Khóa luận Các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định chọn ngành CTXH của SV một số trường ĐH tại TP.HCM
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định chọn ngành CTXH của SV một số trường ĐH tại TP.HCM", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- khoa_luan_cac_yeu_to_anh_huong_den_quyet_dinh_chon_nganh_ctx.pdf
Nội dung text: Khóa luận Các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định chọn ngành CTXH của SV một số trường ĐH tại TP.HCM
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các nội dung nghiên cứu, kết quả trong đề tài này là trung thực và chưa công bố dưới bất kỳ hình thức nào. Những số liệu trong các bảng, biểu phục vụ cho việc phân tích, nhận xét, đánh giá được tôi thu thập. Ngoài ra, trong đề tài còn sử dụng một số phát biểu, nhận xét, đánh giá của các tác giả khác, cơ quan tổ chức khác đều có trích dẫn và chú thích nguồn gốc. Tác giả Khóa luận - Nguyễn Phạm Thanh Hằng i
- LỜI CẢM ƠN Đầu tiên, tôi xin được chân thành cảm ơn trường ĐH Sư phạm TP. HCM và Khoa Tâm lý học đã tạo điều kiện để tôi được thực hiện Khóa luận này. Tiếp đến, tôi xin được gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc đến Giáo viên hướng dẫn – Ths. Đào Thị Duy Duyên, người đã tận tình hướng dẫn, động viên, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực hiện Khóa luận. Ngoài ra, tôi xin được gửi lời cảm ơn chân thành đến các Thầy/Cô đang giảng dạy ngành CTXH tại trường ĐH Sư phạm TP. HCM, trường ĐH KHXH và NV TP. HCM, trường ĐH Mở TP. HCM đã tạo điều kiện tốt nhất để tôi có thể thu số liệu phục vụ cho Khóa luận. Và tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành đến tất cả SV năm nhất ngành CTXH tại trường ĐH Sư phạm TP. HCM, trường ĐH KHXH và NV TP. HCM, trường ĐH Mở TP. HCM đã giúp tôi thực hiện bảng khảo sát và bảng phỏng vấn. Cuối cùng, xin kính chúc quý Thầy/Cô và các bạn SV sẽ có thật nhiều sức khỏe, thành công trong công việc và học tập. ii
- DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT CĐ CĐ ĐH ĐH TP. HCM TP. HCM CTXH CTXH ĐH KHXH và NV ĐH Khoa học Xã hội và Nhân Văn SV Sinh viên HS Học sinh NXB Nhà xuất bản THPT THPT TB Trung bình ĐLC Độ lệch chuẩn LĐ- TBXH Lao động – Thương binh Xã hội TK Thế kỉ iii
- DANH MỤC CÁC BẢNG STT Kí hiệu Nội dung Trang 1 Bảng 2.1 Thống kê khách thể nghiên cứu chính của đề tài 58 2 Bảng 2.2 Hệ số tin cậy của thang đo 61 3 Bảng 2.3 Thời điểm sinh viên bắt đầu lựa chọn thi vào ngành CTXH 61 4 Bảng 2.4 Mức độ hiểu biết của SV về ngành CTXH 63 Sự khác trong mức độ hiểu biết về yếu tố quy điều đạo đức 5 Bảng 2.5 64 của SV theo trường ĐH Điểm trung bình, thứ bậc của các nhóm yếu tố ảnh hưởng 6 Bảng 2.6 đến quyết định chọn ngành CTXH của SV năm nhất trên 65 toàn mẫu Điểm trung bình, tỷ lệ từng yếu tố trong nhóm đặc điểm cá 7 Bảng 2.7 nhân ảnh hưởng đến quyết định chọn ngành CTXH của SV 67 năm nhất trên toàn mẫu Điểm trung bình, tỷ lệ từng yếu tố trong nhóm yếu tố gia 8 Bảng 2.8 đình ảnh hưởng đến quyết định chọn ngành CTXH của SV 69 năm nhất trên toàn mẫu Điểm trung bình, tỷ lệ từng yếu tố trong nhóm yếu tố xã hội 9 Bảng 2.9 ảnh hưởng đến quyết định chọn ngành CTXH của SV năm 71 nhất trên toàn mẫu iv
- Điểm trung bình, tỷ lệ từng yếu tố trong yếu tố môi trường 10 Bảng 2.10 THPT và môi trường ĐH ảnh hưởng đến quyết định chọn 74 ngành CTXH của SV năm nhất trên toàn mẫu Điểm trung bình, tỷ lệ từng yếu tố trong yếu tố đặc điểm 11 Bảng 2.11 ngành CTXH ảnh hưởng đến quyết định chọn ngành CTXH 79 của SV năm nhất trên toàn mẫu So sánh các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định chọn ngành 12 Bảng 2.12 83 CTXH của SV theo đặc điểm khách thể Sự khác biệt có ý nghĩa của các yếu tố trong nhóm yếu tố 13 Bảng 2.13 gia đình, xã hội, môi trường THPT và ĐH ảnh hưởng đến 87 quyết định chọn ngành CTXH theo từng trường ĐH Sự khác biệt có ý nghĩa của các yếu tố trong nhóm yếu tố xã 14 Bảng 2.14 hội ảnh hưởng đến quyết định chọn ngành CTXH theo năm 90 sinh Sự khác biệt có ý nghĩa của các yếu tố trong nhóm yếu đặc 15 Bảng 2.15 điểm cá nhân ảnh hưởng đến quyết định chọn ngành CTXH 91 theo trường hợp xét tuyển ĐH Sự khác biệt có ý nghĩa của các yếu tố trong nhóm yếu tố môi trường THPT và môi trường ĐH và nhóm yếu tố đặc 16 Bảng 2.16 92 điểm ngành CTXH ảnh hưởng đến quyết định chọn ngành CTXH theo điều kiện kinh tế gia đình Sự tương quan giữa mức độ hài lòng và sự tham gia của SV 17 Bảng 2.17 96 vào quyết định chọn ngành Lý do hài lòng/ phân vân/ không hài lòng với quyết định 18 Bảng 2.18 97 chọn ngành CTXH v
- Các biện pháp để góp phần định hướng tốt hơn cho HS lựa 19 Bảng 2.19 99 chọn ngành CTXH vi
- MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN i LỜI CẢM ƠN ii DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT iii DANH MỤC CÁC BẢNG iv MỤC LỤC vii PHẦN MỞ ĐẦU - 1 - 1. Lý do chọn đề tài - 1 - 2. Mục đích nghiên cứu - 2 - 3. Giới hạn đề tài - 3 - 4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu - 3 - 4.1. Đối tượng - 3 - 4.2. Khách thể - 3 - 5. Giả thuyết khoa học - 3 - 6. Nhiệm vụ nghiên cứu - 3 - 7. Phương pháp nghiên cứu - 4 - 7.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận - 4 - 7.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn - 4 - CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN QUYẾT ĐỊNH CHỌN NGÀNH CTXH - 6 - 1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề - 6 - 1.1.1. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài - 6 - 1.1.2. Tình hình nghiên cứu trong nước - 13 - 1.2. Cơ sở lý luận các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định chọn ngành - 17 - 1.2.1. Các khái niệm cơ bản - 17 - 1.2.2. Đặc điểm tâm lý trong lựa chọn ngành ở giai đoạn HS THPT - 20 - 1.2.3. Tính chất của việc lựa chọn ngành - 23 - 1.2.4. Quá trình ra quyết định chọn ngành - 26 - 1.2.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định chọn ngành - 31 - 1.3. Cơ sở lý luận các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định chọn ngành CTXH của SV năm nhất ở một số trường ĐH tại TP. HCM - 35 - 1.3.1. Khái niệm CTXH - 35 - 1.3.2. Công tác đào tạo CTXH - 37 - vii
- 1.3.3. Mục đích của CTXH - 38 - 1.3.4. Chức năng, nhiệm vụ của CTXH - 41 - 1.3.5. Các yêu cầu về phẩm chất đối với một nhân viên CTXH - 42 - 1.3.6. Các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định chọn ngành CTXH - 44 - Tiểu kết chương 1 - 51 - CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN QUYẾT ĐỊNH CHỌN NGÀNH CTXH CỦA SV MỘT SỐ TRƯỜNG ĐH TẠI TP. HCM - 52 - 2.1. Tổ chức nghiên cứu - 52 - 2.1.1. Mẫu nghiên cứu - 52 - 2.1.2. Mô tả công cụ đo lường - 53 - 2.2. Kết quả nghiên cứu - 57 - 2.2.1. Thống kê về khách thể nghiên cứu của đề tài - 57 - 2.2.2. Hệ số tin cậy của thang đo - 60 - 2.2.3. Mức độ hiểu biết của SV về ngành CTXH - 61 - 2.2.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định chọn ngành CTXH của SV năm nhất một số trường ĐH tại TP. HCM và so sánh giữa các nhóm theo đặc điểm của khách thể - 65 - 2.2.5. Sự hài lòng với quyết định chọn ngành CTXH của SV năm nhất - 95 - 2.2.6. Các biện pháp để góp phần định hướng tốt hơn cho HS lựa chọn ngành CTXH - 98 - Tiểu kết chương 2 - 102 - KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ - 104 - 1. Kết luận - 104 - 2. Kiến nghị - 105 - TÀI LIỆU THAM KHẢO - 108 - PHỤ LỤC 1 - 114 - PHỤ LỤC 2 - 115 - PHỤ LỤC 3 - 121 - PHỤ LỤC 4 - 122 - PHỤ LỤC 5 - 134 - viii
- PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Lựa chọn nghề nghiệp cho tương lai là một việc hết sức quan trọng. Nghề nghiệp không chỉ giúp chúng ta đảm bảo về nhu cầu thu nhập mà còn mà còn là cái để mỗi người thể hiện năng lực, hoài bão, góp phần vào sự phát triển của xã hội. Thế nhưng, lựa chọn ngành nghề như thế nào là một chuyện không hề đơn giản. Và tư vấn hướng nghiệp là vô cùng cần thiết. Nhưng không phải HS nào ở trường phổ thông cũng được định hướng nghề nghiệp một cách đúng đắn. Theo thống kê, hàng năm chúng ta có gần 450 nghìn cử nhân ĐH, CĐ tốt nghiệp ra trường, nhưng có đến 63% không có việc làm, 37% số còn lại có việc làm thì hầu hết phải đào tạo lại và có nhiều người không làm đúng nghề mình đã học (Báo Giáo dục, 2015). Và lựa chọn nghề nghiệp ở nước ta còn chịu ảnh hưởng từ rất nhiều yếu tố khác nhau, chi phối quá trình hướng nghiệp cho HS phổ thông. Và thực tế có rất nhiều SV khi bước vào ngưỡng cửa ĐH vẫn chưa thực sự hiểu rõ về ngành nghề mình đang theo đuổi. Vì vậy, có xác định được các yếu tố ảnh hưởng đó thì quá trình hướng nghiệp cho HS mới trở nên dễ dàng hơn. Đối với nhiều quốc gia trên thế giới, CTXH đã phát triển từ rất lâu và trở thành một nghề chuyên nghiệp. Tuy nhiên, ở Việt Nam nghề CTXH mới chỉ ở bước đầu hình thành, chưa được phát triển theo đúng ý nghĩa của nó trên tất cả các khía cạnh. Chỉ trong vòng mười năm trở lại đây, ngành CTXH mới thực sự được quan tâm và đầu tư phát triển mạnh mẽ tại Việt Nam. Cơ hội việc làm của ngành cũng rất đa dạng. Sau khi ra trường, cử nhân ngành CTXH có thể làm việc tại các trung tâm, các công ty xí nghiệp, bệnh viện, trong các lĩnh vực khác nhau như: sức khỏe, giáo dục, pháp luật, kinh tế, truyền thông, xã hội, văn hóa, môi trường hoặc làm việc trực tiếp tại các cơ sở nghiên cứu và đào tạo thuộc lĩnh vực KHXH và NV, các trung tâm đào tạo, kiểm huấn CTXH. Và tính đến năm 2015, trên cả nước đã có 42 trường đào tạo ngành CTXH. Hàng năm, có tới 2.500 cử nhân ngành CTXH ra trường. Tuy nhiên, theo ông Trần Anh Tuấn (2015), Phó Giám đốc Trung tâm Dự báo nhu cầu nhân lực và thông tin thị trường lao động thuộc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội “Số lượng trên là chưa đáp ứng được yêu cầu xã hội, còn quá ít trong khi nhu cầu thực tế về nguồn nhân lực là rất lớn”. Với nhu - 1 -
- cầu phát triển đó, trường ĐH Sư phạm TP.HCM cũng đã tuyển sinh ngành CTXH trong năm 2017 với chỉ tiêu là 120 SV. Là một ngành cần thiết, quan trọng và có nhu cầu nhân lực cao như thế nhưng để có thể gắn bó với CTXH không phải là một điều đơn giản. Chia sẻ tại buổi tọa đàm về ngành CTXH tại trường ĐH Mở TP.HCM, ông Trần Công Bình (2014), thành viên ban chủ nhiệm câu lạc bộ CTXH chuyên nghiệp TP.HCM nhấn mạnh: “Điều cốt yếu của người làm CTXH là phải yêu nghề, say mê với nghề và luôn mong muốn khám phá về các vấn đề của con người và cuộc sống. Hơn nữa, trong giai đoạn khởi đầu nghề nghiệp thì SV phải chịu được gian khổ mà thu nhập lại không cao. Chính vì vậy, nếu không có đam mê thì rất khó làm việc”. Vì những yếu đó, SV khi chọn ngành CTXH phải thực sự hiểu biết đủ về ngành và có tình yêu dành cho ngành chứ không chỉ lựa chọn dựa vào yếu tố nhu cầu nhân lực hay dựa theo yêu cầu ba mẹ, ý kiến bạn bè Bên cạnh đó, quan sát thực tế lại cho thấy, có một bộ phận không nhỏ SV chọn ngành CTXH như là một nguyện vọng “cứu cánh” khi kết quả kỳ thi ĐH không như kỳ vọng. Tuy nhiên thực tế này mới chỉ là sự nhìn nhận sơ bộ về các yếu tố tác động đến việc chọn ngành CTXH, vẫn chưa thể phản ánh đầy đủ, vì vậy cần có một nghiên cứu khảo sát để đánh giá rõ hơn về thực trạng. Với tất cả những lý do trên, đề tài “Các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định chọn ngành CTXH của SV một số trường ĐH tại TP.HCM” được lựa chọn để góp phần giúp các cán bộ quản lý ngành CTXH nói chung và Khoa Tâm lý học trường ĐH Sư phạm TP.HCM nói riêng có cái nhìn toàn diện hơn về thực trạng chọn ngành của SV CTXH. Từ đó tạo cơ sở để hoàn thiện và nâng cao chất lượng trong việc truyền thông, tuyển sinh và đào tạo ngành CTXH tại các trường. 2. Mục đích nghiên cứu Xác định thực trạng các yếu tố, mức độ ảnh hưởng của các yếu tố đến quyết định chọn ngành CTXH của SV năm nhất một số trường ĐH tại TP.HCM trên nền tảng tự đánh giá của SV và đề xuất kiến nghị để nâng cao chất lượng hoạt động giáo dục nghề nghiệp. - 2 -
- 3. Giới hạn đề tài Đề tài này được thực hiện trên SV hệ chính quy trường ĐH Sư phạm TP.HCM và một số trường khác trên địa bàn TP.HCM trong phạm vi ngành CTXH. Chỉ xác định các yếu tố và mức độ ảnh hưởng, đề xuất kiến nghị chứ không đi sâu vào thử nghiệm giải pháp can thiệp. 4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu 4.1. Đối tượng Quyết định chọn ngành CTXH của SV một số trường ĐH tại TP.HCM và các yếu tố ảnh hưởng. 4.2. Khách thể SV năm nhất ngành CTXH một số trường ĐH tại TP.HCM. 5. Giả thuyết khoa học Quyết định chọn ngành CTXH ở một số trường ĐH tại TP.HCM của SV năm nhất bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố liên quan đến hoạt động hướng nghiệp; một số SV chọn ngành CTXH vì muốn giải quyết một số vấn đề tâm lý, xã hội của bản thân, của người khác; một số SV chọn ngành chủ yếu do yếu tố liên quan đến cách thức tuyển sinh, cách xét kết quả kì thi ĐH, do yếu tố đặc điểm của Khoa, của nhà trường chi phối và một bộ phận SV chọn ngành mà vẫn chưa hoặc ít hiểu rõ ngành nghề. 6. Nhiệm vụ nghiên cứu Hệ thống hóa một số nghiên cứu lý luận về ngành, quá trình chọn ngành, quyết định chọn ngành, đặc điểm ngành CTXH, yếu tố ảnh hưởng đến quá trình chọn ngành CTXH Khảo sát thực trạng mức độ ảnh hưởng của các yếu tố đó đến quyết định chọn ngành CTXH của SV năm nhất một số trường ĐH tại TP.HCM. So sánh giữa các nhóm khách thể về các yếu tố tác động đến quyết định chọn ngành CTXH. - 3 -
