Khóa luận Áp dụng quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng và trình phòng trị bệnh cho đàn lợn nái và lợn con theo mẹ nuôi tại trại lợn tập đoàn Hòa Phát tại tỉnh Yên Bái

pdf 57 trang thiennha21 19/04/2022 3520
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Áp dụng quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng và trình phòng trị bệnh cho đàn lợn nái và lợn con theo mẹ nuôi tại trại lợn tập đoàn Hòa Phát tại tỉnh Yên Bái", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfkhoa_luan_ap_dung_quy_trinh_cham_soc_nuoi_duong_va_trinh_pho.pdf

Nội dung text: Khóa luận Áp dụng quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng và trình phòng trị bệnh cho đàn lợn nái và lợn con theo mẹ nuôi tại trại lợn tập đoàn Hòa Phát tại tỉnh Yên Bái

  1. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM ÂU VĂN PHÚC Tên chuyên đề: ÁP DỤNG QUY TRÌNH CHĂM SÓC, NUÔI DƯỠNG VÀ PHÒNG TRỊ BỆNH CHO ĐÀN LỢN NÁI VÀ LỢN CON THEO MẸ NUÔI TẠI TRẠI LỢN TẬP ĐOÀN HÒA PHÁT TẠI TỈNH YÊN BÁI KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Hệ đào tạo : Chính quy Chuyên ngành: Chăn nuôi thú y Khoa : Chăn nuôi Thú y Khóa học : 2014 – 2019 Thái Nguyên – 2019
  2. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM ÂU VĂN PHÚC Tên chuyên đề: ÁP DỤNG QUY TRÌNH CHĂM SÓC, NUÔI DƯỠNG VÀ PHÒNG TRỊ BỆNH CHO ĐÀN LỢN NÁI VÀ LỢN CON THEO MẸ NUÔI TẠI TRẠI LỢN TẬP ĐOÀN HÒA PHÁT TẠI TỈNH YÊN BÁI KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Hệ đào tạo : Chính quy Chuyên ngành: Chăn nuôi thú y Lớp : K47 – CNTY- Marpha Khoa : Chăn nuôi Thú y Khóa học : 2014 – 2019 Giảng viên hướng dẫn:TS. Phạm Thị Phương Lan Thái Nguyên – 2019
  3. i LỜI CẢM ƠN Trước hết, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới Ban Giám Hiệu Trường Đại Học Nông lâm Thái Nguyên, Ban chủ nhiệm khoa Chăn nuôi thú y, các thầy giáo, cô giáo đã truyền đạt cho tôi những kiến thức chuyên ngành trong suốt quá trình học tập vừa qua. Đây là những kiến thức tạo cơ sở cho tôi ứng dụng và phát huy trong sự nghiệp của tôi sau này. Đặc biệt, tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cô giáo TS.Phạm Thị Phương Lan và ThS. Ngô Xuân Trường trưởng trại chăn nuôi lợn công ty TNHH MTV chăn nuôi Hòa Yên đã rất tận tình và trực tiếp hướng dẫn tôi thực hiện thành công khóa luận này. Đồng thời, tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn trân thành tới lãnh đạo trại lợn chăn nuôi Hòa Yên xã Lương Thịnh, huyện Trấn Yên, tỉnh Yên Bái, cùng toàn thể anh chị em quản lý, kỹ sư, công nhân trong trại đã tạo mọi điều kiện giúp đỡ tôi hoàn thành công việc trong quá trình thực tập của mình. Cuối cùng, tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới gia đình, bạn bè, những người thân yêu luôn động viên, giúp đỡ tôi trong suốt thời gian hoàn thành khóa luận. Tôi xin chân thành cảm ơn tất cả! Thái Nguyên,ngày tháng năm2019 Sinh viên Âu Văn Phúc
  4. ii LỜI NÓI ĐẦU Để hoàn thành chương trình đào tạo trong nhà trường, thực hiện phương châm “Học đi đôi với hành, lý thuyết gắn với thực tiễn sản xuất”, thực tập tốt nghiệp là giai đoạn cuối cùng trong toàn bộ chương trình học tập của tất cả các trường Đại học nói chung và trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên nói riêng. Giai đoạn thực tập chiếm một vị trí hết sức quan trọng đối với mỗi sinh viên trước khi ra trường. Đây là khoảng thời gian để sinh viên củng cố và hệ thống hóa toàn bộ kiến thức đã học, đồng thời giúp sinh viên làm quen với thực tiễn sản xuất, từ đó nâng cao trình độ chuyên môn, nắm được phương thức tổ chức và tiến hành công việc nghiên cứu, ứng dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào thực tiễn sản xuất, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp phát triển đất nước ngày càng đi lên. Xuất phát từ nguyện vọng của bản thân và được sự đồng ý của Ban chủ nhiệm khoa Chăn nuôi Thú y Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên, được sự phân công của cô giáo hướng dẫn và sự tiếp nhận của trại lợn nái xã Lương Thịnh, huyện Trấn Yên, tỉnh Yên Bái, chúng tôi đã tiến hành đề tài: “Áp dụng quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng và phòng trị bệnh cho đàn lợn nái và lợn con theo mẹ nuôi tại trại lợn tập đoàn Hòa Phát tỉnh Yên Bái”. Do bước đầu làm quen với công tác nghiên cứu khoa học, kiến thức chuyên môn chưa sâu, kinh nghiệm thực tế chưa nhiều và thời gian thực tập còn ngắn nên trong bản khóa luận này của em không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót. Em kính mong nhận được những ý kiến đóng góp quý báu của thầy, cô giáo cùng các bạn đồng nghiệp để bản khóa luận của em được hoàn thiệnhơn. Em xin chân thành cảm ơn!
  5. iii DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng 2.1. Nhiệt độ quay úm lợn con như sau 8 Bảng 4.1. Cơ cấu đàn lợn nái sinh sản của trại 34 Bảng 4.2. Kết quả thực hiện quy trình chăm sóc nuôi dưỡng đàn lợn. 35 Bảng 4.3. Lịch sát trùng an toàn sinh học 36 Bảng 4.4. Kết quả thực hiện công tác vệ sinh chăn nuôi 37 Bảng 4.5. Kết quả thực hiện phòng bệnh cho đàn lợn con nuôi tại trại 38 Bảng 4.6. Kết quả phòng bệnh cho đàn lợn nái nuôi con bằng vắc xin 39 Bảng 4.7. Kết quả điều trị bệnh trên đàn lợn con 40 Bảng 4.8. Kết quả điều trị bệnh trên đàn lợn nái 41 Bảng 4.9. Kết quả thực hiện một số thao tác khác trên đàn lợn tại trang trại. 43
  6. iv DANH MỤC CÁC TỪ, CỤM TỪ VIẾT TẮT ADG : Trọng lượng bình quân trung bình của lợn/ngày Cs : Cộng sự FCR : Tiêu tốn thức ăn/kgTT GGP : Kí hiệu của đời cụ kị GP : Kí hiệu của đời ông bà HTNC : Huyết thanh ngựa chửa : Tên gọi chung của các triệu chứng bệnh thường xảy ra Hội chứng MMA trên heo nái bao gồm viêm vú, viêm tử cung, mất sữa. L : Landrace Nxb : Nhà xuất bản : Porcine reproductive and respiratory syndrome - Hội PRRS chứng rối loạn sinh sản và hô hấp ở lợn PS : Kí hiệu của đời bố mẹ TT : Thể trọng VTM : Vitamin Y : Yorkshire
  7. v MỤC LỤC LỜI CẢM ƠN i LỜI NÓI ĐẦU ii DANH MỤC CÁC BẢNG iii DANH MỤC CÁC TỪ, CỤM TỪ VIẾT TẮT iv MỤC LỤC v Phần 1: MỞ ĐẦU 1 1.1. Đặt vấn đề 1 1.2. Mục tiêu và yêu cầu của đề tài 2 1.2.1. Mục tiêu 2 1.2.2. Yêu cầu 2 Phần 2: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU 3 2.1. Điều kiện cơ sở nơi thực tập 3 2.1.1. Quá trình thành lập và cơ cấu tổ chức của trang trại 3 2.2. Cơ sở khoa học của đề tài 8 2.2.1. Đặc điểm sinh lý sinh dục của lợn nái 8 2.2.2. Những hiểu biết về quy trình chăm sóc và nuôi dưỡng lợn nái sinh sản 14 2.2.3. Những hiểu biết về công tác phòng trị, bệnh cho lợn 20 2.2.4. Những bệnh thường gặp ở lợn nái và lợn con 23 2.3. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước 30 2.3.1. Tình hình nghiên cứu trong nước 30 2.3.2. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài 31 Phần 3: ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP TIẾN HÀNH 32 3.1. Đối tượng 32 3.2. Địa điểm và thời gian tiến hành 32 3.3. Nội dung tiến hành 32 3.4. Các chỉ tiêu và phương pháp theo dõi 32 3.4.1. Các chỉ tiêu thực hiện 32 3.4.2. Phương pháp thực hiện 32
  8. vi Phần 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 34 4.1. Kết quả áp dụng quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng cho lợn nái sinh sản và lợn con tại cơ sở 34 4.1.1. Cơ cấu đàn lợn nái sinh sản của trại 34 4.1.2. Kết quả thực hiện chăm sóc, nuôi dưỡng cho đàn lợn nuôi tại trại. 34 4.2. Kết quả thực hiện quy trình phòng bệnh cho đàn lợn 36 4.2.1. Thực hiện vệ sinh phòng bệnh bằng phương pháp vệ sinh sát trùng chuồng trại 36 4.2.2. Kết quả phòng bệnh cho đàn lợn tại trại bằng thuốc và vắc xin 37 4.2.3. Kết quả điều trị bệnh cho đàn lợn nuôi tại trại. 39 Phần 5: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 44 5.1. Kết luận 44 5.2. Đề nghị 45 TÀI LIỆU THAM KHẢO 52
  9. 1 Phần 1 MỞ ĐẦU 1.1. Đặt vấn đề Chăn nuôi là một trong hai lĩnh vực quan trọng trong nền nông nghiệp (chăn nuôi, trồng trọt), nó không những đáp ứng nhu cầu thực phẩm cho tiêu dùng hàng ngày của mọi người dân trong xã hội mà còn là nguồn thu nhập có ý nghĩa quan trọng của hàng triệu người dân hiện nay. Đặc biệt nước ta có hơn 75% dân số làm nông nghiệp, trong đó ngành chăn nuôi chiếm một vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Chăn nuôi lợn từ lâu đã gắn bó với người nông dân Việt Nam. Từ việc chăn nuôi nhỏ lẻ tại các hộ gia đình nhằm tận dụng các phế phụ phẩm nông nghiệp, hiện nay đã có nhiều phương thức chăn nuôi đa dạng góp phần nâng cao thu nhập của người dân. Chăn nuôi lợn ở nước ta đang được chú trọng phát triển, ngày càng chiếm ưu thế và có tầm quan trọng đặc biệt trong đời sống của nhân dân. Con lợn đã cung cấp 70 - 80% nhu cầu về thịt cho thị trường trong nước và xuất khẩu, đồng thời cung cấp nguồn phân bón cho ngành trồng trọt và các sản phẩm phụ cho ngành công nghiệp chế biến. Muốn chăn nuôi lợn đạt hiệu quả kinh tế cao thì cần phải có con giống tốt. Muốn có giống lợn tốt thì chăn nuôi lợn nái sinh sản có một vai trò đặc biệt quan trọng bởi vì ngoài việc chọn được giống lợn có khả năng sinh trưởng nhanh, tỷ lệ thịt nạc cao, tiêu tốn thức ăn thấp thì việc nuôi dưỡng, chăm sóc và quản lý dịch bệnh cho lợn nái và lợn con theo mẹ là rất quan trọng. Nếu nuôi dưỡng, chăm sóc lợn nái và lợn con không đúng kỹ thuật thì chất lượng đàn con sẽ kém, do đó ảnh hưởng rất lớn đến khả năng sinh trưởng của lợn con ở giai đoạn sau và hiệu quả chăn nuôi sẽ thấp. Trong quá trình nuôi dưỡng, chăm sóc lợn nái nuôi con và lợn con theo mẹ sau khi đẻ còn gặp nhiều khó khăn, trở ngại, đặc biệt là những bệnh dịch thường xuyên xảy ra ở lợn nái nuôi con sau khi đẻ và lợn con theo mẹ. Khi bệnh dịch xảy ra đối với lợn mẹ và lợn con trong giai đoạn này đã làm cho chất lượng lợn con cai sữa
  10. 2 kém, ảnh hưởng rất lớn đến khả năng sinh trưởng của lợn sau này. Vì vậy, áp dụng quy trình phòng và trị bệnh cho lợn nái và lợn con theo mẹ hiệu quả là cần thiết Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn sản xuất, em tiến hành thực hiện đề tài:“Áp dụng quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng và trình phòng trị bệnh cho đàn lợn nái và lợn con theo mẹ nuôi tại trại lợn tập đoàn Hòa Phát tại tỉnh Yên Bái”. 1.2. Mục tiêu và yêu cầu của đề tài 1.2.1. Mục tiêu - Nắm được quy trình chăm sóc lợn nái sinh sản và lợn con theo mẹ. - Nắm được các bệnh hay xảy ra đối với lợn nái sinh sản và lợn con theo mẹ nuôi tại trại. - Đánh giá hiệu quả của quy trình phòng, trị bệnh sinh sản cho đàn lợn nái, một số bệnh trên đàn lợn con nuôi tại trại. 1.2.2. Yêu cầu - Đánh giá được tình hình chăn nuôi tại trại trang trại trại lợn tập đoàn hòa phát tại tỉnh Yên Bái. - Áp dụng quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng cho đàn lợn nái sinh sản và lợn con nuôi tại trại đạt hiệu quả cao. - Xác định được tình hình mắc bệnh, áp dụng và đánh giá hiệu quả của quy trình phòng, trị bệnh cho đàn lợn nuôi tại trại.
  11. 3 Phần 2 TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU 2.1. Điều kiện cơ sở nơi thực tập 2.1.1. Quá trình thành lập và cơ cấu tổ chức của trang trại 2.1.1.1. Quá trình thành lập Trang trại chăn nuôi lợn an toàn sinh học công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên chăn nuôi Hòa Yên – tập đoàn Hòa Phát nằm gần khe núi thuộc xã Lương Thịnh, huyện Trấn Yên, tỉnh Yên Bái. Vùng nuôi này cách xa các khu dân cư về mặt phòng dịch bệnh thì rất tốt vì địa hình rừng núi “nội bất xuất ngoại bất nhập”. Khu này chỉ có một đường vào với diện tích rộng 44ha, hệ thống chuồng trại với quy mô nuôi dự định nuôi 10.200 lợn giống ngoại nhập, hoạt động theo phương thức công nghiệp, mô hình hiện đại, hiện là trại chăn nuôi với quy mô lớn nhất miền Bắc. Trại xây dựng cơ sở vật chất theo hệ thống của Đan Mạch, sáng ngày 26/5/2016, lô lợn giống đầu tiên của Hòa Phát trong mảng chăn nuôi đã về tới sân bay Nội Bài, sau một hành trình dài từ Đan Mạch về Việt Nam. Gần 800 con giống thuộc dòng cụ kỵ (GGP) với khối lượng trung bình từ 40 – 60 kg (10 – 18 tuần tuổi) đều khỏe mạnh, an toàn và được thông quan, làm thủ tục kiểm định thú y ngay tại Nội Bài.Hiện nay trại thuê công nhân, công ty đầu tư thức ăn, thuốc thú y và cán bộ kỹ thuật, trang trại do ông Ngô Xuân Trường làm trưởng trại, cán bộ kỹ thuật của công ty gồm 4 quản lý, nhiều kỹ sư có trình độ cao và công nhân. 2.1.1.2. Cơ cấu tổ chức của trang trại Cơ cấu tổ chức gồm 3 nhóm: + Nhóm quản lý bao gồm ông Ngô Xuân Trường trưởng trại phụ trách chung, 4 quản lý khu gồm khu nái, khu thịt, khu cai sữa, tổ di truyền. + Nhóm kỹ thuật bao gồm 8 kỹ sư, 4 kỹ thuật điện, 2 kế toán phụ trách chuyên môn. + Nhóm công nhân bao gồm 47 công nhân, 4 bảo vệ, 3 tạp vụ, 4 sinh viên thực tập thực hiện công việc chuyên môn.
