Khóa luận Đánh giá khả năng sinh trưởng của một số giống táo tại trường Đại học Nông lâm Thái Nguyên
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Đánh giá khả năng sinh trưởng của một số giống táo tại trường Đại học Nông lâm Thái Nguyên", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- khoa_luan_danh_gia_kha_nang_sinh_truong_cua_mot_so_giong_tao.pdf
Nội dung text: Khóa luận Đánh giá khả năng sinh trưởng của một số giống táo tại trường Đại học Nông lâm Thái Nguyên
- ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM NÔNG THỊ DƯƠNG Tên đề tài: ĐÁNH GIÁ KHẢ NĂNG SINH TRƯỞNG CỦA MỘT SỐ GIỐNG TÁO TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM THÁI NGUYÊN KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Hệ đào tạo : Chính quy Chuyên ngành : Trồng trọt Khoa : Nông học Khóa học : 2015-2019 Thái nguyên, năm 2019
- ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM NÔNG THỊ DƯƠNG Tên đề tài: ĐÁNH GIÁ KHẢ NĂNG SINH TRƯỞNG CỦA MỘT SỐ GIỐNG TÁO TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM THÁI NGUYÊN KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Hệ đào tạo : Chính quy Chuyên ngành : Trồng trọt Lớp : 47 - TT N01 Khoa : Nông học Khóa học : 2015-2019 Giảng viên hướng dẫn : TS.Nguyễn Minh Tuấn Thái nguyên, năm 2019
- i LỜI CẢM ƠN Thực tập tốt nghiệp là giai đoạn quan trọng nhất đối với tất cả các sinh viên nói chung và sinh viên trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên nói riêng. Đây là khoảng thời gian cần thiết để mỗi sinh viên củng cố và hệ thống hóa kiến thức đã học vào thực tế. Đồng thời giúp sinh viên có điều kiện làm quen với công việc sản xuất, học hỏi kinh nghiệm nâng cao trình độ chuyên môn, nắm được phương pháp tổ chức và tiến hành nghiên cứu khoa học. Từ đó tạo cho mình tác phong nhanh nhẹn, tính sáng tạo và say mê trong công việc, trở thành người cán bộ khoa học thực thụ góp phần vào sự phát triển của nền nông nghiệp nước nhà. Xuất phát từ quan điểm trên, được sự nhất trí của ban chủ nhiệm khoa Nông học, Trường Đại học Nông lâm Thái Nguyên, tôi đã tiến hành đề tài: “Đánh giá khả năng sinh trưởng của một số giống táo tại trường Đại học Nông lâm Thái Nguyên” Để hoàn thành được đề tài này tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Ban Giám Hiệu nhà trường, Ban chủ nhiệm khoa nông học và toàn thể các thầy cô giáo trong khoa, đặc biệt là sự chỉ bảo tận tình của giảng viên hướng dẫn TS.Nguyễn Minh Tuấn tạo mọi điều kiện giúp đỡ tôi vượt qua những bỡ ngỡ, khó khăn trong suốt thời gian thực tập để hoàn thành nhiệm vụ của mình. Nhân dịp này tôi xin được cảm ơn chân thành, sâu sắc nhất tới sự giúp đỡ to lớn của quý thầy cô, gia đình và bạn bè. Do điều kiện thời gian và trình độ còn nhiều hạn chế nên bản chuyên đề của tôi không tránh khỏi những thiếu sót. Vậy tôi kính mong các thầy cô giáo và các bạn đóng góp ý kiến để bản chuyên đề của tôi được hoàn thiện hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn! Thái nguyên, ngày tháng năm 2019 Sinh viên Nông Thị Dương
- ii MỤC LỤC LỜI CẢM ƠN 2 MỤC LỤC ii DANH MỤC CÁC BẢNG v DANH MỤC CÁC BIỂU VÀ HÌNH vi PHẦN 1 MỞ ĐẦU 1 I Đặt vấn đề 1 1.1. Tính cấp thiết của đề tài 1 1.2. Mục đích nghiên cứu 2 1.3. Yêu cầu 2 1.4. Ý nghĩa của đề tài 2 1.4.1. Ý nghĩa khoa học của đề tài 2 1.4.2. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài 2 Phần 2: TỔNG QUAN TÀI LIỆU 3 2.1.Cở sở khoa học của đề tài 3 2.2. Nguồn gốc 3 2.3. Đặc điểm thực vật học của cây táo. 6 2.3.1 Đặc điểm của rễ 6 2.3.2 Đặc điểm của thân, cành 7 2.3.3 Đặc điểm của lá 7 2.3.4 Đặc điểm của hoa 7 2.3.5. Đặc điểm của quả 8 2.4. Yêu cầu sinh thái của cây táo 8 2.4.1. Ánh sáng 8 2.4.2. Nhiệt độ 8 2.4.3. Nước 9 2.4.4. Ẩm độ 9
- iii 2.4.5. Đất đai và dinh dưỡng 10 3. Tình hình sản xuất táo trong nước và trên thế giới 10 3.1. Tình hình sản xuất táo trên thế giới 10 3.2. Tình hình sản xuất táo trong nước 15 4. Tình hình nghiên cứu về cây táo trong nước và trên thế giới 18 4.1. Tình hình nghiên cứu về cây táo trên thế giới 18 4.2. Tình hình nghiên cứu về cây táo trong nước 22 Phần 3 : NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 30 3.1. Đối tượng nghiên cứu 30 3.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu 32 3.3. Nội dung nghiên cứu 32 3.4 Phương pháp nghiên cứu 32 3.4.1 Phương pháp bố trí thí nghiệm 32 3.4.2 Chỉ tiêu và phương pháp theo dõi: 33 3.6. Phương pháp xử lý số liệu 34 PHẦN 4 KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 35 4.1. Đặc điểm hình thái của cây táo 35 4.1.1. Sự tăng trưởng về chiều cao của các giống táo sau trồng. 35 4.1.2 Sự tăng trưởng về đường kính của cây táo. 38 4.2. Động thái phát triển lộc của các giống táo trong thí nghiệm. 44 4.2.1. Động thái tăng trưởng lộc hè của các giống táo trong thí nghiệm 44 4.2.1.1 Động thái tăng trưởng chiều dài lộc hè của các giống táo trong thí nghiệm 44 4.2.1.2 Động thái tăng trưởng đườngkính lộc hè của các giống táo trong thí nghiệm 46 4.2.1.3. Động thái tăng trưởng số lá lộc hè của các giống táo trong thí nghiệm 48 4.2.2. Động thái tăng trưởng lộc thu của các giống táo trong thí nghiệm 50
- iv 4.2.2.1 Động thái tăng trưởng chiều dài lộc thu của các giống táo trong thí nghiệm 50 4.2.2.2 Động thái tăng trưởng đườngkính lộc thu của các giống táo trong thí nghiệm 54 4.2.2.3 Động thái tăng trưởng số lá lộc thu của các giống táo trong thí nghiệm 56 4.2.3. Động thái tăng trưởng lộc đông của các giống táo trong thí nghiệm 58 4.2.3.1 Động thái tăng trưởng chiều dài lộc đông của các giống táo trong thí nghiệm 58 4.2.3.2 Động thái tăng trưởng đường kính lộc đông của các giống táo trong thí nghiệm 61 4.2.3.3 Động thái tăng trưởng số lá lộc đông của các giống táo trong thí nghiệm 63 4.3. Sâu bệnh hại 66 PHẦN 5 KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 69 5.1 Kết luận 69 5.2. Đề Nghị 69 LIỆU THAM KHẢO 70 Phụ lục 1 Phục lục 2 Phụ lục 3
- v DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng 3.1. Tình hình sản xuất táo của một số châu lục năm 2017 13 Bảng 3.2. Tình hình sản xuất táo trên thế giới giai đoạn 2010- 2017 14 Bảng 3.3. Tình hình sản xuất táo ở một số nước trên thế giới năm 2017 14 Bảng 4.1: Động thái tăng trưởng chiều cao của cây táo sau trồng theo tháng 35 Bảng 4.2: Động thái tăng trưởng đường kính của cây táo sau trồng theo tháng 39 Bảng 4.3. Thời gian ra lộc hè của cây táo 41 Bảng 4.4. Thời gian ra lộc thu của cây táo 42 Bảng 4.5. Thời gian ra lộc đông của cây táo 43 Bảng 4.6: Động thái phát triển chiều dài lộc hè 44 Bảng 4.7: Động thái phát triển đường kính lộc hè 46 Bảng 4.8: Động thái phát triển số lá/ lộc hè 48 Bảng 4.9: Động thái phát triển chiều dài lộc thu 50 Bảng 4.10: Động thái phát triển đường kính lộc thu 54 Bảng 4.11: Động thái phát triển số lá lộc thu 56 Bảng 4.12: Động thái tăng trưởng chiều dài lộc đông 58 Bảng 4.13: Động thái tăng trưởng đường kính lộc đông 61 Bảng 4.14: Động thái phát triển lá lộc đông 63 Bảng 4.15: Tình hình sâu bệnh hại giống các giống táo đợt lộc hè 66 Bảng 4.16: Tình hình sâu bệnh hại giống các giống táo đợt lộc thu 66
- vi DANH MỤC CÁC BIỂU VÀ HÌNH Biểu đồ 1: tăng trưởng chiều cao cây sau trồng 38 Biểu đồ 2: tăng trưởng đường kính sau trồng 41 Biểu đồ 3: Tăng trưởng chiều dài lộc hè 46 Biểu đồ 4: Tăng trưởng đường kính lộc hè 48 Biểu đồ 5: Tăng trưởng số lá lộc hè 50 Biểu đồ 6: Tăng trưởng chiều dài lộc thu 53 Biểu đồ 7: Tăng trưởng đường kính lộc thu Error! Bookmark not defined. Biểu đồ 8: Tăng trưởng số lá lộc thu 58 Biểu đồ 9: Tăng trưởng chiều cao lộc đông 60 Biểu đồ 10: Tăng trưởng đường kính lộc đông 62 Biểu đồ 11: Tăng trưởng đường kính lộc đông 64 Hình 4.7. Sâu cuốn lá hại táo 67 Hình 4.8. Sâu róm hai táo 68
- 1 PHẦN 1 MỞ ĐẦU I Đặt vấn đề 1.1. Tính cấp thiết của đề tài Cây táo có tên khoa học Ziziphus mauritiana, thuộc họ táo ta Rhamnaceae, loài Ziziphus mauritiana Lamk là cây có nguồn gốc phát sinh từ vùng Trung Á bao gồm Tây Bắc Ấn Độ, Afghanistan, Tatjikistan, Uzbekistan, Tây Bắc Trung Quốc. Cây táo thích nghi rộng rãi với nhiều vùng khí hậu khác nhau, sinh trưởng phát triển nhanh, chống chịu sâu bệnh khá, tuổi thọ kéo dài, có sản lượng ổn định, ra hoa nhiều lứa và hàng năm, không có hiện tượng ra qủa cách năm. Hiện nay, táo được trồng rộng khắp trên thế giới như châu Phi, châu Mỹ, châu Úc và châu Á, trong đó châu Á là khu vực cây táo được trồng phổ biến nhất. Táo đã được trồng lâu đời trong vườn gia đình của nhân dân ta. Hàm lượng vitamin C trong táo chỉ đứng thứ hai sau ổi và cao hơn nhiều so với cam quýt. Một số nghiên cứu cho thấy táo có những đặc tính sinh học tốt đối sức khỏe, bao gồm thuốc an thần, giảm đau, kháng khuẩn, kháng nấm và, hoạt động chống co thắt [18], Quả táo có thể ăn tươi rất giòn ngọt và thơm ngon hoặc có thể chế biến thành mứt kẹo , nước uống, các loại rượu co tác dụng bồi dưỡng cơ thể vì chứa nhiều chất dinh dưỡng. Các bộ phận của cây táo là nguồn thuốc quý được sử dụng rộng rãi trong y học cổ truyền như: Cùi táo xấy khô và nhân hạt táo dùng làm thuốc bổ an thần[9] . Ở nước ta táo được trồng ở nhiều nơi cả miền Bắc và miền Nam với các giống táo như táo chua , táo Thiện Phiến ngọt , táo Gia Lộc và một số giống táo mới nhập như táo Đài Loan, táo Thái Lan. Hiện nay nhiều giống táo nhập nội và lai tạo mới đã được trồng ở nhiều vùng trên cả nước. Tuy nhiên, sản xuất táo ở Miền Bắc nói chung nhỏ lẻ, mang tính manh mún tự phát và sản phẩm tiêu thụ ngay trong vùng, các giống táo năng suất chưa cao, chất lượng chưa tốt. Mặt khác chưa có nhiều công trình nghiên cứu khỏa nghiệm đánh giá tính thích ứng của
- 2 một giống táo nào đó với các vùng sinh thái. Vì vậy, để nâng cao năng suất và đảm bảo chất lượng thì vấn đề đặt ra là phải chú trọng đến việc tuyển chọn giống ở một số vùng sinh thái các tỉnh phía Bắc. Trên cơ sở đó, tôi tiến hành thực hiện đề tài: “Đánh giá khả năng sinh trưởng của một số giống táo tại trường Đại học Nông lâm Thái Nguyên” 1.2. Mục đích nghiên cứu Đánh giá được khả năng thích ứng của một số giống táo tại Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên 1.3. Yêu cầu Đánh giá đặc điểm hình thái của các giống táo trong thí nghiệm Đánh giá khả năng sinh trưởng các đợt lộc của các giống táo trong thí nghiệm Đánh giá tình hình sâu bệnh hại của các giống táo trong thí nghiệm 1.4. Ý nghĩa của đề tài 1.4.1. Ý nghĩa khoa học của đề tài Kết quả nghiên cứu đề tài là cơ sở cho việc thực hiện các đề tài nghiên cứu tiếp theo về cây táo tại Thái Nguyên, là tư liệu, nguồn tài liệu tham khảo phục vụ cho công tác giảng dạy, đào tạo trong và ngoài nhà trường. Rèn luyện và nâng cao khả năng thực hiện đề tài nghiên cứu khoa học cho sinh viên, là một cơ sở và tiêu chí cho việc đánh giá chất lượng sinh viên của trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên. 1.4.2. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài Bước đầu đưa ra được các đánh giá về khả năng sinh trưởng của các giống táo nghiên cứu khi trồng tại Thái Nguyên. Kết quả nghiên cứu sẽ là cơ sở để nghiên cứu các biện pháp kỹ thuật tác động đến sinh trưởng phát triển năng suất và chất lượng của các giống táo. Trên cơ sở đánh giá khả năng sinh trưởng của giống táo để cung cấp cho sản xuất thêm giống táo mới có khả năng thích nghi tốt.