- Trên cơ sở đó, đề xuất kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng hoạt động giáo dục nghề nghiệp cho SV ngành CTXH tại các trường ĐH. 7. Phương pháp nghiên cứu 7.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận Đọc, phân tích, tổng hợp các tài liệu, các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước về các yếu tố tác động đến việc chọn trường ĐH, CĐ; yếu tố ảnh hưởng đến quyết định chọn ngành, đặc điểm tâm lý trong hoạt động chọn nghề trên cả phương diện lý luận lẫn thực tiễn. Hệ thống hoá cơ sở lý luận cho đề tài như làm sáng tỏ các khái niệm, khái quát quá trình ra quyết định chọn ngành và xác định các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định chọn ngành CTXH của SV. 7.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn 7.2.1. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi Bảng hỏi được xây dựng nhằm tìm hiểu hệ thống các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định chọn ngành CTXH của SV năm nhất một số trường ĐH tại TP.HCM. Xác định được mức độ ảnh hưởng của các yếu tố đó và mức độ hiệu quả của công tác hướng nghiệp tại phổ thông. Trong đó cũng bao gồm xác định mức độ hiểu biết của các em về ngành CTXH mà mình đang theo đuổi từ đó đề ra kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng đào tạo nghề CTXH cho các trường ĐH. Đây là phương pháp nghiên cứu chính của đề tài. Bảng hỏi được xây dựng dựa trên cơ sở lý luận của đề tài, dựa trên các câu hỏi mở điều tra sơ bộ và các yêu cầu cơ bản về kỹ thuật soạn thảo công cụ nghiên cứu. Việc xây dựng bảng hỏi được tiến hành qua các giai đoạn sau: Giai đoạn 1: Trên những cơ sở lý luận của đề tài, tiến hành thiết kế bảng hỏi sơ khởi gồm 5 câu hỏi (trong đó 4 câu hỏi mở) liên quan đến quyết định chọn ngành của SV năm nhất CTXH. Sau đó, cho 30 SV năm nhất làm online để thu thập những thông tin cần thiết làm định hướng cho việc xây dựng bảng hỏi chính thức của đề tài. - 4 -
- Giai đoạn 2: Tiến hành xây dựng bảng hỏi chính thức dành cho SV năm nhất ngành CTXH tại các trường ĐH ở TP. HCM. Dựa trên kết quả xử lý bảng hỏi mở và cơ sở lý luận của đề tài. 7.2.2. Phương pháp phỏng vấn Phương pháp này được lựa chọn như một phương pháp bổ trợ minh họa cho số liệu thu được từ phương pháp điều tra bằng bản hỏi, sử dụng để điều tra sâu một số trường hợp tiêu biểu và thu thập thông tin một cách trực tiếp. Phỏng vấn sẽ được tiến hành trên SV năm nhất ngành CTXH ở 3 trường: ĐH Sư phạm TP.HCM, ĐH Mở TP. HCM, ĐH KHXH và NV TP. HCM. Một số câu hỏi phỏng vấn được soạn sẵn để định hướng cho việc phỏng vấn và một số câu hỏi phát sinh phụ thuộc vào câu trả lời của đối tượng được phỏng vấn, tình huống phỏng vấn. Các buổi phỏng vấn phải được sự đồng ý cho phép của khách thể. 7.2.3. Phương pháp thống kê Đề tài sử dụng phần mềm thống kê SPSS 20 để tính tần số, tỉ lệ phần trăm, điểm trung bình, độ lệch chuẩn và tiến hành kiểm nghiệm ANOVA, Chi- Square, để đánh giá thực trạng các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định chọn ngành CTXH của SV năm nhất một số trường ĐH tại TP. HCM và thực hiện các xử lý có liên quan đến vấn đề nghiên cứu. - 5 -
- CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN QUYẾT ĐỊNH CHỌN NGÀNH CTXH 1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Các nghiên cứu liên quan đến vấn đề hướng nghiệp thì rất đa dạng. Nhiều lý thuyết về chọn nghề cũng như các test chọn nghề đã xuất hiện từ rất lâu. Đặc biệt là khi xã hội ngày càng tiến bộ, nhiều ngành nghề mới xuất hiện thì nhu cầu đối với những nghiên cứu như thế càng lớn. Không chỉ vậy, nhiều tác giả còn quan tâm đến xu hướng cũng như vấn đề lựa chọn ngành nghề của HS. Đồng thời, theo thời gian, nhiều trường ĐH ngày càng phát triển và thậm chí còn có sự cạnh tranh với nhau thì các nghiên cứu về chọn trường ĐH đã được quan tâm. Trong phạm vi của đề tài này sẽ đề cập đến các khía cạnh chính: các nghiên cứu về vấn đề lựa chọn ngành nghề ở HS, các nghiên cứu về các quá trình chọn trường ĐH của HS, SV và các nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng đến việc chọn ngành của SV tại một số trường ĐH, CĐ. 1.1.1. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài 1.1.1.1. Các nghiên cứu về vấn đề lựa chọn ngành nghề ở HS, SV và các yếu tố ảnh hưởng đến việc chọn nghề Khi nghiên cứu về quá trình chọn ngành, đã có sự tham gia của nhiều nhà Tâm lý học. Đầu tiên có thể kể đến D.V. Tiedeman (1919 – 2004) là nhà Tâm lý học đầu tiên áp dụng hệ thống nhận thức luận để hiểu về quá trình ra quyết định nghề nghiệp của thanh niên. Ông đã khái quát được các giai đoạn cụ thể của quá trình này gồm: giai đoạn đoán trước (cá nhân thu thập thông tin, xuất hiện các lựa chọn, gạn lọc lựa chọn và đề xuất các phương án lựa chọn nghề nghiệp), tiếp đến là giai đoạn thực thi (cá nhân ra quyết định thực thi những phương án chọn nghề mà bản thân đã cân nhắc, gạn lọc) (dẫn bởi Phạm Mạnh Hà, 2011). Dựa vào kết quả nghiên cứu của D.V. Tiedeman thì Harren (1979) cũng đưa ra một mô hình quá trình quyết định nghề nghiệp theo các giai đoạn, gồm các giai đoạn cụ thể sau: nhận thức, lập kế hoạch, tập trung sự chú tâm và thực hiện. Bên cạnh đó, tác giả cũng đã chỉ ra được sự ảnh hưởng của các yếu tố cá nhân và hoàn cảnh đến tiến trình đi đến quyết định nghề nghiệp. Sau này, L.I.A. Rubina khi nghiên cứu kế hoạch đường đời của thanh niên Liên Xô thấy rằng khi động cơ - 6 -
- chọn nghề không gắn liền với đào tạo nghề nghiệp, mà chỉ chọn thi vào cho có học ở ĐH, thường xuất hiện ở những SV mà kế hoạch đường đời diễn ra chóng vánh, kế hoạch được sắp đặt trước khi đi thi khoảng 1 năm hay trước khi nộp đơn thi. Thường những người này không có định hướng xã hội rõ ràng cho tương lai, không có hứng thú nghề nghiệp ổn định. Như vậy là các tác giả nhóm này đã mô tả quá trình thực hiện quyết định nói chung và quyết định lựa chọn nghề nghiệp nói riêng bao gồm nhiều giai đoạn và thành phần khác nhau. Ngoài việc nghiên cứu về quá trình ra quyết định chọn ngành thì có rất nhiều tác giả lại quan tâm đến các yếu tố ảnh hưởng đến việc chọn ngành. F. Jonhson (1978) thì quan tâm đến tính cách của cá nhân trong quyết định chọn ngành. Ông thấy rằng, người thu thập thông tin hệ thống, thường tìm kiếm thông tin theo phương pháp có chủ định với một thái độ cẩn trọng trong công việc. Người thu thập thông tin tự phát, có xu hướng phản ứng một cách tức thời đối với bất kỳ thông tin nào họ gặp và định hướng tâm lý một cách nhanh chóng. Người xử lý thông tin hướng nội thường có xu hướng nghĩ đến các phương án và đạt đến quyết định trước khi bàn bạc điều đó với người khác. Còn người xử lý thông tin hướng ngoại là người có xu hướng bàn bạc các phương án với những người khác trước khi quyết định lựa chọn. Tuy đã chỉ ra được mối liên quan giữa kiểu tính cách và xu hướng hành vi lựa chọn nghề nhưng các tác giả trên đây vẫn chưa chỉ ra được bản chất của mối quan hệ này. Còn ba tác giả Lent, R. W., Brown, S. D. và Larkin, K. C. (1986) đã thực hiện đề tài “Tự tin vào năng lực bản thân trong dự đoán kết quả học tập và lựa chọn nghề nghiệp”. Đề tài này nghiên cứu trên 105 SV đang xem xét về lĩnh vực khoa học và công nghệ. Kết quả cho thấy tự tin vào năng lực bản thân đóng góp vào sự khác biệt duy nhất đáng kể trong việc dự đoán kết quả học tập, tính kiên trì cũng như là phạm vi lựa chọn nghề nghiệp. Cùng chú trọng vào yếu tố tự tin ở năng lực bản thân, Rotberg, H. L. ,Brown, D. và Ware, W. B. (1987) cũng đã nghiên cứu đề tài “Kỳ vọng về khả năng xây dựng sự nghiệp và nhận thức về phạm vi lựa chọn nghề nghiệp của SV CĐ cộng đồng”. Các kết quả cho thấy niềm yêu thích nghề nghiệp và các kỳ vọng về khả năng xây dựng sự nghiệp đã báo trước đáng kể phạm vi lựa chọn nghề nghiệp vượt lên trên và ngoài sự ngoài đóng góp của các biến phụ thuộc khác. Tương tự, niềm yêu thích nghề nghiệp với định hướng vai trò của giới tính đã dự đoán các kỳ vọng về khả năng của bản thân. Bên cạnh - 7 -
- đó, L.G Peretuatko (1991) lại chú ý đến xu hướng chọn nghề của HS và ảnh hưởng của môi trường tới những quyết định lựa chọn của các em. Sau năm 1991, bắt đầu có những nghiên cứu mang tính khái quát hơn, không chỉ chú trọng vào việc phân tích sâu rộng một hay hai yếu tố ảnh hưởng đến quyết định chọn ngành như các nghiên cứu trước đó. Tiêu biểu ở giai đoạn này phải kể đến Thomas P. Dick và Sharon F. Rallis (1991) với đề tài “Các nhân tố và ảnh hưởng trong việc lựa chọn nghề nghiệp của HS trung học” đã đề xuất một mô hình cho sự lựa chọn nghề nghiệp bao gồm cả những tác động trực tiếp và gián tiếp. Cha mẹ và giáo viên được nhìn nhận là có ảnh hưởng thường xuyên đến sự lựa chọn nghề nghiệp cho HS (cả nam lẫn nữ) có sự lựa chọn nghề về kỹ thuật và khoa học hơn là những người không chọn nghề nghiệp như vậy. Việc trả lương là yếu tố quan trọng hơn trong sự lựa chọn nghề nghiệp của nam giới nói chung và sự quan tâm thật sự là một yếu tố quan trọng hơn cho phụ nữ không lựa chọn nghề nghiệp về kỹ thuật hoặc khoa học. Giáo viên có thể đóng một vai trò đặc biệt quan trọng trong việc ảnh hưởng đến sự lựa chọn nghề nghiệp của một số nữ giới. Sự bình đẳng và khuyến khích trong việc tiếp cận toán học và khoa học chắc chắn là một điều kiện cần thiết nhưng lại không đủ để cải thiện sự tham gia của nữ giới trong khoa học và kỹ thuật. Tiếp theo, các tác giả Bathsheba K. Osoro, Norman E. Amundson và William A. Borgen thì lại chú trọng đến môi trường sinh sống khi nghiên cứu đề tài “Quyết định chọn nghề của HS trung học tại ĐH Kenya”. Kết quả cho thấy HS ở khu vực nông thôn chịu sự ảnh hưởng từ cha mẹ và thầy cô giáo khi chọn nghề, còn HS ở thành thị chịu sự ảnh hưởng của cha mẹ nhiều hơn là thầy cô giáo. Ngoài ra, yếu tố giới tính, khái niệm bản thân và mô hình nghề nghiệp là những yếu tố chính ảnh hưởng đến quyết định chọn nghề của HS trung học ở Kenya (dẫn bởi Ngô Minh Duy, 2011). Cả hai nghiên cứu trên đều đã đưa ra các yếu tố cơ bản và mức độ ảnh hưởng của chúng đến việc chọn ngành của HS, SV làm nền tảng cho các đề tài nghiên cứu sau này. Khi tìm hiểu các yếu tố ảnh hưởng đến việc chọn nghề ở những ngành nghề cụ thể của HS, SV thì phải kể đến các đề tài cụ thể dưới đây. Trước hết là Brumbaugh, Sherron M. (2004) với đề tài “Sự lựa chọn nghề giáo viên dàn nhạc có dây của HS trung học.” Đề tài nghiên cứu đã khảo sát trên 1863 HS lớp 11 và 12 tại phía Bắc bang Texas (Mỹ). Đề tài đã đi đến kết luận rằng, số lượng HS nữ chọn nghề giáo viên dàn nhạc có dây nhiều hơn so với số lượng HS - 8 -
- nam. HS chọn nghề giáo viên dàn nhạc có dây là do: sở thích cá nhân, giúp ích cho xã hội, tạo một hình mẫu tích cực về giáo viên dàn nhạc có dây cho các em nhỏ và đó là nghề truyền thống của gia đình. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng HS không chọn nghề giáo viên dàn nhạc có dây là do lương quá thấp. Gregory Boland & Andrea Cilloni (2008) nghiên cứu “Những yếu tố ảnh hưởng đến việc lựa chọn ngành kế toán của SV ở Úc”, nghiên cứu được thực hiện với nhóm SV quốc tế đến từ nhiều nước khác nhau và tìm hiểu sự khác biệt của các yếu tố tác động đến việc lựa chọn ngành kế toán ở những SV có đặc điểm về khả năng sáng tạo khác nhau. Gần đây, thì có Darren Fizer (2013) với luận văn Thạc sĩ “Các yếu tố ảnh hưởng đến sự lựa chọn nghề nghiệp của SV ĐH tham gia vào ngành Nông nghiệp tại ĐH Tennessee”. Đề tài khảo sát trên 128 nghiên cứu sinh năm nhất của ĐH Tennessee. Theo cuộc khảo sát này, nghiên cứu sinh bị ảnh hưởng nhiều nhất bởi gia đình khi chọn một trường ĐH với tỉ lệ 22%, 21% thì đã chọn "một sự nghiệp đáng khen ngợi" là yếu tố ảnh hưởng và 20% chọn "kinh nghiệm trong FFA / 4-H" (FFA và 4-H là các câu lạc bộ nông nghiệp) là những yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến sự lựa chọn của họ. Các nghiên cứu sinh hoàn thành bảng hỏi đã có một cách nhìn tích cực về nghề nghiệp của họ. Và họ cũng tin là có nhiều cơ hội nghề nghiệp tuyệt vời trong ngành nông nghiệp. Như vậy, với mỗi ngành nghề, yếu tố ảnh hưởng đến việc chọn ngành tuy có một vài điểm tương đồng nhưng vẫn có sự khác biệt nhất định do đặc tính khác nhau giữa các ngành nghề này. Hướng nghiên cứu trên được nhiều sự quan tâm từ các tác giả khác nhau. Các tác giả đã ghi nhận rất nhiều các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình chọn lựa ngành nghề, từ yếu tố bên trong cho đến các tác động bên ngoài. Có những nghiên cứu đã đi sâu vào phân tích một trong các yếu tố bên trong – tự tin vào năng lực bản thân và kết quả cho thấy đó cũng là yếu tố tác động đáng kể đến việc chọn lựa ngành nghề. Các giai đoạn chọn ngành nghề cũng được khái quát thông qua một vài nghiên cứu. Tuy nhiên, yếu tố như nhu cầu nhân lực của xã hội hay vị thế của các ngành nghề chưa được quan tâm và đi sâu vào nghiên cứu dưới dạng các yếu tố tác động đến quá trình chọn ngành nghề của HS, SV. - 9 -
