Khóa luận Áp dụng quy trình chăm sóc nuôi dưỡng và phòng trị bệnh cho lợn nái sinh sản tại trại Trần Văn Tuyên, huyện Yên Thủy, tỉnh Hòa Bình
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Áp dụng quy trình chăm sóc nuôi dưỡng và phòng trị bệnh cho lợn nái sinh sản tại trại Trần Văn Tuyên, huyện Yên Thủy, tỉnh Hòa Bình", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- khoa_luan_ap_dung_quy_trinh_cham_soc_nuoi_duong_va_phong_tri.pdf
Nội dung text: Khóa luận Áp dụng quy trình chăm sóc nuôi dưỡng và phòng trị bệnh cho lợn nái sinh sản tại trại Trần Văn Tuyên, huyện Yên Thủy, tỉnh Hòa Bình
- ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM NGỌ VĂN PHỤNG Tên chuyên đề: “ÁP DỤNG QUY TRÌNH CHĂM SÓC NUÔI DƯỠNG VÀ PHÒNG TRỊ BỆNH CHO LỢN NÁI SINH SẢN TẠI TRẠI TRẦN VĂN TUYÊN, HUYỆN YÊN THỦY, TỈNH HÒA BÌNH” KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Hệ đào tạo: Chính quy Chuyên ngành: Thú y Khoa: Chăn nuôi Thú y Khóa học: 2015 - 2019 Thái Nguyên, năm 2019
- ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM NGỌ VĂN PHỤNG Tên chuyên đề: “ÁP DỤNG QUY TRÌNH CHĂM SÓC NUÔI DƯỠNG VÀ PHÒNG TRỊ BỆNH CHO LỢN NÁI SINH SẢN TẠI TRẠI TRẦN VĂN TUYÊN, HUYỆN YÊN THỦY, TỈNH HÒA BÌNH” KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Hệ đào tạo: Chính quy Chuyên ngành: Thú y Lớp: THÚ Y K47 N04 Khoa: Chăn nuôi Thú y Khóa học: 2015- 2019 Giảng viên hướng dẫn: TS. NGUYỄN VĂN QUANG Thái Nguyên, năm 2019
- i LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành chuyên đề thực tập này trước hết em xin gửi đến Ban giám hiệu trường Đại Học Nông Lâm Thái Nguyên, ban chủ nhiệm khoa cùng quý thầy cô khoa Chăn Nuôi Thú Ý đã tận tình truyền đạt vốn kiến thức quý báu cho chúng em trong suốt quá trình học tập tại trường. Trại chăn nuôi Trần Văn Tuyên- Yên Thủy- Hòa Bình đã tạo điều kiện giúp đỡ và chỉ bảo nhiều kiến thức thực tế, giúp em hoàn thành tốt quá trình thực tập tại trại. Đặc biệt, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thầy giáo TS. NGUYỄN VĂN QUANG đã luôn giúp đỡ và hướng dẫn chỉ bảo em tận tình trong suốt quá trình thực hiện và hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này. Và cuối cùng em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới gia đình, bạn bè, những người luôn ở bên và ủng hộ em giúp đỡ em hoàn thành tốt nhất khóa luận tốt nghiệp. Vì kiến thức bản thân còn hạn chế, trong quá trình thực tập, hoàn thiện chuyên đề này em không tránh khỏi những sai sót, kính mong nhận được những ý kiến đóng góp từ Thầy cô và các bạn. Em xin chân thành cảm ơn Thái nguyên, ngày tháng năm 2019 Sinh viên NGỌ VĂN PHỤNG
- ii DANH MỤC CÁC BẢNG Trang Bảng 2.1. Hàm lượng axit amin thích hợp cho lợn nái chửa 17 và lợn nái nuôi con 17 Bảng 4.1. Tình hình chăn nuôi lợn tại trại lợn Trần Văn Tuyên qua 3 năm 2017 - 2019 41 Bảng 4.2. Số lượng lợn nái trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng tại trại qua 6 tháng thực tập 42 Bảng 4.3. Những biểu hiện khi lợn sắp đẻ 43 Bảng 4.4. Khẩu phần ăn của lợn nái đẻ ở trại Trần Văn Tuyên 44 Bảng 4.5. Kết quả thực hiện thủ thuật trên đàn lợn con 46 Bảng 4.6. Tình hình sinh sản của lợn nái nuôi tại trại 48 Bảng 4.7. Một số chỉ tiêu về số lượng lợn con của lợn nái 49 Bảng 4.8. Lịch sát trùng trại lợn nái 51 Bảng 4.9. Kết quả tiêm vắc xin phòng bệnh cho lợn nái sinh sản 52 Bảng 4.10. Tình hình mắc bệnh ở đàn lợn nái sinh sản tại trại 54 Bảng 4.11. Kết quả trực tiếp điều trị bệnh trên đàn nái sinh sản tại trại 56
- iii DANH MỤC CÁC TỪ, CỤM TỪ VIẾT TẮT CP: Charoen Pokphand Cs: Cộng sự Kg: Kilogam m: Mét Mg: Magie NLTĐ: Năng lượng trao đổi Nxb: Nhà xuất bản STT: Số thứ tự TS: Tiến sĩ TT: Thể trọng
- iv MỤC LỤC Trang LỜI CẢM ƠN i DANH MỤC CÁC BẢNG ii DANH MỤC CÁC TỪ, CỤM TỪ VIẾT TẮT iii MỤC LỤC iv Phần 1.MỞ ĐẦU 1 1.1. Đặt vấn đề 1 1.2. Mục đích và yêu cầu của chuyên đề 2 1.2.1. Mục đích của chuyên đề 2 1.2.2. Yêu cầu của chuyên đề 2 Phần 2.TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU 3 2.1. Điều kiện cơ sở nơi thực tập 3 2.1.1. Điều kiện của trang trại 3 2.1.2. Thuận lợi, khó khăn 6 2.2. Cơ sở tài liệu liên quan đến chuyên đề 7 2.2.1. Đặc điểm sinh lý, sinh dục của lợn nái 7 2.2.2. Quy trình chăm sóc lợn nái sinh sản giai đoạn chửa, đẻ, nuôi con 16 2.2.3. Một số bệnh thường gặp trên lợn nái sinh sản 24 2.3. Tổng quan các nghiên cứu trong nước và ngoài nước 35 2.3.1. Tổng quan các nghiên cứu trong nước 35 2.3.2. Tổng quan các nghiên cứu ở nước ngoài 36 Phần 3.ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 38 3.1. Đối tượng 38 3.2. Địa điểm và thời gian tiến hành 38 3.3. Nội dung thực hiện 38 3.4. Các chỉ tiêu và phương pháp thực hiện 38
- v 3.4.1. Các chỉ tiêu thực hiện 38 3.4.2. Phương pháp thực hiện 39 3.4.3. Phương pháp xác định các chỉ tiêu theo dõi 39 Phần 4.KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 41 4.1. Tình hình chăn nuôi lợn tại trại lợn Trần Văn Tuyên qua 3 năm từ 2017- 2019 41 4.2. Thực hiện biện pháp chăm sóc nuôi dưỡng đàn lợn nái sinh sản 42 4.2.1. Số lượng lợn nái trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng tại trại qua 6 tháng thực tập 42 4.2.2. Quy trình chăm sóc lợn nái đẻ 43 4.3. Tình hình sinh sản của lợn nái trực tiếp theo dõi tại trại lợn Trần Văn Tuyên 47 4.4. Một số chỉ tiêu về số lượng lợn con của lợn nái 49 4.5. Kết quả thực hiện các biện pháp phòng bệnh cho lợn nái sinh sản tại trại lợn Trần Văn Tuyên. 50 4.5.1. Thực hiện biện pháp vệ sinh phòng bệnh 50 4.5.2. Kết quả tiêm vắc xin phòng bệnh cho lợn nái 52 4.6. Kết quả chẩn đoán và điều trị bệnh cho lợn nái sinh sản tại trại lợn Trần Văn Tuyên 53 4.6.1. Tình hình mắc bệnh ở đàn lợn nái sinh sản tại trại lợn Trần Văn Tuyên 53 4.6.2. Kết quả điều trị bệnh ở đàn lợn nái sinh sản tại trại lợn Trần Văn Tuyên 55 Phần 5.KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 58 5.1. Kết luận 58 5.2. Đề nghị 59 TÀI LIỆU THAM KHẢO 60 MỘT SỐ HÌNH ẢNH TRONG QUÁ TRÌNH THỰC TẬP
- 1 Phần 1 MỞ ĐẦU 1.1. Đặt vấn đề Hiện nay, ở Việt Nam thịt lợn luôn chiếm thị phần hàng đầu trong tổng số khối lượng thịt bán trên thị trường. Vì vậy, chăn nuôi lợn ngày càng được Đảng và Nhà nước ưu tiên phát triển, hơn nữa để theo kịp với nhịp độ chung của đất nước. Chăn nuôi lợn không những chỉ đáp ứng yêu cầu cung cấp thịt trong nước mà còn phải tham gia xuất khẩu. Ngoài ra, chăn nuôi lợn còn tận dụng được sức lao động nhàn rỗi, tận dụng phế phụ phẩm dư thừa của nông nghiệp, góp phần làm tăng thêm thu nhập cho gia đình. Chăn nuôi lợn ngoại đang được đẩy mạnh trong chăn nuôi nông hộ cũng như ở các trại chăn nuôi. Bởi vì, chăn nuôi lợn ngoại có năng suất cao, tăng trọng nhanh, phẩm chất thịt tốt (tỷ lệ nạc cao, độ dày mỡ lưng thấp) đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng đang đòi hỏi, nhất là khu vực thành phố và khu công nghiệp. Cho đến nay, Landrace và Yorkshire là hai giống lợn đóng vai trò chủ yếu trong sản xuất lợn giống và lợn lai nuôi thịt, góp phần quan trọng vào các chương trình “nạc hóa” đàn lợn ở nước ta. Thực hiện chương trình “nạc hóa” đàn lợn của tỉnh Hòa Bình, trại lợn của công ty TNHH Lý Yên Bình là trại lợn chăn nuôi gia công thuộc công ty cổ phần CP Việt Nam, được đầu tư xây dựng cơ sở vật chất và có khoảng 1200 lợn nái sinh sản, trong đó 2 giống Landrace và Yorkshire chiếm tỷ lệ chính. Đàn lợn nái ngoại này đang được phát triển tốt, cho năng suất cao và chất lượng đàn con tốt. Xuất phát từ tình hình thực tế trên, được sự đồng ý của Ban chủ nhiệm khoa Chăn nuôi Thú y, Trường đại học Nông Lâm Thái Nguyên, cùng với sự giúp đỡ của giáo viên hướng dẫn và cơ sở nơi thực tập, em thực hiện chuyên đề: “Áp dụng quy trình chăm sóc nuôi dưỡng và phòng trị bệnh cho lợn nái sinh sản tại trại Trần Văn Tuyên, huyện Yên Thủy, tỉnh Hòa Bình”
- 2 1.2. Mục đích và yêu cầu của chuyên đề 1.2.1. Mục đích của chuyên đề Nắm được quy trình chăm sóc lợn nái sinh sản. Nắm được các loại thức ăn dành cho lợn nái sinh sản, khẩu phần ăn và cách cho lợn nái ăn qua từng giai đoạn mang thai. Nắm được các bệnh thường xảy ra đối với lợn nái sinh sản và phương pháp phòng trị bệnh hiệu quả nhất. 1.2.2. Yêu cầu của chuyên đề Ðánh giá tình hình chăn nuôi tại trại Trần Vãn Tuyên, huyện Yên Thủy. tỉnh Hòa Bình. Áp dụng quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng cho đàn lợn nái nuôi tại trại. Xác định tình hình nhiễm bệnh trên đàn nái sinh sản và áp dụng được quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng.
- 3 Phần 2 TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU 2.1. Điều kiện cơ sở nơi thực tập 2.1.1. Điều kiện của trang trại 2.1.1.1. Vị trí địa lý Trại lợn Trần Văn Tuyên nằm trên địa bàn xóm Cửa Lũy, xã Đoàn Kết, Huyện Yên Thủy, Tỉnh Hòa Bình. Nằm ở cực Đông nam của tỉnh Hoà Bình, cách thành phố Hoà Bình khoảng 85 km, có quốc lộ 12A và đường mòn Hồ Chí Minh chạy qua huyện. Địa hình phía Nam là dãy núi đá bao bọc, phía bắc là các núi và dãy núi xen kẽ đồi và sông suối nhỏ. Về phía Đông và Tây thì tương đối bằng phẳng. Địa hình có độ dốc nhẹ về phía Đông và không có nhiều sông suối nên trên địa bàn hầu như không có lũ lụt vào mùa mưa. Là một địa điểm hợp lý để mở trang trại chăn nuôi cách xa các khu dân cư, trường học, giao thông đi lại thuận lợi. 2.1.1.2. Đặc điểm khí hậu Khí hậu nhiệt đới gió mùa, mùa đông ngắn, lạnh, ít mưa, mùa hè dài, nóng, mưa nhiều. Nhiệt độ trung bình hàng năm là 22,8OC, nhiệt độ lúc cao nhất trong năm là 38,90OC, thấp nhất là 2,7OC. Lượng mưa trung bình hàng năm là 1900 mm, năm cao nhất là 2460 mm, năm thấp nhất là 1300 mm, lượng mưa nhiều nhất thường xuất hiện vào tháng 7, 8 hàng năm. 2.1.1.3. Kinh tế xã hội - Nằm trong vùng 2 tập chung chủ yếu sản xuất nông nghiệp, cây ăn quả, cây công nghiệp, trồng rừng, lạc, ngô, mía . - Với diện tích đất nông nghiệp 7.294.79ha
- 4 2.1.1.4. Cơ cấu tổ chức của trang trại Trại có đội ngũ cán bộ khoa học, kỹ thuật giỏi, giàu kinh nghiệm thực tế, có ban lãnh đạo năng động, nhiệt tình và giàu năng lực. Hơn nữa, trại có một đội ngũ công nhân giỏi, giàu nhiệt huyết, yêu nghề, năng động. Trại có 32 cán bộ nhân viên trong đó: + Tổ chăn nuôi gồm 18 người: 3 kỹ sư chăn nuôi, 15 công nhân. + Tổ hậu cần: 3 người + Tổ bảo vệ: 2 người chịu trách nhiệm bảo vệ tài sản của Trại. 2.1.1.5. Cơ sở vật chất của trang trại Hệ thống chuồng trại: Trại lợn được xây dựng trên vùng đất cao nên hệ thống thoát nước rất thuận lợi, đồng thời trại xây dựng theo hướng Tây Bắc - Đông Nam giúp cho trại được ấm áp về mùa đông và thoáng mát về mùa hè. Quanh trại thì có hệ thống tường rào thép gai bao bọc. Hệ thống chuồng đẻ của trại gồm 3 dãy chuồng chính, mỗi dãy chuồng gồm 2 ngăn chuồng có cửa thông với nhau ở cả đầu trên và cuối chuồng. Mỗi ngăn chuồng lại gồm 58 ô chia làm 2 dãy với kích thước mỗi ô là 2,4 m × 1,6 m/ô. Trong mỗi ngăn được lắp đặt hệ thống dàn mát ở đầu chuồng và 4 quạt thông gió ở cuối chuồng. Ngoài ra mỗi ngăn còn được lắp đặt thêm cửa sổ và hệ thống chiếu sáng, hệ thống điện. Một chuồng cai sữa phục vụ lợn con sau khi cai sữa mẹ chưa được xuất bán. Hệ thống chuồng bầu với 2 chuồng chính, trong mỗi chuồng được lắp đặt 560 ô, kích thước 2,4 m × 0,65 m/ô. Cũng như chuồng đẻ chuồng bầu cũng có dàn mát, cuối mỗi chuồng có 8 quạt thông gió, 1 chuồng đực, 1 phòng tinh được trang bị các dụng cụ hiện đại như: máy đếm mật độ tinh trùng, kính hiển vi, thiết bị cảm ứng nhiệt, các dụng cụ đóng liều tinh,nồi hấp cách thủy dụng cụ và một số thiết bị khác. Chuồng cách ly để nhốt lợn hậu bị mới nhập, với quy mô trại 1200 nái. Trại được xây dựng theo quy mô chăn nuôi công nghiệp.
- 5 Công trình khác: Ngoài hệ thống chuồng trại chăn nuôi trại còn xây dựng thêm công trình phục vụ cho quá trình sản xuất như: Trại có 5 phòng tắm sát trùng cho công nhân, kho để cám, kho thuốc, kho đồ, hệ thống bể nước, kho phân. + Kho thuốc: là nơi chứa đựng tất cả các loại thuốc dùng trong trại. + Kho đồ: được xây dựng để chứa các đồ dùng cần thiết cho quá trình sản xuất. + Hệ thống cung cấp nước: Giếng khoan được xây dựng xung quanh trại nhằm đảm bảo cung cấp đầy đủ nguồn nước sạch cho chăn nuôi, tất cả nước sử dụng trong trại được bơm trực tiếp lên 1 bể và được xử lý làm sạch ở đó trước khi cho nước xuống để sử dụng cho đàn lợn. + Ngoài ra trại còn có khu vực các phòng cho kỹ sư và công nhân ở và sinh hoạt, một phòng khách chung và một sân chơi rộng, một nhà bếp. 2.1.1.6. Tình hình sản xuất của trại -Công tác chăn nuôi Đặc điểm là trại gia công nên nhiệm vụ chính của trại là cung cấp giống, sản xuất giống thương phẩm, xuất bán cho các trại nuôi lợn thịt. Hiện nay tại trai có 1200 nái chủ yếu là Yorkshire và Landrace. Số con sơ sinh là 11,68 con/đàn, số con cai sữa: 10,91 con/đàn. Tại trại, lợn con sẽ được nuôi theo mẹ cho đến khoảng 19 đến 21 ngày tuổi, những lợn con chưa đủ khối lượng sẽ được ghép đàn nuôi với những đàn có số ngày tuổi nhỏ hơn, còn những lợn con đã quá ngày suất bán nhưng chưa có đợt sẽ được nhốt sang chuồng cai sữa. Trong trại có 31 lợn đực được công ty cung cấp theo nhiều đợt đã được huấn luyện nhằm mục đích khai thác tinh và kích thích sự lên giống của lợn nái. Thức ăn phục vụ trong trại do công ty CP cung cấp,lợn được cung cấp cám phù hợp ở các lứa tuổi và các chu kỳ khác nhau.