  12. 4 Với đội ngũ nhân công trên, trại phân ra làm các tổ khác nhau như tổ chuồng đẻ, tổ chuồng bầu, tổ cai sữa, tổ chuồng thịt, tổ chuồng đực và phòng pha chế tinh. 2.1.1.3. Cơ sở vật chất của trang trại Trang trại chăn nuôi Hòa Yên có tổng diện tích là 44ha nằm trên địa bàn xã Lương Thịnh, có địa hình vô cùng thuận lợi thuận tiện cho việc đi lại, vận chuyển. Để đảm bảo công tác phát triển sản xuất chăn nuôi và sinh hoạt của công nhân trại được trang bị đầy đủ cơ sở vật chất kỹ thuật gồm: Khu nhà điều hành, khu nhà ở cho quản lý, kỹ sư, công nhân, bếp ăn tập thể, các công trình phục vụ cho công nhân và các hoạt động khác của trại. Khu chăn nuôicó hàng rào bao bọc xung quanh, hệ thống camera, phòng sát trùng và có cổng vào riêng. Chuồng nuôi được xây dựng đảm bảo đủ cho chăn nuôi một cách an toàn sinh học cao nhất, cơ bản bao gồm: + Một chuồng đực giống: bao gồm 24 ô để nuôi lợn đực và 1 ô để khai thác tinh dịch. + Hai chuồng phối: được thiết kế để cho lợn nái chờ phối, có khu thử lợn, ép lợn và dãy 2 có khu để làm nơi thụ tinh nhân tạo cho lợn nái. + Ba chuồng nái chửa: mỗi chuồng gồm 4 dãy mỗi dãy có 65 ô để nuôi và chăm sóc lợn nái trong thời gian mang thai được sắp xếp theo các kỳ mang thai khác nhau thuận tiện cho việc quản lý. + Sáu chuồng nái đẻ: mỗi chuồng chia làm 2 khu A và khu B, mỗi khu có 2 dãy, mỗi dãy có 30 ô chuồng được thiết kế sàn nhựa cho lợn con và sàn bê tông cho lợn mẹ. + Bốn chuồng cai sữa: mỗi chuồng chia làm 2 khu A và B, mỗi khu 2 dãy, mỗi dãy 12 ô. + Mười bốn chuồng thịt: mỗi chuồng gồm 2 dãy, mỗi dãy có 11 ô. + Một chuồng phát triển hậu bị: cách ly dùng để nuôi lợn hậu bị được nhập từ khu nuôi lợn giống, lợn thịt. Hệ thống chuồng xây dựng khép kín hoàn toàn, phía đầu chuồng là hệ thống giàn mát, cuối chuồng được thiết kế quạt hút gió, Bên cạnh chuồng đực có xây dựng phòng pha chế tinh lợn với đầy đủ tiện nghi như: Kính hiển vi, nhiệt kế, đèn cồn, máy ép ống tinh, tủ lạnh bảo quản tinh, nồi hấp, panh, kéo Trong khu chăn nuôi,
  13. 5 đường đi lại giữa các ô chuồng, các khu khác đều được đổ bê tông và có các chậu nước sát trùng. Nhìn chung khu vực chuồng nuôi được xây dựng khá hợp lý, thuận lợi cho việc chăm sóc, đi lại, đuổi lợn giữa các dãy chuồng. Ngay tại cổng vào khu chăn nuôi trại có xây dựng 2 phòng tắm sát trùng cho kỹ thuật và công nhân trước khi ra, vào chuồng chăm sóc lợn, 1 kho thuốc, 1 kho UV khử dụng cụ, 1 kho thức ăn, 2 phòng vệ sinh. Một số thiết bị khác cũng được trang bị đầy đủ: Tủ lạnh bảo quản vắc xin, tủ thuốc để bảo quản và dự trữ thuốc của trại, xe chở thức ăn từ nhà kho xuống các dãy chuồng, máy nén khí phun sát trùng di động khu vực trong và ngoài chuồng 2.1.1.4. Tình hình sản xuất của trang trại - Công tác chăn nuôi Nhiệm vụ chính của trang trại là sản xuất con giống và chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật. Hiện nay trong trại có 28 con lợn đực giống được chuyển về cùng một đợt, các lợn đực giống này được nuôi nhằm mục đích kích thích động dục cho lợn nái và khai thác tinh để thụ tinh nhân tạo. Tinh lợn được khai thác từ 3 giống lợn cụ kị Landrace, Yorkshire, Duroc. Lợn nái được phối 2-3 lần và được luân chuyển giống cũng như con đực. Thức ăn cho lợn nái là thức ăn hỗn hợp hoàn chỉnh có chất lượng cao, được Công ty Chăn nuôi Hòa Phát Việt Nam cấp cho từng đối tượng lợn của trại. - Công tác vệ sinh thú y của trại Vệ sinh phòng bệnh là công tác rất quan trọng vànó có tác dụng tăng sức đề kháng cho vật nuôi, giảm nguy cơ xảy ra dịch bệnh, hạn chế những bệnh có tính chất lây lan từ đó phát huy tốt tiềm năng của giống. - Công tác vệ sinh Chuồng trại được xây dựng theo hệ thống chuồng kín, thoáng mát về mùa hè, ấm áp về mùa đông được hệ thống điều khiển về nhiệt độ, độ thông thoáng giúp cho vật nuôi phát triển trong môi trường sạch an toàn nhất, xung quanh các chuồng nuôi đều có hàng rào bảo vệ, che chắn, côn trùng, cóc, chuột không thể vào chuồng.
  14. 6 Trước cửa vào các khu có rắc vôi bột từ đó hạn chế được rất nhiều tác động của mầm bệnh bên ngoài đối với lợn nuôi trong chuồng. Hàng ngày luôn có công nhân quét dọn vệ sinh chuồng trại, thu gom phân, nước tiểu, khơi thông cống rãnh, đường đi trong trại được quét dọn, phun thuốc sát trùng, hành lang đi lại được quét dọn và rắc vôi theo quy định. Công nhân, kỹ sư, khách tham quan trước khi vào khu chăn nuôi đều phải sát trùng tắm rửa sạch sẽ, thay quần áo bảo hộ lao động. - Công tác chăm sóc nuôi dưỡng Trong quá trình thực tập tại trại, tôi đã tham gia trực tiếp chăm sóc nái hậu bị, công tác phối giống, chăm sóc nái mang thai, nái đẻ, tham gia đỡ đẻ, chăm sóc cho đàn lợn con theo mẹ. Quy trình chăm sóc nái hậu bị, công tác phối giống, chăm sóc nái chửa, nái đẻ, đàn lợn con lợn mẹ như sau: Giai đoạn nái hậu bị Lợn hậu bị nhập về trại được nuôi cách ly tại chuồng cách ly 6 tuần, riêng với trại thuần vì lợn hậu bị được nuôi cùng khu vực nên được đưa thẳng vào khu phát triển hậu bị khi đạt 20 - 26 tuần tuổi. Không nuôi lợn cái hậu bị cùng chuồng lợn đực do làm mất tác dụng của việc tiếp xúc, trường hợp không có chuồng thì nuôi đực ở ô cuối gần quạt và gần nhóm lợn hậu bị ít tuổi nhất. Lợn cái hậu bị được nuôi quần thể giống hình thức nuôi thịt, hạn chế xả nước hoặc không xả nước vào bể tắm với hậu bị trên 18 tuần tuổi. Hàng ngày kiểm tra sức khoẻ, theo dõi khả năng thu nhận thức ăn, khả năng phát triển, phát hiện những trường hợp bất thường, có biện pháp can thiệp kịp thời. Tiếp xúc với lợn hàng ngày tạo sự gần gũi thân thiện với người chăn nuôi, đây là việc làm rất quan trọng nhằm hạn chế stress giúp lợn lên giống và phối giống được tốt hơn, tách lọc lợn theo trọng lượng để tăng độ đồng đều. Tạo sự thích nghi cho lợn mới nhập về bằng cách đưa lợn nái già khoẻ mạnh bình thường xuống chuồng cách ly, tiêu chuẩn 01 nái già cho 10 cái hậu bị, thời gian tiếp xúc với nái già 30 ngày, mỗi nái già đưa xuống cách ly không quá 10 ngày sau đó được loại thải ra khỏi trại. Chăm sóc lợn mang thai
  15. 7 Quét dọn chuồng trại hàng ngày đảm bảo chuồng luôn sạch, kiểm tra máng ăn, núm uống, quạt, dàn mát đảm bảo mọi thiết bị luôn hoạt động tốt, lau máng hàng ngày, không để cám rơi vãi và ẩm mốc. Kiểm tra lợn nái sau phối 3 tuần - 6 tuần - 9 tuần, bằng cách quan sát bằng mắt thường kết hợp với lùa lợn đực đi kiểm tra với lợn nái sau phối 3 tuần với lợn nái mang thai 6 tuần và 9 tuần kiểm tra bằng mắt thường kết hợp với máy siêu âm. Đo độ dày mỡ lưng vào ngày mang thai thứ 60 và 90 kết hợp với đánh giá điểm thể trạng, điều chỉnh thức ăn theo giai đoạn mang thai và theo kết quả kiểm tra. Mùa đông tăng lượng thức ăn thêm 200 - 300 (gram/con/ngày), tiêm phòng đầy đủ các loại vắc xin theo quy trình tiêm phòng. Điều chỉnh thức ăn giảm dần trước đẻ 4 ngày, mỗi ngày giảm 0,5 kg thức ăn, ngày đẻ cho ăn 1 kg. Cho ăn 2 lần/ngày vào 7h và 14h (Riêng mùa hè thời gian cho ăn sẽ điều chỉnh là 6h30 và 17h), căn cứ vào tình hình thực tế có thể áp dụng chương trình cho ăn 1 lần/ngày. Trước ngày dự kiến đẻ 1 tuần tắm sạch nái bằng nước pha thuốc sát trùng loãng, tẩy nội ngoại ký sinh trùng sau đó chuyển sang chuồng đẻ. Giai đoạn mang thai rất cần môi trường sống yên tĩnh, tránh stress, hạn chế sự di chuyển trong thời gian 1 tháng đầu tiên và 30 ngày cuối cùng của thai kỳ khi di chuyển phải nhẹ nhàng cẩn trọng. Chăm sóc lợn nái đẻ và lợn con lợn mẹ Chuồng trại được vệ sinh cọ rửa sạch sau mỗi lứa, sử dụng xà phòng trong quá trình cọ rửa. Ưu tiên sử dụng nước nóng và máy xịt rửa áp lực cao (Kacher) trong quá trình vệ sinh chuồng. Phun thuốc sát trùng chuồng nuôi, chỉ phun khi chuồng đã khô, phun lại lần 2 trước khi nhập lợn 3 ngày. Thông rửa nước trong đường ống, không để lưu cữu, kiểm tra và liệt kê các vật dụng phục vụ cho lợn đẻ như: Dụng cụ, thuốc, thức ăn, vắc xin, quây úm lợn vv Làm úm cho lợn con trước ngày dự kiến đẻ 2 ngày, lắp bóng úm và trải thảm úm trước đẻ 1 ngày. Diện tích úm đảm bảo 0,07m2/con, quây úm có cửa ra vào rộng 15 cm, cao 25 cm, úm kín tránh gió lùa. Bật bóng úm hồng ngoại trước lúc lợn
  16. 8 đẻ 15 phút, lợn nái sắp đẻ chuyển đến chuồng đẻ phải chắc chắn chuồng đẻ vận hành tốt và khô sạch. Nhiệt độ chuồng nuôi phù hợp với lợn nái đẻ 18 - 220C, tốc độ gió từ 1,8 - 2,0 m/s, áp lực nước 4 lít/phút. Bảng 2.1. Nhiệt độ quay úm lợn con như sau Tuần tuổi Nhiệt độ (0C) 1 34 2 32 3 31 4 30 Nguồn : Trại chăn nuôi Hòa Yên Chăm sóc lợn con theo mẹ: Lợn con sau khi sinh phải được bú sữa đầu càng sớm càng tốt, sữa đầu là loại thức ăn cho lợn con vô cùng quan trọng, lượng kháng thể thụ động nhằm phòng chống các bệnh trong giai đoạn đầu đời. Sữa đầu được tiết ra trong 3 ngày đầu, nó giảm nhanh sau 12h đầu, vì vậy cần giúp lợn con bú sữa đầu nhiều nhất trong 12h đầu tiên. Chăm sóc lợn mẹ: cho ăn tăng dần mỗi ngày thêm 0,5 kg, đến ngày thứ 7 sau đẻ lượng ăn đạt 6 kg/con/ngày. Các ngày tiếp theo ăn tự do, bám sát theo công thức = 2 + 0,5 x số con. Số lần ăn 3 - 4 lần/ngày, thời điểm ăn trong ngày phụ thuộc vào mùa. Kiểm tra núm uống tất cả các ô lợn nái đẻ, đảm bảo nước uống sạch, đủ áp lực: lượng nước uống cho lợn nái trong giai đoạn nuôi con là 35 - 50 lít/ngày, thiếu nước cũng là nguyên nhân làm lợn nái ăn kém. Điều chỉnh tăng độ rộng chuồng cho nái nuôi con, giúp lợn nái thoải mái mỗi khi đứng lên nằm xuống. Thời gian ăn của lợn nái khoảng 25 phút, cần kiểm tra máng từng con để phát hiện lợn bỏ ăn, lợn ăn kém. 2.2. Cơ sở khoa học của đề tài 2.2.1. Đặc điểm sinh lý sinh dục của lợn nái * Sự thành thục về tính:
  17. 9 Tuổi thành thục về tính là tuổi mà con vật bắt đầu có phản xạ tính dục và có khả năng sinh sản. Khi gia súc đã thành thục về tính, bộ máy sinh dục đã phát triển hoàn thiện, dưới tác dụng của thần kinh nội tiết tố con vật bắt đầu xuất hiện các phản xạ về sinh dục. Con cái có hiện tượng động dục, con đực có phản xạ giao phối. Khi đó các noãn bào của con cái chín và rụng trứng (lần đầu), con đực có phản xạ sinh tinh. Đối với các giống gia súc khác nhau thì thời gian thành thục về tính cũng khác nhau: Lợn nội thường từ 4 - 5 tháng tuổi (120 - 150 ngày), ở lợn ngoại (180 - 210 ngày). Kết quả nghiên cứu của Phan Xuân Hảo và cs (2001) [9], cho biết lợn Landrace thành thục về tính là 213,1 ngày. Lợn cái có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến sự thành thục về tính như giống, chế độ dinh dưỡng, khí hậu, chuồng trại, trạng thái sinh lý của từng cá thể, Giống: Lợn lai tuổi động dục đầu tiên muộn hơn so với lợn nội thuần, lợn lai F1 bắt đầu động dục lúc 6 tháng tuổi khi khối lượng cơ thể đạt 50 - 55 kg. Lợn ngoại động dục lần đầu muộn hơn so với lợn lai vào lúc 6 - 7 tháng tuổi, khi lợn có khối lượng 65 - 68 kg, còn đối với lợn nội tuổi thành thục về tính từ 4 - 5 tháng tuổi. Chế độ dinh dưỡng: ảnh hưởng rất lớn đến tuổi thành thục về tính của lợn nái, thường những lợn được chăm sóc và nuôi dưỡng tốt thì tuổi thành thục về tính sớm hơn những lợn được nuôi trong điều kiện dinh dưỡng kém. Lợn cái được nuôi trong điều kiện dinh dưỡng tốt sẽ thành thục ở độ tuổi trung bình 188,5 ngày (6 tháng tuổi) với khối lượng cơ thể là 80 kg và nếu hạn chế thức ăn thì sự thành thục về tính sẽ xuất hiện lúc 234,8 ngày (trên 7 tháng tuổi) và khối lượng cơ thể là 48,4 kg. Dinh dưỡng thiếu làm chậm sự thành thục về tính là do sự tác động xấu lên tuyến yên và sự tiết kích tố sinh dục nếu thừa dinh dưỡng cũng ảnh hưởng không tốt tới sự thành thục là do sự tích lũy mỡ xung quanh buồng trứng và cơ quan sinh dục làm giảm chức năng bình thường của chúng. Mặt khác, do béo quá ảnh hưởng tới các hormone oestrogen và progesterone trong máu, làm cho hàm lượng của chúng trong cơ thể không đạt mức cần thiết để thúc đẩy sự thành thục. + Mùa vụ và thời kỳ chiếu sáng là yếu tố ảnh hưởng rõ rệt tới tuổi động dục. Mùa Hè lợn cái hậu bị thành thục chậm hơn so với mùa Thu - Đông, điều đó có thể