- 1.1.1.2. Các nghiên cứu về quá trình chọn trường ĐH của HS, SV Khi nghiên cứu quá trình chọn trường ĐH của HS, SV, Các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình lựa chọn trường ĐH cũng đã được khái quát. Có thể kể đến Kohn, Manski và Mundel (1974) với đề tài “Một mô hình ba giai đoạn trong quá trình chọn trường” (dẫn bởi Roslyn Louise Kelly Beswick 1989) . Kết quả nghiên cứu cho thấy mối quan tâm của giai đoạn đầu là lựa chọn đi học từ trường về nhà hoặc sống trong kí túc xá. Lựa chọn này được xác định bởi khoảng cách từ nhà đến trường, thu nhập gia đình, và các biến số khác. Giai đoạn thứ hai liên quan đến sự lựa chọn trường ĐH "tốt nhất", với quyết định cư trú được đưa ra ở giai đoạn đầu tiên. Trường ĐH "tốt nhất" bị ảnh hưởng bởi các biến số sau: học phí, tiền cơm và tiền phòng, khả năng trung bình của SV, sự rộng mở của các lĩnh vực, thu nhập mỗi SV, khả năng kinh tế của gia đình, và khoảng cách từ trường ĐH. Giai đoạn thứ ba là lựa chọn có nên ghi danh vào trường ĐH "tốt nhất" này hay không. Các biến số ảnh hưởng đến giai đoạn này là được quyết định bởi cách giáo dục của phụ huynh, giới tính HS, thu nhập của gia đình, và sự hấp dẫn của việc lựa chọn trường ĐH "tốt nhất". Quan điểm của Kohn, Manski, và Mundel về quá trình tuyển chọn là nghiên cứu đầu tiên tập trung vào cách tiếp cận 3 giai đoạn của quy trình chọn trường ĐH và thường được đề cập đến trong các nghiên cứu sau này. Các phân tích chi tiết quan trọng đầu tiên của quá trình lựa chọn trường ĐH được phát triển bởi Lewis và Morrison (1975). Ở nghiên cứu này, các HS lớp 12 đã được phỏng vấn mỗi tuần trong suốt năm cuối cấp ở trường trung học. Nghiên cứu đã cung cấp một danh sách 13 thành phần hoặc các giai đoạn trong quá trình lựa chọn trường ĐH. Một nghiên cứu sâu rộng của Bowers và Pugh (1983) đã khảo sát 4000 SV ĐH Indiana và cha mẹ của họ để xác định và xếp hạng 22 ảnh hưởng được xem xét trong quá trình lựa chọn trường ĐH. Hầu hết các nghiên cứu trước đây chỉ lấy ý kiến của SV, nghiên cứu này có tầm quan trọng đặc biệt vì không chỉ SV mà còn có cha mẹ họ được yêu cầu đánh giá các yếu tố ảnh hưởng. Còn trong nghiên cứu nổi tiếng của D.W. Chapman (1981) in trên Tạp chí của trường ĐH bang Ohio – Mỹ về “Kiểu lựa chọn trường của các SV” thì cho rằng các yếu tố cố định của trường ĐH như: vị trí địa lý, chính sách hỗ trợ về chi phí, học phí, môi trường ký túc xá sẽ có ảnh hưởng đến quyết định chọn trường của HS. Ngoài ra Chapman nhấn mạnh đến ảnh hưởng của sự nỗ lực của các trường đến quyết định lựa chọn trường của HS. Yếu tố bản thân là một trong những - 10 -
- yếu tố ảnh hưởng đến sự lựa chọn trường của họ. Còn Roslyn Louise Kelly Beswick (1989) với Luận án “Các yếu tố liên quan đến sự lựa chọn của SV trong quy trình lựa chọn trường ĐH” của Khoa Giáo dục học, ĐH Lethbridge ở Alberta. Nghiên cứu được thực hiện trên SV các trường như: ĐH Alberta, ĐH Lethbridge và CĐ Camrose Lutheran ở Alberta, miền Tây Canada. Phát hiện chính của nghiên cứu này cho thấy cha mẹ, đặc biệt là những người mẹ, có ảnh hưởng nhất đến quá trình chọn trường của ĐH của con em mình. SV ĐH Alberta đánh giá cao danh tiếng của trường, danh tiếng của các chương trình, các khóa học được cung cấp tại trường, và thêm nữa, yếu tố gần nhà là những yếu tố quan trọng trong sự lựa chọn của họ. Còn những SV theo học các trường ĐH nhỏ có xu hướng coi trọng quy mô của trường và môi trường học tập. Các cơ sở nhỏ hơn dường như thu hút những HS mà cha mẹ họ có trình độ học vấn thấp hơn những cha mẹ khác. Ngoài ra, nghiên cứu còn cho thấy rằng SV không tham gia vào phân tích một cách nghiêm túc tình hình kinh tế mặc dù một số lại xem xét đến yếu tố này khi lựa chọn một trường ĐH. Từ những nghiên cứu trên, có thể thấy đặc điểm trường học, ý kiến cha mẹ, đặc điểm cá nhân là những yếu tố ảnh hưởng đến quyết định chọn trường ĐH của HS, SV. Thời gian gần đây thì có Muhamad Abduh và Zainurin Bin Dahari (2011) với nghiên cứu “Các yếu tố ảnh hưởng đến sự lựa chọn của SV quốc tế đối với các trường ĐH ở Malaysia”. Có 135 SV quốc tế đã tốt nghiệp ĐH tham gia nghiên cứu này thông qua khảo sát trực tiếp. Nghiên cứu cho thấy "các chương trình học có sẵn" là yếu tố số một ảnh hưởng đến sự lựa chọn của SV quốc tế để học tập sau ĐH tại các trường ĐH ở Malaysia. Có sự khác biệt giữa SV từ các nước châu Á và phương Tây trong việc xếp hạng tầm quan trọng của những yếu tố đó. "Giá học phí", "cơ sở vật chất", và "cán bộ giảng dạy xuất sắc" là các yếu tố nối tiếp yếu tố "chương trình học có sẵn" trong bảng xếp hạng các yếu tố quan trọng. Còn Loren Agrey and Naltan Lampadan (2014) với nghiên cứu “Các yếu tố quyết định đóng góp vào việc lựa chọn trường ĐH của SV” đã khảo sát trên 261 người từ trung tâm Thái Lan. Nghiên cứu này đã đưa 5 yếu tố ảnh hưởng đáng kể đến quá trình quyết định tham dự vào ĐH: hệ thống hỗ trợ về vật chất (hiệu sách, phòng tư vấn/hướng dẫn) cũng như phi vật chất (học bổng, khoản tín dụng ); môi trường học tập (môi trường học tập hiện đại, cơ sở vật chất, danh tiếng, khuôn viên xinh đẹp, thư viện và phòng máy vi tính) và triển vọng nghề; trang thiết bị thể - 11 -
- thao; chương trình sống tốt cho SV (các dịch vụ chăm sóc sức khỏe, chỗ ở) và các hoạt động ngoại khóa; cuối cùng là một môi trường an toàn và thân thiện. Ngoài ra còn có các nghiên cứu khác như Elfrida Manoku, PhD Candidate (2015) với đề tài “Các yếu tố ảnh hưởng đến việc chọn trường ĐH của SV Albania”. Navrátilová Tereza (2013) với đề tài “Sự phân tích và so sánh các yếu tố ảnh hưởng đến việc chọn trường ĐH”. Nghiên cứu này đã áp dụng thuyết hành vi dự định vào trong một quá trình lựa chọn trường ĐH. Cũng giống như hướng nghiên cứu trên, hướng nghiên cứu này cũng đã đề cập và xếp loại các yếu tố ảnh hưởng. Với bối cảnh nhiều trường ĐH, CĐ được xây dựng và phát triển như hiện nay, một ngành nghề có thể được đào tạo tại hàng loạt các trường khác nhau do đó hướng nghiên cứu này sẽ giúp các nhà giáo dục có cái nhìn toàn diện hơn về nhu cầu liên quan đến môi trường học tập của HS, SV. 1.1.1.3. Các nghiên cứu liên quan các yếu tố ảnh hưởng đền việc chọn nghề CTXH Trong lĩnh vực CTXH, có không nhiều các nghiên cứu liên đến các yếu tố ảnh hưởng đến việc lựa chọn ngành nghề này, có thể nêu một số nghiên cứu điển hình như sau: Đầu tiên là các tác giả đến từ trường ĐH Portland, Mỹ - Helen Ellsworth, James B. Epley, Carolyn Hanson, Robert L. Morasch, Roberta Roth, Norma Rowe, Richard H. Stowell, Fredrick H. Swan, Joanna M. Wadsworth, và Aurita Zeigler (1968) đã nghiên cứu “Các đặc điểm liên quan đến việc lựa chọn CTXH như một nghề nghiệp”. Trong nghiên cứu, một điểm được lưu ý là những người chọn theo nghề CTXH thì lựa chọn khá trễ trong con đường học vấn của họ. Rất ít người quyết định CTXH như là một nghề nghiệp trước khi vào ĐH. Các khóa học tại trường, đội ngũ giảng viên, kinh nghiệm trực tiếp về CTXH là những ảnh hưởng quan trọng trong việc chọn nghề CTXH. Các chương trình tuyển dụng ít có ảnh hưởng đến sự quan tâm của họ về nghề này. Rất ít người có họ hàng thân thiết làm nhân viên CTXH. Frieda Kepple Heim (1994) đã nghiên cứu “Các yếu tố ảnh hưởng đến nam giới trong việc chọn CTXH như một nghề nghiệp”. Nghiên cứu đã thăm dò các yếu tố nào ảnh hưởng đến lựa chọn của nam nhân viên CTXH trong việc họ chọn CTXH là một nghề chuyên nghiệp và đưa ra một số đặc điểm vốn có cản trở họ trong ngành nghề này. Tuy nhiên, mức lương, - 12 -
- mức chênh lệch nữ - nam cao, và cái mác "khan hiếm" đối với những nhân viên CTXH là nam giới đã được khảo sát, có vẻ như không thực sự to tát như dự kiến. Thay vào đó thì những hình dung về ngành, vị trí của ngành CTXH so với các ngành khác và khuôn mẫu nam giới trong xã hội Mỹ được xem như là những yếu tố trong việc cản trở những chàng trai trẻ tuổi tham gia và ở lại lâu dài với nghề. Các nghiên cứu trên đã khái quát được một số yếu tố ảnh hưởng đến việc chọn nghề CTXH và mức độ ảnh hưởng của chúng. Có thể thấy việc chọn và ở lại lâu dài với nghề CTXH còn nhiều yếu tố gây cản trở từ quan niệm xã hội cũng như là vị thế của ngành. Nhu cầu tuyển dụng thời điểm bấy giờ cũng không tác động sâu rộng đến quyết định chọn nghề CTXH. Tuy nhiên, những nghiên cứu trên đều đã ra đời từ rất lâu (trước năm 1995). Và đến thời điểm hiện tại thì ngành CTXH đã có nhiều thay đổi về nhận định, vị trí ngành nghề, nhu cầu nhân lực, do đó cần có nhiều nghiên cứu mới hơn để phù hợp hơn với bối cảnh hiện nay. Nhìn chung, các công trình nghiên cứu trên thế giới có sự phân tách rõ ràng giữa việc hướng nghiệp, chọn ngành nghề và việc chọn trường ĐH. Thông qua quá trình nghiên cứu trên, nhiều mô hình chọn nghề cũng như là chọn trường đã được khái quát. Nhiều yếu tố ảnh hưởng đến quyết định chọn ngành học ở ĐH, lựa chọn môi trường học tập cũng đã được xác định mức độ ảnh hưởng. Có thể nói, những nghiên cứu trên đã mở đường và tạo điều kiện cho các nghiên cứu sau này của các tác giả tại Việt Nam. 1.1.2. Tình hình nghiên cứu trong nước 1.1.2.1. Nghiên cứu liên quan đến vấn đề chọn ngành nghề ở HS và các yếu tố ảnh hưởng đến việc chọn nghề Theo hướng nghiên cứu về động cơ chọn nghề đã có sự tham gia của nhiều tác giả khác nhau. Đầu tiên là tác giả Nguyễn Ngọc Bích (1979), vơi luận án Phó Tiến sĩ “Động cơ chọn nghề của thanh thiếu niên” đã nhận định rằng, ở thanh niên, HS động cơ chọn nghề bên trong nổi bật hơn động cơ bên ngoài. Đối với nữ thì trước tiên là yêu cầu của nhà nước, vị trí xã hội của nghề và thực hiện được khả năng của mình. Đối với nam thì việc thực hiện khả năng của bản thân là động cơ đầu tiên trong chọn nghề, tiếp đến là tính chất quan trọng của nghề, hứng - 13 -
- thú với nghề. Đối với nữ thì trước tiên là yêu cầu của nhà nước, vị trí xã hội của nghề và thực hiện được khả năng của mình. Sau đó, Nguyễn Thị Thiều Anh (1996) với đề tài “Tìm hiểu động cơ chọn nghề của HS lớp 12 tại một số trường THPT tại nội thành TP. HCM” cho thấy, HS chọn nghề phù hợp với sở thích, nguyện vọng, phù hợp với khả năng và hiểu biết là yếu tố ảnh hưởng đến quyết định chọn nghề. Gần đây, thì có Luận văn thạc sĩ Ngô Minh Duy (2011) “Động cơ chọn nghề của HS lớp 12 một số trường ở TP. HCM” đã đi sâu vào nghiên cứu các loại động cơ chọn nghề nghiệp khác nhau ở HS. Có 7 yếu tố thúc đẩy HS chọn nghề và có thể chia làm 2 nhóm: động cơ cá nhân và động cơ công việc. Trong đó yếu tố sở thích và nguyện vọng cá nhân là yếu tố thúc đẩy HS chọn nghề. Nguyễn Văn Tòng (2015) đã nghiên cứu “Động cơ lựa chọn nghề nghiệp của HS lớp 12 trên địa bàn huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang” với mục đích chỉ ra thực trạng những động cơ lựa chọn nghề nghiệp và mức độ biểu hiện của những động cơ này ở HS lớp 12 trên địa bàn nghiên cứu. Đề tài tập trung vào 5 động cơ chính: động cơ kinh tế, động cơ tự khẳng định, động cơ trách nhiệm xã hội, động cơ phát triển năng lực, động cơ thụ động trong việc lựa chọn nghề nghiệp của HS. Với hướng nghiên cứu động cơ chọn nghề, các động cơ cũng đã được khái quát và phân loại một cách cụ thể. Ngoài nghiên cứu động cơ chọn nghề, có nhiều tác giả đã đi sâu và phân tích tâm lý và các yếu tố ảnh hưởng đến việc chọn nghề của HS, SV. Ngô Thị Kim Ngọc (1996) với luận văn tốt nghiệp ĐH “Tìm hiểu hiện trạng và nguyên nhân chọn nghề của HS lớp 11 và 12 nội thành TP.HCM”, đã nghiên cứu trên 323 HS khối lớp 11, 12 tại 2 trường THPT Hùng Vương và THPT Nguyễn Thái Bình. Kết quả nghiên cứu cho thấy HS chọn nghề ở lĩnh vực kinh tế và ngoại thương là nhiều nhất vì theo các em đây là những nghề có triển vọng tương lai. Các em chịu ảnh hưởng lớn nhất từ những người đang hành nghề trong việc chọn nghề. Ngoài ra, các em còn lựa chọn nghề dựa trên hứng thú và khả năng của bản thân. Kết quả nghiên cứu không có sự khác biệt đáng kể ở nam và nữ. Cùng nhận định với Ngô Thị Kim Ngọc, Nguyễn Hương Lan (2010) cho rằng ngành kinh tế được các em quan tâm nhiều nhất, các em hướng tới những đặc điểm như tiền lương cao, khả năng thăng tiến trong nghề và dễ xin việc làm mà ngành nghề mang lại. Phan Mạnh Hà (2011) với luận án Tiến sĩ “Đặc điểm tâm lý trong hoạt động chọn nghề của HS lớp 12 THPT hiện nay” đã bổ sung thêm những yếu tố bên ngoài như nhu cầu của thị trường lao động, giáo dục của gia đình, công tác hướng nghiệp của nhà trường, - 14 -
