Khóa luận Đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp tại Farm 22, Moshav Tzofar, Arava, Israel

pdf 58 trang thiennha21 19/04/2022 4630
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp tại Farm 22, Moshav Tzofar, Arava, Israel", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfkhoa_luan_danh_gia_hieu_qua_su_dung_dat_nong_nghiep_tai_farm.pdf

Nội dung text: Khóa luận Đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp tại Farm 22, Moshav Tzofar, Arava, Israel

  1. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM NGUYỄN THỊ THANH HÀ Tên đề tài: ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG ĐẤT NÔNG NGHIỆP TẠI FARM 22 MOSHAV TZOFAR, ARAVA, ISRAEL KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Hệ đào tạo : Chính quy Chuyên ngành : Quản lý đất đai Khoa : Quản lý tài nguyên Khóa học : 2015 – 2019 Thái Nguyên, năm 2019
  2. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM NGUYỄN THỊ THANH HÀ Tên đề tài: ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG ĐẤT NÔNG NGHIỆP TẠI FARM 22 MOSHAV TZOFAR, ARAVA, ISRAEL KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Hệ đào tạo : Chính quy Chuyên ngành : Quản lý đất đai Lớp : K 47 N03 - QLĐĐ Khoa : Quản lý tài nguyên Khóa học : 2015 – 2019 Giảng viên hướng dẫn : GS.TS. Nguyễn Thế Đặng Thái Nguyên, năm 2019
  3. i LỜI CẢM ƠN Qua quá trình học tập tại trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên và sau 11 tháng thực tập tốt nghiệp tại đất nước Israel em đã hoàn thành khóa luận tốt nghiệp. Qua đây em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành, sâu sắc tới Ban giám hiệu trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên, Ban chủ nhiệm khoa Quản lý tài nguyên, các phòng ban cùng các thầy cô giáo đã dạy dỗ, truyền đạt và trang bị cho em những kiến thức cơ bản, giúp em có những kiến thức mới trong quá trình thực tập tại đất nước xa xôi Israel . Đặc biệt em xin cảm ơn thầy giáo GS.TS. Nguyễn Thế Đặng đã trực tiếp hướng dẫn, tận tình chỉ bảo và giúp đỡ em trong suốt quá trình thực tập và hoàn thành bài khóa luận này. Đồng thời em xin chân thành cảm ơn các thầy cô, bạn bè tại trung tâm đào tạo Quốc tế ITC, và trung tâm AICAT đã tạo điều kiện giúp đỡ em trong việc cung cấp thông tin cũng như đóng góp ý kiến có liên quan đến việc nghiên cứu, giúp đỡ em hoàn thành tốt đề tài tốt nghiệp của mình. Trong thời gian thực tập khóa luận, bản thân em đã cố gắng khắc phục mọi khó khăn để hoàn thiện khoá luận. Tuy nhiên với thời gian ngắn và hạn chế về kiến thức nên chuyên đề của em khó tránh khỏi những thiếu sót. Vậy nên kính mong các thầy cô và giáo viên hướng dẫn giúp đỡ, góp ý, tạo điều kiện để khóa luận của em được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn! Thái Nguyên, ngày tháng năm 2019 Sinh viên Nguyễn Thị Thanh Hà
  4. ii DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng 4.1: Năng suất và sản lượng chà là tại Farm Bảng 4.2: Giá trị thặng dư của ớt biến động theo giá cả thị trường Bảng 4.3: Giá bán chà là phụ thuộc và kích cỡ Bảng 4.4. Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả xã hội của Farm Bảng 4.5. Hiệu quả môi trường của farm
  5. iii DANH MỤC CÁC HÌNH Hình 2.1: Một nhà kính giữa sa mạc ở Moshap Ein Yahav Hình 2.2: Vùng nông thôn tại Paran Hình 2.3: Ngày thu hoạch chà là Hình 2.4: Vườn hoa tại Moshap Paran Hình 2.5. Quá trình hình thành đất Hình 4.1: Hình ảnh tại trang trại cà tím Hình 4.2: Hình ảnh trang trại ớt chuông Hình 4.3: Hình ảnh vườn chà là của Farm Hình 4.4: Hình ảnh packing house của trang trại Hình 4.5: Hình ảnh ớt chuông tại trang trại Hình 4.6: Hình ảnh chà là vào mùa thu hoạch Hình 4.7: Sản lượng thu hoạch ớt theo tháng tại farm 22 Tzofar Hình 4.8: Tỷ lệ phần trăm kích thước của ớt sau khi được phân loại Hình 4.9:Tỷ lệ kích cỡ của chà là sau khi được phân loại
  6. iv MỤC LỤC LỜI CẢM ƠN i DANH MỤC CÁC BẢNG ii DANH MỤC CÁC HÌNH .iii MỤC LỤC .iv PHẦN 1: MỞ ĐẦU 1 1.1: Đặt vấn đề 1.2: Mục tiêu nghiên cứu 1.2.1: Mục tiêu tổng quát 1.2.2: Mục tiêu cụ thể PHẦN 2: TỔNG QUAN TÀI LIỆU 4 2.1: Tổng quan của đề tài 2.1.1: Tổng quan về đất nước Israel 2.1.2: Tổng quan về Moshap Tzofar Arava 2.2: Tổng quan về nền nông nghiệp Israel 2.3: Cơ sở khoa học của đánh giá hiệu quả sử dụng đất 2.3.1: Khái niệm chung về đất đai 2.3.2: Khái niệm chung về đất nông nghiệp 2.3.3: Quá trình hình thành đất 2.3.4: Vai trò và ý nghĩa của đất đai trong nông nghiệp 2.3.5: Hiệu quả sử dụng đất và đánh giá hiệu quả sử dụng đất 2.3.6: Tầm quan trọng của đánh giá đất 2.3.7: Tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả sử dụng đất 2.3.8: Đặc điểm và phương pháp đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp 2.3.8.1: Đất nông nghiệp và quan điểm sử dụng đất nông nghiệp 2.3.8.2: Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp 2.3.8.3: Đặc điểm, tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp 2.4: Những nghiên cứu trên thế giới và trong nước về đánh giá hiệu quả sử dụng đất
  7. v 2.4.1: Trên thế giới 2.4.2: Trong nước PHẦN 3: ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 38 3.1: Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1.1: Đối tượng nghiên cứu 3.1.2: Phạm vi nghiên cứu 3.2: Nội dung nghiên cứu 3.2.1: Nội dung 1: Khái quát về Farm 22 và Farm chà là 3.2.2: Nội dng 2: Tình hình sản xuất, chế biến và tiêu thụ ớt chuông tại Farm22 và Farm chà là 3.2.3: Nội dung 3: Đánh giá hiệu quả sử dụng đất 3.2.4: Nội dung 4: Thuận lợi, khó khăn, bài học kinh nghiệm và đề xuất 3.3: Phương pháp nghiên cứu 3.3.1: Thu thập số liệu thứ cấp 3.3.2: Thu thập số liệu sơ cấp 3.3.3: Phương pháp đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp 3.3.3.1: Hiệu quả kinh tế 3.3.3.2: Hiệu quả xã hội 3.3.3.3: Hiệu quả môi trường PHẦN 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 41 4.1: Khái quát về Farm 22 4.1.1: Điều kiện tự nhiên 4.1.2: Điều kiện kinh tế xã hội 4.2: Tình hình sản xuất, chế biến và tiêu thụ ớt chuông và Farm chà là 4.3: Đánh giá hiệu quả sử dụng đất 4.3.1: Hiệu quả kinh tế 4.3.2: Hiệu quả xã hội 4.3.3: Hiệu quả môi trường 4.4: Thuận lợi, khó khăn bài học kinh nghiệm và đề xuất 4.4.1: Tại Israel
  8. vi 4.4.2: Khi áp dụng mô hình sản xuất vào Việt Nam PHẦN 5: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 58 5.1: Kết luận 5.2: Kiến nghị TÀI LIỆU THAM KHẢO 59 Tài liệu tham khảo tiếng việt Tài liệu Internet
  9. 1 PHẦN 1 MỞ ĐẦU 1.1. Đặt vấn đề Đất đai là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá mà thiên nhiên đã ban tặng cho con người. Đất đai là nền tảng để con người định cư và tổ chức các hoạt động kinh tế xã hội, nó không chỉ là đối tượng lao động mà còn là tư liệu sản xuất không thể thay thế được, đặc biệt là đối với ngành sản xuất nông nghiệp, đất là yếu tố đầu vào có tác động mạnh mẽ đến hiệu quả sản xuất đất nông nghiệp, đồng thời cũng là môi trường duy nhất sản xuất ra những lương thực thực phẩm nuôi sống con người. Việc sử dụng đất có hiệu quả và bền vững đang trở thành vẫn đề cấp thiết của mỗi quốc gia, nhằm duy trì sức sản xuất của đất đai cho hiện tại và cho tương lai. Xã hội ngày càng phát triển, trình độ khoa học kỹ thuật ngày càng cao, con người tìm ra nhiều phương thức sử dụng đất có hiệu quả hơn. Tuy nhiên, do có sự khác nhau về số lượng, mỗi loại đất bao gồm những yếu tố thuận lợi và hạn chế cho việc khai thác sử dụng, nên phương thức sử dụng đất cũng khác nhau ở mỗi vùng, mỗi khu vực, mỗi điều kiện kinh tế xã hội cụ thể. Như chúng ta đã biết qua các phương tiện truyền thông thì ngành nông nghiệp ở Israel là một ngàng công nghiệp phát triển cao: Israel là một nước xuất khẩu chủ yếu các sản phẩm tươi sống và đi tiên phong trên thế giới trong công nghệ, nông nghiệp mặc dù trên thực tế địa lí của Israel không được ưu đãi cho nông nghiệp. Hơn một nửa diện tích đất tại đây là sa mạc, khí hậu khắc nghiệt và thiếu nguồn nước hoàn toàn không có lợi cho nông nghiệp. Chỉ có 20%diện tích đất tự nhiên là canh tác. Thực tế sản xuất nông nghiệp tại Israel tiếp tục phát triển bất chấp những hạn chế nghiêm trọng về đất và nước không hề dễ dàng, mà có được nhờ sự hợp tác mật thiết và liên tục giữa các nhà nghiên cứu và người nông dân, cùng các ngành dịch vụ và công nghiệp liên quan tới nông nghiệp. Nghiên cứu và phát triển theo hướng ứng dụng đã được tiến hành tại quốc gia này từ rất sớm, giúp ngành nông nghiệp phát triển dựa vào khoa học và công nghệ. Chìa khóa thành công này nằm ở luồng thông tin hai chiều giữa các nhà nghiên cứu và những người nông dân, sự phối hợp chặt
  10. 2 chẽ giữa các cơ quan chính phủ, các viện nghiên cứu, các ngành công nghiệp và các cơ quan hợp tác nhằm tìm kiếm giải pháp và đối phó những thách thức mới đã đem lại những giống cây trồng mới và một loạt những cải tiến về tưới tiêu, phân bón, cơ giới, tự động, canh tác và thu hoạch. Nằm cách Tel Aviv hơn 200km về phía Nam, khu vực Arava đã trở thành biểu tượng cho những thành tựu về nông nghiệp của Israel với tư cách nhà phát triển hàng đầu về công nghệ nông nghiệp trên sa mạc. Vùng đất này được ví như thung lũng silicon của ngành nông nghiệp Israel. Để ứng dụng phát triển nền nông nghiệp hiện đại của Israel tại Việt Nam, góp phần thực hiện chiến lược “Phát triển bền vững”, đáp ứng nhu cầu về nông sản phẩm cao cấp và chất lượng cảnh quan môi trường sinh thái, để phục vụ cho cuộc sống ngày càng nâng cao. Qua 10 tháng thực tập nghề nghiệp tại Israel nói chung và xuất phát tư ý nghĩa thực tiễn nói trên, được sự đồng ý của Ban giám hiệu nhà trường Đại học Nông Lâm, dưới sự hướng dẫn của GS.TS Nguyễn Thế Đặng, ban chủ nhiệm khoa Quản lí tài nguyên, em tiến hành nghiên cứu đề tài: “Đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp tại Farm 22, Moshav Tzofar, Arava, Israel” 1.2. Mục tiêu nghiên cứu 1.2.1. Mục tiêu tổng quát - Đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp tại Farm 22, Moshav Tzofar, Arava, Israel từ đó đánh giá hiệu quả, phương thức, cách làm. - Qua đó rút ra kinh nghiệm phù hợp và đề xuất các phương hướng sử dụng đất nông nghiệp hợp lí, nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp cho những năm tới phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế 1.2.2 Mục tiêu cụ thể - xã hội tại Việt Nam. - Khái quát tình hình sản xuất nông nghiệp tại farm 22 - Đánh giá tình hình sản xuất, chế biến và tiêu thụ ớt chuông tại farm - Đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp trên cơ sở điều kiện tự nhiên – kinh tế - xã hội tại Farm - Thuận lợi, khó khăn, bài học kinh nghiệm - Đưa ra những giải pháp sử dụng đất hiệu quả hơn
  11. 3 PHẦN 2 TỔNG QUAN TÀI LIỆU 2.1. Tổng quan của đề tài 2.1.1. Tổng quan về đất nước ISRAEL * Vị trí địa lý Israel là một quốc gia nằm ở Trung Đông, nằm giữa vĩ tuyến 29o và 34o Bắc, và kinh tuyến 34o và 36o Đông, trên bờ Đông Nam của Địa Trung Hải và bờ bắc của biển Đỏ. Trong khuôn khổ biên giới năm 1949, gồm một đồng bằng hẹp và màu mỡ ven biển Địa Trung Hải, vùng núi trơ trọi Giu-đa ở trung tâm, sa mạc Nê-gếp ở phía Nam và một phần thung lũng Jordan. Có biên giới trên bộ với nhiều nước: - Phía Bắc là Liban - Phía Đông Bắc là Syria - Phía Đông là Jordan - Phía Đông Tây là dải Gaza của Palestine - Phía Tây Nam là Ai Cập Quốc gia này có diện tích tương đối nhỏ, song lại có đặc điểm địa lí đa dạng. Trung tâm tài chính và công nghệ của Israel là Tel Avid và Jerusalem được tuyên bố là thủ đô vào năm 1980. * Lịch sử hình thành: Theo nghị quyết 181 của Liên hợp quốc , nhà nước Israel thành lập ngày 14/5/1948 trên diện tích 14.100km2. Tuy nhiên sau các cuộc chiến tranh chấp với các nước Ả-rập, Israel quản lí khoảng 28.000km2 * Thể chế nhà nước: Theo thể chế Dân chủ nghị viện, chế độ một viện từ năm 1948, không có Hiến pháp thành văn chỉ có những điều luật riêng rẽ. 120 thành viên của Quốc hội được bầu bằng tuyển cử phổ thông đầu phiếu theo hệ thống bầu tử đại diện tỉ lệ, nhiệm kì 4 năm. Thủ tướng được bầu trực tiếp trong tổng tuyển cử, nhiệm kì 4 năm. Các thành Quốc hội bầu nhiệm kì 5 năm (không có quyền hành pháp thuộc về Thủ tướng).