- 3 PHẦN 2: TỔNG QUAN TÀI LIỆU 2.1.Cở sở khoa học của đề tài Cây táo thuộc loại cây ăn quả thân gỗ, sống lâu năm,chiều cao khoảng 3-12m. Ở nước ta hiện nay có nhiều giống táo: táo Gia Lộc, táo Thái Lan quả dài, táo Thái Lan quả tròn, táo ngọt H12, táo xuân 21, táo Thiện phiến ngọt, táo Thiện phiến chua, táo đại (Đại táo), có nhiều giống táo cho quả rất sớm, chỉ sau 1 năm trồng. Tuy nhiên tất cả các loại cây ăn quả nói chung và cây táo nói riêng đều chịu tác động và ảnh hưởng bởi các nhân tố sinh thái như: Khí hậu, độ ẩm, lượng mưa, đất đai, dinh dưỡng, Khả năng sinh trưởng và phát triển của cây trồng phản ánh mức độ thích nghi của cây trồng đó với các yếu tố tác động. Sự ảnh hưởng của các nhân tố đó đến cây được phản ánh thông qua năng suất và chất lượng sản phẩm mà cây tạo ra. Tùy từng loại giống khả năng thích nghi của cây với mỗi trường sống cũng khác nhau. Do đó, việc theo dõi khả năng sinh trưởng và phát triển, nghiên cứu đánh giá và khảo nghiệm các giống táo thí nghiệm là rất cần thiết. Qua đó đánh giá được khả năng thích nghi của các giống táo tại Thái Nguyên. Để chọn được giống táo phù hợp cho sản xuất với quy mô lớn thì cần nghiên cứu đánh giá và khảo nghiệm giống để tránh được các rủi lo khi chọn giống không phù hợp. Khảo nghiệm giống cây trồng là một quá trình theo dõi, đánh giá nhằm xác định tính khác biệt, tính đồng nhất, tính ổn định, giá trị canh tác, giá trị sử dụng của giống cây trồng trong điều kiện không gian và thời gian xác định. Từ những khảo nghiệm và đánh giá giúp cho việc lựa chọn loại cây phù hợp với điều kiện sinh thái vùng và biện pháp kỹ thuật thích hợp đem lại hiệu quả cao cho người sản xuất. 2.2. Nguồn gốc Táo ta (Ziziphus mauritiana) là loại cây ăn quả của vùng nhiệt đới, thuộc về họ Táo (Rhamnaceae). Tại Trung Quốc, nó được gọi là táo chua, táo
- 4 Ấn Độ hay táo Điền (táo Vân Nam), táo gai Vân Nam. Cây có thể lớn rất nhanh thậm chí trong các khu vực khô và cao tới 12 mét và đạt tuổi thọ 25 năm. Nó có nguồn gốc ở châu Á (chủ yếu là Ấn Độ) mặc dù cũng có thể tìm thấy ở châu Phi. [29] Theo De Candolle (1886) nguồn gốc táo là từ vùng Trung Á, bao gồm các vùng Tây Bắc Ấn Độ, Apgannistan,tatjikistan, Uzbekistan và Trung Quốc. Ở Ấn Độ hầu như có đủ các dạng cây dại, bán hoang dại và cây trồng.Ở Trung Quốc táo được trồng rất sớm, cách đây hơn 3000 năm người ta đã mô tả 11 giống táo ở Trung Quốc (Vũ Công Hậu, 1999), Trần Thế Tục và Phạm Văn Côn (2002). [9] Liu và Cheng (1995), cho rằng vùng Indo- Malaysia, Nam và Đông Nam Á là trung tâm về cả sự phát triển và phân bố của loài Ziziphus. Theo De Candolle (1886) có thể ở Myanmar (Burma) và Ấn Độ. Giả thuyết này dựa trên tập hợp tiêu bản của Wallich từ Burma, ghi chép bởi Kurz về thực vật ở Burma tại rừng khô gần Avar và Prome, Beddone, vườn thực vật tại Ấn Độ, nói rõ nó có mặt ở đó trong một trạng thái hoang dã, mô tả nó bởi Rheede trên bờ biển Malabar và sự tồn tại của ba tên tiếng Phạn và những tên khác bằng tiếng Ấn Độ. Forskal và Delile, đầu thế kỷ 18 đã không thấy loài này ở Arabia, Ai Cập và một số khu vực ở châu Phi và Robert Brown và Thonning đã không thấy nó ở Guinea. Nó xuất hiện để được giới thiệu tại Arabia và Ai Cập, và phải được lan sang Zanzibar từ châu Á, và với nhiệt độ giống châu Phi. Dựa trên sự miêu tả của Rumphius nó như một loài thuộc Ấn Độ (Pareek, 2001). [17] Theo Nguyễn Đăng Nghĩa (2006) thì táo là cây ăn quả nhiệt đới có nguồn gốc ở châu Phi. Táo được trồng chủ yếu ở nhiều nước xứ nóng Đông Nam Á. Ở Trung Quốc, cây táo trồng tới vĩ độ 44o Bắc (Thẩm Dương), cách đây tới 3000 năm, người ta đã mô tả 11 giống táo. [10]
- 5 Theo Agroforestry Database 4.0, táo là cây bản địa của những vùng sau: Afghanistan, Algeria, Australia, Bangladesh, China, Egypt, India, Indonesia, Iran, Kenya, Libyan Arab Jamahiriya, Malaysia, Nepal, Pakistan, Thailand, Tunisia, Uganda, Vietnam. Và là cây ngoại lai của những vùng: Angola, Barbados, Botswana, Burkina Faso, Cambodia, Cameroon, Chad, Congo, Cote d'Ivoire, Ethiopia, Gambia, Ghana, Grenada, Guinea, Lesotho, Madagascar, Malawi, Mali, Mauritania, Mozambique, Namibia, Niger, Nigeria, Philippines, Senegal, Sierra Leone, Somalia, South Africa, Sudan, Swaziland, Tanzania, Zambia, Zimbabwe. [16] Táo là cây bản địa thuộc vùng Đông Nam Á hoặc Đông Phi. Táo được ghi nhận xuất hiện lần đầu tiên tại eo biển Torres vào năm 1863, và tại Townsville, Queensland vào nawm1916. (Weed Management Plan for Chinee Apple(Ziziphus mauritiana). Đây là loài cây phổ biến ở phía Bắc Queensland. (Fact sheet, Declared class 2 pest plant). [12] Một số tài liệu khác cho biết, táo ta hay táo chua (Ziziphus mauritiana) là loại cây ăn quả của vùng nhiệt đới, thuộc về họ Táo (Rhamnaceae). Tại Trung Quốc, nó được gọi là táo chua, táo Ấn Độ hay táo Điền (táo Vân Nam), táo gai Vân Nam. Cây có thể lớn rất nhanh thậm chí trong các khu vực khô và cao tới 12 mét và đạt tuổi thọ 25 năm. Nó có nguồn gốc ở châu Á (chủ yếu là Ấn Độ) mặc dù cũng có thể tìm thấy ở châu Phi. Cũng như vậy, trang www.fruits.soton.ac.uk cho rằng táo (Ziziphus mauritiana) là một cây ăn quả thương mại quan trọng của vùng nhiệt đới, cây được trồng ở hầu hết các vùng đất thuộc tiểu lục địa Ấn Độ, châu Phi và phía Bắc Australia để dùng làm quả ăn tươi. Đây là một loại cây rất tốt để trồng ở những vùng khô vì nó có thể chịu hạn trong giai đoạn dài. Nó có một rễ cọc rất dài đâm sâu và có thể chịu được nhiệt độ cao trong suốt mùa hè. [33]
- 6 Phân loại thực: Cây táo có tên khoa học là:. Ziziphus mauritiana LAM. Bộ: Rosales Họ: Rhamnaceae Chi: Ziziphus Loài: Z. mauritiana. [29] Họ Táo (Rhamnaceae) là một họ lớn trong thực vật có hoa, chủ yếu là cây gỗ, cây bụi và một số dây leo. Họ này chứa khoảng 50-60 chi và khoảng 870-950 loài (APG II công nhận 52 chi với 925 loài). Họ Rhamnaceae phân bố rộng khắp thế giới, nhưng là phổ biến hơn trong khu vực cận nhiệt đới và nhiệt đới. Chứng cứ hóa thạch của họ Rhamnaceae có từ tầng Cenomanum (Hậu Phấn trắng). Trong chi Ziziphus thuộc họ Rhamnaceae có tới 40 loài trồng ở vùng Nhiệt đới và Á nhiệt đới vủa Bắc bán cầu. Ziziphus/Jujube (táo Trung Quốc) và Ziziphus mauritiana (táo Ấn Độ) là 2 loài quan trong nhất. Các giống táo ta của Việt Nam thuộc nhóm giống táo Ấn Độ. Ở Trung Quốc người ta đánh giá rất cao cây táo vì có giá trị dinh dưỡng cao dùng làm thuốc và là cây xóa đói giảm nghèo cho nông dân miền núi. Có hơn 125 giống táo được trồng ở các vùng của Ấn Độ từ Nam lên Bắc. Tùy theo điều kiện khí hậu đất đai tập quán của mỗi vùng mà người ta chọn những giống trồng thích hợp (Trần Thế Tục và Phạm Văn Côn, 2002). [9] Từ các nghiên cứu trên ta thấy rằng, táo là một loại cây ăn quả thuộc họ táo (Rhamnaceae), phân bố khắp thế giới, nhưng phổ biến hơn hẳn là ở khu vực cận nhiệt đới và nhiệt đới. 2.3. Đặc điểm thực vật học của cây táo. 2.3.1 Đặc điểm của rễ Bộ rễ táo phân bố khá rộng và sâu, có khi đâm trên 1m và rộng tới 10m, trong đó rễ tơ (mang nhiều rễ hấp thụ dinh dưỡng) tập trung ở lớp đất
- 7 mặt 20-40cm và phạm vi trong và ngoài tán cây. [9] Bộ rễ phát triển mạnh, ăn sâu nên chống gió bão tốt, có thể dùng làm cây chắn gió. 2.3.2 Đặc điểm của thân, cành Cây táo ta thuộc họ Rhamnaccae, tên khoa học Ziziphus mauritiana Lamk. Chúng có thể là loại cây bụi rậm rạp, cao từ 1,2-1,8m hoặc cây thân gỗ cao từ 3-9m hay thậm chí tới 12m, mọc thẳng xuống hoặc tỏa tán rộng. Trên thân và cành có nhiều gai. Gai táo mọc thành từng đôi một ở hai cuống lá. Ở các cấp cành dưới, gai tương đối cứng, sau đó có thể gẫy và rụng dần. Với các cành rủ xuống có hoặc không có lông bao phủ, các cành nhánh ngoằn ngoèo, không gai hoặc có các gai nhỏ thẳng và sắc (The Plant List, 2010). Cây táo phát triển nhanh nên cần đốn sao cho có nhiều cành mọc thêm vào mùa xuân, quả táo mọc ở đầu cành nên càng sai quả. Có 2 cách đốn: Đốn phớt (sau thu hoạch đốn hàng năm)và đốn đau (chỉ để lại gốc của 3 cành lớn tạo tán). 2.3.3 Đặc điểm của lá Lá táo là loại lá đơn, hình trái xoan, trứng, tròn bầu dục hơi tròn, hơi nhọn ở đầu,mặt trên mầu xanh đậm, dầy, cứng và nhẵn, ở mặt dưới có lông dày, mềm, màu trắng bạc ở mặt dưới. [9] Các gân chính trong lá gần như song song. Theo thời gian, những chiếc lá thường bị nhiễm nấm, khiến cho những chiếc lá có màu vàng lốm đốm ở trên và màu đen bên dưới. [14] 2.3.4 Đặc điểm của hoa Hoa tương đối nhỏ tập trung thành xim (chùm) ở nách lá, màu trắng hơi xanh, hoa nhỏ li ti trông xa khá giống hoa nhãn. năm đài hình tam giác, nhọn, nhẵn ở mặt trong, có lông ở mặt lưng, ống dài bằng thùy dài. Tràng hoa có năm cánh hình bầu dục rộng, mép cong vào trong, rất lõm, màu trắng nhạt, có móng hẹp, đĩa mật có năm thùy. Bầu 2 ô ẩn sâu trong đĩa mật, chỉ lộ một ít ở đỉnh, vòi chia đôi, 2 ô mỗi ô có một noãm. Số lượng hoa rất lớn vì hoa ra liên
- 8 tục trong thời gian dài. Trong từng chùm hoa nở liên tục cho đến khi hoa đậu quả, số lượng hoa lên tới 50-55 hoa.[9] 2.3.5. Đặc điểm của quả Quả hạch hình cầu, vỏ nhẵn.[9] Quả táo có thể có hình trứng hoặc tròn, khi non táo có màu xanh ngọc, khi táo chín chuyển màu vàng xanh, cam nhạt, hoặc hơi trắng. Táo có vị ngon, ngọt, có loại hơi chua, giòn, chứa nhiều thịt, nhiều nước, khi táo chín thì mềm, hơi xốp. Giữa thịt có hạt cứng, dài, thuôn nhọn ở hai đầu, trên hạt có những vết nhấp nhô lồi lõm. Trong hạt có nhân hình bầu dục dài, ăn có vị bùi , thơm. Quả táo chứa nhiều dinh dưỡng: 1 quả táo chứa 50-80 calories, không chứa muối và chất béo nhưng giàu vitamin A, C, nhiều canxi, pectin, phốt pho, .Theo nghiên cứu tại Braxin, người ăn 1 quả táo trước bữa ăn sẽ giảm được 33% trọng lượng cơ thể. Táo lại giúp nhuận tràng, làm đẹp da, làm đẹp. Táo còn có tác dụng chữa bệnh: theo nghiên cứu khoa học, nếu ăn 5 quả táo/tuần sẽ có tác dụng giảm nguy cơ mắc nhiều bệnh nguy hiểm: bệnh trĩ, các bệnh về hô hấp như hen suyễn, các bệnh về da, làm trơn phổi, giúp tim khỏe mạnh, giảm rối loạn đường ruột [31] 2.4. Yêu cầu sinh thái của cây táo 2.4.1. Ánh sáng Táo là cây ưa sáng nên suốt cả quá trình nảy mầm đến chín đều đòi hỏi ánh sáng mạnh. Nếu thiếu ánh sáng cành mảnh, mật độ cành thấp, lá vàng, đặc biệt là hoa dễ bị rụng khó thụ phấn thụ tinh, làm cho quả ít năng suất và phẩm chất thấp hoặc kém.[9] Cây táo ưa nắng, sáng, không gian thoáng đãng cây sẽ cho nhiều quả và ít sâu bệnh.[31] 2.4.2. Nhiệt độ Do cây táo có nguồn gốc từ vùng nhiệt đới nên có yêu cầu về nhiệt độ tương đối cao. Hạt táo cần nhiệt độ trung bình trên 15oC thì mới có thể nảy mầm, nhiệt độ để hạt nảy mầm tốt nhất là 20-25oC. Vì vậy khi gieo hạt táo
- 9 vào khoảng thời gian từ tháng 2 trở đi thì hạt mới có khả năng nảy mầm tốt và đồng đều. Khi hạt nảy mầm gặp điều kiện nhiệt độ thấp thì cây con dễ bị bệnh lở cổ rễ nhất là trong điều kiện ẩm độ không khí và ẩm độ đất đều cao ( trên 85%). Đối với cây lớn, ở nhiệt độ dưới 15oC thì cây hầu như ngừng sinh trưởng, không ra cành mới hoặc cành lá non không lớn lên được,dễ bị bệnh phấn trắng. Khi nhiệt độ càng tăng táo sinh trưởng càng mạnh. Thậm chí khi nhiệt độ ngoài trời tăng trên 40oC người ta cũng không thấy cây táo bị hại. Táo phân hóa tốt nhất ở nhiệt độ 25-30oC. Còn thời kỳ cây đậu quả không yêu cầu quá khắt khe về nhiệt độ.[9] Cây táo chịu được khoảng nhiệt độ rộng, cây ưa mát, nhiệt độ từ 16-32oC. Để cây sai quả cần sự chênh lệch nhiệt độ giữa ngày và đêm khoảng 10 độ.[31] 2.4.3. Nước Táo rất cần nước vì khối lượng lá, hoa quả nhiều, tổng khối lượng diện tích thoát hơi nước lớn. Do đó táo luôn luôn yêu cầu độ ẩm đất 70-75%, nếu thấp hơn 70% thì sinh trưởng chậm quả bé. Vì thế, trong thời kỳ gặp hạn phải chú ý tưới nước, cung cấp đủ nước cho cây sinh trưởng phát triển. Táo tuy là cây có khả năng chịu ẩm và chịu úng, nhưng bị úng kéo dài cũng không có lợi đối với cây, cây con có thể bị chết, còn cây lớn dễ bị vàng lá, rụng hoa, rụng quả non và thối quả nặng, đặc biệt khi độ ẩm không khí trên 85%.[9] Trong giai đoạn trưởng thành cây táo cần nhiều nước, nên tưới cho cây vào buổi sáng. Vì trong giai đoạn ra hoa đậu quả, nếu tưới quá ít nước hoặc nắng hạn hoa táo bị rụng, quả nhỏ, vỏ dày, quả có vị chát và kém chất lượng. 2.4.4. Ẩm độ Cây Táo là loại cây ưa ẩm trung bình,[31] cây táo luôn luôn yêu cầu độ ẩm đất 70-75%, nếu thấp hơn 70% thì sinh trưởng chậm quả bé.[9] Khi hạt nảy mầm gặp điều kiện nhiệt độ thấp thì cây con dễ bị bệnh lở cổ rễ nhất là trong điều kiện ẩm độ không khí và ẩm độ đất đều cao ( trên 85%).
