỉnh táo để có được trí tuệ minh mẫn. Sự sáng suốt của tâm trí là điều kiện hết sức quan trọng để tự định hướng và điều khiển hành vi của mỗi con người. Rượu hay bất cứ thứ gì làm người ta say, mất hết khả năng lý trí thì không được dùng đến. Uống rượu chính là nguyên nhân gây ra bốn tội trên. Trong kinh luật Đại thừa, Tiểu thừa đều chủ trương giới rượu, đồng thời có lưu truyền một sự tích như sau: Vào thời Đức Phật Ca Diếp Ba, một người tu hành luôn trì giới thanh tịnh. Một hôm, khi vừa từ bên ngoài trở về nhà, vì quá khát nước nên ông ta đã lấy một chén rượu màu trong như nước trên bàn 27
  34. để uống và không hề biết đó là rượu. Ông uống một hơi vào bụng, đến lúc chất rượu phát tác khiến ông ta phạm giới một cách liên tục. Thấy gà nhà hàng xóm, ông ta bèn bắt trộm để làm thịt ăn, vợ của người hàng xóm mất gà sang tìm, thấy vợ người hàng xóm đẹp, ông liền cưỡng dâm. Sau đó, ông ta bị bắt đến công đường nhưng vẫn chối cãi không nhận tội. Như vậy, chỉ vì uống nhầm một chén rượu mà ông ta đã liên tục phạm cả năm điều giới. Giới này cũng nói thêm rằng “không uống rượu” còn phải tuyệt đối cách ly những nơi rượu chè, mặc dù mình không uống. Không được xúi giục người khác uống rượu, bởi vì đó là hành vi gián tiếp vi phạm giới thứ năm. Kinh “Bồ Tát giới” nói: “Phật tử nếu cố ý uống rượu, mà rượu thì dẫn ra vô số lỗi lầm, tự tay mình trao rượu cho người khác uống mà năm trăm đời kiếp cánh tay không có, huống chi chính mình tự uống. Cũng không được chỉ bảo cho mọi người uống rượu hay luyện tập cho các sinh vật khác uống rượu, huống chi chính mình uống lấy. Nếu bất cứ rượu gì cũng không được uống. Nếu cố ý uống hay bảo người khác uống thì phạm tội khinh cấu” [40,107-108]. Không chỉ rượu mà bất cứ thứ gì có chứa chất gây nghiện, làm cho con người mất tỉnh táo thì đều không được dùng đến, đặc biệt là ma túy. Sở dĩ như vậy vì những thứ này đều là những thức làm cho con người mê muội, khi lí trí mê muội sẽ dẫn đến những hành vi sai lầm. Theo kinh Thiện Sinh thì uống rượu sinh ra sáu lỗi: mất của, sinh bệnh, gây gổ, tiếng xấu đồn xa, dễ sinh nóng giận, trí tuệ mỗi ngày giảm dần. Những lỗi này, một mặt tác động tiêu cực đến xã hội, mặt khác nó làm băng hoại nhân cách đạo đức con người. Sự phát triển nhân cách con người luôn đòi hỏi tính hoàn thiện về cả mọi mặt, trong đó việc phát triển về mặt tư duy nhận thức là một điều kiện hết sức quan trọng. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, khi người Phật tử bị mắc bệnh mà bác sĩ cho điều trị bằng cách uống rượu thì sẽ được dùng cho đến khi lành bệnh thì chấm dứt. Người không uống rượu sẽ tránh được sự hao tốn tiền bạc, thân ít bệnh tật, trí tuệ tăng trưởng, tuổi thọ cao, con cái khoẻ mạnh và gia đình yên vui. 28
  35. Về phương diện toàn thể, xã hội sẽ được ổn định, tệ nạn xã hội được đẩy lùi, đất nước hùng cường. Suy rộng ra, ở cuộc sống hiện tại, nếu muốn hoàn thiện bản thân thì con người cần phải xây dựng sức khỏe thân thể và tâm hồn bằng cách thực tập chánh niệm trong ăn uống và tiêu thụ: không uống rượu, không sử dụng các chất ma túy, không ăn uống hoặc tiêu thụ những sản phẩm có độc tố, trong đó có các sản phẩm tinh thần như sách báo, phim ảnh không lành mạnh. Phật giáo đề ra Ngũ giới với mục đích là để con người tự rèn luyện, hoàn thiện nhân cách cá nhân, đem lại hạnh phúc cho bản thân và cho cả mọi người xung quanh. Việc thực hành Ngũ giới không chỉ giúp nuôi dưỡng lòng từ bi, khơi dậy tinh thần nhân đạo trong mỗi con người mà còn có ý nghĩa về mặt xã hội. Đặc biệt, trong bối cảnh toàn cầu hóa và phát triển kinh tế thị trường như hiện nay, khi mà vấn đề đạo đức đang được quan tâm thì những giá trị của Ngũ giới nói riêng và các giáo lý Phật giáo nói chung lại càng được phát huy hơn bao giờ hết. 1.2.3. Quan niệm về thuyết Nhân quả, Luân hồi, Nghiệp báo Nhân quả theo tiếng Phạn ngữ là Pratitya – Samút – Panda, có nghĩa là duyên khởi. Nhân được hiểu là nguyên nhân, là nguồn gốc sinh ra cái khác. Quả là kết quả, là cái được tạo ra bởi một cái nhân. Duyên là chỉ những điều kiện, hay những vật có vai trò trợ giúp, tạo điều kiện để vật này sinh ra vật khác. Hay nói cách khác, duyên chính là tập hợp những điều kiện tương quan, liên hệ giữa nhân và quả, quả với nhân, tạo nên sự biến hóa vô thường. Theo đạo Phật, thuyết Nhân quả là mối liên hệ mật thiết của vạn vật. Mọi sự vật, hiện tượng sinh ra trong vũ trụ đều chịu sự tác động của luật nhân quả, đều có mối liên hệ với nhau, không có bất cứ sự vật nào có thể tồn tại một cách độc lập với sự vật khác. Luật Nhân quả không bị ràng buộc bởi thời gian, có nhân quả tạo thành trong kiếp này, có nhân quả phải đợi đến kiếp sau mới thành quả. 29
  36. Luật Nhân quả được giải thích một cách chặt chẽ thông qua “Thập nhị nhân duyên”. Như đã nói ở trên, duyên chính là điều kiện cho nhân thành quả. Thập nhị nhân duyên là mười hai điều kiện quan hệ với nhau để hình thành một chúng sinh hữu tình. Mười hai nhân duyên bao gồm: Vô minh, Hành, Thức, Danh sắc, Lục nhập, Xúc, Thụ, Ái, Thủ, Hữu, Sinh, Lão tử. Trong giáo lý Phật giáo, thuyết Thập nhị nhân duyên là một trong những thuyết quan trọng trong việc hình thành và phát triển thế giới quan của đạo Phật. Thuyết này giải thích tại sao con người lại cứ phải xoay chuyển trong vòng luân hồi sinh tử. Từ đó giúp con người định hướng trong suy nghĩ và hành động để điều khiển thân, tâm làm lành, tránh ác. Mười hai nhân duyên của luân hồi là một dây chuyền liên tục, chuyền từ khâu này đến khâu khác, trong một đời cũng như trong nhiều đời. Mười hai nhân duyên đó là vô minh duyên ra hành, hành duyên ra thức, thức duyên ra danh sắc, sắc duyên ra lục nhập, lục nhập duyên ra xúc, xúc duyên ra thọ, thọ duyên ra ái, ái duyên ra thủ, thủ duyên ra hữu, hữu duyên ra