  12. 4 * Kinh tế: Là nền Kinh tế thị trường. Năm 2013, Israel xếp thứ 19 trong tổng số 187 quốc gia về Chỉ số Phát triển Con người của Liên hợp quốc, được xếp vào nhóm “phát triển rất cao”. - Công nghiệp chiếm 17% - Nông nghiệp chiếm 2% - Dịch vụ chiếm 81% GDP Những vấn đề kinh tế nghiêm trọng phát sinh do ngân sách quốc phòng lớn và hoàn cảnh chính trị đã cản trở thương mại giữa Israel và các nước láng giềng. Israel là một trong những nước xuất khẩu nhiều nhất hoa quả họ chanh bưởi. Phần lớn diện tích của Israel được canh tác do các tập thể và hợp tác xã. Tài nguyên của Israel nghèo. Gia công kim cương nhập khẩu là nguồn thu ngoại tệ chủ yếu. Du lịch đến các vùng đất Thánh cũng đóng vai trò quan trọng cho nguồn thu ngân sách; Xuất khẩu đạt 23,5 tỷ USD, nhập khẩu 30,6 tỷ USD; nợ nước ngoài: 18,7 tỷ USD. Nông nghiệp, khoa học - kỹ thuật và quản lý kinh tế rất tiên tiến. Israel là một trong số những nước có thu nhập đầu người cao trên thế giới; sản xuất thực phẩm, kim cương đã chế tác, hàng dệt, thiết bị điện, giao thông, thiết bị quân sự, hàng điện tử công nghệ cao; sản xuất điện năng đạt 35,4 tỷ kWh, tiêu thụ 31,8 tỷ kWh. Sản phẩm Nông nghiệp: Cam quýt, rau, bông, thịt bò, gia cầm, các sản phẩm từ sữa. Công nghiệp: Sản phẩm công nghiệp cao ( bao gồm cả hàng không, thông tin liên lạc, sản xuất, sợi quang học), gỗ và sản phẩm giấy, kali cacbonnat và photphat, thực phẩm, đồ uống, thuốc lá, natri hydroxit, xi măng, xây dựng, sản phẩm kim loại, sản phẩm hóa chất, chất dẻo, cắt kim cương, dệt may, giày dép. Mặt hàng xuất khẩu: Máy móc và thiết bị, phần mềm, cắt kim cương, sản phẩm nông sản, hóa chất, dệt may và đồ thêu trang trí; Mặt hàng nhập khẩu: Nguyên liệu, thiết bị quân đội, đầu tư, kim cương thô, nhiên liệu,lương thực, hàng tiêu dùng; * Dân số: 7.473050 triệu người * Y tế - Giáo dục:
  13. 5 - Y tế: Người dân được bảo hiểm do nhà nước đầu tư, cho cả y tế tư nhân hoạt động. Thiết bị và chất lượng dịch vụ y tế hiện đại và cao. - Giáo dục: Áp dụng chế độ giáo dục bắt buộc 11 năm miễn phí. Người dân tự do lựa chọn trường dạy qua tiếng Ả-rập hoặc tiếng tiếng Hebrew. Hệ thống giáo dục theo các bậc: tiểu học 6 năm, trung học 3 năm và trên trung học 2 năm. Bằng tốt nghiệp xong ba cấp này có giá trị thi vào đại học và kiếm việc làm. Đại học mở, đại học từ xa khá phát triển. * Tài nguyên khoáng sản: - Không được thiên nhiên ưu đãi. - Chủ yếu là gỗ xây dựng, mỏ đồng, khí tự nhiên, đá photphat, magie bromua, kali cacbonat, đất sét, cát * Du lịch: Đặc biệt là du lịch tôn giáo, là một ngành quan trọng tại Israel, nhờ có khí hậu ôn hòa, các bãi biển, di chỉ khảo cổ học, các di tích lịch sử và kinh thánh, và địa lý độc đáo. Vấn đề an ninh của Israel gây tổn hại cho ngành du lịch, song số lượng du khách phục hồi sau Đại khởi nghĩa của người Palestine. Năm 2013, một báo cáo cho hay 3,54 triệu du khách đến Israel, địa điểm phổ biến nhất là Bức tường Than khóc với 68% du khách đến đó. Israel có số lượng bảo tàng bình quân đầu người cao nhất trên thế giới 2.1.2. Tổng quan về Moshav Tzofar vùng Arava Tzofar là một moshav ở miền nam Israel. Nằm gần Tuyến đường 90, khoảng 120 km về phía bắc Eilat, phía nam Sapir và phía bắc Tzukim, nó thuộc thẩm quyền của Hội đồng khu vực Trung tâm Arava. Năm 2017 nó có dân số là 419. Nước tưới tiêu đến từ Tập đoàn Mekorot Water hoạt động tốt. Trong năm 2009 nó đã có khoảng 100 gia đình. Với điều kiện tự nhiên khắc nghiệt như Tzofar chỉ thích hợp cho việc trồng ớt chuông và nó đã trở thành cây trồng chính của Tzofar. Năng suất và chất lượng của ớt cao nhất ở Arava (10 tấn / dunam). Ngày nay, một số trang trại đang thử nghiệm một số loại rau như bông cải xanh, hành tây, tỏi, bí xanh, cà tím. Ngoài ra còn có trồng hoa, bò sữa, cừu. * Kinh tế
  14. 6 Mỗi hộ nông trại bao gồm 50 dunam (50,000 m²). Các loại cây trồng chính là ớt và hoa chất lượng cao cho xuất khẩu. Ngoài ra, 14 trong số các gia đình chạy một chuồng cừu với 40-45 con bò sữa mỗi con. Trong số các trang trại nhỏ hơn là trồng chà là và chăn nuôi gà tây. Một số gia đình bổ sung thu nhập của họ với các hoạt động khác như trường cưỡi ngựa, vườn ươm cây rau và hoa, tiểu thủ công nghiệp sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ và tour du lịch. Trong năm 2008 quy định mới ở Israel đã làm cho năng lượng mặt trời có lợi nhuận. Một số gia đình bắt đầu sản xuất điện (thương mại) từ các nhà máy điện quang điện 50kWp (mỗi gia đình), sử dụng bức xạ mặt trời cao trong khu vực và thời tiết khô. * Nền văn hóa Các moshav cung cấp cho các thành viên của nó một loạt các dịch vụ cộng đồng bao gồm một mẫu giáo, vườn ươm, câu lạc bộ thành viên, câu lạc bộ thanh thiếu niên, bể bơi, nhà để xe, phòng tập thể dục, khu vườn công cộng tươi tốt và một thư viện tốt. 2.2. Tổng quan về nền nông nghiệp ISRAEL * Đặc điểm chung: - Ngành nông nghiệp của Israel phát triển ở trình độ cao. Bất chấp điều kiện địa lý không thích hợp cho nông nghiệp, Israel là một nhà xuất khẩu lớn của thế giới về nông sản và đứng hàng đầu về công nghệ trong nông nghiệp. - Hơn một nửa diện tích đất là sa mạc , điều kiện khí hậu khắc nghiệt và thiếu nước hoàn toàn không thích hợp cho nông nghiệp. Tính đến năm 2014, 24,2% diện tích Israel là đất nông nghiệp. Hiện nay, nông nghiệp chiếm 2,5% tổng GDP và 3,6% giá trị xuất khẩu. Mặc dù lao động trong nông nghiệp chỉ chiếm 3,7% tổng lực lượng lao động trong nước, Israel tự sản xuất được 95% nhu cầu thực phẩm, phần còn lại được bổ sung từ việc nhập khẩu ngũ cốc, các loại hạt lấy dầu, thịt, cà phê, ca cao, đường. - Sự phát triển của nền nông nghiệp gắn liền với phong trào phục quốc Do Thái và sự nhập cư của người Do Thái vào Palestine ở cuối thế kỷ 19. Những người nhập
  15. 7 cư Do Thái mua những mảnh đất gần như bán sa mạc, chúng đã bị cằn cỗi bởi phá rừng, sói mòn và bỏ hoang. Họ bắt tay vào việc thu dọn đá sỏi, cải tạo đất, chống ngập, trồng rừng, chống xói mòn, rửa đất mặn. Kể từ khi độc lập năm 1948, tổng diện tích đất canh tác đã tăng từ 408.000 mẫu Anh (1.650 km2 ) đến 1.070.000 mẫu Anh (4.300 km2), số cộng đồng nông nghiệp tăng từ 400 lên 725. Sản lượng nông nghiệp tăng 16 lần, nhanh gấp 3 lần tốc độ tăng dân số. - Thiếu nước là một vấn đề nghiêm trọng. Lượng mưa trung hằng tháng giữa tháng 9 và tháng 4, với sự khác biệt giữa các vùng miền trong nước, dao động từ 70 cm ở miền bắc cho tới 2 cm ở miền nam. Nguồn nước tái tạo hàng năm vào khoảng 160 triệu mét khối, 75% được dùng cho nông nghiệp. Hầu hết các nguồn nước ngọt của Israel đều được kết nối vào hệ thống thủy lợi quốc gia, bao gồm các trạm bơm, hồ chứa, kênh, ống dẫn đưa nước từ miền bắc đến miền nam. * Ngày nay Tỷ trọng của nông nghiệp trong GDP có xu hướng giảm. Trong năm 1979, nó đóng góp gần 6%, năm 1985 là 5,1 % và ngày nay là 2,5 %. Năm 1995, có 43,000 đơn vị canh tác với diện tích trung bình 13,5 hecta. 19,8% trong số đó có diện tích nhỏ hơn 1 hecta, 75,7% từ 1 đến 9 hecta, 3,3% giữa 10 và 49 hecta, 0,4% giữa 50 và 190 hecta, 0,8% lớn hơn 200 hecta. Trong số 380.000 hecta đất canh tác năm 1995, 20,8% đất được sử dụng toàn thời gian và 79,2% đất được sử dụng bán thời gian. Trong số đất nông nghiệp có 160.000 hecta được sử dụng cho các mục đích khác ngoài mục đích trồng trọt. Vùng trồng trọt chủ yếu ở đồng bằng ven biển phía bắc, vùng đồi nội địa và thung lũng song Jordan. Năm 2006, sản lượng nông nghiệp giảm 0,6% sau khi đã tăng 3,6% năm 2005; chi phí đầu tư năm 2007 tăng 1,2% chưa bao gồm chi phí lao động. Giữa năm 2004 và 2006, các loại rau củ chiếm khoảng 35% tổng sản lượng toàn ngành. Hoa chiếm 20%, trái cây (không bao gồm chi cam chanh) chiếm khoảng 15%, trái cây thuộc chi cam chanh chiếm khoảng 10%, ngũ cốc, cotton và các loại nông sản khác 18%. Cũng trong 2006, 36,7% đầu ra nông nghiệp được tiêu dùng trong nước, 33,9% đầu ra nông nghiệp là đầu vào cho sản xuất các sản phẩm khác trong nước, và 22% dành cho xuất khẩu trực tiếp. Năm 2006, 33% số rau củ, 27% số hoa, 15,5% trái cây
  16. 8 (không tính cam chanh), 9% cam chanh, 16% ngũ cốc, cotton và các loại nông sản khác được xuất khẩu. Sản lượng nông nghiệp Israel tăng 26% từ năm 1999 tới năm 2009, trong khi số lượng nông dân giảm từ 23.500 xuống 17.000. Nông dân cũng tạo ra nhiều sản phẩm hơn với lượng nước giảm, giảm 12% lượng nước tiêu thụ trong khi tăng 26% sản lượng. * Loại hình nông nghiệp Hầu hết ngành nông nghiệp Israel dựa trên các nguyên tắc về hợp tác có từ đầu thế kỷ thứ 20. Hai loại hợp tác độc đáo: Kibbutz, một cộng đồng trong đó sản phẩm làm ra được sở hữu chung và thành quả lao động của cá nhân đem lại lợi ích cho mọi người; Moshav, một dạng làng nông nghiệp trong đó mỗi gia đình sở hữu riêng đất đai trong khi việc mua bán và tiếp thị được thực hiện chung trong sự hợp tác. Cả 2 loại hình cộng đồng đều nhằm giúp hiện thực hóa giấc mơ của những người tiên phong muốn có những cộng đồng công bằng, hợp tác và tương trợ lẫn nhau nhưng cũng đồng thời tạo ra lợi thế về năng suất. Ngày nay, 76% nông sản quốc gia là sản phẩm từ các Kibbutz và Moshav, cũng như rất nhiều thực phẩm đóng hộp. Hình 2.1. Một nhà kính giữa sa mạc ở Moshav Ein Yahav
  17. 9 Hình 2.2. Vùng nông thôn tại Moshav Paran Bởi vì sự đa dạng của các loại hình đất đai và khí hậu, Israel có thể trồng nhiều loại cây khác nhau. Lúa mì, các loại cây thuộc chi lúa và bắp được trồng ở 215,000 hecta, trong đó 156,000 hecta chỉ trồng vào mùa đông. Trái cây và rau củ bao gồm các loại cam chanh, bơ, kiwi, ổi, xoài, nho. Chúng được trồng ở đồng bằng ven biển Địa Trung Hải. Cà chua, dưa leo, tiêu và bí được trồng phổ biến ở mọi miền đất nước; dưa gang được trồng trong mùa đông ở các thung lũng. Các vùng cận nhiệt đới của đất nước trồng chuối và chà là, vùng đồi núi phía bắc trồng táo, lê, chery. Ngoài ra, các vườn nho được trồng khắp đất nước, ngành chế biến rượu của Israel đang cạnh tranh mạnh với thế giới. Năm 1997, 107 triệu USD giá trị của sợi bông vải được trồng ở Israel, hầu hết bông vải đều được đặt hàng từ trước khi trồng. Bông vài được trồng trên 28.560 hecta đất, tất cả đều được canh tác bằng lối tưới nước nhỏ giọt. Năng suất bông vải trung bình đối với giống Acala là 5,5 tấn một hecta, giống Pima là 5 tấn một hecta. Đây là năng suất bông vải cao nhất thế giới. * Chăn nuôi Bò sữa của Israel cho lượng sữa trung bình hàng năm cao nhất thế giới, 10.208 kg (khoảng 10.000 lít) trong năm 2009 (theo số liệu thống kê của cục thống kê Israel xuất bản năm 2011) vượt qua bò sữa Mỹ (9,331 kg mỗi con), Nhật (7.497), châu Âu (6.139) và Úc (5.601). 1.304 triệu lít sữa đã được sản xuất bởi các đàn bò của Israel trong năm 2010.