  18. 10 do ảnh hưởng của nhiệt độ trong chuồng nuôi gắn liền với mức tăng trọng thấp trong các tháng nóng bức. + Ngoài các nhân tố trên, chu kỳ động dục còn chịu tác động của một số nhân tố khác như: Nhiệt độ, chế độ chiếu sáng, pheromone, tiếng kêu của con đực. Sự thành thục về tính được nhận biết bằng sự biến đổi bộ phận ngoài của cơ quan sinh dục và sự biến đổi của thần kinh. Đầu tiên hai mép âm môn sưng đỏ và có dịch chảy ra, sau chuyển sang đỏ thẫm và dịch keo dính lại. Tương ứng là sự biến đổi về thần kinh lúc đầu hưng phấn sau chuyển sang giai đoạn mê ì. Cùng với sự biểu hiện sinh dục bên ngoài ở bên trong buồng trứng cũng có sự biến đổi, các noãn bào nổi trên bề mặt buồng trứng và chín, niêm mạc tử cung tăng sinh, cổ tử cung mở dần kèm lợn tiết dịch. Tuổi động dục đầu tiên của nái hậu bị trung bình là 4 - 5 tháng tuổi nhưng tuổi phối giống lần đầu thích hợp là 7 - 8 tháng tuổi và tuổi đẻ lứa đầu là 11 - 12 tháng tuổi. * Chu kỳ tính: khi gia súc thành thục về tính, những biểu hiện tính dục được biểu hiện ra liên tục có tính chu kỳ, nó chấm dứt hoàn toàn khi cơ thể già yếu. Đây là một quá trình sinh lý phức tạp, sau khi cơ thể phát triển hoàn toàn, cơ quan sinh dục không có bào thai và không có hiện tượng bệnh lý thì bên trong buồng trứng các noãn bào phát triển, chín và nổi cộm lên bề mặt buồng trứng. Khi noãn bào vỡ, trứng rụng gọi là sự rụng trứng, mỗi lần rụng trứng con vật có những biểu hiện tính dục ra bên ngoài gọi là động dục. Do trứng rụng có tính chu kỳ nên động dục của gia súc cũng mang tính chu kỳ. Sở dĩ trứng rụng có tính chu kỳ: dưới sự điều khiển của thần kinh trung ương, tuyến yên tiết ra FSH tác động lên buồng trứng làm các noãn bao phát triển, trong khi đó LH làm trứng chín khi đạt đến tỷ lệ LH/FSH là 3:1 thì khi đó trứng sẽ rụng ra và hình thành thể vàng. Thể vàng tồn tại cho đến khi gần đẻ nếu gia súc được thụ thai và nó chỉ tồn tại từ 3 - 15 ngày nếu trứng không được thụ tinh. Sau đó thể vàng teo đi dưới tác dụng của PGF2α làm co mạch máu ngoại vi nuôi thể vàng, lúc này thể vàng rơi vào tình trạng không được cung cấp chất dinh dưỡng và bị tiêu đi trong vòng 24h.Sau khi
  19. 11 thể vàng teo biến dẫn đến kết quả làm hàm lượng progesteron giảm, lúc này FSH và LH được giải phóng làm trứng phát triển và chín, xuất hiện chu kỳ động dục tiếp theo. Một chu kỳ động dục được tính từ lần thải trứng trước đến lần thải trứng sau. Các loài gia súc khác nhau thì thời gian hình thành chu kỳ là khác nhau, ở lợn thời gian hình thành một chu kỳ trung bình là 21 ngày biến động trong phạm vi từ 18 - 25 ngày,khi tiến hành phối giống lợn đã có thai thì lợn không động dục lại. Thời gian mang thai của lợn là 114 ngày, thời gian động dục trở lại là 7 ngày sau cai sữa, dao động từ 5 - 12 ngày ( Hughes và Jame, 1996) [30]. * Khoảng cách giữa các lứa đẻ: Khoảng cách giữa các lứa đẻ là chỉ tiêu quan trọng đánh giá khả năng sinh sản của gia súc cái. Đây là tính trạng bao gồm nhiều tính trạng tạo nên như: thời gian có chửa, thời gian nuôi con, thời gian cai sữa đến thụ thai lứa sau, do vậy khoảng cách lứa đẻ ảnh hưởng đến số con cai sữa/nái/năm. Nhiều công trình nghiên cứu cho thấy thời gian mang thai của lợn nái dao động không đáng kể (từ 113 - 115 ngày), đây là yếu tố ít biến đổi. Để rút ngắn khoảng cách các lứa đẻ ta chỉ có thể tác động rút ngắn thời gian bú sữa của lợn con bằng cách cai sữa sớm ở lợn con. Để rút ngắn thời gian cai sữa, phải tập cho lợn con ăn sớm từ 5 ngày tuổi đến khi lợn con có thể sống bằng thức ăn được cung cấp, không cần sữa mẹ. Hiện nay các cơ sở chăn nuôi tập trung, thời gian cai sữa ở lợn con là 21 ngày, sau cai sữa 5 - 6 ngày nái mẹ động dục và được phối giống lại. Như vậy khoảng cách các lứa đẻ trung bình là 140 ngày, một năm nái có thể sản xuất được 2,5 lứa. * Sự thành thục về thể vóc Thành thục về thể vóc: Sự thành thục về thể vóc thường diễn ra chậm hơn sự thành thục về tính sau một thời kỳ sinh trưởng và phát triển đến một thời điểm nhất định con vật đạt tới mức độ trưởng thành về thể vóc. Thời gian thành thục về thể vóc của lợn là 7 - 9 tháng. * Tuổi động dục lần đầu (TĐDLĐ) Là khoảng thời gian từ khi sơ sinh đến khi lợn hậu bị có biểu hiện động dục đầu tiên, tuổi động dục lần đầu khác nhau tùy theo giống và chế độ chăm sóc. Các
  20. 12 giống lợn có tuổi động dục lần đầu khác nhau. Theo Phạm Hữu Doanh và Lưu Kỷ (2003) [4]: tuổi động dục đầu tiên ở lợn nội (Ỉ, Móng Cái) rất sớm từ 4 - 5 tháng, khi khối lượng đạt từ 20 - 25 kg; ở lợn nái là F1 lúc 6 tháng tuổi, đạt 50 - 55 kg. Lợn ngoại động dục muộn hơn (6 - 7 tháng) khi đạt 65- 80 kg. TĐDLĐ được tính theo công thức: TĐDLĐ = ngày động dục lần đầu - ngày sinh của lợn nái. Chỉ tiêu này ở lợn Landrace là 219,4 ± 4,09 ngày (Phùng Thị Vân và cs, 2001) [26]. * Tuổi phối giống lần đầu (TPGLĐ) Tuổi phối giống lần đầu của lợn cái hậu bị là một vấn đề cần được quan tâm, phải phối giống cho lợn cái hậu bị đúng thời điểm lợn đã thành thục về tính, có tầm vóc và sức khoẻ đạt yêu cầu, sẽ nâng cao được khả năng sinh sản của lợn nái và nâng cao được phẩm chất của đời sau. Nếu phối giống quá sớm sẽ ảnh hưởng đến tầm vóc và sức khoẻ của lợn mẹ, nhưng thực tế đã chứng minh rằng, nếu phối giống quá muộn sẽ lãng phí về kinh tế ảnh hưởng đến sinh sản, phát dục của lợn cũng như hoạt động về tính của nó. * Chu kỳ động dục (ngày) Động dục là một quá trình sinh lý được bắt đầu khi cơ thể đã thành thục về tính, cứ sau một thời gian nhất định trong cơ thể nhất là cơ quan sinh dục của con cái có một số sự thay đổi như: Âm hộ, âm đạo, tử cung xung huyết, các tuyến sinh dục tăng cường hoạt động, trứng phát triển thành thục chín và rụng, niêm dịch trong đường sinh dục được phân tiết, con cái có phản xạ về tính, sự thay đổi đó xảy ra trong một thời gian lặp đi lặp lại có tính chu kỳ gọi là chu kỳ tính (chu kỳ động dục). Sinh sản của gia súc là một tiêu chuẩn để xác định giá trị của con vật. Khả năng sinh sản biểu hiện qua nhiều chỉ tiêu: Đẻ nhiều con, nhiều lứa, tỷ lệ nuôi sống sau đẻ, sau khi cai sữa, tỷ lệ còi cọc, tỷ lệ dị hình, khuyết tật. Khả năng sinh sản cũng liên quan đến các chỉ tiêu sớm thành thục, thời gian mang thai, số lần thụ tinh đạt kết quả. Sau khi gia súc được sinh ra đến một giai đoạn nào đó cơ thể có những biến đổi chuẩn bị cho việc sinh sản, thời kỳ này gọi là thành thục về tính. Trong
  21. 13 điều kiện bình thường, sự thành thục về tính xuất hiện lúc 6 - 7 tháng tuổi đối với lợn ngoại. Tuổi thành thục về tính chịu ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên, thời gian chiếu sáng, chế độ dinh dưỡng, giống, tuổi gia súc. Chu kỳ tính dục: ở gia súc, việc giao phối bị hạn chế trong khoảng thời gian chịu đực trùng hợp với thời gian rụng trứng vì vậy việc nghiên cứu chu kỳ tính dục sẽ giúp cho chúng ta xác định được thời điểm phối giống thích hợp, nâng cao được năng suất sinh sản của con cái. Trung bình ở lợn chu kỳ động đực: 19 - 20 ngày, thời gian chịu đực: 48 - 72 giờ, thời điểm rụng trứng là 35 - 45 giờ kể từ khi bắt đầu chịu đực. Cho phối giống quá sớm hay quá muộn đều ảnh hưởng xấu đến tỷ lệ thụ thai và số con sinh ra/ổ. Cơ chế động dục: cơ chế động dục của lợn nái: khi lợn nái đến tuổi thành thục về tính dục, các kích thích bên ngoài như ánh sáng, nhiệt độ, thức ăn, pheromone của con đực và các kích thích nội tiết đi theo dây thần kinh li tâm đến vỏ đại não qua vùng dưới đồi (hypothalamus) tiết ra kích tố FRF (folliculin releasing ractors), có tác dụng kích thích tuyến yên tiết ra FSH làm cho bao noãn phát dục nhanh chóng. Trong quá trình bao noãn phát dục và thành thục, thượng bì bao noãn tiết ra oestrogen chứa đầy trong xoang bao noãn làm cho lợn nái có biểu hiện động dục ra bên ngoài. Chu kỳ động dục của gia súc được chia làm 4 giai đoạn ( Hoàng Toàn Thắng và Cao Văn, 2006) [24]: + Giai đoạn trước động dục: Bao noãn phát triển, các tế bào vách ống dẫn trứng tăng sinh. Hệ thống mạch quản trong dạ con phát triển, các tuyến trong dạ con bắt đầu tiết dưới tác dụng của hormone estrogen làm thay đổi của đường sinh dục: Tử cung, âm đạo, âm hộ bắt đầu xung huyết. + Giai đoạn động dục: Bao noãn phát triển mạnh nổi lên bề mặt buồng trứng, bao noãn tiết nhiều estrogen và đạt cực đại. Các thay đổi ở đường sinh dục cái càng sâu sắc hơn, để chuẩn bị đón trứng. Biểu hiện của con vật: Hưng phấn về tính dục, đứng yên cho con khác nhảy, kêu rống, bồn chồn, thích nhảy lên lưng con khác, ít ăn hoặc bỏ ăn, tìm đực. Âm hộ ướt, đỏ, tiết dịch nhày, càng tới thời điểm rụng trứng thì âm hộ đỏ tím, dịch tiết keo lại, mắt đờ đẫn, cuối giai đoạn này thì trứng rụng.
  22. 14 + Giai đoạn sau động dục: Thể vàng bắt đầu phát triển và tiết ra progesteron có tác dụng ức chế sự co bóp của đường sinh dục. Niêm mạc tử cung vẫn còn phát triển, các tuyến dịch nhờn giảm bài tiết, mô màng nhầy tử cung bong ra cùng với lớp tế bào biểu mô âm đạo hóa sừng thải ra ngoài. Biểu hiện hành vi về sinh dục: Con vật không muốn gần con đực, không muốn cho con khác nhảy lên và dần trở lại trạng thái bình thường. + Giai đoạn yên tĩnh: Thể vàng teo dần đi, con vật trở lại trạng thái bình thường, biểu hiện hành vi sinh dục không có. Đây là giai đoạn nghỉ ngơi, yên tĩnh để phục hồi lại cấu tạo, chức năng cũng như năng lượng để chuẩn bị cho chu kỳ động dục tiếp theo. * Thời gian mang thai (ngày) Là thời gian lợn nái từ khi thụ tinh (phối giống đạt) đến khi đẻ. * Tuổi đẻ lứa đầu (TĐLĐ) Là tuổi lợn nái sinh con lứa đầu tiên. TĐLĐ được xác định là khoảng thời gian từ ngày sinh lợn nái đến ngày lợn nái sinh con lứa đầu tiên. TĐLĐ = ngày lợn nái đẻ lứa đầu - ngày sinh của lợn nái. 2.2.2. Những hiểu biết về quy trình chăm sóc và nuôi dưỡng lợn nái sinh sản 2.2.2.1. Quy tình chăm sóc và nuôi dưỡng nái đẻ.  Quy trình nuôi dưỡng Theo Trần Văn Phùng và cs. (2004) [18], thức ăn dùng cho lợn nái đẻ phải là những thức ăn có giá trị dinh dưỡng cao, dễ tiêu hóa. Không cho lợn nái ăn thức ăn có hệ số choán cao gây chèn ép thai sinh ra đẻ non, đẻ khó, hoặc ép thai chết ngạt. Một tuần trước khi lợn đẻ phải căn cứ vào tình trạng sức khỏe cụ thể của lợn nái để có kế hoạch giảm dần lượng thức ăn. Đối với những lợn nái có sức khỏe tốt thì một tuần trước khi đẻ giảm 1/3 lượng thức ăn, đẻ trước 2 - 3 ngày giảm 1/2 lượng thức ăn. Đối với những lợn nái có sức khỏe yếu thì không giảm lượng thức ăn mà giảm dung tích của thức ăn bằng cách tăng cường cho ăn các loại thức ăn dễ tiêu hóa. Những ngày lợn đẻ phải căn cứ vào thể trạng của lợn nái, sự phát dục của bầu vú mà quyết định chế độ dinh dưỡng cho hợp lý.
  23. 15 Ngày lợn nái cắn ổ đẻ, cho lợn nái ăn ít thức ăn tinh (0,5kg) hoặc không cho thức ăn tinh nhưng uống nước tự do. Ngày lợn nái đẻ có thể không cho lợn nái ăn mà chỉ có uống nước ấm có pha muối hoặc ăn cháo loãng. Sau khi đẻ 2 -3 ngày không cho lợn nái ăn nhiều một cách đột ngột mà tăng từ từ đến ngày thứ 4 -5 thì cho ăn đủ tiêu chuẩn. Thức ăn cần chế biến tốt, dung tích nhỏ, có mùi vị thơm ngon để kích thích tính thèm ăn cho lợn nái.  Quy trình chăm sóc Việc chăm sóc lợn nái mẹ có vai trò quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến năngsuất và sức khỏe của cả lợn mẹ và lợn con. Chuồng trại phải được vệ sinh sạch sẽ. Trước khi lợn đẻ 10 -15 ngày cần chuẩn bị đầy đủ chuồng đẻ. Tẩy rửa vệ sinh, khử trùng toàn bộ ô chuồng, nền chuồng, sàn chuồng dùng cho lợn con và lợn mẹ. Yêu cầu chuồng phải khô ráo, ấm áp, sạch sẽ, có đầy đủ ánh sáng. Sau khi vệ sinh tiêu độc nên để trống chuồng từ 3 -5 ngày trước khi lợn nái vào đẻ. Chuồng đẻ cần phải trải đệm lót, có che chắn và thiết bị sưởi ấm trong những ngày mùa đông giá rét. Trước khi đẻ 1 tuần, cần vệ sinh lợn nái sạch sẽ, lợn nái được lau rửa sạch sẽ đất hoặc phân bám dính trên người, dùng khăn thấm nước xà phòng lau sạch bầu vú và âm hộ. Làm như vậy tránh được nguy cơ lợn con mới sinh bị nhiễm khuẩn do tiếp xúc trực tiếp với lợn mẹ có vi khuẩn gây bệnh. Sau khi vệ sinh sạch sẽ cho lợn nái, chúng ta chuyển nhẹ nhàng từ chuồng bầu sang chuồng đẻ để lợn quen dần với chuồng mới. Trong quá trình chăm sóc lợn nái đẻ, công việc cần thiết và rất quan trọng đó là việc chuẩn bị ô úm lợn cho lợn con. Ô úm rất quan trọng đối với lợn con, nó có tác dụng phòng ngừa lợn mẹ đè chết lợn con, đặc biệt những ngày đầu mới sinh lợn con còn yếu ớt, mà lợn mẹ mới đẻ xong sức khỏe còn rất yếu chưa hồi phục. Ô úm tạo điều kiện để khống chế nhiệt độ thích hợp cho lợn con, đặc biệt là lợn con đẻ vào những tháng mùa đông. Ngoài ra, ô úm tạo điều kiện thuận lợi cho việc tập ăn sớm cho lợn con (để máng ăn vào ô úm cho lợn con lúc 7- 10 ngày tuổi) mà không bị lợn mẹ húc đẩy và ăn thức ăn của lợn con. Theo dõi thường xuyên sức khỏe của lợn mẹ, quan sát bầu vú, thân nhiệt lợn mẹ liên tục trong 3 ngày đầu sau khi đẻ để phát hiện sót nhau, sốt sữa hoặc nhiễm trùng để có biện pháp xử lý kịp thời.