sinh, sinh duyên ra lão tử. Ý nghĩa của 12 nhân duyên 1. Vô minh: Vô minh là không sáng suốt, là mê lầm, không nhận được bản tính duyên khởi chân thật. Do vô minh, nên không biết đúng và đủ về tất cả các sự vật, hiện tượng và các mối quan hệ xung quanh. Vô minh là nguồn gốc gây nên mọi tội lỗi, làm cho chúng ta đau khổ. 2. Hành: là hành động, vì có vô minh mới gây ra sự chuyển dịch thành hành động, hành là tâm niệm sinh diệt chuyển biến không ngừng, nó làm cho chúng sinh nhận lầm có cái tâm riêng, cái ta riêng của mình, chủ trương gây các nghiệp, rồi về sau chịu quả báo. 3. Thức: Tâm niệm sinh diệt tiếp tục ấy, theo nghiệp báo duyên ra cái thức tâm của mỗi đời, chịu cái thân và cái cảnh của loài này hoặc loài khác. 4. Danh sắc: Các thức theo nghiệp báo duyên sinh ra danh sắc. Sắc bao gồm những cái có hình tướng, như thân và cảnh. Danh bao gồm những cái 30
  37. không có hình tướng, như cái sự hay biết, nói một cách khác, là thức tâm thuộc nghiệp nào thì hiện ra thâm tâm và cảnh giới của nghiệp ấy. 5. Lục nhập: Khi sự sống được hình thành thì sáu giác quan (căn) được hình thành, đó là: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý (nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý). Mỗi căn sẽ tương ứng với một trần: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Thân tâm đối với cảnh giới thì duyên khởi ra các sự lãnh nạp nơi sáu giác quan, nhãn căn lãnh nạp sắc trần, nhĩ căn lãnh nạp thanh trần, tỷ căn lãnh nạp hương trần, thiệt căn lãnh nạp vị trần, thân căn lãnh nạp xúc trần và ý căn lãnh nạp pháp trần. 6. Xúc: Do những lãnh nạp như thế, mà các trần ảnh hưởng đến tâm hay biết sinh ra quan hệ với nhau, nên gọi là xúc. 7. Thọ: Do những quan hệ giữa tâm và cảnh như thế, nên sinh ra các thọ là khổ thọ, lạc thọ, hỷ thọ, ưu thọ và xả thọ. 8. Ái: Do các thọ đó mà sinh lòng ưa ghét, đối với lạc thọ, hỷ thọ thì ưa, đối với khổ thọ, ưu thọ thì ghét và đã có ưa ghét thì tâm gắn bó với thân, với cảnh, hơn bao giờ hết. 9. Thủ: Do tâm gắn bó với thân, với cảnh nên không thấy được sự thật như huyễn, như hóa, mà còn kết hợp được những ảnh tượng rời rạc đã nhận được nơi hiện tại thành những sự tướng có định, rồi từ đó chấp mọi sự vật đều có thật, sự chấp trước như thế, gọi là thủ. 10. Hữu: Do tâm chấp trước nên những sự vật như huyễn, như hóa lại biến thành thật có, có thân, có cảnh, có người, có ta, có gây nghiệp, có chịu báo, có sống và có chết, cái có như thế, tức là hữu. 11. Sinh: Có sống, tức là có sinh, nói một cách khác là do không rõ đạo lý duyên khởi như huyễn, không có tự tánh, nên nhận lầm thật có sinh sống. 12. Lão tử: Lão tử là già rồi chết. Do có sinh sống, nên có già, rồi có chết. Trong mười hai nhân duyên thì nguyên nhân căn bản của luân hồi, tức là vô minh và nguyên nhân của tất cả sự chuyển biến trong luân hồi. Chỉ khi 31
  38. nào diệt trừ được vô minh, thì mới giác ngộ, chỉ khi nào diệt trừ được hành, thì mới hết sinh diệt. Luật Nhân quả có biểu hiện rất phức tạp. Một nguyên nhân có thể sinh ra nhiều quả nhưng cũng có quả do nhiều nguyên nhân gây ra. Có cái được gọi là nhân nhưng thực chất lại là duyên để tạo thành quả. Đồng thời, luật Nhân quả không bị ràng buộc vào thời gian, có nhân tạo thành quả ngay trong kiếp này, có nhân phải đợi đến kiếp sau, kiếp sau nữa mới thành quả. Sự chuyển hóa nhanh, chậm từ nhân sang quả còn phụ thuộc vào duyên. Nhà Phật có nói: “Phàm làm việc gì phải nghĩ đến kết quả của nó”. Con người chúng ta làm việc đôi khi do bản năng, tính háo thắng hoặc thiếu suy nghĩ mà không lường trước những hậu quả của nó. Phần lớn những sự thất bại trong công việc đều do những yếu tố chủ quan trên mà ra. Vì vậy, áp dụng đạo lý nhân quả vào các công việc xã hội, chúng ta sẽ có được những thành công trong lao động. Người hiểu luật Nhân quả sẽ không cho phép mình suy nghĩ, nói năng và làm việc xấu. Nếu mọi người ai cũng được vậy thì đất nước sẽ văn minh, xã hội có văn hoá, gia đình sẽ hạnh phúc. Vì thế, giáo dục con người biết suy nghĩ tốt, làm việc lành là một nhiệm vụ cao cả và thiết yếu. Những ai có niềm tin về nhân quả, thiện ác, dĩ nhiên khi suy nghĩ, nói năng hay hành động gì đều phải có thái độ thận trọng. Gắn liền chặt chẽ và không tách rời thuyết Nhân quả chính là thuyết Ngiệp báo, Luân hồi. Hai thuyết này được coi là nền móng của đạo đức học Phật giáo. Nghiệp báo chính là hệ luận của Luân hồi và ngược lại Luân hồi là hệ luận của Nghiệp báo. Hai thuyết này luôn bổ sung và gắn bó mật thiết với nhau. Nếu như con người thấu hiểu và thấm nhuần những giáo lý này thì họ sẽ có một lối sống lành mạnh, luôn hướng tới điều thiện để tích công đức cho bản thân và những người thân trong gia đình. Nghiệp (Karma) là hành động chịu ảnh hưởng của “Luật Nhân Quả”. Mỗi một hành động làm ra gọi là nguyên nhân, đều có một hậu quả tương ứng và hậu quả sẽ trở thành nguyên nhân cho một hậu quả kế tiếp. Nghiệp có liên 32
