Khóa luận Áp dụng quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng và phòng trị bệnh cho lợn con từ sơ sinh đến 21 ngày tuổi trại trại lợn Chu Bá Thơ, xã Việt Tiến, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang

pdf 61 trang thiennha21 19/04/2022 3160
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Áp dụng quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng và phòng trị bệnh cho lợn con từ sơ sinh đến 21 ngày tuổi trại trại lợn Chu Bá Thơ, xã Việt Tiến, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfkhoa_luan_ap_dung_quy_trinh_cham_soc_nuoi_duong_va_phong_tri.pdf

Nội dung text: Khóa luận Áp dụng quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng và phòng trị bệnh cho lợn con từ sơ sinh đến 21 ngày tuổi trại trại lợn Chu Bá Thơ, xã Việt Tiến, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang

  1. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM BÀN THỊ QUỲNH HƯƠNG Tên chuyên đề: “ÁP DỤNG QUY TRÌNH CHĂM SÓC, NUÔI DƯỠNG VÀ PHÒNG TRỊ BỆNH CHO ỢL N CON TỪ SƠ SINH ĐẾN 21 NGÀY TUỔI TẠI TRẠI LỢN CHU BÁ THƠ, XÃ VIỆT TIẾN, HUYỆN VIỆT YÊN, TỈNH BẮC GIANG” KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Hệ đào tạo: Chính quy Chuyên ngành: Thú y Khoa: Chăn nuôi Thú y Khóa học: 2015 - 2019 Thái Nguyên - 2019
  2. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM BÀN THỊ QUỲNH HƯƠNG Tên chuyên đề: “ÁP DỤNG QUY TRÌNH CHĂM SÓC, NUÔI DƯỠNG VÀ PHÒNG TRỊ BỆNH CHO LỢN CON TỪ SƠ SINH ĐẾN 21 NGÀY TUỔI TẠI TRẠI LỢN CHU BÁ THƠ, XÃ VIỆT TIẾN, HUYỆN VIỆT YÊN, TỈNH BẮC GIANG” KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Hệ đào tạo: Chính quy Chuyên ngành: Thú y Lớp: K47 - TY - N02 Khoa: Chăn nuôi Thú y Khóa học: 2015 - 2019 Giảng viên hướng dẫn: TS.Ph ạm Diệu Thuỳ Thái Nguyên - 2019
  3. i LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành khóa luận này, em đã nhận được sự giúp đỡ của các thầy cô, gia đình và bạn bè. Em xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc tới Ban giám hiệu nhà trường, cùng toàn thể các thầy cô giáo trong khoa Chăn nuôi Thú y trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên. Em xin đặc biệt cảm ơn đến cô giáo TS. Phạm Diệu Thùy, cô đã trực tiếp hướng dẫn, chỉ bảo, động viên và giúp đỡ em về mọi mặt trong quá trình tiến hành nghiên cứu và hoàn thành khóa luận. Em xin chân thành cảm ơn ban lãnh đạo UBND xã Việt Tiến cùng gia đình bác Chu Bá Thơ (chủ trại), và các cô chú, anh chị công nhân nơi cơ sở em thực tập đã tạo điều kiện và giúp đỡ em trong suốt 6 tháng thực hiện đề tài. Cuối cùng em xin được cảm ơn sự động viên, khích lệ của các thầy cô, gia đình và bạn bè đã động viên giúp đỡ em hoàn thành tốt việc học tập, nghiên cứu của mình trong suốt quá trình học tập vừa qua. Trong thời gian thực tập em đã cố gắng hết sức mình để hoàn thành tốt các yêu cầu của đợt thực tập nhưng do kinh nghiệm và kiến thức còn nhiều hạn chế nên khóa luận của em không tránh khỏi những thiếu sót và khiếm khuyết. Em rất mong được các thầy cô giáo và các bạn sinh viên đóng góp ý kiến bổ sung để khóa luận của em được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn! Thái Nguyên, ngày tháng năm 2019 Sinh viên Bàn Thị Quỳnh Hương
  4. ii DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng 4.1. Tình hình chăn nuôi lợn tại trại qua 3 năm 2017 - 2019 38 Bảng 4.2. Kết quả công tác chăm sóc lợn con 39 Bảng 4.3. Số lợn con trực tiếp đỡ đẻ, chăm sóc, nuôi dưỡng tại trại lợn trong 4 tháng thực tập tại chuồng đẻ 40 Bảng 4.4. Tỷ lệ nuôi sống lợn con từ sơ sinh đến 21 ngày tuổi tại trại lợn 41 Bảng 4.5. Lịch sát trùng áp dụng tại trại 34 Bảng 4.6. Lịch phòng bệnh cho lợn con từ sơ sinh đến 21 ngày tuổi áp dụng tại trại 35 Bảng 4.7. Kết quả tiêm phòng cho đàn lợn con từ sơ sinh đến 21 ngày tuổi tại cơ sở 43 Bảng 4.8. Kết quả chẩn đoán bệnh ở lợn con 44 Bảng 4.9. Kết quả điều trị một số bệnh ở lợn con. 47
  5. iii DANH MỤC CỤM TỪ VIẾT TẮT Cs : Cộng sự ĐC : Đối chứng ĐVT : Đơn vị tính TN : Thí nghiệm STT : Số thứ tự
  6. iv MỤC LỤC LỜI CẢM ƠN i DANH MỤC CÁC BẢNG ii DANH MỤC CỤM TỪ VIẾT TẮT iii MỤC LỤC iv Phần 1 MỞ ĐẦU 1 1.1. Đặt vấn đề 1 1.2. Mục tiêu và yêu cầu của chuyên đề 1 1.2.1. Mục đích ủc a chuyên đề 1 1.2.2. Yêu cầu của chuyên đề 2 1.3. Ý nghĩa của chuyên đề 2 PHẦN 2 TỔNG QUAN TÀI LIỆU 3 2.1. Điều kiện cơ sở nơi thực tập 3 2.1.1. Điều kiện tự nhiên 3 2.1.2. Đánh giá chung 5 2.2. Cơ sở khoa học 5 2.2.1. Đặc điểm của lợn con theo mẹ 5 2.2.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến sinh trưởng của lợn con 10 2.2.4. Kỹ thuật nuôi dưỡng lợn con theo mẹ 16 2.2.5. Cai sữa cho lợn con 20 2.3. Tình hình nghiên cứu trong nước và ngoài nước 22 2.3.1. Tình hình nghiên cứu trong nước 22 2.3.2. Tình hình nghiên cứu ngoài nước 28 2.4. Một số bệnh thường gặp ở lợn con 29 2.4.1. Bệnh phân trắng lợn con 29 2.4.2. Bệnh viêm khớp 30 2.4.3. Hội chứng tiêu chảy ở lợn con theo mẹ 31 2.4.4. Bệnh viêm phổi địa phương do Mycoplasma hyopneumoniae 31 PHẦN 3 ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP TIẾN HÀNH 33 3.1. Đối tượng 33
  7. v 3.2. Địa điểm và thời gian tiến hành 33 3.3. Nội dung thực hiện 33 3.4. Các chỉ tiêu và phương pháp thực hiện 33 3.4.1. Các chỉ tiêu theo dõi 33 3.4.2. Phương pháp thực hiện 33 PHẦN 4 KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 38 4.1. Tình hình chăn nuôi lợn tại Trại lợn Chu Bá Thơ, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang 38 4.2. Kết quả công tác chăm sóc, nuôi dưỡng đàn lợn con từ sơ sinh đến 21 ngày tuổi tại trại 39 4.3. Công tác phòng bệnh 41 4.3.1. Công tác vệ sinh Error! Bookmark not defined. 4.3.2. Công tác phòng bệnh bằng vắc xin của trạiError! Bookmark not defined. 4.3.3. Công tác chẩn đoán bệnh 43 4.3.4 Công tác điều trị bệnh 45 4.4. Công tác khác 47 4.4.1. Công tác chăn nuôi 35 4.4.2. Công tác khác Error! Bookmark not defined. PHẦN 5 KẾT LUẬN VÀ ÐỀ NGHỊ 49 5.1. Kết luận 49 5.2. Ðề nghị 49 TÀI LIỆU THAM KHẢO 50