  18. 10 Hầu hết sản lượng sữa của Israel đều xuất phát từ các trang trại nuôi giống bò Israel-Holsteins, một giống cho sản lượng cao và có sức đề kháng tốt. Ngoài ra Israel còn xuất khẩu sữa cừu. * Nuôi trồng và đánh bắt thủy hải sản Biển Địa Trung Hải là một nguồn cung cấp cá nước mặn; đánh bắt cá nước ngọt được tiến hành ở hồ Kinneret (biển hồ Galilee). Công nghệ tiên tiến được sử dụng để nuôi cá tại các hồ nhân tạo trong sa mạc Negev. Các nhà khoa học ở trung tâm Bengis chuyên về nuôi trồng thủy hải sản trong sa mạc tại đại học Ben-gurion ở Negev khám phá ra rằng nguồn nước lợ tại sa mạc có thể được dùng trong trồng trọt, nuôi trồng thủy sản và kết hợp cả hai. Điều này dẫn đến việc nuôi cá, tôm và các động vật giáp xác ở Negev. Đánh bắt cá trên biển phía đông Địa Trung Hải đã sụt giảm mạnh vì nguồn cá đã cạn kiệt. Nguồn cung cấp cá nước ngọt phụ thuộc gần như hoàn toàn vào nuôi trồng. Cá từ biển hồ Galilee bao gồm cá mè trắng Hoa Nam, cá trắm cỏ, cá đối đầu dẹt, cá rô phi, ambloplites rupestris, cá chẽm, silver perch. Cá nuôi trong lồng đặt dưới mặt nước biển bao gồm cá tráp đầu vàng (có tên là denis ở Israel), cá chẽm châu âu và một giống cá meager Nam Mỹ. Cá hương và cá hồi được nuôi ở trong những hồ đặc biệt trông giống như các con kênh với nước từ sông Dan (một nhánh thượng nguồn của sông Jordan) chảy qua các hồ này. * Trái cây và rau củ Hình 2.3. Ngày thu hoạch chà là
  19. 11 Israel là một trong những nước đứng đầu thế giới về sản xuất và xuất khẩu trái cây thuộc chi cam chanh, bao gồm cam, bưởi chùm, quýt và pomelit – một giống lai giữa bưởi chùm và bưởi thông thường được phát triển tại Israel. Có hơn 40 loại trái cây khác nhau được trồng ở Israel. Ngoài chi cam chanh ra còn có bơ, chuối, táo, cherry, trái cây thuộc phân chi mận mơ, đào, nho, chà là, dâu tây, prickly pear, persimmon, nhót tây, lựu. Israel đứng thứ hai thế giới về xuất khẩu trái nhót tây, sau Nhật Bản. Năm 1973, hai nhà khoa học Israel là Haim Rabinowitch và Nachum Kedar phát triển một giống cà chua với thời gian chín lâu hơn cà chua thông thường trong thời tiết nóng. Nghiên cứu của họ dẫn tới việc phát triển tiên phong giống cà chua thương mại với thời gian trưng bày trên kệ lâu[16]. Khám phá này đã thay đổi ngành nông nghiệp Israel, thúc đẩy việc xuất khẩu giống rau củ và tiến tới nền nông nghiệp công nghệ cao. Nó cũng có một hiệu ứng toàn cầu, tạo cơ sở cho việc sản xuất với quy mô lớn nhờ ngăn chặn việc chín thối. Trước đó, nông dân thường phải hủy bỏ 40% sản phẩm của họ. Ngoài ra Israel còn có giống cà cua Tomaccio được phát triển bởi Hishtil Nurseries, thông qua một chương trình lai tạo giống trong 12 năm, sử dụng giống cà chua dại Peru để tạo một giống mới trái nhỏ ngọt. Tomaccio cho trung bình từ 6 đến 8 kg quả một cây. * Hoa Hình 2.4. Vườn hoa ở Moshav Paran, Israel
  20. 12 Loại hoa phổ biến nhất là Chamelaucium, tiếp đến là hoa hồng với diện tích trồng là 214 hecta. Ngoài ra còn có các loại hoa được phương Tây ưa chuộng như là hoa huệ, tu líp. Israel là đối thủ lớn trên thị trường hoa thế giới, nhất là cung cấp các loại hoa truyền thống châu Âu trong các tháng mùa đông. * Triển lãm công nghệ nông nghiệp Triển lãm công nghệ nông nghiệp mang tên Agritech Exhibition, được tổ chức 3 năm một lần, là một sự kiện hàng đầu về lĩnh vực nông nghiệp, nơi trình diễn các công nghệ nông nghiệp của Israel và thế giới. Nó thường thu hút nhiều bộ trưởng nông nghiệp, các nhà hoạch định, chuyên gia, nông dân và người huấn luyện trong lĩnh vực nông nghiệp. Đó là cơ hội để cùng một lúc được nhìn thấy những tiến bộ mới nhất trong nông nghiệp và công nghệ nông nghiệp, nhất là trong lĩnh vực tưới tiêu, quản lý nguồn nước, nông nghiệp trong điều kiện thiếu nước, trồng trọt năng suất cao trong nhà kính, các tiến bộ trong giống cây trồng, nông nghiệp hữu cơ và định hướng sinh thái. Trong năm 2015 Israel sẽ tổ chức Agritech Exhibition ở Tel Aviv. Trong lần tổ chức Agritech Exhibition năm 2012 có hơn 35 ngàn khách tham quan, 250 gian hàng triển lãm. * Canh tác hữu cơ Sản phẩm hữu cơ chiếm 1,5% tổng sản phẩm nông nghiệp và 13% sản lượng xuất khẩu. Israel có 70 km2 các cánh đồng canh tác hữu cơ. * Quản lý nhà nước về nông nghiệp Gần như không còn tình trạng sản xuất thừa ở Israel, mỗi đơn vị được cấp hạn ngạch nông sản và hạn ngạch nước cho mỗi vụ, điều này giúp giá cả luôn ổn định. Hạn ngạch sản xuất áp dụng cho sữa, trứng, gia cầm và khoai tây. Nhà nước Israel cũng thúc đẩy việc giảm chi phí nông nghiệp bằng cách khuyến khích chuyên canh và dừng việc sản xuất các loại nông sản lợi nhuận thấp. Bộ nông nghiệp quản lý các lĩnh vực nông nghiệp bao gồm việc duy trì các tiêu chuẩn về cây trồng và sức khỏe vật nuôi, hoạch định nông nghiệp, nghiên cứu và tiếp thị sản phẩm. * Một số thành tựu nông nghiệp: - 1ha đất trồng cà chua có thể cho sản lượng lên tới 50 tấn.
  21. 13 - Một con bò sữa một năm có thể cho tới 11 tấn sữa. - Bên cạnh đó phát triển nông nghiệp công nghệ cao khiến thế giới ngưỡng mộ. * Tổng sản phẩm nông nghiệp - Xuất khẩu hàng năm của Israel là 3 tỷ USD, sản phẩm rau quả xuất khẩu của nước này chiếm tới 60% lượng xuất khẩu của thế giới. - Nội địa như cầu thực phẩm được đáp ứng 95% trong nước. 2.3. Cơ sở khoa học của đánh giá hiệu quả sử dụng đất 2.3.1. Khái niêm chung về đất đai Đất đai đóng vai trò quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội, là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt không thể thay thế được trong các hoạt động, cho đến nay đã có rất nhiều công trình khoa học, nghiên cứu liên quan đến những khái niệm, những định nghĩa về đất Đất là một phần của vỏ trái đất, nó là lớp phủ lục địa mà bên dưới nó là đá và khoáng sinh ra nó, bên trên là thảm thực bì và khí quyển. Đất là lớp mặt tươi xốp của lục địa có khả nằng sản sinh ra sản phẩm của cây trồng. Đất là lớp phủ thổ nhưỡng là thổ quyển, là một vật thể tự nhiên, mà nguôn gốc của thể tự nhiên đó là do hợp điểm của 4 thể tự nhiên khác của hành tinh là thạch quyển, khí quyển, thủy quyển và sinh quyển. Sự tác động qua lại của bốn quyển trên và thổ quyển có tính thường xuyên và cơ bản. Theo nguôn gốc phát sinh tác giả Đôkutraiep coi đất là một vật thể tự nhiên được hình thành do sự tác động tổng hợp của 5 yếu tố: Khí hậu, đá mẹ, địa hình, sinh vật và thời gian. Đất xem như một thể sống nó luôn vận động và phát triển. (Nguyễn Thế Đặng – Nguyễn Thế Hùng, 1999, Giáo trình đất, Nhà xuất bản Nông nghiệp) [11]. - Theo Các Mác, “đất là tư liệu sản xuất cơ bản và phổ biến quý báu nhất của sản xuất nông nghiệp, là điều kiện không thể thiếu được của sự tồn tại và tái sinh của hàng loạt thế hệ loài người kế tiếp nhau” (Các Mác, 1949) [2]. - Các nhà kinh tế, thổ nhưỡng và quy hoạch của Việt Nam lại cho rằng “đất đai là phần trên mặt vỏ Trái Đất mà ở đó cây cối có thể mọc được ”. Như vậy đã có rất nhiều định nghĩa và khái niệm khác nhau về đất nhưng khái niệm chung nhất có thể hiểu là: Đất là một vật thể tự nhiên mà từ nó đã cung cấp các sản
  22. 14 phẩm thực vật để nuôi sống động vật và con người. Sự phát triển của loài người gắn liền với sự phát triển của đất (Nguyễn Ngọc Nông, Nông Thu Huyền, 2012) 2.3.2. Khái niệm về đất nông nghiệp Đất nông nghiệp là tất cả những diện tích được sử dụng vào mục đích sản xuất nông nghiệp như trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản, diên tích nghiên cứu thí nghiệm phục vụ cho sản xuất nông nghiệp. Kể cả diện tích đất lâm nghiệp và các công trình xây dựng cơ bản phục vụ cho sản xuất nông lâm nghiệp. Về đất nông nghiệp theo quan điểm của các nhà nghiên cứu trong nước và thế giới cho rằng: Đất nông nghiệp là toàn bộ diện tích đất được xác định chủ yếu để sử dụng và sản xuất nông nghiệp như trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản và nghiên cứu trong khoa học về nông nghiệp. Qua thực tiễn cho thấy diện tích đất tốt, thích hợp cho sản xuất nông lâm nghiệp chỉ chiếm khoảng 9,07% tổng diện tích đất tự nhiên trên toàn cầu, đây là một yếu tố quan trọng hàng đầu cho sự tồn tại và phát triển của loài người, tuy nhiên loại đất này đang giảm mạnh về cả số lượng và chất lượng. Nước ta với diện tích đất nông nghiệp khoảng 3,3 triệu ha, bình quân diện tích thuộc hàng thấp trên thế giới, đồng thời diện tích đất trên phân bố không đồng đều. 2.3.3. Quá trình hình thành đất Quá trình Quá trình hình Đá mẹ Mẫu chất Đất Phong hoá thành đất Hình 2.5. Quá trình hình thành đất 2.3.4. Vai trò và ý nghĩa của đất đai trong nông nghiệp Đất đai đóng vai trò quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người, nó là cơ sở tự nhiên, là tiền đề cho mọi quá trình sản xuất. C.Mác đã nhấn mạnh “Đất là mẹ, lao động là cha của mọi của cải vật chất xã hội”, “Đất là một phòng thí nghiệm vĩ đại, là kho tàng cung cấp các tư liệu lao động, vật chất, là vị trí để định cư, là nền tảng của tập thể” Các Mac (1949). Thực tế cho thấy, trong quá trình phát triển xã hội loài người, sự hình thành và phát triển mọi nền văn minh vật chất, văn hóa
  23. 15 tinh thần, các thành tựu khoa học công nghệ đều được xây dựng trên nền tảng cơ bản - sử dụng đất. Trong sản xuất nông lâm nghiệp đất đai được coi là tư liệu sản xuất chủ yếu, đặc biệt và không thể thay thế. Ngoài vai trò là cơ sở không gian, đất còn có hai chức năng đặc biệt quan trọng: Là đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của con người trong quá trình sản xuất: Là nơi con người thực hiện các hoạt động của mình tác động vào cây trồng vật nuôi để tạo ra sản phẩm. 2.3.5. Hiệu quả sử dụng đất và đánh giá hiệu quả sử dụng đất Sử dụng các nguồn tài nguyên có hiệu quả cao trong sản xuất để đảm bảo phát triển một nền nông nghiệp bền vững là xu thế tất yếu đối với các nuớc trên thế giới. Để làm rõ bản chất của hiệu quả cần phân định rõ sự khác nhau và mối liên hệ giữa kết quả và hiệu quả. Kết quả, mà là kết quả hữu ích, là một đại lượng vật chất tạo ra do mục đích của con người, được biểu hiện bằng những chỉ tiêu do tính chất mâu thuẫn giữa nguồn tài nguyên hữu hạn với nhu cầu tăng lên của con người mà ta phải xem xét kết quả đó đuợc tạo ra như thế nào? Chi phí bỏ ra là bao nhiêu? Có đưa lại kết quả hữu ích hay không? Chính vì thế, khi đánh giá kết quả hoạt động sản xuất không chỉ dừng lại ở việc đánh giá kết quả mà còn phải đánh giá chất lượng công tác hoạt động sản xuất kinh doanh tạo ra sản phẩm đó (Nguyễn Đình Hợi, 1993) [17]. Đánh giá chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh là nội dung đánh giá của hiệu quả. Trên phạm vi toàn xã hội, các chi phí bỏ ra để thu được kết quả phải là chi phí lao động xã hội. Vì thế, bản chất của hiệu quả chính là hiệu quả lao động xã hội và được xác định bằng tương quan so sánh giữa kết quả hữu ích thu được với lượng hao phí lao động xã hội. Tiêu chuẩn của hiệu quả là sự tối đa hoá kết quả và tối thiểu hoá chi phí trong điều kiện tài nguyên thiên nhiên hữu hạn (Thomas Petermann, 1996)[35]. Bản chất của hiệu quả là tiết kiệm thời gian, Các Mác cho rằng quy luật tiết kiệm thời gian là quy luật có tầm quan trọng đặc biệt tồn tại trong nhiều phương thức sản xuất, mọi hoạt động của con người đều tuân theo quy luật đó, nó quyết định động
  24. 16 lực phát triển của lực lượng sản xuất, tạo điều kiện phát triển văn minh xã hội và nâng cao đời sống con người qua mọi thời đại. Ta có thể thấy bản chất của hiệu quả xuất phát từ mục đích của sản xuất và phát triển kinh tế xã hội là đáp ứng ngày càng cao về nhu cầu đời sống vật chất và tinh thần của mọi thành viên trong xã hội. Cho nên mỗi cá nhân và tổ chức đều phải có bổn phận nâng cao hiệu quả hoạt động của mình. Sử dụng đất nông nghiệp có hiệu quả cao thông qua việc bố trí cây trồng, vật nuôi là một trong những vấn đề bức xúc hiện nay của hầu hết các nước trên thế giới. Nó không chỉ thu hút sự quan tâm của các nhà khoa học, các nhà hoạch định chính sách, các nhà kinh doanh nông nghiệp mà còn là sự mong muốn của nông dân - những người trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất nông nghiệp. Khi đánh giá hiệu quả sử dụng đất người ta thường đánh giá trên ba khía cạnh: hiệu quả về mặt kinh tế sử dụng đất, hiệu quả về mặt xã hội và hiệu quả về mặt môi trường. * Hiệu quả kinh tế Hiệu quả kinh tế là một phạm trù kinh tế phản ánh mặt chất lượng của các hoạt động kinh tế. Mục đích của sản xuất và phát triển kinh tế, xã hội là đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về vật chất và tinh thần của toàn xã hội, khi nguồn lực sản xuất của xã hội ngày càng trở nên khan hiếm, việc nâng cao hiệu quả là một đòi hỏi khách quan của mọi nền sản xuất xã hội (Nguyễn Đình Hợi, 1993)[17]. Theo Các Mác thì quy luật kinh tế đầu tiên trên cơ sở sản xuất tổng thể là quy luật tiết kiệm thời gian và phân phối một cách có kế hoạch thời gian lao động theo các ngành sản xuất khác nhau. Trên cơ sở thực hiện vấn đề “tiết kiệm và phân phối một cách hợp lý thời gian lao động (vật hoá và lao động sống) giữa các ngành”. Nhà khoa học kinh tế Samuel – Nordhuas cho rằng: “Hiệu quả có nghĩa là không lãng phí. Nghiên cứu hiệu quả sản xuất phải xét đến chi phí cơ hội, “Hiệu quả sản xuất diễn ra khi xã hội không thể tăng sản lượng một loại hàng hoá này mà không cắt giảm sản lượng một loại hàng hoá khác. Mọi nền kinh tế có hiệu quả nằm trên đường giới hạn khả năng năng suất của nó” (Doãn Khánh, 2000)[18]. Theo L.M Canirop:" Hiệu quả của sản xuất xã hội được tính toán và kế hoạch hoá trên cơ sở những nguyên tắc chung đối với nền kinh tế quốc dân bằng cách so sánh kết quả của sản xuất với chi phí hoặc nguồn lực đã sử dụng.