  39. hệ với luật duyên khởi. Chúng ta gây nhân nào thì gặt quả nấy, như tục ngữ có câu: Trồng cây nào thì gặt quả nấy. Nghiệp là luật công bằng cho tất cả mọi người, mọi loài trên đời, bản thân mình tạo ra cái gì thì sẽ hưởng lại cái đó. Ai làm điều tốt, giúp đỡ người khác thì sẽ được hưởng phước, trái lại nếu làm điều ác, gây tội lỗi thì sẽ phải chịu tội. Mặc dù Nghiệp báo là một định luật rất nghiêm ngặt nhưng nó cũng biến chuyển vô cùng linh hoạt. Một người nếu như ở kiếp trước tạo ra nhiều nghiệp ác, nhưng kiếp này lại làm được nhiều điều thiện thì nghiệp có thể đổi chiều. Theo đạo Phật, không phải hành động nào cũng là đều là nghiệp. Nghiệp chỉ được tạo ra nếu có một sự chủ ý. Một hành động có chủ ý được tạo bởi thân, khẩu và ý; hành động này sẽ gây nên một hậu quả trong tương lai. Sự chủ đó có thể là thiện / tốt hoặc có thể là ác / xấu hoặc có thể là trung tính / không thiện và không ác. Nghiệp không do Trời, Thượng đế hay bất cứ đấng siêu nhiên nào (như trong Thuyết đinh mệnh đề cập đến) tạo ra mà nghiệp chính là do chính mỗi cá nhân của một người tạo ra. Con người tự quyết định lấy chính cuộc sống của mình. Số phận con người do chính con người định đoạt thông qua việc cố gắng trau dồi những tư tưởng, lời nói và hành động tốt đẹp. Nghiệp được chia thành 4 loại: 1. Nặng tội nghiệp : đây là nghiệp gây ra các tội ác nặng nề như giết người, hãm hại người khác một cách tàn nhẫn . . . 2. Tập quán nghiệp: đây là nghiệp gây ra do các thói quen tạo thành. 3. Tích lũy nghiệp: đây là các nghiệp được tích lũy, được chứa đựng từ các hành động trong cuộc sống hằng ngày. 4. Cận tử nghiệp: đây là nghiệp tạo ra lúc sắp chết, nghiệp ở giữa sự sống và sự chết, nghiệp di chuyển từ đời sống này qua đời sống khác. Nhiều người có quan niệm sai lầm khi cho rằng nghiệp là định mệnh, là số phận đã được sắp đặt sẵn. Tuy nhiên, như đã nói ở trên thì nghiệp không phải là định mệnh, không do Thượng đế tạo ra để ban thưởng hay trừng phạt con người. Nhìn vào thực tế cuộc sống hằng ngày, nhiều người nêu lên sự 33
  40. nghịch lý, đó là: có những kẻ tàn ác, lười biếng mà vẫn giàu có, vẫn được sống bình an, sung sướng; còn có nhiều người ăn ở hiền lành, luôn tu nhân tích đức thì lại phải chịu cảnh nghèo túng, bất hạnh. Lý giải điều này, Phật giáo Đại thừa cho rằng Nghiệp hay luật nhân quả tạo ra nghiệp nhân và nghiệp quả, có thể chia ra làm 2 hình thức: - Thứ nhất là nhân quả đồng thời: có nghĩa là nhân sinh ra quả ngay lập tức, hoặc có một khoảng cách thời gian ngắn mà người đời có thể thấy ngay được: “Quả báo nhãn tiền” - Thứ hai là nhân quả khác thời: Nhân có thể tạo nên quả cần có một khoảng thời gian dài hơn. Hình thức này có thể chia làm 3 loại: 1. Hiện báo: tạo nghiệp nhân đời này thì lãnh quả báo ngay trong đời này. 2. Sinh báo: tạo nghiệp nhân đời này thì đến đời sau mới lãnh nghiệp quả. 3. Hậu báo: tạo nghiệp nhân trong đời này thì đến nhiều đời sau mới lãnh nghiệp quả. Theo quan niệm Phật giáo, “nghiệp” là do chủ ý đạo đức nên nghiệp trong đời sống hiện tại có thể hướng đến điều thiện tức là con người có thể chuyển đổi nghiệp để thay đổi hoàn cảnh sống của mình. Giáo lý nhân quả của Phật giáo dạy con người xa lánh các “nghiệp ác” và làm các “nghiệp thiện”. Con người vừa là chủ nhân của nghiệp, lại vừa là “kẻ thừa kế” của nghiệp do chính mình đã tạo ra. Con người không chỉ chịu trách nhiệm về nghiệp do chính mình tạo ra cho mình mà còn chịu trách nhiệm về nghiệp mà mình tạo ra cho người khác. Song song với thuyết Nghiệp báo là thuyết Luân hồi. Luân nghĩa là bánh xe, hồi là lăn tròn. Như vậy, luân hồi có nghĩa là một sự sống luôn luôn chuyển động và nối tiếp nhau như chiếc bánh xe quay từ quá khứ đến hiện tại và sau đó đến tương lai. Theo quan niệm Phật giáo, Luân hồi là Samsa, diễn tả một chuỗi Nghiệp báo hay một tràng Nhân – quả chuyển động và nối tiếp nhau. Con người khi chết đi coi như là đã trả xong nghiệp báo, người ở kiếp 34
  41. sau sẽ không còn là người ở kiếp trước, nhưng nếu như không có người ở kiếp trước thì sẽ không thể có người kiếp sau. Ai hiểu được thuyết luân hồi của Đức Phật thì cuộc sống sẽ trở nên bình thản và an nhiên, giàu có cũng không tự cao, tự đại, hay nghèo khổ cũng không than trách hay đổ lỗi cho ai. Biết rõ lý do luân hồi tự nhiên, con người sẽ không oán giận, thù ghét ai, luôn phấn đấu làm điều thiện để thay đổi số phận của mình ở kiếp sống tương lai. 1.3. Đánh giá chung về đạo đức Phật giáo 1.3.1. Giá trị của đạo đức Phật giáo Xét về tổng thể, có thể thấy đạo đức Phật giáo là một hệ thống đạo đức xuất thế và có khuynh hướng vô thần. Thông qua hệ thống giáo lý của mình, Phật giáo đã giáo dục con người tinh thần từ, bi, hỉ, xả, vô ngã, vị tha, khuyến khích con người phát huy tối đa tính tự giác, tự tại của nội tâm cá nhân, tiến tới hoàn thiện bản thân mình. Điểm mạnh của Phật giáo là ở chỗ khẳng định con người có thể tự quyết định lấy cuộc đời của chính mình, mà không hề lệ thuộc vào bất kì một đấng siêu nhiên nào. Giá trị nổi bật nhất của đạo đức Phật giáo chính là tính nhân văn, nhân bản sâu sắc. Trong giáo lý đạo Phật, con người luôn có vị trí quan trọng nhất, đây là điểm rất tiến bộ của đạo Phật so với các tôn giáo khác. Tính nhân văn cao cả của đạo đức Phật giáo được thể hiện ở lòng yêu thương con người và mục đích hướng tới hạnh phúc của con người. Những tư tưởng về thế giới quan, nhân sinh quan của Phật giáo mang một ý nghĩa giáo dục rất lớn đối với con người. Nó hướng con người tới một lối sống trong sạch, lành mạnh, vị tha, khoan dung, khơi dậy tình đoàn kết, tương thân tương ái. Thực tế đã cho thấy, đạo đức Phật giáo phù hợp với những chuẩn mực đạo đức của con người Việt Nam và nó đã có những đóng góp tích cực trong việc xây dựng một nền tảng đạo đức mới cho xã hội trên cơ sở kế thừa các giá trị đạo đức truyền thống đã được đặt ra. Tính hướng thiện của đạo Phật được xem là một trong những nguồn gốc của chủ nghĩa nhân đạo, đồng thời, những tư tưởng về bình 35