  8. 1 Phần 1 MỞ ĐẦU 1.1. Đặt vấn đề Trong những năm gần đây, ngành chăn nuôi của nước ta đang ngày một phát triển, đặc biệt là chăn nuôi lợn. Chăn nuôi lợn chiếm một vị trí rất quan trọng trong ngành chăn nuôi gia súc ở nước ta, vì nó là nguồn cung cấp chủ yếu thực phẩm cho con người, nguyên liệu cho sản xuất công nghiệp, phân bón cho ngành trồng trọt và giải quyết việc làm tăng thu nhập cho người dân thoát nghèo. Trong các nghiên cứu về môi trường nông nghiệp, lợn là vật nuôi quan trọng và là thành phần không thể thiếu của hệ sinh thái nông nghiệp. Qua quá trình phát triển, nhất là thời kì công nghiệp hóa – hiện đại hóa, nước ta đã áp dụng một số kĩ thuật chăn nuôi tiên tiến, giúp cho việc chăn nuôi ngày càng phát triển và cho năng suất cao. Phương thức chăn nuôi lợn đã và đang chuyển dịch theo hướng tích cực, từ nuôi lợn theo quy mô nhỏ lẻ trong hộ gia đình sang quy mô trang trại tập trung.Tuy nhiên, chăn nuôi lợn quy mô lớn cũng gặp nhiều khó khăn trong công tác nuôi dưỡng, chăm sóc, quản lý đàn, đặc biệt là công tác phòng chống dịch bệnh và điều trị những bệnh phát sinh trong quá trình chăn nuôi. Xuất phát từ thực tế trên, được sự đồng ý của Ban chủ nhiệm Khoa Chăn nuôi Thú y và cô giáo hướng dẫn, em đã tiến hành thực hiện chuyên đề: “Áp dụng quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng và phòng trị bệnh cho lợn con từ sơ sinh đến 21 ngày tuổi trại trại lợn Chu Bá Thơ, xã Việt Tiến, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang”. 1.2. Mục tiêu và yêu cầu của chuyên đề 1.2.1. Mục đích của chuyên đề - Đánh giá tình hình chăn nuôi tại trại lợn Chu Bá Thơ, xã Việt Tiến, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang. - Áp dụng quy trình chăm sóc nuôi dưỡng cho đàn lợn con từ sơ sinh đến 21 ngày tuổi nuôi tại trại.
  9. 2 - Xác định tình hình nhiễm bệnh, cách phòng bệnh cho lợn con từ sơ sinh đến 21 ngày tuổi nuôi tại trại. 1.2.2. Yêu cầu của chuyên đề - Đánh giá được tình hình chăn nuôi tại trại lợn thực tập. - Áp dụng được các quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng cho đàn lợn con nuôi tại trại đạt hiệu quả cao. - Xác định được tình hình nhiễm bệnh, biết các phòng trị bệnh cho lợn con nuôi tại trại. - Học tập và tích lũy những kiến thức mới từ thực tiễn chăn nuôi tạic ơ sở. 1.3. Ý nghĩa của chuyên đề - Vận dụng những kiến thức đã học vào thực tiến sản xuất, học tập và nâng cao tay nghề, rèn luyện kỹ năng. - Tiếp cận với thực tế sản xuất, học tập và bổ sung thêm những kiến thức từ thực tiễn sản xuất.
  10. 3 PHẦN 2 TỔNG QUAN TÀI LIỆU 2.1. Điều kiện cơ sở nơi thực tập 2.1.1. Điều kiện tự nhiên 2.1.1.1. Vị trí địa lý Trại lợn Chu Bá Thơ là trại lợn tư nhân, thuộc thôn Năm, làng Chàng, xã Việt Tiến, huyện Việt Yên, Bắc Giang. Vị trí địa ýl tiếp giáp của trại : - Phía Bắc giáp xóm 7, xã Việt Tiến, huyện Việt Yên, Bắc Giang. - Phía Nam giáp xóm 4, xã Việt Tiến, huyện Việt Yên, Bắc Giang. - Phía Đông giáp xóm 3, xã Việt Tiến, huyện Việt Yên, Bắc Giang. - Phía Tây giáp xóm 9, xã Việt Tiến, huyện Việt Yên, Bắc Giang . Trại lợn Chu Bá Thơ nằm ở khu vực cánh đồng rộng lớn, có địa hình tương đối bằng phẳng thuận lợi cho việc phát triển chăn nuôi, với diện tích là khoảng 5000 m2. Trong đó: - Đất trồng cây ăn quả: 1000 m2 - Đất xây dựng: 2000 m2 - Ao, hồ chứa nước và nuôi cá: 1500 m2 Trang trại đã dành khoảng 500 m2 đất để xây dựng nhà điều hành, nhà ở cho công nhân, bếp ăn, các công trình phục vụ cho công nhân và các hoạt động khác của trại. Khu chăn nuôi được quy hoạch, bố trí xây dựng hệ thống chuồng trại cho 320 nái cơ bản bao gồm: 2 chuồng đẻ 720 m2 (1 chuồng có 40 ô đẻ và 1 chuồng 30 ô đẻ), 1 chuồng nái chửa 690 m2 (chuồng có 270 ô nái chửa và chờ phối, 3 ô đực, 1 ô thử lợn), 1 chuồng hậu bị 300 m2, 1 chuồng thịt 300 m2, cùng một số công trình phụ phục vụ cho chăn nuôi như: Kho thức ăn, phòng sát trùng, kho thuốc.
  11. 4 Hệ thống chuồng xây dựng khép kín hoàn toàn. Phía đầu chuồng là hệ thống giàn mát, cuối chuồng có 6 quạt thông gió đối với các chuồng đẻ, 4 quạt thông gió đối với chuồng nái chửa và 2 quạt đối với chuồng hậu bị. Hai bên tường có dãy cửa sổ lắp kính. Mỗi cửa sổ có diện tích 1,5m2, cách nền 1,2m, mỗi cửa sổ cách nhau 40cm. Trên trần được lắp hệ thống chống nóng bằng tôn lạnh.Trong khu chăn nuôi, đường đi lại giữa các ô chuồng, các khu khác đều được đổ bê tông và có các hố sát trùng. Hệ thống nước trong khu chăn nuôi đều là nước giếng khoan. Nước uống cho lợn được cấp từ một bể lớn, xây dựng ở đầu chuồng nái chửa. Nước tắm và nước xả gầm, phục vụ cho công tác khác, được bố trí từ tháp bể lọc và được bơm qua hệ thống. Đội ngũ cán bộ, công nhân của trại gồm có: 1 kỹ sư (chủ trại), và 2 công nhân. Với việc chăn nuôi theo quy mô lớn, trang trại đã áp dụng hình thức sản xuất, chăn nuôi từ khâu chọn giống đến quá trình chăn nuôi, chăm sóc bằng kĩ thuật cao. Các biện pháp phòng chống dịch bệnh được thực hiện đầy đủ và chủ động. Để đảm bảo việc phòng chống dịch bệnh công tác vệ sinh và sát trùng được thực hiện nghiêm ngặt. Công nhân được trang bị quần áo bảo hộ, ủng và một số vật dụng khác. 2.1.1.2. Tình hình chăn nuôi lợn của trang trại Nhiệm vụ chính của trang trại là sản xuất con giống và chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật. Hiện nay, trung bình lợn nái của trại sản xuất được 2,3 - 2,32 lứa/năm. Số con sơ sinh là 12,68 con/đàn, số con cai sữa: 10,08 con/đàn. Trại hoạt động vào mức khá. Tại trại, lợn con theo mẹ được nuôi đến 21 ngày tuổi, chậm nhất là 28 ngày thì tiến hành cai sữa và bán hoặc chuyển xuống chuồng thịt nuôi. Trong trại có 3 con lợn đực giống, lợn đực giống này được nuôi nhằm mục đích khai thác tinh và làm đực thí tình. Lợn nái được phối 2 lần (3 lần đối với những con bị trào ngược tinh ra ngoài). Dùng tinh giống Duroc do trại tự khai thác. Thức ăn cho lợn nái là thức ăn hỗn hợp hoàn chỉnh có chất lượng cao của công ty thức ăn Cagrill.