- mối quan hệ bạn bè đều có ảnh hưởng nhất định đến đặc điểm tâm lý của HS lớp 12 khi chọn nghề. Tuy nhiên, mức độ ảnh hưởng không cao. Trong khi đó những yếu tố bên trong như động cơ, định hướng giá trị của HS khi chọn nghề vẫn là nhân tố chi phối và quyết định đặc điểm tâm lý của họ khi lựa chọn và quyết định nghề nghiệp. Từ đây, có thể thấy rằng ngoài việc quan tâm đến các yếu tố cá nhân, các em còn dành sự quan tâm triển vọng nghề nghiệp, cũng như cơ hội việc làm, mức lương mà nghề mang lại. Bên cạnh yếu tố tác động đến việc chọn nghề của HS thì về phía chọn nghề của SV cũng được nhiều tác giả quan tâm với sự đa dạng ngành nghề khác nhau. Võ Thị Hồng Trước (1994), với đề tài “Tìm hiểu động cơ thi vào sư phạm của giáo sinh năm I, năm II tại một số trường sư phạm trong Tp. Hồ Chí Minh” đã nghiên cứu trên mẫu 295 giáo sinh tại các trường: ĐH Sư phạm TP. HCM, Trung học Sư Phạm TP. HCM và CĐ Sư Phạm trung ương III. Kết quả nghiên cứu cho thấy động cơ thi vào các trường sư phạm chiếm ưu thế là động cơ bên trong. Nguyễn Thị Lan Hương (2012) đã nghiên cứu “Các yếu tố ảnh hưởng đến động cơ chọn ngành quản trị doanh nghiệp của SV trường CĐ Kinh tế Kế hoạch Đà Nẵng”. Cuộc nghiên cứu cho thấy đối với những SV đạt ở nguyện vọng 1 thì có 2 nhân tố ảnh hưởng đến động cơ chọn ngành là cơ hội nghề nghiệp và đối tượng tham chiếu. Điều này chứng tỏ khi những đối tượng tham chiếu có sự ảnh hưởng nhất định đến lựa chọn ngành học của SV, và nhất là khi họ có nhiều thời gian cũng như cơ hội lựa chọn. Còn khi không đạt được nguyện vọng 1, tức là khi SV không còn nhiều cơ hội lựa chọn thì họ ưu tiên cho cơ hội nghề nghiệp lên hàng đầu mà ít có sự tham khảo ý kiến. Lê Thị Thanh (2013), với luận văn Thạc sĩ “Đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến sự lựa chọn ngành nghề của SV hệ CĐ trường CĐ nghề Công nghiệp Hà Nội” được tiến hành 1008 SV 3 khóa của 5 khoa: Công nghệ thông tin; Cơ khí; Kế toán; Điện; Điện tử và Công nghệ ô tô. Nghiên cứu đã phân loại 5 nhóm nhân tố ảnh hưởng đến sự lựa chọn ngành nghề của SV tại trường là: yếu tố con người, yếu tố xã hội, yếu tố nghề nghiệp, yếu tố nhu cầu thị trường, yếu tố nhà trường. Kết quả khảo sát cho thấy, nhóm nhân tố ảnh hưởng thấp nhất đến sự lựa chọn ngành nghề của SV 3 khóa là nhóm yếu tố con người (bản thân, người thân, các mối quan hệ cộng đồng ngoài xã hội), trong đó yếu tố người thân có ảnh hưởng thấp nhất đối với SV. Nhóm nhân tố ảnh hưởng nhiều nhất là nhóm yếu tố xã hội (nghề nghiệp, nhu cầu thị trường, nhà trường) trong đó yếu tố nhà trường là yếu tố ảnh hưởng cao - 15 -
- nhất đối với các SV. Vũ Anh Tùng (2015), với luận văn Thạc sĩ “Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến việc chọn ngành học Quản trị Kinh doanh của SV trường ĐH Kinh tế - Kỹ thuật Bình Dương”, qua nghiên cứu sơ bộ tác giả đã đề xuất mô hình lý thuyết về chọn ngành học với 6 yếu tố tác động đến việc chọn ngành học Quản trị kinh doanh của SV trường ĐH Kinh tế - Kỹ thuật Bình Dương bao gồm: đặc điểm cá nhân, các cá nhân có ảnh hưởng, đặc điểm trường ĐH, đặc điểm ngành học, nỗ lực giao tiếp của khoa và trường ĐH, sự mong đợi sau khi tốt nghiệp. Các ngành nghề được đề cập tại các nghiên cứu trên chủ yếu là nhóm ngành kinh tế, ít có sự tham gia của các nhóm ngành xã hội. Và vì vậy việc nghiên cứu về một ngành xã hội trong thời điểm hiện tại là điều cần thiết. Tóm lại, tại Việt Nam các nghiên cứu có sự phân bố đa dạng từ động cơ chọn ngành, tâm lý chọn ngành cho đến các yếu tố tác động đến việc chọn ngành. Nhìn chung, các ngành nghề được nghiên cứu chủ yếu thiên về khối kinh tế là chính và không chỉ tập trung nghiên cứu tại các trường ĐH ở TP. HCM mà còn phân bổ sang các tỉnh thành khác như Hà Nội, Bình Dương, Nghệ An, góp phần giúp cho người đọc có cái nhìn toàn diện. Tuy nhiên như đã nói, các nhóm ngành về xã hội cần được quan tâm và nghiên cứu sâu rộng hơn. 1.1.2.2. Các nghiên cứu liên quan các yếu tố ảnh hưởng đền việc chọn nghề CTXH Về ngành CTXH, Nguyễn Hữu Hùng (2015) với đề tài “Xu hướng chọn nghề của SV ngành CTXH” đã phỏng vấn sâu 30 SV năm thứ nhất (ĐH khoá 10) chuyên ngành CTXH, Trường ĐH Lao động – Xã hội. Từ kết quả nghiên cứu trên, có thể thấy, lý do các SV đến với ngành CTXH chủ yếu vì sở thích, mong muốn được khẳng định bản thân và giúp đỡ mọi người. Tuy vậy, cơ sở lựa chọn nghề nghiệp của các em chủ yếu dừng lại ở sở thích nói trên mà hầu như không tính đến năng lực nghề nghiệp của bản thân cũng như yêu cầu mang tính đặc thù về phẩm chất của ngành CTXH. Hiểu biết của SV CTXH về ngành nghề mình đang theo học cũng chưa thật sâu sắc, đầy đủ. Hầu như các em không kể ra được dù chỉ là tương đối chính xác những yêu cầu, phẩm chất tâm lý mà ngành CTXH cần, không nhận thức đúng đắn về điều kiện, phương tiện làm việc của cán bộ CTXH. Khía cạnh được các em SV nhận thức đầy đủ nhất về ngành của mình là cơ hội việc làm khi ra trường. Điều đó cho thấy, “đầu ra” của quá trình học tập luôn là sự quan tâm hàng đầu của các em SV. - 16 -
- Trong giới hạn tìm hiểu của mình, tác giả không tìm thấy nhiều nghiên cứu về hướng này được công bố rộng rãi. Với đề tài trên, phương pháp nghiên cứu chưa được đa dạng. Tuy nhiên, một vài yếu tố tác động đến xu hướng chọn ngành CTXH của SV đã được đưa ra. Có thể thấy, đây là hướng nghiên cứu còn nhiều vấn đề để khai thác và cần được mở rộng phạm vi nghiên cứu trên nhiều địa bàn khác nhau khi mà CTXH hiện nay được xem là ngành nghề cần thiết và luôn trong tình trạng thiếu nhân lực. Nhìn chung, các nghiên cứu trong nước về các yếu tố ảnh hưởng đến việc chọn ngành tại các trường ĐH, CĐ rất đa dạng, trên nhiều khách thể khác nhau, nhiều ngành nghề khác nhau. Đa phần các nghiên cứu thiên về các yếu tố ảnh hưởng đến động cơ chọn ngành, việc chọn ngành và chưa nghiên cứu sâu về quyết định chọn ngành. Và với sự thiếu hụt các nghiên cứu về ngành CTXH thì tác giả hi vọng sẽ góp phần khái quát một cách chi tiết hơn các yếu tố tác động và mức độ tác động của các yếu tố đó đến quyết định chọn ngành CTXH của SV tại địa bàn TP. HCM. Do đó, đề tài “Các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định chọn ngành CTXH của SV một số trường ĐH tại TP. HCM” được chọn để thực hiện. 1.2. Cơ sở lý luận các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định chọn ngành 1.2.1. Các khái niệm cơ bản 1.2.1.1. Khái niệm nghề Khái niệm “nghề” là một khái niệm phổ biến với nhiều định nghĩa khác nhau. Dưới đây là một số những khái niêm tiêu biểu: Theo bản Phân loại Tiêu chuẩn Quốc tế về Nghề nghiệp (International Standard Classification of Occupation), “nghề là loại hình hoạt động phân biệt trong công việc chân tay hoặc không chân tay có thể giúp người ta một phương tiện kiếm sống” (ILO, 1990). Với định nghĩa này, nghề đã được chia thành hai nhánh chính: lao động chân tay và lao động trí óc. Theo từ điển Tiếng Việt thì giải thích nghề là “công việc chuyên làm theo sự phân công lao động của xã hội” (Phạm Hùng Việt, 2005). Nghề lúc này phục thuộc nhiều vào sự phân công của xã hội. Có thể hiểu nghề được hình thành dựa trên nhu cầu của xã hội là chính. - 17 -
- Theo E.A.Klimov “nghề là lĩnh vực sử dụng sức lao động vật chất và tinh thần của con người một cách có giới hạn, cần thiết cho xã hội (do sự phân công lao động mà có) nó tạo ra khả năng cho con người sử dụng sức lao động của mình để thu lấy những phương tiện cần thiết cho sự tồn tại và phát triển” (dẫn bởi Phạm Mạnh Hà, 2011). Theo định nghĩa trên, nghề có thể hiểu như là lĩnh vực trung gian giúp con người tận dụng sức lao động của mình để thu lại kết quả cần thiết, phục vụ cho các nhu cầu của cuộc sống. Theo Giáo trình Kinh tế Lao Động của PGS. TS. Mai Quốc Chánh và PGS. TS Trần Xuân Cầu (2009) thì “nghề là một dạng xác định của hoạt động trong hệ thống phân công lao động của xã hội, là toàn bộ kiến thức (hiểu biết) và kỹ năng mà một người lao động cần có để thực hiện các hoạt động xã hội nhất định trong một lĩnh vực nhất định”. Nghề lúc này đã được mở rộng ra về kiến thức lẫn kỹ năng trong một lĩnh vực nhất định. Người học nghề không chỉ dừng lại ở việc thành thạo các kỹ năng mà còn phải trang bị cho mình sự hiểu biết nhất định. Giáo trình Tâm lý học Lao động, Ths. Lương Văn Úc (2011) “nghề là một hình thức phân công lao động, nó được biểu thị bằng những kiến thức lý thuyết tổng hợp và thói quen thực hành để hoàn thành những công việc nhất định. Những công việc được sắp xếp vào một nghề là những công việc đòi hỏi kiến thức lý thuyết tổng hợp như nhau, thực hiện trên máy móc, thiết bị, dụng cụ tương ứng như nhau, tạo ra sản phẩm thuộc về cùng một dạng”. Cũng giống như khái niệm ở giáo trình Kinh tế Lao Động, theo khái niệm này, nghề cũng được chia làm lý thuyết và thực hành và phải là sự tổng hòa của hai yếu tố đó. Bên cạnh đó, nghề còn là một tập hợp những công việc nhỏ hơn và những công việc này cùng được xây dựng trên một nền tảng kiến thức. Ngoài ra theo Wikipedia, nghề còn là “việc mà một người sẽ phải cố gắng để làm tốt công việc của mình sao cho phù hợp với khả năng, trình độ, lòng đam mê đối với nghề. Là một lĩnh vực hoạt động lao động mà trong đó, nhờ được đào tạo, con người có được những tri thức, những kỹ năng để làm ra các loại sản phẩm vật chất hay tinh thần nào đó, đáp ứng được những nhu cầu của xã hội”. Khái niệm này đã chỉ ra để có thể làm nghề, thì con người cần phải có trình độ để đáp ứng lại yêu cầu của nghề nghiệp ấy và cần có một tình yêu với nghề. - 18 -
- Từ tất cả những khái niệm trên, có thể thấy, nghề lúc nào cũng đi đôi với kiến thức và kỹ năng. Có nhiều nghề khác nhau và được phân loại theo nhiều tiêu chí khác nhau. Trong một nghề có thể có nhiều công việc nhỏ khác nhau nhưng chung quy những công việc này đều trên một nền tảng kiến thức. Vậy tóm lại với đề tài này nghề là một lĩnh vực hoạt động theo sự phân công của lao động xã hội, nơi mà con người phải áp dụng các kiến thức và kỹ năng đã được học để tạo ra thu nhập cho bản thân và sản phẩm cho xã hội. 1.2.1.2. Khái niệm ngành Ngoài khái niệm “nghề” thì “ngành” cũng là một khái niệm quan trọng đối với phạm vi đề tài. Từ “ngành” xuất hiện rất nhiều tại các trường CĐ, ĐH. Trong thuật ngữ trường ĐH các nước Xã hội chủ nghĩa của Ủy ban quốc gia Liên Xô về giáo dục quốc dân năm 1998 thì “ngành là một lĩnh vực khoa học, kỹ thuật cho phép người học tiếp nhận những kiến thức và kỹ năng mang tính hệ thống cần có để thực hiện các chức năng lao động trong khuôn khổ của nghề cụ thể. Ngành phải được ghi trong văn bằng tốt nghiệp ĐH” (dẫn bởi Lê Thị Thanh, 2013). Theo khái niệm này, đào tạo các ngành học là để phục vụ cho lao động nghề nghiệp sau này. Theo Bảng phân loại quốc gia của Cộng hòa Belarut – ngành đào tạo và trình độ chuyên môn của Bộ đào tạo Belarut năm 2000 thì “ngành là một loại hình hoạt động lao động đòi hỏi những kiến thức và kỹ năng nhất định được thu nhận thông qua đào tạo hoặc kinh nghiệm thực tế” (dẫn bởi Lê Thị Thanh, 2013). Ngành học thường gắn liền với đào tạo và thông qua đào tạo để có một kiến thức và những kỹ năng phục vụ cho công việc. Còn theo Luật giáo dục ĐH của Việt Nam thì “ngành đào tạo là một tập hợp những kiến thức và kỹ năng chuyên môn của một lĩnh vực hoạt động nghề nghiệp, khoa học nhất định. Ngành đào tạo bao gồm nhiều chuyên ngành đào tạo” (Quốc Hội, 2012). Dưới ngành còn phân nhỏ ra các chuyên ngành khác nhau. Mà những chuyên ngành này có thể gắn bó mật thiết với những nghề nghiệp cụ thể sau này của mỗi người học. Theo từ điển tiếng Việt Phổ thông: “Ngành là lĩnh vực hoạt động về chuyên môn, khoa học, văn hóa, kinh tế” (Phạm Hùng Việt, 2005). Có thể kể đến một số ngành theo định nghĩa - 19 -