  42. đẳng trong Phật giáo cũng hoàn toàn phù hợp với xu hướng hòa đồng liên kết giữa các dân tộc trên thế giới trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay. Những chuẩn mực đạo đức cơ bản mà đạo đức Phật giáo nêu ra trong Ngũ giới, Thập thiện đã góp phần không nhỏ trong việc duy trì nếp sống đạo đức trong sáng, lành mạnh trong xã hội. Những chuẩn mực được đề cập đến không chỉ có ý nghĩa nuôi dưỡng lòng từ bi, nhân đạo ở mỗi cá nhân mà còn hướng tới việc xây dựng một xã hội đạo đức, ổn định. Một mặt, Ngũ giới có tác dụng ngăn ngừa những mầm mống nguy hại đến tư cách đạo đức con người, mặt khác lại khơi gợi những hành vi tốt phát triển. Có thể thấy, Ngũ giới bao hàm đầy đủ, toàn diện ba mặt “thể dục, trí dục, đức dục” trong việc hình thành nhân cách con người. Luật Nhân quả, Nghiệp báo, Luân hồi thì có tác dụng trực tiếp là lời khuyên con người làm thiện tránh ác, vì gieo nhân nào gặp quả nấy, thiện giả thiện báo, ác giả ác báo. Nó không chỉ có ý nghĩa nhất định trong việc cổ vũ con người hướng thiện mà còn là sự cảnh báo về những hành vi vi phạm đạo đức của con người. Thuyết Nhân quả của Phật giáo đã chỉ ra rằng: con người tự chịu trách nhiệm về hạnh phúc hay khổ đau bằng hành vi của chính mình chứ không phải do may rủi, định mệnh hay thần linh trừng phạt. Thuyết này khẳng định con người có thể làm chủ được cuộc sống của mình và đặt con người vào đúng vị trí, vai trò của nó trong xã hội. Nó nhấn mạnh vào trách nhiệm của từng cá nhân đối với các hành vi đạo đức, con người vì sợ quả báo, sợ bị đầy xuống địa ngục nên họ cố gắng làm thiện, tránh ác, tu nhân tích đức. Điều này góp phần hoàn thiện đạo đức cho từng cá nhân cũng như có lợi cho việc xây dựng một nền đạo đức tốt đẹp trong xã hội. Bên cạnh đó, thuyết Luân hồi của nhà Phật còn giúp con người hiểu được rằng họ phải chịu trách nhiệm về hành động của mình kể cả sau khi chết vì chết theo quan niệm của đạo Phật mới chỉ là chấm dứt một kiếp sống mà thôi. Trên thực tế, quan niệm này sẽ có tác dụng hạn chế được lối sống buông thả, ích kỷ, đề cao cá nhân, dẫn đến tham lam, tàn bạo, bất chấp đạo lý để thỏa mãn dục vọng cá nhân. 36
  43. 1.3.2. Hạn chế của đạo đức Phật giáo Bên cạnh những giá trị tích cực, đạo đức Phật giáo còn bộc lộ một số mặt hạn chế, ảnh hưởng tiêu cực tới ý thức đạo đức của con người. Trong đó hạn chế lớn nhất cần phải nhắc đến đó là các quan điểm duy tâm thần bí mang tính chất hư ảo. Đạo đức Phật giáo là một tôn giáo vô thần với tính nhân đạo sâu sắc, song các yếu tố duy tâm thần bí vẫn còn rất nhiều. Điều này khiến cho đạo Phật trở nên thiếu thực tế, không gắn kết chặt chẽ với đời sống thực tại. Có thể nói, đạo đức Phật giáo là đạo đức phi hành động, phi giai cấp, phi lịch sử. Phật giáo coi xã hội chỉ là một tập hợp những cá nhân khác nhau về đạo đức, nhưng không loại trừ nhau về giai cấp. Phật giáo không quan niệm con người như sự tồn tại của các thành viên của một quan hệ sản xuất, quan hệ kinh tế hay chính trị mà chỉ đơn thuần là quan hệ đạo đức thiện - ác. Đạo đức Phật giáo tuy phát triển nhưng đó chỉ là đạo đức cá nhân, chứ chưa đạt tới đạo đức xã hội. Nó đã tách dục vọng của con người ra khỏi điều kiện thực tiễn của con người xã hội. Phật giáo khuyên con người sống nhân ái, vị tha, xóa bỏ hận thù nhằm phát triển trí tuệ. Song, tôn giáo này lại lảng tránh sự đấu tranh, lảng tránh một thực tại là sự đối lập về điều kiện sống của những người bị áp bức và những kẻ áp bức mà đưa ra cho con người một nơi trốn tránh về mặt tinh thần để xoa dịu mọi cơn đau, đó là Niết bàn. Bởi vì quá nhấn mạnh đến việc hoàn thiện đạo đức nên Phật giáo đã bỏ quên những vai trò, giá trị của các hoạt động vật chất và những quan hệ hiện thực của con người. Bên cạnh ý nghĩa giáo dục, hướng con người tới một cuộc sống thanh cao, vượt qua những ham muốn vật chất tầm thường, Phật giáo lại có phần tiêu cực ở chỗ là đã thủ tiêu sức sống và hành động của con người, không khuyến khích con người nâng cao đời sống vật chất và phát triển khoa học kĩ thuật lại khuyên “thiểu dục, tri túc” (bớt ham muốn, biết đủ). Điều này lại hoàn toàn ngược với những mục tiêu mà công cuộc đổi mới của nước ta hiện nay đang đặt ra, đó là cần những con người năng động, dám nghĩ, dám làm, có ước mơ, hoài bão. 37
  44. Thuyết Nhân quả, Nghiệp báo, Luân hồi trong đạo đức Phật giáo cũng còn tồn tại những mặt tiêu cực. Nó tạo cho con người suy nghĩ là mình khổ bởi vì mình đang phải chịu nghiệp báo từ kiếp trước. Chính suy nghĩ này khiến con người hình thành lối sống cam chịu, nhẫn nhục. Điều này cũng đã bị giai cấp thống trị và bọn xâm lược lợi dụng để ru ngủ và làm suy giảm ý thức đấu tranh trong quần chúng nhân dân. Các lý thuyết về Nghiệp, Luân hồi, Niết bàn đã lôi kéo con người ra khỏi những hoạt động thực tiễn lâu dài, tách con người khỏi cuộc sống đời thường để thu mình vào cuộc sống tu tập. Hệ thống tri thức và nghi lễ Phật giáo còn mang nhiều yếu tố huyền bí, nặng về tin tưởng ở quyền năng và phép nhiệm màu siêu nhiên. Đây chính là cơ sở dẫn con người đến chỗ mù quáng, tạo nên sự mê tín dị đoan trong xã hội. Đa số những người đi chùa hiện nay đều không có đủ tri thức về Phật giáo, hầu hết những người theo đạo Phật đều hi vọng và tin tưởng vào sự cứu giúp, trợ lực của các đấng linh thiêng. Điều này là đi ngược hoàn toàn với quan niệm vô thần của Phật giáo. Và cũng từ đây, bọn xấu sẽ có cơ hội lợi dụng niềm tin sai lầm của các tín đồ đạo Phật mà đưa vào các sinh hoạt tín ngưỡng thêm nhiều điều mê tín với mục đích thu lợi cá nhân. Điển hình là các hoạt động đốt nhiều vàng mã, thỉnh vong, giải nghiệp 38
  45. Tiểu kết chương 1 Với những phạm trù cơ bản: Thiện – Ác, Từ bi, Ngũ giới, thuyết Nhân quả, Nghiệp báo, Luân hồi, Phật giáo đã xây dựng nên một hệ thống đạo đức hoàn chỉnh từ nhận thức, lý luận cho đến thực hành. Đạo đức Phật giáo có tác dụng khuyến thiện, trừ ác, giáo dục cho con người tinh thần từ bi, hỷ xả, vô ngã, vị tha. Đồng thời còn khuyến khích con người phát huy tối đa tính tự giác của nội tâm cá nhân, tiến đến hoàn thiện bản thân mình. Nhờ thông suốt các giáo lý Phật giáo, con người có thể tự quyết định cuộc đời của mình mà không phải lệ thuộc vào bất cứ ai hay một đấng siêu nhiên nào. Đạo đức Phật giáo mang tính nhân văn sâu sắc, phù hợp với các chuẩn đạo đức truyền thống cũng như những giá trị đạo đức hiện đại, vì thế mà nó được đại đa số người dân tin và thực hành theo, một trong số đó là tầng lớp thanh niên – những chủ nhân tương lai của đất nước. Với những giá trị tích cực của mình, đạo đức Phật giáo đã tạo ra một môi trường sống lành mạnh cho giới trẻ, giúp họ có được hành trang vững vàng không chỉ về tri thức mà còn cả về ý thức đạo đức để phát triển nhân cách một cách toàn diện nhất. 39