- 10 2.4.5. Đất đai và dinh dưỡng Bộ rễ táo phân bố khá rộng và sâu, có khi đâm sau trên 1m và ran rộng tới 10m, trong đó rễ tơ (mang nhiều rễ hấp thụ dinh dưỡng) tập trung ở lớp đất mặt 20-40 cm và phạm vi trong và ngoài tán cây. Cây táo là cây sinh trưởng và phát triển của cây táo chịu ảnh hưởng nhiều bởi tính chất của đất và độ phì của đất khá lớn. Nếu táo được trồng ở đất sét nặng, đất cát thiếu dinh dưỡng sẽ sinh trưởng rất chậm, trong điều kiện này phải bổ sung một lượng lớn chất hữu cơ cho đất kết hợp với một lượng đạm, lân, kali, canxi thích hợp. Táo ưa đất trung tính hay hơi kiềm, nên khi trồng táo trên đất chua cần phải bón vôi cải tạo đất. Phẩm chất của quả bị giảm khi bón nhiều phân đạm hóa học là vì ngoài ảnh hưởng của lượng đạm không cân đối còn chịu - 2- ảnh hưởng của gốc muối Cl hoặc SO4 có tính axit.[9] Khi bón phân cho cây táo nên bón theo độ tuổi của cây. Ta có thể bón phân cho cây táo như sau: Táo 1 tuổi: dùng hỗn hợp 2 kg phân hữu cơ sinh học Better HG01+ 0,1 kg super lân +0,4 kg NPK 16-12-8-11+TE, bón 2 tháng sau trồng, chia làm 4 lần. Táo 2 năm tuổi trở lên: trong 4 tháng 1,3,5,7, mỗi gốc bón 0,25 kg NPK 12- 12-17-8+TE. Nên bón 5-7 ngày sau thu hoạch và đốn tái sinh. Bổ sung thêm 1-2kg Better HG01 bằng cách đào rãnh xung quanh tán rồi lấp đất lại.[31] 3. Tình hình sản xuất táo trong nước và trên thế giới 3.1. Tình hình sản xuất táo trên thế giới Táo ta Ziziphus mauritiana Lamk là loại cây ăn quả của vùng nhiệt đới thuộc họ táo ( Rhamnaceae). Tại Trung Quốc, nó được gọi là táo chua, táo Ấn Độ hay táo Điền ( Táo Vân Nam). Cây có thể lớn rất nhanh, thậm chí trong các khu vực khô và cao tới 12m và đạt tuổi thọ 25 năm. Nó có nguồn gốc ở Châu Á mặc dù nó cũng có thể thấy ở châu Phi. Quả là loại quả hạch, khi chín nó mềm, chứa nhiều nước, có vị ngọt. Các quả chín vào khoảng thời gian khác nhau ngay cả khi chỉ trên một cây và có màu xanh lục nhạt khi còn xanh,
- 11 vàng nhạt khi chín. Kích thước và hình dạng quả phụ thuộc vào các giống khác nhau trong tự nhiên cũng như loại được trồng. Quả được dùng để ăn khi đã chín hoặc ngâm rượu hay sử dụng để làm đồ uống. Nó là một loại quả giàu chất dinh dưỡng và chứa nhiều Vitamin C. Cây táo ta (Ziziphus mauritiana Lamk) thuộc chi Ziziphus, họ thực vật Rhamnaceae, có khoảng 85 loài tiểu mộc hay mọc thành bụi. Cây cao trung bình, cành mọc rủ xuống, thân non có lông sau đó nhẵn, màu xám, có gai. Lá hình trái xoan hay bầu dục; mặt trên xanh lục đậm, nhẵn, mặt dưới có lông dày, mềm. Mép phiến lá có răng, có 3 gân về phía góc. Hoa mọc thành chùm ở nách lá, màu trắng nhạt. Quả hình cầu, có vỏ nhẵn, màu xanh khi còn non, chuyển sang vàng nhạt khi chín. Quả có hạch cứng xù xì trong có chứa một hoặc hai hạt dẹt (táo nhân). Cây ra hoa và đậu quả hầu như quanh năm. Thành phần dinh dưỡng có trong 100g thịt quả tươi của táo Ziziphus mauritiana gồm: 0,8g protein; 0,07g chất béo và 0,6g chất sơ; ngoài ra còn có 26,5mg Calcium; 0,76-1,8mg sắt; 28,6mg phosphorus; 0,021mg Vitamin A; 0,024mg thiamine; 0,038mg Riboflavin; 76mg vitamin C. Ziziphus mauritiana Lamk là một loại cây bụi thường có màu xanh hoặc cây nhỏ cao 15m, với thân cây có đường kính từ 40cm trở lên. Trái cây có hình dạng và kích thước biến đổi. Nó có thể là hình bầu dục, ô van, thuôn dài hoặc tròng và có thể dài 1-2,5 inch (2,5-6,25cm) tùy thuộc vào giống. Thịt quả có màu trắng và sắc nét, khi chín loại quả này có một chút ngon ngọt và có mùi thơm dễ chịu. Vỏ của trái cây mịn, bóng nhưng chặt chẽ. Trong chi Ziziphus thuộc họ Rhamnaceae có tới 40 loài trồng ở vùng nhiệt đới và á nhiệt đới của Bắc bán cầu. Lá của chúng mọc so le, với ba gân lá cơ bản dễ thấy và dài 2-7cm; một số loài lá cây sớm rụng, các loài khác là cây thường xanh. Hoa nhỏ, có màu vàng lục không dễ thấy. Quả thuộc loại quả hạch, ăn được, có màu nâu vàng, đỏ, đen, hình cầu hay thuôn dài, dài từ 1-
- 12 5cm, thông thường có vị đường và ngọt, tương tự như quả chà là về cấu trúc và hương vị.Trên thế giới, cây táo phân bố chủ yếu ở châu Á và khu vực Đông Phi. Cây táo được trồng khắp nơi trên khu vực khô của tiểu lục địa Ấn Độ, châu Phi và miền bắc Australia để lấy quả tươi. Nhờ vào lợi ích của cây táo trong việc cung cấp thực phẩm tốt cho con người, hiện nay trên thế giới có rất nhiều nghiên cứu nhằm hoàn thiện kỹ thuật trồng cũng như chọn giống táo.Theo số liệu thống kê thì đến năm 1988 Trung Quốc có 33,3 vạn ha với sản lượng57,2 vạn tấn đứng vị trí thứ 7 sau táo tây, lê, cam, quýt, chuối, nho, hồng và chiếm 2,48% tổng sản lượng quả toàn quốc (Giải Tiến Bảo và cs, 1998)[9]. Vùng phân bố của táo Trung Quốc rất rộng, 76 – 124° kinh đông và 23 – 42° vĩ bắc, có 19 tỉnh trồng táo nhiều nhất là Hà Bắc, Sơn Đông, Hà Nam, Sơn Tây, Thiểm tây, sản lượng táo của 5 tỉnh này chiếm từ 75 – 90% táo tàu toàn quốc. Ở Ấn Độ theo Fharma và Kore (1990) có khoảng 12.000ha trồng nhiều ở vùng Đồng bằng các bang Punjab, Haryana, Rajasthan và Uttar Pradesh. Ngoài ra còn trồng ở các vùng khô hạn ở Madhya Pradesh, Bihar, Maharashtra, Assam Có hơn 125 giống táo được trồng ở các vùng của Ấn Độ từ Nạm lên Bắc. Tùy theo điều kiện khí hậu đất đai tập quán của mỗi vùng mà người ta đã chọn những giống trồng thích hợp bao gồm các giống chín sớm, chín vụ trung và chín muộn.Thời vụ thu hoạch táo ở Ấn độ tùy thuộc vào vùng trồng.Ở miền Nam Ấn Độ thu hoạch quả vào tháng 10 – 11, còn ở miền Bắc thì vào tháng 2 – 4 và tùy giống chín sớm hoặc muộn. Về năng suất, theo Bakshi và Singh (1974) cây 10 – 20 tuổi tùy giống có thể thu hoạch từ 80 – 200kg/cây; giống táo Kaithli cây 60 tuổi 120kg/cây
- 13 và giống táo chín vụ trung Mundia Murhara 125kg/cây (Godara và cs, 1980); Singh và cs (1983) ghi nhận giống táo chín muộn Umran đạt 142kg/cây. Ở Thái Lan theo Anek Bangka và Sompol Nillavesana (1992) có 2.223ha táo, là một trong 27 loài quả có tính thương mại ở Thái Lan và có diện tích thấp nhất trong số đó. Năng suất bình quân đạt 15,3 tấn/ha và sản lượng đạt 31.573 tấn. Giá bán tại vườn 8,4 bạt/kg. Những giống chính là Tray thong, Doc phiset, Calcuta, Bombay.[9] Theo FAO (2019), [32] diện tích táo toàn thế giới năm 2017 khoảng 4.93 triệu ha. Châu Á là khu vực có diện tích trồng táo lớn nhất thế giới, tuy nhiên sản lượng không phải là lớn nhất thế giới. Trong những năm qua, năng suất, diện tích và sản lượng táo trên thế giới là 4.93 triệu ha, năng xuất trung bình là 168.51tạ/ha, sản lượng là 83.14 triệu tấn. Bảng 3.1. Tình hình sản xuất táo của một số châu lục năm 2017 Diện tích Năng suất Sản lượng Khu vực (triệu ha) (tạ/ha) (triệu tấn) Thế giới 4.93 168.51 83.14 Châu phi 0.18 180.23 3.19 Châu mỹ 0.33 321.67 10.59 Châu Á 3.44 157.97 54.34 Trung Á 0.2 82.55 1.68 Châu Âu 0.96 148.52 14.25 Châu Đại Dương 0.03 273.69 0.77 (Nguồn: FAOSTAT, 2019) [32] Diện tích, năng suất và sản lượng táo trên thế giới một số năm gần đây:
- 14 Bảng 3.2. Tình hình sản xuất táo trên thế giới giai đoạn 2010- 2017 Diện tích Năng suất Sản lượng Năm (triệu ha) (tạ/ha) (triệu tấn) 2010 4.89 145.69 71.19 2011 4.99 154.55 77.08 2012 5.07 154.96 78.61 2013 5.16 160.45 82.84 2014 5.14 166.29 85.48 2015 5.1 161.76 82.45 2016 5.16 164.98 85.2 2017 4.93 168.51 83.14 (Nguồn: FAOSTAT, 2019)[32] Qua bảng số liệu thống kê của FAO (2019) cho thấy diện tích trồng táo trên thế giới có khá nhiều biến động, giai đoạn từ năm 2010-2013 có xu hướng tăng. Giai đoạn từ năm 2014-2015 co xu hướng giảm, giai đoạn từ năm 2015-2016 có xu hướng tăng nhẹ, đến năm 2017 lại có xu hướng giảm. Về năng suất, giai đoạn từ năm 2010-2014 năng suất trồng táo trên thế giới có xu hướng tăng, từ năm 2014 đến nay năng xuất trồng táo lại có xu hướng tăng. Về sản lượng, giai đoạn từ năm 2010-2014 sản lượng có xu hướng tăng, năm 2015 lại giảm, năm 2016 tăng, đến năm 2015 lại có xu hướng giảm. Về tình hình sản xuất táo ở một số nước trên thế giới đã được trình bày ở bảng 3.3 Bảng 3.3. Tình hình sản xuất táo ở một số nước trên thế giới năm 2017 Diện tích Năng suất Sản lượng STT Vùng, lãnh thổ (ha) (tạ/ha) (triệu tấn) 1 Brazil 0.03 392.58 1.300943 2 Trung Quốc 2.22 186.41 41.3915 4 Ấn Độ 0.31 74.26 2.265 5 Nhật Bản 0.04 201.43 0.7352 (Nguồn: FAOSTAT, 2019)[32]
- 15 3.2. Tình hình sản xuất táo trong nước Cây táo có tính thích ứng rộng rãi, trồng ở nhiều vùng khí hậu và nhiều loại đất, kể cả đất xấu. Cây táo lại dễ tạo giống, mãi cho quả, tuổi thọ tương đối dài, kỹ thuật canh tác dễ dàng. Cây táo được trồng rất phổ biến, ở nông thôn miền Bắc nước ta phần lớn các gia đình đều có cây táo. Táo đã trở thành một loại quả dân gian. Một số vùng trồng táo tập trung lầu đời như Thiện Phiến (Hưng Yên), Gia Lộc (Hải Dương). Miền Nam trồng nhiều ở các tỉnh Tiền Giang, Đồng Tháp, Bạc Liêu, Ninh Thuận. Theo nhận xét của Vũ Công Hậu (1996) thì các giống táo khác nhau rõ rệt về kích thước, hình dạng, màu sắc, thời vụ chín của quả. Ở miền Bắc, táo bắt đầu mùa sinh trưởng khác muộn (vào tháng 3). Những giống chín sớm nhất ra hoa vào tháng 6, giống muộn nhất vào tháng 8,9. Mùa hoa kéo dài 4-5 tháng. Quả chín sớm vào tháng 11,12, muộn vào tháng 2. Ở miền Nam có thể đốn một năm 2 lần để thu 2 lứa quả, lần đốn thứ nhất vào tháng 2, 3 cho thu quả tháng 6,7, 8. Đợt quả này chất lượng cao nhưng chất lượng trung bình vì là mùa mưa. Lần đốn thú 2 vào tháng 9, 10 cho thu hoạch vào tháng 12, 1,2,quả thu vào mùa nắng nên sản lượng thấp nhưng chất lượng tốt. Theo số liệu của Viện cây lương thực và cây thực phẩm tính đến năm 1991 diện tích trồng táo trên cả nước là 6.854 ha. Hiện nay, Ninh Thuận là tỉnh có điều kiện khí hậu rất thuận lợi cho việc trồng cây táo nên cây táo đang được đưa vào sản xuất và nghiên cứu. Với diện tích trồng tính đến năm 2011 là 988 ha, rải đều sáu trong bảy huyện thị của tỉnh. Mức sản lượng cung cấp cho thị trường trong nước hàng năm lên đến khoảng 19 ngàn tấn. Sản phẩm táo của Ninh Thuận đã hiện diện cả hai thị trường Miền Bắc và Miền Nam của Việt Nam. Hiện nay sản lượng táo tại Ninh Thuận đứng hàng đầu và sản xuất táo với diện tích có xu hướng ngày càng tăng, trung bình mỗi năm cung ứng khoảng 37.782 tấn táo xanh cho thị
- 16 trường cả nước (Dự án hỗ trợ Tam nông tỉnh Ninh Thuận, 2015). Diện tích trồng táo tăng đột biến vào hai năm 2009 và 2010 từ diện tích trồng nho và các cây trồng khác. Cụ thể, năm 2010 so 2009 diện tích táo tăng 54%, trung bình 6 năm diện tích cây trồng này tăng 70,3%. Về sản lượng qua hai năm 2010 và 2009 tăng kỷ lục 356,6%, trung bình qua 6 năm tăng 115,2%. Cuối năm 2013, nhãn hiệu hàng hóa Táo Ninh Thuận và Tỏi Phan Rang đã được Cục Sở hữu trí tuệ (Bộ Khoa học và Công nghệ) cấp giấy chứng nhận bảo hộ. Cây táo đã và đang đem lại nguồn thu lớn cho việc sản xuất cây ăn quả tại Ninh Thuận (Nguyễn Phú Son, 2012). Ở Ninh Thuận với năng suất cao, vị thơm ngon, giòn rất khác biệt mà chỉ vùng đất nắng khắc nghiệt mới có được. Táo Ninh Thuận nhanh chóng được nhiều người tiêu dùng trong nước lựa chọn. Theo tính toán của người trồng táo, thu nhập hàng năm từ cây trồng này không dưới 200 - 300 triệu đồng/ ha, chỉ sau cây nho nhưng chi phí đầu tư thấp hơn, mặc khác phụ phẩm của táo như cành, quả hư hỏng khi cắt tỉa dùng làm thức ăn cho dê, cừu. Cây táo có khả năng thích nghi tốt với điều kiện khí hậu thời tiết Ninh Thuận, sinh trưởng và phát triển khoẻ, ra hoa đậu quả tốt trong điều kiện khô hạn. Thời gian từ khi trồng (cây ghép) đến khi cho thu hoạch lứa đầu tiên khoảng 10 tháng. Quả chín co vị ngọt thanh, độ brix có thể đạt đến 14% trong khi các loại táo khác độ brix chỉ đạt 10 – 13%. Quả ăn rất giòn, ít nhớt. Khi chín có màu xanh nhạt, phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng, khối lượng quả lớn, có thể đạt từ 150 - 180 gram/quả (6-7 quả/kg), trong khi các giống táo hiện nay quả rất bé, 25 – 30 quả/kg. Tiềm năng năng suất năm thứ 2 trên 40 tấn/ha, cao hơn hẳn các giống táo thông thường. Mai Văn Hào cho rằng: Nên áp dụng phương pháp bao quanh bằng lưới cho giàn táo kết hợp với sử dụng bẫy ruồi, chất dẫn dụ để phòng ngừa các đối tượng dịch hại nguy hiểm, giúp tăng năng suất, nâng cao chất lượng sản phẩm. Chi phí lắp đặt lưới trùm chỉ khoảng 12 - 20 triệu đồng/sào, thời gian sử dụng lưới có thể kéo dài từ 3 - 5 năm tùy theo
- 17 chất lượng lưới, nhiệt độ của môi trường và chi phí thiết kế thi công. [21] Theo thống kê, toàn tỉnh Ninh Thuận hiện có trên 1.300 ha táo, tập trung ở các huyện Ninh Phước, Ninh Sơn, Tp. Phan Rang - Tháp Chàm Với thế mạnh, triển vọng từ cây trồng này mang lại, Viện Nghiên cứu Bông và Phát triển nông nghiệp Nha Hố lai tạo thành công giống táo Bom TN-05. Năm 2017, sau khi trồng 4 sào thí điểm tại viện và cho kết quả tốt, đã tiến hành chuyển giao cho một số nông hộ trồng thử nghiệm giống táo Bom TN-05 trên diện tích 9 sào. Qua thực tế sản xuất cho thấy, giống táo Bom TN-05 có khả năng sinh trưởng và phát triển mạnh trong điều kiện khí hậu khô hạn, bước đầu mở ra triển vọng mới trong sản xuất táo của nông dân trên địa bàn tỉnh. Giống táo Bom TN-05 với đặc điểm nổi bật như màu sắc đẹp, trái to, thời gian trồng đến khi thu hoạch khoảng 1 năm, năng suất mỗi sào đạt khoảng 4 tấn/vụ, cao hơn 1-1,2 tấn so với giống táo thông thường; hiện giá bán tại vườn từ 15.000-18.000 đồng/kg, trên cùng một đơn vị diện tích canh tác, lợi nhuận thu được từ giống táo Bom TN-05 cao gần gấp đôi so với giống táo trồng đại trà Hoạt động chuyển giao giống táo chất lượng cao đã góp phần vào mục tiêu chuyển đổi cơ cấu giống cây trồng thích ứng với biến đổi khí hậu của tỉnh. [20] Ngoài ra táo còn được trồng ở nhiều nơi như: Ở Thái Nguyên theo hội nghị đánh giá kết quả thực hiện mô hình trồng táo Trạm Khuyến nông thành phố Thái Nguyên (2015) cho thấy: Năm thứ nhất, chiều cao cây chỉ đạt 3,2 m, năm thứ 2 là 5 m; tỷ lệ sống của táo đạt 90%, ra nhiều hoa, tỷ lệ đậu quả cao; quả to đều, chất lượng quả ngọt, ngon hơn các giống táo khác. Năm thứ nhất 1 sào táo Đài Loan BG1 chỉ thu được 150 kg, năm thứ 2 năng suất ước đạt 1.200 kg/sào, sau khi trừ chi phí, người dân thu lãi 29,4 triệu đồng/sào, cao hơn nhiều so với các giống táo và cây ăn quả khác được trồng tại địa phương. Khi thay thế những cây trồng kém hiệu quả ở nơi đây như: vải, mận, na bằng giống cây táo Đài Loan BG 1. Thu được kết quả là giống táo này thích nghi rất tốt, dễ trồng, dễ chăm sóc, ít sâu bệnh, rất phù hợp đất vườn của gia