  25. 17 Có nhiều quan điểm khác nhau về hiệu quả kinh tế nhưng đều thống nhất nhau ở bản chất của nó. Người sản xuất muốn thu được kết quả phải bỏ ra những chi phí nhất định, những chi phí đó là nhân lực, vật lực, vốn. So sánh kết quả đạt được với chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó sẽ có hiệu quả kinh tế. Tiêu chuẩn của hiệu quả là sự tối đa hoá kết quả với một lượng chi phí định trước hoặc tối thiểu hoá chi phí để đạt được một kết quả nhất định. Như vậy, hiệu quả kinh tế là một phạm trù chung nhất, là khâu trung tâm của các loại hiệu quả, nó liên quan trực tiếp đến nền sản xuất hàng hóa và tới tất cả các phạm trù và các quy luật kinh tế khác. Hiệu quả kinh tế có vai trò quyết định các hiệu quả còn lại bởi vì trong mọi hoạt động sản xuất con người đều có mục tiêu chủ yếu là khi có được hiệu quả kinh tế thì mới có điều kiện vật chất để đảm bảo cho các hiệu quả về xã hội và môi trường. Hiệu quả kinh tế được hiểu là mối tương quan so sánh giữa lượng kết quả đạt được và lượng chi phí bỏ ra trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Kết quả đạt được là phần giá trị thu được của sản phẩm đầu ra, lượng chi phí bỏ ra là phần giá trị của các nguồn lực đầu vào. Mối tương quan đó cần xét cả về phần so sánh tuyệt đối và t- ương đối cũng như xem xét mối quan hệ chặt chẽ giữa hai đại lượng đó (Dẫn theo Đỗ Thị Tám)[26]. Hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp là một chỉ tiêu kinh tế phản ánh sức sản xuất của đất trên cơ sở đất nông nghiệp hiện trạng dưới tác động của con người, những điều kiện tự nhiên và điều kiện kinh tế, xã hội khác. Vì vậy, bản chất của phạm trù kinh tế sử dụng đất là: “với một diện tích đất đai nhất định sản xuất ra một khối lượng của cải vật chất nhiều nhất với một lượng đầu tư chi phí về vật chất và lao động thấp nhất nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về vật chất của xã hội” ( Phạm Vân Đình, Đỗ Kim Chung, 1997)[12]. * Hiệu quả xã hội Hiệu quả xã hội là phạm trù có liên quan mật thiết với hiệu quả kinh tế và thể hiện mục tiêu hoạt động kinh tế của con người, việc lượng hoá các chỉ tiêu biểu hiện hiệu quả xã hội còn gặp nhiều khó khăn mà chủ yếu phản ánh bằng các chỉ tiêu mang
  26. 18 tính chất định tính như tạo công ăn việc làm cho lao động, xoá đói giảm nghèo,định canh, định cư, công bằng xă hội, nâng cao mức sống của toàn dân. Theo Nguyễn Duy Tính (1995)[28], trong sử dụng đất nông nghiệp, hiệu quả về mặt xă hội chủ yếu được xác định bằng khả năng tạo việc làm trên một diện tích đất nông nghiệp .Trong giai đoạn hiện nay, việc đánh giá hiệu quả xã hội của các loại hình sử dụng đất nông nghiệp là vấn đề đang được nhiều nhà khoa học quan tâm. * Hiệu quả môi trường Môi trường là một vấn đề mang tính toàn cầu, hiệu quả môi trường được các nhà môi trường học rất quan tâm trong điều kiện hiện nay. Một hoạt động sản xuất được coi là có hiệu quả khi hoạt động đó không gây tổn hại hay có những tác động xấu đến môi trường như đất, nước, không khí và hệ sinh học, là hiệu quả đạt được khi quá trình sản xuất kinh doanh diễn ra không làm cho môi trường xấu đi mà ngược lại, quá trình sản xuất đó làm cho môi trường tốt hơn, mang lại một môi tr- ường xanh, sạch, đẹp hơn trước (Đỗ Nguyên Hải, 1999)[16]. Trong sản xuất nông nghiệp, hiệu quả môi trường là hiệu quả mang tính lâu dài, vừa đảm bảo lợi ích hiện tại mà không làm ảnh hưởng xấu đến tương lai, nó gắn chặt với quá trình khai thác, sử dụng và bảo vệ tài nguyên đất và môi trường sinh thái (Lê Trọng Yên, 2004)[32]. Sử dụng đất hợp lý, hiệu quả cao vŕ bền vững phải quan tâm tới cả ba hiệu quả tręn, trong đó hiệu quả kinh tế lŕ trọng tâm, không có hiệu quả kinh tế thì không có điều kiện nguồn lực để thực thi hiệu quả xã hội và môi trường, ngược lại, không có hiệu quả xã hội và môi trường thì hiệu quả kinh tế sẽ không bền vững (Quyền Đình Hà, 1993)[15]. 2.3.6. Tầm quan trọng của đánh giá đất Đánh giá đất đai là một phần quan trọng của việc đánh giá tài nguyên thiên nhiên và cũng là cơ sở để định hướng sử dụng đất hợ lý, bền vững trong sản xuất nông, lâm nghiệp. Hiện nay trên thế giới có khoảng 3.3 tỷ ha đất nông nghiệp, trong đó đã khai thác đươcc 1.5 tỷ ha, còn lại đa phần là đất xấu, sản xuất nông nghiệp gặp nhiều khó khăn [4]. Trong 45 năm qua, theo kết quả đánh giá của Liên hợp quốc về
  27. 19 “Chương trình môi trường” cho thấy: 1,2 tỷ ha đất đang bị thoái hóa ở mức trung bình hoặc nghiêm trọng do những hoạt động của con người. Hằng năm có khoảng 6-7 triệu ha đất nông nghiệp bị loại bỏ do xói mòn và thoái hóa. Để giải quyết được nhu cầu về lương thực không ngừng gia tăng con người phải tiến hành thâm canh tăng vụ, tăng năng suất cây trồng và mở rộng diện tích đất nông nghiệp. Bên cạnh đó, việc ngăn chặn được những suy thoái về tài nguyên đất đai gây ra do sự thiếu hiểu biết của con người và hướng tới việc sử dụng và quản lý đất một cách có hiệu quả trong tương lai thì công tác nghiên cứu về đánh giá đất là rất quan trọng và cần thiết [9]. Như vậy, đánh giá đất đai gắn liền với sự tồn tại của loài người và khoa học công nghệ: gắn liền với việc sử dụng đất hiện tại và tương lai: là cơ sở cốt lõi để sử dụng đất bền vững. Việc đánh giá đất phải được xem xét trên phạm vi rất rộng, bao gồm cả không gian, thời gian, các yếu tố tự nhiên và xã hội. Đánh giá đất đai không chỉ là lĩnh vực khoa học tự nhiên mà còn mang tính kinh tế và kỹ thuật nữa. Vì vậy, cần kết hợp chuyên gia của nhiều ngành tham gia đánh giá đất [2]. 2.3.7. Tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả sử dụng đất Trong quá trình sử dụng đất đai tiêu chuẩn cơ bản và tổng quát khi đánh giá hiệu quả là mức độ đáp ứng nhu cầu của xã hội và sự tiết kiệm lớn nhất về chi phí các nguồn tài nguyên, sự ổn định lâu dài của hiệu quả. Do đó tiêu chuẩn đánh giá việc nâng cao hiệu quả sử dụng tài nguyên đất nông – lâm nghiệp là mức độ tăng thêm các kết quả sản xuất trong điều kiện nguồn lực hiện có hoặc mức độ tiết kiệm về chi phí các nguồn lực khi sản xuất ra một khối lượng nông – lâm sản nhất định. Tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả sử dụng đất là mức độ đạt được các mục tiêu kinh tế, xã hội và môi trường. “Hiệu quả sử dụng đất có ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất nông – lâm nghiệp,sử dụng đất phải tuân theo quan điểm sử dụng đất bền vững hướng vào ba tiêu chuẩn chung là bền vững về kinh tế, bền vững về xã hội và bền vững về môi trường” (FAO, 1994).
  28. 20 2.3.8. Đặc điểm và phương pháp đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp 2.3.8.1. Đất nông nghiệp và quan điểm sử dụng đất nông nghiệp a. Khái quát về đất nông nghiệp Theo báo cáo của World Bank (1995)[34], hàng năm mức sản xuất so với yêu cầu sử dụng lương thực vẫn thiếu hụt từ 150 – 200 triệu tấn, trong khi đó vẫn có từ 6 – 7 triệu ha đất nông nghiệp bị loại bỏ do xói mòn. Trong 1200 triệu ha đất bị thoái hoá có tới 544 triệu ha đất canh tác bị mất khả năng sản xuất do sử dụng không hợp lý. Theo điều 13 Luật đất đai Việt Nam năm 2003 thì tổng diện tích đất tự nhiên được chia thành 3 nhóm lớn là: Nhóm đất nông nghiệp, nhóm đất phi nông nghiệp, nhóm đất chưa sử dụng (Luật đất đai Việt Nam, 2003)[21]. Nhóm đất nông nghiệp bao gồm: Đất sản xuất nông nghiệp (đất trồng cây hàng năm, đất trồng cây lâu năm), đất trồng rừng, đất nuôi trồng thủy sản, đất làm muối, đất nông nghiệp khác. Đất nông nghiệp đóng vai trò vô cùng quan trọng trong sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Đất nông nghiệp tham gia vào quá trình sản xuất và làm ra sản phẩm nuôi sống xã hội (Phạm Duy Đoán, 2004)[13]. Trong nông nghiệp, đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt, chủ yếu không thể thay thế được. Sử dụng đất đai hợp lý và đầy đủ là cơ sở để đáp ứng nhu cầu của xã hội cả về vật chất lẫn tinh thần. Sử dụng tốt đất nông nghiệp thông qua tăng vụ, bố trí sản xuât hợp lý, đẩy mạnh áp dụng biện pháp kỹ thuật tiên tiến và đầu tư thâm canh, nâng cao năng suất cây trồng và cải tạo đất là điều kiện cần thiết để nâng cao hiệu quả kinh tế sử dụng đất và là một trong những vấn đề bức xúc hiện nay của các nước trên thế giới (Phạm Chí Thành, Đào Châu Thu, 1998)[27]. b. Nguyên tắc và quan điểm sử dụng đất nông nghiệp * Nguyên tắc sử dụng đất nông nghiệp: Đất đai là nguồn tài nguyên có hạn trong khi đó nhu cầu khai thác từ đất của con người ngày càng tăng, mặt khác đất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp. Vì vậy ta cần có những nguyên tắc cơ bản và cần thiết để đảm bảo cho khai thác và sử dụng bền vững tài nguyên đất đai: - Sử dụng đất nông nghiệp trong sản xuất nông nghiệp phải dựa trên cơ sở căn nhắc những mục tiêu phát triển kinh tế xã hội.