  24. 16 2.2.2.2. Quy trình chăm sóc và nuôi dưỡng nái nuôi con  Quy trình chăm sóc Theo Trần Văn Phùng và cs. (2004) [18], vận động tắm nắng là điều kiện tốt giúp cho lợn nái nhanh hồi phục sức khỏe và nâng cao sản lượng sữa của lợn mẹ. Do vậy sau khi lợn đẻ được từ 3 - 7 ngày, trong điều kiện chăn nuôi có sân vận động, nếu thời tiết tốt thì có thể cho lợn nái vận động, thời gian vận động lúc đầu là 30 phút/ngày, sau tăng dần số giờ vận động lên. Trong chăn nuôi công nghiệp, hầu hết lợn nái nuôi con đều bị nhốt trong các cũi đẻ, không được vận động, vì vậy cần phải chú ý đến thành phần dinh dưỡng của thức ăn, đặc biệt các chất khoáng và vitamin. Chuồng trại của lợn nái nuôi con yêu cầu phải đảm bảo luôn khô ráo, sạch sẽ, không có mùi hôi thối, ẩm ướt. Do vậy hàng ngày phải vệ sinh chuồng trại, máng ăn, máng uống sạch sẽ. Chuồng lợn nái nuôi con phải có ô úm lợn con và ngăn tập ăn sớm cho lợn con. Nhiệt độ chuồng nuôi thích hợp là 18 – 20 0C, độ ẩm 70 - 75%.  Quy trình nuôi dưỡng Theo Trần Văn Phùng và cs. (2004) [18], thức ăn cho lợn nái nuôi con phải là những thức ăn có ảnh hưởng tốt đến sản lượng và chất lượng sữa. Đó là các loại thức ăn xanh non như các loại rau xanh, các loại củ quả như bí đỏ, cà rốt, đu đủ. Thức ăn tinh tốt như gạo tấm, cám gạo, bột mỳ, các loại thức ăn bổ sung đạm động vật, đạm thực vật, các loại khoáng, vitamin Không cho lợn nái nuôi con ăn các loại thức ăn thối mốc, biến chất, hư hỏng. Thức ăn hỗn hợp cho lợn nái nuôi con dùng trong chăn nuôi công nghiệp phải đảm bảo đủ protein, năng lượng và các thành phần vitamin, khoáng theo đúng tiêu chuẩn quy định như năng lượng trao đổi 3100 kcal, protein 15%, ca từ 0,9 - 1,0 %, photpho 0,7 %. Lượng thức ăn cho lợn nái nuôi con cũng đóng vai trò quan trọng và ảnh hưởng trực tiếp đến sinh trưởng và khả năng điều tiết sữa của lợn mẹ, chính vì vậy ta cần phải có một khẩu phần ăn hợp lý và đầy đủ dinh dưỡng cho lợn mẹ. Theo Trần Văn Phùng và cs. (2004) [18], trong quá trình nuôi con, lợn nái được cho ăn như sau: - Đối với lợn nái ngoại
  25. 17 + Ngày cắn ổ đẻ: cho lợn nái ăn ít thức ăn hỗn hợp hoàn chỉnh (0,5 kg) hoặc không cho ăn, nhưng cho uống nước tự do. + Sau ngày đẻ thứ 1, 2 và 3 cho ăn thức ăn hỗn hợp với lượng thức ăn từ 1 - 2 - 3kg tương ứng. + Ngày nuôi con thứ 4 đến ngày thứ 7: cho ăn 4kg thức ăn hỗn hợp/nái/ngày. + Từ ngày thứ 8 đến cai sữa cho ăn theo công thức: Lượng thức ăn/nái/ngày = 2kg +(số con x 0,35kg/con). + Số bữa ăn trên ngày: 2 (sáng và chiều). + Nếu lợn mẹ gầy thì cho ăn thêm 0,5 kg, lợn mẹ béo thì giảm 0,5 kg thức ăn/ngày. + Ngoài ra cho lợn nái ăn từ 1 - 2 kg rau xanh/ ngày sau bữa ăn tinh (nếu có rau xanh). + Một ngày trước ngày cai sữa lượng thức ăn của lợn mẹ giảm đi 20 - 30% + Ngày cai sữa cho lợn mẹ nhịn ăn, hạn chế uống nước. - Đối với lợn nái nội + Công thức tính nhu cầu thức ăn cho lợn nái nội nuôi con/1 ngày đêm Lợn nái nội có khối lượng cơ thể dưới 100 kg, mức ăn trong 1 ngày đêm được tính như sau: Thức ăn tinh = 1,2 kg + (số lợn con theo mẹ x 0,18 kg). Thức ăn thô xanh: 0,3 kg. Lợn nái nội có khối lượng cơ thể từ 100 kg trở lên, mức ăn cho 1 ngày đêm giai đoạn nuôi con được tính như sau: Thức ăn tinh = 1,4 kg + (số con theo mẹ x 0,18 kg). Thức ăn thô xanh: 0,4 kg. 2.2.2.3. Quy tình chăm sóc và nuôi dưỡng lợn con theo mẹ  Quy trình nuôi dưỡng lợn con theo mẹ - Lợn con đẻ ra cần được bú sữa đầu càng sớm càng tốt. Sau khoảng 2 giờ, nếu lợn mẹ đẻ xong thì cho cả đàn con cùng bú. Nếu lợn mẹ chưa đẻ xong thì nên cho những con đẻ trước bú trước (Trần Văn Phùng và cs, 2004) [18]. -Việc cố định đầu vú cho lợn con nên bắt đầu ngay từ khi cho chúng bú sữa đầu. Khi cố định đầu vú, nên ưu tiên những con lợn nhỏ yếu được bú các vú ở trước
  26. 18 ngực, làm như vậy nhiều lần trong ngày, làm liên tục 3-4 để chúng quen dần với vị trí vú mới thôi. - Trong những ngày đầu, khi lợn con chưa ăn được, lượng sắt mà lợn con tiếp nhận từ nguồn sữa mẹ không đủ cho nhu cầu của cơ thể, vì vậy lợn con cần được bổ sung thêm nguồn sắt. Nên tiêm sắt cho lợn con trong 3-4 ngày sau khi sinh.Việc tiêm sắt thường cùng làm với các thao tác khác để tiết kiệm công lao động. - Tập ăn sớm cho lợn con để bổ sung thức ăn sớm cho lợn con. Lợn con được bổ sung thức ăn sớm có rất nhiều tác dụng: - Đảm bảo cho lợn con sinh trưởng phát dục bình thường, không hoặc ít bị stress, không bị thiếu hụt dinh dưỡng cho nhu cầu sinh trưởng nhanh của lợn con sau 3 tuần tuổi và khi cai sữa. - Thúc đẩy bộ máy tiêu hóa của lợn con phát triển nhanh và sớm hoàn thiện hơn. Khi bổ sung thức ăn sớm cho lợn con thì kích thích tế bào vách dạ dày tiết HCl ở dạng tự do sớm hơn và tăng cường phản xạ tiết dịch vị. - Giảm tỉ lệ hao hụt của lợn nái. Nếu không được bổ sung thức ăn sớm cho lợn con thì tỉ lệ hao hụt của lợn nái rất cao,nhất là đối với lợ nái nuôi dưỡng kém, có khi tỉ lệ hao hụt lên tới 30%, sẽ làm giảm số lứa đẻ trên một năm. - Nâng cao được khối lượng cai sữa lợn con. Khối lượng cai sữa chịu ảnh hưởng tới 57 % của thức ăn bổ sung, trong khi đó chịu ảnh hưởng của sữa mẹ khoảng 38% và của khối lượng sơ sinh là 5%. - Thường bắt đầu tập ăn cho lợn con từ 7-10 ngày tuổi, với lợn cai sữa sớm lúc 21 ngày tuổi thì phải tập cho ăn lúc 5 ngày tuổi. Tốt nhất nên sử dụng loại thức ăn hỗn hợp hoàn chỉnh sản xuất dành riêng để tập ăn cho lợn con tập ăn đến 8kg. - Thức ăn tập lợn con ăn sớm thường ép thành dạng mảnh như cốm, thơm ngon, vệ sinh sạch sẽ. Với chuồng nái đẻ cũi, máng tập ăn để ở ngăn lợn con. Với chuồng lợn nái nuôi nhốt truyền thống thì để máng tập ăn vào ngay ô sưởi ấm lợn con. Rắc thức ăn vào máng ít một và nhiều lần trong ngày để thức ăn luôn mới, mùi thơm hấp dẫn lợn con ăn.  Quy trình chăm sóc lợn con theo mẹ - Giai đoạn từ sơ sinh đến 3 ngày tuổi: Những kết quả nghiên cứu cho thấy 65% số chết sau khi sinh xảy ra vào lúc lợn con 4 ngày tuổi. Cần chùi sạch nhớt ở
  27. 19 mồm lợn con và giúp nó bắt đầu thở. Cần lau khô lợn con và đặt chúng nằm dưới nguồn nhiệt bổ sung và giúp chúng được bú lần đầu tiên. Nhiệt độ không khí trong chuồng đẻ 21 - 23 0C làm cho lợn con đẻ ra không bị lạnh cóng đột ngột. Chỗ nằm của lợn con phải là khu vực được sưởi ấm (đèn sưởi hoặc sưởi bằng khí nóng hoặc sưởi nóng trong nền chuồng ở nhiệt độ 30 - 33 0C). Tốc độ thông gió cũng cần được khống chế để loại trừ độ ẩm nhưng không gây nên gió lùa cho lợn con. - Ngay sau khi đẻ, phải cắt dây rốn và nếu vẫn còn ướt, xử lý với cồn iod, dung dịch 2%. - Cắt nanh nhọn số 8 để đề phòng làm tổn thương vú lợn mẹ và làm rách mặt lợn khác khi chúng đánh nhau. - Giai đoạn từ 3 ngày đến 3 tuần tuổi: Việc chăm sóc, quản lý trong thời kỳ này bao gồm cả phòng chống thiếu máu, chống ỉa chảy, thiến và cắt đuôi. - Nên dùng loại thuốc nào đề kháng có hiệu quả chủng vi khuẩn ở cơ sở chăn nuôi. Tiểu khí hậu chuồng nuôi khô, ấm, không có gió lùa là quan trọng trước hết để giảm ỉa chảy. Vệ sinh cũng rất quan trọng cho việc làm giảm tỷ lệ mắc ỉa chảy ở lợn con. Tẩy uế và khử trùng chuồng lợn đẻ sau mỗi lô lợn đẻ cũng giúp cho việc phòng ngừa. - Những lợn đực dùng để bán thịt cũng cần được thiến sớm. Để giảm stress, nên thiến lợn trước 2 tuần tuổi. - Giai đoạn từ 3 tuần tuổi đến cai sữa: Tuổi cai sữa cho lợn có sự thay đổi tùy theo đàn, tùy theo chuồng trại có sẵn, tùy cường độ của trại. - Chỉ cai sữa cho những lợn cân nặng trên 5,5kg. - Cai sữa trong thời gian trên 2-3 ngày, cai sữa trước cho những ổ đông con. - Đối với những lợn 3 tuần tuổi, tạo nhiệt độ môi trường 27 - 29 0C. Tránh những thay đổi mạnh về nhiệt độ, đề phòng gió lùa, thậm chí đối với lợn con lớn hơn. - Ghép nhóm lợn con theo tầm vóc cơ thể. - Hạn chế số lượng trong một ngăn rào đến 30 con hoặc ít hơn, nếu được. - Hạn chế mức ăn vào trong vòng 48 giờ nếu có xảy ra ỉa chảy sau cai sữa.
  28. 20 - Cứ 4- 5 lợn con thì đặt 1 máng ăn và cứ 20- 25 lợn con thì lắp 1 vòi nước uống. - Cho thuốc vào nước uống nếu có ỉa chảy. 2.2.3. Những hiểu biết về công tác phòng trị, bệnh cho lợn 2.2.3.1. Phòng bệnh Như ta đã biết ‘‘Phòng bệnh hơn chữa bệnh’’‚ nên khâu phòng bệnh được đặt lên hàng đầu, nếu phòng bệnh tốt thì có thể hạn chế hoặc ngăn chặn được bệnh xảy ra. Các biện pháp phòng bệnh tổng hợp được đưa lên hàng đầu, xoay quanh các yếu tố môi trường, mầm bệnh, vâṭ chủ. Do vậy, việc phòng bệnh cũng như trị, bệnh phải kết hợp ̣nhiều biện pháp khác nhau. - Phòng bệnh bằng vệ sinh và chăm sóc nuôi dưỡng tốt: Theo Nguyễn Ngọc Phụng (2006) [19], bệnh xuất hiện trong một đàn lợn thường do nguyên nhân phức tạp, có thể là bệnh truyền nhiễm, hoặc không truyền nhiễm hoặc có sự kết hợp cả hai. Có rất nhiều biện pháp đã được đưa ra áp dụng nhằm kiểm soát các khả năng xảy ra bệnh tật trên đàn lợn. Phần lớn các biện pháp này đều nhằm làm giảm khả năng lan truyền các tác nhân gây bệnh và nâng cao sức đề kháng của đàn lợn. Theo Lê Văn Tạo và cs. (1993) [20], vi khuẩn e.coli gây bệnh ở lợn là vi khuẩn tồn tại trong môi trường, đường tiêu hoá của vâṭ chủ. Khi môi trường quá ô nhiễm do vê ̣sinh chuồng trại kém, nước uống thức ăn bi ̣nhiễm vi khuẩn, điều kiện ngoại cảnh thay đổi, lợn giảm sức đề kháng dễ bi ̣cảm nhiễm e.coli, bệnh sẽ nổ ra vì vậy mà khâu vê ̣sinh, chăm sóc có một ý nghĩa to lớn trong phòng bệnh. Trong chăn nuôi việc đảm bảo đúng quy trình kỹ thuật là điều rất cần thiết, chăm sóc nuôi dưỡng tốt sẽ tạo ra những gia súc khoẻ mạnh, có khả năng chống đỡ bệnh tật tốt và ngược lại. Ô chuồng lợn nái phải được vê ̣sinh tiêu độc trước khi vào đẻ. Nhiệt đô ̣trong chuồng phải đảm bảo 27 – 30 0C đối với lợn sơ sinh và 28 – 30 0C với lợn cai sữa. Chuồng phải luôn khô ráo, không thấm ướt. Việc giữ gìn chuồng trại sạch sẽ kín, ấm áp vào mùa đông và đầu xuân. Nên dùng các thiết bị sưởi điện hoặc đèn hồng ngoại trong những ngày thời tiết lạnh ẩm để đề phòng bệnh lợn con phân trắng mang lại hiệu quả cao trong chăn nuôi.
  29. 21 Trần Văn Phùng và cs. (2004) [18] cho biết, từ 3 - 5 ngày trước dự kiến đẻ, ô chuồng lợn nái đã được cọ rửa sạch, phun khử trùng bằng hóa chất nhằm tiêu độc khử trùng chuồng lợn nái trước khi đẻ. - Vệ sinh chuồng trại và thiết bị chăn nuôi Chuồng trại phải đảm bảo phù hợp với từng đối tượng vật nuôi, thoáng mát mùa hè, ấm áp mùa đông, đảm bảo cách ly với môi trường xung quanh. Tẩy uế chuồng trại sau mỗi lứa nuôi bằng phương pháp: rửa sạch, để khô sau đó phun sát trùng bằng các loại thuốc sát trùng và trống chuồng ít nhất 15 ngày với vật nuôi thương phẩm, 30 ngày đối với vật nuôi sinh sản. Với những chuồng nuôi lưu cữu hoặc chuồng nuôi có vật nuôi bị bệnh truyền nhiễm, cần phải vệ sinh tổng thể và triệt để: sau khi đưa hết vật nuôi ra khỏi chuồng, xử lý theo hướng dẫn của thú y, cần phun sát trùng kỹ (pha dung dịch sát trùng và phun theo hướng dẫn khi chống dịch) toàn bộ chuồng nuôi từ mái, các dụng cụ và môi trường xung quanh, để khô và dọn, rửa. Các chất thải rắn trong chăn nuôi cần thu gom để đốt hoặc ủ sinh học; chất thải lỏng, nước rửa chuồng cần thu gom để xử lý, không thải trực tiếp ra môi trýờng. Cần phun sát trùng 1-2 lần/tuần trong suốt thời gian trống chuồng, ít nhất trong 30 ngày. Các thiết bị, dụng cụ chãn nuôi cần rửa sạch, phõi khô, sát trùng và ðýa vào kho bảo quản. Vệ sinh và phun sát trùng xung quanh chuồng nuôi. Phòng bệnh bằng vắc xin Phòng bệnh bằng vắc xin là biện pháp phòng bệnh chủ động có hiệu quả nhất. Theo Nguyễn Bá Hiên và Huỳnh Thị Mỹ Lệ (2012) [11], vắc xin là một chế phẩm sinh học mà trong đó chứa chính mầm bệnh cần phòng cho một bệnh truyền nhiễm nào đó (mầm bệnh này có thể là vi khuẩn, vi rút, độc tố hay vật liệu di truyền như ARN, AND ) đã được làm giảm độc lực hay vô độc bằng các tác nhân vật lý, hóa học, sinh học hay phương pháp sinh học phân tử (vắc xin thế hệ mới - vắc xin công nghệ gen). Lúc đó, chúng không còn khả năng gây bệnh cho đối tượng sử dụng, nhưng khi đưa vào cơ thể động vật nó sẽ gây ra đáp ứng miễn dịch làm cho động vật có miễn dịch chống lại sự xâm nhiễm gây bệnh của mầm bệnh tương ứng. 2.2.3.2. Trị bệnh.