- 18 đình. Được thị trường ưa chuộng, giá bán khoảng 25 – 30 nghìn đồng/kg. Giống táo Đài Loan BG 1 chín muộn hơn so với các giống táo khác đang được trồng tại địa phương, nên khi thu hoạch vào dịp Tết Nguyên Đán sẽ cho hiệu quả cao hơn. Giống táo mới Đài Loan BG1 đã dần thích nghi và đem lại hiệu quả kinh tế cao cho người nông dân thành phố Thái Nguyên. (Nguồn khuyến nông vn.gov.vn).[27] Ở xã Yên Phú (Hàm Yên) Cây táo được đưa vào trồng nhiều từ năm 2010 đến nay. Gần đây thấy hiệu quả của loại cây này, người dân trong xã mở rộng diện tích, hình thành vùng chuyên canh táo. Toàn xã có 50 ha táo, tập trung chủ yếu ở các thôn Làng Chiềng, Làng Soi, 1A Thống Nhất, 1B Thống Nhất và thôn 3, thôn 4 Thống Nhất. Bên cạnh việc mở rộng diện tích, chất lượng giống cũng được nông dân ở đây lựa chọn kỹ. Hiện Yên Phú đang duy trì 2 giống táo chính là táo đại đường, táo Đài Loan, đây đều là những giống táo có năng suất và chất lượng vượt trội.[25] 4. Tình hình nghiên cứu về cây táo trong nước và trên thế giới 4.1. Tình hình nghiên cứu về cây táo trên thế giới Ziziphus hay Jujube và Ziziphus mauritiana Lamk (táo Ấn Độ) là hai loại quan trọng nhất. Táo Ấn Độ, cây sinh trưởng khỏe, nhỏ, tán xòe với nhiều cành rũ xuống. Lá có đặc điểm khác với táo Trung Quốc là ở mặt lưng lá có lớp lông nâu dày, cây xanh quanh năm, quả tròn hay ô van, khi chín thường màu vàng. Táo tàu Z. ziziphus có lẽ là loài được biết đến nhiều nhất. Các loài khác như Z.spinachristi ở tây nam châu Á, Z. lotus ở khu vực Địa Trung Hải và táo ta Z. mauritiana ở miền tây châu Phi kéo dài về phía đông tới Ấn Độ, Vân Nam, miền bắc Việt Nam. Ziziphus joazeiro (Mart.) phát triển ở khu vực Caatinga của Brasil. Trong y học cổ truyền Trung Quốc, hột quả táo chua (Ziziphus jujuba spinosa) được coi là có vị chua (toan) và ngọt (cam) cũng như trung hòa trong phản ứng (tính bình, không độc). Nó có tác dụng đối với tim, gan, mật, lá lách. Sử dụng trong điều trị các chứng cáu kỉnh, mất
- 19 ngủ và hạ huyết áp. Z. mauritiana Lamk có cả hoa đực và hoa cái và chủ yếu thụ phấn chéo. Một số cây tung phấn vào buổi sáng trong khi một số khác tung phấn vào buổi chiều, do đó ưa tiên thụ phấn chéo. Dưới sự thụ phấn có kiểm soát, đậu quả là lớn hơn so với sự thụ phấn chéo so với tự thụ phấn. Quan sát họ Samanko, Mali cho thấy Z. mauritiana Lamk chủ yếu là thụ phấn nhờ côn trùng như ong, bướm và bọ cánh cứng. Ở châu Phi, Z. mauritiana Lamk rụng lá và sinh trưởng chậm trong thời kỳ khô nóng. Trong Sahel nó rụng lá vào tháng ba tháng tư. Các cây sản xuất ra lá mới vào tháng sáu và tháng bảy và trái cây trưởng thành trong những tháng tiếp. Z. mauritiana Lamk thường được nhân giống từ hạt. Giống Z. mauritiana Lamk có khả năng tái sinh tự nhiên rất dồi dào, nhưng cây con cũng có thể được nhân giống trong vườn ươm. Vỏ hạt cứng nên được làm nứt hoặc một phần loại bỏ trước khi gieo. Các hạt giống được gieo sau đó mà không cần bất kỳ biện pháp xử lý gì thêm. Giá thể gieo ươm nên sử dụng nhiều thành phần khác nhau như cát, bùn hoặc đất sét và phân hữu cơ với tỷ lệ ngang nhau. Có thể được trồng trong luống với khoảng cách 30 x 30cm hoặc trong chậu hoặc túi nilon. Trên đất chuẩn bị tốt, hạt gióng cũng có thể được gieo trực tiếp xuống đất, tốt nhất là vào mùa mưa. Sau khi cây đã phát triển mọt rễ cái mạnh, tức là 7-12 tháng sau khi gieo, họ có thể được tỉa thưa cây, ở một mật độ chính xác. Z. mauritiana Lamk có thể được nhân giống sinh dưỡng bằng một số phương pháp khác như chiết cành, ghép cành. Trong đó, kỹ thuật ghép chẻ đỉnh là kỹ thuật nhân giống phổ biến vì nó nhanh chóng, dễ dàng và hiệu quả (tỷ lệ thành công lên đến 95%). Cây trồng chăm sóc cẩn thận cho năng suất cao nhất. Cây được trồng trong các hố kích thước 40x40x40cm và bón lót khoảng 1,5kg phân hữu cơ, Đào hố và bón lót một tháng trước khi trồng. Khoảng cách giữa các cây thay đổi từ5x5m (tức là 400 cây trên một hecta) lên đến hơn 10x10m (tức là khoảng 100 cây trên một hecta) tùy thuộc vào điều kiện khí
- 20 hậu và đặc điểm cây. Nếu cần thiết có thể sử dụng hóa chất hay phóng xạ để có thể tạo giống mới. Theo trích dẫn từ trang web www.hort.purdue.edu, ở Ấn Độ, có 90 hoặc nhiều hơn các giống khác nhau về hình dạng lá, dạng trái cây, kích thước, màu sắc, hương vị, chất lượng quả, và thời vụ đậu quả. Trong số các giống quan trọng, mười một giống được nhắc đến trong bách khoa Wealth của Ấn Độ: Banarasi (hoặc Banarsi) Pewandi, Dandan, Kaithli (Patham), Muria Mahrara, Narikelee, Nazuk, Sanauri 1, Sanauri 5, Thornless và Umran (Umri). Vỏ quả của hầu hết các giống đều mịn và màu vàng xanh hoặc vàng. Tại đại học Nông nghiệp Haryana, một nghiên cứu đã được thực hiện trên70 giống được thu thập từ tất cả các khu vực có táo phát triển ở miền bắc Ấn Độ và đặt trong một vườn thực nghiệm năm 1967-68. Năm 1980, 16 giống được chọn với những đặc điểm được đánh giá tốt. Banarasi Karaka (hương vị kém) cho năng suất cao nhất 130 kg mỗi cây, tiếp theo là Mudia Murhara và Kaithli(cả hai có hương vị tốt), và Sanauri 5 và Desi Alwar (cả hai có hương vị trung bình). Qua kết quả trên cho thấy rằng Mudia Murhara, Kaithli và Sanauri 5 là giống táo tốt cho sản xuất thương mại. Năm 1982, 4 giống có triển vọng nhất: Umran lớn, quả màu vàng chuyển sang nâu khi chín, vị ngọt: 19% TSS; 0.12% axit; trọng lượng quả trung bình, 30-89 g; năng suất 150- 200 kg mỗi cây. Chín muộn. Gola-trung bình đến lớn (trung bình, 14-17 g); 17-19% TSS; 0,46-0,51% axit; màu vàng, ngọt, hương vị tốt; năng suất 80- 100 kg mỗi cây. Chín sớm; được bán với giá cao. Kaithli-kích thước trung bình (trung bình 180,0 g); 18% TSS; 0,5% axit; vị ngọt. Năng suất trung bình 100-150 kg.Katha phal nhỏ đến trung bình (trung bình 10,0 g); xanh đỏ ở một bên quả và bên còn lại màu vàng cam; 23% TSS; 0,77% axit; năng suất trung bình 80- 100 kg mỗi cây. Vụ muộn. Ngoài các giống này, 5 giống khác đã được nhắc đến tại Viện Nghiên cứu Nông nghiệp Ấn Độ, New Delhi. Tất cả đều được trồng ở Delhi, đông nam Punjab và lân cận Uttar Pradesh. Tính đặc
- 21 biệt của các giống này là sinh trưởng phát triển trong thời gian ngắn, như sau: Dandan-phi-gai: quả to vừa đến lớn; chất lượng khá tốt. Vụ muộn. Gular Bashi: quả có kích thước trung bình, ngọt; chất lượng tuyệt vời khi tươi, mùi xạ hương sau khi bảo quản. TSS 18,8% khi vàng, 22,4% sau khi chuyển màu nâu. Vỏ quả mỏng, dễ dàng tách ra khỏi thịt quả. Vụ muộn. Kheera-trung bình đến lớn, hình bầu dục, ngọt, hương vị tốt. TSS 19,8%. Vụ muộn, chất lượng rất khá tốt khi lưu giữ. Nazuk-trung bình đến nhỏ, hình elip-thuôn dài, khá ngọt, hương vị tốt, gần như không có vị chát. TSS 17,4%. Vụ chính. Seo ber (Seb) - trung bình đến lớn, ngọt, khi quả chuyển màu nâu là rất ngọt và hương vị tuyệt vời. TSS 19%. Vụ muộn. Trong Assam 5 hoặc các giống đã canh tác, thu thập từ các phần khác nhau trong bộ giống, đã được mô tả bởi S. Dutta: Var. 1-một loại cây bụi hoang dã rất gai góc, quả nhỏ, tròn, hoa quả kém; trồng làm hàng rào. gần như không có vị chát. TSS 17,4%. Vụ chính. Seo ber (Seb) - trung bình đến lớn, ngọt, khi quả chuyển màu nâu là rất ngọt và hương vị tuyệt vời. TSS 19%. Vụ muộn. Trong Assam 5 hoặc các giống đã canh tác, thu thập từ các phần khác nhau trong bộ giống, đã được mô tả bởi S. Dutta: Var. 1-một loại cây bụi hoang dã rất gai góc, quả nhỏ, tròn, hoa quả kém; trồng làm hàng rào. Var. 2-một cây hoang dã, cây nhiều gai cao đến 9m, quả màu đỏ nâu, quả cứng có nhớt. Phần lớn trẻ em và người dân nông thôn ăn. Thường được sử dụng trong nấu ăn và bảo quản. Var. 3- một loài rất nhiều gai, cây mọc lan ra. Quả màu đỏ sậm hoặc màu nâu, với vị chua. Trồng lấy bóng mát. Var. 4 (Bali bogri) - một hoang dã, với quả xanh, chín màu đỏ, hơi nhớt, ngọt hơi chua, hương vị tốt. Var. 5 (Tenga-mitha-bogri) - Một loài hoang dã, cây nhiều gai, quả có màu hơi nâu; hơi nhớt, ngọt hơi chua, với hương vị rất dễ chịu. Một giống táo được đề nghị làm giống sinh dưỡng và canh tác thương mại. Các nước trong
- 22 khu vực Thái Lan, Trung Quốc, Đài Loan rất quan tâm đến việc chọn tạo giống cũng như kỹ thuật bón phân, đốn cây, cắt tỉa, phòng trừ sâu bệnh, Đã có nhiều giống mới có năng suất cao, chất lượng tốt được tạo ra; các quy trình kỹ thuật tiên tiến được ứng dụng nhằm nâng cao năng suất chất lượng và hiệu quả việc trồng táo. Giá bán trong siêu thị loại táo này thường đạt1,5-3 USD/Kg (tại Bangkok, Đài Loan, Trung Quốc) rất hấp dẫn người trồng táo. Tại một số nước trồng sản xuất táo theo hướng làm giàn: giàn đứng, giàn ngang hoặc trồng trong nhà lưới để hạn chế ruồi đục quả. 4.2. Tình hình nghiên cứu về cây táo trong nước Cây táo đã được trồng ở nước ta từ lâu. Trong những năm trước thập kỷ 70, bộ giống táo còn rất nghèo nàn, gồm các giống táo địa phương chủ yếu là những dạng hình táo chua, quả nhỏ, chất lượng kém, giá trị kinh tế thấp. Nổi bật trong các going táo địa phương là táo Thiện Phiến. Từ năm 1977 đến 1999, cây táo thực sự được chú ý phát triển nhờ sự ra đời của hàng loạt giống táo mới. Bộ giống táo được bổ sung một số giống táo nhập nội như Gia Lộc, Thái Lan, sau đó là các giống do Viện cây Lương thực-Thực phẩm chọn tạo ra như Má hồng, Đào tiên, H12, H32, Đào muộn, Đào vàng. Một số dạng táo mới do bộ môn Di truyền-Giống Học viện Nông Nghiệp Việt Nam tạo ra như ZM6, ZM10, ZM9. Tuy nhiên những giống đang được nhân dân trồng phổ biến nhất hiện nay vẫn là táo Đài Loan, đại táo, đào vàng Tất cả các giống táo trồng ở Việt Nam đều thuộc 2 loài thực vật là loài Ziziphus mauritiana Lamk tên tiếng anh là Indian jujube, có khi còn gọi là Ziziphus Rotundifolia Lamk và loài Ziziphus jujuba Miler, tên tiếng anh là Chinese jujube. Một số giống táo chua được trồng ở phía Nam, dùng làm gốc ghép cho các táo ta, được đưa từ phía Bắc vào thuộc loại Ziziphus Rotundifolia. Ở nước ta, họ này có 10 loài táo hoang dại: Loài táo nhám Z.Rugosus Lamk, táo cong Z.incurva Roxb, tìm ra trên Ngọc Linh; Táo Lau Zlau Merr tìm ra ở Đà Nẵng; Táo Lào Z. Funiculosa Ex Laws, tìm ra ở Bảo Lộc, Định Quán; Táo rừng Z. oenophia
- 23 Mill, tìm ra ở rừng chồi Kontum, Phan Rang, TP Hồ Chí Minh, Côn Sơn; Táo Poilane Z.poilanei tìm ra ở Tây Ninh và táo Z.cambodiana Pierre, tìm ra ở nhiều rừng thưa trong Nam (Phạm Hoàng Hộ, 1993). Việt Nam ra cũng có thể là một trong những nơi nguyên sản của táo, vì ở vùng đồi núi người ta phát hiện có loài táo dại (Ziziphus oenoplia Mill) có đặc điểm cây nhỏ hay nhỡ, cành non có nhiều lông, lông tơ dày màu gỉ sắt, lúc già có màu nâu đen và có gai cong lớn. Vì giống táo ta rất phong phú, mỗi địa phương thường đều có một giống táo nhất định mà đến nay người ra chưa tìm hiểu hết được. Từ những năm 1978, một số nghiên cứu trên cây táo được triển khai. Bằng phương pháp lai hữu tính, đột biến bằng các tác nhân hóa học, đột biến nhiễm sắc thể, đã thành công trong công tác chọn tạo giống táo. Đến nay, đã có 8 giống táo mới được chọn tạo, có năng suất cao, chất lượng tốt, thời gian chín khác nhau đang được trồng phổ biến trong sản xuất là: Giống táo Gia Lộc, giống táo Má Hồng, Đào Vàng, Đào Tiên là giống táo chín sớm, thu hoạch khoảng 20/12-15/1. Giống táo H32 là giống táo chính vụ, thu hoạch khoảng 25/1-1/2 năm sau. Giống táo Đào Muộn, H12 là giống chín muộn thu vào tháng 2 và tháng 3 hàng năm. Các giống táo hiện trồng ở nước ta, thích nghi với nhiều vùng sinh thái. Yêu cầu cơ bản là táo cần ánh sáng trực xạ, đảm bảo đủ nước, dinh dưỡng, phòng trừ sâu bệnh kịp thời, cây sẽ sinh trưởng, phát triển tốt, cho năng suất cao, chất lượng tốt, khối lượng quả trung bình 25- 45g/quả, chín vào các mùa, vụ khác nhau. Hiện nay ở Việt Nam cây táo được trồng ở phía Bắc và Nam. Nhiệt độ thích hợp từ 25-32oC, cần nhiều ánh sáng. Táo có thể sống ở nhiều loại đất nhưng thích hợp đất thịt pha cát, phù sa ven sông, đủ ẩm, pH từ 5-7. Bộ rễ phát triển mạnh, ăn sâu nên chống gió bão tốt, có thể dùng làm cây chắn gió. Táo chua chín vào tháng 3, quả nhỏ, mã đẹp. Ngoài ra còn rất nhiều giống táo khác cũng cho năng suất cao và ổn định đang được bà con nông dân trồng khắp các tỉnh thành. Thời vụ trồng tốt là cuối mùa mưa, nên trồng tháng 11-12 vì lúc này trời ấm, sang mùa xuân năm sau
- 24 cây phát triển nhanh. Trồng theo hàng hoặc theo ô vuông, khoảng cách cây 4- 5m. Để tiết kiệm đất có thể trồng dày hơn, khi cây táo lớn thì đốn bỏ bớt. Một số giống táo được trồng ở nước - Thiện Phiến ngọt: Nguồn gốc vùng Thiện Phiến tỉnh Hải Dương được đưa về trường đại học Nông Nghiệp I Hà Nội (cây giống từ rễ) từ trước năm 1960 và sau năm 1973 được nhân ra một lượng lớn cây giống theo phương pháp ghép. Đặc điểm của giống này là sinh trưởng phát triển cân đối, tán cây tương đối gọn, khả năng thích ứng rộng, tính chống chịu sâu bệnh khá, bắt đầu ra hoa từ cuối tháng 5 đến đầu tháng 6 nhưng chỉ đợt có khả năng kết quả và chín vào tháng 2 năm sau (trước và sau Tết Nguyên đán). Lá hình trứng rộng, màu xanh thẫm, mặt trên hơn nhăn rộng 3,7cm, dài4,4cm, quả hình tròn hơi dẹt, đường kính khoảng 3,0-4,0cm, chiều cao khoảng2,5-3,5cm. Khi còn non, màu quả xanh đậm hoặc xanh phớt tía, có vị chát, kho chín màu vàng trắng, vỏ hơi nứt thành vệt nhỏ li ti, phẩm vị ngọt, hơi chua, cùi giòn. Quả nặng 20-25g (khoảng 40-50 quả/kg). Cá biệt có quả nặng 30g. Hạt hình tròn. - Thiện Phiến chua: Được trồng từ lâu đời và phổ biến ở vùng Thiện Phiến tỉnh Hải Dương. Đặc điểm của nó là tán cây lòa xòa, cành sinh trưởng có xu hướng nằm ngang (dễ tạo thành tán giàn) khả năng thích ứng rộng, tính chống chịu sâu bệnh khá, lá hình tròn, màu xanh thẫm, mặt trên hơi bóng, có phản chiếu ánh sáng mặt trời rõ rệt, chiều rộng 4,4cm, chiều dài 4,9cm. Thời gian ra hoa kết quả muộn hơn giống Thiện Phiến ngọt. Quả chín vào tháng 3 (sau Tết Nguyên Đán), hình tròn dẹt, dạng bánh xe, có rốn rõ rệt ở cuống, bé hơn quả táo Thiện Phiến ngọt. Đường kính quả khoảng 2,5-3,5cm, chiều cao quả 2,0-3,0cm. Trọng lượng quả 15-20g (60-70 quả/kg); khi còn non, màu quả xanh nhạt, có vụ giôn giốt chua, khi chín, màu quả vàng sáng đẹp, vị chua đậm, cùi giòn. Hạt hình tròn. - Táo Gia Lộc: Là loài nhập nội được trồng đầu tiên ở huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương. Được công nhận giống quốc gia năm 1990. Đặc điểm của nó
- 25 là thân cành lá sinh trưởng khỏe tán cây có dạng hình dù lan rộng, cành cây không đều nên tán thường có tầng. Lá xanh nhạt, to, bầu, đầu lá bằng hoặc lõm. Có khả năng cho hai vụ quả trong một năm: Vụ 1: Ra hoa tháng 5, nở rộ và đậu quả tháng 6, chín tháng 8; có những năm ra hoa từ tháng 4, nở rộ và đậu quả tháng 5, thu quả tháng 7, nhưng năng suât thấp vì thường gặp mưa gió to. Vụ 2: Ra hoa tháng 7-9, nở rộ, đậu quả tháng 8, thu quả tháng 11, rộ tháng 12. Quả dạng trái xoan, màu vàng da cam, hơi chua, nặng 25-30g, cây 3-5 tuổi cho 120-180kg quả. Ngoài việc dùng để ăn tươi, đây là giống chủ lực làm nguyên liệu cho chế biến. - Táo H12: Được chọn ra do đột biến mầm của giống táo Thái Lan quả tròn ghép lên gốc táo Thiện Phiến. Đặc điểm: Tán có dạng hình dù lan rộng. Lá hình thoi, đầu lá nhọn, màu xanh đậm, hoa nở rải rác từ tháng 5, nở rộ và đậu quả vào tháng 9, thu quả tháng1 và thu rộ tháng 2. Quả hình tròn, khi chín có màu vàng nhạt, vị ngọt đậm và thơm, quả nặng 20-25g, trung bình 40-50 quả/kg. Một cây 4-5 tuổi đạt năng suất80-150kg quả- Táo H32. Được công nhận giống quốc gia năm 1990. Đặc điểm: tán dạng hình dù, lá dạng hình thoi, đầu nhọn, màu xanh, ra hoa rải rác từ tháng 5, nở rộ và đậu quả từ tháng 9, thu quả tháng 2-3. Quả nặng30-35g, hình tròn, khi chín có màu vàng xanh, vị ngọt, hơi chua. Cây 4-5 tuổi năng suất đạt 90-160kg quả. - Táo Má hồng: Nguồn gốc từ kết quả xử lý đột biến hạt táo Gia Lộc. Đặc điểm: Tán hình dù gọn. Lá thưa, màu xanh đậm, hình thoi, đầu lá nhọn. Trong năm có 2 vụ quả và chín sớm hơn táo Gia Lộc. Quả dạng tròn, khi gần chín xuất hiện màu hồng tím dưới tác dụng của ánh nắng mặt trời. Đó là do sắc tố đột biến, phẩm vị ngọt đậm, giòn và thơm, quả nặng 15-20g. Ưu điểm nổi bật là tán gọn có thể trồng dày được. - Táo Đào tiên: Nguồn gốc chọn ra táo kết quả đột biến hạt táo Thiện Phiến ngọt. Đặc điểm: Tán hình dù gọn, lá xanh đậm, hình thoi, đầu nhọn.