- 6 - Công tác thú y: Đàn lợn tại trại luôn được chăm sóc và phòng bệnh theo kỹ thuật của công ty CP, được giám sát một cách chặt chẽ về mọi mặt. -Công tác vệ sinh: Công nhân trước khi vào chuồng sẽ được tắm và thay đồng phục tại nhà tắm sát trùng. Mọi dụng cụ khi đưa vào khu vực sản xuất đều được cách lý, phun sát trùng. Định kỳ sẽ có các công nhân làm nhiệm vụ vệ sinh, sát trùng trong chuồng và ngoài chuồng. Các chuồng sau khi suất hết lợn con sẽ được vệ sinh ngâm tẩy bằng hóa chất, được cách ly trước khi cho lợn nái mới lên đẻ. - Công tác phòng bệnh: Thực hiện phương châm "Phòng bệnh hơn chữa bệnh" theo lịch của công ty, lợn trong trại sẽ được tiêm phòng vắc xin để phòng một số bệnh thường gặp trên lợn. Từ đó tăng sức đề kháng cho lợn mẹ và lợn con. - Công tác trị bệnh: Lợn luôn được theo dõi giám sát, mọi con lợn có biểu hiện bất thường đều sẽ được theo dõi và có các biện pháp điều trị. Các bênh ở trại luôn được kỹ thuật viên phát hiện sớm và điều trị vì vậy không gây thiệt hại lớn, 2.1.2. Thuận lợi, khó khăn 2.1.2.1. Thuận lợi - Con người: các cán bộ ở trại là những người làm lâu năm có nhiều kinh nghiệm trong chăn nuôi, có lòng nhiệt huyết và yêu nghề nhiệt tình giúp sinh viên. Công nhân trong trại là những người làm lâu năm thành thạo các kỹ thuật. - Điều kiện tự nhiên và vị trí địa lý: Do trại nằm trên vùng đất cao xung quanh lại có những hồ nước tự nhiên, do vậy trại chủ động được hệ thống nước chăn nuôi và ít khi xảy ra ngập úng, mất nước. Bên cạnh đó trại còn nằm trong vùng ít dân cư nhưng lại gần đường quốc lộ do vậy việc giao thông đi lại hết sức thuận tiện.
- 7 2.1.2.2. Khó khăn - Một số cơ sở vật chất của trại đã được sử dụng lâu nên bị xuống cấp gây khó khăn trong việc sản xuất. - Do nguồn nước có nhiều đá vôi, đây cũng là nguyên nhân không nhỏ gây ảnh hưởng cho sức khỏe của đàn lợn. - Trong sản xuất có một số công nhân bỏ việc gây nên tình trạng thiếu nhân công và có công nhân mới làm việc nên cần thời gian học việc do đó kết quả sản xuất không tốt. 2.2. Cơ sở tài liệu liên quan đến chuyên đề 2.2.1. Đặc điểm sinh lý, sinh dục của lợn nái 2.2.1.1. Sự thành thục về tính và thể vóc * Sự thành thục về tính Tuổi thành thục về tính là: tuổi con vật bắt đầu có phản xạ sinh dục và khả năng sinh sản. Khi gia súc đã hoàn thiện về tính, bộ máy sinh dục đã phát triển hoàn thiện. Dưới tác dụng của thần kinh và nội tiết con vật bắt đầu có những phản xạ về sinh dục. Con cái có hiện tượng động dục, con đực có phản xạ giao phối. Tuy nhiên lần động dục này chỉ là báo hiệu cho khả năng có thể sinh sản của lợn cái. * Biểu hiện của lợn cái khi thành thục về tính: - Cơ thể đã phát triển đầy đủ, bộ máy sinh dục tương đối hoàn thiện, con cái xuất hiện chu kỳ động dục lần đầu, con đực sinh tinh. Lúc này, tinh trùng và trứng gặp nhau có khả năng thụ thai. - Xuất hiện các đặc điểm sinh dục thứ cấp: Bẹ vú phát triển và lộ rõ hai hàng vú, âm hộ to lên hồng hào. - Xuất hiện các phản xạ sinh dục: Lợn có biểu hiện nhảy lên nhau, con cái động dục, con đực có phản xạ giao phối.
- 8 - Thời điểm thành thục về tính: Lợn cái bắt đầu khoảng 6 tháng tuổi (từ 4 - 8 tháng tuổi). - Đối với các giống gia súc khác nhau thời gian thành thục về tính là khác nhau, ở lợn nội thường từ 4 - 5 tháng (120 - 150 ngày), lợn ngoại 6 - 7 tháng (180 - 210 ngày). * Các yếu tố ảnh hưởng tới sự thành thục về tính Tuổi thành thục về tính phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: giống, di truyền, thời tiết, khí hậu, mùa vụ, điều kiện chăm sóc nuôi dưỡng Các yếu tố di truyền Các giống khác nhau thì có tuổi thành thục về tính khác nhau. Thời điểm rụng trứng lần đầu tiên xảy ra vào lúc 3 - 4 tháng tuổi đối với các giống lợn thành thục sớm (lợn nội và một số giống lợn Trung Quốc) và 6 - 7 tháng tuổi đối với hầu hết các giống lợn phổ biến ở các nước phát triển. Lợn lai F1 bắt đầu động dục lúc 6 tháng tuổi, khi khối lượng cơ thể đạt 50 - 55 kg. Lợn ngoại động dục lần đầu muộn hơn so với lợn lai vào lúc 6 - 7 tháng tuổi, khi lợn có khối lượng 65 - 68 kg. Còn đối với lợn nội tuổi thành thục về tính từ 4 - 5 tháng tuổi. Các yếu tố ngoại cảnh Bên cạnh yếu tố di truyền, các yếu tố ngoại cảnh như chế độ chăm sóc, nuôi dưỡng, mùa vụ, khí hậu, nhiệt độ tất cả đều có ảnh hưởng tới sự thành thục của lợn nái. Khí hậu và nhiệt độ cũng có ảnh hưởng tới tuổi thành thục về tính gia súc, những giống lợn nội nuôi ở vùng có khí hậu nhiệt đới nóng ẩm thường thành thục về tính sớm. Trong điều kiện chăn thả chung giữa gia súc đực và gia súc cái cũng ảnh hưởng tới tính thành thục sớm của gia súc cái. Theo Paul Highes và Tilton (1996) [38], nếu cho lợn cái hậu bị tiếp xúc với lợn đực 2 lần/ ngày với thời gian 15-20 phút thì 83% lợn cái ngoài 90kg động dục là 165 ngày tuổi.
- 9 Lợn cái hậu bị nếu nuôi nhốt liên tục sẽ có tuổi động dục lần đầu dài hơn lợn nuôi chăn thả. Vì lợn nuôi chăn thả sẽ tăng cường trao đổi chất, tổng hợp được sinh tố và có được tiếp xúc với lợn đực nhiều hơn nên có tuổi động dục lần đầu sớm hơn. Chế độ chăm sóc nuôi dưỡng Ảnh hưởng rất lớn đến tuổi thành thục về tính của lợn cái. Thường những lợn được chăm sóc và nuôi dưỡng tốt thì tuổi thành thục về tính sớm hơn những lợn nuôi trong điều kiện dinh dưỡng kém. Nhu cầu dinh dưỡng đối với lợn cái hậu bị cần chú ý đến cách thức nuôi dưỡng. Cho ăn tự do đến khi khối lượng đạt 80 - 90 kg, sau đó cho ăn hạn chế đến lúc phối giống (chu kỳ động dục thứ 2 hoặc thứ 3) 2 kg/ngày (14% protein thô). Điều chỉnh mức ăn hợp lý để khối lượng đạt 120 - 140 kg ở chu kỳ động dục thứ 3 và được phối giống. Trước phối giống 14 ngày, cho ăn chế độ kích dục, tăng từ từ lượng thức ăn (1 - 2,5 kg), bổ sung thêm khoáng và chất điện giải sẽ kích thích lợn cái ăn nhiều hơn và tăng số trứng rụng từ 2 - 2,1 trứng/ lợn cái. Trong quá trình nuôi dưỡng chăm sóc cần điều chỉnh chế độ ăn hợp lý để đảm bảo sự phát triển tốt nhất cho lợn cái. Sau khi phối giống cần chuyển chế độ ăn hạn chế và thay thế bằng mức năng lượng trung bình để hạn chế tối thiểu tỷ lệ chết phôi, chết thai làm giảm số con sinh ra/ổ. Mùa vụ và thời gian chiếu sáng Sự khác biệt về mùa vụ cũng ảnh hưởng rõ rệt tới tuổi động dục. Mùa hè lợn cái hậu bị thành thục chậm hơn so với mùa thu - đông, điều đó có thể do ảnh hưởng của nhiệt độ chuồng nuôi gắn liền với mức tăng trọng thấp trong các tháng nóng bức. Mùa đông có thời gian chiếu sáng ngắn và mùa hè thì ngược lại. Nếu lợn cái được chiếu sáng 12 giờ/ngày sẽ động dục sớm hơn những con được chiếu sáng trong ngày ngắn.
- 10 Mật độ nuôi nhốt Lợn cái hậu bị nếu nuôi nhốt với mật độ cao trên 1 đơn vị diện tích trong suốt thời gian phát triển sẽ làm chậm tuổi động dục. Tuy nhiên, nếu nuôi tách biệt từng cá thể cũng sẽ làm chậm sự thành thục về tính so với nuôi nhốt theo nhóm. Bên cạnh đó, đực giống cũng ảnh hưởng tới sự động dục của lợn cái. Sự thành thục về thể vóc Thành thục về thể vóc là tuổi có sự phát triển về ngoại hình và thể vóc đạt mức độ hoàn chỉnh, xương cốt hóa hoàn toàn, tầm vóc ổn định. Thời gian thành thục về thể vóc thường chậm hơn thành thục về tính, nghĩa là sau khi sinh, con vật được thành thục về tính thì vẫn tiếp tục lớn lên. Đây là đặc điểm cần chú ý trong chăn nuôi. Theo Phạm Hữu Doanh và cs (2003) [4] cho rằng: Không nên cho phối giống ở lần động dục đầu tiên vì ở thời kỳ này cơ thể lợn chưa phát triển đầy đủ, chưa tích tụ được chất dinh dưỡng nuôi thai, trứng chưa chín một cách hoàn chỉnh. Để đạt được hiệu quả sinh sản tốt và duy trì con cái lâu bền cần bỏ qua 1 - 2 chu kỳ động dục lần đầu rồi mới cho phối giống. Mặt khác khung xương chậu chưa phát triển hoàn toàn, nhỏ hẹp làm con vật khó đẻ. Cho nên việc quy định tuổi và khối lượng phối giống lần đầu rất có ý nghĩa trong chăn nuôi. Các nhà khoa học khuyến cáo với lợn ngoại nên bỏ qua 1 đến 2 chu kỳ động dục đầu, nên phối ở chu kỳ động dục thứ 2 hoặc thứ 3 tùy thuộc vào khối lượng đạt được. Với lợn ngoại khoảng 8 - 9 tháng tuổi và đạt 110 - 120 kg, lợn nội 6 - 7 tháng tuổi đạt 40 - 50 kg (Lê Xuân Cương, 1986 [4]). Khi lợn cái đã thành thục đầy đủ về tính đồng thời với sự thành thục về thể vóc ở mức độ nhất định, đây là lúc phối giống thích hợp nhất. Việc xác định thời gian phối giống thích hợp cho lợn cái nhằm tăng thời gian nuôi hữu ích (giảm thời gian không sản xuất trước khi đẻ lứa đầu) không làm ảnh hưởng đến năng suất của con vật ở giai đoạn sau.
- 11 2.2.1.2. Chu kì tính Khi lợn cái đến tuổi thành thục về tính thì cơ thể cái đặc biệt là cơ quan sinh dục có biến đổi kèm theo sự rụng trứng. Sự phát triển của trứng dưới sự điều tiết của các hormone thùy trước tuyến yên làm cho trứng rụng một cách có chu kỳ và biểu hiện bằng những triệu chứng có chu kỳ gọi là chu kỳ tính hay chu kì động dục. Chu kỳ động dục là một quá trình phức tạp sau khi toàn bộ cơ thể đã phát triển hoàn chỉnh, cơ quan sinh dục không có bào thai và không có hiện tượng bệnh lý thì bên trong buồng trứng có quá trình phát triển của noãn bao, noãn bao thành thục, trứng chín và thải trứng. Kèm theo đó là sự thay đổi của toàn bộ cơ thể và nhất là cơ quan sinh dục về hình thái cấu tạo và chức năng sinh lý. Tất cả những biến đổi đó lặp đi lặp lại có tính chất chu kỳ nên gọi là chu kỳ tính. Theo Trần Thanh Vân và cs (2017) [28] Lợn nái sau khi thành thục về tính thì bắt đầu biểu hiện động dục, lần thứ nhất không rõ ràng, cách sau đó 15-16 ngày động dục trở lại, lần này biểu hiện rõ ràng hơn và sau đó đi vào quy luật mang tính chu kỳ. Ở những cơ thể đã có thai do sự tồn tại của thể vàng nên không còn chu kỳ tính và nó được tiếp tục sau khi sinh sản xong một thời gian. Thời gian phụ thuộc vào nhiều yếu tố cả về thể chất con vật và ngoại cảnh tác động. Giai đoạn trước động dục: Đây là giai đoạn đầu của chu kỳ sinh dục, nó xuất hiện đầy đủ các hoạt động về sinh lý, tính thành thục. Trong đó sự phát triển của noãn bào thành thục nổi rõ lên bề mặt của buồng trứng. Buồng trứng to hơn bình thường. các tế bào của vách ống dẫn trứng tăng cường sinh trưởng, sỗ lượng lông nhung tăng lên. Đường sinh dục xung huyết, nhu động sừng tử cung tăng cường, Mạch quản trong màng nhầy tử cung cũng tăng lên. dịch nhày ở âm đạo tăng nhiều, niêm dịch cổ tử
- 12 cung tiết ra kích thích cho cổ tử cung hé mở, các tuyến ở đường sinh dục tăng cường hoạt động. Giai đoạn này tính hưng phấn chưa cao. Khi noãn bào chín, tế bào trứng được tách ra. Sừng tử cung co bóp mạnh, cổ tử cung mở ra hoàn toàn. Niêm dịch đương sinh dục chảy ra nhiều nhất, con vật bắt đầu xuất hiện tính dục. Giai đoạn này cần chú ý là không nên dẫn tinh và phối ép vì trứng chưa rụng, lợn không có khả năng thụ thai. Giai đoạn động dục: Thời gian của giai đoạn này phụ thuộc vào tuổi, giống, chế độ chăm sóc quản lý, thông thường chỉ kéo dài 2 - 3 ngày, là giai đoạn quan trọng ảnh hưởng tới tỷ lệ thụ thai. Trong giai đoạn này những biến đổi bên ngoài cơ thể càng thể hiện rõ ràng hơn. Âm hộ xung huyết, niêm mạc trong suốt, niêm dịch chảy nhiều. Cuối giai đoạn này lợn hưng phấn cao độ, ở trạng thái không yên tĩnh, giảm khả năng thu nhận thức ăn, chạy, kêu phá chuồng, đứng ngẩn ngơ, nhảy lên lưng con khác. Thích gần con đực, có các phản xạ giao phối: hai chân sau dạng ra, đuôi cong về một bên (biểu hiện ở lợn nội rõ hơn lợn ngoại). Ở giai đoạn này nếu được thụ thai thì chu kỳ sẽ dừng lại do sự tồn tại của thể vàng và chu kỳ sẽ xuất hiện trở lại sau một thời gian con vật đẻ xong. Nếu con cái không thụ thai thì sẽ chuyển sang giai đoạn kế tiếp. Giai đoạn này gồm 3 thời kỳ liên tiếp là hưng phấn, chịu đực và hết chịu đực. Sau khi động dục khoảng 24 - 30 giờ lợn cái bắt đầu rụng trứng, trứng rụng kéo dài 10 - 15 giờ. Vì vậy nên phối cho lợn cái 2 lần để đạt kết quả cao (Trần Tiến Dũng và cs, 2002 [8]). Giai đoạn sau động dục: Giai đoạn sau động dục kéo dài 3 - 4 ngày, toàn bộ cơ thể nói chung và cơ quan sinh dục nói riêng dần dần được khôi phục về trạng thái sinh lý bình thường. Tất cả mọi phản xạ động dục, tính hưng phấn mất hẳn và chuyển sang giai đoạn yên tĩnh.