  30. 22 Theo Nguyễn Bá Hiên và Huỳnh Thị Mỹ Lệ (2012) [11], nguyên tắc để điều trị bệnh là: + Toàn diện: phải phối hợp nhiều biện pháp như hộ lý, dinh dưỡng, dùng thuốc. + Điều trị sớm trên cơ sở chẩn đoán đúng bệnh để dễ lành bệnh và hạn chế lây lan. + Diệt căn bệnh là chủ yếu kết hợp chữa triệu chứng. + Tiêu diệt mầm bệnh phải đi đôi với tăng cường sức đề kháng của cơ thể, làm cho cơ thể tự nó chống lại mầm bệnh thì bệnh mới chóng khỏi, ít bị tái phát và biến chứng, miễn dịch mới lâu bền. + Phải có quan điểm khi chữa bệnh, chỉ nên chữa những gia súc có thể chữa lành mà không giảm sức kéo và sản phẩm. Nếu chữa kéo dài, tốn kém vượt quá giá trị gia súc thì không nên chữa. + Những bệnh rất nguy hiểm cho người mà không có thuốc chữa thì không nên chữa. Nguyễn Bá Hiên và Huỳnh Thị Mỹ Lệ (2012) [11] cho biết, các biện pháp chữa bệnh truyền nhiễm là : + Hộ lý: cho gia súc ốm nghỉ ngơi, nhốt riêng ở chuồng có điều kiện vệ sinh tốt (thoáng mát, sạch sẽ, yên tĩnh). Theo dõi thân nhiệt, nhịp tim, hô hấp, phân, nước tiểu. Phát hiện sớm những biến chuyển của bệnh để kịp thời đối phó. Cho gia súc ăn uống thức ăn tốt và thích hợp với tính chất của bệnh. + Dùng kháng huyết thanh: chủ yếu dùng chữa bệnh đặc hiệu vì vậy thường được dùng trong ổ dịch, chữa cho gia súc đã mắc bệnh. Chữa bệnh bằng kháng huyết thanh là đưa vào cơ thể những kháng thể chuẩn bị sẵn, có tác dụng trung hòa mầm bệnh hoặc độc tố của chúng (huyết thanh kháng độc tố). + Dùng hóa dược: phần lớn hóa dược được dùng để chữa triệu chứng, một số hóa dược dùng chữa nguyên nhân vì có tác dụng đặc hiệu đến mầm bệnh. Dùng hóa dược chữa bệnh phải tác động mạnh và sớm, vì nhiều loài vi khuẩn có thể thích ứng với liều lượng nhỏ. Chúng có thể chống lại thuốc và tính chất quen thuộc được truyền cho những thế hệ sau. Khi cần, có thể phối hợp nhiều loại hóa dược để tăng hiệu quả điều trị, vì nếu một loại thuốc chưa có tác dụng đến mầm bệnh thì có loại thuốc khác tác dụng tốt hơn.
  31. 23 + Dùng kháng sinh: kháng sinh là những thuốc đặc hiệu có tác dụng ngăn cản sự sinh sản của vi khuẩn hoặc tiêu diệt vi khuẩn. Tuy nhiên sử dụng kháng sinh có thể gây nhiều tai biến do thuốc có tính độc, do phản ứng dị ứng, do một lúc tiêu diệt nhiều vi khuẩn làm giải phóng một lượng lớn độc tố, làm giảm phản ứng miễn dịch của cơ thể. Việc dùng kháng sinh bừa bãi còn gây nên hiện tượng kháng thuốc, làm giảm thấp tác dụng chữa bệnh của kháng sinh. Vì vậy, khi dùng thuốc cần theo những nguyên tắc sau đây: - Phải chẩn đoán đúng bệnh để dùng đúng thuốc, dùng sai thuốc sẽ chữa không khỏi bệnh mà làm cho việc chẩn đoán bệnh về sau gặp khó khăn. - Chọn loại kháng sinh có tác dụng tốt nhất đối với mầm bệnh đã xác định. Dùng liều cao ngay từ đầu, những lần sau có thể giảm liều lượng. - Không nên vội vàng thay đổi kháng sinh mà phải chờ một thời gian để phát huy tác dụng của kháng sinh. - Phải dùng phối hợp nhiều loại kháng sinh để làm giảm liều lượng và độc tính của từng loại, làm diện tích tác động đến vi khuẩn rộng hơn, tăng tác dụng điều trị và hạn chế hiện tượng vi khuẩn kháng thuốc. - Phải tăng cường sức đề kháng của cơ thể gia súc như nuôi dưỡng tốt, dùng thêm vitamin, truyền nước sinh lý 2.2.4. Những bệnh thường gặp ở lợn nái và lợn con 2.2.4.1. Bệnh ở lợn nái  Bệnh viêm tử cung Theo Nguyễn Văn Thanh (2014) [21], viêm tử cung là một hội chứng thường xuất hiện trên lợn nái sau khi đẻ. Lợn nái viêm tử cung sẽ bị tổn thương lớp niêm mạc. Từ đó gây ảnh hưởng sự tiết prostagladin F2 và làm xáo trộn chu kỳ động dục làm tăng tình trạng chậm sinh và vô sinh. Khảo sát tình hình viêm nhiễm đường sinh dục lợn nái sau khi sinh và hiệu quả điều trị của một số loại kháng sinh trên 143 lợn nái sau khi sinh, Trần Ngọc Bích và cs. (2016) [2], đã phát hiện 106 con tiết dịch nghi viêm đường sinh dục, chiếm tỷ lệ74,13%.
  32. 24 Trần Tiến Dũng và cs. (2006) [8] cho biết, viêm tử cung là một quá trình bệnh lý thường xảy ra ở gia súc cái sinh sản sau đẻ. Quá trình viêm phá huỷ các tế bào tổ chức của các lớp hay các tầng tử cung gây rối loạn sinh sản ở gia súc cái làm ảnh hưởng lớn, thậm chí làm mất khả năng sinh sản ở gia súc cái. Bệnh viêm tử cung xảy ra ở những thời gian khác nhau nhưng bệnh xảy ra nhiều nhất vào thời gian sau khi đẻ 1 - 10 ngày ( Nguyễn Xuân Bình, 2000) [1], Theo các tác giả Nguyễn Xuân Bình (2000) [1], Phạm Sỹ Lăng và cs. (2005) [12], Lê Minh và cs. (2017) [13], bệnh viêm tử cung ở lợn nái thường do các nguyên nhân sau: + Công tác phối giống không đúng kỹ thuật, nhất là phối giống bằng phương pháp thụ tinh nhân tạo làm xây xát niêm mạc tử cung, dụng cụ dẫn tinh không được vô trùng khi phối giống có thể từ ngoài vào tử cung lợn nái gây viêm. + Lợn nái phối giống trực tiếp, lợn đực mắc bệnh viêm bao dương vật hoặc mang vi khuẩn từ những con lợn nái khác đã bị viêm tử cung, viêm âm đạo truyền sang cho lợn khoẻ. + Lợn nái đẻ khó phải can thiệp bằng thủ thuật gây tổn thương niêm mạc tử cung, vi khuẩn xâm nhập gây nhiễm trùng, viêm tử cung kế phát. + Lợn nái sau đẻ bị sát nhau xử lý không triệt để cũng dẫn đến viêm tử cung. + Do kế phát từ một số bệnh truyền nhiễm như: Sảy thai truyền nhiễm, Phó thương hàn, bệnh Lao, gây viêm. + Do vệ sinh chuồng lợn đẻ, vệ sinh bộ phận sinh dục lợn nái trước và sau đẻ không sạch sẽ, trong thời gian đẻ cổ tử cung mở vi sinh vật có điều kiện để xâm nhập vào gây viêm. Theo Đoàn Thị Kim Dung và Lê Thị Tài (2002) [5], nguyên nhân gây ra bệnh viêm tử cung chủ yếu do vi khuẩn tụ cầu vàng ( staphylococcus aureus), liên cầu dung huyết ( streptococcus hemolitica) và các loại proteus vulgais, klebriella, dung huyết e.coli, còn có thể do trùng roi ( trecbomonas fortus) và do nấm candda albicans.
  33. 25 Mặt khác, khi gia súc đẻ, nhất là trường hợp đẻ khó phải can thiệp, niêm mạc tử cung bị xây sát và tạo các ổ viêm, mặt khác các bệnh truyền nhiễm như sảy thai truyền nhiễm, phó thương hàn, lao thường gây viêm tử cung, âm đạo. Theo Nguyễn Thị Hồng Minh (2014) [14], yếu tố thời tiết, khí hậu, ảnh hƣởng rõ rệt đến tỷ lệ mắc hội chứng viêm tử cung: mùa hạ có tỷ lệ nhiễm cao nhất 53,37%, mùa đông 46,05%, mùa thu 43,70%. - Triệu chứng Theo Nguyễn Văn Thanh (2014) [21], khi lợn nái bị viêm tử cung, các chỉ tiêu lâm sàng như: thân nhiệt, tần số hấp đều tăng. Lợn bị sốt theo quy luật: sáng sốt nhẹ 39 - 39,5oC, chiều 40 - 41oC. Con vật ăn kém, sản lượng sữa giảm, có khi con vật cong lưng rặn như rặn đái. Từ cơ quan sinh dục chảy ra niêm dịch nhiều lợn cợn, mùi hôi tanh, có màu trắng đục, hồng hay nâu đỏ. Khi nằm lượng niêm dịch chảy ra nhiều hơn. Trong trường hợp thai chết lưu âm đạo sưng tấy, đỏ, có chứa dịch tiết màu vàng sẫm, nâu có mùi hôi thối. Xung quanh âm hộ và mép đuôi có dính bết niêm dịch, có khi niêm dịch khô đóng thành vẩy trắng, lợn nái mệt mỏi đi lại khó khăn. - Hậu quả Theo Trần Tiến Dũng và cs. (2006) [8], Trần Thị Dân (2004) [3], khi lợn nái bị viêm tử cung sẽ dẫn tới một số hậu quả chính sau: + Khi lợn bị viêm tử cung dễ dẫn đến sảy thai Lớp cơ trơn ở thành tử cung có đặc tính co thắt. Khi mang thai, sự co thắt của cơ tử cung giảm đi dưới tác dụng của progesterone, nhờ vậy phôi có thể bám chặt vào tử cung. Khi tử cung bị viêm cấp tính do nhiễm trùng, tế bào lớp nội mạc tử cung tiết nhiều prostaglandin F2α (PGF2α), PGF2αgây phân huỷ thể vàng ở buồng trứng bằng cách bám vào tế bào của thể vàng để làm chết tế bào và gây co mạch hoặc thoái hoá các mao quản ở thể vàng nên giảm lưu lượng máu đi đến thể vàng. Thể vàng bị phá huỷ, không tiết progesterone nữa, do đó hàm lượng progesterone trong máu sẽ giảm làm cho tính trương lực co của cơ tử cung tăng nên gia súc cái có chửa dễ bị sảy thai. + Lợn mẹ bị viêm tử cung bào thai cũng phát triển kém hoặc thai chết lưu.
  34. 26 + Sau khi sinh con lượng sữa giảm hoặc mất hẳn nên lợn con trong giai đoạn theo mẹ thường bị tiêu chảy. + Theo Trần Thị Dân (2004) [3], lợn nái bị viêm tử cung mãn tính sẽ không có khả năng động dục trở lại. + Tỷ lệ phối giống không đạt tăng lên ở đàn lợn nái viêm tử cung sau khi sinh đẻ. Hiện tượng viêm tử cung âm ỉ kéo dài từ lứa đẻ trước đến lứa đẻ sau là nguyên nhân làm giảm độ mắn đẻ.  Biện pháp phòng trị - Phòng bệnh Theo Nguyễn Tài Năng và cs. (2010) [16], vệ sinh chuồng trại sạch sẽ một tuần trước khi lợn đẻ, rắc vôi bột hoặc nước vôi 20% sau đó rửa sạch bằng nước thường, tắm cho lợn trước khi đẻ, vệ sinh sạch sẽ bộ phận sinh dục và bầu vú. Lê Văn Năm (1999) [15] cho biết, trong khi đỡ đẻ bằng tay phải sát trùng kĩ bằng cồn, xoa trơn tay bằng vaselin hoặc dầu lạc. + Cho lợn nái chửa thường xuyên vận động, đảm bảo ăn uống đầy đủ, vệ sinh sạch sẽ. + Kiểm tra nghiêm ngặt dụng cụ dẫn tinh đúng quy định và không để nhiễm khuẩn. + Không sử dụng lợn đực bị nhiễm khuẩn đường sinh dục để nhảy trực tiếp hoặc lấy tinh. + Phòng bệnh truyền nhiễm leptospirosis, brucellosis . bằng cách dùng vắc xin đúng quy định, đúng thời gian cho đàn lợn sinh sản tránh những trường hợp bị sốt đột ngột gây sẩy thai. - Điều trị Có nhiều phương pháp để điều trị bệnh viêm tử cung. Phạm Sỹ Lăng và cs. (2005) [12], cho biết hiệu quả điều trị bệnh viêm tử cung bằng phác đồ như sau: Thụt rửa tử cung bằng các dung dịch thuốc sát trùng như: biocid - 30 (1%), lugol (5%), han - ioddine (5%) + Tiêm một trong các loại kháng sinh sau: gentamycine, oxytetracyclin, penicillin, + Tiêm oxytocin để đẩy các niêm dịch và dịch viêm ra ngoài. + Dùng thuốc trợ sức, trợ lực như: ade, bcomplex, canxi - b12,
  35. 27 Tử cung có liên quan mật thiết với các cơ quan khác, trong đó có hệ thần kinh - thể dịch. Bởi vậy, điều trị bệnh viêm tử cung bao gồm điều trị cục bộ và điều trị toàn thân ( Lê Văn Năm, 1999) [15]. + Điều trị cục bộ: Thụt rửa tử cung bằng các dung dịch muối 0,9%, KMnO4 0,01% hoặc nivanol 0,1%; sau đó thụt bằng một trong các loại kháng sinh sau: penicillin, streptomycin, + Điều trị toàn thân: Có thể dùng một trong các loại kháng sinh tổng hợp như sau: ampisep, aenorfcoli, gentamycin, ampicillin, kết hợp với thuốc trợ lực như: vitamin C, b.complex.  Bệnh sót nhau - Nguyên nhân Theo Trịnh Đình Thâu và Nguyễn Văn Thanh (2010) [22], sau khi đẻ tử cung co bóp yếu trong thời gian mang thai nhất là giai đoạn cuối con vật không được vận động thỏa đáng. Trong thức ăn thiếu các chất khoáng, nhất là Ca và P. Hoặc tử cung bị sa liệt, con vật quá gầy yếu hoặc quá béo, chửa quá nhiều thai, thai quá to, khó đẻ, nước ối quá nhiều làm tử cung giãn nở quá mức. + Do viêm niêm mạc tử cung trước lúc đẻ làm dính nhau với tử cung hoặc nhau chưa ra hết thì người đỡ đẻ đã kéo đứt còn lại một ít sót lại trong tử cung. Do lợn con còn sót lại ở trạng thái nằm sai vị trí làm tắc đường ra của nhau. - Triệu chứng Sau khi đẻ 4 - 5 giờ không thấy nhau ra hoặc không hết là bị sót nhau. Lợn nái rặn nhiều, đôi khi bỏ ăn, sốt cao liên tục 40 - 410C trong vòng 1 - 2 ngày, lợn mẹ cắn con, không cho con bú, niêm dịch chảy ra màu đục, lẫn máu. - Điều trị Can thiệp kịp thời ngay khi nái có biểu hiện bệnh, không để quá muộn sẽ gây ra viêm tử cung, can thiệp đúng kỹ thuật, không quá mạnh tay, tránh những tổn thương. Tiêm oxytoxin để kích thích co bóp tử cung cho nhau còn sót lại đẩy ra ngoài hết. Sau khi nhau thai ra dùng nước muối sinh lý 0,9% để rửa tử cung trong ba ngày liên tục ( Trịnh Đình Thâu và Nguyễn Văn Thanh, 2010) [22].  Bệnh viêm vú
  36. 28 - Nguyên nhân + do heo mẹ bị viêm tử cung, vi khuẩn theo máu đến tuyến vú gây viêm vú. Lợn con có răng nanh hoặc chuồng trại có nhiều cạnh sắc làm xây xát vú mẹ tạo điều kiện vi trùng staphylococcus, streptococcus xâm nhập. Lợn nái nhiều sữa con bú không hết làm sữa ứ đọng nhiều tạo môi trường cho vi trùng sinh sản gây viêm vú. Lợn nái cho con bú một hàng vú, hàng còn lại căng sữa quá nên viêm. + Do vệ sinh chuồng trại kém, phân, nước tiểu không thoát hết, nhiệt độ chuồng trại quá lạnh, quá nóng. + Do việc dùng thuốc sát trùng tẩy uế chưa hợp lý trong khu trang trại cũng như trong chuồng lợn nái trước và sau khi đẻ. + Do kế phát từ các bệnh viêm âm đạo, tử cung. - Triệu chứng: + Lợn nái bỏ ăn, nằm một chỗ, sốt cao, không cho con bú. Tất cả các bầu vú hay một vài bầu vú bị viêm, đỏ, đau, nóng, sưng; có con bị viêm nặng, bầu vú tím bầm lại và sờ nắn bầu vú thấy cứng. Bình thường bệnh viêm vú xảy ra ngay sau khi đẻ 4 - 5 giờ cho đến 5 - 7 ngày có khi đến một tháng. heo Ngô Nhật Thắng (2006) [23]: viêm vú thường xuất hiện ở một vài vú nhưng đôi khi cũng lan ra toàn bộ các vú. Vú có màu hồng, sưng đỏ, sờ vào thấy nóng, hơi cứng ấn vào lợn nái có phản ứng đau. Lợn nái giảm ăn, trường hợp nặng thì bỏ ăn, sốt cao 40,5– 420C kéo dài trong suốt thời gian viêm, sản lượng sữa giảm, lợn nái thường nằm úp đầu vú xuống sàn, ít cho con bú. - Biện pháp điều trị: + Vắt cạn sữa ở vú viêm, chườm nóng kết hợp xoa bóp nhẹ vài lần/ngày cho vú mềm dần. + Tiêm analgin C: 1ml/10 kgTT/1lần/ngày. + Tiêm vectrilmoxine LA: 1ml/10 kgTT/1lần/2 ngày. Điều trị liên tục trong 3 - 5 ngày. Nguyễn Hùng Nguyệt (2007) [17] cho biết: Điều trị viêm vú bằng phương pháp châm cứu cho kết quả tốt.