- trên như ngành cơ khí, ngành toán, ngành y tế, Trong cuộc sống hiện nay có rất nhiều ngành khác nhau, được đào tạo tại nhiều trường khác nhau. Và số lượng ngành cũng sẽ không ngừng tăng lên theo thời gian. Cuối cùng, theo TS. Dương Quang Tung - Nguyên Phó Viện trưởng Viện Khoa học tổ chức nhà nước, Bộ Nội vụ Trong thời kỳ của cơ chế kế hoạch hoá tập trung, bao cấp ở nước ta, “ngành được quan niệm là những chuyên ngành hẹp như: cơ khí, luyện kim, hoá chất, dệt may, thực phẩm v.v Rồi những năm tiếp theo, ngành lại được hiểu là công nghiệp nặng, công nghiệp nhẹ, nội thương, ngoại thương Trong những năm gần đây, ngành được hiểu là công nghiệp, nông nghiệp, thương mại ”. Theo tiến trình phát triển của xã hội, ngành được phân loại theo các tiêu chí và mức độ khác nhau. Và với quan niệm trên, ngành lúc này bao quát hơn và rộng lớn hơn các khái niệm còn lại. Từ những cách định nghĩa trên, có thể thấy ngành có sự rộng lớn như: công nghiệp, nông nghiệp, thương mại và cũng có thể sự cụ thể hơn như: ngành y, ngành tài chính, ngành sư phạm cũng giống như nghề, ngành gắn liền với kiến thức và kỹ năng nhất định. Nhưng nếu như nghề để chỉ những công việc cụ thể thì ngành bao quát hơn và có thể nói nghề là tập hợp con của ngành. Trong đề tài này, phạm vi ngành được giới hạn ở những ngành được đào tạo ở các trường ĐH, CĐ. Ngành thông qua quá trình đào tạo và học hỏi từ thực tế để có nền tảng kiến thức và kỹ năng phục vụ cho nghề nghiệp tương lai. 1.2.2. Đặc điểm tâm lý trong lựa chọn ngành ở giai đoạn HS THPT Để trở thành SV của một trường ĐH nào đó các em SV phải trải qua giai đoạn là HS THPT với hoạt động chủ đạo là hoạt động học tập hướng nghiệp để chọn cho mình một ngành học, hướng đến một nghề nghiệp tương lai. Hoạt động chọn ngành, hướng nghiệp này gắn liền với các đặc điểm tâm lý của các em trong giai đoạn HS THPT. HS THPT có sự phát triển tương đối hoàn thiện về mặt sinh lý như: hệ cơ xương, hệ tuần hoàn, hệ sinh dục, hệ thần kinh tạo điều kiện cho việc ổn đinh về mặc cảm xúc, tăng tính chủ định, tính độc lập và tính người lớn trong hoạt động nhận thức của các em. Đây là những điều - 20 -
- kiện để HS THPT có khả năng phân tích, đánh giá, quyết định trong quá trình chọn ngành của mình. Ngoài ra, môi trường học tập và sự mở rộng phạm vi bạn bè giúp các em có cơ hội tiếp xúc với nhiều bạn bè ở nhiều độ tuổi và ngành nghề khác nhau. Ngoài ra việc tiếp xúc với công tác hướng nghiệp của thầy cô, của các trường ĐH cũng giúp các em có cái nhìn tốt hơn về nghề nghiệp tương lai. Và hoạt động chọn ngành của HS có chủ động, tích cực và sáng tạo hay không là do nhận thức, thái độ và hành động của các em đối với ngành định lựa chọn có đầy đủ, sâu sắc, đúng đắn, mạnh mẽ và kiên cường hay không. Ngược lại, hoạt động chọn ngành của HS càng tích cực, chủ động, sáng tạo thì nhận thức, thái độ và hành động của các em đối với ngành dự định chọn càng đầy đủ, sâu sắc, đúng đắn, mạnh mẽ và kiên cường bấy nhiêu. Điều đó giúp chúng ta khẳng định: trên bình diện hoạt động, những đặc điểm tâm lý (nhận thức, thái độ, hành động đối với nghề định chọn) được bộc lộ ra chính trong quá trình diễn ra hoạt động chọn ngành của các em HS. Do đó, khi nói về hoạt động chọn ngành của HS THPT thì phải phân tích trên ba bình diện: nhận thức, thái độ và hành động. 1.2.2.1. Đặc điểm về nhận thức trong hoạt động chọn ngành Trong hoạt động chọn ngành, để đi đến một quyết định lựa chọn sáng suốt HS cần phải có đầy đủ những hiểu biết về nội dung lao động của ngành và những yêu cầu của chúng, những đặc điểm, phẩm chất của bản thân và nhu cầu nhân lực của thị trường lao động. Ba loại thông tin này trở thành đối tượng để các em HS nhận thức trong suốt quá trình tiến hành hoạt động chọn ngành của mình. Như đã trình bày, ở lứa tuổi THPT, các em có sự phát triển về mặt nhận thức với khả năng phân tích, tổng hợp và khái quát, với tính chủ định và chủ động sẽ góp phần để các em có thể nhận thức về ngành nghề một cách đầy đủ hơn. Các em cần nhận thức về những nhu cầu xã hội đối với ngành. - 21 -
- 1.2.2.2. Đặc điểm về thái độ trong hoạt động chọn ngành Thái độ đối với nghề nghiệp là sự đánh giá chung mang tính lâu dài của cá nhân về giá trị nghề nghiệp. Thái độ đó có thể là khuynh hướng phản ánh tích cực hoặc tiêu cực của HS đối với nghề nghiệp. Thái độ của HS trong hoạt động chọn ngành được biểu hiện ở sự đánh giá, phán xét, bình phẩm về các giá trị do ngành tạo ra phù hợp đến mức nào đối với nhu cầu của cá nhân, gia đình và xã hội, biểu hiện ở hứng thú và cảm xúc tích cực của cá nhân đối với các giá trị đó. Thái độ của HS trong hoạt động chọn ngành được bộc lộ ra bên ngoài ở xúc cảm, tình cảm, hứng thú với ngành dự định chọn, ở tính tích cực trong hành động nhằm tiếp cận với ngành đó. Thái độ biểu hiện ở sự quan tâm và hứng thú của cá nhân đối với ngành định lựa chọn. Hứng thú ngành của HS được hiểu là thái độ đặc biệt của HS đối với các giá trị và nội dung lao động của một ngành nhất định vừa có ý nghĩa đối với cuộc sống và hoạt động của các em, đồng thời mang lại niềm vui thích trong quá trình học tập. Trong hoạt động chọn ngành, một trong những biểu hiện hứng thú của HS đối với hoạt động này được thể hiện qua mức độ quan tâm tìm hiểu các nội dung có liên quan đến việc chọn ngành và ngành lựa chọn, thể hiện ở sự phán xét và đánh giá về các ngành, thể hiện ở việc lựa chọn ngành này hay ngành khác. Trong hoạt động chọn ngành, các em HS thường hướng sự quan tâm của mình tới một đối tượng ngành nào đó, đáp ứng được những mong mỏi, khát khao của các em. Tuy nhiên, trong thực tế, nhiều HS có những ngộ nhận về tình cảm của mình đối với một lĩnh vực ngafnh nghề nào đó. Trong quá trình học tập, sinh hoạt trong đời sống, các em được tiếp xúc, được nghe, được nhìn thấy những người đang làm nghề nào đó và thấy chúng hấp dẫn và lôi cuốn, từ đó nảy nở những cảm xúc. Và chỉ từ những cảm xúc này mà quyết định lựa chọn ngành học cho dù bản thân chưa thực sự tìm hiểu kỹ về nó. Những cảm xúc nhất thời đối với ngành thường dẫn đến những sự lựa chọn thiếu chính xác. Tình cảm đối với ngành chỉ có được khi cá nhân đã có một thời gian tìm hiểu, nhận thức, thấy được những giá trị của ngành đáp ứng được nhu cầu, nguyên vọng của bản thân cũng như thấy được những thuận lợi và khó khăn - 22 -
- mà bản thân khi lựa chọn ngành đó phải đối mặt. Tình cảm của HS đối với ngành được biểu hiện ở sự hài lòng, sự gắn bó và kiên định với ngành đã lựa chọn. 1.2.2.3. Đặc điểm về hành động trong hoạt động chọn ngành Đặc điểm tâm lý biểu hiện ở mặt hành động trong hoạt động chọn ngành của HS là sự thể hiện quan niệm, tình cảm của mình thành hành động cụ thể. Nó biểu hiện ra hành động ở tính chủ động và tính tích cực của chủ thể trong khi lựa chọn ngành. Đặc điểm tích cực của hành động trong chọn ngành được biểu hiện ở mức độ thường xuyên của cá nhân khi thực hiện các hành động như: tìm đọc các tài liệu về ngành dự định lựa chọn, khám phá các điểm mạnh, điểm yếu của cá nhân để qua đó làm căn cứ định hướng lựa chọn ngành phù hợp, chú ý tới các thông tin liên quan đến thị trường lao động của ngành dự định lựa chọn Tính tích cực còn thể hiện ở việc HS chú ý học tốt các môn học có liên quan tới ngành định chọn, đến việc thi tuyển vào các cơ sở đào tạo ngành, đến việc phải tìm hiểu công việc và con người đang làm việc trong ngành nghề đó. Việc chuẩn bị và lập kế hoạch cho hoạt động chọn ngành là một trong những biểu hiện sinh động của tính chủ động và tích cực trong chọn ngành của HS. Thông qua việc lập kế hoạch chi tiết cho hoạt động chọn ngành, các em sẽ chuẩn bị được không chỉ tâm thế mà còn các điều kiện cần thiết để việc lựa chọn ngành được chính xác và phù hợp. Tóm lại, đặc điểm tâm lý trong hoạt động chọn ngành của HS được bộc lộ ra bên ngoài thông qua đặc điểm nhận thức, thái độ, hành động của các em đối với ngành lựa chọn. Nhờ sự phát triển tương đối hoàn thiện về sinh lý và tâm lý giúp các em có nền tảng để phục vụ cho hoạt động lựa chọn ngành. Các em có sự chủ động trong lựa chọn ngành. Bên cạnh đó là có sự tích cực tìm hiểu thông tin về thế giới nghề nghiệp. Như vậy, HS THPT có thái độ, hành động tích cực và chủ động trong hoạt động chọn ngành. 1.2.3. Tính chất của việc lựa chọn ngành Việc lựa chọn ngành là một quá trình hoạt động lâu dài và phức tạp. Hoạt động này có sức ảnh hưởng đến công việc tương lai của các em. Và hoạt động chọn ngành với tư cách là một hoạt động sẽ có những đặc tính như sau: - 23 -
- 1.2.3.1. Tính chủ thể của quá trình lựa chọn ngành Lựa chọn ngành là quá trình phân tích và rút ra kết luận về ngành cho tương lai. Đây là quá trình có sự tham gia của ý thức. “Hàm chứa trong hoạt động chọn nghề là tính chủ thể mà đặc điểm nổi bật của nó là tính tự giác và tính tích cực của các em HS khi tiến hành hoạt động này” (Phạm Mạnh Hà, 2011). Các em tích cực trong việc tìm tòi và so sánh các ngành khác nhau sao cho phù hợp với khả năng và nguyện vọng của bản thân. Quá trình chọn ngành của con người, đặc biệt là HS bị chi phối bởi nhiều các mối quan hệ xã hội phức tạp như mối quan hệ giữa HS và gia đình, mối quan hệ giũa HS với trường lớp, Đoàn, Đội, cộng đồng, Những mối quan hệ này sẽ tác động đến nhu cầu, nhận thức, động cơ, hứng thú và sở thích của HS. Tỉ lệ ảnh hưởng của các mối quan hệ này sẽ khác nhau tùy vào từng đối tượng khác nhau. Tuy nhiên thì việc đưa ra sự lựa chọn vẫn là quyết định cuối cùng của chủ thế. Vì vậy trong quá trình lựa chọn ngành luôn có tính chủ thể trong đó. 1.2.3.2. Tính khách thể của quá trình lựa chọn ngành Trong quá trình lựa chọn ngành không chỉ phụ thuộc vào sở thích, năng lực và còn bị ảnh hưởng bởi nhu cầu xã hội. Không phải nguyện vọng nghề nghiệp nào cũng phù hợp với xã hội. Trong xã hội, mỗi cá nhân có một ví trí xác định, với vị trí đó, cá nhân vừa được hưởng các quyền lợi và vừa phải có trách nhiệm với cộng đồng và xã hội. Và mỗi cá nhân khi chọn ngành còn phải có trách nhiệm đối với xã hội. Đối tượng mà cá nhân muốn hướng tới trong hoạt động chọn ngành là các lĩnh vực lao động sẽ đem lại cho họ sự thoả mãn các nhu cầu cá nhân, đồng thời giúp họ thể hiện được trách nhiệm với xã hội. Mối quan hệ giữa quyền lợi và trách nhiệm trong chọn lựa ngành được biểu hiện qua mối quan hệ giữa nguyện vọng cá nhân với đòi hỏi về số lượng và chất lượng mà nhu cầu nguồn nhân lực hoạt động trong các lĩnh vực nghề nghiệp đòi hỏi. Khi đó chủ thể của sự lựa chọn trở thành đối tượng của sự lựa chọn. Đối tượng của hoạt động chọn ngành là những giá trị của ngành có thể đáp ứng nhu cầu, nguyện vọng của bản thân người lựa chọn. Để chiếm lĩnh được đối tượng ngành mà bản thân mong muốn, cá nhân chọn ngành phải tiến hành hàng loạt các hành động cụ thể như tìm hiểu về thế giới nghề nghiệp, thị trường lao - 24 -
- động và cả những đặc điểm tâm - sinh lý của bản thân, rồi sau đó tiến hành các hành động so sánh, đối chiếu, tìm ra sự ăn khớp giữa năng lực đáp ứng của cá nhân với các yêu cầu cụ thể của nghề đặt ra cho cá nhân đó và cuối cùng là hành động quyết định lựa chọn. 1.2.3.3. Tính mục đích quá trình chọn lựa ngành Lựa chọn ngành là một hoạt động có đối tượng. Đối tượng ở đây là những ngành mà cá nhân sẽ chọn. Một khi có sự hiểu rõ về ngành, HS sẽ lập được kế hoạch cụ thể, có các biện pháp, phương pháp thích hợp trong học tập, rèn luyện để chiếm lĩnh được ngành đã lựa chọn ở các mục đích khác nhau. Tính mục đích trong hoạt động chọn ngành của HS là những hình ảnh của ngành có thể đáp ứng được mong muốn, nguyện vọng của các em trong quá trình phát triển cá nhân sau này. Hoạt động chọn ngành của HS bao giờ cũng được thúc đẩy bởi một hay nhiều mục đích nào đó. Từ đó, các em có xu hướng lựa chọn một ngành có thể thoả mãn được nhiều nhất nhu cầu, nguyện vọng (tính mục đích) của các em. Có thể thấy tính mục đích gắn bó chặt chẽ với tính đối tượng. Trong hoạt động chọn ngành, tính đối tượng là ngành cụ thể, tính mục đích là giá trị của ngành đó có thể giúp các em hiện thực hoá được các ước mơ trong cuộc sống tương lai. Tính mục đích của hoạt động này gắn chặt với động cơ thúc đẩy hành động vươn tới mục đích nào đó. 1.2.3.4. Tính xã hội – lịch sử trong quá trình chọn lựa ngành Bản chất xã hội - lịch sử của hoạt động chọn ngành thể hiện ở chỗ ở mỗi giai đoạn lịch sử của nền sản xuất xã hội, hoạt động chọn ngành của cá nhân bị chi phối bởi các quy luật cung cầu của thị trường lao động, bị ảnh hưởng bởi định kiến và dư luận xã hội đối với ngành. Bên cạnh đó, hoạt động chọn ngành của cá nhân còn chịu ảnh hưởng của các yếu tố xã hội khác như hoạt động giáo dục hướng nghiệp của nhà trường, truyền thống và sức ép của gia đình, yếu tố bạn bè Chính vì vậy, chất lượng chọn ngành của cá nhân không chỉ phụ thuộc vào những đặc điểm tâm lý cá nhân mà còn bị ảnh hưởng và chi phối bởi các yếu tố tâm lý xã hội khác. - 25 -