- 13 Giai đoạn yên tĩnh: Giai đoạn này kéo dài khoảng 10 - 12 ngày, đây là giai đoạn dài nhất và tùy thuộc vào sự tồn tại của thể vàng, khi thể vàng tiêu biến thì chu kỳ động dục mới lại bắt đầu. Trong thực tế còn gặp trường hợp lợn cái động dục bất thường như động dục ngầm và hiện tượng lưỡng tính. Động dục thầm lặng là hiện tượng lợn đến chu kỳ động dục nhưng không có các biểu hiện động dục rõ ràng làm cho người nuôi khó nhận biết (chu kỳ này thường kéo dài 36 - 45 ngày). Hiện tượng lưỡng tính, cơ quan sinh dục bên ngoài của lợn cái bình thường nhưng có những hành động giới tính thường xuyên do con vật bị rối loạn hormone hoặc con cái ít cho con đực nhảy lên (trường hợp này phải loại bỏ sớm). 2.2.1.3. Thời điểm phối giống thích hợp Dựa vào chu kỳ tính, sự vận động và tồn tại của tinh trùng trong đường sinh dục cái để xác định thời gian phối giống thích hợp cho lợn cái. Hiện nay người chăn nuôi thường áp dụng phương pháp phối nhiều lần, nhất là trong thụ tinh nhân tạo, lần trước cách lần sau khoảng 12 giờ và có thể phối tới 3 lần cho một lợn nái khi động dục, nhất là đối với lợn ngoại. 2.2.1.4. Sự điều hòa chu kỳ động dục Chu kì tính của lợn được điều khiển bởi thần kinh và thể dịch theo cơ chế điều hòa ngược. Hoạt động của chu kỳ này phụ thuộc vào sự điều tiết của các hormone quan trọng nhất là FSH (Follicle Stimulating Hormone) và LH (Lutrinizing Hormone). FSH kích thích sự phát triển của buồng trứng còn LH kích thích quá trình rụng trứng. Hai hormone này phải có một tỷ lệ nhất định mới có thể đảm bảo được cho quá trình chín và rụng trứng diễn ra tốt nhất. Trong quá trình bao noãn phát dục và thành thục, tế bào thượng bì bao noãn tiết ra oestrogen chứa đầy trong xoang bao noãn. Hàm lượng này trong máu kích thích con vật gây hiện tượng động dục. Đồng thời dưới tác động của
- 14 hormone, cơ quan sinh dục dần biến đổi, tử cung, âm đạo hé mở, sừng tử cung, ống dẫn trứng tăng sinh tạo điều kiện cho sự làm tổ của hợp tử sau này. Cuối chu kỳ động dục, oestrogen lại kích thích tuyến yên tiết LH, giảm FSH. Khi LH được tiết ra nó kích thích trứng chín và rụng. Tại vị trí rụng trứng, mạch quản và tế bào sắc tố vàng phát triển tạo thể vàng. Thể vàng tiết progesterone giúp cho quá trình tiếp nhận hợp tử ở sừng tử cung, đồng thời ức chế tiết FSH và LH của tuyến yên cho trứng không phát triển được. Thời gian mỗi lần trứng rụng thông thường kéo dài 4 - 6 giờ, ở lợn hậu bị kéo dài tới 10 giờ. Trứng rụng không được thụ tinh đến ngày thứ 15 thì thể vàng bị tiêu biến chuyển sang thể bạch, lúc này không tiết progesterone nữa và một chu kỳ mới bắt đầu. 2.2.1.5. Sinh lý đẻ Sau thời gian lưu lại trứng ở ống dẫn trứng khoảng 3 ngày để tự dưỡng (noãn hoàng và dịch thể do ống dẫn trứng tiết) hợp tủ bắt đầu di chuyển xuống tư cung, tìm vị trí thích hợp để làm tổ, hình thành bào thai. Sự biến đổi của nội tiết tố trong cơ thể mẹ trong thời gian có chửa như sau: Progesterone trong 10 ngày đầu có chửa tăng rất nhanh cao nhất vào ngày chửa thứ 20 rồi nó hơi giảm xuống một chút ở 3 tuần đầu, sau đó duy trì ổn định trong thời gian có chửa để an thai ức chế đọng dục 1-2 ngày trước khi đẻ progesterone giảm đọt ngột. Estrogen trong suốt thời kỳ có chửa duy trì ở mức độ thấp, cuối thời kỳ có chửa khoảng 2 tuần thì bắt đầu tăng dần, đến khi đẻ thì tăng cao nhất. Thời gian có chửa ở lợn nái bình quân là 114 ngày (Jone Bento và cs, 2013 [34]). Quá trình sinh đẻ Theo Trần Tiến Dũng và cs (2006) [7], gia súc cái mang thai trong một thời gian ngắn tùy từng loại gia súc, khi bào thai phát triển đầy đủ dưới tác động của hệ thống thần kinh- thể dịch, con mẹ sẽ xuất hiện những cơn rặn đẻ, đẩy bào thai, nhau thai và các sản phẩm trung gian ra ngoài, quá trình này gọi là quá trình sinh đẻ.
- 15 Khi gần đẻ con cái sẽ có triệu chứng biểu hiện: trước khi đẻ 1 tuần, nút niêm dịch ở cổ tử cung, đường sinh dục, lỏng, sánh, dính và chảy ra ngoài. Trước đẻ 1-2 ngày, cơ quan sinh dục bắt đầu có những thay đổi, âm môn phù to, nhão ra và sung huyết nhẹ, đầu núm vú to, bầu căng to, sữa bắt đầu tiết. Giai đoạn tiết sữa: Khả năng tiết sữa của lợn nái phụ thuộc vào mức độ dinh dưỡng thức ăn giống lợn và số lượng lợn con, lợn nái thường tiết sữa nhiều nhất vào tuần thứ 2-3. Ở những giống lợn khác nhau thì khả năng tiết sữa khác nhau. Sự tiết sữa của lợn nái là một quá trình phản xạ do những kích thích vào đầu vú gây nên, phản xạ tiết sữa của lợn nái tương đối ngắn và chuyển dần từ trước ra sau. Thần kinh giữ vai trò chủ đạo trong quá trình tiết sữa, khi lợn con thúc bú, những kích thích này chuyển lên vỏ não, từ vỏ não lại chuyển xuống vùng Hypothalamus từ đó các luồng xung động tác động vào tuyến yên và tuyến yên tiết ra kích tố Oxytocin, kích tố Oxytocin đến tuyến bào kích thích làm cho lợn nái tiết sữa. Qua theo dõi, sản lượng sữa và chất lượng sữa ở các vị trí vú khác nhau cũng không giống nhau, các vú phía trước ngực sản lượng sữa cao, phẩm chất tốt, các vú phía sau nhìn chung kém hơn. Theo Trương Lăng (2000) [16] cho biết: Vú phía trước lượng sữa tiết nhiều hơn (nên cố định cho lợn con sơ sinh có khối lượng kém bú), vì Oxytocin theo máu đến tuyến vú phía trước sớm hơn, kéo dài hơn lên vú trước nhiều sữa hơn. Sản lượng sữa của lợn nái phụ thuộc chất lượng thức ăn vì thế trong giai đoạn lợn nái nuôi con thì thức ăn cho lợn nái cần đủ chất dinh dưỡng. Chăm sóc lợn nái ăn với khẩu phần đẩy đủ chất dinh dưỡng không những nâng cao sản lượng sữa mà còn giảm tỷ lệ hao mòn của lợn nái. Ở lợn không có bể sữa do đó không thể đo lượng sữa bằng cách vắt sữa mà chỉ có thể đo lượng sữa của lợn nái qua khối lượng đàn con. Theo Trương Lăng (2003) [17], sữa lợn nái là nguồn thức ăn có đầy đủ chất dinh dưỡng, không có loại thức ăn nào có thể so sánh bằng và thay thế được. Do đó để tăng năng suất của lợn con phải thoả mãn nhu cầu tối đa trong thời gian bú sữa.
- 16 2.2.2. Quy trình chăm sóc lợn nái sinh sản giai đoạn chửa, đẻ, nuôi con 2.2.2.1. Chế độ dinh dưỡng Yếu tố quan trọng đối với lợn nái mang thai và nuôi con là phải cung cấp đầy đủ số lượng và chất lượng dinh dưỡng cần thiết để có hiệu quả sinh sản cao. Chế độ dinh dưỡng bao gồm: dinh dưỡng năng lượng, dinh dưỡng protein, ảnh hưởng của khoáng chất, các nguyên tố đa vi lượng và ảnh hưởng của vitamin. * Nhu cầu năng lượng Năng lượng không thể thiếu được cho cơ thể mẹ duy trì nuôi thai, tiết sữa, nuôi con. Nhu cầu năng lượng khác nhau tùy thuộc từng giai đoạn. Cần phải đủ nhu cầu về năng lượng cho lợn nái, tránh cung cấp thừa gây lãng phí thức ăn, giảm giá thành sản phẩm. Nếu thiếu sẽ ảnh hưởng đến sinh lý bình thường của con vật. Năng lượng được cung cấp dưới hai dạng: gluxit chiếm 70 - 80 %, lipit 10 - 13 % tổng số năng lượng cung cấp. * Ảnh hưởng của khoáng chất Trong cơ thể lợn khoáng chất chứa 3 % trong đó có tới 75 % là canxi và photpho, xấp xỉ 25 % là natri và kali, cũng có một lượng nhỏ magie, sắt, kẽm, đồng, các nguyên tố khác ở dạng dấu vết. Ví dụ canxi làm ngăn trở việc hấp thu kẽm gây hiện tượng rối loạn ở da, gây sừng hóa. * Nhu cầu về protein Protein là thành phần quan trọng trong khẩu phần thức ăn cung cấp cho lợn, là thành phần không thể thay thế được cần thiết trước tiên cho mọi hoạt động trao đổi chất trong cơ thể và tham gia cấu tạo nên các mô trong cơ thể. Do protein tham gia vào cấu tạo hoạt động trao đổi chất nên hàng ngày luôn có một lượng nhất định protein mất đi. Trong quá trình đồng hóa và dị hóa của cơ thể thì hàng ngày luôn có các tế bào sinh trưởng và phát triển, phân chia và các tế bào già cỗi được loại thải ra ngoài. Do đó protein được cung cấp để bù đắp lại phần mất đi và một phần khác xây dựng lên các tế bào mới,
- 17 tạo sản phẩm chăn nuôi. Tuy nhiên việc cung cấp protein phải đảm bảo đủ về số lượng và cân đối về các thành phần axit amin không thay thế lyzine, methionine, histidin, cystein, tryptophan hay chính sác hơn nhu cầu về protein của lợn chính là nhu cầu về axit amin. Ngoài ra thức ăn phải có giá trị sinh học cao, dễ tiêu hóa, hấp thu. Để đáp ứng tốt các nhu cầu trên cần cho lợn ăn bằng nhiều loại thức ăn. Bảng 2.1. Hàm lượng axit amin thích hợp cho lợn nái chửa và lợn nái nuôi con % của protein Loại axit amin Lợn nái chửa Lợn nái nuôi con Lyzine 3,5 3,8 Treonin 2,8 2,6 Met + xys 2,5 2,5 Tryptophan 0,8 0,8 Histidin 2,1 1,9 Lơxin 7,6 6,4 Izoloxin 3,7 4,5 Valin 4,4 4,6 Tyroxin phenilalanin 6,3 6,3 Nguồn: Võ Trọng Hốt (2000) [10] * Ảnh hưởng của vitamin Vitamin cần cho sự chuyển hóa bình thường của mô bào, cho sức khỏe, sinh trưởng và duy trì. Một số vitamin lợn có thể tự tổng hợp để đáp ứng nhu cầu như vitamin B12. Một số vitamin lợn hay thiếu cần phải bổ sung (A, D, E). Nếu bổ sung không đúng, thừa hoặc thiếu đều không tốt. Thiếu vitamin A lợn con chậm lớn, da khô, mắt kém, lợn nái mang thai dễ xảy thai, đẻ non Thiếu vitamin D thai kém phát triển, dễ bị liệt chân trước và sau khi đẻ. Thiếu vitamin E lợn có hiện tượng chết phôi, chết thai, lợn không động dục hoặc chậm động dục.
- 18 2.2.2.2. Kỹ thuật chăn nuôi lợn nái chửa Kỹ thuật chăn nuôi lợn nái chửa có vai trò quan trọng trong dây chuyền sản xuất lợn con giống. Mục đích và yêu cầu kỹ thuật chăn nuôi lợn nái có chửa nhằm đảm bảo cho thai phát triển bình thường, không bị xảy thai hoặc đẻ non, tăng số lợn con đẻ ra trên lứa, lợn con có sức sống cao, lợn mẹ phát triển bình thường, dự trữ đủ chất dinh dưỡng nuôi con sau này. Phương pháp phát hiện lợn có chửa Phát hiện lợn có chửa có ý nghĩa quan trọng trong sản xuất. Nếu phân biệt được lợn nái có chửa một cách chính xác, kịp thời ngay sau khi phối giống sẽ tác động các biện pháp nuôi dưỡng chăm sóc phù hợp với quy luật phát triển của bào thai để nâng cao khả năng sinh sản của lợn nái. Còn nếu lợn nái không chửa thì có kế hoạch phối giống lại kịp thời. Thời gian chửa của lợn nái trung bình là 114 ngày. Người ta chia thời gian chửa của lợn nái làm hai kỳ: + Thời kỳ chửa kỳ 1: là thời gian lợn có chửa 84 ngày đầu tiên. + Thời kỳ chửa kỳ 2: là thời gian lợn có chửa từ 85 ngày đến khi đẻ. Việc phát hiện lợn nái chửa kỳ 2 dễ dàng hơn chửa kỳ 1 vì bào thai lúc này phát triển mạnh, bụng to và xệ hơn. Trong thực tiễn có nhiều phương pháp phát hiện lợn có chửa nhanh và chính xác như phương pháp căn cứ vào chu kỳ động dục của lợn nái, dùng máy siêu âm, phương pháp đo điện trở âm đạo, phương pháp chuẩn đoán trong phòng thí nghiệm. Phương pháp căn cứ vào chu kỳ động dục của lợn nái là sau khi phối giống 21 ngày mà không thấy có biểu hiện động dục thì có thể coi là lợn nái đã có chửa. Lợn nái sau khi phối giống thấy có những biểu hiện như mệt mỏi, thích ngủ, từ kém ăn chuyển sang thèm ăn, lông da ngày càng bóng mượt, tính tình thuần hơn, dáng đi nặng nề, đó là lợn nái đã có chửa sau khi phối. Ngược lại, khi quan sát thấy lợn nái sau khi ăn không chịu nằm, tai cúp, đuôi luôn ve vẩy, âm hộ có hiện tượng xung huyết thì có thể lợn nái đó chưa có chửa, cần theo dõi để phối giống lại kịp thời.
- 19 Quy luật sinh trưởng phát triển của bào thai Hiểu rõ quy luật sinh trưởng và phát dục của bào thai có ý nghĩa rất quan trọng trong công tác chăm sóc và nuôi dưỡng nái mẹ trong thời kỳ mang thai. Đây là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp tới tỷ lệ sảy thai, chết thai và số lượng cũng như khối lượng sơ sinh trên ổ và trên con. Quá trình phát triển của phôi thai trải qua 3 giai đoạn sau: + Giai đoạn phôi thai (1 - 22 ngày): Đặc điểm của giai đoạn này là hợp tử bắt đầu phân chia nhanh chóng từ một khối tế bào thành các lá phôi. Đồng thời ở thời kỳ này, nhau thai chưa hình thành nên cơ thể mẹ chưa có sự bảo vệ hợp tử. Giai đoạn này phải chú ý khâu chăm sóc, nuôi dưỡng, quản lý đầy đủ và khoa học. + Giai đoạn tiền thai (23 - 39 ngày): Giai đoạn này bắt đầu hình thành các cơ quan, bộ phận của cơ thể. Thời kỳ này nhau thai đã hình thành nên đã có sự liên hệ giữa cơ thể mẹ và con, lợn mẹ đã có thể bảo vệ được cho phôi thai của mình. + Giai đoạn thai nhi (40 - đẻ): Đây là giai đoạn thai nhi phát triển nhanh nhất về thể tích và khối lượng, hình thành đầy đủ các cơ quan bộ phận và hình thành đầy đủ các đặc điểm của giống. Những biến đổi của cơ thể mẹ trong thời gian có chửa. Cơ thể lợn mẹ trong thời gian có chửa thì sự tổng hợp vật chất được đẩy mạnh, quá trình oxy hóa thì giảm tương đối. Quá trình trao đổi chất và năng lượng tăng lên do sự đẩy mạnh các quá trình này ở cơ thể mẹ cũng như cơ thể phôi thai. Đồng thời với quá trình trao đổi nhiệt là quá trình tích lũy các chất dinh dưỡng trong cơ thể mẹ tăng dần. Trong thời gian lợn nái chửa, cơ thể trao đổi chất mạnh, quá trình đồng hóa lớn hơn quá trình dị hóa. Trung bình khối lượng lợn nái tăng lên ở 20 - 30 ngày cuối của thời kỳ chửa. Qua nghiên cứu cho thấy rằng, điều kiện ngoại cảnh có ảnh hưởng rất xấu đến cơ thể lợn
- 20 nái có chửa như: nhiệt độ, ánh sáng, thời tiết khí hậu, chăm sóc nuôi dưỡng, mức độ dinh dưỡng, Cường độ và thời gian tác động của mỗi yếu tố nêu trên sẽ phản ánh lên các quá trình diễn ra trong cơ thể mẹ và cơ thể phôi thai trong tất cả các giai đoạn phát triển của nó. Độ ẩm môi trường cao cũng gây hại cho lợn nái nhất là trong trường hợp độ ẩm cao kết hợp với nhiệt độ cao. Kỹ thuật nuôi dưỡng lợn nái chửa * Dinh dưỡng lợn nái có chửa Nguyên tắc nuôi lợn nái có chửa: cho ăn đúng khẩu phần, đảm bảo chất dinh dưỡng, đặc biệt chú ý cho ăn đủ vitamin và khoáng chất. Thiếu khoáng, xương lợn con phát triển kém, lợn nái chửa có nguy cơ bại liệt. Thiếu vitamin, lợn con phát triển chậm, sức sống kém. Không cho ăn quá nhiều tinh bột để chống béo, khó đẻ. - Nhu cầu dinh dưỡng của lợn chửa: đạm thô 13%, năng lượng trao đổi 2900 kcal/kg thức ăn. - Mức ăn cho lợn nái có chửa (kg thức ăn đã phối trộn/con/ngày). Giai đoạn chửa kì I: + Với nái hậu bị: 1,6 - 1,8 kg/con/ngày, cho ăn ngày 1 lần. + Với nái dạ: 2 - 2,2 kg/con/ngày, cho ăn ngày 1 lần. Giai đoạn chửa kì II: + Với nái hậu bị: 2,5 kg/con/ngày, cho ăn ngày 2 lần. + Với nái dạ: 3 kg/con/ngày, cho ăn ngày 2 lần. - Mức ăn cho nái chửa còn tùy thuộc vào thể trạng của nái: nái quá gầy phải cho ăn thêm thức ăn tinh, nái quá béo phải giảm thức ăn tinh. - Vào mùa đông những ngày nhiệt độ dưới 15ºC, lợn nái cần cho ăn thêm 0,2 - 0,3 kg/con/ngày, để bù phần năng lượng mất đi do chống rét. - Không được cho lợn nái chửa ăn thức ăn ẩm mốc, khô dầu bông, lá đu đủ do dễ gây sảy thai.