  37. 29 2.2.4.2. Bệnh ở lợn con  Bệnh phân trắng lợn con Bệnh phân trắng lợn con là bệnh xảy ra do rất nhiều nguyên nhân, cho nên người ta còn gọi là “Hội chứng tiêu chảy phân trắng lợn con”. Bệnh xảy ra quanh năm, nhưng nhiều nhất vào vụ đông xuân khi trời lạnh, mưa phùn, độ ẩm cao và vào vụ đẻ, mật độ nuôi dày. Theo Trần Đức Hạnh (2013) [10], lợn con ở 1 số tỉnh phía bắc mắc tiêu chảy và chết với tỷ lệ trung bình là 31,84% và 5,37%, tỷ lệ mắc tiêu chảy và chết giảm dần theo lứa tuổi, cao nhất ở lợn con giai đoạn từ 21 - 40 ngày (30,97 và 4,93%) và giảm ở giai đoạn 41 - 46 ngày. Theo Nguyễn Chí Dũng (2013) [7], ở các tháng có nhiệt độ thấp và ẩm độ cao, tỷ lệ lợn mắc tiêu chảy thường cao (26,98 - 38,18%). - Nguyên nhân: + Do thời tiết khí hậu: các yếu tố nóng, lạnh, mưa, nắng, hanh, ẩm thay đổi thất thường và điều kiện chăm sóc nuôi dưỡng ảnh hưởng trực tiếp đến cơ thể lợn, nhất là cơ thể lợn con chưa phát triển hoàn chỉnh, các phản ứng thích nghi của cơ thể (Đoàn Thị Kim Dung, 2004) [6]. + Lợn con bị nhiễm khuẩn: Theo Phạm Sỹ Lăng (2005) [12], bệnh tiêu chảy ở lợn có nguyên nhân do vi khuẩn e.coli, salmonella, trong đó salmonella là vi khuẩn có vai trò quan trọng trong quá trình gây ra hội chứng tiêu chảy. Glawisschning E. và Bacher H. (1992) [29] cho biết nguyên nhân gây bệnh phân trắng lợn con chủ yếu là do vệ sinh chuồng trại kém, thức ăn thiếu dinh dưỡng, chăm sóc quản lý không tốt. Lợn mẹ bị viêm vú, viêm tử cung. Lợn mẹ ăn không đúng khẩu phần. Bệnh tiêu chảy trên heo con do e.coli có thể xảy ra ở bất kỳ độ tuổi theo mẹ nào nhưng thường có hai thời kỳ cao điểm là 0 - 5 ngày tuổi và 7 - 14 ngày tuổi (Nagy và Fekete, 2005) [31]. - Triệu chứng: Biểu hiện thay đổi theo độc lực của mầm bệnh, tuổi và tình trạng miến dịch của lợn con. Những trường hợp nặng triệu chứng lầm sàng là mất nước, toan huyết và chết. Một số trường hợp nặng lợn con có thể chết trước khi xuất hiện tiêu chảy.
  38. 30 Tiêu chảy có thể xuất hiện 2 – 3 giờ sau khi sinh và có thể ảnh hưởng trên một con hay toàn lứa. Lợn con của những lợn nái đẻ lứa đầu thì bị ảnh hưởng nhiều hơn so với những lợn con của những lợn nái đẻ nhiều lứa. Một số lượng lớn lợn con trong chuồng bị ảnh hưởng và tỷ lệ chết cao trong một vài ngày đầu. Tiêu chảy có thể nhẹ và không có hiện tượng mất nước cho đến nặng và mất nước rõ. Màu phân thay đổi tùy theo loại mầm bệnh như: trắng, xám, vàng, xanh mùi chua, tanh. Trường hợp nặng lợn co có thể bị mất nước, 30 – 40% trọng lượng cơ thể bị mất do mất nước. Cơ vùng bụng mất trương lực, lợn suy nhược uể oải, mắt trũng, da xắm và hơi xanh. Trường hợp mãn tính hậu môn sưng đỏ do tiếp xúc nhiều với phân mang tính chất kiềm. 2.3. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước 2.3.1. Tình hình nghiên cứu trong nước Bệnh sinh sản có ảnh hưởng rất lớn đến năng suất sinh sản của lợn nái, nó không chỉ làm giảm sức sinh sản của nái mà còn có khả năng làm cho nái mất khả năng sinh sản, chậm sinh hay làm giảm khả năng sống sót của lợn con. Trịnh Đình Thâu và Nguyễn Văn Thanh (2010) [22], tỷ lệ lợn nái mắc bệnh viêm tử cung là tương đối cao, bệnh thường tập trung ở đàn lợn nái đẻ lứa đầu hoặc đã đẻ nhiều lứa. Lợn con ở giai đoạn theo mẹ có khả năng sinh trưởng, phát dục rất nhanh. So với khối lượng sơ sinh thì khối lượng lợn con lúc 10 ngày tuổi tăng gấp 2 lần, lúc 21 ngày tuổi tăng gấp 4 lần (Trần Văn Phùng và cs, 2004) [18]. Nhu cầu dinh dưỡng của lợn con ngày càng tăng, trong khi đó sữa mẹ sau 3 tuần tuổi giảm đi rõ rệt. Việc xác định thời gian cai sữa cho lợn con có ý nghĩa rất quan trọng, vì nó ảnh hưởng tới số lứađẻ/năm, mặt khác có liên quan đến sức khoẻ của lợn mẹ và sự phát triển của đàn con sau khi cai sữa. Nếu cai sữa ở 3 tuần tuổi có thể nâng số lứa đẻ/năm lên 2,5 so với ở 8 tuần là 1,8 - 2 lứa. Tuỳ theo tập quán chăn nuôi và điều kiện cụ thể, có thể cai sữa ở 19 ngày (Mỹ), 23 - 28 ngày (Australia). Tốt nhất nên cai sữa cho lợn con ở 21 - 28 ngày tuổi. Nguyễn Thiện và Hoàng Kim Giao (1996) [25] cho biết, bộ máy tiêu hóa ở lợn con phát triển nhanh, song khả năng chống đỡ bệnh tật ở đường ruột và dạ dày
  39. 31 còn yếu. Do đó, cần chú ý vệ sinh chuồng trại, máng ăn, máng uống và áp dụng các biện pháp phòng chống bệnh đường tiêu hóa cao hơn. 2.3.2. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài Bệnh sinh sản gặp ở lợn nái không chỉ là mối quan tâm riêng của nước ta mà cũng có rất nhiều nghiên cứu mới về tình hình bệnh sinh sản ở nước ngoài như: Theo Bidwell và Williamson (2005) [28], đã có những nghiên cứu về tình hình mắc bệnh sinh sản của lợn nái do virút, vi khuẩn gây ra. Các ông cũng đưa ra các biện pháp nhằm phát hiện và giảm khả năng mắc bệnh PRRS trên lợn nái sinh sản: Để điều tra nguyên nhân gây nhiễm trùng của bệnh sinh sản cần có hồ sơ điều trị bệnh. Triệu chứng lâm sàng, trật tự xuất hiện các triệu chứng. Kết hợp của các xét nghiệm chẩn đoán thích hợp là cần thiết. Gửi tất cả các mẫu lấy từ heo con bị hủy bỏ, chết non và nhau thai đến phòng thí nghiệm hoặc gửi ít nhất một lít huyết thanh từ các con tiêu hủy. Các phân tích từ phòng thí nghiệm là rất cần thiết để có biện pháp hạn chế sự bùng phát của dịch. Andrew Gresham (2003) [27], điều tra tình hình mắc bệnh sinh sản tại Vương Quốc Anh thì bệnh sinh sản ở lợn có một căn nguyên không nhiễm trùng và thường liên quan đến yếu tố managemental, dinh dưỡng hay môi trường. Tuy nhiên, bệnh enzootic và bệnh dịch sinh sản truyền nhiễm kéo dài có thể gây thiệt hại đáng kể. Bệnh truyền nhiễm sinh sản ở Anh thương là do nhiễm trùng bởi vi khuẩn, virút và đôi khi nấm và động vật nguyên sinh cư trú trong đàn gia súc. Thỉnh thoảng, bệnh sinh sản xảy ra do nhiễm các mầm bệnh như hội chứng rối loạn sinh sản và hô hấp, parvovirus, leptospires (đặc biệt là leptospira interrogans serovar bratislava).
  40. 32 Phần 3 ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP TIẾN HÀNH 3.1. Đối tượng - Đối tượng nghiên cứu: lợn nái sinh sản và lợn con nuôi tại trại lợn Tập đoàn Hòa Phát tại tỉnh Yên Bái. - Phạm vi nghiên cứu: quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng và phòng trị bệnh. 3.2. Địa điểm và thời gian tiến hành - Địa điểm nghiên cứu: trại lợn Tập đoàn Hòa Phát tại tỉnh Yên Bái. - Thời gian nghiên cứu: từ ngày 18/5/2018 đến ngày 18/11/2018 3.3. Nội dung tiến hành - Đánh giá tình hình chăn nuôi tại trại lợn Tập đoàn Hòa Phát tại tỉnh Yên Bái. - Thực hiện quy trình chăm sóc nuôi dưỡng và phòng trị bệnh cho đàn lợn nái, lợn con nuôi tại trại. - Xác định tình hình mắc bệnh, áp dụng và đánh giá hiệu quả quy trình phòng trị bệnh cho đàn lợn nái, lợn con nuôi tại trại. 3.4. Các chỉ tiêu và phương pháp theo dõi 3.4.1. Các chỉ tiêu thực hiện - Khối lượng công việc vệ sinh, sát trùng chuồng trại - Số lượng lợn nái được chẩn đoán và điều trị bệnh - Số lượng lợn con được chẩn đoán và điều trị bệnh - Lịch tiêm phòng vắc xin cho đàn lợn nái và lợn con của trại 3.4.2. Phương pháp thực hiện 3.4.2.1. Theo dõi gián tiếp - Qua số liệu trong sổ sách của trại lợn Tập đoàn Hòa Phát tại tỉnh Yên Bái. - Trực tiếp theo dõi, chăm sóc, nuôi dưỡng, điều trị lợn mắc bệnh và ghi chép số liệu hàng ngày. 3.4.2.2. Phương pháp chẩn đoán lâm sàng - Hàng ngày theo dõi sức khoẻ đàn lợn, thông qua phương pháp chẩn đoán lâm sàng. Quan sát các biểu hiện như: trạng thái cơ thể, bộ phận sinh dục ngoài, dịch rỉ
  41. 33 viêm, phân, tình trạng sức khỏe lợn con, khả năng vận động, ghi chép vào nhật ký thực tập hàng ngày. Từ các triệu chứng thu thập được tiến hành chẩn đoán và điều trị bệnh cho lợn dưới sự hướng dẫn của kỹ sư trại. 3.4.2.3. Phương pháp xác định chỉ tiêu Tổng số con mắc bệnh - Tỷ lệ mắc bệnh (%) = x 100 Tổng số con theo dõi Tổng số con khỏi bệnh - Tỷ lệ khỏi bệnh (%) = x 100 Tổng số con điều trị Tổng số con chết - Tỷ lệ chết (%) = x 100 Tổng số con mắc bệnh Tổng số ngày điều trị của từng con - Thời gian điều trị TB (ngày) = Tổng số con điều trị Các số liệu thu thập được xử lý trên phần mềm Excel 2007.
  42. 34 Phần 4 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 4.1. Kết quả áp dụng quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng cho lợn nái sinh sản và lợn con tại cơ sở 4.1.1. Cơ cấu đàn lợn nái sinh sản của trại Bảng 4.1. Cơ cấu đàn lợn nái sinh sản của trại Tháng Nái hậu bị Nái chửa Nái đẻ, nuôi con 5 126 658 132 6 107 639 120 7 172 628 115 8 322 624 128 9 271 641 146 10 387 642 124 11 357 651 122 Tổng 1742 4483 887 Qua kết quả bảng 4.1 cho thấy: Trong năm gần đây, cơ cấu đàn lợn nuôi tại trang trại chăn nuôi lợn sinh học công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên chăn nuôi Hòa Yên tăng nhanh không chỉ về số lượng mà còn chất lượng, số lượng nuôi giữa các loại lợn của trại là rất khác nhau và có sự chênh lệch rõ rệt, đặc biệt là lợn nái hậu bị tăng lên với số lượng lớn từ 126 con trong tháng 5, đến tháng 11 đã tăng lên 357 con, do trong những tháng mùa hè tình hình dịch bệnh đặc biệt là những bệnh về sinh sản diễn ra phức tạp làm cho tỉ lệ lợn nái loại tăng cao, vì thế phải tăng số lượng nái hậu bị để luôn duy trì đàn lợn ổn định. Để có được kết quả như vậy thì việc áp dụng khoa học kỹ thuật, công tác an toàn sinh học cao và đòi hỏi có trình độ chuyên môn cao, nhiều kinh nghiệm và công tác quản lý dịch bệnh tốt. 4.1.2. Kết quả thực hiện chăm sóc, nuôi dưỡng cho đàn lợn nuôi tại trại. Chăm sóc, nuôi dưỡng là một trong những quy trình không thể thiếu của bất kì trại chăn nuôi nào. Trong quá trình thực tập tại trại, em đã trực tiếp tham gia nuôi dưỡng chăm sóc, quản lý đàn lợn nuôi tại trại được trình bày ở bảng 4.2:
  43. 35 Bảng 4.2. Kết quả thực hiện quy trình chăm sóc nuôi dưỡng đàn lợn. Khối lượng Tỷ lệ hoàn Số lượng công việc thành so với cần STT Công việc thực hiện nhiệm vụ thức hiện được được giao (số lần) (số lần) (%) 1 Cho lợn ăn hàng ngày 400 400 100 2 Tắm chải cho lợn 150 120 80 3 Chọn nái hậu bị 4 4 100 4 Phối tinh nhân tạo 270 70 26 Khai thác, pha chế, bảo 5 180 18 10 quản tinh 6 Xuất bán lợn nái loại 10 10 100 Kết quả bảng 4.2 cho thấy, trong 6 tháng thực tập tại trại em đã thực hiện tốt công tác chăm sóc, nuôi dưỡng cho đàn lợn tại trại, để lợn nái có sức khỏe tốt và có khả năng sinh sản cao thì lợn phải cho ăn đủ bữa, đủ lượng và đủ dinh dưỡng. Lợn nái đẻ và lợn nái nuôi con được cho ăn 3 bữa/ ngày ( sáng , trưa, tối), lợn nái chửa cho ăn 1 bữa với lợn mang thai dưới 12 tuần, cho ăn 2 bữa với lợn mang thai trên 12 tuần. Trong 6 tháng thực tập em đã thực hiện được 400 lần cho lợn ăn, đạt tỉ lệ 100%. Tắm chải cho lợn nái chửa những ngày nắng nóng là vô cùng quan trọng và được thực hiện thường xuyên 1 lần/ngày ( trừ ngày mưa gió, rét ). Trong 6 tháng thực tập em đã thực hiện được 120 lần tắm chải cho lợn, hoàn thành 80 % công việc được giao. Trong thời gian thực tập tại trại, trại đã thực hiện 4 lần chọn nái hậu bị và em đã được tham gia cả 4 lần. Bên cạnh đó em đã tham gia và trực tiếp phối tinh cho 70 lợn nái đạt tỉ lệ 26%, 18 lần khai thác, pha chế, bảo quản tinh đạt tỉ lệ 10 %. Những lợn nái quá già hoặc viêm nhiễm đường sinh dục không có khả năng động dục ảnh hưởng tới khả năng sinh sản, thì trại sẽ tiến hành loại thải, em đã tham gia loại thải 10 lần, hoàn thành 100% công việc đã được giao.