  12. 5 Năm 2019, trại có 3 lợn đực, 185 lợn nái sinh sản, 70 lợn nái hậu bị, hơn 2.000 lợn con và lợn thịt. Cơ cấu lợn của trại có nhiều thay đổi trong 3 năm gần đây do thị trường lợn trong nước có sự biến động, trại phải giảm số lượng lợn của trại để đáp ứng thị trường cũng như là khả năng chăn nuôi của trại. 2.1.2. Đánh giá chung 2.1.2.1. Thuận lợi Được sự quan tâm của Ủy ban nhân dân xã Việt Tiến tạo điều kiện cho sự phát triển của trang trại. Trang trại được xây dựng ở vị trí thuận lợi: Xa khu dân cư, thuận tiện đường giao thông. Chủ trại có năng lực, năng động, nắm bắt được tình hình xã hội, luôn quan tâm đến đời sống vật chất và tinh thần của cán bộ kỹ thuật và công nhân. Cán bộ kỹ thuật có trình độ chuyên môn vững vàng, công nhân nhiệt tình và có tinh thần trách nhiệm cao trong sản xuất. Con giống tốt, thức ăn, thuốc chất lượng cao, quy trình chăn nuôi khép kín và áp dụng các thành tựu,khoa học, kỹ thuật tiên tiến. 2.1.2.2. Khó khăn Dịch bệnh diễn biến phức tạp nên chi phí dành cho phòng và chữa bệnh lớn, làm ảnh hưởng đến giá thành và khả năng sinh sản của lợn. Trang thiết bị vật tư, hệ thống chăn nuôi đã cũ, có phần bị hư hỏng. Số lượng lợn nhiều, lượng nước thải lớn, việc đầu tư cho công tác xử lý nước thải của trại còn nhiều khó khăn. 2.2. Cơ sở khoa học 2.2.1. Đặc điểm của lợn con theo mẹ 2.2.1.1. Đặc điểm tiêu hóa Cơ quan tiêu hóa của lợn con phát triển nhanh nhưng chưa hoàn chỉnh, các tuyến tiêu hóa phát triển chưa đồng bộ, dung tích của bộ máy tiêu hóa còn nhỏ, thời kỳ bú sữa cơ quan phát triển hoàn thiện dần.
  13. 6 Dung tích bộ máy tiêu hóa tăng nhanh trong 60 ngày đầu: Dung tích dạ dày lúc 10 ngày tuổi gấp 3 lần, lúc 20 ngày tuổi gấp 8 lần và lúc 60 ngày tuổi tăng gấp 60 lần so với lúc sơ sinh (dung tích dạ dày lúc sơ sinh khoảng 0,03 lít). Dung tích ruột non lúc 10 ngày tuổi gấp 3 lần lúc sơ sinh, lúc 20 ngày tuổi gấp 6 lần, lúc 60 ngày tuổi gấp 50 lần (dung tích lúc sơ sinh khoảng 0,12 lít). Còn dung tích ruột già lúc 60 ngày tuổi tăng gấp 50 lần so với lúc sơ sinh. Sự tăng về kích thước cơ quan tiêu hóa giúp lợn con tích lũy được nhiều thức ăn và tăng khả năng tiêu hóa các chất. Mặc dù vậy, ở lợn con các cơ quan chưa thành thục về chức năng, đặc biệt là hệ thần kinh. Do đó, lợn con phản ứng rất chậm chạp đối với các yếu tố tác động lên chúng. Do chưa thành thục nên cơ quan tiêu hóa của lợn con cũng rất dễ mắc bệnh, dễ rối loạn tiêu hóa. Một đặc điểm cần lưu ý ở giai đoạn này trong dạ dày lợn con không có axit HCl, được coi như một tình trạng thích ứng tự nhiên. Nhờ vậy nó tạo được khả năng thẩm thấu các kháng thể có trong sữa đầu của lợn mẹ. Trong giai đoạn này dịch vị không có khả năng phân giải protein mà chỉ có khả năng làm vón sữa đầu. Còn huyết thanh chứa albumin và globulin được chuyển xuống ruột và thẩm thấu vào máu. Ở lợn con từ 14 - 16 ngày tuổi, tình trạng thiếu axit HCl ở dạ dày không còn gọi là trạng thái bình thường nữa. Việc tập cho lợn con ăn sớm có tác dụng thúc đẩy bộ máy tiêu hóa của lợn con phát triển nhanh và sớm hoàn thiện. Vì thế sẽ rút ngắn được giai đoạn thiếu HCl. Bởi vì khi được bổ sung thức ăn thì thức ăn sẽ kích thích tế bào vách dạ dày tiết ra HCl ở dạng tự do sớm hơn và tăng cường phản xạ tiết dịch vị (giai đoạn con non khác với con trưởng thành là chỉ tiết dịch vị khi thức ăn vào dạ dày). Theo Hoàng Toàn Thắng và Cao Văn (2005) [17], lợn con dưới 1 tháng tuổi, dịch vị không có HCl tự do, lúc này lượng axit tiết ra rất ít và nhanh chóng kết hợp với dịch nhày của dạ dày, hiện tượng này gọi là hypohydric.