- 21 - Cho lợn uống nước tự do. * Chăm sóc lợn nái chửa + Cho lợn yên tĩnh tuần đầu tiên sau khi phối giống. + Kiểm tra theo dõi lợn có chửa vào ngày thứ 21 và ngày thứ 42 sau khi phối xem có động dục trở lại không. + Tắm: 1 lần/ngày vào những ngày nắng nóng. + Vệ sinh xoa bóp bầu vú trước dự kiến đẻ 10 - 15 ngày để kích thích sữa ra nhiều khi lợn sinh con. Nếu vú bị xây xước hoặc nứt nẻ cần bôi vazelin và kháng sinh chống nhiễm trùng. + Vệ sinh chuồng trại hàng ngày, giữ cho lợn sạch sẽ, ấm áp mùa đông, thoáng mát mùa hè. Phun thuốc tiêu độc khử trùng 1 lần 1 tuần. + Không nên tiêm phòng, tẩy giun sán, tắm ghẻ vào tháng chửa đầu và trước đẻ 15 ngày vì do tác động cơ hoành rất dễ sảy thai và đẻ non. + Cần ghi chép ngày phối giống để tính toán ngày đẻ dự kiến và có kế hoạch trực lợn đẻ. 2.2.2.3. Kỹ thuật chăn nuôi lợn nái nuôi con Mục đích của chăn nuôi lợn nái nuôi con là áp dụng các biện pháp khoa học để tăng sản lượng sữa mẹ, đảm bảo cho lợn mẹ có sức khỏe tốt. Lợn con sinh trưởng phát triển nhanh, đạt số con sau cai sữa và khối lượng cai sữa cao. Lợn nái chóng được phối giống trở lại sau khi tách con. Thức ăn cho lợn nái nuôi con phải là những thức ăn có tác động tốt đến sản lượng sữa và chất lượng sữa. Đó là thức ăn xanh non như các loại rau xanh, các loại củ quả như bí đỏ, cà rốt, đu đủ. Thức ăn tinh tốt như gạo tấm, cám gạo, bột mỳ, loại củ quả đạm động vật, các loại khoáng, vitamin Không cho lợn nái nuôi con ăn các loại thức ăn thối mốc, biến chất, hư hỏng. Thức ăn hỗn hợp cho lợn nái nuôi con dùng trong chăn nuôi công nghiệp phải đảm bảo đủ protein, năng lượng và các thành phần vitamin, khoáng chất
- 22 theo đúng quy định như năng lượng trao đổi 3100 Kcal, protein 15%, canxi từ 0,9 - 1,0 %, photpho 0,7 % Trần Văn Phùng và cs (2004) [21]. - Lượng thức ăn cho lợn nái nuôi con. Trong quá trình nuôi con, lợn nái được cho ăn như sau: Đối với lợn nái ngoại: + Ngày cắn ổ đẻ: cho lợn nái ăn ít thức ăn hỗn hợp hoàn chỉnh (0,5kg) hoặc không cho ăn, nhưng cho uống nước tự do. + Sau ngày đẻ thứ 1 và thứ 2 và thứ 3 cho thức ăn hỗn hợp với lượng thức ăn từ 1- 2 - 3 kg tương ứng. + Ngày nuôi con thứ 4 đến ngày thứ 7: cho lợn ăn 4 kg thức ăn hỗn hợp/ nái /ngày. + Từ ngày thứ 8 đến ngày cai sữa cho lợn mẹ ăn theo công thức tính: Lượng thức ăn/ nái/ ngày = 2 kg + (số con x 0.35 kg/con) + Số bữa ăn trên ngày: 2 bữa (sáng, chiều) + Nếu lợn mẹ gầy thì cho ăn thêm 0,5 kg, lợn mẹ béo thì bớt đi 0,5 kg thức ăn/ ngày. + Ngoài ra cho lợn nái ăn từ 1 - 2 kg rau xanh/ ngày sau bữa ăn tinh, nếu có rau xanh. + Một ngày trước khi cai sữa, cho lợn mẹ ăn giảm đi 20 - 30 % + Ngày cai sữa cho lợn mẹ nhịn ăn. + Đối với những lợn nái có số con lớn hơn 10, đàn con mập, lợn mẹ gầy thì cho lợn mẹ ăn theo khả năng (không hạn chế) bằng cách tăng số bữa ăn/ ngày cho lợn mẹ. Đối với lợn nái nội Công thức tính nhu cầu thức ăn cho lợn nái nội nuôi con/ 1 ngày đêm: Lợn nái nội có khối lượng cơ thể dưới 100 kg, mức ăn trong 1 ngày đêm được tính như sau:
- 23 Thức ăn tinh = 1,2 kg + (số lợn con theo mẹ x 0,18 kg) Thức ăn thô xanh: 0,3 đơn vị. Lợn nái nội có khối lượng 100 kg trở lên, mức ăn cho 1 ngày đêm giai đoạn nuôi con được tính như sau: Thức ăn tinh = 1,4 kg + (số lợn con theo mẹ x 0,18 kg) Thức ăn thô: 0,4 đơn vị Định mức ăn cho một lợn nái nội nuôi con/ 1 ngày đêm. Kỹ thuật cho ăn + Lợn nái nuôi con trong thời gian mới đẻ mỗi bữa cho ăn một ít một, nhưng cho ăn làm nhiều lần, thường một ngày cho ăn 3 - 4 bữa. Khoảng cách giữa các bữa nên chia đều nhau. + Cho ăn đúng giờ, đúng tiêu chuẩn quy định. + Cung cấp đủ nước uống cho lợn nái nuôi con. + Khi chuyển sang dùng thức ăn cho giai đoạn nuôi con, để tránh gây ảnh hưởng đến quá trình tiêu hóa do thay đổi thức ăn, ta phải thay dần dần. + Chú ý theo dõi khả năng ăn và tình trạng sức khỏe của lợn nái để có biện pháp can thiệp kịp thời. Kỹ thuật chăm sóc và quản lý + Vận động: là điều kiện tốt giúp cho lợn nái nhanh chóng hồi phục sức khỏe và nâng cao sản lượng sữa mẹ. Do vậy sau khi lợn đẻ được từ 3 - 7 ngày, trong điều kiện chăn nuôi có sân vận động, nếu thời tiết tốt thì cho lợn nái vận động, thời gian vận động lúc đầu là 30 phút/ ngày, về sau tăng số giờ vận động lên. Khi thời tiết xấu thì không cho vận động, khi cho vận động chú ý đề phòng cảm lạnh, bẩn vú, những lợn nái có vú quá sệ thì chỉ cho vận động trong sân chơi. Trong chăn nuôi công nghiệp, hầu hết lợn nái nuôi con đều bị nhốt trong các khung đẻ, không được vận động, vì vậy phải chú ý đến thành phần dinh dưỡng của thức ăn, đặc biệt là các khoáng và vitamin.
- 24 + Chuồng trại của lợn nái nuôi con yêu cầu phải đảm bảo luôn khô ráo, sạch sẽ, không có mùi hôi thối, ẩm ướt. Vì vậy hằng ngày phải vệ sinh chuồng trại, máng ăn sạch sẽ. Nhiệt độ chuồng nuôi thích hợp là 18 - 24ºC, ẩm độ là 70 - 75%. Chuồng lợn nái nuôi con phải có ô úm lợn con và ngăn tập ăn sớm cho lợn con. 2.2.3. Một số bệnh thường gặp trên lợn nái sinh sản * Bệnh viêm tử cung Bệnh viêm tử cung xảy trên các giống lợn nội, ngoại khác nhau. Lợn nái đẻ ít lứa, nhiều lứa hay đang nuôi con đều có thể mắc bệnh song tỷ lệ mắc bệnh phụ thuộc vào yếu tố vệ sinh, chăm sóc nuôi dưỡng, các khu thực vật ở mỗi vùng khác nhau. Khi gia súc sinh đẻ nhất là trong trường hợp đẻ khó phải can thiệp bằng tay hoặc dụng cụ, niêm mạc tử cung bị xây xát, bị tổn thương, vi khuẩn xâm nhập và phát triển gây viêm. Mặt khác, một số bệnh truyền nhiễm như sảy thai truyền nhiễm, Phó thương hàn, bệnh lao thường gây viêm tử cung (Đỗ Quốc Tuấn, 2005 [31]). Nguyên nhân bệnh viêm tử cung Theo Trần Tiến Dũng và cs (2002) [8], viêm tử cung là một quá trình bệnh lý thường xảy ra ở gia súc cái sinh sản sau đẻ. Quá trình viêm phá huỷ các tế bào tổ chức của các lớp hay các tầng tử cung gây rối loạn sinh sản ở gia súc cái làm ảnh hưởng lớn, thậm chí làm mất khả năng sinh sản ở gia súc cái. Theo Nguyễn Xuân Bình (2000) [2], Phạm Sỹ Lăng và cs (2002) [11], bệnh viêm tử cung ở lợn nái thường do các nguyên nhân sau: - Công tác phối giống không đúng kỹ thuật, nhất là phối giống bằng phương pháp thụ tinh nhân tạo làm xây xát niêm mạc tử cung, dụng cụ dẫn tinh không được vô trùng khi phối giống có thể từ ngoài vào tử cung lợn nái gây viêm. - Lợn nái phối giống trực tiếp, lợn đực mắc bệnh viêm bao dương vật hoặc mang vi khuẩn từ những con lợn nái khác đã bị viêm tử cung, viêm âm đạo truyền sang cho lợn khoẻ.
- 25 - Lợn nái đẻ khó phải can thiệp bằng thủ thuật gây tổn thương niêm mạc tử cung, vi khuẩn xâm nhập gây nhiễm trùng, viêm tử cung kế phát. - Lợn nái sau đẻ bị sát nhau xử lý không triệt để cũng dẫn đến viêm tử cung. - Do kế phát từ một số bệnh truyền nhiễm như: Sảy thai truyền nhiễm, Phó thương hàn, bệnh Lao gây viêm. - Do vệ sinh chuồng đẻ, vệ sinh bộ phận sinh dục lợn nái trước và sau đẻ không sạch sẽ, trong thời gian đẻ cổ tử cung mở vi sinh vật có điều kiện để xâm nhập vào gây viêm. Theo Đoàn Kim Dung và cs (2002) [7], nguyên nhân gây viêm tử cung là do vi khuẩn tụ cầu vàng (Staphylococcus aureus), Liên cầu dung huyết (Streptococcus hemolitica) và các loại Proteus vulgais, Klebriella, E.coli . Theo Lê Văn Năm và cs (1999) [14], có rất nhiều nguyên nhân từ ngoại cảnh gây bệnh như: do thức ăn nghèo dinh dưỡng, do can thiệp đỡ đẻ bằng dụng cụ hay thuốc sản khoa sai kỹ thuật dẫn đến các cơ quan sinh dục bị phá hủy hoặc kết tủa, kết hợp với việc chăm sóc nuôi dưỡng bất hợp lý và thiếu vận động đã làm chậm quá trình thu teo sinh lý của dạ con (trong điều kiện cai sữa bình thường dạ con trở về khối lượng kích thước ban đầu khoảng 3 tuần sau đẻ). Đây là điều kiện tốt để vi khuẩn xâm nhập vào tử cung gây bệnh. Biến chứng nhiễm trùng do vi khuẩn xâm nhập vào dạ con gây nên trong thời gian động dục (vì lúc đó tử cung mở) và do thụ tinh nhân tạo sai kỹ thuật. Bệnh còn xảy ra do thiếu sót về dinh dưỡng và quản lý: khẩu phần thiếu hay thừa protein, trong thời kỳ mang thai có ảnh hưởng đến viêm tử cung. Lợn nái sử dụng quá nhiều tinh bột gây đẻ khó, viêm tử cung do xây xát. Khoáng chất, vitamin cũng ảnh hưởng đến viêm tử cung. Triệu chứng Sản dịch của lợn nái bình thường kéo dài trong vòng 4 - 5 ngày cá biệt tới 6 - 7 ngày, sản dịch có màu sắc hơi đỏ do lẫn máu, sau chuyển dần sang
- 26 vàng hay trắng và trong. Trong trường hợp viêm thì sản dịch có thể có màu đen hôi thối, mùi tanh rất khó chịu. Bệnh viêm tử cung ở lợn nái được chia làm hai thể: + Thể cấp tính: con vật sốt 41 - 420C trong vài ngày đầu âm môn sưng tấy đỏ, dịch xuất tiết từ trong âm đạo chảy ra trắng đục đôi khi có máu lờ lờ. + Thể mãn tính: không sốt, âm môn không sưng đỏ nhưng vẫn có dịch nhầy trắng đục tiết ra từ âm đạo, dịch nhầy thường không liên tục mà chỉ chảy ra từng đợt từ vài ngày đến 1 tuần. Lợn nái thường thụ tinh không có kết quả hoặc khi đã có thai sẽ bị tiêu thai vì quá trình viêm nhiễm niêm mạc âm đạo tử cung lan sang thai làm chết thai. Hậu quả của bệnh viêm tử cung Tử cung là một trong những bộ phận quan trọng nhất trong cơ quan sinh dục của lợn nái, nếu tử cung xảy ra bất kỳ quá trình bệnh lý nào thì đều ảnh hưởng rất lớn tới khả năng sinh sản của lợn mẹ và sự sinh trưởng, phát triển của lợn con. Theo Trần Tiến Dũng và cs (2002) [8], Trần Thị Dân (2004) [6], khi lợn nái bị viêm tử cung sẽ dẫn tới một số hậu quả chính sau: - Khi lợn bị viêm tử cung dễ dẫn tới sảy thai. Lớp cơ trơn ở thành tử cung có đặc tính co thắt. Khi mang thai, sự co thắt của cơ tử cung giảm đi dưới tác dụng của progesterone, nhờ vậy phôi có thể bám chặt vào tử cung. Khi tử cung bị viêm cấp tính do nhiễm trùng, tế bào lớp nội mạc tử cung tiết nhiều prostaglandin F2α (PGF2α), PGF2α gây phân huỷ thể vàng ở buồng trứng bằng cách bám vào tế bào của thể vàng để làm chết tế bào và gây co mạch hoặc thoái hoá các mao quản ở thể vàng nên giảm lưu lượng máu đi đến thể vàng. Thể vàng bị phá huỷ, không tiết progesterone nữa, do đó hàm lượng Progesterone trong máu sẽ giảm làm cho tính trương lực co của cơ tử cung tăng, nên gia súc cái có chửa dễ bị sảy thai.
- 27 - Lợn mẹ bị viêm tử cung bào thai cũng phát triển kém hoặc thai chết lưu. Lớp nội mạc của tử cung có nhiệm vụ tiết các chất vào lòng tử cung để giúp phôi thai phát triển. Khi lớp nội mạc bị viêm cấp tính, lượng progesterone giảm nên khả năng tăng sinh và tiết dịch của niêm mạc tử cung giảm, do đó bào thai nhận được ít thậm chí không nhận được dinh dưỡng từ mẹ nên phát triển kém hoặc chết lưu. - Sau khi sinh con lượng sữa giảm hoặc mất hẳn sữa nên lợn con trong giai đoạn theo mẹ thường bị tiêu chảy. Khi lợn nái bị nhiễm trùng tử cung, trong đường sinh dục thường có mặt của vi khuẩn E.coli, vi khuẩn này tiết ra nội độc tố làm ức chế sự phân tiết kích thích tố tạo sữa prolactin từ tuyến yên, do đó lợn nái ít hoặc mất hẳn sữa. Lượng sữa giảm, thành phần sữa cũng thay đổi nên lợn con thường bị tiêu chảy, còi cọc. - Lợn nái bị viêm tử cung mãn tính sẽ không có khả năng động dục trở lại. Nếu tử cung bị viêm mãn tính thì sự phân tiết PGF2α giảm, do đó thể vàng vẫn tồn tại, vẫn tiếp tục tiết progesterone. Progesterone ức chế thuỳ trước tuyến yên tiết ra LH, do đó ức chế sự phát triển của noãn bao trong buồng trứng, nên lợn nái không thể động dục trở lại được và không thải trứng được. - Tỷ lệ phối giống không đạt tăng lên ở đàn lợn nái viêm tử cung sau khi sinh đẻ. Hiện tượng viêm tử cung âm ỉ kéo dài từ lứa đẻ trước đến lứa đẻ sau là nguyên nhân làm giảm độ mắn đẻ. Mặt khác, viêm tử cung là một trong các nguyên nhân dẫn đến hội chứng MMA, từ đó làm cho tỷ lệ lợn con nuôi sống thấp. Đặc biệt, nếu viêm tử cung kèm theo viêm bàng quang thì còn ảnh hưởng tới hoạt động của buồng trứng.