  29. 21 - Tận dụng được tối đa lợi thế so sánh về điều kiện sinh thái và không làm ảnh hưởng xấu đến môi trường . - Đất nông nghiệp cần được sử dụng theo nguyên tắc “đầy đủ và hợp lý”. - Mặt khác, phải có các quan điểm đúng đắn theo xu hướng tiến bộ phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể, làm cơ sở thực hiện sử dụng đất nông nghiệp có hiệu quả kinh tế xã hội cao (Dẫn theo Vũ Thị Phương Thụy, 2000)[29]. * Quan điểm sử dụng đất nông nghiệp: - Tận dụng triệt để các nguồn lực, khai thác lợi thế so sánh về khoa học, kỹ thuật, đất đai, lao động để phát triển cây trồng, vật nuôi có tỉ suất hàng hoá cao, tăng sức cạnh tranh và hướng tới xuất khẩu. - Thực hiện sử dụng đất nông nghiệp theo hướng tập trung chuyên môn hoá, sản xuất hàng hoá theo hướng ngành hàng, nhóm sản phẩm, thực hiện thâm canh toàn diện và liên tục (Phan Sỹ Mẫn, Nguyễn Việt Anh, 2001)[22]. - Nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp trên cơ sở thực hiện đa dạng hoá hình thức sở hữu, tổ chức sử dụng đất nông nghiệp, đa dạng hoá cây trồng vật nuôi, chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi phù hợp với sinh thái và bảo vệ môi trường (Dẫn theo Vũ Thị Phương Thụy, 2000)[29]. - Nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp của huyện phải phù hợp và gắn liền với định hướng phát triển kinh tế - xã hội của vùng và cả nước. Chú ý đầu tư có trọng điểm để tạo ra các vùng kinh tế làm động lực lôi cuốn nhưng không lãng quên đầu tư diện rộng nhằm giảm bớt sự chênh lệch giữa thành thị và nông thôn, giữa các tầng lớp dân cư (Vũ Năng Dũng, Lê Hồng Sơn, Lê Hùng Tuấn, 1997)[9]. 2.3.8.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp a. Nhóm yếu tố về điều kiện tự nhiên Nhân tố tự nhiên trước hết là điều kiện khí hậu, thời tiết, vị trí địa lý, địa hình, thổ nhưỡng, thủy văn là những yếu tố quyết định đến lựa chọn cây trồng, thiết kế ruộng đồng, định hướng đầu tư thâm canh (Nguyễn Đình Hợi, 1993)[17]. Đặc điểm tự nhiên đó của đất nông nghiệp cũng chi phối tình hình kinh tế của quá trình sử dụng, khi cùng trình độ khai thác đầu tư nhưng kết quả kinh tế cũng khác nhau. Rõ ràng, các nhân tố tự nhiên ảnh hưởng rất lớn đến quá trình tổ chức các phương thức sử
  30. 22 dụng và nâng cao hiệu quả kinh tế sử dụng đất nông nghiệp. b. Nhóm các yếu tố kỹ thuật canh tác Các biện pháp kỹ thuật canh tác là tác động của con người vào đất đai, cây trông, vật nuôi nhằm tạo nên sự hài hòa giữa các yếu tố của các quá trình sản xuất để đạt hiệu quả kinh tế cao. Tuy nhiên, việc ứng dụng các biện pháp kỹ thuật phụ thuộc vào trình độ đầu tư của các cơ sở hạ tầng trong nông nghiệp. Theo Frank Ellis (1998)[14] và Dougllss C.North (1998)[8] ở các nước phát triển, khi có tác động tích cực của kỹ thuật, giống mới, thủy lợi, phân bón tới hiệu quả thì cũng đặt ra yêu cầu mới đối với tổ chức sử dụng đất. Có nghĩa là ứng dụng công nghệ sản xuất tiến bộ là một đảm bảo vật chất cho kinh tế nông nghiệp tăng trưởng nhanh. Như vậy, nhóm các yếu tố biện pháp kỹ thuật canh tác đặc biệt có ý nghĩa trong quá trình khai thác đất theo chiều sâu và nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp. c. Nhóm các yếu tố kinh tế tổ chức Nhóm các yếu tố này ảnh hưởng đến hiệu quả kinh tế sử dụng đất nông nghiệp thể hiện ở các mặt sau: - Công tác phân vùng, quy hoạch và bố trí sản xuất: Xu hướng hiện nay là thực hiện phân vùng sinh thái nông nghiệp dựa vào điều kiện tự nhiên như khí hậu, độ cao tuyệt đối, độ dốc địa hình, tính chất thổ nhưỡng và khả năng thích nghi của đất, nguồn nước và thực vật. Đây là cơ sở để phát triển hệ thống cây trồng, vật nuôi với cơ cấu hợp lý nhằm đạt hiệu quả kinh tế cao và bảo vệ môi trường sinh thái. - Các hình thức tổ chức sản xuất: Các hình thức tổ chức có ảnh hưởng trực tiếp tới việc tổ chức khai thác và hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp (Phạm Thị Chương, 1998)[4], (Đỗ Kim Chung, 1997)[5]. Trong nông nghiệp, hộ nông dân là đơn vị kinh tế tự chủ, được phát triển trong môi trường kinh tế xã hội thuận lợi , do đó có nhiều lợi thế trong sản xuất kinh doanh. Phát huy thế mạnh của các loại hình tổ chức sử dụng đất trong từng cơ sở sản xuất là cần thiết. Điều đó đặt ra yêu cầu việc thực hiện đa dạng hoá hình thức hợp tác nông nghiệp, xác lập một hệ thống tổ chức sản xuất phù hợp và giải quyết tốt môí quan hệ giữa các hình thức đó. d. Nhóm các yếu tố xã hội
  31. 23 - Hệ thống thị trường và sự hình thành thị trường đất nông nghiệp, thị trường nông sản phẩm. Theo Nguyễn Duy Tính (1995)[28] 3 yếu tố chủ yếu ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp là: năng suất cây trồng, hệ số quay vòng đất và thị trường cung cấp đầu vào và tiêu thụ sản phẩm đầu ra. - Hệ thống chính sách: Chính sách đất đai, chính sách điều chỉnh cơ cấu đầu tư, chính sách hỗ trợ - Sự ổn định chính trị - xã hội và các chính sách khuyến khích đầu tư phát triển sản xuất nông nghiệp của Nhà nước. - Những kinh nghiệm, tập quán sản xuất nông nghiệp, trình độ năng lực của các chủ thể kinh doanh, trình độ đầu tư. 2.3.8.3. Đặc điểm, tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp a. Đặc điểm đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp Diện tích đất nông nghiệp trên thế giới có hạn, nhu cầu về lương thực thực phẩm ngày càng tăng. Vì vậy, việc nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp là rất cần thiết, có thể xem xét ở một số khía cạnh sau: - Quá trình sản xuất trên đất nông nghiệp phải sử dụng nhiều yếu tố đầu vào. Vì thế khi đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp trước tiên phải được xác định bằng kết quả thu được trên một đơn vị diện tích cụ thể thường là 1 ha, tính trên một đồng chi phí, một lao động đầu tư. - Trên đất nông nghiệp có thể bố trí các cây trồng, các hệ thống luân canh, do đó cần phải đánh giá hiệu quả của từng cây trồng, từng hệ thống luân canh (Chu Văn Cấp, 2001)[3]. - Thâm canh là một biện pháp sử dụng đất nông nghiệp theo chiều sâu, tác động đến hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp trước mắt và lâu dài. Vì thế cần phải nghiên cứu hiệu quả của việc sử dụng phân bón và thuốc trừ sâu, nghiên cứu ảnh hưởng của việc tăng đầu tư thâm canh đến quá trình sử dụng đất (Nguyễn Văn Bộ, 2000)[1]. - Phát triển nông nghiệp chỉ có thể thích hợp được khi con người biết cách làm cho môi trường cùng phát triển (Đường Hồng Dật và các cộng sự, 1994)[7].
  32. 24 Do đó, khi đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp cần quan tâm đến những ảnh hưởng của sản xuất nông nghiệp đến môi trường xung quanh. - Hoạt động sản xuất mang tính xã hội sâu sắc. Vì vậy, khi đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp cần quan tâm đến những tác động của sản xuất nông nghiệp đến các vấn đề xã hội như: giải quyết việc làm, tăng thu nhập, nâng cao trình độ dân trí trong nông thôn. b. Tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp Đối với nông nghiệp, tiêu chuẩn để đánh giá là mức đạt được các mục tiêu kinh tế, xã hội, môi trường do xã hội đặt ra. Cụ thể như tăng năng suất cây trồng, vật nuôi, tăng chất lượng và tổng sản phẩm hướng tới thỏa mãn tốt nhu cầu nông sản cho thị trường trong nước và tăng xuất khẩu, đồng thời đáp ứng yêu cầu về bảo vệ hệ sinh thái nông nghiệp bền vững (Vũ Thị Phương Thụy, 2000)[29]. Sử dụng đất phải đảm bảo cực tiểu hóa chi phí các yếu tố đầu vào và theo nguyên tắc tiết kiệm khi cần sản xuất ra một lượng nông sản nhất định. Hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp có ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất ngành nông nghiệp, đến hệ thống môi trường sinh thái nông nghiệp, đến những người sống bằng nông nghiệp. Vì vậy, đánh giá hiệu quả sử dụng đất phải tuân theo quan điểm sử dụng đất bền vững hướng vào 3 tiêu chuẩn chung như sau: bền vững về mặt kinh tế, bền vững về mặt xã hội, bền vững về mặt môi trường (FAO, 1990)[33]. c. Hệ thống các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp 01, Nguyên tắc khi lựa chọn hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp: Hệ thống chỉ tiêu phải có tính thống nhất, tính toàn diện và tính hệ thống. Các chỉ tiêu có mối quan hệ hữu cơ với nhau, đảm bảo tính so sánh có thang bậc (Nguyễn Đình Hợi, 1993)[17]. + Để đánh giá chính xác, toàn diện cần phải xác định chỉ tiêu chính, chỉ tiêu cơ bản, biểu hiện mặt cốt yếu của hiệu quả theo quan điểm và tiêu chuẩn đã chọn, các chỉ tiêu bổ sung để hiệu chỉnh chỉ tiêu chính, làm cho nội dung kinh tế biểu hiện đầy đủ hơn, cụ thể hơn (Nguyễn Duy Tính, 1995)[28]. + Các chỉ tiêu phải phù hợp với đặc điểm và trình độ phát triển nông nghiệp ở nước ta, đồng thời có khả năng so sánh quốc tế trong quan hệ đối ngoại, nhất là
  33. 25 những sản phẩm có khả năng hướng tới xuất khẩu. Hệ thống chỉ tiêu phải đảm bảo tính thực tiễn và tính khoa học, phải có tác dụng kích thích sản xuất phát triển. Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp: Xuất phát từ bản chất của hiệu quả là nói lên mối quan hệ giữa kết quả và chi phí, mối quan hệ này có thể là quan hệ hiệu số hoặc quan hệ thương số (Vũ Thị Phương Thụy, 2000)[29], (Nguyễn Duy Tính, 1995)[28], nên dạng tổng quát của hệ thống chỉ tiêu hiệu quả là: H = K - C H = K/C H = (K - C)/C H = (K1 - K0)/(C1 - C0) Trong đó: H : hiệu quả K : kết quả C : chi phí 0 và 1 là chỉ số về thời gian 02, Lựa chọn hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp: * Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh tế: - Hiệu quả kinh tế tính trên 1 ha đất nông nghiệp: + Giá trị sản xuất (GO: Gross Output): Là toàn bộ giá trị sản phẩm vật chất và dịch vụ được tạo ra trong một thời kỳ nhất định, thường là 1 năm. GO = (QiPi + qipi) Trong đó: Qi: là khối lượng sản phẩm chính loại i Pi: là đơn giá sản phẩm chính loại i qi: là khối lượng sản phẩm phụ loại i pi: là đơn giá sản phẩm phụ loại i + Chi phí trung gian (IC: Intermediate Costs): là toàn bộ các khoản chi phí về vật chất cho các hoạt động sản xuất, bao gồm các khoản chi phí về nguyên vật liệu, giống, phân bón, dịch vụ mua ngoài IC = Cj Trong đó: Cj là khoản chi phí thứ j
  34. 26 + Giá trị gia tăng (VA: Value Added): là giá trị tăng thêm của quá trình sản xuất sau khi đã loại bỏ chi phí vật chất và dịch vụ. VA = GO - IC + Lợi nhuận (P: Profits): là phần thu nhập còn lại sau khi đã trừ đi toàn bộ các chi phí sản xuất kinh doanh và làm nghĩa vụ đối với ngân sách. P = GO – (IC + A + T + Lt + L) Trong đó: A: khấu hao tài sản cố định T: Các khoản thuế phải nộp Lt: Chi phí thuê lao động bên ngoài L: Chi phí lao động của bản thân người sản xuất. - Hiệu quả trên 1 đơn vị chi phí vật chất (thường tính cho 1000đ chi phí) + Giá trị sản xuất trên chi phí vật chất + Giá trị gia tăng trên chi phí trung gian + Lợi nhuận trên chi phí trung gian - Hiệu quả trên 1 đơn vị lao động (một lao động quy hoặc một ngày người). + Giá trị sản xuất trên lao động + Giá trị gia tăng trên lao động + Lợi nhuận trên lao động * Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả xã hội + Mức thu hút lao động, mức độ sử dụng lao động, tạo việc làm, tăng thu nhập (Nguyễn Duy Tính, 1995). + Trình độ dân trí, trình độ hiểu biết xã hội (Vũ Năng Dũng và các cộng sự, 1996)[10]. * Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả môi trường: Theo Đỗ Nguyên Hải (1999)[16], chỉ tiêu đánh giá chất lượng của môi trường trong quản lý sử dụng dất đai bền vững ở vùng nông nghiệp được tưới là: + Quản lý đối với đất đai rừng đầu nguồn. + Đánh giá các nguồn tài nguyên nước bền vững. + Đánh giá quản lý đất đai.
  35. 27 + Đánh giá hệ thống sản xuất cây trồng. + Đánh giá tính bền vững đối với việc duy trì độ phì của đất và bảo vệ cây trồng. + Đánh giá về quản lý bảo vệ tự nhiên. + Sự thích hợp với môi trường đất khi thay đổi kiểu sử dụng đất. Việc xác định hiệu quả về mặt môi trường của quá trình sử dụng đất nông nghiệp là rất phức tạp, khó định lượng, đòi hỏi phải được nghiên cứu, phân tích trong một thời gian dài. Vì vậy, trong đề tài nghiên cứu chúng tôi chỉ dừng lại ở việc đánh giá hiệu quả môi trường thông qua việc đánh giá thích hợp của các cây trồng đối với điều kiện đất đai hiện tại, thông qua kết quả điều tra về đầu tư phân bón, thuốc bảo vệ thực vật và kết quả phỏng vấn hộ nông dân về nhận xét của họ đối với các loại hình sử dụng đất hiện tại. Đánh giá hiệu quả sử dụng đất cần kết hợp chặt chẽ giữa ba hệ thống chỉ tiêu kinh tế- xã hội và môi trường trong một thể thống nhất. Tuy nhiên, tuỳ từng điều kiện cụ thể mà ta có thể nhấn mạnh từng hệ thống chỉ tiêu ở mức độ khác nhau (Nguyễn Đình Hợi, 1993)[17]. 2.4. Những nghiên cứu trên thế giới và trong nước về đánh giá hiệu quả sử dụng đất 2.4.1: Trên thế giới Việc nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp để đáp ứng nhu cầu trước mắt và lâu dài là vấn đề quan trọng thu út nhiều sự quan tâm của nhiều nhà khoa học trên thế giới. Các nhà khoa học đã tập trung nghiên cứu vào việc đánh giá hiệu quả đối với từng loại cây trồng, từng giống cây trồng trên mỗi loại đất để từ đó có thể sắp xếp, bố trí lại cơ cấu cây trồng phù hợp nhằm khai thác tốt hơn lợi thế của từng vùng. Hằng năm các Viện nghiên cứu nông nghiệp ở các nước trên thế giới cũng đưa ra nhiều giống cây trồng mới, những công thức luân canh mới, các kỹ thuật canh tác mới. Xu hướng chung trên thế giới là tập trung mọi nỗ lực nghiên cứu cải tiến hệ thống cây trồng trên những vùng đất bằng cách đưa them một số loại cây trồng vào hệ thống canh tác nhằm tăng sản lượng lương thực, thực phẩm trên một đơn vị diện tích. Trong thực tiễn sản xuất nông nghiệp, loài người đã chọn ra nhũng giống cây trồng phù hợp cho từng vùng sinh thái khác nhau. Lịch sử phát triển nông nghiệp thế giới cũng đã chỉ rõ việc chuyển biến mọi nền sản xuất nông nghiệp từ trình độ tự
  36. 28 cấp, tự túc sang trình độ có tính chất hang hóa gắn liền với những biến đổi sâu sắc trong cơ cấu cây trồng. Từ cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19, cuộc cách mạng hệ thống cây trồng bắt đầu ở một số nước Tâu Âu, chế độ độc canh trong sản xuất nông nghiệp được thay thế bằng các chế độ luân canh cây ngũ cốc và đồng cỏ, đồng thời sử dụng các loại cây họ đậu việc tăng cường các biên pháp kỹ thuật như làm đất, bón phân Chính vì vậy năng suất ngũ cốc được tăng lên gấp 2 lần so với chế độ luân canh cũ và sản phẩm lương thực, thực phẩm được tăng lên gấp 4 lần trên cùng một hecta đất canh tác (như các loại cây có củ, quả được đưa thêm vào hệ thống cây trồng và năng suất của chính cây ngũ cốc cũng được tăng lên). Chế độ luân canh mới này đã tạo ra những điểm đột phá thắng lợi ở Anh, Bỉ, Hà Lan, Pháp và tiếp theo là các nước Châu Âu khác (Bùi Huy Đáp) (1952) Châu Á là khu vực trồng lúa chủ yếu, khoảng 90% sản lượng lúa được sản xuất tại đây. Đất trông lúa của Châu Á chỉ có một phần rất nhỏ được tưới còn 70% điện tích đất trồng lúa là nhờ vào nước trời. Trước đây trên đất trồng lúa có tưới thường được trồng 2 vụ lúa trong năm và trên đất lúa nhờ nước thường được trồng lúa trong mùa mưa. Vào những năm 1960, các nhà khoa học của Viện Lúa Quốc Tế (IRRI) đã nhận thấy rằng các giống lúa thấp cây, lá đứng, đẻ nhánh khỏe, có tiềm năng năng suất cao. Do đó đầu thập kỷ 70 các nhà khoa học của các nước Châu Á tập trung nghiên cứu toàn bộ hệ thống cây trồng trên cơ sở lấy cây lúa làm nền, tăng cường phát triển các loại cây nghiên cứu: các vấn đề được các nhà khoa học quan tâm là: - Dùng giống ngắn ngày để tăng vụ. - Thử nghiệm tăng vụ màu bằng các cây trồng mới xen canh, luân canh. - Xây dựng hiệu quả kinh tế của các công thức luân canh, của chế độ xen canh, trồng gối đồng thời khắc phục các yếu tố hạn chế (Vũ Văn Rung, 2001) [5].