  14. 7 Do dịch vị chưa có HCl tự do nên men pepsin trong dạ dày lợn chưa có khả năng tiêu hóa portein của thức ăn. Vì HCl tự do có tác dụng kích hoạt men pepsinnogen không hoạt động thành men pepsin hoạt động và men này mới có khả năng tiêu hóa protein. 2.2.1.2. Khả năng miễn dịch của lợn con Phản ứng miễn dịch là khả năng đáp ứng của cơ thể. Phần lớn các chất lạ là mầm bệnh. Mầm bệnh xâm nhập vào cơ thể lợn con tương đối dễ dàng, do chức năng của các tuyến chưa hoàn chỉnh. Ở lợn con lượng enzym tiêu hoá và lượng HCl tiết ra còn ít, chưa đủ để đáp ứng cho quá trình tiêu hoá, gây rối loạn trao đổi chất, dẫn tới khả năng tiêu hoá kém, hấp thu kém. Trong giai đoạn này mầm bệnh dễ dàng xâm nhập vào cơ thể qua đường tiêu hoá và gây bệnh. Lợn con mới đẻ ra trong cơ thể hầu như chưa có kháng thể. Lượng kháng thể tăng rất nhanh sau khi lợn con được bú sữa đầu của lợn mẹ. Cho nên khả năng miễn dịch của lợn con là hoàn toàn thụ động, phụ thuộc vào lượng kháng thể hấp thu được nhiều hay ít từ sữa đầu của lợn mẹ. Theo Trần Văn Phùng và cs (2004) [13], trong sữa đầu của lợn mẹ hàm lượng protein rất cao. Những ngày đầu mới đẻ, hàm lượng protein trong sữa chiếm 18 - 19%, trong đó lượng γ - globulin chiếm số lượng khá lớn (30 - 35%). Nó có tác dụng tạo sức đề kháng, vì vậy sữa đầu có vai trò quan trọng đối với khả năng miễn dịch của lợn con. Lợn con hấp thu lượng γ - globulin bằng con đường ẩm bào. Quá trình hấp thu nguyên vẹn nguyên tử γ - globulin giảm đi rất nhanh theo thời gian. Nó chỉ có khả năng hấp thu qua ruột non của lợn con rất tốt trong 24 giờ đầu sau khi đẻ ra nhờ trong sữa đầu có kháng men antitripsin làm mất hoạt lực của men tripsin tuyến tụy và nhờ khoảng cách tế bào vách ruột của lợn con khá rộng, cho nên 24 giờ sau khi được bú sữa đầu, hàm lượng γ - globulin trong máu lợn con đạt tới 20,3 mg/100ml máu. Sau 24 giờ, lượng kháng men trong sữa đầu giảm dần và khoảng cách giữa các tế bào vách ruột của lợn con hẹp dần, sự hấp thu γ -globulin kém hơn, hàm lượng γ -
  15. 8 globulin trong máu lợn con tăng lên chậm hơn. Đến 3 tuần tuổi chỉ đạt khoảng 24 mg/100ml máu (máu bình thường của lợn trưởng thành có khoảng 65 mg/100ml máu), do đó lợn con cần được bú sữa đầu càng sớm càng tốt. Nếu lợn con không được bú sữa đầu thì từ 20 - 25 ngày tuổi mới có khả năng tự tổng hợp kháng thể, những lợn con không được bú sữa đầu thì sức đề kháng kém, dễ mắc bệnh, tỷ lệ chết cao. Sự hấp thu các phân tử γ - globulin và các tiểu phần khác của sữa mẹ bằng con đường chủ động chọn lọc hoặc bằng ẩm bào qua các lỗ hẹp này, vì vậy quá trình tiêu hóa ở màng gần như vô khuẩn. Những tiểu phần protein sữa tuần hoàn trong máu không gây nguy hiểm với lợn con vì trong thời gian này lợn con không hình thành kháng thể bản thân và protein với chúng không phải là kháng nguyên. 2.2.1.3. Cơ năng điều tiết thân nhiệt Thân nhiệt của lợn con sau khi đẻ thường bị giảm xuống, quá trình giảm phụ thuộc vào nhiều yếu tố: khối lượng sơ sinh, chất dinh dưỡng thu được sau khi sinh, nhiệt độ của môi trường. Theo Trương Lăng (2000) [10], sau khi đẻ 1 giờ nếu lợn con được bú sữa đầu thì 8 - 12 giờ sau thân nhiệt sẽ ổn định, nếu sau 4 giờ mới được bú sữa đầu thì sau 18 - 24 giờ thân nhiệt mới đạt mức bình thường. Như vậy quy định không quá 2 giờ nếu lợn mẹ chưa đẻ xong phải cho những lợn con đã sinh bú sữa đầu. Lợn con rất mẫn cảm với nhiệt độ vì khi ra khỏi cơ thể mẹ lợn con chưa thể thích ứng được với môi trường bên ngoài, cơ quan điều tiết thân nhiệt chưa hoàn chỉnh. Khả năng tự điều hòa thân nhiệt của lợn con tăng chậm từ khi mới sinh cho đến 2 tuần tuổi, do vậy trong 2 tuần tuổi chúng rất dễ mẫn cảm với thay đổi lớn của nhiệt độ bên ngoài. Mỗi loài gia súc, đều có một giới hạn sinh thái về nhiệt độ và ẩm độ nhất định, độ ẩm không khí trong chuồng nuôi cao là điều bất lợi cho lợn con, bởi vì độ ẩm cao là điều kiện thuận lợi cho các vi khuẩn phát triển. Ngoài ra độ ẩm càng cao thì nhiệt độ
  16. 9 trong chuồng càng giảm. Cho nên việc quản lý độ ẩm và nhiệt độ trong chuồng nuôi phù hợp với mọi lứa tuổi của lợn và nhiệt độ trong chuồng nuôi được ổn định là rất quan trọng. Theo Trần Văn Phùng và cs (2004) [13], trên nền cứng hoặc sàn thưa không có độn khu vực cho lợn con mới sinh cần giữ ấm ở 32 - 35°C trong tuần đầu, sau đó giữ 21 - 27°C cho đến lúc cai sữa 3 - 6 tuần tuổi. Để bảo đảm nhiệt độ cho lợn con theo chỉ tiêu trên cần có ô úm cho lợn con, ô úm có kích thước ít nhất là một mét vuông, trong ô úm có thể đặt tấm sưởi điện tự động hoặc treo bóng đèn hồng ngoại 250w hoặc 100w. Độ ẩm và tốc độ gió làm thành một hệ thống tác nhân stress đối với gia súc. 2.2.1.4. Hệ vi sinh vật đường ruột Theo Nguyễn Như Thanh và cs (2004) [16], hệ vi sinh vật đường ruột gồm hai nhóm: nhóm vi khuẩn đường ruột, vi khuẩn bắt buộc gồm: E.coli, Salmonella, Shigella, Klesiella, Proteus Trong nhóm vi khuẩn này, người ta quan tâm nhiều nhất đến trực khuẩn E.coli. Đây là vi khuẩn phổ biến nhất hành tinh, chúng có mặt ở mọi nơi và khi gặp điều kiện thuận lợi, các chủng E.coli trở lên cường độc gây bệnh. Nhóm vi khuẩn vãng lai: chúng là bạn đồng hành của thức ăn, nước uống vào hệ tiêu hoá, gồm: Staphylococcus spp, Streptococcus spp, Bacillus subtilis Ngoài ra, trong đường tiêu hóa của lợn con có các trực khuẩn yếm khí gây thối rữa: Clostridium perfringens, Bacillus sporogenes, Bacillus fasobacterium, Bacillus puticfus Theo Đào Trọng Đạt và cs (1996) [3], phần lớn thời gian sống của lợn là ở trong chuồng, do vậy chuồng trại có ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe của chúng. Chuồng trại xây dựng đúng kiểu, đảm bảo các chỉ tiêu kỹ thuật, cao ráo, thoáng, độ thông khí tốt, kết hợp với chăm sóc quản lý và vệ sinh chuồng trại tốt sẽ ảnh hưởng rất tốt đến khả năng sinh trưởng và sức kháng bệnh tật của gia súc và ngược lại. Trong điều kiện khí hậu nhiệt đới của nước ta, về
  17. 10 mùa hè khí hậu nóng, ẩm, về mùa đông khí hậu lạnh, khô nên yêu cầu chuồng nuôi gia súc luôn phải khô ráo, thoáng mát về mùa hè, ấm áp về mùa đông. Do vậy trong xây dựng chuồng trại ngoài việc đảm bảo các yếu tố kỹ thuật cần chú ý đến địa điểm xây dựng chuồng, hướng chuồng, vật liệu xây dựng để dễ dàng khống chế các chỉ tiêu tiểu khí hậu chuồng nuôi phù hợp với từng giai đoạn phát triển của lợn, chuồng khô, thoáng, đủ ánh sáng th́ tỷ lệ lợn con mắc hội chứng tiêu chảy thấp hơn so với chuồng ẩm, tối Trong chăn nuôi việc đảm bảo đúng quy trình kỹ thuật là điều rất cần thiết, chăm sóc nuôi dưỡng tốt sẽ tạo ra những gia súc khoẻ mạnh, có khả năng chống đỡ bệnh tật tốt và ngược lại. Ô chuồng lợn nái phải được vệ sinh tiêu độc trước khi vào đẻ. Nhiệt độ trong chuồng phải đảm bảo 32 - 34°C đối với lợn sơ sinh và 28 - 30°C với lợn cai sữa. Chuồng phải luôn khô ráo, không thấm ướt, không thay đổi thức ăn đột ngột. Việc giữ gìn chuồng trại sạch sẽ, kín ấm áp vào mùa đông và đầu xuân là điều kiện cần thiết phải thực hiện. Nên dùng các thiết bị sưởi điện hoặc đèn hồng ngoại trong những ngày thời tiết lạnh ẩm để đề phòng bệnh lợn con phân trắng, mang lại hiệu quả cao trong chăn nuôi. 2.2.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến sinh trưởng của lợn con Các yếu tố ảnh hưởng đến sinh trưởng, phát dục của lợn gồm hai nhóm: các yếu tố bên trong và các yếu tố bên ngoài. 2.2.2.1. Yếu tố bên trong Yếu tố di truyền là một trong những yếu tố có ý nghĩa quan trọng nhất ảnh hưởng đến sinh trưởng phát dục của lợn. Quá trình sinh trưởng của lợn tuân theo các quy luật sinh học, nhưng chịu ảnh hưởng của các giống lợn khác nhau. Yếu tố thứ hai ảnh hưởng đến sinh trưởng và phát dục của lợn là quá trình trao đổi chất trong cơ thể. Quá trình trao đổi chất xảy ra dưới sự điều khiển của các hormone. Hormone tham gia vào tất cả các quá trình trao đổi chất của tế bào và giữ cân bằng các chất trong máu.