  44. 36 4.2. Kết quả thực hiện quy trình phòng bệnh cho đàn lợn 4.2.1. Thực hiện vệ sinh phòng bệnh bằng phương pháp vệ sinh sát trùng chuồng trại Quá trình vệ sinh là một trong những công việc quan trọng để nâng cao chất lượng con giống, tạo môi trường thuận lợi nhất cho sự phát triển của lợn. Để góp phần nâng cao chất lượng, năng suất của đàn lợn trong thời gian thực tập tại trại tôi đã tích cực tham gia công tác vệ sinh cùng cán bộ kỹ sư, công nhân trong trại với lịch trình như sau: Bảng 4.3. Lịch sát trùng an toàn sinh học Trong chuồng Ngoài Thứ Chuồng nái chửa Chuồng ðẻ Chuồng cai sữa chuồng Phun sát 2 Tiêm phòng vắc xin và phun sát trùng trùng 3 Cọ máng, vệ sinh Sát trùng + rắc vôi Quét và rắc vôi 4 Quét mạng nhện Phun sát trùng Quét mạng nhện Rắc vôi 5 Phun sát trùng Xả vôi, xút gầm Làm vắc xin 6 Xịt gầm, rắc vôi Phun sát trùng Phun sát trùng Vệ sinh 7 Nhổ cỏ quanh trại , tổng vệ sinh quanh khu vực chãn nuôi CN Tổng vệ sinh khu vực nhà ở Định kỳ vệ sinh nơi ở, bếp ăn, chuồng trại, môi trường xung quanh trại như: khơi thông cống rãnh, phát quang bờ bụi, rắc vôi diệt ký sinh trùng mang mầm bệnh. Hàng ngày cho lợn ăn, vệ sinh máng ăn sạch sẽ, chuẩn bị thức ăn, thường xuyên phun thuốc sát trùng, thuốc diệt côn trùng, xịt gầm và tẩy rửa sàn chuồng. Sau khi lợn con được chuyển đến khu chuồng mới, tôi tham gia tháo dỡ các tấm nan chuồng mang ra ngâm ở bể sát trùng bằng dung dịch NaOH 10 %, ngâm trong 1 ngày, sau đó cọ sạch mang phơi khô. Ô chuồng và khung chuồng cũng được cọ sạch bằng dung dịch NaOH pha với nồng độ loãng khoảng 5 % sau đó xịt sạch bằng dung dịch vôi xút.
  45. 37 Gầm chuồng cũng được tiêu độc khử trùng sạch sẽ, để khô rồi tiến hành lắp các tấm nan vào, sau đó đuổi lợn chờ đẻ vào. Khi có dịch bệnh xảy ra công tác vệ sinh thú y được tiến hành nhanh chóng hơn, thường xuyên, triệt để hơn bao giờ hết. Kết quả công tác thực hiện phòng bệnh bằng phương pháp vệ sinh sát trùng được trình bày ở bảng 4.4. Bảng 4.4. Kết quả thực hiện công tác vệ sinh chăn nuôi Kết quả so với Số lượng cần Số lượng Công việc nhiệm vụ được thực hiện (lần) (lần) giao (%) Vệ sinh chuồng trại hàng ngày 180 160 88,89 Phun sát trùng 24 24 100 Quét mạng nhện 24 24 100 Xịt gầm, rắc vôi 24 24 100 Tổng vệ sinh quanh khu vực chăn 24 24 100 nuôi Tắm sát trùng 360 320 88,89 Bảng 4.4. cho thấy, công tác vệ sinh sát trùng chuồng trại được thực hiện mỗi ngày 1 lần để đảm bảo chuồng trại luôn sạch sẽ. Trong 6 tháng thực tập tại trại em đã trực tiếp thực hiện 160 lần vệ sinh chuồng trại, đạt 88,89% công việc được giao. Công tác phun sát trùng định kỳ xung quang chuồng trại, quét mạng nhện, xịt gầm, rắc vôi, tổng vệ sinh quanh khu chăn nuôi được thực hiện 1 lần/ tuần để ngăn chặn những sinh vật lây truyền bệnh cho đàn lợn. Các công việc này em đã tham gia thực hiện đầy đủ, đạt tỉ lệ 100% công việc được giao. Công tác tắm sát trùng trước khi vào chuồng là công tác quan trọng nhất trong việc vệ sinh phòng bệnh, công tác này được thực hiện ngày 2 lần sáng và chiều trước khi vào chuồng, em đã thực hiện đúng theo quy định của trại. Qua đó, em biết được cách thực hiện việc vệ sinh , sát trùng trong chăn nuôi như thế nào cho hợp lý, nhờ đó hạn chế được dịch bệnh cũng như nâng cao sức đề kháng cho đàn vật nuôi. 4.2.2. Kết quả phòng bệnh cho đàn lợn tại trại bằng thuốc và vắc xin Quy trình tiêm phòng cho đàn lợn của trang trại được thực hiện tích cực, thường xuyên và bắt buộc. Tiêm phòng cho đàn lợn nhằm tạo trong cơ thể chúng
  46. 38 một sức miễn dịch chủ động, chống lại sự xâm nhập của mầm bệnh và tăng sức đề kháng. Kết quả công việc áp dụng quy trình phòng bệnh bằng thuốc vào vaccine cho đàn lợn được trình bày ở bảng 4.5 và 4.6 Bảng 4.5. Kết quả thực hiện phòng bệnh cho đàn lợn con nuôi tại trại Vắc xin Số con Ngày /thuốc Đường Liều Số con phòng Tỉ lê tuổi Phòng /chế đưa lượng an toàn bệnh (%) phòng phẩm thuốc (ml/con) (con) ( con) 3 Cầu Toltrazutil Nhỏ 1 1256 1256 100 trùng miệng Thiếu Sắt ( Fe) 5 Tiêm 1 1256 1256 100 máu + B12 Suyễn + Ingelvac Hội Myco + 21 Tiêm 2 1250 1250 100 chứng Ingelvac còi cọc Ciro Qua kết quả bảng 4.5 cho thấy, trại đã thực hiện nghiêm ngặt quy trình phòng bệnh bằng vắc xin trên đàn lợn con đạt tỷ lệ an toàn cao. Cụ thể tỷ lệ an toàn của vắc xin luôn đạt 100% số lợn con được làm vắc xin. Lợn con sau 3 ngày tuổi được nhỏ toltrazutil để phòng lợn con bị cầu trùng , sau 5 ngày tuổi sẽ được tiềm Sắt (Fe) + B12 để phòng thiếu máu và nâng cao sức đề kháng cho lợn con, 100% lợn con sau khi sinh sẽ được tiêm. Khi lợn con được 21 ngày 100% lợn con sẽ được tiêm ingelvac myco + ingelvac ciro để phòng bệnh suyễn và hội chứng còi cọc. Ngoài những kiến thức đã học qua đây em cũng học hỏi được những kinh nghiệm về việc phòng bệnh bằng vắc xin như việc sử dụng vắc xin đủ liều, đúng đường,đúng vị trí,đúng lịch vì mỗi loại vắc xin đều có đặc thù riêng, hiệu quả và thời gian miễn dịch khác nhau. Nếu sử dụng không đúng kỹ thuật, sai thời điểm sẽ làm mất đi hoạt tính của vắc xin. Trước khi sử dụng vắc xin cần lắc kỹ lọ, vắc xin đã pha nên sử dụng ngay và tiêm vắc xin vào buổi sáng hoặc chiều mất, nếu thừa phải hủy không nên sử dụng cho ngày hôm sau, Ngoài ra cần chú ý theo dõi vật nuôi sau tiêm để kịp thời can thiệp khi vật nuôi bị sốc phản vệ, sau khi tiêm xong cần phun sát trùng toàn chuồng để tiêu diệt mầm bệnh mà vắc xin có thể rơi vãi ra chuồng.
  47. 39 Ngoài tiêm vaccine cho đàn lợn con, em còn tiến hành tiêm vắc xin phòng bệnh cho đàn lợn mẹ, kết quả thực hiện qua bảng 4.6. Bảng 4.6. Kết quả phòng bệnh cho đàn lợn nái nuôi con bằng vắc xin Đường Liều Số con Số con Ngày Tên bệnh Tên vắc xin đưa vắc lượng phòng an toàn sau đẻ xin (ml) bệnh (con) (con) Khô thai, lepto, Farowsuar B 12 ngày Tiêm 2 114 114 đóng dấu Hội chứng còi Ingelvac Circo 21 ngày Tiêm 2 114 114 cọc Kết quả bang 4.6 cho thấy, công tác phòng bệnh cho lợn nái của trại rất nghiêm ngặt. Lợn nái sau khi đẻ được 12 ngày được tiêm vắc xin farowsuar B để phòng bệnh Khô thai, lepto và đóng dấu. Trong 6 tháng thực tập em đã được tiêm phòng cho 114 lợn nái nuôi con, đạt an toàn 100%. Lợn nái sau đẻ 21 ngày được tiêm ingelvac circo, an toàn đạt 100%. Công tác phòng bệnh cho đàn lợn nái tốt, giúp cho đàn lợn luôn khỏe mạnh, ít sảy ra dịch bệnh trên đàn lợn con. Sau khi tiêm vắc xin xong cần cho lợn uống điện giải và phun sát trùng toàn bộ khu chuồng. 4.2.3. Kết quả điều trị bệnh cho đàn lợn nuôi tại trại. Trong thời gian 6 tháng thực tập tại trại, em đã được tham gia vào công tác chẩn đoán và điều trị bệnh cho đàn lợn cùng với các anh kỹ sư của trại. Qua đó, em đã được trau dồi thêm kiến thức, kinh nghiệm về chẩn đoán một số bệnh thường gặp, nguyên nhân gây ra bệnh và cách khắc phục, điều trị bệnh. Làm tốt công tác chẩn đoán sẽ giúp con vật nhanh chóng khỏi bệnh, giảm tỷ lệ chết, giảm thời gian dùng thuốc và giảm thiệt hại về kinh tế. Vì vậy, hàng ngày chúng em cùng cán bộ kỹ thuật tiến hành theo dõi lợn ở các ô chuồng phát hiện những lợn có biểu hiện khác thường. Khi mới phát bệnh, lợn không có biểu hiện triệu chứng điển hình, thường thấy con vật ủ rũ, mệt mỏi, ăn uống giảm hoặc bỏ ăn, lười hoạt đông, thân nhiệt tăng. Do vậy, để chẩn đoán chính xác được bệnh không những dựa vào biểu hiện bên ngoài của con vật mà còn phải dựa vào kinh nghiệm của cán bộ kỹ thuật, công nhân có tay nghề cao và đôi khi còn phải sử dụng những biện pháp phi lâm sàng khác. Sau đây là kết quả của công tác điều trị bệnh em đã thực hiện trên đàn lợn nuôi tại trại.
  48. 40 Bảng 4.7. Kết quả điều trị bệnh trên đàn lợn con Số con Tỉ lệ Liều Phác đồ Số điều trị điều trị khỏi TT Tên bệnh lượng điều trị (con) khỏi bệnh (ml) (con) (%) Hội chứng Enrofloxacin 1 1 131 120 91,60 tiêu chảy Viêm khớp Pendistrep 2 L.A 0.5 60 50 83,33 Kết quả bảng 4.7 cho thấy, trong quá trình chăm sóc và theo dõi đàn lợn con, thấy chủ yếu các bệnh thông thường hay gặp ở lợn con như bệnh tiêu chảy và viêm khớp. Đã trực tiếp điều trị cho 131 con lợn con bị tiêu chảy, số con điều trị khỏi là 120 con đạt tỉ lệ 91,60%. Triệu chứng của bệnh thường gặp ở lợn con từ 5 - 21 ngày tuổi. Lợn tiêu chảy phân màu vàng trắng, trắng xám, sau đó là vàng xanh, mùi phân hôi tanh. Lợn mất nước và mất chất điện giải gầy sút nhanh, bú kém, đi lại không vững. Bệnh kéo dài thì bụng tóp lại, lông xù, hậu môn và đuôi dính phân bê bết. Nếu không điều trị kịp thời thì lợn con chết rất nhanh. Nguyên nhân là do lợn con mới đẻ ra sức đề kháng yếu dễ chịu tác động của điều kiện ngoại cảnh bên ngoài, hệ tiêu hóa chưa hoàn thiện nên khả năng khỏi bệnh không cao. Tham gia điều trị cho 60 con lợn con bị viêm khớp. Lợn viêm khớp thường đi khập khiễng từ 3 - 4 ngày tuổi, khớp chân sưng lên vào ngày 7 - 15 sau khi sinh nhưng tử vong thường xảy ra lúc 2 - 5 tuần tuổi. Thường thấy viêm khớp cổ chân, khớp háng và khớp bàn chân. Lợn ăn ít, hơi sốt, chân lợn có hiện tượng què, đi đứng khó khăn, chỗ khớp viêm tấy đỏ, sưng, sờ nắn vào có phản xạ đau. Số con điều trị khỏi là 50 con, tỉ lệ khỏi đạt 83,33 %. Kết quả bảng 4.8 cho thấy: Kết quả điều trị bệnh của hai phác đồ điều trị bệnh là rất cao. - Bệnh viêm tử cung Phác đồ điều trị 1: Điều trị 12 con lợn mắc bệnh thì có 11 con khỏi bệnh, sau thời gian điều trị là 3-5 ngày, tỷ lệ khỏi bệnh là 91,67%. Phác đồ điều trị 2: Điều trị 14 con lợn mắc bệnh thì có 12 con khỏi bệnh, sau thời gian điều trị là 3-5 ngày, tỷ lệ khỏi bệnh là 85,71%.
  49. 41 Triệu chứng khi lợn khỏi bệnh là: Lợn khỏe mạnh trở lại, nhanh nhẹn, đi lại ăn uống bình thường, không ra mủ, không có mùi thối, lên giống trở lại. Như vậy, tỷ lệ khỏi bệnh sử dụng thuốc vectrilmoxine LA và pendistrep LA có tỷ lệ điều trị khỏi bệnh cao do đó nên sử dụng cả 2 thuốc này trong điều trị. Tuy nhiên, trước khi sử dụng cũng cần phải thử kháng sinh đồ và cần thường xuyên thay đổi thuốc để tránh trường hợp quen thuốc, nhờn thuốc, làm tăng hiệu quả trong điều trị và giảm các chi phí liên quan Bảng 4.8. Kết quả điều trị bệnh trên đàn lợn nái Phác Số Kết quả Thời đồ Thuốc điều trị nái Số Tên gian Tỷ lệ điều Liều lượng điều nái bệnh điều khỏi trị trị khỏi trị (%) (con) (con) Pendistrep L.A 1ml/10 kgTT Bệnh 1 Ketofen 3 ml/100 kgTT 3-5 12 11 91,67 viêm Oxytocin 2 ml/con tử Vectrilmoxine LA 1ml/10 kgTT cung 2 Ketofen 3 ml/100 kgTT 3-5 14 12 85,71 Oxytocin 2 ml/con 1 Sử dụng phác đồ điều trị bệnh viêm 3-5 9 9 100 Bệnh tử cung 1 và 2 kết hợp với vitamin viêm 2 B1, B12, C 3-5 8 7 87,50 vú 5ml/con/ngày Bệnh 1 Biogenta - tylosin 1ml/20 kgTT 3-5 22 20 90,90 viêm 2 Cefanil 1ml/25 kgTT 3-5 26 25 96,15 phổi Lutalyse 2 ml/con Đẻ Oxytocin 2 ml/con 3-5 25 25 100 khó Pendistrep LA 1ml/10 kgTT - Bệnh viêm vú Phác đồ điều trị 1: Điều trị 9 con lợn mắc bệnh thì cả 9 con khỏi bệnh, sau thời gian điều trị là 3-5 ngày, tỷ lệ khỏi bệnh là 100%. Phác đồ điều trị 2: Điều trị 8 con lợn mắc bệnh thì có 7 con khỏi bệnh, tỷ lệ khỏi bệnh là 87,50%. Triệu chứng khi lợn khỏi bệnh là: lợn khỏe mạnh trở lại, vú không sưng, chảy máu, cho con bú bình thường.