- Bởi vậy, chọn lựa ngành là một quá trình không thể tách rời khỏi yếu tố xã hội. Đây không phải là quá trình diễn ra trong chốc lát mà là quá trình nảy sinh trong các mối quan hệ phức tạp. Nếu như việc lựa chọn này tách khỏi các đặc trưng trong cuộc sống loài người theo thời gian sẽ dẫn đến sự hạn chế của kết quả hướng nghiệp, giới hạn lại khả năng điều khiển quá trình tái sản xuất nguồn nhân lực cho đất nước. Tóm lại, quá trình lựa chọn ngành là một quá trình có tính chủ thể, tính khách thể, tính mục đích và tính xã hội – lịch sử. Các đặc tính này kết hợp với nhau cùng làm cho quá trình chọn lựa ngành trở nên có hiệu quả. Mỗi cá nhân khi tiến hành hoạt động chọn ngành học sau khi kết thúc ba năm THPT cũng không thể tách rời các yếu tố trên. Từ đó có thể thấy, chọn ngành không phải là quá trình đơn giản mà cần có thời gian, có sự tư duy, mở rộng hiểu biết, dung hòa giữa năng lực, hứng thú và các yêu cầu mà xã hội đặt ra. 1.2.4. Quá trình ra quyết định chọn ngành 1.2.4.1. Khái niệm quyết định Khái niệm quyết định cũng rất đa dạng và được hiểu theo nhiều cách khác nhau. Đầu tiên, trong từ điển Oxford, decide – quyết định được hiểu là “hình thành hoặc đưa ra giải pháp trong tâm trí sau một quá trình xem xét” (John Simpson, Edmund Weiner, 2015). Có thể hiểu quyết định là kết quả của một quá trình phân tích. Theo hai tác giả Yingxu Wang và Guenther Ruhe (2007) “quyết định là một quá trình chọn lựa những lựa chọn yêu thích hoặc lựa chọn một tiến trình hành động trong số một loạt những lựa chọn dựa trên các tiêu chí hoặc chiến lược nhất định”. Hai tác giả này còn cho rằng, ra quyết định là một trong những quá trình nhận thức cơ bản của các hành vi của con người. Và những lý thuyết về ra quyết định được áp đụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vục khác nhau từ: kinh tế, quản lý, tâm lý học cho đến chính trị Còn theo Dương Thị Thanh Thanh (2014) “quyết định là một sự cân nhắc hay lựa chọn giữa hai hay nhiều phương án. Nó phát sinh trong bất kỳ trường hợp nào, từ việc giải quyết một vấn đề đến thực hiện một nhiệm vụ nào đó”. Từ đây có thể thấy, quyết định là rất phổ - 26 -
- biến và thường xuyên xuất hiện trong cuộc sống mỗi cá nhân, từ việc nhỏ nhặt đến những việc hệ trọng. Và quan trọng là phải có sự cân nhắc của cá nhân. Các khái niệm trên đều có một điểm chung là để có một quyết định đều phải qua một quá trình xem xét, đánh giá vấn đề, có thể xem quyết định là kết quả của quá trình tư duy. Quyết định là kết quả của một quá trình phân tích các khả năng và lựa chọn một phương án mà người quyết định cho là khả thi nhất. 1.2.4.2. Phân loại quyết định Theo tác giả Nguyễn Đông Triều, quyết định được phân làm 3 loại chính: quyết định theo chuẩn; quyết định cấp thời và quyết định có chiều sâu. Quyết định theo chuẩn: quyết định theo chuẩn bao gồm những quyết định hàng ngày theo lệ thường và có tính chất lặp đi lặp lại. Giải pháp cho những quyết định loại này thường là những thủ tục, luật lệ và chính sách đã được quy định sẵn. Quyết định cấp thời: là những quyết định đòi hỏi tác động nhanh và chính xác và cần phải được thực hiện gần như tức thời. Đây là loại quyết định thường nảy sinh bất ngờ không được báo trước và đòi hỏi bạn phải chú ý tức thời và trọn vẹn. Quyết định có chiều sâu: quyết định có chiều sâu thường đòi hỏi phải có kế hoạch tập trung, thảo luận và suy xét. Đây là loại quyết định thường liên quan đến việc thiết lập định hướng hoạt động hoặc thực hiện các thay đổi. Chúng cũng là những quyết định gây ra nhiều tranh luận, bất đồng và xung đột. Những quyết định có chiều sâu thường đòi hỏi nhiều thời gian và những thông tin đầu vào đặc biệt. Điểm thuận lợi đối với quyết định loại này là bạn có nhiều phương án và kế hoạch khác nhau để lựa chọn. Với 3 loại quyết định trên, mức độ khó của các quyết định là tăng dần. Và quyết định khó nhất vẫn là quyết định có chiều sâu. Đây là cách phân loại không thiên về bất kì một lĩnh vực hoạt động nào. Do đó, cách phân loại này là tương đối phù hợp với phạm vi đề tài. Chọn ngành cho tương lai là một quyết định cần có sự cân nhắc lâu dài, tương thích với cách phân loại có chiều sâu. Tuy nhiên thực tế cũng cho thấy rằng, nhiều HS, SV khá vội vàng - 27 -
- trong việc chọn ngành. Họ chỉ ra một quyết định cấp thời và thiếu sự phân tích kỹ lưỡng dẫn đến nhiều hệ lụy khác nhau. Tóm lại quyết định có thể có nhiều cách phân loại khác nhau và dựa trên nhiều tiêu chí khác nhau. Nhưng chung quy lại, có 2 loại quyết định là quyết định cấp thời và quyết định có chiều sâu phù hợp với khía cạnh quyết định chọn ngành tại các trường ĐH và phù hợp với hướng nghiên cứu của đề tài. 1.2.4.3. Khái niệm quyết định chọn ngành “Quyết định chọn ngành học là quá trình mà người học đã phải cân nhắc, tính toán để ra quyết định tối ưu, phù hợp với đặc tính cá nhân hay khả năng để đạt được mục tiêu nghề nghiệp trong tương lai. Quyết định này sẽ ảnh hưởng đến suốt cuộc đời họ” (Lê Thị Thanh, 2013). Có thể thấy, chọn ngành là một quyết định quan trọng và cần có sự phân tích, cân nhắc kỹ lưỡng từ bản thân cá nhân. Theo tác giả Lê Thị Thanh (2013), khái niệm chọn ngành được hiểu “là quyết định chọn một ngành nào đó mà các trường CĐ, ĐH đào tạo để đăng ký dự thi và theo học sau khi tốt nghiệp THPT”. Theo tác giả, chọn ngành ở đây là chọn ngành để học tại các cơ sở giáo dục khác nhau. Ở Việt Nam, SV thường được nhà trường, gia đình, người thân tư vấn trong việc chọn ngành, chọn trường học phù hợp với mục tiêu nghề nghiệp và năng lực học tập. Tuy nhiên theo hai tác giả Nguyễn Văn Hộ và Nguyễn Thị Huyền Thanh thì cho rằng “hầu hết các SV sẽ tự đưa ra quyết định ngành học của mình” (dẫn bởi Lê Thị Thanh, 2013). Tuy vậy, bằng các hình thức khác nhau, các quyết định này có thể bị tác động bởi các yếu tố bên ngoài. Họ có thể chịu áp lực từ gia đình, thầy cô, bạn bè chọn lựa ngành cụ thể. Như vậy, với phạm vi đề tài này, có thể hiểu quyết định chọn ngành học là quyết định để chọn một ngành cụ thể được đào tạo ở trường CĐ, ĐH để chuẩn bị nghề cho tương lai, quyết định này có thể do sở thích, hứng thú, năng lực và nhận định của cá nhân về cơ hội nghề nghiệp quyết định hay có thể bị chi phối bởi các yếu tố bên ngoài khác như ý kiến gia đình, thầy cô, bạn bè, môi trường học tập, - 28 -
- 1.2.4.4. Các bước ra quyết định chọn ngành Khi xem các cơ sở giáo dục ở CĐ, ĐH là một nơi cung cấp dịch vụ đào tạo thì SV được xem là khách hàng của dịch vụ này, khi đó quá trình chọn ngành và chọn trường sau khi tốt nghiệp THPT cũng là quá trình chọn lựa dịch vụ giáo dục. Theo Kotler (2001), mô hình đơn giản về quá trình ra quyết định mua sản phẩm hay lựa chọn dịch vụ bao gồm: nhận biết vấn đề, tìm kiếm thông tin, đánh giá các lựa chọn thay thế, quyết định lựa chọn, hành vi sau khi đưa ra quyết định. Quyết Hành vi Tìm kiếm Đánh giá Nhận biết định lựa sau khi thông tin lựa chọn nhu cầu chọn chọn Sơ đồ quá trình ra quyết định của Kotler (2001) (dẫn bởi Lê Thị Thanh Kiều, 2015) Quá trình ra quyết định mua sản phẩm hay sử dụng dịch vụ bắt đầu bằng việc khách hàng nhận thức nhu cầu, nó có thể xuất phát từ nhu cầu nội tại của họ hoặc bị ảnh hưởng bởi các yếu tố bên ngoài. Đối với việc lựa chọn ngành cũng vậy, con người sẽ hình thành ước mơ về nghề nghiệp từ thời thơ ấu và mơ ước này luôn dần thay đổi theo quá trình phát triển. Tuy nhiên khi bước vào ngưỡng cửa THPT thì HS cần nhận diện rõ nhu cầu của mình để thiết lập sự lựa chọn. Và khi đã xác định được nhu cầu thì việc tìm kiếm thông xin xuất hiện. “Tìm kiếm thông tin là hành động có động lực nhằm kiểm soát hiểu biết, nhận thức trong bộ nhớ trí não (thông tin bên trong) hoặc quá trình thu thập, tim kiếm thông tin từ môi trường bên ngoài” (Lê Thị Thanh Kiều, 2015). Có hai dạng tìm kiếm thông tin: tìm kiếm thông tin bên trong và tìm kiếm thông tin bên ngoài. Tìm kiếm thông tin bên trong là kiểm tra lại tất cả các thông tin trong bộ nhớ. Có thể nói đây là giai đoạn gợi nhớ lại những thông tin mà não bộ đã ghi nhớ trước đây và sắp xếp các thông tin ấy lại với nhau. Tuy nhiên, không phải lúc nào lượng thông tin bên trong cũng đủ để phục vụ cho việc cho nhu cầu. Do đó, tìm kiếm thông tin bên ngoài là cần thiết. Với HS, hiện tại việc tìm kiếm thông tin của các em rất đa dạng và chủ động. Các em chủ động tìm kiếm thông tin trên sách, báo, mẫu quảng cáo, internet, Những nghiên cứu - 29 -
- trước đó cho rằng việc sử dụng Internet có tác động tích cực về thái độ lựa chọn sử dụng dịch vụ của khách hàng. Vì vậy trong giai đoạn tìm kiếm thông tin này thì việc sử dụng Internet cũng sẽ tác dụng tích cực đến thái độ chọn ngành học của SV. Ngoài ra, thông tin còn được các em thu thập qua các mối quan hệ với các anh chị SV đang theo học tại các trường ĐH, CĐ, SV đã tốt nghiệp, các thầy cô giáo tạo trường, Sau khi đã thu thập đủ thông tin để làm căn cứ thì tiếp theo sẽ là giai đoạn đánh giá các lựa chọn. Các lựa chọn sẽ được đánh giá dựa trên các tiêu chuẩn nhất định. Các tiêu chí đó có thể là: mức độ hứng thú với ngành, sự phát triển của ngành trong tương lai, mức độ phù hợp với mong muốn cha mẹ, Mỗi cá nhân sẽ có cho mình một tiêu chí riêng tùy thuộc vào sở thích, nhu cầu, quan niệm và khả năng từng người. Sau quá trình đánh giá các lựa chọn thì cá nhân sẽ xếp hạng các lựa chọn đó. Các em HS sẽ sắp xếp xem ngành nào là ưu tiên số và ngành nào ở vị trí số 2, số 3 theo như tiêu chí đã đưa ra. “Tại thời điểm này, sẽ có hai yếu tố ảnh hưởng nằm giữa giai đoạn đánh giá và quyết định lựa chọn trường ĐH và ngành học” (Lê Thị Thanh Kiều, 2015). Đầu tiên là thái độ của những người xung quanh, có thể là thầy cô, bạn bè, cha mẹ, Đây là nhóm tham khảo ý kiến có thể làm thay đổi bảng xếp hạng các lựa chọn mà các em đã đề ra trước đó. Thứ hai có thể là một số yếu tố tình huống đột xuất ảnh hưởng ngay cả khi các em đã có quyết định chọn ngành học và một số các quyết định phụ như thời gian đào tạo, học phí, đội ngũ giảng viên, cơ sở vật chất tại trường học, . Tất cả các yếu tố trên sẽ góp phần tác động đến quyết định chọn ngành học của mỗi cá nhân. Và chọn ngành không phải là một quá trình đơn giản mà đây được xem như quyết định có tầm ảnh hưởng lớn đến tương lai các em. Do đó, cần có sự cân nhắc trong quá trình này. Tác giả Kotler cho rằng sau quá trình mua hàng thì khách hàng sẽ đánh giá lại xem quyết định mua của mình có phù hợp không và trong quá trình sử dụng sản phẩm hay dịch vụ có như mình mong muốn. Và họ dựa vào đó để rút kinh nghiệm cho những lần sử dụng dịch vụ hay mua hàng tiếp theo. Đó là hành vi sau khi mua hàng hay sử dụng dịch vụ hoặc có thể gọi là bước đánh giá sau khi mua. Tuy nhiên nếu xét dưới góc độ chọn ngành, bước cuối cùng này xuất hiện khi các em đã chọn và thi vào ngành mình mong muốn. Sau khi thi xong các em sẽ - 30 -
- đánh giá xem mình chọn ngành có phù hợp với khả năng không, mình có còn hứng thú như ban đầu không. Có rất nhiều SV đã quyết định thi lại sau khoảng thời gian vài năm theo đuổi ngành học tại trường ĐH. Do đó, có thể thấy không phải lúc nào việc chọn ngành cũng diễn ra như mong muốn. Và với những quyết định như thế thì sự hỗ trợ và định hướng từ công tác hướng nghiệp cũng cần chặt chẽ hơn bao giờ hết. Tóm lại, để có cho mình một quyết định chọn ngành học, thì mỗi cá nhân cũng phải trải qua nhiều giai đoạn khác nhau và mỗi giai đoạn đều có những chức năng riêng. Và với phạm vi đề tài, khi xét các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định chọn ngành thì sẽ xem xét ngay chính bước quyết định lựa chọn sau khi cá nhân đã xếp hạng các ngành theo tiêu chí của bản thân. 1.2.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định chọn ngành Như đã đề cập, chọn ngành là một quá trình có sự tham gia của tư duy, đòi hỏi sự tìm hiểu thông tin và phân tích cụ thể. Để đưa ra được một quyết định chọn ngành, phải trải qua các giai đoạn khác nhau. Ngay cả khi đã có cho mình những lựa chọn, thì quyết định chọn ngành vẫn có thể bị ảnh hưởng và xoay chuyển bởi các yếu tố khác nhau. Đó có thể là những yếu tố xuất phát từ bản thân cá nhân hay thậm chí từ những yếu tố khách quan bên ngoài. a. Đặc điểm cá nhân Khi lựa chọn ngành cho tương lai, mỗi cá nhân đều sẽ có cho mình những cái nhìn cá nhân thông qua việc phân tích và hiểu bản thân. Họ sẽ xem xét bản thân mình thích gì, hứng thú với lĩnh vực gì, xem xét năng lực bản thân cũng như sự phù hợp về tính cách bản thân so với ngành. Chính những yếu tố này sẽ giúp cá nhân đưa ra cho mình những quyết định lựa chọn. Sau đây là sự cụ thể hóa ba khía cạnh nằm trong yếu tố xét về mặt cá nhân. Đầu tiên, cá nhân có thể lựa chọn ngành theo kiểu tính cách của mình. John L.Holland (1919 – 2008) là Tiến sĩ tâm lý học người Mỹ. Holland nổi tiếng nhất và biết đến rộng rãi nhất qua nghiên cứu lý thuyết lựa chọn nghề nghiệp. Lý thuyết đó chia con người ra 6 loại cá tính và thường được viết tắt là RIASEC và được gọi là Mã Holland (Holland codes), bao gồm: Thực tế (Realistic), Điều tra (Investigative), Nghệ sĩ (Artistic), Xã hội (Social), Dám nghĩ dám làm (Enterprising), Tập quán (Conventional). Lý thuyết của Holland chỉ ra rằng con người với - 31 -