  18. 11 2.2.2.2. Yếu tố bên ngoài Các yếu tố bên ngoài ảnh hưởng đến quá trình sinh trưởng và phát triển cơ thể lợn bao gồm dinh dưỡng, nhiệt độ, môi trường, ánh sáng và các yếu tố khác. Dinh dưỡng: Các yếu tố di truyền không thể phát huy tối đa nếu không có một môi trường dinh dưỡng và thức ăn hoàn chỉnh. Khi chúng ta đảm bảo đầy đủ về thức ăn bao gồm cả số lượng và chất lượng thức ăn thì sẽ góp phần thúc đẩy quá trình sinh trưởng và phát triển của các cơ quan trong cơ thể. Nhiệt độ và độ ẩm môi trường: Nhiệt độ môi trường không chỉ ảnh hưởng đến tình trạng sức khỏe mà còn ảnh hưởng đến sinh trưởng và phát triển của cơ thể. Nếu nhiệt độ môi trường không thích hợp thì sẽ không thể đảm bảo quá trình trao đổi chất diễn ra bình thường cũng như cân bằng nhiệt của cơ thể lợn. Theo Đoàn Thị Kim Dung (2004) [2], các yếu tố nóng, lạnh, mưa, nắng, hanh, ẩm thay đổi thất thường và điều kiện chăm sóc nuôi dưỡng ảnh hưởng trực tiếp đến cơ thể lợn, nhất là cơ thể lợn con chưa phát triển hoàn chỉnh, các phản ứng thích nghi của cơ thể còn rất yếu. Theo Phạm Khắc Hiếu và cs (1998) [5], lợn con sinh ra phải được sưởi ấm ở nhiệt độ 34oC trong suốt tuần lễ đầu tiên, sau đó giảm dần xuống nhưng không được thấp hơn 30oC, như vậy lợn sẽ tránh được những stress lạnh ẩm. Khi nhiệt độ chuồng nuôi thấp lợn sẽ thất thoát nhiệt rất nhiều, lợn sẽ giảm khả năng tăng khối lượng và tăng tiêu tốn thức ăn cho 1kg tăng khối lượng. Nhiệt độ chuồng nuôi có liên quan mật thiết với ẩm độ không khí, ẩm độ không khí thích hợp cho lợn ở vào khoảng 70%. Ánh sáng: Ánh sáng có ảnh hưởng đến sinh trưởng và phát triển của lợn. Khi nghiên cứu về ảnh hưởng của ánh sáng đối với lợn người ta thấy rằng ánh sáng có ảnh hưởng rõ rệt đến sinh trưởng và phát triển của lợn con, lợn
  19. 12 hậu bị và lợn sinh sản hơn là lợn vỗ béo. Khi không đủ ánh sáng sẽ làm ảnh hưởng đến quá trình trao đổi chất của lợn, đặc biệt là quá trình trao đổi khoáng. Đối với lợn con từ sơ sinh đến 70 ngày tuổi, nếu không đủ ánh sáng thì tốc độ tăng khối lượng sẽ giảm từ 9,5 - 12%, tiêu tốn thức ăn giảm 8 - 9% so với lợn con được vận động dưới ánh sáng mặt trời. Các yếu tố khác: Ngoài các yếu tố ảnh hưởng đến sinh trưởng và phát triển lợn đã nêu trên còn có các ếy u tố khác như vấn đề về chuồng trại, chăm sóc, nuôi dưỡng, tiểu khí hậu chuồng nuôi như không khí, ốt c độ gió lùa, nồng độ các khí thải Nếu chúng ta cung cấp cho lợn các yếu tố đủ theo yêu cầu của từng loại lợn sẽ giúp cho cơ thể lợn sinh trưởng phát triển đạt mức tối đa. 2.2.3. Kỹ thuật chăm sóc lợn con theo mẹ Chăm sóc là khâu quan trọng nhất trong việc nuôi dưỡng lợn con ở thời kỳ bú sữa, vì đây là thời kỳ lợn con chịu ảnh hưởng rất lớn của điều kiện ngoại cảnh. Nếu điều kiện ngoại cảnh bất lợi sẽ rất dễ gây ra tỉ lệ hao hụt lớn ở lợn con. Chuồng nuôi: Chuồng nuôi phải được vệ sinh trước khi lợn mẹ đẻ. Nền chuồng phải luôn sạch sẽ và khô ráo, ấm về mùa đông, mát về mùa hè, đảm bảo nhiệt độ và độ ẩm thích hợp cho lợn con, vào ban đêm cần phải có đèn sưởi để đảm bảo chống lạnh cho lợn con. Ngoài ra chuồng nuôi phải có máng tập ăn và máng uống cho lợn con riêng. Nền cứng hoặc sàn thưa không có độn, khu vực cho lợn con mới sinh cần giữ ấm ở 32 - 35oC trong mấy ngày đầu, sau đó giữ 21 - 27oC cho đến lúc cai sữa 3 - 6 tuần tuổi. Nhiệt độ, độ ẩm và tốc độ gió làm thành một hệ thống tác nhân stress đối với gia súc. Theo Hội chăn nuôi Việt Nam (2002) [4], nhiệt độ môi trường ảnh hưởng đến tỷ lệ sống và tăng trưởng của lợn. Nhu cầu nhiệt độ của lợn tùy vào từng giai đoạn sinh trưởng, lợn sữa giai đoạn 1 - 7 ngày tuổi cần nhiệt độ 30 - 31oC, lợn trên 20 ngày tuổi cần nhiệt độ 20 - 24oC. Trong mùa đông ở
  20. 13 các tỉnh phía Bắc nhiều ngày giá lạnh, nhiệt độ có thể hạ xuống dưới 10oC ảnh hưởng không tốt đến tỷ lệ sống và khả năng tăng trưởng của lợn con. Theo Hồ Văn Nam và cs (1997) [12], khi gia súc bị lạnh ẩm kéo dài sẽ làm giảm phản ứng miễn dịch, giảm tác động thực bào, do đó gia súc dễ bị vi khuẩn cường độc gây bệnh. Cắt đuôi, bấm răng nanh, thiến: Thường thì trong chăn nuôi công nghiệp cần phải tiến hành cắt đuôi cho lợn nuôi thịt. Vì lợn nuôi thịt thường được nuôi thành các đàn lớn và có mật độ cao cho nên lợn thường tấn công nhau gây mất ổn định, giảm năng suất chăn nuôi. Vị trí tấn công thường là đuôi. Việc cắt đuôi thường tiến hành ngay sau đẻ hoặc trong tuần đầu sau đẻ. Dùng kìm điện cắt sát khấu đuôi sao cho để lại 2,5 - 3 cm. Cắt xong dùng cồn iot 70o để sát trùng. Ngoài ra lợn con mới đẻ đã có răng nanh, nên việc bấm răng nanh cũng tiến hành ngay sau đẻ để tránh tình trạng gây đau cho lợn mẹ khi bú, giảm tỷ lệ gây viêm vú cho lợn mẹ. Khi cắt răng nanh, người cắt tránh không phạm vào nướu hoặc lưỡi lợn con, ngoài ra người cắt cũng nên cẩn thận không để nanh gẫy bắn vào mắt mình. Trong thời kỳ này cũng phải thực hiện thiến cho những lợn đực không dùng làm giống. Có thể thiến trong khoảng từ 8 - 10 ngày tuổi. Cần sát trùng bằng cồn iod trước và sau thiến. Theo Phạm Sỹ Lăng và cs (2013) [9], bệnh phó thương hàn là bệnh truyền nhiễm chủ yếu xảy ra ở lợn con 2 - 4 tháng tuổi. Đặc trưng của bệnh là do vi khuẩn tác động vào bộ máy tiêu hóa gây nên triệu chứng nôn mửa, ỉa chảy, phân khắm, vết loét lan tràn ở ruột già. Tiêm phòng: - Giai đoạn lợn được 45 ngày tuổi nên tiêm phòng vắc-xin dịch tả.