- 26 Táo ra hoa rải rác từ tháng 5, nở hoa rộ và đậu quả vào tháng 9, thu quả tháng 12 và tháng 1. Quả to, hình tròn, khi chín có vị ngọt giòn. Quả nặng 30-35g (Má hồng và Đào tiên là 2 giống được tạo ra do Hoàng và Tuynh vào năm 1989 bằng việc xử lý đột biến giai đoạn trước nảy mầm của hạt. Hạt được xử lý 12 tiếng với nồng độ 0.02 và 0.04% N-methyl-N-nitrosurea). - Táo Đào vàng: Nguồn gốc được tạo ra bằng xử lý cosixin lên đỉnh sinh trưởng giống táo Gia Lộc. Được công nhận giống quốc gia năm 1996. Đặc điểm: Cây sinh trưởng khỏe, tán gọn có thể trồng dày thân màu nâu, cây cao 2,5-3,0m. Đường kính tán 5,25,5m. Lá to, bầu, đuôi lá bằng, màu xanh đậm. Quả trơn dài, màu vàng da cam lúc chín, trọng lượng quả trung bình 35- 40g, trung bình 25-35 quả/kg. Quả ăn giòn, ngọt, có vị thơm đặc trưng. Năng suất quả 40-50 tấn/ha ở năm thứ 3, chống chịu bệnh khá. Táo Đào vàng cung cấp quả vụ sớm cùng với táo Gia Lộc từ khoảng tháng 9-12, tận thu quả đến hết tháng 1. Các giống táo H12, H32, táo Đào tiên, táo Má hồng và táo Đào vàng đều do Giáo sư Viện sĩ Vũ Tuyên Hoàng và tập thể cán bộ bộ môn rau quả Viện Cây lương thực và cây thực phẩm tạo ra. - Táo Thái Lan quả dài: Nguồn gốc là giống ở Thái Lan nhập vào miền Nam trước ngày giải phóng ở Bến Gỗ, Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Đặc điểm: Cây cao cành lá vươn thẳng, lá dài quả dài, đỉnh quả nhọn như hình quả tram, đặc biệt quả rất to. Ở miền Nam trung bình 1kg 25-28 quả, trọng lượng trung bình 35-40g/quả. Quả chín ăn giòn, ngọt thơm nhẹ. Chăm sóc tốt cho năng suất cao. Táo Thái Lan quả dài được đưa ra trồng ở miền Bắc và một số tỉnh miền Trung như ở Nghệ An, Hà Tĩnh mùa đông kém chịu rét, nhiều sâu bệnh, làm cho quả bị rụng nhiều nên không mở rộng được vùng trồng. - Táo Thái Lan quả tròn: Xuất sứ giống táo Thái Lan quả dài. Đặc điểm: Cành vươn thẳng,lá tròn, quả tròn. Quả chín ăn giòn, ngọt có vị chua, ăn không ngon bằng quả táo dài song năng suất cao hơn, mùa thu hoạch kéo
- 27 dài hơn gần đến một tháng so với táo dài. Cả 2 giống táo Thái Lan này trồng chủ yếu ở các tỉnh Nam bộ trong điều kiện khí hậu miền Nam, có thể đốn 1 năm 2 lần để thu 2 lứa quả. Lần đốn thứ nhất vào tháng 2-3, thu quả vào tháng 6, 7, 8. Đợt này sản lượng quả cao nhưng chất lượng trung bình vì là mùa mưa. Lần đốn thứ 2 vào tháng 9, 10 cho thu hoạch vào tháng 12, 1, 2 quả thu hoạch vào mùa khô sản lượng tuy thấp nhưng chất lượng khá. Theo tài liệu của Viện nghiên cứu cây ăn quả miền Nam Việt Nam, (2001) diện tích ở miền Đông Nam bộ và đồng bằng sông Cửu Long là 150ha. - Táo Xuân 21: Nguồn gốc: Là giống táo mới do Viện sinh học – Đại học Nộng nghiệp Hà Nội chọn lọc và thuần hóa từ giống Thanh táo của Đài Loan nhập nội năm 1998. Đặc điểm: Cơ bản như giống táo ta, có sức sinh trưởng mạnh, cây vươn dài, lóng dài, lá to. Táo Xuân 21 quả to 20-30 quả/kg, hạt nhỏ thịt quả dày, vị ngọt, giòn, có vị thơm, ăn ngon. Có thể cho thu hoạch 2 lần trong năm,vụ đầu chín vào tháng 9, 10, vụ chính chín vào cuối tháng 1 đầu tháng 2 vào dịp Tết Nguyên Đán nên mới có tên là táo Xuân. - Giống Đại Táo 15: Được chọn lọc từ mẫu giống táo nhập nội trong khuôn khổ dự án DA15 phối hợp giữa Viện Di truyền Nông nghiệp và Viện Cây lương thực - CTP mã số ZM.ĐÃ 15.5 bằng phương pháp chọn lọc cá thể (quả nhân vô tính). Giống được công nhận tạm thời theo Quyết định số 2459 QĐ/BNN-TT ngày 24 tháng 8 năm2006. Có khả năng sinh trưởng và phát triển khỏe, phân cành trung bình, lá to hơi vặn, xanh vừa. Là giống chín muộn, thời gian thu hoạch quả từ tháng 20/1- 25/2, chín vào dịp tết âm lịch. Năng suất quả đạt 7-8 tấn/ha (tuổi1), 10-12 tấn/ha (tuổi 2), đặc biệt giống Đại Táo15 là giống quả rất to, khối lượng trung bình quả từ 70-100 gam, khi chín màu vàng sáng, ăn giòn, ngọt mát được thị hiếu tiêu dùng ưa thích. - Giống táo Đài Loan –BG1: Giống được Bộ Nông nghiệp và PTNT công nhận là giống sản xuất thử năm 2012. Giống táo Đài Loan quả to, mã
- 28 xanh, ăn giòn và ngọt. Giống táo Đài Loan có tỷ lệ sống cao, hoa nhiều, quả to, đều, chất lượng quả ngọt, có khả năng chống chịu sâu bệnh tốt, năng suất đạt 27-29 tấn/ha. Giống táo Đài Loan chín muộn và cho thu hoạch vào dịp tết nguyên đán[9]. Các biện pháp kỹ thuật, công nghệ nhân giống táo bằng phương pháp ghép mắt đã được áp dụng rộng rãi tại Việt Nam. Tập quán cổ truyền của nhân dân vùng táo Hải Dương và Hưng Yên là giâm rễ, tuy giữ được đặc tính giống nhưng hệ số nhân giống thấp, hại cây mẹ. Vào những năm 1960, người ta đã tìm ra cách chiết cành nhưng nhược điểm lớn là hệ số nhân giống thấp, tỷ lệ ra rễ không cao, thường chỉ đạt trên dưới 50%, thao tác chiết cành khá phức tạp, cây giống táo chiết kém thích nghi với điều kiện ngoại cảnh. Từ những năm 1970, sau khi hoàn thiện nghiên cứu kỹ thuật ghép táo trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội nay là Học Viện Nông nghiệp Việt Nam đã phổ biến kỹ thuật và đã được áp dụng rộng rãi cho đến ngày nay. Nhờ có kỹ thuật ghép táo, việc mở rộng diện tích trồng táo ở các tỉnh miền Bắc tăng nhanh, nhất là từ khi có phong trào vườn quả Bác Hồ đầu những năm 80. Cây gốc ghép tốt nhất cho các giống táo là giống táo chua địa phương, táo Thiện Phiến (Trần Thế Tục và Hoàng Ngọc Thuận, 1999). Từ kết quả nghiên cứu: “Đặc điểm sinh trưởng, phát triển của một sốgiống táo ta (Ziziphus mauritiana Lam.) và ảnh hưởng của biện pháp kỹ thuật đối với giống táo 05 trồng tại Gia Lâm - Hà Nội” cho thấy: Các giống táo thí nghiệm đều có khả năng sinh trưởng từ trung bình đến tốt.Trong các giống táo thí nghiệm thì giống táo 05 có khả năng sinh trưởng tốt hơn các giống táo 11,táo 07, táo 08, Đại táo 15 và Đài loan như: có kích thước lá lớn nhất (chiều dài lá đạt 10,79cm và chiều rộng lá đạt 7,53cm); Khối lượng quả cao nhất đạt 97,54g; Năng suất (cây 4 năm tuổi) cao nhất đạt 68,5kg/cây. Đặc
- 29 biệt, giống táo 05 có thời gian thu hoạch muộn và khối lượng quả cao hơn các các giống táo khác.
- 30 Phần 3 NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu gồm 4 giống táo : Giống táo 05, giống táo Đào Vàng, giống táo Thái Lan, giống táo Đài Loan. Trong đó công thức đối chứng là giống táo Đào vàng - Giống táo T5 : Táo T5 cho quả rất ngọt, nhiều nước, khi chín thịt quả ăn giòn không bị xốp như những giống táo khác, trung bình khoảng 7-10quả/kg. Giống táo rất khỏe, ưa nóng, hợp với nhiều loại đất nhưng không chịu được ngập úng, sinh trưởng cực nhanh. Đảm bảo giờ khách trồng thử 1 vài cây táo Táo T5 cho quả rất ngọt, nhiều nước, khi chín thịt quả ăn giòn không bị xốp như những giống táo khác, trung bình khoảng 7-10quả/kg. Giống táo rất khỏe, ưa nóng, hợp với nhiều loại đất nhưng k chịu được ngập úng,sinh trưởng cực nhanh. [13] - Giống táo Đào Vàng : Nguồn gốc : Được tạo ra bằng xử lý cosixin lên đỉnh sinh trưởng giống táo Gia Lộc. Táo Đào Vàng do giáo sư viện sĩ Vũ Tuyên Hoàng và tập thể cán bộ môn rau quả viện cây lương thực và cây thực phẩn tạo ra. Đặc điểm : Cây sinh trưởng khỏe, tán ngọn có thể trồng dày thân màu nâu, cây cao 2,5-3,0m, đường kính tán 5,2-5,5m. Lá to, bầu đuôi lá bằng, màu xanh đậm. Quả trơn dài, màu vàng, da ca lúc chín trọng lượng quả trung bình 25-35 quả/kg. Quả giòn, ngọt, có vị thơ đặc trưng. Năng suất quả 40-50 tấn/ha ở năm thứ 3, chống chịu bệnh khá. Táo Đào vàng cung cấp quả vụ sớm cùng với táo Gia Lộc từ khoảng tháng 9-12, tận thu đến tháng 1. [9] - Giống táo Thái Lan : có 2 loại là : Táo Thái Lan quả tròn và táo Thái Lan quả dài.