- những kiểu tính cách khác nhau thích làm việc với những tác nhân kích thích khác nhau và khoảng cách giữa tính cách trong công việc cho thấy mức độ khác nhau trong sở thích của họ. Ngoài ra, cũng có các trắc nghiệm tính cách dùng để lựa chọn nghề nghiệp, tiêu biểu như MBTI với 16 kiểu tính cách khác nhau. Mỗi kiểu tính cách cũng sẽ tương ứng với một số nghề nhất định. Trắc nghiệm MBTI rất phổ biến với nhiều phiên bản khác nhau mà ta có thể dễ dàng tìm thấy. Do đó, tính cách cũng là một trong những yếu tố có thể góp phần ảnh hưởng đến quyết định chọn lựa ngành cho tương lai của mỗi cá nhân. Ngoài ra, chọn ngành theo năng lực cũng là một yếu tố quan trọng. Trong lứa tuổi thanh niên, mỗi cá nhân không chỉ đánh giá bản thân mà còn biết đặt bản thân mình vào mối tương quan với mọi người xung quanh để so sánh và đối chiếu. Cá nhân có khả năng nhận biết ưu điểm và nhược điểm của bản thân, biết đâu là thế mạnh cần phát huy. Không chỉ ở lứa tuổi này, mà kể cả những giai đoạn lứa tuổi sau cũng vậy. Để có được sự phát triển của tự đánh giá và tự ý thức thì sự phát triển tương đối hoàn thiện về mặt nhận thức là một hậu thuẫn. Bước sang tuổi thanh niên, các chức năng tâm lý của con người cũng có nhiều thay đổi, đặc biệt là trong lĩnh vực phát triển trí tuệ, khả năng tư duy. Các nghiên cứu TLH cho thấy rằng hoạt động tư duy của thanh niên rất tích cực và có tính độc lập, tư duy lý luận phát triển mạnh. Tính chủ định trong các quá trình nhận thức phát triển mạnh. Khả năng tự ý thức và tự đánh giá cũng phát triển mạnh. Do đó, việc nhìn nhận và đánh giá năng lực của bản thân là hoàn toàn nằm trong khả năng của lứa tuổi từ THPT trở đi. Theo Hossler và Don (1984), khi HS nhận thức được khả năng bản thân có thể học tốt một ngành đào tạo cụ thể nào đó theo sở trường của mình thì chắc hẳn các em sẽ đăng ký dự thi vào những trường ĐH có ngành đào tạo này. Ngoài ra, trong nghiên cứu của Borus (1993), cho rằng kết quả học tập của HS là yếu tố có ảnh hưởng đến quyết định chọn trường ĐH. Vì thực tế, các em thường có xu hướng chọn những trường có điểm chuẩn đầu vào phù hợp với năng lực của mình. Các tác giả cho rằng kết quả học tập ở trường THPT là dấu hiệu giúp cho HS thấy được khả năng vào ĐH của mình và từ đó có quyết định lựa chọn trường phù hợp (dẫn bởi Vũ Anh Tùng, 2015). - 32 -
- Cuối cùng là chọn ngành theo sở thích. Trong quá trình học tập và sinh sống, mỗi cá nhân đều hình thành cho mình một sở thích ngành nghề riêng, những sở thích hình thành trong quá trình sống với nhiều nguyên nhân tác động với nhau. Có bạn yêu thích nghề luật sư vì được xem những bộ phim về luật sư cực kỳ hấp dẫn. Lại có bạn yêu thích trở thành ca sĩ để trở thành người nổi tiếng. Tuy nhiên, sở thích, ước mơ có thể thay đổi theo thời gian, và bị ảnh hưởng nhiều bởi sự trải ngiệm, mức độ hiểu biết về ngành. Khi chọn ngành, các bạn thường chọn ngành trên sự tưởng tượng, mặc tích cực và những thăng hoa của ngành mà lại ít để ý nhiều đến những khó khăn, thách thức cần phải vượt qua khi theo đuổi ngành. Tóm lại, trong yếu tố cá nhân sẽ có ba yếu tố nhỏ ảnh hưởng đến quyết định chọn ngành của mỗi cá nhân: chọn ngành theo tính cách, chọn ngành theo năng lực và chọn ngành theo sở thích. Cả ba yếu tố này có thể tác động một cách riêng lẻ hoặc kết hợp cùng nhau để chi phối đến quyết định chọn ngành. b. Yếu tố gia đình Trong quá trình lựa chọn ngành, không tránh khỏi sự ảnh hưởng từ các ý kiến của người thân trong gia đình, ý kiến từ thầy cô hay bạn bè. Dù cho mỗi cá nhân đã có sự phân tích và đưa ra lựa chọn nhưng khi chịu tác động từ những ý kiến trên thì lựa chọn của cá nhân cũng có thể sẽ thay đổi. Với lợi thế về mặt kinh nghiệm cuộc sống, kiến thức xã hội, đặc biệt là sự hiểu rõ về con cái về mặt tính cách, do đó cha mẹ là người có tác động mạnh nhất tới việc lựa chọn ngành nghề của con cái. Cha mẹ còn là người trang trải học phí cho con cái và cha mẹ cũng luôn là người đặt nhiều kỳ vọng nhất dành cho con cái. Vì vậy việc con cái chịu ảnh hưởng từ ý kiến của cha mẹ trong việc quyết định nghề nghiệp cũng là điều dễ hiểu. Thomas P. Dick và Sharon F. Rallis (1991) cho rằng cha mẹ được nhìn nhận là có ảnh hưởng thường xuyên đến sự lựa chọn nghề nghiệp cho HS. Đặc biệt đối với những gia đình truyền thống nghề nghiệp lâu đời thì càng ảnh hưởng to lớn hơn nữa. Đôi khi cha mẹ cũng đóng vai trò ép buộc con cái theo ngành truyền thống của gia đình hay ngành mà cha mẹ định hướng. Ngoài ra, những người thân khác như anh/chị/ em, ông bà, thậm chí các họ hàng khác cũng có thể tác động đến quyết định chọn ngành của cá nhân. - 33 -
- c. Đặc điểm ngành học Mỗi ngành sẽ có những đặc điểm và yêu cầu riêng của mình. Ford và cộng sự (1999) cũng nhận thấy rằng các vấn đề như phạm vi của chương trình nghiên cứu, tính linh hoạt của chương trình học, linh hoạt thay đổi lớn và nhiều lựa chọn mức độ là những yếu tố quan trọng nhất để HS lựa chọn ngành học phù hợp. Mỗi ngành học khác nhau đều có những môn học, tài liệu học tập và phương pháp học tập riêng có tính đặc thù cho ngành học. Đây là những đặc điểm sẽ phần nào giúp SV hình dung ra công việc tương lai của mình. Ngoài ra, còn phụ thuộc tỉ lệ chọi của ngành, điểm chuẩn của ngành, vai trò của ngành đối với xã hội, cơ hội việc làm sau khi ra trường cũng như là những đặc điểm về đối tượng làm việc. d. Đặc điểm về môi trường học tập Trước khi bước vào ngưỡng cửa ĐH, ai cũng từng là một HS THPT. Với hoạt động chủ đạo là học tập, hướng nghiệp thì môi trường THPT là nơi có sức ảnh hưởng đến quyết định chọn ngành của các em. Từ sự hướng nghiệp, góp ý của các thầy cô cho đến kiểu văn hóa nơi trường học, các hoạt động tại trường, cơ hội tiếp xúc nhiều về ngành mà cá nhân quyết định chọn. Với mỗi ngành, sẽ có rất nhiều cơ sở đào tạo khác nhau. Và sự khác biệt giữa các môi trường đào tạo cũng là cơ hội để các em lựa chọn. Vi vậy, ngoài khía cạnh về môi trường THPT thì môi trường ĐH cũng là một yếu tố ảnh hưởng. e. Các mối quan hệ xã hội Từ lứa tuổi THPT trở đi, cá nhân đã có sự phát triển vượt bậc và ổn định hơn hẳn so với lứa tuổi THCS. Cá nhân mở rộng mối quan hệ xã hội, có cơ hội tham gia nhiều tổ chức khác nhau và có cơ hội tiếp xúc với nhiều ngành khác nhau. Các em xem những người đi trước là hình mẫu là tấm gương để hướng tới và lựa chọn ngành cho tương lai. Không chỉ là bạn bè nơi trường lớp mà còn là các mối quan hệ bạn bè có sự chênh lệch tuổi tác ngoài xã hội. Bạn bè đang theo học tại ngành mà cá nhân muốn lựa chọn có thể tác - 34 -
- động và hỗ trợ tư vấn giúp cá nhân có thêm thông tin trong việc chọn ngành. Bên cạnh đó, vẫn có một số HS lựa chọn ngành vì muốn học chung với bạn bè, lựa chọn theo bạn bè của mình. Đặc biệt ngày nay khi mà phương tiện truyền thông ngày càng phát triển, thì các ngành học được đề cập và phổ biến rất nhiều trên báo đài. Và trong quá trình ra quyết định chọn ngành như đã trình bày ở trên thì cá nhân sẽ bước qua khâu thu thập thông tin. Và những thông tin trên các phương tiện truyền thông này cũng sẽ giúp cá nhân có cái nhìn rõ hơn về ngành và tạo cơ sở để cá nhân lựa chọn ngành ấy. Như vậy, quyết định chọn ngành có thể bị tác động bởi nhiều yếu tố khác nhau từ các yếu tố cá nhân như năng lực, sở thích, tính cách cho đến ý kiến từ các mối quan hệ xung quanh, đặc điểm ngành và môi trường học tập. 1.3. Cơ sở lý luận các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định chọn ngành CTXH của SV năm nhất ở một số trường ĐH tại TP. HCM 1.3.1. Khái niệm CTXH Liên Hợp Quốc (1955) đưa ra định nghĩa về CTXH: “Là hoạt động giúp con người thích nghi với cấu trúc và giúp cấu trúc thích nghi với con người” (dẫn bởi Đoàn Kim Thắng, Nguyễn Trung Hải, 2016). Khái niệm này còn khá mơ hồ để giúp người đọc có thể hiểu rõ hơn về CTXH. Tuy nhiên, đây có thể xem như là nét bút sơ khai trong giai đoạn đầu của sự phát triển CTXH. Giai đoạn CTXH phải tiến dần từng bước để khẳng định vị thế, vai trò và ý nghĩa tồn tại của nó với xã hội. Sau đó, một số nhà nghiên cứu đã đưa ra định nghĩa một cách khoa học hơn về ngành CTXH như sau: “CTXH là những hoạt động tương tác, giáo dục hay phục vụ nhằm duy trì hoặc phát triển năng lực xã hội của cá nhân hoặc nhóm xã hội có những phương thức sinh tồn không còn phù hợp với các chuẩn mực của địa phương” (dẫn bởi Đoàn Kim Thắng, Nguyễn Trung Hải, 2016). Với định nghĩa này, CTXH hướng tới các chuẩn mực của địa phương và giúp con người thích nghi với những chuẩn mực ấy. Năm 1970, Hiệp hội Nhân viên CTXH Mỹ (NASW) đưa ra định nghĩa: “CTXH là một chuyên ngành để giúp đỡ cá nhân, nhóm hoặc cộng đồng tăng cường hay khôi phục việc thực - 35 -
- hiện các chức năng xã hội của họ và tạo những điều kiện thích hợp nhằm đạt được các mục tiêu đó” (dẫn bởi Đoàn Kim Thắng, Nguyễn Trung Hải, 2016). Bấy giờ, CTXH đã được xem là một ngành nghề thực thụ với chức năng giúp đỡ con người khôi phục chức năng xã hội của họ. CTXH là một hoạt động chuyên nghiệp không chỉ hỗ trợ con người thoát ra khỏi những khó khăn nhất thời mà còn tạo cơ hội cho họ thông qua các hoạt động tăng cường năng lực để thích nghi và phát triển bền vững. Năm 2000, Hiệp hội Nhân viên CTXH Quốc tế tại Montréal, Canada (IFSW) đưa ra định nghĩa: “Nghề CTXH thúc đẩy sự thay đổi xã hội, giải quyết vấn đề trong mối quan hệ của con người, tăng năng lực và giải phóng cho người dân nhằm giúp cho cuộc sống của họ ngày càng thoải mái, dễ chịu. Vận dụng các lý thuyết về hành vi con người và hệ thống xã hội, CTXH tương tác vào những điểm giữa con người với môi trường của họ. Nhân quyền và Công bằng xã hội là các nguyên tắc căn bản của nghề” (dẫn bởi Đoàn Kim Thắng, Nguyễn Trung Hải, 2016). Theo đó, tầm quan trọng của ngành CTXH đã được công nhận. CTXH với tác động tích cực của nó sẽ giúp con người có được cuộc sống thoải mái, dễ chịu. Ngoài ra, với định nghĩa trên, hoạt động nghề của các nhân viên CTXH là hoạt động theo các nguyên tắc, quy chuẩn đạo đức nhất định, đặc biệt hai nguyên tắc Công bằng và Nhân quyền rất được đề cao. Theo Thạc sĩ Nguyễn Thị Oanh (2004): “CTXH nhằm giúp cá nhân và cộng đồng tự giúp. Nó không phải là một hành động ban bố của từ thiện mà nhằm phát huy sứ mệnh của hệ thống thân chủ (cá nhân, nhóm và cộng đồng) để họ tự giải quyết vấn đề của mình”. CTXH với nhiệm vụ tạo điều kiện và động lực để các cá nhân tự thân đương đầu với các vấn đề của họ. Theo Hiệp hội CTXH Quốc tế và các trường đào tạo CTXH Quốc tế (2011) đã thống nhất về định nghĩa về CTXH như sau: “CTXH là nghề nghiệp tham gia vào giải quyết vấn đề liên quan tới mối quan hệ của con người và thúc đẩy sự thay đổi xã hội, tăng cường sự trao quyền và giải phóng quyền lực nhằm nâng cao chất lượng sống của con người. CTXH sử dụng các học thuyết về hành vi con người và lý luận về hệ thống xã hội vào can thiệp sự tương tác của con người với môi trường sống” (dẫn bởi Bùi Thị Xuân Mai, 2012). - 36 -
- Theo tiến trình phát triển, cụm từ CTXH ngày càng được định nghĩa một cách rõ nét hơn. Và dù với cách hiểu nào, CTXH cũng mang trên mình sứ mệnh tham gia giải quyết các vấn đề trong cuộc sống, trong mối quan hệ người – người, giúp cho cuộc sống con người trở nên thoải mái và dễ chịu hơn. 1.3.2. Sứ mạng của CTXH Hoạt động CTXH đã xuất hiện từ lâu trong lịch sử xã hội loài người và tồn tại dưới hình thức hỗ trợ, tương hỗ giữa cá nhân với cá nhân, cá nhân với cộng đồng, cộng đồng với cá nhân, cộng đồng với cộng đồng và nhà nước với cá nhân hoặc với cộng đồng, mặc dù khi đó các hoạt động CTXH chưa mang tính chuyên nghiệp như hiện nay. Năm 1951, CTXH đã được Hội đồng kinh tế - xã hội Liên hiệp quốc công nhận là nghề nghiệp nổi bật tại thời điểm ấy và là nghề có chức năng chuyên biệt. Và đặc biệt tại Việt Nam, CTXH đã có mã ngành đào tạo và mã số ngạch viên chức. Mỗi ngành nghề đều có một sứ mạng riêng của mình và theo Hiệp hội quốc gia các nhân viên xã hội Mỹ (NASW) thì sứ mạng chủ yếu của nghề CTXH là tăng cường chất lượng sống của con người và giúp đáp ứng những nhu cầu cơ bản của con người, đặc biệt quan tâm đến nhu cầu của nhóm đối tượng dễ bị thương tổn, những người bị áp bức và người nghèo (NASW, 1994). Tương tự, Hội đồng giáo dục CTXH Mỹ (CSWE) mô tả nghề CTXH như là nghề hết lòng tăng cường cuộc sống an sinh con người và giảm nghèo khó và áp bức (CSWE, 1994). Và mang trên mình sứ mạng to lớn và ý nghĩa như thế, CTXH là ngành nghề không thể thiếu ở bất kỳ quốc gia nào. 1.3.2. Công tác đào tạo CTXH Sang TK 20 thì CTXH trở nên chuyên nghiệp hơn. Năm 1947, tại Hội thảo thế giới về sự phát triển xã hội, Hội đồng kinh tế - xã hội đưa ra yêu cầu đào tạo chuyên môn ngành CTXH nói chung và cán bộ làm trong ngành an sinh xã hội nói riêng. Và dù đã xuất hiện từ lâu nhưng mãi đến năm 1992, môn CTXH mới được đưa vào chương trình đào tạo Cử nhân Xã hội học tại Khoa Phụ Nữ Học (Khoa Xã hội học hiện nay) - 37 -