  21. 14 - Giai đoạn 60 - 70 ngày tuổi nên tiêm phòng vắc-xin tụ huyết trùng và đóng dấu. Quản lý lợn con: Đối với những lợn con có dự định chọn làm giống thì cần phải có kế hoạch quản lý tốt. Những con này sẽ được cân và đánh số ở các giai đoạn sơ sinh, lúc cai sữa, lúc 50, 60 hay 70 ngày tuổi. Đây chính là cơ sở giúp cho việc lựa chọn để làm giống sau này. * Giai đoạn từ sơ sinh đến 3 ngày tuổi Bình thường khoảng thời gian giữa lợn con đẻ trước và lợn con đẻ liền kề 15 – 20 phút, cũng có khoảng cách nái đẻ kéo dài hơn. Lợn con đẻ ra phải được lau khô bằng vải màn xô mềm sạch theo trình tự miệng - mũi - đầu - mình - rốn - bốn chân, cho vào ổ úm sau khi nhiệt độ môi trường nhỏ hơn 35oC. Lợn nái đẻ xong con cuối cùng tiến hành bấm nanh, cắt rốn, cố định đầu vú cho lợn con mục đích là ạt o điều kiện để đàn lợn con phát triển đồng đều. * Giai đoạn 3 ngày tuổi đến 3 tuần tuổi Trong thời gian này nói chung, ổ lợn con đã bú thành thạo và rõ ràng đã bước vào giai đoạn khởi động tốt trong thời gian này việc chăm sóc quản lý rất quan trọng bao gồm cả phòng chống thiếu máu khống chế tiêu chảy, thiến lợn và cắt đuôi. Trong giai đoạn này sữa lợn mẹ đủ đáp ứng nhu cầu của lợn con trong mọi vấn đề, trừ sắt. Sắt cần thiết cho việc h́nh thành hemoglobin trong máu nó vận chuyển oxygen đến các bộ phận cơ thể. Thiếu sắt sẽ gây thiếu máu nhưng có thể phòng ngừa bằng cách tiêm sắt. Theo Đào Trọng Đạt và cs (1996) [3], một trong các yếu tố làm cho lợn con dễ mắc bệnh đường tiêu hóa là do thiếu sắt. Nhiều thực nghiệm đã chứng minh, trong cơ thể sơ sinh phải cần 40 – 50mg sắt nhưng lợn con chỉ nhận được lượng sắt qua sữa mẹ là 1mg. Vì vậy phải bổ sung một lượng sắt tối thiểu 200 - 250 mg/con/ngày. Khi thiếu sắt, lợn con dễ sinh bần huyết, cơ thể suy yếu, sức đề kháng giảm nên dễ mắc hội chứng tiêu chảy.
  22. 15 Nhu cầu sắt cho lợn con mỗi ngày cần 7 - 16 mg hoặc 21 mg/kg tăng khối lượng duy trì hemoglobin (hồng cầu) trong máu, sắt dự trữ cho cơ thể tồn tại và phát triển. Lượng sắt trong sữa mẹ không đủ cho nhu cầu sắt của nhu cầu lợn con, triệu chứng điển hình của thiếu sắt ở lợn con là thiếu máu, hàm lượng hemoglobin giảm, da lợn con màu trắng xanh, đôi khi tiêu chảy, phân trắng, chậm lớn, có khi chết. * Từ 3 tuần tuổi đến cai sữa Thời gian này lợn con đã lớn nhanh hơn, nó trở thành dẻo dai và có khả năng đương đầu tốt hơn với môi trường ngoại cảnh của nó. Vào thời gian này, phần lớn lợn con theo mẹ đã được 3 - 4 tuần tuổi, chúng bắt đầu ăn thức ăn và lớn nhanh, sự tăng khối lượng này là tăng khối lượng có hiệu quả, do đó ta cần cố gắng giảm thấp yếu tố stress cho lợn con. Một cách để đạt năng suất tối đa là lợn con bắt đầu ăn càng sớm càng tốt. Nói chung sự tiết sữa của lợn mẹ đạt đến đỉnh cao lúc 3 - 4 tuần tuổi và bắt đầu giảm, lợn con bắt đầu sinh trưởng nhanh ở tuổi này và cần nhận được thức ăn bổ sung nếu nó sinh trưởng với tiềm năng di truyền của nó, trong giai đoạn này nội ký sinh trùng là vấn đề ở phần lớn các trại lợn và sự phá hoại do ký sinh trùng gây ra có thể bắt đầu từ rất bé. Yếu tố chăm sóc, quản lý chủ yếu cuối cùng của việc nuôi lợn con theo mẹ là cai sữa. Tuổi cai sữa lợn con có thể thay đổi tùy theo đàn, tùy theo chuồng trại có sẵn. Nói chung lợn con có thể cai sữa bất cứ khi nào, những lợn con càng bé càng đòi ỏh i sự quản lý nhiều hơn. Để thực hiện cai sữa được đảm bảo và đạt hiệu quả cao ta cần chú ý những điểm sau để giảm stress khi cai sữa lợn con: Chỉ cai sữa cho những lợn cân nặng trên 5,5 kg. Cai sữa trong thời gian trên 2 - 3 ngày, cai sữa trước cho những ổ đông con. Ghép nhóm lợn con theo tầm vóc cơ thể. Hạn chế số lượng trong 1 ngăn là 30 con hoặc ít hơn (nếu được).