- 28 Chẩn đoán lâm sàng bệnh viêm tử cung Xuất phát từ quan điểm lâm sàng thì bệnh viêm tử cung thường biểu hiện vào lúc đẻ và thời kỳ tiền động dục, vì đây là thời gian cổ tử cung mở nên dịch viêm có thể chảy ra ngoài. Số lượng mủ không ổn định, từ vài ml cho tới 200 ml hoặc hơn nữa. Tính chất mủ cũng khác nhau, từ dạng dung dịch màu trắng loãng cho tới màu xám hoặc vàng, đặc như kem, có thể màu máu cá. Người ta thấy rằng thời kì sau sinh đẻ hay xuất hiện viêm tử cung cấp tính, viêm tử cung mạn tính thường gặp trong thời kì cho sữa. Hiện tượng chảy mủ ở âm hộ có thể cho phép nghi viêm nội mạc tử cung. Tuy nhiên, cần phải đánh giá chính xác tính chất của mủ, đôi khi có những mảnh trắng giống như mủ đọng lại ở âm hộ nhưng lại có thể là chất kết tinh của nước tiểu từ trong bàng quang chảy ra. Các chất đọng ở âm hộ lợn nái còn có thể là do viêm bàng quang có mủ gây ra. Khi lợn nái mang thai, cổ tử cung sẽ đóng rất chặt vì vậy nếu có mủ chảy ra thì có thể là do viêm bàng quang. Nếu mủ chảy ở thời kỳ động đực thì có thể bị nhầm lẫn. Như vậy, việc kiểm tra mủ chảy ra ở âm hộ chỉ có tính chất tương đối. Với một trại có nhiều biểu hiện mủ chảy ra ở âm hộ, ngoài việc kiểm tra mủ nên kết hợp xét nghiệm nước tiểu và kiểm tra cơ quan tiết niệu sinh dục. Mặt khác, nên kết hợp với đặc điểm sinh lý sinh dục của lợn nái để chẩn đoán cho chính xác. Mỗi thể viêm khác nhau biểu hiện triệu chứng khác nhau và có mức độ ảnh hưởng khác nhau tới khả năng sinh sản của lợn nái. Để hạn chế tối thiểu hậu quả do viêm tử cung gây ra cần phải chẩn đoán chính xác mỗi thể viêm từ đó đưa ra phác đồ điều trị tối ưu nhằm đạt được hiệu quả điều trị cao nhất, thời gian điều trị ngắn nhất, chi phí điều trị thấp nhất.
- 29 * Bệnh viêm vú Nguyên nhân gây bệnh viêm vú Theo Christensen và cs (2007) [29], khi nghiên cứu về mô học và vi khuẩn học từ mẫu mô vú bị viêm cho thấy: Vi khuẩn chính gây viêm vú là Staphylococcus spp và Arcanobacterium pyogenes. Theo Trần Minh Châu (1996) [3], khi lợn nái đẻ nếu nuôi không đúng cách, chuồng bẩn thì các vi khuẩn Mycoplasma, các cầu khuẩn, vi khuẩn đường ruột xâm nhập gây viêm vú. Một trong những nguyên nhân chính gây ra bệnh viêm vú ở lợn nái là thức ăn không phù hợp cho lợn nái, không giảm khẩu phần thức ăn cho lợn nái trước khi đẻ một tuần làm cho lượng sữa tiết ra quá nhiều gây tắc sữa. Sau vài ngày đẻ mà lợn con không bú hết, sữa lưu là môi trường tốt cho vi khuẩn xâm nhập và gây viêm. Do kế phát từ một số bệnh: Sót nhau, viêm tử cung, bại liệt sau đẻ, viêm bàng quang khi lợn nái bị những bệnh này vi khuẩn theo máu về tuyến vú cư trú tại đây và gây bệnh. Lợn nái tốt sữa, lợn con bú không hết hoặc lợn nái cho con bú một hàng vú, hàng vú còn lại căng sữa. Lợn con bú làm xây xát bầu vú hoặc lợn con bị bệnh không bú, sữa xuống nhiều bầu vú căng dễ dẫn đến viêm (Trương Lăng, 2000 [10]). Do quá trình chăm sóc nuôi dưỡng kém, chất độn chuồng và ổ đẻ bẩn, sau khi đẻ bầu vú không được vệ sinh sạch, hàng ngày không vệ sinh bầu vú, thời tiết quá ẩm kéo dài, nhiệt độ thay đổi đột ngột dẫn đến viêm. Triệu chứng Bình thường bệnh viêm vú xảy ra ngay sau khi đẻ 4 - 5 giờ cho đến 5 - 7 ngày có khi đến một tháng. Theo Ngô Nhật Thắng (2006) [24], viêm vú thường xuất hiện ở một vài vú nhưng đôi khi cũng lan ra toàn bộ các vú. Vú có màu hồng, sưng đỏ, sờ vào thấy nóng, hơi cứng ấn vào lợn nái có phản ứng
- 30 đau. Lợn nái giảm ăn, trường hợp nặng thì bỏ ăn, sốt cao 40,5 - 42oC kéo dài trong suốt thời gian viêm, sản lượng sữa giảm, lợn nái thường nằm úp đầu vú xuống sàn, ít cho con bú. Lợn con thiếu sữa kêu la chạy vòng quanh lợn mẹ đòi bú, lợn con ỉa chảy, xù lông, gầy tọp, tỷ lệ chết cao 30 - 100% (Lê Hồng Mận, 2002 [17]). Vắt sữa ở những vú bị viêm thấy sữa loãng, trong sữa có những cặn hoặc cục sữa vón lại, xuất hiện những mảnh casein màu vàng, xanh lợn cợn, đôi khi có máu. Hậu quả của bệnh viêm vú Khi lợn nái bị viêm vú sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng sữa, từ đó sẽ ảnh hưởng đến khả năng sinh trưởng phát triển của lợn con theo mẹ. Theo Nguyễn Đức Lưu và cs (2004) [12], bệnh viêm tử cung và viêm vú là hai nguyên nhân trực tiếp gây ra sự giảm và mất sữa ở lợn nái nuôi con. Theo Nguyễn Xuân Bình (2000) [2], Mất sữa sau khi đẻ là do kế phát từ bệnh viêm tử cung và viêm vú. Do khi bị viêm cơ thể thường sốt cao liên tục 2 - 3 ngày, nước trong máu và trong mô bào bị giảm ảnh hưởng đến quá trình trao đổi chất, nhất là quá trình hấp thu chất dinh dưỡng trong đường tiêu hóa bị giảm dần dẫn đến mất sữa, khả năng phục hồi chức năng tiết sữa sẽ bị hạn chế thường xảy ra ở lứa đẻ tiếp theo. Khi bị viêm vú, sản lượng sữa của lợn nái nuôi con giảm, trong sữa có nhiều chất độc, sữa không đủ đáp ứng nhu cầu của lợn con hoặc khi lợn con bú sữa sẽ dẫn đến tiêu chảy, ốm yếu, sức đề kháng giảm, dễ mắc bệnh và trọng lượng cai sữa thấp. Nếu viêm vú nặng dẫn đến huyết nhiễm trùng, huyết nhiễm mủ thì khó chữa, lợn nái có thể chết. Viêm vú kéo dài dẫn đến teo đầu vú, vú hóa cứng, vú bị hoại tử ảnh hưởng đến khả năng tiết sữa của lợn nái ở lứa đẻ sau. - Thực hiện phòng bệnh: Vệ sinh bầu vú, hai chân sau cho lợn hàng ngày bằng dung dịch sát trùng, Bấm răng sữa cho lợn con mới sinh, nên cho lợn
- 31 con bú sữa đầu và phân đều vú cho từng con trong đàn. Tăng cường ăn uống đủ chất cho lợn mẹ trước và sau khi đẻ, nên giảm bớt chất đạm đẻ hạn chế nguy cơ thừa sữa. Khi lợn mẹ viêm vú, không nên cho lợn con bú ở những vùng viên. Dùng các phương pháp nhân tạo như chườm nóng xoa bóp nhẹ lên vùng bị sưng (Dương Hùng, 2011 [10]). Hội chăn nuôi Việt Nam (2002) [12] cho biết: Trước khi đẻ cần lau vú, xoa vú, tắm cho lợn nái. Cho con bú mẹ sau 1 tiếng, bấm răng nanh l0ownj con. tiêm kháng sinh 1,5- 2 triệu đơn vị với 100ml nước cất tiêm quanh vú, liên tục trong 3 ngày. Chườm đá lạnh vào bầu vú vú viêm. Tiêm thuốc chống viêm như prednizolon, hydro- cortizone (Lê Hồng Mận và Bùi Đức Lũng, 2004 [18]). * Bệnh sát nhau Nguyên nhân: lợn nái bị viêm niêm mạc tử cung nên sau khi đẻ nhau không ra hết, can thiệp vội vàng, thô bạo, không đúng kỹ thuật nên nhau bị đứt và sót lại. Lợn nái quá già, đẻ nhiều đuối sức, tử cung co bóp kém không đẩy được nhau ra. Theo Trịnh Đình Thâu và cs (2010) [16], sau khi đẻ tử cung co bóp yếu trong thời gian mang thai nhất là giai đoạn cuối con vật không được vận động thỏa đáng. Trong thức ăn thiếu các chất khoáng, nhất là canxi và photpho. Hoặc tử cung bị sa liệt, con vật quá gầy yếu hoặc quá béo, chửa quá nhiều thai, thai quá to, khó đẻ, nước ối quá nhiều làm tử cung giãn nở quá mức. + Kế phát sau các bệnh khó đẻ khác. + Nhau mẹ và nhau con dính lại với nhau do con vật mắc các bệnh truyền nhiễm đặc biệt bệnh Brucellaloes (sẩy thai truyền nhiễm), hoặc do cấu tạo của nhau. - Triệu chứng: căn cứ vào mức độ sát nhau người ta chia ra làm 2 loại: + Sát nhau hoàn toàn: toàn bộ nhau thai nằm lại trong tử cung. Khi mắc thường là có một phần treo lơ lửng ở mép âm môn.
- 32 + Sát nhau không hoàn toàn: ở động vật đơn thai một phần màng nhau còn dính lại trong tử cung con mẹ. Đối với động vật đa thai một số nhau ra ngoài, một số nhau còn sót lại trong tử cung con mẹ. Điều trị Trịnh Đình Thâu và cs (2010) [16] cho biết, can thiệp kịp thời ngay khi nái có biểu hiện bệnh, không để quá muộn sẽ gây ra viêm tử cung, can thiệp đúng kỹ thuật, không quá mạnh tay, tránh những tổn thương. Tiêm oxytocin dưới da để kích thích co bóp tử cung cho nhau còn sót lại đẩy ra ngoài hết. Sau khi nhau thai ra dùng nước muối sinh lý 0,9% để rửa tử cung trong ba ngày liên tục. * Hiện tượng đẻ khó Lợn đẻ mà thời gian sổ thai kéo dài nhưng thai vẫn không được đẩy ra ngoài. Bệnh biểu hiện dưới nhiều hình thức, diễn biến khác nhau. Nó không những gây tổn thương cho cơ quan sinh dục mà còn dẫn đến hiện tượng vô sinh, thậm chí cả lợn mẹ và lợn con có thể chết. Nguyên nhân - Đẻ khó do nguyên nhân cơ thể mẹ: khi chăm sóc, nuôi dưỡng không tốt, thức ăn không đầy đủ, chất dinh dưỡng thiếu so với nhu cầu của lợn mang thai dẫn đến cơ thể mẹ suy nhược, sức khỏe kém. Trong quá trình đẻ, sức rặn đẻ của lợn yếu, thậm trí không rặn đẻ, cổ tử cung co bóp yếu nên không đẩy thai ra ngoài. Lợn ăn quá nhiều tinh bột, protein dẫn đến béo cũng gây ra đẻ khó. Lợn quá gầy cũng dẫn đến đẻ khó. Do cấu tạo tổ chức các phần mềm như: cổ tử cung, âm đạo giãn nở không bình thường có chỗ giãn quá mạnh, chỗ lại không giãn nên việc đẩy con ra ngoài gặp khó khăn. Khung xoang chậu bị biến dạng, khớp bán động háng phát triển không bình thường, vôi hóa cột sống hay xoang chậu hẹp. Trong quá trình đẻ độ giãn
- 33 nở kém, thai bị mắc trước cửa xoang chậu không ra được. Khi quá trình rặn đẻ kéo dài, sức co bóp lớn ép lợn con bị chết. Ở thời gian có thai kỳ cuối, thai quá to, lợn nái vận động mạnh, chèn ép tử cung làm tử cung bị xoắn vặn lại, tư thế tử cung thay đổi, đường sinh dục trở nên không bình thường cũng gây đẻ khó. Do rối loạn hormone tuyến sinh dục cái: kích tố nhau thai relaxin lúc đẻ tiết ra ít nên không làm mất lớp canxi ở bán động háng, không giãn dây chằng xương chậu (không sụt mông) hoặc prostagladin tiết ít không đủ gây co bóp tử cung nên không tống thai ra ngoài được. Chế độ dinh dưỡng không phù hợp hoặc do quá ít thai, làm thai quá to không phù hợp với kích thước của xương chậu và đường sinh dục của lợn mẹ. Thai bị dị hình hay quái thai. Đẻ khó do nguyên nhân bào thai thường chiếm 3/4, những nguyên nhân và loại hình đẻ khó có thể xảy ra đơn độc hoặc kết hợp lại với nhau như bào thai quá to mà xương chậu lại quá nhỏ, thai to cộng với tư thế thai không bình thường khi rặn đẻ thai bị kẹt không ra được. Triệu chứng Lợn nái đến ngày đẻ, nước ối vỡ ra, trong nước ối có lẫn phân su nhưng không thấy thai ra. Lợn nái có biểu hiện rặn nhiều lần, rặn mạnh, thậm chí lợn nái còn rặn căng bụng, cong lưng, chân đạp vào thành chuồng để rặn nhưng thai vẫn không ra. Do thời gian rặn đẻ mạnh và kéo dài mà thai vẫn không ra làm cho lợn nái mệt mỏi. Nếu để lâu có thể dẫn đến hiện tượng thai bị ngạt mà chết. Khi đưa tay vào đường sinh dục thấy khung xoang chậu hẹp, thai to hoặc ở tư thế không bình thường nằm kẹt ở trước cửa xoang chậu. Hậu quả Tử cung co bóp mạnh mà thai không ra, thai bị chèn ép, bị ngạt thở dẫn đến lợn con bị chết.
- 34 Nếu mổ để lấy thai ra ngoài thì lợn mẹ hay bị chết hoặc không thể dùng sinh sản lứa sau. Do lợn nái rặn đẻ mạnh và kéo dài làm lợn nái mệt mỏi, kéo dài thời gian đẻ, sức co bóp của tử cung giảm, gây ra hiện tượng sót nhau, sót con dẫn đến viêm đường sinh dục. Khi dùng biện pháp can thiệp không đúng cách, gây xây xát niêm mạc tử cung, hoặc dụng cụ thủ thuật không đảm bảo vệ sinh làm lợn bị nhiễm một số bệnh: viêm tử cung, viêm vú, sảy thai truyền nhiễm khi đó, niêm mạc sẽ có những vết sẹo gây cản trở cho quá trình thụ thai, thai làm tổ dẫn đến xảy thai, tiêu thai, đẻ non ở những lần sinh sản tiếp theo, thậm trí là vô sinh. * Bệnh bại liệt sau sinh Là bệnh mà lợn mẹ mất khả năng vận động sau thời gian sổ thai. Nguyên nhân gây bệnh Bệnh xuất hiện chủ yếu do: Khi thai quá to, tư thế và chiều hướng của thai không bình thường, do quá trình thủ thuật kéo thai quá mạnh hay không đúng thao tác Từ đó gây tổn thương thần kinh tọa hoặc ảnh hưởng đến đám rối hông khum. Biểu hiện bệnh - Lúc đầu lợn mẹ đi lại khó khăn, về sau không đứng lên được mà nằm bẹp 1 chỗ. - Bệnh thường kế phát với 1 số bệnh ở hệ tiêu hóa, hô hấp như: chướng bụng đầy hơi, viêm phế quản cấp. - Nếu bệnh kéo dài, con vật dễ bị loét từng mảng da phía tiếp xúc với nền chuồng. - Sau 3 - 4 tuần con vật gầy dần và chết. Biện pháp khắc phục - Thao tác can thiệp kịp thời, đúng kỹ thuật.
- 35 - Hằng ngày trở mình cho lợn mẹ → tránh bầm huyết, hoại tử da và kế phát với chướng bụng, đầy hơi. - Tăng cường thức ăn có bổ sung nguyên tố vi lượng nhất là canxi và photpho. - Tiêm Mg - calcium cho lợn. Đồng thời kết hợp với châm cứu. 2.3. Tổng quan các nghiên cứu trong nước và ngoài nước 2.3.1. Tổng quan các nghiên cứu trong nước Nước ta ngành chăn nuôi rất được nhà nước quan tâm và phát triển, ngành chăn nuôi lợn đã được nhà nước đầu tư kinh phí cho rất nhiều dự án để nghiên cứu về công tác chăm sóc nuôi dưỡng và phòng trị bệnh cho lợn nói chung và lợn nái nói riêng. Theo Phạm Hữu Doanh và cs (2003) [6], trước khi đẻ lau, xoa vú và tắm cho nái. Cho con đẻ đầu tiên bú ngay sau 1 h đẻ, cắt răng nanh lợn con. Chườm nước đá vào bầu vú để giảm sưng, giảm sốt. Tiêm kháng sinh: Penicillin 1,5 - 2 triệu đơn vị với 10 ml nước cất tiêm quanh vú. Nếu nhiều vú bị viêm thì pha loãng liều thuốc trên với 20 ml nước cất, tiêm xung quanh các vú viêm. Tiêm trong 3 ngày liên tục. Theo Trần Tiến Dũng và cs (2002) [8], bệnh viêm đường sinh dục ở lợn chiếm tỷ lệ cao từ 30 - 50%, trong đó viêm cơ quan bên ngoài ít, chiếm tỷ lệ 20%, còn lại 80% là viêm tử cung. Nguyễn Văn Thanh (2007) [23], kết quả khảo sát tình hình mắc bệnh viêm tử cung trên 620 lợn nái ngoại nuôi tại một số trại tại vùng Bắc Bộ cho thấy: Tỷ lệ nhiễm viêm tủ cung ở đàn lợn tương đối cao, biến động từ 36,57% tới 61,07%. Tỷ lệ mắc tập trung ở những lợn nái đẻ lứa đầu đến lứa thứ 8. Theo Trần Ngọc Bích và cs (2016) [2], Khảo sát tình hình viêm nhiễm đường sinh dục lợn nái sau khi sinh và hiệu quả điều trị của một số loại kháng sinh trên 143 lợn nái sau khi sinh đã phát hiện 106 con tiết dịch nghi viêm đường sinh dục, chiếm tỷ lệ 74,13%.