- - ĐH Mở - Bán công TP. HCM. Đến năm 2005, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã cho phép ĐH Mở - Bán công TP. HCM đào tạo cử nhân CTXH sau khi chương trình khung đào tạo ngành CTXH được Bộ Giáo dục và Đào tạo xây dựng và ban hành năm 2004. Tháng 10 năm 2004, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành mã ngành với chương trình khung đào tạo cử nhân ngành CTXH bậc ĐH và bậc CĐ tạo bước ngoặc căn bản trong sự phát triển của nghề CTXH ở Việt Nam. Từ năm 2011 -2015 bốn cơ sở được cấp phép đào tạo cao học CTXH. Đó là học viện hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, trường ĐH KHXH và NV Hà Nội, trường ĐH Thăng Long, ĐH Lao động - Xã hội (Hà Nội ). Nguồn giáo viên và các nghiên cứu viên CTXH chủ yếu từ các ngành khác nhau như Xã hội học, Tâm lý học, Văn hóa học, Giới. Bắt đầu có các Tiến sĩ, Thạc sĩ được đào tạo chuyên ngành CTXH từ nước ngoài trở về tham gia nghiên cứu và giảng dạy. Đến nay đã có hơn 40 trường ĐH, CĐ đang đào tạo và tuyển sinh chuyên ngành CTXH. 1.3.3. Mục đích của CTXH Theo Hội đồng giáo dục CTXH Mỹ (CSWE) CTXH có 4 mục đích (dẫn bởi Lê Chí An): Thứ nhất, khuyến khích, thúc đẩy; phục hồi; duy trì; và tăng cường việc thực hiện chức năng xã hội của cá nhân, nhóm, các tổ chức và các cộng đồng bằng cách giúp họ hoàn thành công việc, phòng ngừa và giảm nhẹ những đau buồn thống khổ và sử dụng các nguồn tài nguyên. Tăng cường việc thực hiện chức năng xã hội, bao gồm việc nhận ra những nhu cầu chung của con người vốn cần được đáp ứng thích đáng để giúp cá nhân có thể đạt được những thành tựu nhất định và thực hiện chức năng một thành viên có ích, đóng góp cho xã hội. Những tài nguyên cần thiết phải sẵn có để đáp ứng nhu cầu con người, và nhân viên xã hội đóng vai trò quan trọng trong việc sử dụng và phát huy tài nguyên. Nhân viên xã hội có nhiệm vụ kết nối tài nguyên với nhu cầu, khai thác hệ thống nguồn cung ứng tiềm năng để thực hiện chức năng nầy. Khai thác nguồn tài nguyên cần thiết để đáp ứng nhu cầu con người chủ yếu bao gồm việc tăng cường sự tương tác giữa con người với môi trường xã hội và môi trường vật chất. - 38 -
- Để làm rõ hơn những tương tác giữa nhu cầu cá nhân và các nguồn tài nguyên môi trường, nhân viên xã hội phải xem xét từng nhu cầu cơ bản và nơi có nguồn tài nguyên có thể đáp ứng các nhu cầu ấy. NHU CẦU CỦA CON NGƯỜI NƠI CÓ NGUỒN TÀI NGUYÊN Tự nhận thức tích cực Sự nuôi dưỡng, sự chấp nhận, tình yêu và sự - Bản sắc (nguồn gốc) phản hồi tích cực từ những người quan trọng - Sự tự trọng (cha mẹ, bà con, thầy cô, nhóm đồng đẳng). - Sự tự tin Cảm xúc: Cha mẹ, vợ chồng, bạn bè, con cái, nhóm - Được người khác cần đến tham chiếu văn hóa, mạng lưới xã hội. - Đánh giá cao - Tính đồng đội, đồng hành - Cảm giác thuộc về Sự thỏa mãn: Các thiết chế giáo dục, giải trí, tôn giáo, việc - Giáo dục làm và các thiết chế xã hội khác. - Giải trí - Tài năng - Sự thỏa mãn óc thẩm mỹ - Tôn giáo Nhu cầu vật chất: Các thiết chế kinh tế, luật pháp và chăm sóc - Thực phẩm, áo quần, nhà ở sức khỏe; những hệ thống an sinh xã hội chính - Chăm sóc sức khỏe thức, tăng cường pháp luật, và những tổ chức - Sự an toàn giảm nhẹ thảm họa. - Sự bảo vệ Thứ hai, hoạch định, xây dựng và thực thi các chính sách xã hội, các dịch vụ xã hội, các nguồn tài nguyên và các chương trình để đáp ứng những nhu cầu cơ bản con người và hỗ trợ cho sự phát triển năng lực con người. Ngành CTXH góp phần vào việc hoạch định, xây dựng và thực thi chính sách an sinh xã hội ở từng quốc gia. Ở nước ta, ngành CTXH còn non trẻ nhưng thông qua các chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, các chương trình mục tiêu quốc gia (như xóa đói giảm nghèo, nước sạch vệ sinh môi trường ), các hoạt động của các ngành trong hệ thống an sinh xã hội đã từng bước giúp đáp ứng nhu cầu cơ bản và phát huy tính chủ động, tích cực của các đối tượng vươn lên vượt qua khó khăn. - 39 -
- Thứ ba, theo đuổi các chính sách, dịch vụ, tài nguyên và chương trình thông qua công tác biện hộ trong phạm vi cơ sở hay trong công tác quản trị cơ sở hoặc hành động chính trị để tăng quyền lực cho các nhóm nguy cơ, thúc đẩy công bằng xã hội và công bằng kinh tế. Mục đích này chỉ ra rằng các nhân viên xã hội theo đuổi sự chuyển biến về mặt xã hội nhân danh những người bị thương tổn hay những người bị áp bức chống lại nghèo đói, sự phân biệt đối xử và những hình thức bất công khác. Nếu tài nguyên và cơ hội có sẵn cho mọi thành viên xã hội thì luật pháp, chính sách của chính quyền và các chương trình xã hội phải đảm bảo sự tiếp cận như nhau của mọi công dân với các tài nguyên và cơ hội ấy. Nhân viên xã hội thúc đẩy công bằng xã hội bằng cách biện hộ cho những thân chủ bị từ chối các dịch vụ, tài nguyên hay hàng hóa mà họ được quyền hưởng. Nhân viên xã hội cũng tích cực gắn bó trong nỗ lực chống lại chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, phân biệt giới tính và những hình thức phân biệt khác làm ngăn cản sự tiếp cận của thân chủ với các nguồn tài nguyên mà họ đáng được hưởng. Ở nước ta, nhân viên xã hội làm việc ở các cơ sở xã hội như trung tâm bảo trợ xã hội, trung tâm giáo dục dạy nghề thanh thiếu niên, các trung tâm giáo dục dạy nghề giải quyết việc làm (cho người cai nghiện, mại dâm ) và các cơ sở xã hội khác nói chung cần hỗ trợ thân chủ tiếp cận được các hoạt động dạy chữ, dạy nghề, tạo việc làm, vay vốn để sản xuất kinh doanh nhỏ nhằm sớm tái hòa nhập xã hội. Cuối cùng, phát huy và thử nghiệm kiến thức và kỹ năng nghề để đạt những mục đích nói trên. Ngành CTXH cần phải luôn mở rộng kiến thức nền tảng để giúp đỡ thân chủ, cung cấp các dịch vụ có kết quả và hiệu quả, phù hợp đạo đức. Vì thế, mỗi nhân viên CTXH nỗ lực không ngừng để nâng cao kiến thức, kỹ năng chuyên môn và mong mỏi khát khao đóng góp cho nền tảng kiến thức của nghề nghiệp. Để đạt mục đích này, nhân viên xã hội phải luôn học tập nâng cao trình độ chuyên môn thông qua các hình thức học tại hiện trường, vừa học vừa làm, theo học các khóa nâng cao, các lớp tập huấn, hội thảo trao đổi kinh nghiệm - 40 -
- 1.3.4. Chức năng, nhiệm vụ của CTXH 1.3.4.1. Các chức năng của CTXH Các nhân viên CTXH thực hiện các chức năng của ngành CTXH để giải quyết các vấn đề của xã hội. Với 4 chức năng chính như sau: Chức năng phòng ngừa; Chức năng Can thiệp; Chức năng phục hồi và Chức năng phát triển. Chức năng phòng ngừa: Với quan điểm phòng bệnh hơn chữa bệnh, CTXH không chờ tới khi cá nhân hay gia đình rơi vào hoàn cảnh khó khăn rồi mới giúp đỡ. CTXH rất quan tâm đến phòng ngừa những vấn đề xã hội của cá nhân, gia đình hay cộng đồng. Phòng ngừa bao gồm việc cung cấp dịch vụ cho những người dễ bị thương tổn, đẩy mạnh việc thực hiện chức năng xã hội trước khi các vấn đề nảy sinh. Phòng ngừa bao gồm các chương trình và dịch vụ phong phú, tùy từng quốc gia như kế hoạch hóa gia đình, giáo dục các bậc làm bố mẹ, tham vấn trước hôn nhân và các chương trình phong phú hóa hôn nhân, tham vấn trước khi nghỉ hưu, các chương trình hướng nghiệp, dạy nghề, vui chơi giải trí cho thanh thiếu niên. Chức năng can thiệp: Chức năng can thiệp hay còn gọi là chức năng chữa trị hay trị liệu, nhằm trợ giúp cá nhân, gia đình hay cộng đồng giải quyết vấn đề đang gặp phải. Khi thực hiện chức năng này, nhân viên CTXH giúp đỡ đối tượng vượt qua khó khăn, giải quyết vấn đề đang tồn tại. Ví dụ như hoạt động trợ cấp khi cộng đồng bị lũ lụt, thiên tai, hoạt động can thiệp bảo vệ quyền lợi cho phụ nữ bị bạo hành, hoạt động tham vấn can thiệp khủng hoảng khi một bé gái xâm hại tình dục là hoạt động can thiệp sẽ giải quyết vấn đề. Chức năng phục hồi: Phục hồi có mục đích hỗ trợ thân chủ phục hồi việc thực hiện chức năng bị thương tổn do khó khăn vật chất hay tinh thần và phục hồi về mặt xã hội. Phục hồi thể chất thường bao gồm nhóm thân chủ là những người có mức độ khuyết tật khác nhau gây ra bởi chấn thương cột sống, bị tai nạn, người bị ảnh hường bởi bệnh tâm thần nặng, những người bị khuyết tật về phát triển thể chất, những người bị khiếm khuyết nền tảng giáo dục và những người khuyết tật khác. Phục hồi về mặt xã hội nhằm giúp các thân chủ hòa nhập với cuộc sống bình thường trong xã hội, đặc biệt những thân chủ vướng vào các tệ nạn xã hội (người nghiện ma túy, mại dâm ). - 41 -
- Chức năng phát triển: Chức năng phát triển của CTXH thể hiện qua các hoạt động nhằm tăng năng lực, tăng khả năng ứng phó với các tình huống có vấn đề, những sự việc có nguy cơ cao. Ví dụ như các chương trình giải quyết việc làm, các dịch vụ cung cấp đào tạo cho người thất nghiệp, hướng dẫn các gia đình nghèo làm kinh tế, chương trình tập huấn kỹ năng làm cha mẹ Đây được xem như những dịch vụ xã hội giúp cá nhân hay gia đình phát triển khả năng cá nhân, nâng cao kỹ năng sống, kỹ năng làm cha, mẹ, kỹ năng giáo dục con cái. Thông qua hoạt động giáo dục CTXH giúp cá nhân, gia đình và cộng đồng nâng cao nhận thức, rèn luyện kỹ năng, phát huy tính chủ động. 1.3.4.2. Các nhiệm vụ cơ bản của CTXH CTXH gồm có các nhiệm vụ sau: - Nâng cao năng lực, thúc đẩy khả năng tự giải quyết vấn đề của cá nhân, gia đình và cộng đồng. - Nối kết con người với hệ thống nguồn lực, dịch vụ và những cơ hội trong xã hội. - Thúc đẩy sự hoạt động có hiệu quả và tính nhân văn của các hệ thống cung cấp nguồn lực và dịch vụ xã hội. - Phát triển và cải thiện chính sách xã hội. 1.3.5. Các yêu cầu về phẩm chất đối với một nhân viên CTXH 1.3.5.1. Yêu cầu về đạo đức Bộ LĐ – TBXH (2017) đã ban hành Thông tư 01/2017/TT-BLĐTBH quy định về tiêu chuẩn đạo đức nghề nghiệp đối với người làm nghề công tác xã hội. Theo điều 4 của Thông tư, yêu cầu về phẩm chất đạo đức của một nhân viên CTXH có 7 ý sau: – Cần, kiệm, liêm, chính, không được lạm dụng các mối quan hệ với đối tượng để vụ lợi cá nhân; xác định rõ ranh giới giữa cuộc sống cá nhân và nghề nghiệp. – Tâm huyết, trách nhiệm, chủ động và sáng tạo trong việc cung cấp dịch vụ công tác xã hội chuyên nghiệp cho đối tượng. – Kiên nhẫn, thấu hiểu, chia sẻ và quan tâm đối với đối tượng. - 42 -
- – Đặt lợi ích của đối tượng là quan trọng nhất trong quá trình hoạt động nghề nghiệp công tác xã hội. – Chịu trách nhiệm về các hoạt động nghề nghiệp của mình theo quy định của pháp luật. – Giữ gìn sự đoàn kết với các đồng nghiệp; không lợi dụng, chia rẽ mối quan hệ giữa các đồng nghiệp. – Chăm sóc bản thân và xây dựng hình ảnh phù hợp để đảm bảo hoạt động cung cấp dịch vụ công tác xã hội chuyên nghiệp, hiệu quả. 1.3.5.2. Yêu cầu về kiến thức Nhân viên CTXH cần có kiến thức khá rộng. Bên cạnh những kiến thức nghề nghiệp họ còn cần tới những kiến thức liên quan khác phục vụ cho công việc của mình. Có thể liệt kê những kiến thức mà nhân viên CTXH cần có như sau: – Chính sách xã hội – Tâm lý học – Xã hội học – Kiến thức bổ trợ khác như kinh tế, pháp luật 1.3.5.3. Yêu cầu về kỹ năng đối với nhân viên xã hội Trong tiến trình trợ giúp đối tượng giải quyết vấn đề, nhân viên CTXH cần có những kỹ năng cụ thể về đảm bảo hiệu quả công việc, tuỳ theo chức năng và hoạt động. Sau đây là một số kỹ năng cụ thể: – Kỹ năng lắng nghe tích cực – Kỹ năng thu thập, phân tích thông tin – Kỹ năng nhận xét, đánh giá – Kỹ năng thiết lập mối quan hệ với đối tượng – Kỹ năng quan sát đối tượng – Kỹ năng diễn giải vấn đề, thuyết trình trước quần chúng - 43 -
- – Kỹ năng giúp đối tượng tìm hiểu nguyên nhân của vấn đề – Kỹ năng đưa ra các giải pháp và dự đoán hiệu quả sử dụng – Kỹ năng kiểm soát cảm xúc cá nhân như giữ được bình tĩnh, tự tin trước mọi tình huống – Kỹ năng làm việc với nhiều tổ chức khác nhau, kể cả những tổ chức chính phủ và phi chính phủ – Kỹ năng biện hộ cho nhu cầu của đối tượng – Kỹ năng giao tiếp – Kỹ năng tư vấn – Kỹ năng tham vấn. 1.3.6. Các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định chọn ngành CTXH a. Yếu tố về đặc điểm cá nhân - Chọn nghề theo tính cách: CTXH là ngành nghề thuộc nhóm ngành xã hội, phù hợp với những người thuộc nhóm tính cách xã hội. Theo cách phân tích của Holland, người mang tính cách xã hội thích báo tin, chỉ bảo, phát triển, chữa lành và khai sáng người khác. Người có tính xã hội tự nhận thấy mình có ích, thông hiểu và có thể truyền kiến thức cho người khác, coi trọng những hoạt động xã hội. Tránh những hoạt động yêu cầu công việc hoặc việc làm mang tính “thực tế”. Những đặc điểm chung của nhóm người này là rộng rãi, kiên nhẫn, mạnh mẽ, lịch thiệp, có sức thuyết phục và sẵn sàng hợp tác. Đây là nhóm tính cách thích làm việc với con người, tham gia các hoạt động tình nguyện, đọc các sách hoàn thiện bản thân. Cụ thể, ngành CTXH cũng yêu cầu với những đức tính như: trung thực, kiên trì, nhẫn nại, vị tha, rộng lượng, cương trực, có sự cảm thông, cởi mở. Đây là những nét tính cách cần thiết để phù hợp với tiêu chuẩn đạo đức của ngành CTXH. Những nét tính cách trên cũng là nguyên nhân thúc đẩy quyết định chọn ngành. - Chọn nghề theo sở thích: Trong quá trình chọn ngành CTXH không thể bỏ qua yếu tố sở thích. Sở thích cũng là yếu tố giúp cá nhân có thể đến và ở lại với ngành nghề đã chọn. Các em chọn ngành CTXH do cảm thấy thích tham gia các hoạt động xã hội hoặc do những cảm xúc tích cực có được khi trải nghiệm các hoạt động xã hội được tổ chức ở bậc THPT. - 44 -