- 31 Nguồn gốc : Giống táo Thái Lan là giống táo được nhập nội vào các miền Nam Việt Nam trước ngày giải phóng ở trại Bến Gỗ, Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. [9] Đặc điểm : Táo Thái Lan quả dài cây cao, cành lá vươn thẳng, lá dài quả dài, đỉnh quả nhọn như hình quả tràm, đặc biệt quả rất to. Ở Miền Nam Việt Nam trọng lượng trung bình là 35-40g/quả, 1kg có từ 25-28 quả. Quả chín ăn dòn, ngọt thơm nhẹ. Khi chăm sóc tốt cho năng suất cao. Táo Thái Lan được đưa ra trồng ở miền Bắc và một số tỉnh miền Trung như ở Nghệ An, Hà Tĩnh. Mùa đông chịu rét kém nhiều sâu bệnh, làm cho quả bị rụng nhiều nên không mở rộng được vùng trồng. [9] Táo Thái Lan quả tròn : quả chín ăn dòn, ngọt có vị chua, ăn không ngon bằng quả táo dài song năng suất cao hơn gần đến 1 tháng so với táo Thái lan quả dài. Cả 2 giống Thái Lan này, trồng chủ yếu ở các tỉnh Nam Bộ trong điều kiện khí hậu miền Nam, có thể đốn 1 năm 2 lần để thu 2 lứa quả. Đốn lần thứ nhất vào tháng 2-3, thu quả vào tháng 6,7,8. Đợt này sản lượng quả cao nhưng chất lượng trung bình vì vào mùa mưa. Lần đốn thứ 2 vào tháng 9-10 cho thu hoạch và tháng 12,1,2 quả thu hoạch vào tháng 12,1,2 quả thu hoạch vào mùa khô sản lượng thấp nhưng chất lượng khá. Theo tài liệu của viện cây ăn quả miền Nam (năm 2001), diện tích ở miền Đông Nam Bộ và đằng bằng sông Cửu Long là 150ha. [9] - Táo Đài Loan hay còn gọi là Táo lai lê, là giống cây táo có quả to, ăn có vị ngọt, giòn, màu sắc quả rất đẹp mắt, da căng bóng, cây khỏe, ít bị nhiễm sâu bệnh.Táo Đài Loan sinh trưởng và lớn nhanh, trồng từ đầu năm đến cuối năm đã cho quả. Giống táo Đài Loan. [25] Cây giống táo Đài Loan được đưa vào trồng trên đất Lục Ngạn từ năm 2005, đồng thời được Bộ NN&PTNT công nhận là loại giống đầu tiên được trồng ở Việt Nam với tên gọi BG1. Do điều kiện thổ nhưỡng, khí hậu của vùng đất Lục Ngạn khá phù hợp, nên cây
- 32 táo sinh trưởng, phát triển tốt. Hiện nay, diện tích trồng táo Đài Loan của huyện Lục Ngạn khoảng 100 ha, tập trung ở các xã Biển Động, Phì Điền, Giáp Sơn, Thanh Hải Giống táo Đài Loan quả to, mã sáng, ăn ngọt và giòn hơn so với các loại táo thông thường đang trồng trên địa bàn huyện, được thương lái và người tiêu dùng ở Bắc Giang, Bắc Ninh, Hà Nội rất ưa chuộng, nhất là vào dịp Tết Nguyên đán. Từ tháng 12 dương lịch năm trước đến hết tháng 2 dương lịch năm sau là thời điểm chính vụ của táo Đài Loan. Khi táo chín trên cây có thể kéo dài được 20 ngày. [30] 3.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu - Địa điểm thực hiện : Tại khu cây trồng cạn Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên - Thời gian nghiên cứu : Từ tháng 3 năm 2018 đến tháng 12 năm 2018 3.3. Nội dung nghiên cứu - Nghiên cứu thời gian sinh trưởng và động thái tăng trưởng các đợt lộc của các giống táo trong thí nghiệm - Nghiên cứu đặc điểm hình thái của các giống táo trong thí nghiệm - Nghiên cứu tình hình sâu bệnh hại trên các giống táo trong thí nghiệm 3.4 Phương pháp nghiên cứu 3.4.1 Phương pháp bố trí thí nghiệm Thí nghiệm được bố trí theo khối ngẫu nhiên hoàn chỉnh gồm 4 công thức với 5 lần nhắc lại, mỗi lần nhắc lại 01 cây, tổng số cây trong thí nghiệm 20 cây. Sơ đồ thí nghiệm NL I 1 2 3 4 NL II 4 3 2 1 NL III 3 1 4 2 NL IV 2 4 1 3 NL V 1 3 2 4
- 33 CT1: là giống táo 05 CT2: là giống Thái lan CT3: là giống táo Đài loan CT4: là giống táo Đào vàng 3.4.2 Chỉ tiêu và phương pháp theo dõi: - Chỉ tiêu về đặc điểm hình thái: + Chiều cao cây (cm): Đo bằng thước, đo từ gốc tới đỉnh tán cao nhất của cây. Chú ý phải cố định điểm đo ở mặt đất bằng vật cứng. + Đường kính thân (cm): Đo bằng thước kẹp palme, đánh dấu điểm đo cách mặt đất 10 cm (lần 1), các lần tiếp theo đo đúng vị trí trùng lần đầu tiên, nên đánh dấu lại vị trí đo để tránh đo sai vị trí trong các lần đo. - Chỉ tiêu về thời gian sinh trưởng các đợt lộc: + Thời gian ra lộc (ngày): khi có 10% số cây có lộc nhú + Thời gian ra lộc rộ (ngày): khi có 75% - 80% số cây có lộc nhú. + Thời gian kết thúc ra lộc (ngày): khi có lớn hơn 80% số cây có lộc nhú. - Chỉ tiêu về số lượng lộc (lộc/cây): đếm số lượng lộc trên cây theo từng đợt ra lộc - Chỉ tiêu về đặc điểm hình thái lộc: Mỗi lần nhắc lại đo 4 lộc, làm với 5 lần nhắc lại + Chiều dài lộc (cm): Đo bằng thước, đo từ gốc cành đến mút cành. + Đường kính lộc (cm): Đo bằng thước kẹp palme, đo cách gốc cành 1 cm khi cành lộc đã thành thục + Số lá/lộc (lá): đếm số lá trên lộc theo dõi - Chỉ tiêu về động thái tăng trưởng các đợt lộc: mỗi lần nhắc lại đo 4 lộc, mỗi tuần đo 1 lần, làm với 5 lần nhắc lại + Chiều dài lộc (cm): Đo bằng thước, đo từ gốc cành đến mút cành. + Đường kính lộc (cm): Đo bằng thước kẹp palme, đo cách gốc cành 1 cm
- 34 + Số lá/lộc (lá): đếm số lá trên lộc theo dõi - Chỉ tiêu về sâu bệnh hại: Theo dõi thành phần, tần suất xuất hiện sâu bệnh hại: điều tra 1 cây cho 1 lần nhắc, làm với 5 lần nhắc lại, đo vào thời điểm các đợt lộc Số lần bắt gặp của mỗi loài Tần xuất bắt gặp (%) = X 100 ∑ số lần điều tra - : Rất ít phổ biến (tần suất bắt gặp 50% 3.6. Phương pháp xử lý số liệu Số liệu được tính toán trên Ecxel và xử lý trên phần mềm SAS
- 35 PHẦN 4 KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 4.1. Đặc điểm hình thái của cây táo Đặc điểm hình thái cây là một trong những chỉ tiêu cơ bản để đánh giá mức độ sinh trưởng của cây trồng. Khả năng sinh trưởng hình thái cây con mới trồng phụ thuộc vào các yếu tố: phương pháp nhân giống, giống, điều kiện sinh thái và sự tác động của con người. Khả năng sinh trưởng hình thái cây được thể hiện thông qua các chỉ số cơ bản sau: chiều cao cây và đường kính của cây. Qua nghiên cứu đặc điểm hình thái của các giống táo. 4.1.1. Sự tăng trưởng về chiều cao của các giống táo sau trồng. Cũng như các loại cây trồng khác, mỗi giống ăn quả nói chung và các giống táo nói riêng. Đặc điểm sinh trưởng và khả năng thích nghi của mỗi giống là khác nhau, nó không chỉ thể hiện bản chất di truyền của cây mà còn thể hiện khả năng thích ứng của mỗi loại giống. Cùng với một điều kiện chăm sóc tuy nhiên mức độ sinh trưởng của của mỗi cây là không giống nhau. Chiều cao cây là chỉ tiêu quan trọng trong công tác chọn giống và nhân giống, ngoài ra chiều cao cây còn phản ánh khả năng sinh trưởng và phát triển của giống cây ăn quả. Bảng 4.1: Động thái tăng trưởng chiều cao của cây táo (Đơn vị: cm) Thời gian sau trồng (tháng) Tên giống táo Tháng Tháng Tháng Tháng Tháng 5 Tháng 6 Tháng Tháng 8 1 2 3 4 7 T5 60,00a 77,16a 103,92a 122,78a 144,74a 160,74a 187,69a 198,96a Thái Lan 46,89b 58,70c 74,62c 88,04c 103,66b 117,98c 137,42c 145,02c Đài Loan 53,58ab 69,02ab 91,86b 109,00ab 128,74bc 144,34b 166,62b 176,32b Đào Vàng 51,40b 65,22bc 84,54bc 100,06bc 118,65bc 133,05bc 153,61bc 161,31bc (Đ/c) P <0,05 <0,05 <0,05 <0,05 <0,05 <0,05 <0,05 <0,05 CV (%) 11,56 10,87 9,84 9,75 9,10 8,11 8,66 8,02
- 36 LSD05 8,44 10,11 12,04 14,11 15,51 15,54 19,26 19,26 Qua bảng 4.1 ở trên cho thấy, các giống táo khác nhau có động thái sinh trưởng về chiều cao cây cũng khác nhau: Chiều cao cây đạt được 1 tháng sau trồng là: Sự tăng trưởng chiều cao của các giống táo trong thí nghiệm sai khác có ý nghĩa ở mức độ tin cậy 95% (P<0,05). Táo T5 là cao nhất đạt 60 cm, tiếp theo là giống táo Đài Loan đạt 55,8 cm, tiếp đó là giống táo Đào Vàng 51,40 cm, thấp nhất là táo Thái Lan 46,89 cm. Chiều cao cây đạt được 2 tháng sau trồng là: Sự tăng trưởng chiều cao của các giống táo trong thí nghiệm sai khác có ý nghĩa ở mức độ tin cậy 95% (P<0,05). Táo T5 là cao nhất đạt 77,16 cm, tiếp theo là giống táo Đài Loan đạt 69,02 cm, tiếp đó là giống táo Đào Vàng 65,22 cm, thấp nhất là táo Thái Lan 58,70 cm. Chiều cao cây đạt được 3 tháng sau trồng là: Sự tăng trưởng chiều cao của các giống táo trong thí nghiệm sai khác có ý nghĩa ở mức độ tin cậy 95% (P<0,05). Táo T5 là cao nhất đạt 103,92 cm, tiếp theo là giống táo Đài Loan đạt 91,86 cm, tiếp đó là giống táo Đào Vàng 84,85 cm, thấp nhất là táo Thái Lan 74,62 cm. Chiều cao cây đạt được 4 tháng sau trồng là: Sự tăng trưởng chiều cao của các giống táo trong thí nghiệm sai khác có ý nghĩa ở mức độ tin cậy 95% (P<0,05). Táo T5 là cao nhất đạt 122,78 cm, tiếp theo là giống táo Đài Loan đạt 109,0 cm, tiếp đó là giống táo Đào Vàng 100,06 cm, thấp nhất là táo Thái Lan 88,04 cm. Chiều cao cây đạt được 5 tháng sau trồng là: Sự tăng trưởng chiều cao của các giống táo trong thí nghiệm sai khác có ý nghĩa ở mức độ tin cậy 95% (P<0,05). Táo T5 là cao nhất đạt 144,74 cm, tiếp theo là giống táo Đài Loan
- 37 đạt 128,74 cm, tiếp đó là giống táo Đào Vàng 118,65 cm, thấp nhất là táo Thái Lan 103,66 cm. Chiều cao cây đạt được 6 tháng sau trồng là: Sự tăng trưởng chiều cao của các giống táo trong thí nghiệm sai khác có ý nghĩa ở mức độ tin cậy 95% (P<0,05). Táo T5 là cao nhất đạt 160,74 cm, tiếp theo là giống táo Đài Loan đạt 144,34 cm, tiếp đó là giống táo Đào Vàng 133,05 cm, thấp nhất là táo Thái Lan 117,98 cm. Chiều cao cây đạt được 7 tháng sau trồng là: Sự tăng trưởng chiều cao của các giống táo trong thí nghiệm sai khác có ý nghĩa ở mức độ tin cậy 95% (P<0,05). Táo T.5 là cao nhất đạt 187,69 cm, tiếp theo là giống táo Đài Loan đạt 166,62 cm, tiếp đó là giống táo Đào Vàng 153,61cm, thấp nhất là táo Thái Lan 137,42 cm. Chiều cao cây đạt được 8 tháng sau trồng là: Sự tăng trưởng chiều cao của các giống táo trong thí nghiệm sai khác có ý nghĩa ở mức độ tin cậy 95% (P<0,05). Táo T5 là cao nhất đạt 198,96 cm, tiếp theo là giống táo Đài Loan đạt 176,32 cm, tiếp đó là giống táo Đào Vàng 161,31 cm, thấp nhất là táo Thái Lan 145,02 cm. Qua bảng 4.1 cho thấy, chiều cao của các giống táo tăng đều qua các các tháng. Với các giống khác nhau thì sự tăng trưởng về chiều cao của các công thức cũng khác nhau. Sự thay đổi này có liên quan đến sự sinh trưởng của các giống táo (P<0,05). Sự sai khác về chiều cao của các giống táo là, mức độ tin là cậy 95% (P<0,05). Trong thí nghiệm này, giống táo CT1 (táo T5) là công thức giống có chiều cao lớn nhất 198,96 cm, CT3 (giống táo Đài Loan) đạt chiều dài 176,32 cm là giống có chiều cao lớn thứ 2 sau giống táo ở CT3 (giống táo Đài Loan), cả 2 công thức này điều có chiều cao cây lớn hơn chiều cao cây của giống táo ở công thức đối chứng CT4 (táo Đào Vàng), CT4
- 38 (táo Đào Vàng) là giống đạt được chiều cao cây lớn thứ 3 trong các công thức thí nghiệm với chiều cao là: 161,31 cm. CT2 (táo Thái Lan) là Từ sau trồng 1 tháng đến 8 tháng chiều cao cây đạt được ở các giống đạt được theo mức độ từ cao đến thấp lần lượt là CT1: 198,96cam, CT3: 176,3cm, CT4: 161,31cm, CT2: 145,02cm. Căn cứ vào kết quả trên thì: Trung bình 1 tháng giống ở CT1 có thể dài ra khoảng 17-18cm/tháng, CT2 (Thái Lan) là 12-13cm/tháng, CT3 (Táo Đài Loan) là 15-16cm/tháng, CT4 (táo Đào Vàng) là 13-14cm/tháng. Từ kết quả ở trên cho ta thấy chiều cao cây táo sau trồng 8 tháng có thể đạt đến 1,5-2m. Tùy thuộc vào phương pháp nhân giống cây con, giống táo và điều kiện sinh thái thì khả năng thích ứng của cây táo trong giai đoạn 1 năm đầu cũng khác nhau. Từ kiết quả ở trên ta thấy CT1 là giống táo có chiều cao lớn nhất và tốc độ phát trển chiều cao hàng tháng là cao nhất, và CT2 (Thái Lan) là giống táo có sự phát triển kém nhất về chiều cao. Biểu đồ 1: Động thái tăng trưởng chiều cao cây táo 4.1.2 Sự tăng trưởng về đường kính của cây táo.
- 39 Tương tự như chiều cao cây, đường kính thân cũng là một chỉ tiêu quan trọng trong công tác chọn giống. Đường kính thân phản ánh sự sinh trưởng và phát triển của cây. Tuy không thể hiện rõ ràng như chiều cao cây nhưng đường kính thân có thể đánh giá được mức độ sinh trưởng và khả năng thích nghi của giống cây. Bảng 4.2: Động thái tăng trưởng đường kính của cây táo (Đơn vị: cm) Thời gian sau trồng (tháng) Tên giống táo Tháng Tháng Tháng Tháng Tháng Tháng Tháng Tháng 1 2 3 4 5 6 7 8 T5 0,58a 0,774a 1,12a 1,31a 1,42a 1,61a 1,83a 2,07a Thái Lan 0,44b 0,52c 0,74c 0,87c 0,95c 1,07c 1.31c 1,44c Đài Loan 0,53a 0,65ab 0,91b 1,09b 1,24ab 1,47ab 1,67b 1,77b Đào Vàng 0,51ab 0,63b 0.88bc 1,06b 1,12bc 1,35b 1,55b 1,55bc (Đ/c) P <0,05 <0,05 <0,05 <0,05 <0,05 <0,05 <0,05 <0,05 CV (%) 11,65 11,47 10,89 9,45 11,82 8,82 7,12 10,76 LSD05 0,08 0,1 0,13 0,14 0,19 0,17 1,15 0,25 Qua bảng 4.2 ở trên cho thấy, các giống táo khác nhau có động thái sinh trưởng về chiêu cao cây cũng khác nhau: Đường kính thân cây đạt được 1 tháng sau trồng là: Sự tăng trưởng chiều cao của các giống táo trong thí nghiệm sai khác có ý nghĩa ở mức độ tin cậy 95% (P<0,05). Táo T5 là cao nhất đạt 0,54 cm, tiếp theo là giống táo Đài Loan đạt 0,53 cm, tiếp đó là giống táo Đào Vàng 0,51 cm, thấp nhất là táo Thái Lan 0,44 cm.