- 36 Viêm tử cung là một quá trình bệnh lý thường xảy ra ở gia súc cái sinh sản sau đẻ. Quá trình viêm hủy các tế bào tổ chức của các lớp hay các tầng tử cung gây rối loạn sinh sản ở gia súc cái làm ảnh hưởng lớn, thậm chí làm mất khả năng sinh sản ở gia súc cái. Trong quá trình mang thai lợn ăn nhiều chất dinh dưỡng, ít vận động hoặc bị nhiễm một số bệnh truyền nhiễm như: bệnh xoắn khuẩn (Leptospirosis), bệnh sảy thai truyền nhiễm (Brucellosis) và một số bệnh truyền nhiễm khác làm cơ thể lợn nái yếu dần dẫn đến lợn sảy thai, đẻ non, thai chết lưu từ đó dẫn đến viêm tử cung (Nguyễn Đức Lưu và cs, 2004 [12]). Theo Phạm Sỹ Lăng và cs (2002) [11], bệnh viêm tử cung do vi khuẩn Streptococcus và Colibacilus nhiễm qua cuống rốn của lợn con sang lợn mẹ do đẻ khó, sát nhau, sảy thai hay qua dụng cụ thụ tinh nhân tạo cứng gây xây xát tạo các ổ viêm nhiễm trong tử cung, âm đạo. Trần Tiến Dũng và cs (2002) [8] cho biết, khi gia súc bị bệnh viêm tử cung ở thể viêm cơ, viêm tương mạc thì không nên tiến hành thụt rửa bằng các chất sát trùng với thể tích lớn. Vì khi bị tổn thương nặng, cơ tử cung co bóp yếu, các chất bẩn không được đẩy ra ngoài, lưu trong đó làm cho bệnh nặng thêm. Tác giả đề nghị nên dùng oxytocin kết hợp PGF2α hoặc kết hợp với kháng sinh điều trị toàn thân và cục bộ. 2.3.2. Tổng quan các nghiên cứu ở nước ngoài Chăn nuôi lợn ở nước ngoài đã được quan tâm và phát triển từ lâu ở các nước Châu Âu, họ có rất nhiều các công trình nghiên cứu về đặc điểm sinh lý của con lợn nái và các bệnh, cách trị bệnh trên con lợn nái sinh sản. Theo Urban V.P. và cs (1983) [20], các vi khuẩn gây nhiễm trùng tử cung có nguồn gốc từ nước tiểu, các tác giả đã phân lập vi khuẩn từ mẫu nước tiểu lợn nái sắp sinh thường có chứa các vi khuẩn E. coli, Staphylococcus aureus, Streptococcus spp
- 37 Theo Smith B.B. và cs (1995) [18], Taylor D.J. (1995) [19], tăng cường vệ sinh chuồng trại, vệ sinh thân thể lợn nái là yếu tố quan trọng trong việc phòng ngừa nhiễm trùng sau khi sinh. Khi mổ khám những lợn vô sinh đã xác định được nguyên nhân do cơ quan sinh sản là 52,5%, lợn nái đẻ lứa đầu là 32,1%, lợn nái cơ bản có những biến đổi bệnh lý: viêm vòi tử cung có mủ. Theo Trekaxova (1983) [17], về chữa bệnh viêm vú cho lợn nái hướng vào việc đưa ra các phương pháp chữa kết hợp. Dùng novocain phong bế phối hợp với điều trị bằng kháng sinh cho kết quả tốt. Để phong bế thần kinh tuyến sữa, tác giả đã dùng dung dịch Novocain 0,5% liều từ 30 - 40ml cho mỗi túi vú. Thuốc tiêm vào mỗi thuỳ vú bệnh, sâu 8 - 10 cm. Dung dịch Novocain còn được bổ sung 100 - 200 ngàn đơn vị Penicillin hay kháng sinh khác. Đồng thời, lợn nái còn được tiêm bắp cùng một loại kháng sinh trong Novocain này, từ 400 - 600 đơn vị, mỗi ngày 2 - 3 lần. Theo Smith và cs (1995) [18], chữa bệnh viêm tử cung bằng cách sử dụng phương pháp tiêm kháng sinh vào màng treo cổ tử cung của lợn nái, điều trị viêm tử cung đạt hiệu quả cao. Streptomycin 0,25g, Penicillin 500.000 UI, dung dịch KMnO4 1% 40 ml + vitamin C. Gondret và cs (2005) [36] cho biết con lai giữa (Large White Pietrain) (Large White Landrace) có khối lượng sơ sinh/con là 1,50 kg, khối lượng cai sữa là 8,22 kg ở 27 ngày tuổi, khả năng tăng trọng giai đoạn 27 - 67 ngày tuổi là 481,50 g/ngày.
- 38 Phần 3 ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 3.1. Đối tượng Lợn nái sinh sản nuôi tại trang trại Trần Văn Tuyên, huyện Yên Thủy, tỉnh Hòa Bình. 3.2. Địa điểm và thời gian tiến hành - Địa điểm: Trại lợn Trần Văn Tuyên, huyện Yên Thủy, tỉnh Hòa Bình - Thời gian tiến hành: từ ngày 18/05/2019 đến ngày 25/11/2019 3.3. Nội dung thực hiện - Đánh giá tình hình chăn nuôi tại trại Trần Văn Tuyên, xã Đoàn Kết, huyện Yên Thủy, tỉnh Hòa Bình. - Thực hiện quy trình chăm sóc nuôi dưỡng lợn nái sinh sản. - Biện pháp phòng trị bệnh cho lợn nái sinh sản. 3.4. Các chỉ tiêu và phương pháp thực hiện 3.4.1. Các chỉ tiêu thực hiện - Tình hình chăn nuôi lợn tại trại lợn Trần Văn Tuyên, huyện Yên Thủy, tỉnh Hòa Bình. - Cơ cấu của đàn nái sinh sản tại trại. - Tình hình sinh sản của lợn nái tại trại. - Một số chỉ tiêu về sinh sản của lợn nái. - Biện pháp vệ sinh phòng bệnh. - Lịch tiêm phòng vắc xin cho đàn lợn nái tại trại. - Tình hình mắc bệnh trên đàn lợn nái của trại - Kết quả chẩn đoán và điều trị bệnh trên đàn lợn nái của trại.
- 39 3.4.2. Phương pháp thực hiện - Phương pháp đánh giá tình hình chăn nuôi: để đánh giá tình hình chăn nuôi tại trại chúng em tiến hành thu thập thông tin từ trại, kết hợp với kết quả theo dõi tình hình thực tế tại trang trại. - Phương pháp áp dụng quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng cho đàn lợn nái sinh sản nuôi tại trại: thực hiện các quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng lợn nái chửa, lợn nái nuôi con và lợn con theo mẹ theo qui trình chăn nuôi của công ty CP. - Phương pháp chẩn đoán và điều trị bệnh cho lợn: để xác định tình hình nhiễm bệnh trên đàn lợn, chúng em tiến hành theo dõi hàng ngày, thông qua phương pháp chẩn đoán lâm sàng. Quan sát các biểu hiện như: trạng thái cơ thể, bộ phận sinh dục ngoài, dịch rỉ viêm, phân ghi chép vào sổ theo dõi hàng ngày. Từ các triệu chứng thu thập được tiến hành chẩn đoán và điều trị bệnh cho lợn dưới sự hướng dẫn của kỹ sư trại. 3.4.3. Phương pháp xác định các chỉ tiêu theo dõi Số liệu thu được được xử lý trên phần mềm Microsoft Excel 2010 với các tham số như sau: - Tỉ lệ lợn mắc bệnh: ∑ số lợn mắc bệnh Tỷ lệ lợn mắc bệnh (%) = x 100 ∑ số lợn theo dõi - Tỷ lệ lợn khỏi: ∑ số con khỏi bệnh Tỷ lệ khỏi (%) = x 100 ∑ số con điều trị - Tỷ lệ tiêm phòng: ∑ số con được tiêm phòng Tỷ lệ tiêm phòng (%) = x 100 ∑ số con lợn
- 40 1. Tỷ lệ lợn con được thực hiện thao tác phẫu thuật: ∑ số con thực hiện phẫu thuật Tỷ lệ thực hiện (%) = x 100 ∑ lợn con Tính tổng mẫu S= sum(x1,xn) Tính số trung bình = average(x1,xn) Tính độ lệch chuẩn = stdev(x1,xn) Sai số trung bình = Sx/sqrt(n-1) Chú giải: n : Dung lượng mẫu X : Số trung bình cộng : Sai số trung bình mX x1, x2, xn : Giá trị của các biến số S X : Độ lệch chuẩn
- 41 Phần 4 KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 4.1. Tình hình chăn nuôi lợn tại trại lợn Trần Văn Tuyên qua 3 năm từ 2017- 2019 Trong thời gian thực tập em đã tìm hiểu được một số thông tin về tình hình chăn nuôi lợn tại trại qua 3 năm từ 2017 - 2019 được trình bày cụ thể trong bảng 4.1. Bảng 4.1. Tình hình chăn nuôi lợn tại trại lợn Trần Văn Tuyên qua 3 năm 2017 - 2019 STT Loại lợn 2017 2018 5 - 2019 1 Lợn đực giống 35 31 20 2 Lợn hậu bị 150 233 180 3 Lợn nái sinh sản 1.208 1.071 827 4 Lợn con 36.992 35.112 27.112 Tổng 38.358 36.457 28.139 ( Nguồn copy của công ty CP) Qua bảng 4.1 cho thấy, trang trại chỉ sản xuất lợn giống, do đó cơ cấu của trại chủ yếu là lợn nái và lợn con theo mẹ và không nuôi lợn thịt. Số lượng lợn đực từ 2017 - 2019 dao động trong khoảng 35-20 con, lợn nái sinh sản dao động trong khoảng 1.208 – 1.071 con, lợn hậu bị dao động trong khoảng 150- 180 con và lợn con dao động trong khoảng 36.992 - 27.112 con. Số lợn đực giống giảm từ 35 con xuống 20 con do việc phải loại thải những con lợn đực giống đã kém chất lượng. Số lượng lợn nái sinh sản năm 2017 đến tháng tháng 5 năm 2019 giảm do số lợn nái già bị loại thải nhiều. Số lượng lợn hậu bị tăng để thay thế những con lợn nái bị loại thải. Số lượng lợn con năm 2019 chỉ tính đến tháng 5 nên số lượng ít hơn năm 2018 và 2019.
- 42 4.2. Thực hiện biện pháp chăm sóc nuôi dưỡng đàn lợn nái sinh sản 4.2.1. Số lượng lợn nái trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng tại trại qua 6 tháng thực tập Qua 6 tháng thực tập tại trại số lượng lợn nái mà em trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng trong giai đoạn từ 100 - 114 ngày, được trình bày cụ thể trong bảng 4.2. Bảng 4.2. Số lượng lợn nái trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng tại trại qua 6 tháng thực tập (Đơn vị: con) Nái đẻ, Lợn con đẻ Lợn con cai Tháng Nái chửa nuôi con ra sữa 6 58 58 870 725 7 58 58 850 722 8 58 58 830 718 9 58 58 845 720 10 58 58 838 715 11 58 58 829 702 Tổng 348 348 5062 4302 Qua bảng 4.2 cho thấy, số lượng lợn nái chửa, nái đẻ nuôi con và số lượng lợn con mà em trực tiếp chăm sóc trong 6 tháng thực tập. Số lượng lợn nái chửa mỗi tháng em chăm sóc trung bình là 58 con trong 6 tháng em chăm sóc 348, đây là những lợn nái chửa ở giai đoạn cuối 100 - 114 ngày, đã được chuyển lên chuồng nái đẻ để chờ đẻ, tập làm quen với chuồng đẻ. thực hiện theo dõi tỷ lệ đẻ của lợn nái với số lượng lợn con sơ sinh là 5062 con trong 6 tháng, nuôi dưỡng chăm sóc lợn mẹ đẻ cùng lợn con theo mẹ đến khi cai sữa, số lượng lợn con cai sữa là 4302 con trong 6 tháng.
- 43 4.2.2. Quy trình chăm sóc lợn nái đẻ Nái chửa trước đẻ khoảng 1 tuần được đưa lên chuồng đẻ. hàng ngày cần tắm rửa 1 lần/ ngày. Chuồng nuôi được vệ sinh sạch sẽ ngày 2 lần. Hàng ngày, sau khi vệ sinh chuồng, cho ăn, em thường xuyên quan sát lợn mẹ, đặc biệt là những biến đổi của bầu vú và âm hộ để phát hiện những con sắp đẻ để có kế hoạch đỡ đẻ. qua thời gian thực tập, em ghi chép lại được các biểu hiện cụ thể ở bảng 4.3 Bảng 4.3. Những biểu hiện khi lợn sắp đẻ Trước khi đẻ Dấu hiệu 0-10 ngày Vú căng lên và cương cứng, âm hộ trương mọng 2 ngày Bầu vú cương cứng hơn và tiết chất lỏng trong 12-14 ngày Lợn nái bồn chồn, tuyến vú bắt đầu tiết sữa 6 giờ Sữa tiết ra nhiều hơn qua lỗ tia sữa 2-4 giờ Các vú đếu có sữa non vọt thành tia dài 30 phút- 2 giờ Tăng nhịp thở đi lại không yên 15- 30 phút Âm hộn tiết dịch màu hồng có lẫn phân xu Nái năm nghiêng một bên, hơi thở đứt quãng, ép bụng, ép 15 giây- 5 phút đùi, cong đuôi rặn đẻ Khi lợn chuyển lên chuồng đẻ thì thẻ nái được gắn vào mỗi bảng cám đầu ô chuồng, ghi ngày đẻ dự kiến, ghi bảng cám để tiện cho ăn và chuẩn bị đỡ đẻ. Khi chăm sóc lợn nái bầu giai đoạn 2 tuần trước khi đẻ phải chú ý về khẩu phần ăn của từng con lợn, khi tra cám lợn phải nhìn vào bảng cám của từng con, nếu cho ăn quá nhiều hoặc quá ít đều ảnh hưởng tới bào thai. Khẩu phần ăn rất quan trọng trong quá trình nuôi dưỡng ngoài ra cần phải cho lợn ăn đùng bữa đúng giờ, lợn tước đẻ 1 tuần và đang đẻ được ăn 2 bữa/ ngày, lợn nái nuôi con được ăn 3 bữa/ ngày (sáng, trưa, chiều)
- 44 Hàng ngày, ngoài các công việc trên, em còn tham gia vào vệ sinh chuồng trại, sát trùng chuồng nuôi với các công việc cụ thể như sau: rắc vôi ở đường đi và hai đường tra cám để tiêu diệt mầm bệnh, vi khuẩn. Vệ sinh máng ăn: khi lau máng ăn của lợn mẹ phải chú ý vét hết cám thừa, lau thật sạch để tránh cám thừa còn trên máng bị thiu, mốc, con mẹ ăn phải sẽ ảnh hưởng sức khỏe, nếu lợn bầu ăn phải thức ăn mốc, ôi thiu dễ bị sảy thai. Cần xịt gầm hàng ngày để tránh mùi hôi bốc lên và giữ chuồng trại sạch sẽ hơn, khi xịt gầm cần chú ý không để nước bắn lên trên, làm ẩm ướt chuồng nuôi, không nên xịt gầm quá sớm vào mùa đông, nên xịt gầm sau 9 giờ để tránh lợn con bị lạnh sẽ dễ mắc bệnh hô hấp, tiêu chảy. Bảng 4.4. Khẩu phần ăn của lợn nái đẻ ở trại Trần Văn Tuyên Đối với nái dạ Đối với nái hậu bị Trước sau ngày Khẩu phần (kg) đẻ Sáng Trưa Chiều Tối Tổng Sáng Trưa Chiều Tối Tổng Trước đẻ 4 ngày 1,5 1,0 2,5 1,2 1,0 2,2 Trước đẻ 3 ngày 1,2 1,0 2,2 1,0 1,0 2,0 Trước đẻ 2 ngày 1,0 1,0 2,0 1,0 0,7 1,7 Trước đẻ 1 ngày 1,0 0,5 1,5 1,0 0,5 1,5 Ngày đẻ 0,5 0,5 1,0 0,5 0,5 1,0 Đẻ được 1 ngày 0,3 0,2 0,2 0,3 1,0 0,3 0,2 0,2 0,3 1,0 Đẻ được 2 ngày 0,5 0,5 0,5 0,5 2,0 0,5 0,5 0,5 0,5 2,0 Đẻ được 3 ngày 1,0 0,5 0,5 1,0 3,0 1,0 0,5 0,5 1,0 3,0 Đẻ được 4 ngày 1,0 1,0 1,0 1,0 4,0 1,0 1,0 1,0 1,0 4,0 Đẻ được 5 ngày 1,5 1,0 1,0 1,5 5,0 1,5 1,0 1,0 1,5 5,0 Trong thời gian thực tập tại trại, em vừa tham gia chăm sóc, nuôi dưỡng đàn lợn nái vừa được học và làm một số các thao tác trên lợn con như đỡ lợn đẻ, mài nanh, bấm số tai, thiến lợn đực.