  23. 16 Hạn chế mức ăn vào trong vòng 48 giờ nếu có xảy ra tiêu chảy sau cai sữa. Cứ 4 - 5 lợn con thì đặt 1 máng ăn và cứ 20 - 25 lợn con thì lắp đặt 2 vòi nước uống. Cho thuốc vào nước uống nếu tiêu chảy. 2.2.4. Kỹ thuật nuôi dưỡng lợn con theo mẹ 2.2.4.1. Cho lợn con bú sữa đầu và cố định đầu vú cho lợn con Lợn con đẻ ra cần được bú sữa đầu càng sớm càng tốt. Thời gian tiết sữa đầu của lợn nái là 1 tuần kể từ khi đẻ, nhưng có ý nghĩa lớn nhất đối với lợn con là trong 24 giờ đầu. Sau khoảng 2 giờ, nếu lợn mẹ đẻ xong thì cho cả đàn con bú cùng lúc. Nếu lợn mẹ chưa đẻ xong thì nên cho những con đẻ trước bú trước. Vũ Đình Tôn và cs (2006) [14] cho rằng, lợn con khi mới sinh ra trong máu hầu như không có kháng thể. Song lượng kháng thể trong máu lợn con được tăng rất nhanh sau khi lợn con bú sữa đầu. Trần Văn Phùng và cs (2004) [13] cho thấy, lợn con mới đẻ lượng kháng thể tăng nhanh ngay sau khi bú sữa đầu của lợn mẹ, cho nên khả năng miễn dịch của lợn con là hoàn toàn thụ động, phụ thuộc vào lượng kháng thể hấp thu được nhiều hay ít từ lợn mẹ. Theo Trần Thị Dân (2008) [1], lợn con mới đẻ trong máu không có globulin nhưng sau khi bú sữa đầu lại tăng lên nhanh chóng do truyền từ mẹ sang qua sữa đầu. Lượng globulin sẽ giảm sau 3 – 4 tuần, rồi đến tuần thứ 5 – 6 lại tăng lên và đạt giá trị bình thường 65 mg/100ml máu. Các yếu tố miễn dịch như bổ thể, lyzozyme, bạch cầu được tổng hợp còn ít, khả năng miễn dịch đặc hiệu của lợn con kém. Vì vậy cho lợn con bú sữa đầu rất cần thiết để tăng khả năng bảo vệ cơ thể chống lại mầm bệnh nhất là hội chứng tiêu chảy. Sữa đầu có hàm lượng các chất dinh dưỡng rất cao. Hàm lượng protein trong sữa đầu gấp 2 lần so với bình thường, vitamin A gấp 5 - 6 lần, vitamin
  24. 17 C gấp 2,5 lần, vitamin B1 và sắt gấp 1,5 lần. Đặc biệt trong sữa đầu có hàm lượng γ - globulin mà sữa thường không có, γ - globulin có tác dụng giúp cho lợn con có sức đề kháng đối với bệnh tật,. Ngoài ra, Mg++ trong sữa đầu có tác dụng tẩy các chất cặn bã (phân su) trong quá trình tiêu hóa phát triển thai để hấp thu chất dinh dưỡng mới. Nếu không nhận được Mg++ thì lợn con sẽ bị rối loạn tiêu hóa, gây tiêu chảy, tỷ lệ chết cao. Việc cố định đầu vú cho lợn con nên bắt đầu ngay từ khi cho chúng bú sữa đầu, theo quy luật tiết sữa của lợn nái thì lượng sữa tiết ra ở các vú phần ngực nhiều hơn vú ở phần bụng, mà lợn con trong ổ thường con to, con nhỏ không đều nhau. Nếu để lợn con tự bú thì những con to khỏe thường tranh bú ở những vú trước ngực có nhiều sữa hơn và dẫn tới tỷ lệ đồng đều của đàn lợn con rất thấp, có trường hợp có những con lợn yếu không tranh được bú sẽ bị đói làm tỷ lệ chết của lợn con cao. Khi cố định đầu vú, nên ưu tiên những con lợn nhỏ yếu được bú phía trước ngực. Công việc này đòi hỏi phải kiên trì, tỷ mỉ bắt từng con cho bú nhiều lần trong một ngày (7 - 8) lần, làm liên tục trong 3 - 4 ngày để chúng quen hẳn với vị trí mới thôi. Cũng có trường hợp số lợn con đẻ ra ít hơn số vú thì những lợn vú phía sau có thể cho mỗi con làm quen 2 vú, để vừa tăng cường lượng sữa cho lợn con, vừa tránh bị teo vú cho lợn mẹ. Nếu cố định đầu vú tốt thì sau 3 - 4 ngày lợn con sẽ quen tự bú ở các vú quy định cho nó, lợn con quen nhanh hay chậm còn phụ thuộc vào thế nằm của lợn mẹ, nếu lợn mẹ thường xuyên nằm quay về một phía khi cho con bú thì lợn con nhận biết vú quy định của nó sớm hơn. Ngược lại, nếu lợn mẹ nằm thay đổi vị trí luôn thì lợn con sẽ chậm nhận biết hơn. Theo Duy Hùng (2011) [7], vệ sinh bầu vú, hai chân sau cho lợn hằng ngày bằng dung dịch sát trùng. Bấm nanh cho lợn con mới sinh, nên cho lợn con bú sữa đầu và phân đều vú cho từng con trong đàn. Tăng cường ăn uống đủ chất cho lợn mẹ trước và sau khi đẻ nên giảm bớt chất đạm để hạn chế nguy cơ thừa sữa. Khi lợn mẹ bị viêm vú, không nên cho lợn con bú ở những vùng bị viêm. Dùng các phương pháp chừm nóng, xoa bóp nhẹ nên vùng bị sưng.
  25. 18 Nếu ghép lợn con với lợn mẹ khác mẹ thì phun erezyl cho cả đàn con cũ và mới mới không bị mẹ cắn, những con mới ghép cũng phải cố định vú bú. 2.2.4.2. Bổ sung sắt cho lợn con Trong những ngày đầu, khi lợn con chưa ăn được, lượng sắt mà lợn con tiếp nhận từ nguồn sữa mẹ không đủ nhu cầu của cơ thể, vì vậy lợn con cần được bổ sung thêm sắt. Nhu cầu sắt cần cung cấp cho lợn con 30 ngày đầu sau đẻ là 30 x 7 mg/ ngày = 210 mg. Trong đó, lượng sắt cung cấp từ sữa chỉ đạt 1 – 2 mg/ ngày (36 - 60 mg/30 ngày), lượng sắt thiếu hụt cho một lợn con khoảng 150 - 180 mg, vì vậy mỗi lợn con cần cung cấp thêm lượng sắt thiếu hụt. Trong thực tế thường cung cấp thêm 200 mg. Nên tiêm sắt cho lợn con trong 3 - 4 ngày sau khi sinh. Việc tiêm sắt thường làm với các thao tác khác để tiết kiệm công lao động. Nếu cai sữa lúc 3 tuần tuổi, tiêm 1 lần 100mg là đủ. Nếu cai sữa sau 3 tuần tuổi, nên tiêm 200mg sắt tiêm 2 lần. Lần 1: 3 ngày tuổi, lần 2: 10 - 12 ngày tuổi. Triệu chứng điển hình của sự thiếu sắt là thiếu máu, hàm lượng hemoglobin giảm. Khi thiếu sắt, da của lợn con có màu trắng xanh, đôi khi lợn con bị ỉa chảy, ỉa phân trắng, kém ăn, lợn con chậm lớn, có khi bị chết. Để loại trừ hiện tượng thiếu sắt cần bổ sung kịp thời cho lợn con bằng cách tiêm, cho uống hoặc cho ăn. Đưa sắt vào cơ thể lợn con bằng cách tiêm là đạt hiệu quả nhất. Nên dùng sắt dưới dạng dextran, hợp chất này có tên là Ferri - Dextran.Ferri - Dextran là hợp chất có phân tử lớn nên ngấm từ từ, hiệu quả kéo dài. Cách thức sử dụng: - Cách 1: Chỉ tiêm 1 lần vào ngày thứ 3 sau khi đẻ, với liều lượng 200 mg sắt (Fe - Dextran) cho 1 lợn con. - Cách 2: Tiêm lần 2: lần thứ nhất 100mg vào ngày thứ 3 sau khi đẻ, lần thứ 2 (tiêm lặp lại) là 7 ngày sau khi tiêm lần thứ nhất. Cũng với liều lượng 100 mg cho 1 lợn con.