  37. 29 Ở Thái Lan bằng việc chuyển vụ lúa xuân sang trồng đâu tương trong hệ thống lúa xuân – lúa mùa hiệu quả thấp do độc canh và thiếu nước tưới đã làm tăng hiệu quả kinh tế lên gấp đôi, đồng thời độ phì cũng được tăng lên (Dấn theo Nguyễn Hữu Tề, 2003) [7]. Mô hình sử dụng hợp lý đất dốc đã trồng cây họ đậu thành băng theo đường đồng mức để chống xói mòn. Hệ thống cây trồng xen cây họ đậu với cây lương thực trên đất dốc làm tang năng suất cây trồng đất được cải tạo nhờ được tang cường them chất hữu cơ tại chỗ và tăng nguồn vi sinh vật có ích trong đất. mô hình canh tác ở vùng trũng bao gồm cả trồng trọt, chăn nuôi, nghề cá, nghề phụ đã làm đa dạng hóa nguồn thu nhập. Đó là cách tốt nhất giúp người nghèo tránh được rủi ro, tăng nguồn thu tiền mặt hàng ngày nên mô hình lúa – cá – gia cầm – rau được gọi là ngân hàng sống (Living bank) của nhân dân sản xuất nhỏ (theo Janet) (Dẫn theo Trần Đức Viên, 1998) [10]. Đài Loan là một nước có diện tích đất sản xuất nông nghiệp rất thấp nhưng do cải tiến các biện pháp kỹ thuật, thực hiện các chính sách khuyến khích nên đã tạo cho nông nghiệp những bước phát triển vượt bậc, không những cung cấp dồi dào lương thực mà còn chuyển vốn cho các ngành khác đóng góp rất lớn cho công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hóa và thúc đẩy nền kinh tế quốc dân phát triển. Một số nước đã ứng dụng công nghệ thong tin xác định hàm lượng chất dinh dưỡng dựa trên phân tích lá, phân tích đất để bón phân cho cây ăn quả như ở Israel, Philipin, Hà Lan, Mỹ, Nhật , kết hợp giữa phân bón vào đất, phun phân qua lá, phân vi lượng, chất kích thích, điều hòa sinh trưởng đã mang lại hiệu quả sản xuất rất cao (Viện quy hoạch và thiết ké nông nghiệp, 2006) Hiện nay, xu hướng trong nghiên cứu của các nhà khoa học nông nghiệp tập trung nghiên cứu, cải tiến hệ thống cây trồng trên các vùng đất bằng cách đưa them một số loại cây trồng mới vào hệ thống canh tác nhằm tăng sản lượng nông sản trên một đơn vị diện tích canh tác. Cải tiến cơ cấu cây trồng theo hướng kết hợp hiệu quả kinh tế - xã hội với bảo vệ môi trường nhằm xây dựng nền nông nghiệp sinh thái phát triển bền vững (Nguyễn Hữu Tính, 1995) [7]. 2.4.2: Trong nước Việt Nam là một nước nông nghiệp, đời sống, các hoạt động kinh tế - xã hội,
  38. 30 thậm chí cả nền văn minh từ xa xưa đã gắn với trồng trọt, chăn nuôi. Vì vậy, có thể nói rằng những nghiên cứu về hiệu quả sử dụng đất ở nước ta gắn liền với lịch sử hình thành, đấu tranh và bảo vệ Tổ quốc. Những năm qua, nhờ sự đổi mới về chính sách của Đảng, Nhà nước và sự trú trọng đầu tư ngân sách cho nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực nông nghiệp, đội ngũ khoa học của ngành đã nghiên cứu thành công trên nhiều lĩnh vự như: giống cây trồng vật nuôi, thú y, lâm nghiệp, thủy lợi, canh tác, bảo vệ thực vật, phân bón Nhiều công trình nghiên cứu được hội đồng khoa học đánh giá cao, được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn công nhận là những tiến bộ khoa học kỹ thuật và đã đưa vào áp dụng trong sản xuất, đưa năng suất, chất lượng sản phẩm nông nghiệp không ngừng tăng trong những năm qua, đem lại hiệu quả kinh tế cao, được người sản xuất đánh giá cao. Năm 1996, Viện sĩ Đào Thế Tuấn đã cùng các nhà nghiên cứu khoa học của Viện Khoa học Kỹ thuật nông nghiệp Việt Nam nghiên cứu cây lúa vụ xuân với các giống có tiềm năng năng suất cao và tập đoàn đã tạo ra bước chuyển biến rõ nét về lương thực, thực phẩm ở vùng Đồng bằng sông Hồng (Đào Thế Tuấn, 1978) [11]. Nhiều công trình nghiên cứu tổng hợp và chuyên đề về hệ thống canh tác, đặc biệt là hệ thống canh tác ở vùng đồi núi, phù hợp trên đất dốc với các loại cây vừa đảm bảo hiệu quả kinh tế vừa bảo đảm bảo vệ được độ màu mỡ của đất. Có thể thấy công trình nghiên cứu áp dụng các biện pháp kỹ thuật nâng cao hiệu quả sử dụng đất ruộng một vụ vùng miền núi phía Bắc (Lê Quốc Doanh và cs, 2007) [1] cho thấy: bằng con đường chọn giống, che phủ đất có thể tăng vụ với 2 công thức: đâu tương xuân – lúa mùa giống ngắn ngày lợi nhuận đạt từ 16,8 triệu đồng/ha/năm nếu so sánh với 1 vụ lúa lợi nhuận chỉ đạt 8.0 triệu đồng/ha/năm. Công thức lac xuân – lúa mùa giống ngắn ngày lợi nhuận đạt 21,2 triệu đồng/ha/năm cao hơn đối chứng làm 1 vụ lúa là 9,6 triệu đồng/ha/năm. Có thể nhận thấy những nghiên cứu sâu về đất và hiệu quả sử dụng đất ở trên là những cơ sở cần thiết và có ý nghĩa quan trọng cho các định hướng sử dụng và bảo vệ cũng như xác định các chỉ tiêu đáng giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa.
  39. 31 PHẦN 3 ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 3.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1.1. Đối tượng nghiên cứu - Điều kiện tự nhiên, kinh tế- xã hội, tiềm năng đất đai sản xuất của Farm 22 và Farm chà là, Moshav Tzofar, Arava, Israel. - Các loại hình sử dụng đất sản xuất nông nghiệp của Farm 22 và Farm chà là 3.1.2. Phạm vi nghiên cứu Toàn bộ quỹ đất nông nghiệp tại Farm 22 và Farm chà là Moshav Tzofar, Arava, Israel. 3.2. Nội dung nghiên cứu 3.2.1. Nội dung 1: Khái quát về Farm 22 và Farm chà là - Vị trí địa lí - Khái quát tình hình cơ bản 3.2.2. Nội dung 2: Tình hình sản xuất, chế biến và tiêu thụ của ớt chuông tại Farm 22 và Farm chà là - Tình hình sản xuất - Tình hình chế biến và tiêu thụ 3.2.3. Nội dung 3: Đánh giá hiệu quả sử dụng đất - Đánh giá hiệu quả kinh tế, xã hội, môi trường cho cây ớt và cây chà là - Chỉ ra tính bền vững và khả năng áp dụng tại Việt Nam của mô hình sản xuất trong farm. 3.2.4. Nội dung 4: Thuận lợi, khó khăn, bài học kinh nghiệm và đề xuất 3.3. Phương pháp nghiên cứu 3.3.1. Thu thập số liệu thứ cấp - Trên Internet các số liệu thống kê, tổng quan về đất nước Israel, về tình hình sản xuất nông nghiệp, về tình hình xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp. Các công nghệ đang được áp dụng trong sản xuất nông nghiệp. - Địa điểm: Farm 22, Moshav Tzofar, Arava, Israel và Farm chà là
  40. 32 3.3.2. Thu thập số liệu sơ cấp Thu thập số liệu cụ thể về trang trại; Quy mô, diện tích, tình hình sản xuất của trang trại 3.3.3. Phương pháp đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp 3.3.3.1. Hiệu quả kinh tế * Tổng giá trị sản phẩm (T): T = p1.q1+p2.q2+ +pn.qn Trong đó: - p: là khối lượng từng loại sản phẩm được sản xuất/ha/năm - q: là đơn giá của từng loại sản phẩm của thị trường cùng thời điểm - T: là tổng giá trị sản phẩm của 1 ha đất canh tác/năm * Thu nhập thuần túy (N): N = T - Csx Trong đó: - N: thu nhập thuần túy của 1 ha đất canh tác/năm - Csx: chi phí sản xuất của 1ha đất canh tác/năm bao gồm cả chi phí vật chất và chi phí lao động * Hiệu quả sử dụng vốn (H) H = T/Csx * Giá trị ngày công lao động: HLđ=N/số ngày công lao động/ha/năm * Các chỉ tiêu phân tích được đánh giá bằng tiền theo thời giá hiện hành và định tính (phân cấp) được tính bằng mức độ cao, thấp. Các chỉ tiêu đạt mức càng cao thì hiệu quả kinh tế càng lớn. 3.3.3.2. Hiệu quả xã hội - Giá trị ngày công lao động nông nghiệp. - Thu nhập bình quân/lao động nông nghiệp. - Tỷ lệ giảm hộ đói nghèo. - Mức độ giải quyết công ăn việc làm và thu hút lao động. - Sản phẩm tiêu thụ trên thị trường. 3.3.3.2. Hiệu quả môi trường - Tỷ lệ che phủ. - Khả năng bảo vệ và cải tạo đất. Ý thức của người dân trong việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật.
  41. 33 PHẦN 4 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 4.1. Khái quát về Farm 22 Farm 22 tại Moshav Tzofar được hình thành và sản xuất nông nghiệp từ những năm 70 cuối thế kỉ XX. Sản phẩm nông nghiệp chính của farm là ớt chuông để xuất khẩu, bên canh đó trang trại đã và đang trồng và xen canh nhiều loại cây trồng mới như cà chau, cà tím và chà là Trang trại tổng cộng có 13 farm trong đó farm rông nhất có diện tích lên tới 35 dunam( 1dunam = 1000m2) và trung bình các farm sẽ có diện tích vào khoảng 10 dunam. Trang trại có 1 farm trồng cà chua và 2 farm trồng cà tím, còn lại là 10 farm trồng ớt chuông, trong 10 farm trồng ớt có 7 farm trồng với sản phẩm chính dùng cho xuất khẩu. Farm chà là được trồng và có độ tuổi khoảng từ 10 tới 20 năm với khoảng 548 cây, được chăm sóc và trồng thành một vườn tập trung để thuận tiện cho việc chăm sóc thu hoạch. Hình 4.1. Hình ảnh trang trại cà tím Hình 4.2. Hình ảnh trang trại ớt chuông Hình 4.3: Hình ảnh vườn chà là của Farm
  42. 34 Trang trại có một kho đóng gói được sử dụng chung cùng với nhiều trang trại khác vào mùa thu hoạch. Số lượng công nhân làm việc trong kho đóng gói khoảng 30 người. Do số lượng công nhân làm việc bên ngoài trang trại chỉ từ 10 đến 12 người đòi hỏi các trang trại phải kết hợp với nhau làm việc thì mới đủ nh nhân công cho quy trình đóng gói. Hình 4.4. Hình ảnh Packing house của trang trại 4.1.1. Điều kiện tự nghiên - Vị trí địa lý: Nằm trong quận Arava tại khu vực phía nam của Israel, giáp Quốc gia như Jordan, Lebanon, Syria - Địa hình: Địa hình hoang mạc và bán hoang mạc, thấp hơn mực nước biển - Khí hậu, thời tiết: Chịu ảnh hưởng của khí hậu bùng Tây Á Địa Trung Hải, lượng mưa thấp và ít mưu quanh năm, nhiệt độ cao và vào mùa đông có biên độ dao động nhiệt lớn - Thuỷ văn: Không có sông ngòi tự nhiên, bù lại ở đây có hệ thống cung cấp và xử lí nước hiện đại luôn đáp ứng được nhu cầu sử dụng nước trong sinh hoạt cũng như tưới tiêu: 4.1.2. Điều kiện kinh tế, xã hội Kinh tế phụ thuộc chủ yếu vào nông nghiệp, quy mô, diện tích và các hộ gia đình làm nông có xu hướng tăng lên. Mỗi người nông dân vừa làm nông lại là một doanh nhân họ chủ động trong việc sản xuất thu hoạch cho tới tìm thị trường tiêu thụ
  43. 35 4.2. Tình hình sản xuất, chế biến và tiêu thụ của ớt chuông tại Farm 22 và Farm chà là Ớt chuông và chà là là hai loại cây được trồng nhiều và đặc trưng nhất tại vùng Arava, diện tích trồng chà là và ớt chuông lên tới 60% diện tích và đang có xu hướng tăng lên. Đây là hai loại cây kinh tế xuất khẩu chủ lực của cùng. Các quy trình sản xuất thường được áp dụng theo những quy trinh đã được xác định nhằm mang lại sản lượng và chất lượng cao nhất bên cạnh đó còn có các trung tâm nghiên cứu do nhà nước, các tổ chức Do Thái và chính người nông dân ở đây tài trợ để nghiên cứu tìm ra những giống cây trồng và cách thức chắm sóc mang lại hiệu quả cao nhất. Trước khi trồng ớt đất tại nơi đây đã được ủ đất một tháng dưới nhiệt độ cao từ mặt trời có thể loại bỏ sâu bệnh hại. Người nông dân ở đây sử dụng cây giống từ các vườn ươm nên họ có thể tiết kiệm thời gian ươm giống cây và đảm bảo chất lượng cây giống. Vì nguồn nước có hạn định và trồng trên sa mạc vì vậy mọi trang trại đều sử dụng hệ thống tưới nhỏ giọt (Drip irrgation sytem). Họ trồng ớt chuông trong các nhà lưới hoặc nhà kính phụ thuộc vào giống ớt, điều kiện chăm sóc. Sản lượng ớt chuông toàn vùng Arava vào khoảng 136000 tấn năm 2016.Sản lượng của ớt chuông trên một dunam trung bình sẽ từ 7 tấn cho tới 9 tấn. Mùa vụ gieo trồng cho tưới lúc thu hoạch khoảng 10 tháng nhưng thười gian thu hoạch kéo dài trong năm tháng bắt đầu từ tháng 12 năm trước cho tới tháng 4 sang năm. Hình 4.5. Hình ảnh ớt chuông tại trang trại