  46. CHƯƠNG 2: VAI TRÒ CỦA ĐẠO ĐỨC PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI VIỆC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO THANH NIÊN VIỆT NAM HIỆN NAY Trong thời đại ngày nay, xu thế toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra mạnh mẽ trên quy mô lớn. Cùng với sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại và mạng thông tin toàn cầu, “ngôi nhà” thế giới dường như trở nên “nhỏ bé” hơn. “Toàn cầu hoá kinh tế tạo ra cơ hội phát triển nhưng cũng chứa đựng nhiều yếu tố bất bình đẳng, gây khó khăn, thách thức lớn cho các quốc gia, nhất là các nước đang phát triển” [14,73]. Sự ảnh hưởng của quá trình này không chỉ về phương diện kinh tế mà còn gây ảnh hưởng sâu sắc đến mọi mặt của đời sống xã hội, đặc biệt là đạo đức. Bất luận dù là tham gia chủ động hay buộc phải cuốn theo một cách bị động vào quá trình toàn cầu hóa kinh tế thì văn hóa của các dân tộc đều phải tiếp xúc, giao thoa với các nền văn hóa khác trên thế giới, đều thôi thúc từng dân tộc suy nghĩ xem phải ứng xử với xu thế lịch sử này như thế nào. Trước điều kiện đó, mỗi nước, mỗi dân tộc phải biết lựa chọn, giữ gìn và phát huy những thế mạnh của mình để hoà nhập vào xu thế chung của thời đại, để phát triển bền vững đất nước. Ở Việt Nam, công cuộc đổi mới, phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đang đặt ra những yêu cầu to lớn về nhiều mặt, trước hết là chất lượng nguồn nhân lực. Con người cần có sự phát triển toàn diện cả về thể lực, trí lực và tâm lực, nhất là đối với thế hệ trẻ - tầng lớp chủ nhân tương lai của đất nước. 2.1. Vài nét về thực trạng đạo đức thanh niên Việt Nam hiện nay và những vấn đề đặt ra. 2.1.1. Khái niệm thanh niên và vai trò của thanh niên đối với xã hội Về khái niệm thanh niên có nhiều quan điểm khác nhau. Cuốn “Tìm hiểu một số thuật ngữ về công tác thanh niên” đưa ra khái niệm: “Thanh niên 40
  47. là một tầng lớp người – xã hội đặc thù, với độ tuổi nằm trong giới hạn từ 14, 15 đến trên dưới 30, tùy thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội và đặc điểm của từng quốc gia, dân tộc. Nét đặc thù của thanh niên chính là ở những đặc điểm tâm lý, sinh lý của lứa tuổi này. Giới hạn về độ tuổi nêu trên có tính chất quy ước, không ổn định và có thể thay đổi. Những đặc điểm tâm lý của thanh niên là hăng hái, nhiệt tình, có nhiều hoài bão, ước mơ, trong sáng, vô tư, ưa cách tân, thích đổi mới, dám mạo hiểm. Tuy nhiên do thiếu từng trải, thiếu kinh nghiệm sống nên thanh niên cũng dễ sa vào trạng thái cực đoan: thực dụng, tự do vô chính phủ, dễ bị lôi kéo, kích động, dễ sa vào tệ nạn xã hội ” [38]. Về mặt sinh học, thanh niên là một giai đoạn trong quá trình phát triển của cơ thể người, là giai đoạn chuyển tiếp từ trẻ em sang người trưởng thành. Còn dưới góc độ kinh tế, thanh niên được hiểu là lực lượng lao động dồi dào của xã hội, có khả năng đóng góp cho xã hội nhờ vào sự khỏe mạnh và nhanh nhẹn của tuổi trẻ. Thanh niên là lứa tuổi đang phát triển, định hướng và trưởng thành về mọi mặt: thể chất và tinh thần, về nhu cầu tình cảm và tâm lý, về khả năng và nhân cách. Như Kalinin – một nhà giáo dục của Nga đã nhận xét và đánh giá: “thanh niên là lứa tuổi đẹp nhất của cuộc đời, là đơn vị tuyệt vời nhất và linh hoạt nhất của nhân loại” vì “thanh niên vốn trung thực, thật thà , thẳng thắn như chân lý khách quan”. Sự phát triển về tâm lý, nhu cầu tình cảm, trí tuệ và nhân cách ở độ tuổi thanh niên rất phong phú và mạnh mẽ, đặc biệt là có sự mâu thuẫn giữa phát triển sinh lý và tâm lý, giữa con người tự nhiên với con người xã hội. Vai trò của thanh niên đối với xã hội là vấn đề được rất nhiều nhà tư tưởng quan tâm. C. Mác và Ph. Ănghen coi sự nghiệp của thanh niên gắn liền với giai cấp vô sản và phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản. Các nhà kinh điển đã nhận thấy được vai trò vô cùng quan trọng của những người trẻ với tư cách là lực lượng lao động chủ yếu trong mọi lĩnh vực xã hội, mọi tầng lớp 41
  48. giai cấp, đặc biệt là giai cấp công nhân. Chính vì thế, những người sáng lập ra chủ nghĩa Mác – Lênin đã luôn quan tâm đến việc bồi dưỡng, giáo dục thế hệ trẻ - lực lượng sẽ kế tục sự nghiệp cách mạng của giai cấp công nhân trong giai đoạn tiếp theo. C. Mác chỉ rõ: “Những người công nhân tiên tiến nhất cũng hoàn nhận thức được rằng tương lai của giai cấp họ và do đó, của cải loài người tùy thuộc vào việc giáo dục thế hệ công nhân đang lớn lên” [31,262]. Kế thừa, vận dụng và phát triển những những học thuyết của C. Mác và Ănghen, Lênin cũng đã nhận thấy được tầm quan trọng của tầng lớp thanh niên. Ông đã khẳng định thanh niên là lực lượng chính trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và tiến lên chủ nghĩa cộng sản: “Theo một ý nghĩa nào đó, có thể nói rằng nhiệm vụ thật sự xây dựng xã hội cộng sản chính là của thanh niên” Và “tất cả nam nữ thanh niên đều phải là người xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa” [30,366]. Tiếp thu những quan điểm của các nhà kinh điển Mác – Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng bàn nhiều đến vai trò và nhiệm vụ của thanh niên. Ngay trong thời kỳ đất nước còn chịu cảnh chiến tranh, nô lệ, Bác đã khẳng định vai trò của lực lượng thanh niên trong cách mạng. Người nêu lên quan điểm muốn thức tỉnh một dân tộc, trước hết phải thức tỉnh thanh niên. Trong suốt hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở các cán bộ, đoàn viên phải hiểu về thế hệ mình, thế hệ đang được Đảng chăm lo đào tạo, giáo dục, là “lớp người giương cao ngọn cờ của chủ nghĩa anh hùng cách mạng”. Từ chỗ đánh giá khả năng cách mạng của thanh niên, Người đã khẳng định về một tương lai tươi sáng của đất nước do thế hệ trẻ mang lại: “Với một thế hệ thanh niên hăng hái, kiên cường, Người thấy tương lai của dân tộc ta vô cùng vững chắc và vẻ vang”. Bởi nhận thức được vị trí quan trọng, không thể thiếu được của tầng lớp thanh niên đối với sự nghiệp cách mạng, trong di chúc (ngày 10/5/1969), Bác đã viết: “Đoàn viên và thanh niên ta nói chung là tốt, mọi việc đều hăng hái xung phong, không 42