  50. 42 Ta thấy sử dụng phác đồ 1, 2 với thuốc pendistrep LA và vectrilmoxine LA điều trị bệnh viêm vú của lợn cho hiệu quả điều trị bệnh rất tốt. Tuy nhiên, một số con trường hợp quá nặng, kế phát sang bệnh khác, nên vectrilmoxine LA không phát huy được hiệu lực kháng viêm của thuốc. Qua bảng trên ta thấy sử dụng phác đồ điều trị 1 với thuốc pendistrep LA để điều trị bệnh viêm vú của lợn cho hiệu quả điều trị bệnh cao hơn phác đồ 2 với thuốc vectrilmoxine LA. - Bệnh viêm phổi: Phác đồ điều trị 1: Điều trị 22 con lợn mắc bệnh thì có 20 con khỏi bệnh, sau thời gian điều trị là 3-5 ngày, tỷ lệ khỏi bệnh là 90,90%. Phác đồ điều trị 2: Điều trị 26 con lợn mắc bệnh thì có 25 con khỏi bệnh, sau thời gian điều trị là 3-5 ngày, tỷ lệ khỏi bệnh là 96,15%. Ta thấy sử dụng phác đồ 1, 2 với thuốc biogenta- tylosin và cefanil điều trị bệnh viêm phổi của lợn cho hiệu quả điều trị bệnh rất tốt. Tuy nhiên, một số con trường hợp quá nặng, viêm phổi mãn tính, kế phát sang bệnh khác nên biogenta- tylosin không phát huy được hiệu lực kháng viêm của thuốc, nên tỉ lệ khỏi thấp hơn. - Hiện tượng khó đẻ: Biện pháp can thiệp: Biện pháp phòng với sinh sản lứa đầu, khi phát hiện có những biểu hiện chuẩn bị cho việc sinh sản chúng tôi thường dùng thuốc Lutalyse 2 ml/con và theo dõi trong khoảng 30 phút đến 1 giờ mà không thấy lợn con ra, lúc đó chúng tôi tiến hành bằng phương pháp ngoại khoa là dùng tay móc thai ra. Sau khi móc thai ra ngoài hết, chúng tôi tiêm kháng sinh pendistrep LA tiêm liều 1 ml/10 kg thể trọng thuốc có tác dụng chống viêm nhiễm sau đẻ. Sử dụng phác đồ điều trị trên đã khỏi khỏi hoàn toàn cho 10 lợn nái đẻ khó. Qua các kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ viêm tử cung, viêm vú, đẻ khó, viêm phổi tương đối nhiều, trong đó tỷ lệ viêm tử cung chiếm phần lớn và hiện tượng đẻ khó còn nhiều nhưng với việc điều trị kịp thời và sử dụng các phương pháp điều trị trên đều cho ra kết quả tốt. Cần sử dụng các phương pháp điều trị đúng liệu trình kết hợp với các loại thuốc trợ sức, trợ lực nâng cao hiệu quả điều trị.
  51. 43 4.3. Kết quả thực hiện một số công tác khác tại trại. Ngoài công tác chăm sóc, nuôi dưỡng, chẩn đoán và điều trị bệnh trên đàn lợn, em còn được học và làm một số thao tác trên đàn lợn như: đỡ đẻ, thiến lợn con, mổ hecni, Kết quả được trình bày ở bảng 4.9. Bảng 4.9. Kết quả thực hiện một số thao tác khác trên đàn lợn tại trang trại. Thức hiện Kết quả STT Công việc (con) An toàn (con) Tỉ lệ ( %) 1 Đỡ đẻ cho lợn nái 114 114 100 2 Thiến lợn đực con 430 430 100 3 Mổ hecni 20 20 100 Qua bảng 4.9 có thể thấy, trong 6 tháng thực tập, em đã thực hiện các công việc thủ thuật trên đàn lợn con và đạt hiệu quả cao. Em đã đỡ đẻ cho 114 nái an toàn và đúng kỹ thuật. Trong quá trình thức tập em đã tham gia thao tác thiến 430 con lợn đực con, số con an toàn là 430, tỉ lệ an toàn đạt 100%. Số lượng lợn con bị hecni tại trại rất thấp. Trong 6 tháng thực tập, em đã theo dõi và phát hiện được 20 con lợn con bị hecni và tiến hành mổ được 20 con (đạt tỷ lệ 100%). Nguyên nhân dẫn đến lợn con bị hecni chủ yếu là do di truyền khi đẻ ra lợn con đã bị, một phần là do trong quá trình thao tác kỹ thuật thiến lợn không đúng làm sa ruột bẹn hay cắt rốn không đúng làm sa rốn.
  52. 44 Phần 5 KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 5.1. Kết luận Qua 6 tháng thực tập tốt nghiệp tại cơ sở, chúng tôi có một số kết luận như sau: - Về hiệu quả chăn nuôi của trại: + Hiệu quả chăn nuôi của trại khá tốt + Trại lợn đang phát triển, tăng nhanh về số lượng, đặc biệt là số lượng nái. - Về công tác chăm sóc, nuôi dưỡng: Trại đã thực hiện đúng quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng cho lợn con. Dụng cụ thú y, thức ăn, nước uống, thuốc điều trị luôn đáp ứng được yêu cầu cho hoạt động chăn nuôi tại trại, lợn con có điều kiện phát triển tốt. - Về công tác phòng bệnh: Đàn lợn nái và lợn con nuôi tại trại được tiêm phòng đầy đủ và em cũng đã thực hiện công tác phòng bệnh bằng thuốc và vắc xin cho đàn lợn đạt tỷ lệ an toàn 100 %. - Tham gia phòng bệnh cho đàn lợn con bằng phương pháp vệ sinh, sát trùng chuồng trại: thực hiện vệ sinh chuồng trại hàng ngày, quét và rắc vôi đường đi đạt kết quả từ 88,89 đến 100% so với công việc thực hiện tại trại. - Kết quả điều trị bệnh cho lợn nái và lợn con tại trại: + Sử dụng 2 phác đồ pendistrep LA và vectrilmoxine LA kết hợp với oxytocin dùng để điều trị lợn nái mắc bệnh viêm tử cung, cho kết quả khỏi bệnh 85,71% và 91,67%. + Sử dụng 2 phác đồ điều trị bệnh viêm vú dùng kháng sinh pendistrep LA và vectrilmoxine LA, kết hợp vitamin B1, B12, C, cho kết quả điều trị khỏi 87,50% – 100%. + Kết quả điều trị bệnh viêm phổi gặp trên lợn nái bằng 2 phác đồ, dùng biogenta – tylosin với liều 1ml/20 kgTT và cefanil 1ml/25 kgTT, cho kết quả khỏi bệnh từ 90,90% - 96,15%. + Can thiệp 25 nái khó đẻ và thành công 25 nái (đạt 100%).
  53. 45 + Điều trị cho 131 lợn con bị tiêu chảy, khỏi 120 con, đạt tỷ lệ khỏi bệnh là 91,60 %. + Điều trị cho 60 con lợn con bị viêm khớp, số điều trị khỏi là 50 con, tỉ lệ khỏi đạt 83,33 %. 5.2. Đề nghị Khuyến cáo sử dụng các phác đồ điều trị bệnh viêm vú, viêm tử cung và cách khắc phục hiện tượng đẻ khó, kém sữa, ít sữa cho lợn nái sinh sản, sử dụng đúng liệu trình tránh hiện tượng nhờn thuốc kháng sinh dẫn đến kết quả điều trị không đạt kết quả cao. Kết hợp sử dụng các thuốc kháng sinh khác hỗ trợ trong công tác phòng, điều trị bệnh. Bổ sung thêm các vitamin, thuốc trợ lực khoáng chất, vào thức ăn nước uống nhằm nâng cao sức đề kháng cho lợn, đồng thời giúp lợn nái nhanh động dục trở lại đạt kết quả cao sau đẻ. Do thời gian theo dõi của em có hạn, phạm vi theo dõi hẹp, dung lượng mẫu theo dõi ít dẫn đến kết quả của em còn nhiều hạn chế nên đề nghị tiếp tục nghiên cứu trên phạm vi rộng hơn, quy mô lớn hơn, thực hiện theo dõi ở các khu vực và các cơ sở chăn nuôi khác nhau để đánh giá đúng hiệu quả sử dụng cho hiệu quả chăn nuôi cao hơn. Đề nghị nhà trường, khoa Chăn nuôi thú y cử sinh viên về các cơ sở thực tập, điều tra, nghiên cứu, thử nghiệm các phác đồ điều trị để đưa ra những phác đồ điều trị bệnh hiệu quả, tiết kiệm được thời gian cũng như chi phí sử dụng thuốc.
  54. 46 TÀI LIỆU THAM KHẢO I. Tiếng Việt 1. Nguyễn Xuân Bình (2000), Phòng trị bệnh lợn nái - lợn con - lợn thịt, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 2. Trần Ngọc Bích, Nguyễn Thị Cẩm Loan, Nguyễn Phúc Khánh (2016), “Khảo sát tình hình viêm nhiễm đường sinh dục lợn nái sau khi sinh và hiệu quả điều trị của một số loại kháng sinh”, Tạp chí Khoa học kỹ thuật Thú y, tập XXIII (số 5), tr. 51 - 56. 3. Trần Thị Dân (2004), Sinh sản lợn nái và sinh lý lợn con, Nxb Nông nghiệp TpHCM. 4. Phạm Hữu Doanh, Lưu Kỷ (2003), Kỹ thuật nuôi lợn nái mắn đẻ sai con, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 5. Đoàn Thị Kim Dung, Lê Thị Tài (2002), Phòng và trị bệnh lợn nái để sản xuất lợn thịt siêu nạc xuất khẩu, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 6. Đoàn Thị Kim Dung (2004), Sự biến động của một số vi khuẩn hiếu khí đường ruột, vai trò của E. coli trong hội chứng têu chảy của lợn con, các phácđồ điều trị, Luận án tiến sỹ Nông Nghiệp, Hà Nội. 7. Nguyễn Chí Dũng (2013), Nghiên cứu vai trò gây bệnh của vi khuẩn E.coli trong hội chứng tiêu chảy ở lợn con nuôi tại tỉnh Vĩnh Phúc và biện pháp phòngtrị, Luận án thạc sỹ khoa học Nông nghiệp, Hà Nội. 8. Trần Tiến Dũng, Dương Đình Long, Nguyễn Văn Thanh (2006), Sinh sản gia súc, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 9. Phan Xuân Hảo (2002), “Xác định một số chỉ tiêu về sinh sản, năng suất và chất lượng thịt của lợn Landrace và Yorkshire có các kiểu gen Halothane khác nhau”,Luận án tiến sĩ nông nghiệp, Hà Nội, 2002. 10. Trần Đức Hạnh (2013), Nghiên cứu vai trò gây bệnh của Escherichia coli, Salmonella và Clostridium perfringens gây tiêu chảy ở lợn nái tại 3tình phía Bắc và biện pháp phòng trị, Luận án tiến sỹ Nông nghiệp, Hà Nội. 11. Nguyễn Bá Hiên, Huỳnh Thị Mỹ Lệ (2012), Giáo trình bệnh truyền nhiễm thú y, Nxb Đại học Nông nghiệp, Hà Nội.
  55. 47 12. Phạm Sỹ Lăng, Phan Địch Lân, Trương Văn Dung (2005), Bệnh phổ biến ở lợn và biện pháp phòng trị, tập I, Nxb Nông nghiệ, Hà Nội. 13. Lê Minh, Nguyễn Văn Quang, Phan Thị Hồng Phúc, Đỗ Quốc Tuấn, La Văn Công (2017), Giáo trình thú y, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 14. Nguyễn Thị Hồng Minh (2014), Nghiên cứu biến đổi của một số chỉ tiêu lâm sàng, phi lâm sàng và thử nghiệm biện pháp phòng, trị hội chứng MMA ở lợn nái sinh sản, Luận án Tiến sĩ Nông nghiệp, Hà Nội. 15. Lê Văn Năm (1999), Cẩm nang bác sĩ thú y hướng dẫn phòng và trị bệnh lợn cao sản. Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 16. Nguyễn Tài Năng, Phạm Đức Chương, Cao Văn, Nguyễn Thị Quyên (2010), Giáo trình Dược lý học thú y, Nxb Đại học Hùng Vương. 17. Nguyễn Hùng Nguyệt (2007), Châm cứu chữa bệnh vật nuôi, Nxb Khoa học và kỹ thuật Hà Nội. 18. Trần Văn Phùng, Từ Quang Hiển, Trần Thanh Vân, Hà Thị Hảo (2004), Giáo trình chăn nuôi lợn, Nxb. Nông nghiệp, Hà Nội. 19. Nguyễn Ngọc Phụng, Công tác vệ sinh thú y trong chăn nuôi lợn, Nxb lao động xã hội, Hà Nội. 20. Lê Văn Tạo, Khương Bích Ngọc, Nguyễn Thị Vui, Đoàn Băng Tâm (1993), “Nghiên cứu chế tạo vắc xin E.coli uống phòng bệnh phân trắng lợn con”, Tạp chí Nông nghiệp Thực phẩm, số 9, Trang 324 – 325. 21. Nguyễn Văn Thanh (2014), Sinh sản gia súc 2, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 22. Trịnh Đình Thâu, Nguyễn Văn Thanh (2010), “Tình hình bệnh viêm tử cung trên đàn lợn nái ngoại và các biện pháp phòng trị”, Tạp chí Khoa học kỹ thuật Thú y, tập 17, trang 12. 23. Ngô Nhật Thắng (2006), Hướng dẫn chăn nuôi và phòng trị bệnh cho lợn, Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội.Hoàng Toàn Thắng, Cao Văn (2006), Giáo trình Sinh lý học vật nuôi, Nxb Nông Nghiệp, Hà Nội. 24. Hoàng Toàn Thắng, Cao Văn (2006), Giáo trình sinh lý học vật nuôi, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, tr. 196. 25. Nguyễn Thiện, Hoàng Kim Giao (1996), Nâng cao năng suất sinh sản của gia súc cái, Nxb Nông nghiệp, HàNội.
  56. 48 26. Phùng Thị Vân, Hoàng Hương Trà, Lê Thị Kim Ngọc, Trương Hữu Dũng (2001), “Nghiên cứu khả năng cho thịt của lợn lai giữa hai giống Landrace x Yorkshire, giữa 3 giống Landrace x Yorkshire x Duroc và ảnh hưởng của 2 chế độ nuôi tới khả năng cho thịt của lợn ngoại có tỉ lệ nạc > 52%”, Báo cáo khoa học Chăn nuôi Thú y1999-2000, Phần chăn nuôi gia súc. II. Tiếng Anh 27. Andrew Gresham (2003), Infectious reproductive disease in pigs, in practice,2003. 28. Bidwell C., Williamson S. (2005), Laboratory diagnosis of porcine infertility inthe UK, the pig journal, 2005 29. Glawisschning E., Bacher H. (1992), The Efficacy of Costat on E. coli infectedweaning pigs, 12th IPVS congress, August 17 - 22, p. 182 30. Hughes., James (1996), “Maximising pigs production and reproduction”, Compus, Hue University of Agriculture and Forestry, September ,1996. 31. Nagy B., Fekete P. Z. S. (2005), “Enterotoxigenic Escherichia coli in veterinary medicine”, Int. J. Med. Microbiol., p. 443 - 454.
  57. 1 PHỤ LỤC MỘT SỐ HÌNH ẢNH MINH HỌA Ảnh 1. Cân trọng lượng sơ sinh lợn con. Ảnh 2.Oxytocin kích thích co bóp tử cung và thuốc kích đẻ Lutalyse.