  44. 36 Tại farm 22 có 10 farm trồng ớt chuông với farm rộng nhất lên tới 35 dunam tương đương với 3.5ha và trung bình các farm ớt còn lại có diện tích trung bình là 1ha. Khi bắt đầu vào mùa vụ thì trồng gì với hạn lượng bao nhiêu đã được xác định với một lượng nhất định do nhà nước cung cấp. Với những farm ớt trồng để xuất khẩu thì hệ thông nhà lưới, nhà nilon sẽ được đầu tư và chăm sóc cẩn thận hơn tùy vào từng giống ớt thì sẽ được trồng vào từng hệ thống nhá lưới và nhà nilon thích hợp. Tại farm luôn có 10 công nhân làm việc quanh năm và vào mùa vụ thu hoạch chính farm nhận thêm sinh viên làm việc tại cơ sở sản xuất, chế biến và đóng gói ớt chuông để xuất khẩu tưới các thị trường như Mỹ, Nga và các nước châu Âu bên cạnh đó còn có thị trường các chợ nội địa Israel. Chà là tại farm với đặc thù là cây thân gỗ và có chiều cao từ 5m cho tới 15m vì vậy khi chăm sóc, cắt tỉa và thu hoạch cần sử dụng nhhững máy móc và dụng cụ chuyên biệt. Quy trình chăm sóc cây chà là nhằm mang lại giá trị dinh dưỡng cũng như chất lượng quả tốt nhất. Hình 4.6: Hình ảnh chà là vào mùa thu hoạch
  45. 37 Hình 4.7: Sản lượng thu hoạch ớt theo tháng tại farm 22 Tzofar Từ bảng thu hoạch sản lượng ớt chuông qua các tháng ta có thể thấy mùa vụ cao điểm cho thu hoạch sẽ từ tháng 2 cho tới tháng 4. Yếu tố thời tiết và thị trường cũng ảnh hưởng rất lớn tới việc thu hoạch. Như thời tiết những tháng mùa đông trời lạnh khiến ớt không chín chưa đạt đến độ có thể thu hoạch vì vậy sản lượng thu hoạch thấp và yếu tố thị trường vì ớt là mặt hàng xuất khẩu sang các nước như Mỹ, Nga và các nước châu Âu và thời gian xuất khẩu tưới đó từ 2 cho đến 3 tuần vì vậy trước những ngày lễ như giáng sinh, lễ tạ ơn là những ngày lễ lớn tại các nước phương tây những người nông dân Israel sẽ hạn chế thu hoạch, để tránh không có thị trường tiêu thụ. Khác với cây ớt được trồng theo vụ hàng năm, cây chà là là cây thân gỗ là cây trồng lâu năm trồng ngoài trời có thể bắt đầu thu hoạch sau năm thứ ba. Cây chà là được trồng với khoảng cách từ 7m cho tới 8m là khoảng cách giữa hai cây vì vậy 1 dunam sẽ có từ 15 cây cho tới 20 cây. Còn đối với cây ớt chuông sẽ có mật độ từ 3 cho đến 3,5 cây trên 1m2 thì trong một dunam ớt sẽ có khoảng 300 cây. Mùa thu hoạch chà là sẽ vào thười gian từ tháng 8 cho tới tháng 11. Lượng nước sử sụng cho một cây chà là một năm lên tới 3000 lít nước. Bảng 4.1: Năng suất và sản lượng chà là tại Farm SLTB/cây Sản lượng/dunam Số lượng cây Sản lượng (tấn) (kg/cây) (tấn/dunam) 548 81,1 148 2,2
  46. 38 Khi so sánh sản lượng của hai cây trồng đặc trưng tại vùng Arava ta có thể thấy sản lượng giữa ớt chuông và chà là thì sản lượng ớt chuông nhiều hơn đáng kể có sự chênh lệch sản lượng trên một dunam giữa ớt và chà là vào khoảng từ 7 tấn. Tất cả các sản phẩm nông sản muốn đạt giá trị cao nhất cần đảm bảo các yếu tố và tiêu chuẩn. Đặc biệt khâu đóng gói tạo ra thành phẩm sẽ mang lại nhiều giá trị hơn là sản phẩm thô. Sau khi phân loại và đóng gói phụ thuộc vào kích cỡ và thị trường tiêu thụ yêu cầu thì sản phẩm sẽ được phân loại và có giá bán khác nhau. Đối với ớt và chà là thì những yếu tố nhằm phân loại bao gồm như kích thước, vỏ ngoài có bị biến dạng hay không sau khi phân loại thì ớt sẽ được đóng hộp và chứ trên những badet nhằm thuận tiện cho việc di chuyển sau đó ớt sẽ được vận chuyển và bảo quản vào kho lạnh trước khi được đem đi tiêu thụ Hình 4.8: Tỷ lệ phần trăm kích thước của ớt sau khi được phân loại Kích thước của trái ớt phụ thuộc vào bán kính của trái sẽ có các mức độ như bán kính 5cm, 7cm, 10cm, 15cm, 20cm tùy thuộc vào độ yêu thích và ưu chuộng của từng thị trường quốc tế đối với từng loại kích cỡ và màu sắc của trái ớt mà người nông dân ở đây sẽ phân loại, đóng gói thích hợp đối với thị trường đó. Ta có thể thấy việc tìm hiểu, đánh giá thị trường cũng như sở thích của từng vùng mà tìm cách tiêu thụ sản phẩm một cách nhanh và thích hợp nhất. Kết quả phân loại trên còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố ảnh hưởng tới chất lượng của ớt như thời tiết và sâu bệnh. Có những farm không làm tốt công tác quản lý sâu bệnh hại thì sản lượng sau khi phân loại bị loại bỏ rất nhiều, bình thường tỷ lệ
  47. 39 thải bỏ ớt không đạt yêu cầu vào khoảng 4,5% sản lượng trên dunam, với ớt không đạt chất lượng người nông dân tại đây tập kết tại một bãi chưa những nông sản loại bỏ trong quá trình phận loại Đối với việc phân loại chà là thì khi vào mùa vụ chính thì cần lượng công nhân phân loại lớn và những máy móc dặc thù hơn so với đối vưới chà là thì tỷ lệ thải bỏ rất thấp, đa phân fnhững quả chà là sau khi thu hoạch về đều có thể phân laoị và chế biến thành nhiều thành phẩm khác nhau như mứt chà là Hình 4.9:Tỷ lệ kích cỡ của chà là sau khi được phân loại Các size được phận loại dựa trên kích cỡ của quả chà là và chất lượng độ ngọt và vỏ của trái và màu sắc. Những trái được phân loại vào size SJ,J là những loại tốt có kích thước lớn độ dài và rộng khoảng 2 ngón tay với độ dài khoảng 5cm và chiều rộng từ 1cm tới 3cm, màu sắc của loại này màu tối và đẹp mắt độ ngọt cao không bị sâu bệnh hay các động vật khác gây hại những size này có giá thành cao và được thị trường các nước châu Âu yêu thích làm quà tặng. Các size như H, M, B, HJ có kích thước trung bình nhỏ hơn 1 chút so với trái thuộc size lớn đây là loại có sản lượng sau khi phân loại lớn nhất. Chất lượng vẫn rất tốt tỉ lệ xuất hiện các hạt có vỏ phồng ( bong bóng) chiếm tỉ lệ nhỏ. Đây là loại có sản lượng và là nguồn thu lớn nhất trong các size sau khi phân loại. Các size còn lại sau khi phân loại và chọn ra các trái tà là thuộc 2 nhóm kích thước và chất lượng trên những trái còn lại có size nhỏ bằng khoảng 2 đốt ngòn tay màu sắc không còn tối màu đẹp như những size trên mà xuất hiện nhiều trái có màu
  48. 40 vàng chiếm tỉ lệ nhỏ trên vỏ trái. Trong thành phần những trái thuộc nhóm này thì đa phần vỏ của những trái này đều bị phồng và nổi bonng bóng không được đẹo mắt. Giá thị trường của những trái này thường là thấp nhất, những thị trường dành cho trái này sẽ sử dụng cho sinh hoạt hàng ngày. Nếu hàng không xuất bán được thì những trái này có thể được đưa vào để chế biến thành mứt chà là dưới dạng siro. Chà là tại vùng Arava, Israel được coi là nươi có chất lượng chà là tốt nhất trên thế giới vì vậy trong những năm gần đây sản lượng chà là thu hoạch không đủ đáp ứng nhu cầu xuất khẩu và tiêu thụ trong nước. Vì vậy diện tích cũng như số lượng chà là hàng năm ngày càng tăng lên, trong những năm đầu khi cây chưa có khả năng thu hoạch thì người nông dân tại đây thường trồng xen canh một loại cây trồng khác nhằm tiêts kiệm diện tích cũng đất. Một lí do khác là trồng chà là thì cần ít nhân công cahưm sóc cũng như là cây thân gỗ có khả năng chống chịu sâu bệnh tốt hơn, năm 2016 cả đất nước Israel chỉ cso 2 cây chà là bị ngừng phát triển do sâu bệnh 4.3. Đánh giá hiệu quả sử dụng đất 4.3.1. Hiệu quả kinh tế Hiệu quả kinh tế được đánh giá dựa trên cơ sở so sánh giá trị sản xuất và chi phí sản xuất. Hiệu số giữa giá trị sản xuất với chi phí sản xuất càng cao thì hiệu quả kinh tế càng cao, ðây cũng là mục tiêu chung của tất cả các ngành sản xuất vật chất. Cây trồng hàng nãm ở ðây là cây ớt chuông là những loại cây có thời gian sinh trýởng ngắn (thýờng tính bằng 01 nãm, 01 vụ ), từ đó khả nãng luôn chuyển vốn nhanh, tạo ra nguồn vốn trong ngắn hạn để đáp ứng các nhu cầu trước mắt, duy trì sản xuất cây lâu năm và chăn nuôi. Cây chồng lâu năm phù hợp vưới đặc thù của vùng nhất là cây chà là cây vừa mang giá trị kinh tế lại vừa giúp giữ đất chống sa mạc hóa. Giá của ớt biến động và phụ thuộc vào thị trường xuất khẩu cũng như nguồn cung và cầu giá sẽ dao động từ 4nis cho tưới 8 nis cho một kg( 25.000vnd cho tới 55.000vnd)
  49. 41 Bảng 4.2: Giá trị thặng dư của ớt biến động theo giá cả thị trường Giá bán Chi phí trung bình Giá trị thặng dư SLTB (kg) (ILS) (ILS) (ILS) 4 7000 25.000 3000 5 7000 25.000 10.000 6 7000 25.000 17.000 7 7000 25.000 24.000 8 7000 25.000 31.000 Cách tốt nhất người nông dân Israel đã làm là trước mùa vụ của mình xác định nhu cầu của thị trường nhằm xác định mình sẽ trồng cây gì để dảm bảo được nhu cầu thị trường nhằm tạo ra giá trị hàng hóa và kinh tế lớn nhất. Còn đồi với chà là thì giá bán sẽ phụ thuộc vào kích cỡ và chất lượng của chà là sau khi phân loại Bảng 4.3: Giá bán chà là phụ thuộc vào kích cỡ Kích cỡ Giá bán (ILS) SJ 29 J 29,2 L 28,2 M 23,3 B 18,2 SJ 14,1 SL 19,45 FN M 16,9 COS L 12,6 CL 13,75 CM 11,01 Ta có thể thấy mỗi cây chà là sẽ đem lại khoảng 148 kg sau khi phân loại và tiêu thụ thì một cây chà là có thể đem lại 2898 ILS khoảng 18,3 triệu VND trừu đi chi phí nhân công, phân bón, nước tưới thì một cây chà là có thể đem lại đem lại
  50. 42 giá trị thặng dư vào khoảng từ 800 ILS cho đến 1000ILS trên cây vì vậy tùy vào từng farm và số lượng cây trên mỗi dunam trung bình từ 15 cho đến 20 cây thì số tiền lãi cây chà là đem lại trên mỗi dunam sẽ là 12000 ILS cho tới20000 ILS, ta có thể thấy giá cả cảu chà là phhụ thuộc nhiều vào yếu tố chủ quan do chăm sóc và bảo quản còn đối vưới giá ớt sẽ có nhiều yếu tố khách quan như thị trường và thời tiết, cây trồng hàng năm thì sẽ bị ảnh hưởng nhiều hơn bởi sâu bệnh. Bảng 4.4: Bảng so sánh hiệu quả kinh tế của 2 Farm Ớt chuông và Chà Là trên 1 dunam = 1000m2 (Nis) Ớt chuông Chà Là Đầu tư 25000 37960 - 41960 Tổng thu 28000 - 56000 57960 Lãi 3000 - 31000 16000 - 20000 Chú thích: 1 cây chà là: 148kg = 2898 (nis) 20 cây chà là: 2960kg = 57960 (nis) 4.3.2. Hiệu quả xã hội Bảng 4.4. Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả xã hội của Farm STT Chỉ tiêu Mức độ 1 Thu hút lao động 2 Đáp ứng nhu cầu nông hộ 3 Yêu cầu vốn đầu tư 4 Đảm bảo lương thực 5 Sản phẩm hàng hóa 6 Tệ nạn xã hội * 7 Giảm tỷ lệ đói nghèo (Nguồn: Chủ farm) : Cao ; : Trung bình ; *: Thấp Đối với Israel chỉ có 2,5 % dân sô làm nông nghiệp nhưng lại là nước xuất khẩu nông sản có sản lượng hàng đầu thé giới. Một người nông dân tại đây có thể sản xuất và cung cấp thực phẩm đủ cho 90 người. Dân số Do Thái thấp chỉ khoảng 8 triệu người và tỷ lệ làm nông nghiệp thấp vì vậy học sử dụng những lao động tới từ Thái Lan và các thực tập sinh về nông nghiệp đến từ khắp nơi trên thế giới đó cũng là cơ hội học tập chia sẻ về việc làm nông nghiệp cho các Quốc gia khác. Đảm bảo
  51. 43 được an ninh toàn lương thực cho Quốc gia khi có khả năng tự cung cấp những nhu yếu phẩm trong nước lên tới 95%. Việc sản xuất cùng khu vực đem tới thuận tiện cho việc sản xuất đóng gói và xuất khẩu nhằm giảm chi phí một cách tối đa và thuận tiện nhất. 4.3.3. Hiệu quả môi trường Đối với môi trường thì việc làm nông nghiệp tại sa mạc đã là một điều kì diệu và điều tuyệt vời nữa đó chính là Israel là Quốc gia duy nhất trên thế giới có tỷ lệ sa mạc hóa giảm. Khi làm nông nghiệ tập trung tại những Mosahv và Kibuz thì việc tập trung sản xuất tại một đại điểm cụ thể tạo ra việc xây dựng lên những hệ sinh thái trên sa mạc. Đánh giá mức độ ảnh hưởng của việc sử dụng đất và hệ thống cây trồng hiện tại tới môi trường là vấn đề rất lớn. Liên quan nhiều tới tỷ lệ sử dụng phân bón. Bền vững về mặt môi trường cũng là một trong những yêu cầu sử dụng đất đai bền vững. Các loại hình sử dụng đất bền vững về mặt môi trường đòi hỏi phải bảo vệ được độ màu mỡ của đất, ngăn chặn thoái hóa đất, ô nhiễm đất và bảo vệ môi trường tự nhiên, không gây hại cho sức khỏe con người. Để đánh giá ảnh hưởng của LUT đến môi trường cần xem xét một số vấn đề sau: xói mòn, rửa trôi, hiện tượng ô nhiễm đất, nước do sử dụng phân hóa học, thuốc trừ sâu, hiện tượng thoái hóa đất do khai thác đất quá mức mà không có biện pháp bổi bổ độ phì nhiêu của đất. Ớt tại farm sử dụng thuốc bảo vệ thực vật 3- 4 lần/ vụ. Mặc dù số lượng thuốc cũng như số lượng phun nhiều nhưng lượng thuốc bảo vệ thực vật còn tàn dư trong đất, trong sản phẩm nông nghiệp là tương đối ít do hầu hết nông dân tại nhật bản sử dụng thuốc bảo vệ thực vật sinh học do vậy không gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới chất lượng đất và môi trường xung quanh cũng như chất lượng nông sản. Bảng 4.5. Hiệu quả môi trường của farm Ý thức của người Khả năng bảo vệ, Loại hình sử dụng Tiết kiệm nước dân trong sử dụng cải tạo đất thuốc BVTV Ớt Chà là (Nguồn: Chủ farm) : Cao; : Trung bình ; *: Thấp