- 45 * Đỡ đẻ: Kĩ thuật đỡ đẻ cho lợn con được em thực hiện như sau - Sau khi lợn mẹ đẻ, lấy lợn con từ trong chuồng ra. - Vuốt hết dịch vùng đầu và mặt. Vỗ nhẹ vào thân để kích thích hô hấp. - Vuốt hết màng bọc và nhớt ở phần thân và chân lợn. Dùng khăn lau khô người lợn, lợn con phải khô và sạch trước khi cắt dây rốn. - Cầm lợn con và dây buộc rốn, thắt dây rốn ở vị trí cách cuống rốn 2,5cm, dùng kéo cắt phần bên ngoài nút thắt một đoạn bằng 1/2 bên trong nút buộc khoảng 1,5 cm. Sát trùng dây rốn, vùng cuống rốn bằng cồn iod. - Cho lợn con vào lồng úm tº = 33 - 35ºC - Trước khi cho lợn con ra bú cần lau sạch vú lợn mẹ, lót thảm cho lợn con ra bú. - Phải trực liên tục cho đến khi lợn nái đẻ xong hoàn toàn, nhau ra hết, lợn nái trở về trạng thái yên tĩnh và cho con bú. * Thao tác bấm số tai, mài nanh, cắt đuôi và tiêm chế phẩm Fe - Dextran - B12 cho lợn con: lợn con sau khi bú mẹ sức khỏe tốt hơn, cứng cáp hơn sẽ được tiến hành mài nanh, bấm số tai, cắt đuôi, tiêm kháng sinh và chế phẩm Fe- Dextran - B12. Thường thì chế phẩm Fe - Dextran - B12 sẽ được tiêm vào 3 ngày tuổi sau khi lợn con sinh với liều lượng 1 - 2 ml/ con, nhưng để tránh gây strees cho lợn con và tiện cho các thao tác kỹ thuật thì trại thực hiện các công việc đó cùng một lúc. Sắt sẽ được tiêm bổ sung lần 2 vào 7 - 10 ngày tuổi nếu thấy cần thiết. * Thiến lợn đực: đối với lợn đực nuôi thịt ta cần thiến càng sớm càng tốt. Thông thường trong chăn nuôi lợn nái sinh sản người ta thường thiến lợn vào 7 - 10 ngày tuổi. Nhưng thực tế trại thực hiện thiến lợn đực vào ngày thứ 4 sau khi sinh. Trước khi thiến lợn đực cần chuẩn bị dụng cụ thiến đầy đủ gồm: dao thiến, cồn sát trùng, panh kẹp, bông gòn, khăn vải sạch, xi - lanh tiêm và thuốc kháng sinh.
- 46 Thao tác: đầu tiên là tiêm cho lợn con 2ml/con Fe-Dextran-B12. Sau đó người thiến ngồi ghế cao và kẹp lợn con vào giữa 2 đùi sao cho đầu của lợn con hướng xuống dưới. Một tay nặn sao cho dịch hoàn nổi rõ, tay còn lại cầm dao rạch hai vết đứt vào chính giữa của mỗi bên dịch hoàn. Dùng 2 tay nặn dịch hoàn ra ngoài rồi lấy panh kẹp thừng dịch hoàn vào giật dịch hoàn ra, dùng khăn sạch lau vùng dịch hoàn, bôi cồn vào vị trí thiến. Kết quả thực hiện một số thủ thuật trên đàn lợn trong thời gian em thực tập được thể hiện trong bảng 4.5. Bảng 4.5. Kết quả thực hiện thủ thuật trên đàn lợn con Số lượng Kết quả Tỷ lệ STT Công việc thực hiện (con) (con) (%) 1 Đỡ đẻ 165 165 100 2 Mài nanh, bấm số tai, cắt đuôi 718 718 100 3 Thiến lợn con 250 250 100 Trong thời gian thực tập tại trại, em vừa tham gia chăm sóc, nuôi dưỡng đàn lợn nái vừa được học và làm một số các thao tác trên lợn con như đỡ lợn đẻ, mài nanh, bấm số tai, cắt đuôi và thiến lợn đực. Em đã được tham gia và đỡ đẻ cho 165 con đạt tỷ lệ 100%. Lợn con sau khi đẻ ra nếu nằm trong bọc thì cần xé bọc ngay để tránh lợn con bị ngạt, nếu lợn bị ngạt thì dùng tay vỗ nhẹ vào lưng lợn để kích thích hô hấp hoặc nâng 2 chân trước và 2 chân sau con lợn lại, gập bụng để kích thích hô hấp. Lợn con sau khi đẻ, lau sạch mình thì em có xoa thêm bột mistral để lợn nhanh khô, giữ ấm và tăng cường sức đề kháng. Lợn con sau khi đẻ 30 phút thì cho ra bú mẹ, con nhỏ, yếu cho lên bú ở những vú đầu, những con to khỏe hơn cho bú ở những vú sau. Nếu lợn mẹ không cho lợn con bú, cắn con thì em cùng mọi người buộc chân lợn mẹ, cố định để cho lợn con bú sữa. Lợn con được 7 ngày tuổi thì em tiến hành lắp
- 47 máng tập ăn và cho lợn con tập ăn. Vì lợn con mới sinh nên sức đề kháng yếu với điều kiện môi trường nên cần chú ý thắp bóng sưởi để giữ ấm, tránh các bệnh về hô hấp và phòng ngừa tiêu chảy ở lợn con. Khi thao tác trên lợn con em đã rút ra được một số kinh nghiệm như: đỡ đẻ phải thao tác nhanh để không làm lợn con đau đớn, kêu la gây ảnh hưởng tới con nái đang đẻ, lợn con buộc dây rốn phải chắc vì một số trường hợp em buộc chưa chắc sau khi cắt dây rốn máu còn chảy thành tia, lợn con bị mất máu nhiều. Bên cạnh đó, em còn tham gia công tác mài nanh, cắt tai, bấm đuôi cho lợn con với số lượng 718 con. Công việc mài nanh cho lợn con là một công việc rất quan trọng, đòi hỏi kỹ thuật khéo léo, chính xác. Nếu kỹ thuật mài nanh không chuẩn sẽ ảnh hưởng đến cả lợn mẹ và lợn con. Chính vì vậy mà công việc mài nanh cho lợn con thường chỉ có tổ trưởng tổ đẻ mới được trực tiếp làm. Đối với sinh viên chỉ được tham gia làm công tác mài nanh cho lợn con khi đã thành thục về kỹ thuật mới được tổ trưởng cho làm. Ngoài công việc trên, em còn tham gia công tác thiến lợn đực. Thông qua các kỹ thuật này, em đã rèn luyện được tay nghề và thành thạo các quy trình đỡ đẻ, phẫu thuật cho lợn. Khi mài nanh, bấm số tai, thiến lợn đực phải tiến hành nhẹ nhàng vì lợn con còn rất nhỏ và yếu, nên tiến hành mài nanh, bấm số tai ngay sau khi đẻ 1 ngày và thiến lợn đực sau đẻ 3 ngày vì nếu mài nanh, bấm số tai và thiến quá muộn thì lợn con dễ mất máu nhiều, vết thương khó lành hơn và lợn con quá to gây khó khăn cho việc cố định. 4.3. Tình hình sinh sản của lợn nái trực tiếp theo dõi tại trại lợn Trần Văn Tuyên Trong suốt quá trình thực tập tại trại lợn của công ty cổ phần chăn nuôi CP em đã theo dõi được tình hình sinh sản của lợn nái nuôi tại trại được thể hiện qua bảng 4.6.
- 48 Bảng 4.6. Tình hình sinh sản của lợn nái nuôi tại trại Số con đẻ Đẻ bình Tháng Số con đẻ Tỷ lệ (%) khó phải Tỷ lệ (%) thường can thiệp 6 58 53 91,38 5 8,62 7 58 54 93,31 4 6,69 8 58 56 96,55 2 3,45 9 58 56 96,55 2 3,45 10 58 54 93,31 4 6,69 11 58 57 98,28 1 1,72 Tổng 348 330 94,90 18 5,12 Qua bảng 4.6 cho biết tổng số lượng lợn đẻ mỗi tháng, số con đẻ bình thường và số con đẻ phải can thiệp của trại. Tỷ lệ lợn nái đẻ phải can thiệp từ 1,72- 8,62 %, trung bình là 5,12%. Lợn nái đẻ khó phải can thiệp là do lợn đẻ ở những lứa đầu, do lợn ăn nhiều vào giai đoạn cuối của thai kì làm thai quá to, do chiều thai không thuận, do lợn mẹ ít được vận động và do sức khỏe của con mẹ không tốt. Số lợn nái đẻ phải can thiệp với tỉ lệ thấp là do trong quá trình chăm sóc đã thực hiện đúng quy trình về thức ăn cho lợn nái mang thai. Trong đỡ đẻ em rút được kinh nghiệm là cần chuẩn bị tốt lồng úm cho lợn con, vệ sinh vùng mông và âm hộ con mẹ trước khi đẻ. Khi lợn đẻ phải chú ý từng con một để biết con nào đẻ khó, con nào đẻ dễ, chú ý thời gian đẻ của mỗi con để biết nhanh hay chậm. Nếu con mẹ đẻ khó cần can thiệp sớm bằng cách dùng oxytocin để kích thích co bóp cơ trơn tử cung, xoa bầu vú. Nếu thai quá to, con mẹ rặn đẻ không được phải nhanh chóng can thiệp đưa con con ra ngoài để tránh ngạt, làm chết những con còn lại trong tử cung. Khi can thiệp phải chú ý sát trùng tay, đeo găng tay sát trùng, vệ sinh vùng mông, âm hộ, phải tiến hành nhẹ nhàng tránh gây đứt nhau, xây sát niêm mạc tử cung con nái. Những người trực tiếp đỡ đẻ và can thiệp đẻ khó phải cắt móng
- 49 tay, nếu để móng tay dài có thể làm tổn thương lợn con mới sinh, ảnh hưởng tới niêm mạc tử cung của lợn mẹ. 4.4. Một số chỉ tiêu về số lượng lợn con của lợn nái Qua thời gian 6 tháng thực tập tại trại em đã thống kê được 1 số chỉ tiêu về số lượng lợn con của lợn nái được em trình bày trong bảng 4.7. Bảng 4.7. Một số chỉ tiêu về số lượng lợn con của lợn nái Số lợn Số con đẻ ra/lứa Số con còn sống đến Tỷ lệ sống Tháng x m nái đẻ ( x ) cai sữa ( ) (%) 6 58 11,41 0,17 10,76 0,10 94,25 7 58 11,47 0,16 10,85 0,12 94,59 8 58 11,53 0,21 10,91 0,12 94,62 9 58 11,58 0,15 10,93 0,10 94,35 10 58 11,79 0,15 10,97 0,10 92,98 11 58 11,84 0,17 11,01 0,11 93,01 Tổng 348 11,6 0,17 10,91 0,11 93,97 Qua bảng 4.7 cho thấy các chỉ tiêu về sinh sản là tương đối cao. Trong 6 tháng em thực tập có tổng 348 con lợn nái đẻ với số con đẻ ra trung bình là 11,6 con/lứa, số con còn sống đến cai sữa là 10,91 con/lứa và tỷ lệ sống đạt 93,97%. Tỷ lệ đẻ ở các tháng 12, 1 và 2 thấp, thấp nhất là 9,42con/ lứa do lúc này vào đúng dịp tết nguyên đán, trại thường xuyên có sự thay đổi công nhân, luôn có sự bàn giao công việc giữa người cũ và người mới, do mất điện làm tăng nhiệt độ chuồng nuôi, mức độ thông thoáng kém dẫn đến chết thai nhiều. Trong quá trình nuôi dưỡng từ sau khi đẻ đến 21 ngày số lượng lợn con cai sữa tăng. Có nhiều nguyên nhân là do kỹ thuật đỡ đẻ của công nhân và sinh viên thực tập ngày càng được nâng cao. Lợn con bị lợn mẹ đè chết giảm do công tác trông lợn ngày càng được chú ý hơn. Tỷ lệ sống tháng 4,5 giảm do công nhân bỏ việc đột ngột, gây nên tình trạng thiếu nhân công. Tại trại, trong
- 50 6 tháng theo dõi em thấy lợn con có tỉ lệ sống cao nhất là 94,62% vào tháng 2 và thấp nhất là 92,98% vào tháng 4. Để có tỷ lệ lợn con sống đến cai sữa cao phải chú ý chăm sóc, nuôi dưỡng tốt, nếu nhiệt độ môi trường thấp phải đưa lợn con vào ô úm, không nên để chuồng và sàn chuồng ẩm ướt để tránh lợn con bị tiêu chảy. Nên cho lợn con tập ăn sớm lúc 5 ngày tuổi để tăng khả năng tăng trọng của lợn. Phải tạo mọi điều kiện thích hợp, tối ưu nhất để lợn con có khả năng phát triển tốt nhất. Vì vậy trong quá trình nuôi dưỡng cần đảm bảo số lượng công nhân trong dãy chuồng đang đẻ để giảm tỷ lệ chết do lợn mẹ đè là 2 người trên 1 dãy chuồng 58 nái đang đẻ và nuôi con. Trong quá trình đỡ đẻ, thiến, mổ hecni phải đảm bảo sát trùng đúng kỹ thuật. Tuân thủ đúng yêu cầu trên thì chúng ta có thể hạn chế được tỷ lệ lợn con chết, đảm bảo số lượng lợn con xuất bán cao, mang lại hiệu quả kinh tế cho người chăn nuôi. 4.5. Kết quả thực hiện các biện pháp phòng bệnh cho lợn nái sinh sản tại trại lợn Trần Văn Tuyên. 4.5.1. Thực hiện biện pháp vệ sinh phòng bệnh Thực hiện phương châm ‘‘Phòng ệb nh hơn chữa bệnh’’‚ nên khâu phòng bệnh được đặt lên hàng đầu, nếu phòng bệnh tốt thì có thể hạn chế hoặc ngăn chặn được dịch bệnh xảy ra. Các biện pháp phòng bệnh tổng hợp được đặt lên hàng đầu, xoay quanh các yếu tố môi trường, mầm bệnh, vật chủ. Với các công việc cụ thể như: dọn phân, xịt gầm, rắc vôi, phun sát trùng cho chuồng trại và phương tiện vận chuyển, dụng cụ chăn nuôi, máng ăn. Tùy thuộc vào điều kiện thời tiết, mùa vụ mà việc vệ sinh chăm sóc có những thay đổi cho phù hợp. Các loại thuốc sát trùng mà trại sử dụng là novacide, ommicide. Nguồn nước uống: hệ thống nước sạch được lấy từ giếng khoan về bể lớn rồi được xử lý bằng chlorine với nồng độ khoảng 3 - 5 ppm. Lịch sát trùng của trại được thực hiện như sau:
- 51 Bảng 4.8. Lịch sát trùng trại lợn nái Trong chuồng Ngoài Ngoài khu vực Thứ Chuồng nái Chuồng Chuồng đẻ chuồng chăn chửa cách ly nuôi Phun sát Phun sát Thứ Quét hoặc rắc Phun sát trùng Phun sát trùng toàn trùng toàn 2 vôi đường đi + rắc vôi trùng bộ khu bộ khu vực vực Phun sát trùng + Quét hoặc Rắc vôi Phun sát Thứ Phun sát trùng quét vôi đường rắc vôi trùng 3 đi đường đi Thứ Xả vôi xút Phun sát Phun sát trùng Rắc vôi Rắc vôi 4 gầm trùng Thứ Phun sát trùng Phun sát Phun sát Phun ghẻ Phun ghẻ 5 + xả vôi xút gầm trùng trùng Thứ Phun sát trùng Phun sát Phun sát Phun sát Phun sát trùng 6 + rắc vôi trùng trùng trùng Thứ Phun sát Phun sát trùng Phun sát trùng Rắc vôi Rắc vôi 7 trùng Vệ sinh Rắc vôi Chủ Vệ sinh tổng Vệ sinh tổng Vệ sinh tổng nhật chuồng chuồng tổng khu chuồng Những việc em đã tham gia vào vệ sinh phòng bệnh theo lịch sát trùng của trại là: phun sát trùng chuồng đẻ, rắc vôi đường đi, đường lấy phân, đường tra cám, xả vôi gầm và quét dọn vệ sinh toàn chuồng. Thứ năm hàng
- 52 tuần sau khi đã làm xong các công việc trong chuồng, em cùng mọi người tiến hành tổng vệ sinh bên trong và bên ngoài chuồng, dọn dẹp nhà tắm sát trùng và khu vực ăn uống, nghỉ trưa của công nhân. 4.5.2. Kết quả tiêm vắc xin phòng bệnh cho lợn nái Trong quá trình thực tập tại cơ sở em đã cùng cán bộ kỹ thuật của trại tham gia vào công tác tiêm phòng cho đàn lợn nái, kết quả tiêm phòng cho lợn nái được thể hiện qua bảng 4.9. Bảng 4.9. Kết quả tiêm vắc xin phòng bệnh cho lợn nái sinh sản Liều Số Tỷ An Thời điểm Bệnh được Loại vắc Đường Loại lợn dùng con lệ toàn phòng bệnh phòng xin tiêm (ml/con) tiêm (%) (%) Xảy thai, Sau khi nhập khô thai Tiêm Lợn hậu bị Parvovirus 2 149 100 100 về 5 tuần truyền bắp nhiễm Nái chửa 84 Lở mồm Tiêm Aftopor 2 58 4,92 100 ngày long móng bắp Tiêm Tháng4,8,12 Giả dại Begonia 2 116 9,84 100 bắp Lợn nái Nái chửa 70 Tiêm Dịch tả Coglapest 2 58 4,92 100 ngày bắp Kí sinh Tiêm Tháng 6, 12 Idectin 7 - 8 1273 100 100 trùng bắp Bảng 4.9 là quy trình phòng bệnh cho đàn lợn nái bằng vắc xin của trại. Hàng tuần, lợn nái chửa 84 ngày tiêm vắc xin Aftopor phòng bệnh lở mồm long móng và nái chửa 70 ngày tiêm vắc xin Coglapest phòng dịch tả. Hàng tuần đều phối giống cho lợn với tỉ lệ 58 con/ tuần nên tỉ lệ tiêm vắc xin dịch tả và lở mồm long móng mỗi tuần là 4,92 %. Vắc xin phòng bệnh xảy thai,