  49. ngại khó khăn, có chí tiến thủ. Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng Chủ nghĩa xã hội vừa “hồng”, vừa “chuyên”. Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và cần thiết” [10,2]. Trong quá trình lãnh đạo, Đảng ta luôn đánh giá đúng vị trí, vai trò quan trọng của thanh niên và công tác thanh niên trong sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc. Nghị quyết Trung ương 4 (khóa VII) về công tác thanh niên trong thời kỳ đổi mới đã khẳng định: “Sự nghiệp đổi mới có thành công hay không, cách mạng Việt Nam có vững bước theo con đường xã hội chủ nghĩa hay không phần lớn tùy thuộc vào lực lượng thanh niên, vào việc bồi dưỡng, rèn luyện thế hệ thanh niên. Công tác thanh niên là vấn đề sống còn của dân tộc, là một trong những nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng”. Nghị quyết Trung ương 7 (khóa X): “Về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên” tiếp tục khẳng định: Thanh niên là lực lượng xã hội to lớn, một trong những nhân tố quan trọng quyết định tương lai, vận mệnh dân tộc; là lực lượng chủ yếu trên nhiều lĩnh vực, đảm nhận những công việc đòi hỏi hy sinh, gian khổ, sức khỏe và sáng tạo. Thanh niên là độ tuổi sung sức nhất về thể chất và phát triển trí tuệ, luôn năng động, sáng tạo, muốn tự khẳng định mình. 2.1.2. Vài nét về thực trạng đạo đức của thanh niên Việt Nam hiện nay và những yêu cầu đặt ra đối với việc giáo dục đạo đức thanh niên Việt Nam hiện nay. Ở bất kì thời kì nào, thanh niên luôn là một lực lượng giữ vị trí đặc biệt quan trọng trong đời sống lao động, sản xuất, là những người trực tiếp góp sức mình vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Đặc biệt, trong bối cảnh toàn cầu hóa với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường và xu hướng hội nhập thì vai trò của thanh niên là càng trở nên quan trọng hơn bảo giờ hết. Nhìn chung, thanh niên Việt Nam ngày nay vẫn giữ gìn đạo đức trong sáng, phát huy bản sắc dân tộc và tiếp thu nhanh chóng các giá trị văn hóa tiên 43
  50. tiến của thế giới. Đa số thanh niên vẫn phát huy tốt các giá trị đạo đức truyền thống như làm đạo hiếu với cha mẹ, tôn sư trọng đạo, uống nước nhớ nguồn, thương người như thể thương thân, biết kính trên nhường dưới Bên cạnh sự kế thừa và phát huy những giá trị đạo đức truyền thống, những phẩm chất giá trị đạo đức mới cũng đang hình thành một cách rõ nét trong đại bộ phận thanh niên Việt Nam. Là thế hệ trẻ năng động, tích cực, thanh niên có nhiều lợi thế trong việc tiếp cận những yêu cầu của xã hội hiện đại. Thanh niên Việt Nam ngày càng tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, sự thành công của công cuộc đổi mới đất nước do Đảng khởi xướng và lãnh đạo. Đa số bộ phận thanh niên đã tự nhận thức được đúng đắn những nhiệm vụ mà bản thân mình cần thực hiện để góp sức vào xây dựng thành công mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Từ đó, thanh niên đã xác định được nghĩa vụ của mình đối với bản thân, gia đình, xã hội. Đảng ta đã nhận định: “Một trong những thành tựu của công cuộc đổi mới đất nước là đã xây dựng được thế hệ thanh niên thời kỳ mới có đạo đức, có nhân cách, tri thức, sức khỏe, tư duy năng động và hành động sáng tạo; tiếp nối truyền thống hào hùng của Đảng và dân tộc, nêu cao lòng yêu nước, ý thức xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; không ngại khó khăn gian khổ, tình nguyện vì cộng đồng; có trách nhiệm với gia đình, xã hội; có ý chí vươn lên trong học tập, lao động, lập thân, lập nghiệp, làm giàu chính đáng, quyết tâm đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu; mong muốn được tin tưởng, được cống hiến cho đất nước, có việc làm, thu nhập ổn định, đời sống văn hóa tinh thần lành mạnh phong phú, môi trường sống an toàn ”[2] Để đáp ứng những yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đặt ra, hầu hết thanh niên đã chủ động phát huy tinh thần tự giác, vận dụng hiệu quả năng lực và khả năng sáng tạo nhằm chiếm lĩnh những thành quả mới. Trong những năm gần đây, nước ta liên tục xuất hiện những tài năng trẻ, đó là những thanh niên có năng lực, năng động và khả năng sáng tạo, sẵn sàng vượt qua mọi khó khăn, thách thức để khẳng định bản thân, góp 44