  52. 44 * Mức độ thích hợp của cây ớt và chà là: Do địa hình đặc thù của đất nước sa mạc, khí hậu đặc biệt thích hợp với cây ớt và chà là. Giúp cây phát triển tốt, đạt hiệu quả cao. * Sử dụng phân bón: Phân bón được sử dụng theo nồng độ theo quy định của nhà nước và chuyên gia. Phân hữu cơ được sử dụng thường xuyên trong quá trình ủ đất, giúp cải tạo độ màu mỡ của đất. Ngăn chặn lại sự thoái hóa đất do nhiều phân bón hóa học. * Thuốc bảo vệ thực vật: Trong 1 vụ thuốc bảo vệ thực vật hóa học sẽ được sử dụng để phun cho cây ớt với tần suất 3-4 lần/năm. Còn lại, chủ farm sẽ sử dụng thuốc trừ sâu sinh học như thiên địch hoặc ong để đảm bảo an toàn cho cây. 4.4. Thuận lợi, khó khăn, bài học kinh nghiệm và đề xuất 4.4.1. Tại Israel * Thuận lợi - Nhiệt độ cao có thể ủ đất dưới những tấm plastic lớn nhằm diệt trừ sau bệnh một cách tự nhiên không cần sử dung nhiều các loại thuốc trừ sâu bệnh. - Quy mô và diện tích các trang trại tập trung tại các Moshav và Kibuz thuận lợi cho việc quản lí và thu hoạch đóng gói tập trung tại một khu vực không mất công vận chuyển ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm, khi các farm tập trung thì hệ thống nước có thể cung cấp phân phối tập trung không bị phân tán. Các gia đình làm nông nghiệp có thể liên kết với nhau nhằm trồng và xuất khẩu hàng hóa tạo nên các cộng đồng làm nông nghiệp hiệu quả * Khó khăn - Đối với người nông dân tại đây là vào mùa hè có khí hậu nắng nóng khắc nhiệt ảnh hưởng đến năng suất lao động. - Nhân công phải phụ thuộc vào các Quốc gia khác, các nên nông nghiệp khác ngày một áp dụng phát triển nâng cao chất lượng sản phẩm ảnh hưởng tới các thị trường xuất khẩu của Israel * Bài học kinh nghiệm Sau khi có cơ hội học tập và thực hành tại Israel chúng ta có thể học được rất nhiều từ người Do Thái:
  53. 45 - Từ cách quản trị con người, họ không chỉ là một người nông dân mà họ còn là một người doanh nhân đích thực. - Họ biết tạo nên các cộng đồng Do Thái làm nông nghiệp mỗi người trong đó đều có những trách nhiệm và nhiệm vụ riêng nhằm tạo ra sản phẩm được bán với giá cao và ổn định và tìm kiếm thị trường mới. - Từ những khó khăn sẵn có như điều kiện tự nhiên khắc nhiệt nắng nóng nguồn nước hạn chế người nông dân nơi đây đã tạo nên hệ thống tưới nước nhỏ giọt nhằm đảm bảo đầy đủ cũng như tiết kiệm lượng nước cần tưới cho cây cũng như có thể kiểm soát được lượng phân bón dùng cho cây trồng. * Đề xuất giải pháp Việc áp dụng hoàn toàn những công nghệ và quy trình từ Israel về Việt Nam để áp dụng vào sản xuất nông nghiệp là không thể bởi môi trường Việt Nam sẽ có những đặc thù riêng. Việt Nam là một Quốc gia nông nghiệp vì vậy các sản phẩm nông nghiệp chất lượng tại Việt Nam có rất nhiều, nhưng về quy mô và cách thức sản xuất còn manh mún không áp dụng khoa học kĩ thuật vào sản xuất nông nghiệp một cách triệt để khó đem lại uy tín cũng như thương hiệu cho nông sản Việt Nam Sau khi được học tập và làm việc tại các trang trại nông nghiệp tại Israel thì mỗi các nhân sau khi trở về nước có thể xây dựng nên những thương hiệu nông sản Việt Nam đạt năng suất và chất lượng cao có thể xuất khẩu ra thị trường thế giới. Cần tìm các thị trường có tiềm năng xuất nông sản như các nước công nghiệp các Quốc gia đông dân. 4.4.2. Khi áp dụng mô hình sản xuất vào Việt Nam * Thuận lợi - Việt Nam có điều kiện tự nhiên, khí hậu thuận lợi - Điều kiện tiếp cận khoa học - kỹ thuật tại Việt Nam phát triển - Hiện nay, đã có sự quan tâm đầu tư của nhà nước về nông nghiệp công nghệ cao. * Khó khăn - Chi phí đầu tư nhà lưới, nhà kính lớn. - Chi phí đầu tư hệ thống phủ bạt - Cơ sở hạ tầng, hệ thống giao thông, các loại máy móc chưa được đầu tư
  54. 46 - Kỹ thuật canh tác của người nông dân còn hạn chế - Nông dân hạn chế kiến thức tổng quát về nông nghiệp - Không có sự phối kết hợp giữa nông dân với những người nghiên cứu * Bài học kinh nghiệm - Nên áp dụng các phương pháp nâng cao chất lượng nông sản như: sử dụng các loài thiên địch, sử dụng thuốc bảo vệ thực vật sinh học, sử dụng ong mật nhằm mục đích thụ phấn cho hoa để đạt tỷ lệ đậu trái cao nhất. - Phối kết hợp giữa nông dân, các nhà khoa học, những người có chuyên môn về bệnh cây trồng nhằm theo dõi, phát hiện và điều trị bệnh trên cây trồng sớm nhất có thể. * Đề xuất giải pháp - Giải pháp về mặt hạ tầng - xã hội Đầu tư nâng cấp và mở mới hệ thống giao thông liên thôn, liên xã và giao thông nội đồng để thuận tiện cho việc đi lại, vận chuyển các sản phẩm nông sản và trao đổi hàng hóa Nâng cấp và tăng cường hệ thống điện lưới, hệ thống thông tin để tạo điều kiện cho người dân được tiếp cận với các tiến bộ khoa học kỹ thuật mới, phục vụ phát triển sản xuất. Xây dựng thêm và nâng cấp hệ thống thủy lợi, đặc biệt là xây dựng hệ thống kênh mương, trạm bơm, cống nội đồng kiên cố, hoàn chỉnh nhằm tạo khả năng tưới tiêu nước chủ động cho đồng ruộng, đảm bảo cung cấp nước đầy đủ cho đồng ruộng. Xây dựng các mô hình chuyên canh, vùng sản xuất theo hướng hàng hóa, việc sản xuất theo mô hình chuyên canh sẽ tạo điều kiện mở rộng thị trường tiêu thụ, thuận lợi cho việc mua, tiêu thụ sản phẩm. - Giải pháp về khoa học - kỹ thuật Để đạt được hiệu quả kinh tế cao và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa thì cần tăng cường áp dụng các biện pháp khoa học kỹ thuật tiến bộ, trang thiết bị phù hợp với điều kiện đất đai vào sản xuất. Khuyến khích người dân sử dụng các giống cây trồng cho năng suất cao, chất lượng tốt, đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng.
  55. 47 Phát triển sản xuất gắn với việc cải tạo đất, bảo vệ đất và môi trường, tránh tình trạng ô nhiễm đất. Hướng dẫn người dân bón phân, sử dụng thuốc bảo vệ đúng cách, hạn chế sử dụng phân vô cơ và thuốc bảo vệ thực vật tăng cường sử dụng các loại phân chuồng, phân xanh - Giải pháp về thị trường Tìm kiếm thị trường tiêu thụ cho sản phẩm: Nắm bắt thông tin thị trường, thường xuyên theo dõi các thông tin, dự báo về thị trường sản phẩm để người nông dân yên tâm sản xuất, chủ động đầu tư. Dự báo xu thế phát triển để điều chỉnh cơ cấu cây trồng, điều chỉnh khâu bảo quản chế biến. Áp dụng phương pháp quảng cáo, tuyên truyền về sản phẩm trên các phương tiện thông tin đại chúng, liên kết liên doanh tìm đối tác đầu tư gắn liền với tiêu thụ sản phẩm. Vấn đề thị trường tiêu thụ sản phẩm cho nông dân là vấn đề quan trọng để chuyển sang hướng sản xuất hàng hóa, hướng tới sự phát triển bền vững, đem lại hiệu quả kinh tế cao nhất. Do đó, để mở mang thị trường ổn định cần có các giải pháp sau: Tổ chức tốt các thông tin thị trường, dự bảo về thị trường để giúp nông dân có hướng sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Mở rộng sản xuất và sản phẩm nông nghiệp yêu cầu về mặt chất lượng và an toàn thực phẩm phải đặt lên hàng đầu. Hình thành các tổ chức tiêu thụ sản phẩm cho nông dân.
  56. 48 PHẦN 5 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 5.1. Kết luận Qua nghiên cứu, đánh giá hiệu quả sử dụng đất sản xuất nông nghiệp tại farm 22, Moshap Tzofar, Arava, Israel em rút ra một số kết luận sau: 1. Israel là một nước nhỏ ở Trung Đông có điều kiện tự nhiên vô cùng khắc nghiệt, 2/3 diện tích lãnh thổ là sa mạc, còn lại là đồi núi đá trọc, khí hậu nơi đây cực kỳ khô hạn. Tổng diện tích lãnh thổ Israel là 22.145 km², đất nông nghiệp khoảng 4.100 km2. Israel có vị trí, điều kiện đất đai, khí hậu, thủy văn không thuận lợi cho phát triển sản xuất nông nghiệp, nhưng nhờ vào khoa học kỹ thuật công nghệ cao, nhờ vào sự thông minh và sang của con người nơi đây mà nông nghiệp đã phát triển một cách vượt bậc, đứng ở vị trí hàng đầu trên thế giới. 2. Farm 22 là một trang trại với nền nông nghiệp là nguồn thu nhập chính của chủ trang trại và người lao động. Farm 22 nằm ở vị trí, điều kiện đất đai, khí hậu, thủy văn thuận lợi cho phát triển sản xuất cây ớt ngọt, năng suất cây trồng đã đạt được khá cao. 3. Về hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp của farm 22 Dựa vào kết quả nghiên cứu thấy được đất nông nghiệp của trang trại đã được sử dụng hiệu quả, các kiểu sử dụng đất sản xuất nông nghiệp chính của farm 22 là - Trồng ớt chuông - Trồng chà là Trồng ớt và chà là đều đem lại hiệu quả kinh tế cao, tổng năng suất một vụ của ớt là 7 - 9 tấn/năm, của chà là 2.960 tấn/năm. Cả hai loại cây đều đem lại hiệu quả xã hội tốt góp phần giải quyết việc làm cho người lao động, góp phần đảm bảo an ninh lương thực, môi trường không bị ô nhiễm.
  57. 59 4. Dựa trên kết quả đánh giá hiệu quả sử dụng đất sản xuất nông nghiệp, lựa chọn ra kiểu sử dụng đất đai thích hợp và có triển vọng cho farm 22 là Trồng giống ớt chuông. 5. Để nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp đạt được năng xuất cao như nông nghiệp Israel thì Việt Nam cần tổ chức khai thác tiềm năng đất đai theo hướng chuyển dịch cơ cấu cây trồng, đa dạng hóa sản phẩm hàng hóa và áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, xây dựng các vùng sản xuất đặc trưng. Thực hiện đồng bộ các giải pháp về công tác quản lý Nhà nước về đất đai nông nghiệp, bố trí hợp lý cây trồng, thâm canh tăng vụ. Quá trình sử dụng đất phải gắn bó với việc cải tạo, bồi dưỡng và bảo vệ đất, bảo vệ môi trường 5.2. Kiến nghị Nhà trường và trung tâm nên tổng hợp và lưu trữ những nghiên cứu và số liệu thực tế để các sinh viên và những người quan tâm có thể tham khảo một cách đơn giản và thuận tiện nhất. Có sự liên kết giữa nhà trường và các bạn thực tập sinh hàng năm có cơ hội thực tập tại các Quốc gia có nên nông nghiệp phát triển nhằm giải đáp các thắc mắc cho các bạn sinh viên đang học tập tại trường không có cơ hội tham gia trực tiếp vào nông nghiệp tại nước ngoài. Tạo nên kênh kết nối cho người nông dân Việt Nam về những vấn đề về nông nghiệp hàng ngày với những người nông dân tại Israel qua các bạn thực tập sinh.
  58. 59 TÀI LIỆU THAM KHẢO I. Tài liệu tiếng việt 1. Vũ Năng Dũng (2015) “Nghiên cứu sử dụng bền vững đất nông nghiệp huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang”. Luận án tiến sĩ Học viện Nông nghiệp Việt Nam 2. Hội khoa học đất (2015) “Hiện trạng sử dụng đất Việt Nam”, Hội thảo quốc gia Đất Việt Nam - Hiện trạng sử dụng đất và thách thức, NXB Nông nghiệp, Hà nội. 3. Lê Khánh Hội (2014) “Nghiên cứu đánh giá hệ thống sử dụng đất đai cho quy hoạch sử dụng đất xã Mộ đạo, Huyên Quế võ, Tỉnh Bắc Ninh theo hướng bền vững”. 4. Nông Thị Thu Huyền (2018) “Đánh giá tiềm năng và định hướng sử dụng đất nông nghiệp bền vững huyện Chợ đồn, tỉnh Bắc kạn”. Luận án tiến sĩ, trường Đại học nông lâm Thái Nguyên. 5. Đỗ Thị Lan và cs (2007), Giáo trình kinh tế tài nguyên đất, NXB Nông nghiệp, Hà Nội. 6. Cao Liêm và cs(1993), “Sinh thái nông nghiệp và bảo vệ môi trường”, NXB Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội. 7. Nguyễn Ngọc Nông và cs (2016), Giáo Trình Đánh Giá Đất, Trường ĐH Nông Lâm Thái Nguyên 8. Nguyễn Quang Thi (2017), "Nghiên cứu tiềm năng và đề xuất sử dụng bền vững đất nông nghiệp tại lưu vực hồ Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn", Luận án Tiến sĩ, Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên. II. Tài liệu internet. dieu/721868.antd