- 53 khô thai truyền nhiễm tiêm cho lợn nái hậu bị sau khi nhập về trại 5 tuần, tiêm với tỷ lệ 100% lợn hậu bị; giả dại đươc thực hiện định kỳ 4 tháng 1 lần, mỗi lần tiêm tiêm toàn đàn. Do kinh nghiệm, kỹ thuật chưa có nhiều nên em không được trực tiếp tiêm vắc xin phòng bệnh cho đàn lợn nái mà chỉ được quan sát và học tập. Việc sử dụng vắc xin để phòng bệnh được thực hiện nghiêm túc theo đúng lịch tiêm vắc xin của công ty CP Việt Nam. Nhờ đó mà khả năng miễn dịch của lợn được tăng lên, tỷ lệ số nái mắc các bệnh về sinh sản giảm, số con sinh ra nhiều, lợn con đẻ ra khỏe mạnh ít bị bệnh, nâng cao hiệu quả kinh tế. 4.6. Kết quả chẩn đoán và điều trị bệnh cho lợn nái sinh sản tại trại lợn Trần Văn Tuyên 4.6.1. Tình hình mắc bệnh ở đàn lợn nái sinh sản tại trại lợn Trần Văn Tuyên Trong thời gian 6 tháng thực tập tại trại em đã được tham gia vào công tác chẩn đoán và điều trị bệnh cho đàn lợn nái cùng với các anh kỹ sư của trại. Qua đó chúng em đã được trau dồi thêm kiến thức, kinh nghiệm về chẩn đoán một số bệnh thường gặp, nguyên nhân gây ra bệnh và cách khắc phục, điều trị bệnh. Sau đây là kết quả của công tác chẩn đoán bệnh dựa trên biểu hiện lâm sàng của con vật. * Bệnh viêm tử cung Triệu chứng: lợn đẻ 2 - 3 ngày, sốt nhẹ, giảm ăn hay bỏ ăn, có dịch nhầy chảy ra từ âm hộ, màu trắng đục hoặc màu phớt vàng. Lợn nái bỏ ăn, mệt mỏi, sốt 40,5 - 42º. * Bệnh sát nhau Triệu chứng khi lợn nái bị sát nhau: con vật đứng nằm không yên, nhiệt độ hơi tăng, thích uống nước, sản dịch chảy ra màu nâu. * Bệnh viêm vú Triệu chứng: bệnh xảy ra sau khi đẻ 4 - 5 giờ cho đến 7 - 10 ngày, có con đến một tháng. Viêm vú thường xuất hiện ở một vài vú nhưng đôi khi cũng
- 54 lan ra toàn bộ các vú, vú có màu hồng, sưng đỏ, sờ vào thấy hơi nóng, hơi cứng, ấn vào lợn nái có phản ứng đau. Lợn nái giảm ăn, nếu bị nặng thì bỏ ăn, nằm một chỗ, sốt cao 40,5ºC - 42ºC kéo dài trong suốt thời gian viêm. Sản lượng sữa giảm, lợn nái thường nằm úp đầu vú xuống sàn, ít cho con bú. Vắt sữa ở những vú bị viêm thấy sữa loãng, trong sữa có cặn hoặc cục sữa vón lại, xuất hiện các cục casein màu vàng, xanh lợn cợn có mủ đôi khi có máu. Lợn con thiếu sữa kêu la, chạy vòng quanh mẹ đòi bú, lợn con ỉa chảy, xù lông, gầy nhanh, tỷ lệ chết cao từ 30 đến 100%. * Bệnh bại liệt sau sinh Triệu chứng: lợn đi lại khó khăn, về sau không đứng lên được mà chỉ nằm bẹp 1 chỗ. Sau thời gian dài, vùng da tiếp xúc với nền chuồng bị thối loét. * Đẻ khó Triệu chứng: Lợn nái có biểu hiện rặn nhiều lần, rặn mạnh, thậm chí lợn nái còn rặn căng bụng, cong lưng, chân đạp vào thành chuồng để rặn nhưng thai vẫn không ra. Khi đưa tay vào đường sinh dục thấy khung xoang chậu hẹp, thai to hoặc ở tư thế không bình thường nằm kẹt ở trước cửa xoang chậu Kết quả theo dõi tình hình mắc bệnh được trình bày ở bảng 4.10 như sau: Bảng 4.10. Tình hình mắc bệnh ở đàn lợn nái sinh sản tại trại Chỉ tiêu theo dõi Số nái theo dõi Số nái mắc bệnh Tỷ lệ Tên bệnh (con) (con) (%) Viêm tử cung 348 42 12,07 Sát nhau 348 11 3.16 Viêm vú 348 9 2,59 Bại liệt sau sinh 348 8 2,30 Đẻ khó 348 18 5,17
- 55 Qua bảng 4.10 cho biết, trong 348 con lợn nái theo dõi có 42 con mắc bệnh viêm tử cung, 11 con mắc bệnh sát nhau, 9 con mắc bệnh viêm vú và 8 con mắc bệnh bại liệt sau sinh, 18 con có hiện tượng đẻ khó. Tỷ lệ lợn nái mắc bệnh viêm tử cung cao chiếm 12,67%, do đàn lợn nái ở đây thuộc các dòng nái giống ngoại có năng suất sinh sản cao, nhưng lại chưa thích nghi được hoàn toàn với điều kiện của nước ta, bên cạnh đó quá trình nuôi dưỡng, chăm sóc chưa tốt kết hợp với khí hậu không thuận lợi. Mặt khác, do trong quá trình phối giống và quá trình can thiệp khi lợn đẻ khó phải sử dụng thủ thuật để móc lấy thai không đúng kỹ thuật đã làm xây sát niêm mạc tử cung, tạo điều kiện cho vi khuẩn xâm nhập phát triển và gây bệnh. Tỷ lệ mắc bệnh đẻ khó chiếm 5,17% do lợn nái ít được vận động, ngôi thai không thuận, thai quá to, sức khỏe lợn mẹ yếu. Tỷ lệ mắc bệnh sát nhau là 3,16%, nguyên nhân gây nên bệnh này có thể do kế phát từ các ca lợn nái mắc bệnh viêm tử cung ở thể nặng, do cho ăn quá nhiều ở giai đoạn chửa kỳ 2 làm thai to, khó đẻ, do các thao tác đỡ đẻ không đúng làm đứt nhau, sát nhau. Tỷ lệ mắc bệnh viêm vú là 2,59% do kế phát từ bệnh viêm tử cung, do nền chuồng bẩn, vú bị tổn thương Tỷ lệ mắc bệnh bại liệt sau sinh là 2,30% do trong quá trình chăm sóc, nuôi dưỡng chưa cung cấp đầy đủ các chất khoáng như: canxi, photpho 4.6.2. Kết quả điều trị bệnh ở đàn lợn nái sinh sản tại trại lợn Trần Văn Tuyên Sau 6 tháng thực tập trong quá trình chẩn đoán và điều trị bệnh em đã thu được kết quả điều trị bệnh trên đàn lợn nái sinh sản của trại được trình bày trong bảng 4.11.
- 56 Bảng 4.11. Kết quả trực tiếp điều trị bệnh trên đàn nái sinh sản tại trại Thời Kết quả Chỉ tiêu gian Thuốc Liều Đường Số con Số con dùng Tỷ lệ Tên điều trị lượng tiêm điều trị khỏi thuốc (%) bệnh (con) (con) (ngày) Oxytocin 2ml/con Viêm tử Tiêm Pen - 1ml/20 kg 3 42 40 95,24 cung bắp strep TT Oxytocin 2ml/con Tiêm Sát nhau Pen - 1ml/20 3 11 10 90,91 bắp strep kg TT Pen - 1ml/20kg Tiêm Viêm vú 3 9 6 66,67 strep TT bắp Bệnh bại Mg - Tiêm 60 ml/con 2 - 3 8 6 75,00 liệt Calcium bắp 1,7 - 1,8 Tiêm Đẻ khó Oxytocin 1 18 17 94,44 ml bắp Qua bảng 4.11 cho thấy: trong 42 con mắc bệnh viêm tử cung điều trị khỏi 40 con đạt tỷ lệ cao nhất so với các bệnh cùng điều trị là 95,24% do bệnh được phát hiện sớm và điều trị kịp thời. Bên cạnh đó có 8 con mắc bệnh bại liệt sau sinh điều trị khỏi 6 con đạt tỷ lệ thấp nhất là 75,00% do khi lợn đã mắc bệnh khả năng phục hồi rất khó nên khả năng đi lại, vận động kém hoặc mất khả năng vận động dẫn đến bị hoại tử phần tiếp xúc với nền sàn chuồng, nếu để lâu lợn mẹ gầy yếu dẫn đến chết. Có 11 con mắc bệnh sát nhau điều trị khỏi 10 con đạt tỷ lệ 90,91%. Ðẻ khó có 18 con mắc điều trị khỏi 17 con, tỷ lệ
- 57 khỏi đạt 94,44 % do có 1 con phải mổ vì phát hiện muộn, thai quá to, ngôi thai không thuận, lợn nái không được vận động làm cho thai to khó đẻ, sức khỏe lợn mẹ yếu và 9 con mắc bệnh viêm vú điều trị khỏi 6 con đạt tỷ lệ 66,67% do việc chẩn đoán bệnh thường khó khăn hơn, khi chúng ta phát hiện ra bệnh thì bệnh đã ở thể viêm nặng và điều trị khó khăn hơn. Ðối với bệnh sát nhau, viêm tử cung sau đẻ trại dùng oxytocin liều 2 ml/con để tăng cường co bóp cơ trơn tử cung, giúp đẩy nhau thai, sản dịch ra ngoài nhanh hơn. Kết hợp dùng kháng sinh để điều trị và phòng viêm nhiễm tái phát bằng Pen - strep với liều lượng là 1 ml/20 kg TT. Ðiều trị trong 3 ngày. Sau khi nhau thai, dịch tử cung ra hết em dùng nước muối sinh lý 0,9 % để rửa tử cung trong ba ngày liên tục. Bệnh viêm vú trại em dùng Pen - strep liều 1 ml/20 kg TT điều trị trong 3 ngày kết hợp vệ sinh sạch sẽ sàn chuồng và vệ sinh sát trùng vùng vú bị viêm. Với đẻ khó, trường hợp con mẹ rặn đẻ yếu có thể tiêm oxytoxin 2ml/ con, trường hợp con mẹ rặn đẻ nhưng thai không ra thì cần can thiệp bằng thủ thuật. Rửa tay bằng nước sát trùng sau đó bôi gel bôi trơn, tiến hành keosthai ra theo cơn rặn của con mẹ Với bệnh bại liệt sau sinh trại dùng Mg - calcium với liều 60 ml/con, tiêm bắp, điều trị trong 2 - 3 ngày kết hợp với kiểm tra thức ăn, hỗ trợ con vật trở mình thường xuyên và vệ sinh sạch sẽ nền chuồng để tránh chỗ nằm lâu bị thối loét. Những con nái sau quá trình điều trị nhưng không có kết quả tốt trại em thường loại thải theo lịch loại thải của công ty.
- 58 Phần 5 KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 5.1. Kết luận Qua 6 tháng thực tập tại trại gia công Trần Văn Tuyên, em có một số kết luận: 1.Công tác vệ sinh - công tác vệ sinh trong và các khu vực quanh trại đều đạt tiêu chuẩn 5S(sẵn sàng, săn sóc, sắp xếp, sàn lọc, sạch sẽ). - Hằng tuần trại tổ chức làm tổng vệ sinh toàn trại 2 lần/tuần, tiến hành nhổ cỏ và rắc vôi xung quanh khu vực chăn nuôi. - Thay hố sát trùng ở các cổng vào thứ năm hằng tuần. - Trong chuồng nuôi hằng ngày luôn được vệ sinh sạch sẽ và rắc vôi tiêu độc khử trùng. - Khu sinh hoạt hằng ngày của công nhân, kỹ sư đều được vệ sinh sạch sẽ. 2.Công tác chăn nuôi - Chăm sóc, nuôi dưỡng cho 348 lợn nái, lợn nái đẻ trung bình 11,60 con/nái/lứa. Có 94,90% nái đẻ bình thường và 5,12% nái đẻ khó phải can thiệp. - Chăm sóc, nuôi dưỡng 5062 lợn con, số con còn sống đến cai sữa là 4302 con, tỷ lệ nuôi sống đạt 93,97%. - Công tác chăn nuôi của trại được thực hiện tốt và đem lại hiệu quả cao. - Số lợn con sinh ra to, khỏe mạnh, giảm số lượng lợn con tồn lại trại, nâng cao hiệu quả kinh tế. 3. Công tác thú y - Công tác phòng bệnh được thực hiện nghiêm túc, đúng theo lịch làm việc của công ty, qua đó đã hạn chế được tình trạng dịch bệnh sảy ra ở mức thấp nhất.
- 59 - Công nhân và kỹ sư trước khi vào khu vực chăn nuôi đều phải tắm sát trùng và thay quần áo lao động, chân đi ủng và nhúng vào chậu sát trùng được đặt trước cửa của mỗi chuồng nuôi. - Lịch vắc xin tại trại thì được thực hiện nghiêm ngặt, theo đúng lịch của công ty cổ phần chăn nuôi CP Việt Nam. 5.2. Đề nghị - Trại cần thực hiện tốt hơn công tác vệ sinh trong và ngoài chuồng nuôi, cần quản lý chặt chẽ hơn nữa người và xe ra vào trại. - Công tác vệ sinh chuồng bầu và vệ sinh dụng cụ, vệ sinh gia súc trước khi phối giống, vệ sinh máng ăn, máng uống, cần được thực hiện tốt giảm tỉ lệ lợn mắc bệnh. - Tăng cường công tác quản lý lợn con để hạn chế thấp nhất tình trạng lợn con chết do bị đè và rơi xuống gầm. - Hướng dẫn cho công nhân chi tiết về các kỹ thuật cơ bản trong chăn nuôi, nhất là có công nhân mới. - Thực hiện tốt hơn công tác mổ hecnia cho lợn con. Lợn cai sữa cần được chăm sóc tốt hơn để giảm tỷ lệ mắc các bệnh. - Cần chú ý tới việc sử dụng nước trong chuồng để chuồng luôn khô ráo, làm giảm tỷ lệ lợn con theo mẹ mắc bệnh tiêu chảy.
- 60 TÀI LIỆU THAM KHẢO I. Tài liệu tiếng Việt 1. Trần Ngọc Bích, Nguyễn Thị Cẩm Loan, Nguyễn Phúc Khánh (2016), "Khảo sát tình hình viêm nhiễm đường sinh dục lợn nái sau khi sinh và hiệu quả điều trị của một số loại kháng sinh", Tạp chí Koa học kỹ thuật Thú y, tập XXIII (số 5), tr. 51-56. 2. Nguyễn Xuân Bình (2000), Phòng trị bệnh heo nái, heo con,heo thịt, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, tr. 29 - 35. 3. Trần Minh Châu (1996), Một trăm câu hỏi về bệnh trong chăn nuôi gia súc, gia cầm, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 4. Lê Xuân Cương (1986), Năng suất sinh sản của lợn nái, Nxb Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp, Hà Nội. 5. Trần Thị Dân (2004), Sinh sản heo nái và sinh lý heo con, Nxb Nông nghiệp, Tp.HCM. 6. Phạm Hữu Doanh, Lưu Kỷ (2003), Kỹ thuật nuôi lợn nái mắn đẻ sai con, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 7. Đoàn Kim Dung, Lê Thị Tài (2002), Phòng và trị bệnh lợn nái để sản xuất lợn thịt siêu nạc xuất khẩu, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 8. Trần Tiến Dũng, Dương Đình Long, Nguyễn Văn Thanh (2002), Sinh sản gia súc, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 9. Trần Tiến Dũng, Dương Đình Long, Nguyễn Văn Thanh (2006), Giáo trình sinh sản gia súc, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 10. Võ Trọng Hốt, Trần Đình Miên, Võ Văn Sự, Vũ Đình Tôn, Nguyễn Khắc Tích, Đinh Thị Nông (2000), Giáo trình chăn nuôi lợn, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 11. Duy Hùng (2011), " Bệnh viêm vú ở lợn nái", Báo nông nghiệp Việt Nam.
- 61 12. Hội chăn nuôi Việt Nam (2002), Cẩm nang chăn nuôi gia súc, gia cầm, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 13. Trương Lăng (2000), Hướng dẫn điều trị các bệnh lợn, Nxb Đà Nẵng. 14. Trương Lăng (2003), Cai sữa lợn con, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 15. Phạm Sỹ Lăng, Phan Địch Lân, Trương Văn Dung (2002), Bệnh phổ biến ở lợn và biện pháp phòng trị, tập II, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, tr. 44 – 52. 16. Nguyễn Đức Lưu, Nguyễn Hữu Vũ (2004), Một số bệnh quan trọng ở lợn, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, tr. 165 – 169. 17. Lê Hồng Mận (2007), Chăn nuôi lợn nái sinh sản ở nông hộ, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 18. Lê Hồng Mận, Bùi Đức Lũng (2004), Kỹ thuật chăn nuôi lợn, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 19. Lê Văn Năm (1999), Cẩm nang bác sĩ thú y hướng dẫn phòng và trị bệnh lợn cao sản, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội 20. Trần Văn Phùng, Từ Quang Hiển, Trần Thanh Vân, Hà Thị Hảo (2004), Giáo trình Chăn nuôi lợn, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 21. Ngô Nhật Thắng (2006), Hướng dẫn chăn nuôi và phòng trị bệnh cho lợn, Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội. 22. Nguyễn Văn Thanh (2007), " Kết quả khảo sát tình hình mắc bệnh viêm tử cung trên lợn nái ngoại nuôi tại một số trang trại tại vùng đồng bằng Bắc Bộ", Tạp chí khoa học kỹ thuật thú y, tập XIV (số 3), tr. 38- 43. 23. Trịnh Đình Thâu, Nguyễn Văn Thanh (2010), “Tình hình bệnh viêm tử cung trên đàn lợn nái ngoại và các biện pháp phòng trị”, Tạp chí Khoa học kỹ thuật thú y, tập 17. 24. .Đỗ Quốc Tuấn (2005), Bài giảng sản khoa và bệnh sản khoa gia súc, Trường ĐH Nông Lâm Thái Nguyên