  51. phần đưa đất nước phát triển hơn. Bên cạnh đó, các chương trình về tìm kiếm tài năng, khởi nghiệp được đông đảo thanh niên hưởng ứng tham gia. Đặc biệt, trong các hoạt động xã hội, hoạt động nhân đạo, thanh niên luôn là lực lượng nòng cốt. Số lượng các hoạt động, phong trào ngày càng tăng, thu hút được nhiều thanh niên, học sinh, sinh viên tham gia như: phong trào “Thanh niên tình nguyện thực hiện chương trình trọng điểm quốc gia”, “Thanh niên thực hiện nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc”, chiến dịch “Mùa hè xanh”, các hoạt động hiến máu nhân đạo, quyên góp ủng hộ đồng bào bị thiên tai, phụng dưỡng các bà mẹ Việt Nam anh hùng, Thông qua những hoạt động này, thanh niên hình thành được những chuẩn mực giá trị đạo đức cao đẹp, ý thức và thói quen công dân, trách nhiệm cộng đồng trong xã hội văn minh hiện đại, củng cố và xây dựng lòng nhân ái và tinh thần xung phong tình nguyện, ý thức chia sẻ, tinh thần tương thân tương ái. Trong xu thế đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đưa đất nước hội nhập với thế giới, Việt Nam chịu sự tác động không nhỏ của các luồng văn hóa ngoại lai, trong đó có cả những yếu tố tích cực và tiêu cực. Những yếu tố này có ảnh hưởng không hề nhỏ đến nền đạo đức xã hội nói chung và đặc biệt là thế hệ thanh niên nói riêng. Bên cạnh bộ phận thanh niên chủ động, tích cực, biết lựa chọn tiếp thu các yếu tố văn hóa tích cực từ bên ngoài thì vẫn còn một số những thanh niên không có lập trường, đã bị chi phối bởi các yếu tố tiêu cực, dẫn đến suy thoái về mặt đạo đức, gây tác động xấu cho chính bản thân, gia đình và xã hội. Đề cập đến những hạn chế của thanh niên hiện nay, Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã chỉ rõ rằng thế hệ trẻ Việt Nam hiện nay, bên cạnh những ưu điểm đang có những biểu hiện phức tạp và những chiều hướng phát triển đáng lo ngại. Sự phát triển của nền kinh tế thị trường có tác động hai mặt lên ý thức đạo đức của tầng lớp thanh niên Việt Nam hiện nay. Một mặt nó thúc đẩy sự hình thành và phát triển các phẩm chất đạo đức mới như chủ động, năng động, sáng tạo, tự chủ, tự giác ở thanh niên. Mặt khác, nền kinh tế thị trường 45
  52. cũng đã tạo ra những tác động tiêu cực, gây ra những quan niệm và hành vi đạo đức lệch lạc ở một bộ phận thanh niên. Cụ thể, những nhu cầu về lợi ích kinh tế đã làm cho thanh niên chạy theo lối sống thực dụng, coi trọng chủ nghĩa cá nhân, chỉ quan tâm đến lợi ích về mặt vật chất mà coi nhẹ các giá trị về mặt tinh thần, chỉ đề cao lợi ích cá nhân mà coi nhẹ lợi ích của tập thể, cộng đồng. Chỉ vì chạy theo đồng tiền mà nhiều thanh niên đã tham gia vào các hoạt động phi pháp như buôn lậu, trốn thuế, lừa đảo, sản xuất hàng giả, hàng nhái, Bên cạnh đó, thực trạng thanh niên sa ngã vào các tệ nạn xã hội đang trở thành một vấn đề đáng lo ngại mà cả xã hội quan tâm. Số lượng thanh niên nghiện ma túy, nhiễm HIV hay tham gia hoạt động mại dâm đang có chiều hướng gia tăng, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự ổn định của xã hội, làm suy thoái giống nòi và gây lãng phí lực lượng lao động. Đối lập với những thanh niên sống có đạo đức, lý tưởng cao đẹp là không ít những thanh niên trẻ sống thiếu lí tưởng, thiếu ý thức trong việc chấp hành pháp luật, ít quan tâm đến tình hình đất nước, sống thực dụng và xa rời các chuẩn mực đạo đức truyền thống của dân tộc. Một bộ phận thanh niên còn mơ hồ về lý tưởng cách mạng, không có mục đích sống rõ ràng, thiếu sự chủ động, ngại tham gia các hoạt động xã hội, ý chí phấn đấu chưa cao, thờ ơ với cái chung của đất nước, của tập thể. Họ chưa nhận thức được vai trò và trách nhiệm của mình trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Mặt khác, họ cũng chưa thấy rõ được âm mưu “ diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, luôn chủ quan, không đánh giá hết được những nguy cơ tiềm ẩn. Nhiều thanh niên có suy nghĩ không chín chắn, bồng bột, bị người khác xúi giục nên đã có những thái độ, hành vi chống đối, đi ngược lại với các chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước. Một số thanh niên là sinh viên còn chưa có ý thức trau dồi tri thức, có hành vi vi phạm pháp luật, vi phạm nội quy, quy chế, thiếu trung thực trong học tập và gian lận trong thi cử. Vẫn còn một bộ phận nhỏ chỉ đòi quyền hưởng thụ, không nghĩ đến nghĩa vụ và trách nhiệm cống hiến, chưa tích cực 46
  53. học tập và rèn luyện, ý thức chuẩn bị cho ngày mai lập nghiệp chưa cao. Một số ít sinh viên ở một số trường còn biểu hiện lối sống thiếu trung thực, đua đòi, ăn diện, xa hoa, lãng phí. Như vậy, thực trạng đạo đức thanh niên Việt Nam hiện nay tồn tại cả những mặt tích cực và tiêu cực. Trước tình hình đó, chúng ta cần phải xây dựng một nền đạo đức mới cho thanh niên Việt Nam. Nền đạo đức đó vừa phải có sự kế thừa và kết tinh những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc, trong đó có đạo đức Phật giáo, mặt khác phải đáp ứng được những yêu cầu của đất nước trong bối cảnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Theo tôi, vấn đề giáo dục đạo đức thanh niên Việt Nam hiện nay đang đặt ra một số yêu cầu sau đây: Thứ nhất, cần phải thường xuyên chăm lo giáo dục đạo đức, lối sống lành mạnh, xây dựng lý tưởng đạo đức cho một thế hệ thanh niên nhằm đáp ứng yêu cầu của đổi mới. Hiện nay, vấn đề giáo dục đạo đức cho thanh niên vẫn chưa được chú trọng và quan tâm thường xuyên. Trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước hiện nay, nước ta cần có những thế hệ thanh niên có đạo đức, dám xả thân vì nghĩa lớn, có tài năng và lối sống lành mạnh. Thanh niên chính là người tạo ra sức mạnh của thời đại, cái tạo nên sức mạnh của thanh niên thì không có gì khác ngoài lý tưởng của họ. Việc tăng cường giáo dục đạo đức cho thanh niên sẽ giúp họ có thể nhận thức được những giá trị đạo đức cần thiết như tinh thần yêu nước, lòng nhân ái, đức tính cần cù, vị tha, trung thực, Thông qua những nhận thức đó, thanh niên sẽ hình thành những ý thức và hành vi đạo đức tích cực, hoàn thiện nhân cách cá nhân và điều chỉnh được các mối quan hệ xã hội. Để có thể thực hiện và hoàn thành tốt công tác giáo dục đạo đức cho thanh niên Việt Nam hiện nay, chúng ta cần phải: 47