- 40 Đường kính thân cây đạt được 2 tháng sau trồng là: Sự tăng trưởng chiều cao của các giống táo trong thí nghiệm sai khác có ý nghĩa ở mức độ tin cậy 95% (P<0,05). Táo T5 là cao nhất đạt 0,774 cm, tiếp theo là giống táo Đài Loan đạt 0,65 cm, tiếp đó là giống táo Đào Vàng 0,63 cm, thấp nhất là táo Thái Lan 0,52 cm. Đường kính thân cây đạt được 3 tháng sau trồng là: Sự tăng trưởng chiều cao của các giống táo trong thí nghiệm sai khác có ý nghĩa ở mức độ tin cậy 95% (P<0,05). Táo T5 là cao nhất đạt 1,12 cm, tiếp theo là giống táo Đài Loan đạt 0,91 cm, tiếp đó là giống táo Đào Vàng 0.88 cm, thấp nhất là táo Thái Lan 0,74 cm. Đường kính thân cây đạt được 4 tháng sau trồng là: Sự tăng trưởng chiều cao của các giống táo trong thí nghiệm sai khác có ý nghĩa ở mức độ tin cậy 95% (P<0,05). Táo T5 là cao nhất đạt 1,31 cm, tiếp theo là giống táo Đài Loan đạt 1,09 cm, tiếp đó là giống táo Đào Vàng 1,06 cm, thấp nhất là táo Thái Lan 0,87 cm. Đường kính thân cây đạt được 5 tháng sau trồng là: Sự tăng trưởng chiều cao của các giống táo trong thí nghiệm sai khác có ý nghĩa ở mức độ tin cậy 95% (P<0,05). Táo T5 là cao nhất đạt 1,42 cm, tiếp theo là giống táo Đài Loan đạt 1,24 cm, tiếp đó là giống táo Đào Vàng 1,12 cm, thấp nhất là táo Thái Lan 0,95 cm. Đường kính thân cây đạt được 6 tháng sau trồng là: Sự tăng trưởng chiều cao của các giống táo trong thí nghiệm sai khác có ý nghĩa ở mức độ tin cậy 95% (P<0,05). Táo T5 là cao nhất đạt 1,61 cm, tiếp theo là giống táo Đài Loan đạt 1,47 cm, tiếp đó là giống táo Đào Vàng 1,35 cm, thấp nhất là táo Thái Lan 1,07 cm. Đường kính thân cây đạt được 7 tháng sau trồng là: Sự tăng trưởng chiều cao của các giống táo trong thí nghiệm sai khác có ý nghĩa ở mức độ tin cậy 95%
- 41 (P<0,05). Táo T5 là cao nhất đạt 1,83 cm, tiếp theo là giống táo Đài Loan đạt 1,67 cm, tiếp đó là giống táo Đào Vàng 1,55 cm, thấp nhất là táo Thái Lan 1.31 cm. Đường kính thân cây đạt được 8 tháng sau trồng là: Sự tăng trưởng chiều cao của các giống táo trong thí nghiệm sai khác có ý nghĩa ở mức độ tin cậy 95% (P<0,05). Táo T5 là cao nhất đạt 2,07 cm, tiếp theo là giống táo Đài Loan đạt 1,77 cm, tiếp đó là giống táo Đào Vàng 1,55 cm, thấp nhất là táo Thái Lan 1,44 cm. Biểu đồ 2: Động thái tăng trưởng đường kính thân cây táo 4.1.2 Thời gian ra lộc của các giống táo 4.1.2.1 thời gian ra lộc hè của các giống táo Bảng 4.3. Thời gian ra lộc hè của cây táo Ngày xuất hiện lộc Số Ngày xuất Ngày lộc Ngày kết lộc/cây Tên giống táo hiện lộc ra rộ thúc ra lộc (lộc) T5 11/5 20/5 28/5 7,8b Thái Lan 16/5 22/5 27/5 4,8 Đài Loan 13/5 20/5 29/5 8b Đào Vàng (Đ/c) 11/5 20/5 30/5 10a
- 42 P <0,05 LSD.05 1,40 Qua bảng 4.3 cho thấy: Trong 4 công thức, giống táo T5 và táo Đài Vàng (Đ/c) là 2 giống táo ra lộc sớm nhất ( ngày 11/5), táo Thái Lan ra lộc chậm nhất (ngày 16/5). Thời gian lộc rộ của các giống táo T5, táo Đài Loan và giống táo Đào Vàng (Đ/c) là sớm nhất (20/5), thời gian lộc rộc của giống táo Thái Lan (22/5). Thời gian kết thúc ra lộc của các của các giống lần lượt là táo Thái Lan (ngày 27/5), táo T5 (ngày 28/5), táo Đài Loan (ngày 29/5), táo Đào Vàng (ngày 30/5). Qua bảng 4.3 cho thấy giống táo Thái Lan là giống táo có thời gian từ lúc ra lộc đến lúc lộc rộ là ngắn nhất, giống táo có thời gian ra lộc lâu nhất là giống táo Đào vàng (Đ/c). Như vậy, tính từ khi cây bắt đầu ra lộc hè dến lúc kết thúc lộc hè của cây táo dao động khoảng 16 - 20 ngày. Về số lượng lộc trên cây, kết quả nghiên cứu ở bảng 4.3 cho thấy có sự sai khác giữa các công thức trong thí nghiệm về số lượng lộc trên cây cây trong đợt lộc hè là sựu sai khác có ý nhĩa (p<0,05). Trong đó, táo Đào Vàng (Đ/c) là công thức có số lượng lộc nhiều nhất (10 lộc/cây), táo Đài Loan là công thức có số lượng lộc nhiều thứ 2 (8 lộc/cây), tiếp đến là táo T5 có số lượng lộc lớn thứ 3 (7,8 lộc/cây), táo Thái lan là giống táo có số lượng lộc ít nhất (4,8 lộc). Bảng 4.4. Thời gian ra lộc thu của cây táo Ngày xuất hiện lộc Ngày xuất Ngày lộc Ngày kết Số Tên giống táo hiện lộc ra rộ thúc ra lộc lộc/cây (lộc) T5 15/8 27/8 13/9 12.6b Thái lan 1/9 6/9 15/9 8,4c Đài Loan 17/8 27/8 18/9 14,4b Đào Vàng (Đ/c) 13/8 27/8 21/9 17,8a
- 43 P <0,05 LSD.05 2,78 Qua bảng 4.4 cho thấy: Trong 4 công thức, giống táo Đào Vàng (Đ/c) là giống táo ra lộc sớm nhất trong đợt lộc thu (ngày 13/8). Giống táo ra lộc muộn nhất là giống táo Thái Lan (ngày 1/9). Thời gian lộc rộ của các giống táo T5, Đài Loan, Đào Vàng (Đ/c) là như nhau (27/8). Còn thời gian lộc rộ của giống táo Thái Lan là muộn nhất (6/9). Thời gian kết thúc ra lộc của giống táo T5 là sớm nhất (13/9). Giống táo Đào vàng là giống táo có thời gian kết thúc ra lộc muộn nhất (21/9). Thời gian ra lộc của giống táo Thái Lan (khoảng 14-15 ngày) là ngắn nhất. Thời gian ra lộc của giống táo Đào Vàng (Đ/c) là dài nhất (khoảng 37-38 ngày). Về số lượng lộc trên cây, kết quả nghiên cứu ở bảng 4.4 cho thấy có sự sai khác về số lượng lộc trên cây cây trong đợt lộc thu giữa các công thức trong thí nghiệm là sai khác có ý nghĩa (p<0,05). Trong đó, táo Đào Vàng (Đ/c) là công thức có số lượng lộc nhiều nhất đạt 17,8 lộc/cây, Đài Loan có số lộc nhiều thứ 2 đạt 14 lộc/cây, tiếp đến là giống táo T5 đạt 12,6 lộc/cây. Táo Thái Lan là giống táo có số lượng lộc ít nhất đạt 8,4 lộc/cây. Bảng 4.5. Thời gian ra lộc đông của cây táo Ngày xuất hiện lộc Số Ngày xuất Ngày lộc Ngày kết lộc/cây Tên giống táo hiện lộc ra rộ thúc ra lộc (lộc) T5 21/10 25/10 13/10 6,8b Thái Lan 27/10 2/11 9/11 4,8b Đài Loan 21/10 25/10 3/11 9,6a Đào Vàng (Đ/c) 19/10 25/10 7/11 11,6a P <0,05 LSD.05 2,42
- 44 Qua bảng 4.5 cho thấy: Trong 4 công thức, táo Đào Vàng (Đ/c) là công thức ra lộc sớm nhất (19/10), tiếp theo là giống táo T5 và Đài Loan (21/10), muộn nhất là táo Thái Lan (27/10). Các loại táo T5, Đài Loan, Đào Vàng (Đ/c) là 3 giống táo có thời gian lộc rộ nhanh nhất (25/10), táo Thái Lan lộc rộ muộn nhất (2/11). Giống táo kết thúc ra lộc sớm nhất là táo Đài Loan (3/11), tiếp theo là táo Đào Vàng (Đ/c) (4/11), tiếp đến là táo Thái Lan (9/11), muộn nhất là táo T5 (13/10). Về số lượng lộc trên cây, kết quả nghiên cứu ở bảng 4.5 cho thấy có sự sai khác về số lượng lộc trên cây cây trong đợt lộc đông giữa các công thức trong thí nghiệm là sai khác có ý nghĩa (p<0,05). Trong đó, táo Đào Vàng là giống táo có số lượng lộc nhiều nhất (11,6 lộc/cây), táo Đài Loan là công thức có số lượng lộc nhiều thứ 2 (9,6 lộc/cây), tiếp đến là táo T5 (6,8 lộc/cây), ít nhất là Thái Lan (4,8 lộc/cây). 4.2. Động thái phát triển lộc của các giống táo trong thí nghiệm. 4.2.1. Động thái tăng trưởng lộc hè của các giống táo trong thí nghiệm 4.2.1.1 Động thái tăng trưởng chiều dài lộc hè của các giống táo trong thí nghiệm Bảng 4.6: Động thái phát triển chiều dài lộc hè (Đơn vị: cm) Thời gian sau khi lộc xuất hiện (ngày) Tên giống táo 7 14 21 28 35 42 ngày ngày ngày ngày ngày ngày T5 3,90b 9,61a 14,45a 18,75a 20,90a 20,90a Thái Lan 3,19c 8,55c 13,05b 15,75b 17,10b 17,10b Đài Loan 4,50a 9,88a 14,79a 18,89a 20,94a 20,94a Đào Vàng (Đ/c) 4,38b 9,00b 13,58b 13,96c 14,15c 14,15c P <0,05 <0,05 <0,05 <0,05 <0,05 <0,05 CV (%) 8,45 3,45 4,02 3,34 3,08 3,08
- 45 LSD05 0,45 0,44 0,07 0,77 0,77 0,77 Qua bảng 4.6 ở trên cho thấy, các giống táo khác nhau có động thái sinh trưởng về chiều dài lộc hè cũng khác nhau: Chiều dài lộc đạt được sau 7 ngày: Sự tăng trưởng chiều dài lộc hè của các giống táo trong thí nghiệm sai khác có ý nghĩa ở mức độ tin cậy 95% (P<0,05). Táo Đài Loan là cao nhất đạt 4,5cm, tiếp theo là giống táo Đào Vàng (Đ/c) đạt 4,38 cm, sau táo Đào Vàng là táo T5 đạt 3,9cm, thấp nhất là táo Thái Lan đạt 3,19 cm. Chiều dài lộc đạt được sau 14 ngày: Sự tăng trưởng chiều dài lộc hè của các giống táo trong thí nghiệm sai khác có ý nghĩa ở mức độ tin cậy 95% (P<0,05). Táo Đài Loan là cao nhất đạt 9,88 cm, tiếp theo là giống táo T5 đạt 9,61 cm, sau táo T5 là táo Đào Vàng (Đ/c) đạt 9 cm, thấp nhất là táo Thái Lan đạt 8,85 cm. Chiều dài lộc đạt được sau 21 ngày: Sự tăng trưởng chiều dài lộc hè của các giống táo trong thí nghiệm sai khác có ý nghĩa ở mức độ tin cậy 95% (P<0,05). Táo Đài Loan là cao nhất đạt 14,79 cm, tiếp theo là giống táo T5 đạt 14,45 cm, sau táo T5 là táo Đào Vàng (Đ/c) đạt 13,58 cm, thấp nhất là táo Thái Lan đạt 13,05 cm. Chiều dài lộc đạt được sau 28 ngày: Sự tăng trưởng chiều dài lộc hè của các giống táo trong thí nghiệm sai khác có ý nghĩa ở mức độ tin cậy 95% (P<0,05). Táo Đài Loan là cao nhất đạt 18,89 cm, tiếp theo là giống táo T5 đạt 15,75 cm, sau táo T5 là táo Thái Lan đạt 15,75 cm, thấp nhất là táo Đào Vàng (Đ/c) đạt 13,96 cm. Chiều dài lộc đạt được sau 35 ngày: Sự tăng trưởng chiều dài lộc hè của các giống táo trong thí nghiệm sai khác có ý nghĩa ở mức độ tin cậy 95% (P<0,05). Táo Đài Loan là cao nhất đạt 20,94 cm, tiếp theo là giống táo T5
- 46 đạt 20,90 cm, sau táo T5 là táo Thái Lan đạt 17,10 cm, thấp nhất là táo Đào Vàng (Đ/c) đạt 14,15 cm. Chiều dài lộc đạt được sau 42 ngày: Sự tăng trưởng chiều dài lộc hè của các giống táo trong thí nghiệm sai khác có ý nghĩa ở mức độ tin cậy 95% (P<0,05). Táo Đài Loan là cao nhất đạt 20,94 cm, tiếp theo là giống táo T5 đạt 20,90 cm, sau táo T5 là táo Thái Lan đạt 15, 17,10 cm, thấp nhất là táo Đào Vàng (Đ/c) đạt 14,15 cm. Biểu đồ 3: Động thái tăng trưởng chiều dài lộc hè 4.2.1.2 Động thái tăng trưởng đườngkính lộc hè của các giống táo trong thí nghiệm Bảng 4.7: Động thái phát triển đường kính lộc hè (Đơn vị: cm) Thời gian sau khi lộc xuất hiện (ngày) Tên giống táo 28 35 7 ngày 14 ngày 21 ngày 42 ngày ngày ngày a a T5 0,09b 0,14a 0,18a 0,19 0,2 0,2a a b b Thái Lan 0,06b 0,12b 0,14b 0,16 0,17 0,17 ab a a Đài Loan 0.09a 0,14a 0,17ab 0,18 0,2 0,2
- 47 Đào Vàng b b b 0,08a 0,13a 0,15bc 0,17 0,17 0,17 (Đ/c) P 0,05 >0,05 >0,05 CV (%) 14,75 7,17 8,75 7,48 75,61 75,61 0,02 0,01 0,01 LSD05 0,01 0,01 0,02 Qua bảng 4.7 ở trên cho thấy, các giống táo khác nhau có động thái sinh trưởng về đường kính lộc hè cũng khác nhau: Đường kính lộc đạt được sau 7 ngày: Sự tăng trưởng về đường kính lộc hè của các giống táo trong thí nghiệm sai khác có ý nghĩa ở mức độ tin cậy 95% (P 0,05). Táo Đài Loan là cao nhất đạt 0,19 cm, tiếp theo giống táo
- 48 T5 là cao thứ 2 đạt 0,18 cm, sau đó là giống táo Đào Vàng (Đ/c) đạt 0,17 cm, giống táo Thái Lan là thấp nhất đạt 0,16 cm. Đường kính lộc đạt được sau 35 ngày: Sự tăng trưởng về đường kính lộc hè của các giống táo trong thí nghiệm sai khác có ý nghĩa qua phân tích thống kê (P>0,05). Táo Đài Loan và táo T5 là cao nhất đạt 0,2 cm, giống táo Thái Lan và Đào Vàng (Đ/c) là thấp nhất đạt 0,17 cm. Đường kính lộc đạt được sau 42 ngày: Sự tăng trưởng về đường kính lộc hè của các giống táo trong thí nghiệm sai khác có ý nghĩa qua phân tích thống kê (P>0,05). Táo Đài Loan và táo T5 là cao nhất đạt 0,2 cm, giống táo Thái Lan và Đào Vàng (Đ/c) là thấp nhất đạt 0,17 cm. Biểu đồ 4: Động thái tăng trưởng đường kính lộc hè 4.2.1.3. Động thái tăng trưởng số lá lộc hè của các giống táo trong thí nghiệm Bảng 4.8: Động thái phát triển số lá/ lộc hè (Đơn vị: lá) Thời gian sau khi lộc xuất hiện (ngày) Tên giống táo 14 21 28 35 42 7 ngày ngày ngày ngày ngày ngày
- 49 T5 0,95a 2,55a 5,49a 8,54a 11,99a 15,39a Thái Lan 0,67b 1,92b 4,5b 7,25c 11,0c 14,45b Đài Loan 0,95a 2,55a 5,15b 8,0b 11,65b 15,15a Đào Vàng (Đ/c) 0,85a 2,1b 4,7c 7,6c 11,12c 14,65b P <0,05 <0,05 <0,05 <0,05 <0,05 <0,05 CV (%) 10,8 7,94 4,71 3,35 2,04 1,4 LSD05 0,13 0,25 0,32 0,32 0,47 0,29 Qua bảng 4.8 ở trên cho thấy, các giống táo khác nhau có động thái sinh trưởng về số lá lộc hè cũng khác nhau: Số lá lộc đạt được sau 7 ngày: Sự tăng trưởng về số lá lộc hè của các giống táo trong thí nghiệm sai khác có ý nghĩa ở mức độ tin cậy 95% (P<0,05). Táo Đài Loan và giống táo T5 là cao nhất đạt 0,95 lá, tiếp theo là giống táo Đào Vàng (Đ/c) đạt 8,5 lá, giống táo Thái Lan là thấp nhất đạt 0. 67 lá. Số lá lộc đạt được sau 14 ngày: Sự tăng trưởng về số lá lộc hè của các giống táo trong thí nghiệm sai khác có ý nghĩa ở mức độ tin cậy 95% (P<0,05). Táo Đài Loan và giống táo T5 là cao nhất đạt 2,25 lá, tiếp theo là giống táo Đào Vàng (Đ/c) đạt 2,1 lá, giống táo Thái Lan là thấp nhất đạt 1,92 lá. Số lá lộc đạt được sau 21 ngày: Sự tăng trưởng về số lá lộc hè của các giống táo trong thí nghiệm sai khác có ý nghĩa ở mức độ tin cậy 95% (P<0,05). Táo T5 là cao nhất đạt 5,49 lá, tiếp theo là giống táo Đài Loan cao thứ 2 đạt 5,15 lá, sau đó là giống táo Đào Vàng (Đ/c) đạt 4,7 lá, táo Thái Lan là thấp nhất đạt 4,5 lá. Số lá lộc đạt được sau 28 ngày: Sự tăng trưởng về số lá lộc hè của các giống táo trong thí nghiệm sai khác có ý nghĩa ở mức độ tin cậy 95% (P<0,05). Táo T5 là cao nhất đạt 8,54 lá, tiếp theo là giống táo Đài Loan cao
- 50 thứ 2 đạt 8,0 lá, sau đó là giống táo Đào Vàng (Đ/c) đạt 7,6 lá, táo Thái Lan là thấp nhất đạt 7,25 lá. Số lá lộc đạt được sau 35 ngày: Sự tăng trưởng về số lá lộc hè của các giống táo trong thí nghiệm sai khác có ý nghĩa ở mức độ tin cậy 95% (P<0,05). Táo T5 là cao nhất đạt 11,99 lá, tiếp theo là giống táo Đài Loan cao thứ 2 đạt 11,12 lá, sau đó là giống táo Đào Vàng (Đ/c) đạt 7,6 lá, táo Thái Lan là thấp nhất đạt 7,25 lá. Số lá lộc đạt được sau 42 ngày: Sự tăng trưởng về số lá lộc hè của các giống táo trong thí nghiệm sai khác có ý nghĩa ở mức độ tin cậy 95% (P<0,05). Táo T5 là cao nhất đạt 11,15,39 lá, tiếp theo là giống táo Đài Loan cao thứ 2 đạt 15,15 lá, sau đó là giống táo Đào Vàng (Đ/c) đạt 14,65 lá, táo Thái Lan là thấp nhất đạt 14,5 lá. Biểu đồ 5: Động Thái tăng trưởng số lá lộc hè 4.2.2. Động thái tăng trưởng lộc thu của các giống táo trong thí nghiệm 4.2.2.1 Động thái tăng trưởng chiều dài lộc thu của các giống táo trong thí nghiệm Bảng 4.9: Động thái phát triển chiều dài lộc thu (Đơn vị:cm)
- 51 Thời gian sau khi lộc xuất hiện (ngày) Tên giống táo 28 7 ngày 14 ngày 21 ngày 35 ngày 42 ngày ngày T5 3,93b 9,02ab 17,4a 19,04a 19,04a 19,04a Thái Lan 3,44c 7,02c 11,37c 11,61c 11,61c 11,61c Đài Loan 4,49a 9,07a 17,5a 18,99a 18,99a 18,99a Đào Vàng (Đ/c) 3,81b 8,84b 15,72b 16,62b 16,62b 16,62b P <0,05 <0,05 <0,05 <0,05 <0,05 <0,05 CV (%) 8,39 5,42 6,07 7,31 7,31 7,31 LSD05 0,45 0,64 1,30 1,67 1,67 1,67 Qua bảng 4.9 ở trên cho thấy, các giống táo khác nhau có động thái sinh trưởng về chiều dài lộc thu cũng khác nhau: Chiều dài lộc đạt được sau 7 ngày: Sự tăng trưởng chiều dài lộc thu của các giống táo trong thí nghiệm sai khác có ý nghĩa ở mức độ tin cậy 95% (P<0,05). Táo Thái Lan là cao nhất đạt 4,49 cm, tiếp theo là giống táo T5 đạt 3,93 cm, sau đó là táo Đào Vàng (Đ/c) đạt 3,81 cm , thấp nhất là táo Thái Lan đạt 3,44 cm. Chiều dài lộc đạt được sau 14 ngày: Sự tăng trưởng chiều dài lộc thu của các giống táo trong thí nghiệm sai khác có ý nghĩa ở mức độ tin cậy 95% (P<0,05). Táo Đài Loan là cao nhất đạt 9,07 cm, tiếp theo là giống táo T5 đạt 9,02 cm, sau táo T5 là táo Đào Vàng (Đ/c) đạt 8,85 cm, thấp nhất là táo Thái Lan đạt 7,02 cm. Chiều dài lộc đạt được sau 21 ngày: Sự tăng trưởng chiều dài lộc thu của các giống táo trong thí nghiệm sai khác có ý nghĩa ở mức độ tin cậy 95% (P<0,05). Táo Đài Loan là cao nhất đạt 17,5 cm, tiếp theo là giống táo T5 đạt
- 52 17,04 cm, sau táo T5 là táo Đào Vàng (Đ/c) đạt 15,72 cm, thấp nhất là táo Thái Lan đạt 11,37 cm. Chiều dài lộc đạt được sau 28 ngày: Sự tăng trưởng chiều dài lộc thu của các giống táo trong thí nghiệm sai khác có ý nghĩa ở mức độ tin cậy 95% (P<0,05). Táo T5 là cao nhất đạt 19,04 cm, tiếp theo là giống táo Đài Loan đạt 118,99 cm, sau táo Đài Loan là táo Đào Vàng (Đ/c) đạt 16,62 cm, thấp nhất là táo Thái Lan đạt 11,61 cm. Chiều dài lộc đạt được sau 35 ngày: Sự tăng trưởng chiều dài lộc thu của các giống táo trong thí nghiệm sai khác có ý nghĩa ở mức độ tin cậy 95% (P<0,05). Táo T5 là cao nhất đạt 19,04 cm, tiếp theo là giống táo Đài Loan đạt 118,99 cm, sau táo Đài Loan là táo Đào Vàng (Đ/c) đạt 16,62 cm, thấp nhất là táo Thái Lan đạt 11,61 cm. Sự tăng trưởng chiều dài lộc hè của các giống táo trong thí nghiệm sai khác có ý nghĩa ở mức độ tin cậy 95% (P<0,05). Sự tăng trưởng chiều dài lộc thu của các giống táo trong thí nghiệm sai khác có ý nghĩa ở mức độ tin cậy 95% (P<0,05). Táo T5 là cao nhất đạt 19,04 cm, tiếp theo là giống táo Đài Loan đạt 118,99 cm, sau táo Đài Loan là táo Đào Vàng (Đ/c) đạt 16,62 cm, thấp nhất là táo Thái Lan đạt 11,61 cm. Chiều dài lộc đạt được sau 42 ngày: Sự tăng trưởng chiều dài lộc thu của các giống táo trong thí nghiệm sai khác có ý nghĩa ở mức độ tin cậy 95% (P<0,05). Sự tăng trưởng chiều dài lộc hè của các giống táo trong thí nghiệm sai khác có ý nghĩa ở mức độ tin cậy 95% (P<0,05). Táo T5 là cao nhất đạt 19,04 cm, tiếp theo là giống táo Đài Loan đạt 118,99 cm, sau táo Đài Loan là táo Đào Vàng (Đ/c) đạt 16,62 cm, thấp nhất là táo Thái Lan đạt 11,61 cm.