  54. - Đề cao các giá trị, phẩm chất đạo đức tốt đẹp của dân tộc trên cơ sở tiếp thu các giá trị văn hóa tiến bộ của nhân loại. - Phát huy chủ nghĩa nhân đạo, lòng bao dung, thương người vốn có trong tâm thức người Việt. - Tập trung đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục và vận động cho toàn xã hội thấy được vai trò, ý nghĩa và sự cần thiết của công tác giáo dục đạo đức thanh niên. - Tăng cường vai trò, trách nhiệm của các cơ quan truyền thông, báo chí nhằm kịp thời cung cấp các thông tin chính thống về tình hình trong nước và thế giới cho thanh niên. Chú trọng truyên truyền về các phong trào thi đua yêu nước, gương người tốt việc tốt, đấu tranh chống diễn biến hòa bình - Ngăn chặn những mặt tiêu cực của nền kinh tế thị trường như tệ nạn xã hội, tham nhũng, cạnh tranh không lành mạnh, chạy theo lợi ích cá nhân - Cổ vũ thanh niên phấn đấu để xây dựng một lý tưởng sống cao đẹp, tôn trọng những giá trị, chuẩn mực đạo đức của xã hội. Thứ hai, cần phải tăng cường mối quan hệ giữa gia đình, nhà trường và xã hội trong việc giáo dục và rèn luyện đạo đức, lối sống cho thanh niên. Gia đình là nơi lưu giữ các giá trị truyền thống tốt đẹp của các thế hệ ông bà, tổ tiên, là môi trường đầu tiên tác động đến việc hình thành đạo đức của thanh niên. Trong mỗi gia đình, ông bà, cha mẹ chính là những tấm gương về đạo đức, lối sống cho con cái noi theo. Tuy nhiên, hiện nay, vì sức ép “ cơm áo gạo tiền” khiến cho không ít các bậc phụ huynh mải mê làm việc, kiếm tiền, chỉ nghĩ đến làm giàu mà bỏ bê con cái, không quan tâm đến việc giáo dục đạo đức cho con mà đẩy trách nhiệm này cho nhà trường và xã hội. Chính điều này đã dẫn đến tình trạng nhiều bạn học sinh, sinh viên có biểu hiện suy thoái về đạo đức, vi phạm pháp luật nhưng bố mẹ lại không hề hay biết, hoặc không biết cách để ngăn chặn, phòng ngừa. Để thanh niên có được một môi trường phát triển toàn diện nhất, mỗi gia đình cần phải giữ gìn đạo đức, nề nếp gia phong, phát huy các giá trị truyền thống tốt đẹp để con cháu học tập theo. 48
  55. Bên cạnh đó, vai trò của nhà trường trong việc giáo dục đạo đức thanh niên cũng cần phải được tăng cường. Nhà trường không chỉ là nơi dạy chữ, dạy nghề mà còn phải là nơi để rèn đạo đức cho thanh niên. Vấn đề giáo dục lý tưởng, đạo lý làm người phải trở thành một trong những nội dung giáo dục hàng đầu được chú trọng. Nhà trường cần luôn tích cực đổi mới phương pháp giảng dạy và học tập các môn học về lý luận chính trị, đạo đức để giúp thanh niên có tri thức đúng đắn, toàn diện về chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, sống có văn hóa, có đạo đức, xây dựng được một lối sống trong sáng, lành mạnh, có lý tưởng và niềm tin vào con đường xây dựng và phát triển đất nước. Xây dựng trường học thực sự trở thành trung tâm văn hóa, giáo dục, rèn luyện thanh thiếu niên; đồng thời cần kết hợp hài hòa giữa học chính khóa và ngoại khóa, qua đó góp phần hình thành lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống văn hóa cho thế hệ trẻ. Tạo điều kiện để các tổ chức Đoàn, Hội trong trường học phát huy vai trò, ảnh hưởng và tích cực tham gia quá trình giáo dục toàn diện học sinh, sinh viên. Về mặt xã hội, ngày nay, thanh niên đang sống trong thời kì kinh tế phát triển mạnh mẽ, thời đại thông tin bùng nổ và giao lưu quốc tế ngày càng mở rộng. Trong môi trường đó, thanh niên đã và đang chịu tác động cả về mặt tích cực và tiêu cực. Vì vậy, Đảng, Nhà nước và các tổ chức xã hội cần thiết phải tạo ra được những điều kiện thuận lợi để thanh niên tiếp thu những cái tốt, cái đẹp và loại bỏ những cái tiêu cực, hạn chế. Cần phải biểu dương, khen ngợi những tấm gương tốt trong lao động, rèn luyện đạo đức và phê phán những người có hành vi lệch lạc, sai trái. Nói tóm lại, để thanh niên nói riêng và thế hệ trẻ Việt Nam hiện nay nói chung có thể phát triển nhân cách một cách toàn diện nhất thì cần phải có sự phối hợp của cả gia đình, nhà trường và toàn xã hội. Mối quan hệ này tạo thành một sợi dây liên kết chặt chẽ, tập hợp được các yếu tố thuận lợi nhất cho thanh niên trong quá trình học tập và rèn luyện. 49
  56. Thứ ba, cần phát huy vai trò tự học tập, tự tu dưỡng và rèn luyện đạo đức của thanh niên. Thanh niên là lớp người tràn đầy sự nhiệt tình, hăng hái và luôn sẵn sàng tiếp thu những cái mới lạ. Trước những tác động của điều kiện kinh tế - xã hội hiện nay, thanh niên có một môi trường thuận lợi để phát huy sự chủ động của bản thân trong quá trình hoàn thiện nhân cách. Trước hết, mỗi thanh niên cần phải tự xác định cho mình một động cơ, nhu cầu chính đáng để phấn đấu, rèn luyện, học hỏi và vươn lên tự khẳng định bản thân. Gia đình, nhà trường và xã hội sẽ là những môi trường quan trọng trong việc giúp thanh niên có được định hướng đúng đắn. Một khi đã có định hướng, thanh niên sẽ theo đó mà phấn đấu, rèn luyện, hoàn thành tốt những nhiệm vụ được giao. Ngoài ra, bản thân thanh niên cần phải tự ý thức, tự xây dựng lý tưởng, hoài bão vươn tới cái mới, cái tiến bộ. Trước những khó khăn, thử thách, họ phải không ngừng cố gắng thay đổi bản thân, nỗ lực để vượt qua, loại bỏ những yếu tố tiêu cực của xã hội, bài trừ những biểu hiện của chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa cá nhân, tránh được những cám dỗ xấu xa. Tự học tập, tự rèn luyện là con đường phát triển suốt đời của mỗi người. Việc phát huy vai trò chủ động, tự giác của thanh niên trong quá trình hoàn thiện bản thân là một biện pháp quan trọng giúp họ nhanh chóng trưởng thành và tiến bộ. 2.2. Một số vai trò chủ yếu của đạo đức Phật giáo đối với việc giáo dục đạo đức cho thanh niên Việt Nam hiện nay 2.2.1. Đạo đức Phật giáo góp phần hình thành ý thức đạo đức tích cực cho thanh niên Việt Nam. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin: “Ý thức đạo đức là toàn bộ những quan niệm về thiện và ác, tốt, xấu, lương tâm, trách nhiệm, hạnh phúc, công bằng và về những quy tắc đánh giá, điều chỉnh hành vi ứng xử giữa cá nhân với xã hội, giữa cá nhân với cá nhân trong xã hội” [55,590]. Ý thức đạo đức được biểu hiện thông qua tri thức đạo đức, niềm tin đạo đức, tình cảm đạo đức và lý tưởng đạo đức. 50