- 53 Biểu đồ 6: Động thái tăng trưởng chiều dài lộc thu
- 54 4.2.2.2 Động thái tăng trưởng đườngkính lộc thu của các giống táo trong thí nghiệm Bảng 4.10: Động thái phát triển đường kính lộc thu (Đơn vị: cm) Thời gian sau khi lộc xuất hiện (ngày) Tên giống táo 28 35 7 ngày 14 ngày 21 ngày 42 ngày ngày ngày T5 0,07ab 0,11a 0,15a 0,18a 0,2a 0,2a Thái lan 0,06c 0,1b 0,11b 0,14c 0,15c 0,15c Đài loan 0,08a 0,11a 0,15a 0,17a 0,19a 0,19a Đào vàng 0,06bc 0,1b 0,14a 0,15b 0,16a 0,16a P 0,05 0,05). Táo Đài Loan và giống táo T5 là cao nhất đạt 0,11 cm, tiếp theo là giống táo Đào Vàng (Đ/c) và giống táo Thái Lan là thấp nhất đạt 0,1 cm. Đường kính lộc đạt được sau 21 ngày: Sự tăng trưởng về đường kính lộc thu của các giống táo trong thí nghiệm sai khác có ý nghĩa ở mức độ tin cậy 95% (P<0,05). Táo Đài Loan và giống táo T5 là cao nhất đạt 0,15 cm,
- 55 tiếp theo là giống táo Đào Vàng (Đ/c) đạt 0,14 cm, giống táo Thái Lan là thấp nhất đạt 0,11 cm. Đường kính lộc đạt được sau 28 ngày: Sự tăng trưởng về đường kính lộc thu của các giống táo trong thí nghiệm sai khác có ý nghĩa qua phân tích thống kê (P>0,05). Táo T5 là cao nhất đạt 0,18 cm, tiếp theo giống táo Đài Loan là cao thứ 2 đạt 0,17 cm, sau táo Đài Loan đó là giống táo Đào Vàng đạt 0,15 cm, giống táo Thái Lan là thấp nhất đạt 0,14 cm. Đường kính lộc đạt được sau 35 ngày: Sự tăng trưởng về đường kính lộc thu của các giống táo trong thí nghiệm sai khác có ý nghĩa qua phân tích thống kê (P>0,05). Táo T5 là cao nhất đạt 0,2 cm, tiếp theo giống táo Đài Loan là cao thứ 2 đạt 0,19 cm, sau táo Đài Loan đó là giống táo Đào Vàng đạt 0,16 cm, giống táo Thái Lan là thấp nhất đạt 0,15 cm. Đường kính lộc đạt được sau 42 ngày: Sự tăng trưởng về đường kính lộc thu của các giống táo trong thí nghiệm sai khác có ý nghĩa qua phân tích thống kê (P>0,05). Táo T5 là cao nhất đạt 0,2 cm, tiếp theo giống táo Đài Loan là cao thứ 2 đạt 0,19 cm, sau táo Đài Loan đó là giống táo Đào Vàng đạt 0,16 cm,giống táo Thái Lan là thấp nhất đạt 0,15 cm. Biểu đồ 7: Động thái tăng trưởng đường kính lộc thu
- 56 4.2.2.3 Động thái tăng trưởng số lá lộc thu của các giống táo trong thí nghiệm Bảng 4.11: Động thái phát triển số lá lộc thu (Đơn vị: lá) Thời gian sau khi lộc xuất hiện (ngày) Tên giống táo 28 35 42 7 ngày 14 ngày 21 ngày ngày ngày ngày T5 0,80a 1,8a 3,8a 6,55a 9,85a 13,8a Thái Lan 0,55b 1,35c 3,85a 6,1c 9,1d 13c Đài Loan 0.85a 1,85a 3,8a 6,55ab 9,6b 13,35b Đào Vàng (Đ/c) 0,85a 1,6b 3,5b 6,35b 9,35c 13,1bc P <0,05 <0,05 <0,05 <0,05 <0,05 <0,05 CV (%) 17,19 8,29 2,8 2,28 1,76 1,5 LSD05 0,18 0,19 0,14 0,20 0,23 0,28 Qua bảng 4.11 ở trên cho thấy, các giống táo khác nhau có động thái sinh trưởng về số lá lộc thu cũng khác nhau: Số lá lộc đạt được sau 7 ngày: Sự tăng trưởng về số lá lộc thu của các giống táo trong thí nghiệm sai khác có ý nghĩa ở mức độ tin cậy 95% (P<0,05). Táo Đài Loan và táo Đào Vàng (Đ/c) là cao nhất đạt 0,85 lá, tiếp theo là giống táo Đào Vàng (Đ/c) đạt 8,0 lá, tiếp theo giống táo T5 đạt 0,8 lá, táo Thái Lan là thấp nhất đạt 0.55 lá Số lá lộc đạt được sau 14 ngày: Sự tăng trưởng về số lá lộc thu của các giống táo trong thí nghiệm sai khác có ý nghĩa ở mức độ tin cậy 95% (P<0,05). Táo Đài Loan là cao nhất đạt 1,85 lá, tiếp theo là giống táo T5 đạt 1,8 lá, Đào Vàng (Đ/c) là thấp nhất đạt 1,35 lá.
- 57 Số lá lộc đạt được sau 21 ngày: Sự tăng trưởng về số lá lộc thu của các giống táo trong thí nghiệm sai khác có ý nghĩa ở mức độ tin cậy 95% (P<0,05). Táo Thái Lan là cao nhất đạt 3,85 lá, tiếp theo là giống táo Thái Lan và Đài Loan đạt 3,8 lá, táo Đào Vàng là thấp nhất đạt 3,5 lá. Số lá lộc đạt được sau 28 ngày: Sự tăng trưởng về số lá lộc thu của các giống táo trong thí nghiệm sai khác có ý nghĩa ở mức độ tin cậy 95% (P<0,05). Táo T5 là cao nhất đạt 6,55 lá, tiếp theo là giống táo Đào Vàng 9Đ/c) cao thứ 2 đạt 6,35 lá, sau đó là giống táo Thái Lan đạt 6,1 lá, táo Đài Loan là thấp nhất Đạt 5,55 lá. Số lá lộc đạt được sau 35 ngày: Sự tăng trưởng về số lá lộc thu của các giống táo trong thí nghiệm sai khác có ý nghĩa ở mức độ tin cậy 95% (P<0,05). Táo T5 là cao nhất đạt 9,85 lá, tiếp theo là giống táo Đài Loan cao thứ 2 đạt 9,6 lá, sau đó là giống táo Đào Vàng (Đ/c) đạt 9,35 lá, táo Thái Lan là thấp nhất đạt 9,1 lá. Số lá lộc đạt được sau 42 ngày: Sự tăng trưởng về số lá lộc thu của các giống táo trong thí nghiệm sai khác có ý nghĩa ở mức độ tin cậy 95% (P<0,05). Táo T5 là cao nhất đạt 13,8 lá, tiếp theo là giống táo Đài Loan cao thứ 2 đạt 13,35 lá, sau đó là giống táo Đào Vàng (Đ/c) đạt 13,1 lá, táo Thái Lan là thấp nhất đạt 13 lá.
- 58 Biểu đồ 8: Động thái tăng trưởng số lá lộc thu 4.2.3. Động thái tăng trưởng lộc đông của các giống táo trong thí nghiệm 4.2.3.1 Động thái tăng trưởng chiều dài lộc đông của các giống táo trong thí nghiệm Bảng 4.12: Động thái tăng trưởng chiều dài lộc đông (Đơn vị: cm) Thời gian sau khi lộc xuất hiện (ngày) Tên giống táo 28 35 7 ngày 14 ngày 21 ngày 42 ngày ngày ngày T5 4,37a 7,68a 10,50a 12,1a 12,1a 12,1a Thái Lan 2,82c 5,35c 7,44c 8,274c 8,274c 8,274c Đài Loan 4,01a 7,26a 9,97a 11,17a 11,17a 11,17a Đào Vàng (Đ/c) 3,48b 6,54b 9,01b 9,92b 9,92b 9,92b P <0,05 <0,05 <0,05 <0,05 <0,05 <0,05 CV (%) 10,00 6,46 6,52 7,84 7,84 7,84 LSD05 0,51 0,60 0,63 1,11 1,11 1,11 Qua bảng 4.12 ở trên cho thấy, các giống táo khác nhau có động thái sinh trưởng về chiều dài lộc đông cũng khác nhau:
- 59 Chiều dài lộc đạt được sau 7 ngày: Sự tăng trưởng chiều dài lộc đông của các giống táo trong thí nghiệm sai khác có ý nghĩa ở mức độ tin cậy 95% (P<0,05). Táo T5 là cao nhất đạt 4,37 cm, tiếp theo là giống táo Đài Loan đạt 4,01 cm, sau đó là táo Đào Vàng (Đ/c) đạt 3,48 cm , thấp nhất là táo Thái Lan đạt 2,82 cm. Chiều dài lộc đạt được sau 14 ngày: Sự tăng trưởng chiều dài lộc đông của các giống táo trong thí nghiệm sai khác có ý nghĩa ở mức độ tin cậy 95% (P<0,05). Táo T5 là cao nhất đạt 7,68 cm, tiếp theo là giống táo Đài Loan đạt 7,26 cm, sau đó là táo Đào Vàng (Đ/c) đạt 6,54 cm , thấp nhất là táo Thái Lan đạt 5,35 cm. Chiều dài lộc đạt được sau 21 ngày: Sự tăng trưởng chiều dài lộc đông của các giống táo trong thí nghiệm sai khác có ý nghĩa ở mức độ tin cậy 95% (P<0,05). Táo T5 là cao nhất đạt 10,50 cm, tiếp theo là giống táo Đài Loan đạt 9,97 cm, sau đó là táo Đào Vàng (Đ/c) đạt 9,01 cm , thấp nhất là táo Thái Lan đạt 7,44 cm. Chiều dài lộc đạt được sau 28 ngày: Sự tăng trưởng chiều dài lộc đông của các giống táo trong thí nghiệm sai khác có ý nghĩa ở mức độ tin cậy 95% (P<0,05). Táo T5 là cao nhất đạt 12,1 cm, tiếp theo là giống táo Đài Loan đạt 11,17 cm, sau đó là táo Đào Vàng (Đ/c) đạt 9,2 cm , thấp nhất là táo Thái Lan đạt 8,27 cm. Chiều dài lộc đạt được sau 35 ngày: Sự tăng trưởng chiều dài lộc đông của các giống táo trong thí nghiệm sai khác có ý nghĩa ở mức độ tin cậy 95% (P<0,05). Táo T5 là cao nhất đạt 12,1 cm, tiếp theo là giống táo Đài Loan đạt 11,17 cm, sau đó là táo Đào Vàng (Đ/c) đạt 9,2 cm , thấp nhất là táo Thái Lan đạt 8,27 cm. Chiều dài lộc đạt được sau 42 ngày: Sự tăng trưởng chiều dài lộc đông của các giống táo trong thí nghiệm sai khác có ý nghĩa ở mức độ tin cậy 95% (P<0,05). Táo T5 là cao nhất đạt 12,1 cm, tiếp theo là giống táo Đài Loan đạt 11,17 cm, sau đó là táo Đào Vàng (Đ/c) đạt 9,2 cm, thấp nhất là táo Thái Lan đạt 8,27 cm.
- 60 Biểu đồ 9: Động thái tăng trưởng chiều cao lộc đông
- 61 4.2.3.2 Động thái tăng trưởng đường kính lộc đông của các giống táo trong thí nghiệm Bảng 4.13: Động thái tăng trưởng đường kính lộc đông (Đơn vị: cm) Thời gian sau khi lộc xuất hiện (ngày) Tên giống táo 14 21 28 35 42 7 ngày ngày ngày ngày ngày ngày a T5 0,06a 0,1a 0,1a 0,1a 0,13a 0,13 b Thái Lan 0,05b 0,1a 0,1b 0,1b 0,1b 0,1 ab Đài Loan 0,05ab 0,09b 0,1ab 0,11ab 0,12ab 0,12 b Đào Vàng (Đ/c) 0,05ab 0,1a 0,1b 0,1b 0,1b 0,1 P >0,05 0,05 >0,05 0,05). Táo T5 là cao nhất đạt 0,06 cm, tiếp theo là giống táo Thái Lan, Đài Loan, Đào Vàng (Đ/c) đạt 0,05 cm. Đường kính lộc đạt được sau 14 ngày: Sự tăng trưởng về đường kính lộc đông của các giống táo trong thí nghiệm sai khác có ý nghĩa ở mức độ tin cậy 95% (P<0,05). Táo T5, táo Thái Lan, táo Đào Vàng (Đ/c) là cao nhất đạt 0,1 cm, giống táo Đài Loan là thấp nhất 0.09 cm.