  26. 19 Để ngăn ngừa hiện tượng ngộ độc sắt cho lợn con, cần bổ sung thêm vitamin E vào khẩu phần ăn của lợn mẹ 1 ngày trước khi tiêm (khoảng 500 mg). Nếu thiếu vitmin E th́ cần cung cấp 20 - 30 mg Fe vào ngày thứ 3 sau khi sinh cũng đã gây ngộ độc cho cơ thể lợn con. - Cách tiêm sắt cho lợn con Dùng 1 bơm tiêm sạch lấy dung dịch sắt khỏi lọ chứa, sử dụng kim tiêm 14 hoặc 16 (đường kính lớn) để lấy thuốc. Sau khi lấy thuốc đầy bơm dùng kim9, dài 1 cm để tiêm. Sắt tiêm quá liều có thể gây hại, thậm chí có thể gây độc. Kiểm tra liều dùng ghi ở trên nhãn sản phẩm, không cần thay hay sát trùng kim tiêm cho từng con lợn, song điểm tiêm nếu bẩn nên lau bằng nước sát trùng. Rửa và sát trùng dụng cụ sau khi tiêm cho nhóm lợn con. Việc sử dụng kim tiêm và tiêm 1 lần tạo điều kiện vệ sinh hơn. Nên tiêm vào cổ, không nên tiêm ở mông vì có thể làm hại đến dây thần kinh và cũng có thể vết sắt dư thừa lưu ở thân lợn thịt mổ bán. Tiêm sắt vào cơ bắp hay tiêm vào dưới da. Cẩn thận không tiêm vào phần xương sống.Giữ mũi tiêm một lúc để tránh hoặc giảm lượng thuốc chảy ngược ra.Điểm khuyến cáo để tiêm dưới da là chỗ da kéo lên được ở phía trước chân trước. 2.2.4.3. Tập cho lợn ăn sớm - Mục đích: + Bù đắp phần dinh dưỡng thiếu hụt cho nhu cầu sinh trưởng phát triển của lợn con khi sản lượng sữa mẹ giảm sau 3 tuần tiết sữa. + Rèn luyện bộ máy tiêu hóa của lợn con sớm hoàn thiện về chức năng, đồng thời kích thích bộ máy tiêu hóa phát triển nhanh hơn về kích thước và khối lượng. + Giảm bớt sự nhấm nháp thức ăn rơi vãi của lợn con để hạn chế được các bệnh đường ruột của lợn con. + Giảm bớt sự khai thác sữa mẹ kiệt quệ và giảm tỷ lệ hao mòn của lợn mẹ, từ đó lợn mẹ sớm động dục trở lại sau khi cai sữa lợn con.
  27. 20 + Tránh sự cắn xé bầu vú lợn mẹ, hạn chế bệnh viêm vú. + Có điều kiện để cai sữa sớm cho lợn con, tăng hệ số quay vòng lứa đẻ/nái/năm. - Phương pháp tập ăn sớm: Khi lợn con đạt 7 - 10 ngày tuổi, ta nên tiến hành cho lợn con làm quen với thức ăn. Thức ăn tập ăn phải đảm bảo có tính thèm ăn cao. Cần lựa chọn loại thức ăn, các chất phụ gia, cũng như phương pháp chế biến sao cho kích thích sự thu nhận thức ăn của lợn con. Lợn con thường rất thích ăn thức dạng viên hay bột nhỏ khô, những thức ăn này thường là các loại tấm, bắp, đậu nành được rang xay để tạo mùi thơm. Phải cho lợn con làm quen với nguồn glucid, lipid, protid của các loại thực liệu thông thường để hệ tiêu hóa của lợn con sớm bài tiết các enzyme tiêu hóa thích hợp. 2.2.5. Cai sữa cho lợn con 2.2.5.1. Điều kiện cai sữa cho lợn con - Phải chủ động thức ăn, thức ăn cần phải có phẩm chất tốt, giá trị dinh dưỡng cao, cân đối. - Sức khỏe của lợn con và lợn mẹ phải tốt. - Lợn con phải ăn tốt và tiêu hóa tốt các loại thức ăn. - Cần phải có trang thiết bị đầy đủ, đúng kỹ thuật. - Người chăn nuôi phải có tay nghề, tinh thần trách nhiệm cao. 2.2.5.2. Các hình thức cai sữa - Cai sữa thông thường: Cai sữa từ 42 - 60 ngày tuổi. + Ưu điểm: Lợn con biết ăn tốt, thức ăn yêu cầu không cao lắm, lợn con khỏe mạnh hơn, khả năng điều tiết thân nhiệt tốt hơn nên chăm sóc nhẹ nhàng hơn. + Nhược điểm: Khả năng sinh sản thấp, chi phí cho 1kg khối lượng lợn con cao, tỷ lệ hao mòn lợn mẹ lớn hơn. - Cai sữa sớm: Cai sữa từ 21 đến 28 ngày tuổi.
  28. 21 + Ưu điểm: Nâng cao sức sinh sản của lợn nái (nâng cao số lứa đẻ lên 2,33 lứa so với 2,19 lứa), tránh được một số bệnh truyền nhiễm từ mẹ sang con, giảm chi phí thức ăn/1kg tăng khối lượng lợn con (20% so với cai sữa thông thường), giảm tỷ lệ hao mòn lợn mẹ. + Nhược điểm: Đòi ỏh i thức ăn phải có chất lượng tốt, người chăm sóc nuôi dưỡng phải nhiệt tình với công việc và có nhiều kinh nghiệm. 2.2.5.3. Kỹ thuật cai sữa Cần tiến hành từ từ: + Ngày đầu: Tách mẹ từ 7 giờ sáng, buổi trưa cho về với lợn con, 13 giờ tách lợn mẹ đến 17 giờ lại cho lợn mẹ về với lợn con. + Ngày thứ 2: Buổi sáng tách lợn mẹ đi, buổi chiều 17 giờ cho lợn mẹ về với lợn con. + Ngày thứ 3: Buổi sáng tách hẳn lợn mẹ với lợn con, không gây ảnh hưởng tới lợn con. - Trước cai sữa 2 - 3 ngày cần giảm số lần bú của lợn con. - Giảm thức ăn cho lợn mẹ trước khi cai sữa 1 - 2 ngày. - Chế độ ăn đối với lợn con: + Tỷ lệ xơ trong khẩu phần thấp: Khả năng tiêu hóa chất xơ ở lợn con còn kém, tỷ lệ xơ ở trong khẩu phần ăn cao thì lợn con sinh trưởng phát triển chậm, tiêu tốn thức ăn cao, lợn con dễ táo bón, viêm ruột và có thể dẫn đến còi cọc, tỷ lệ thích hợp là 5 - 6 %. Xu hướng trong những năm gần đây ở các nước chăn nuôi tiên tiến người ta khuyến khích nâng cao tỷ lệ xơ trong khẩu phần ăn của lợn để nâng cao sức khỏe. + Có tỷ lệ ăn thích hợp: Lợn con ở giai đoạn này cần có dinh dưỡng tốt cho phát triển bộ xương và cơ bắp là chủ yếu. Nếu chúng ta cung cấp khẩu phần ăn có lượng thức ăn tinh bột cao, lợn con sẽ béo sớm và khả năng tăng trọng sẽ giảm, tích lũy nhiều mỡ sớm. Tỷ lệ thức ăn tinh thích hợp cho lợn con trong giai đoạn này là 80% trong khẩu phần.
  29. 22 + Có tỷ lệ nước thích hợp: Nếu khẩu phần lợn con có tỷ lệ nước cao sẽ dẫn đến tiêu hóa kém, giảm khả năng hấp thu các chất dinh dưỡng nhất là protein, thức ăn nhiều nước cũng gây nền chuồng bẩn, ẩm thấp và lợn con dễ nhiễm bệnh. Nếu tỷ lệ nước thấp sẽ gây nên thiếu nước cho nhu cầu sinh trưởng và phát triển của lợn con. Tỷ lệ thức ăn tinh: thô phải thích hợp, cứ 1kg thức ăn tinh trộn với 0,5 lít nước sạch, tối đa có thể là tỷ lệ 1 : 1, ngoài ra người chăn nuôi phải cho lợn con uống nước đầy đủ theo hình thức tự do. Ngoài ra chúng ta còn bổ sung khoáng vi lượng như Mn, Co, Cu, Mg, Fe, và bổ sung cho lợn những chế phẩm vitamin - khoáng. + Phương pháp cho lợn con ăn: Cho ăn nhiều bữa trong ngày, cho ăn 5 - 6 bữa/ngày thì có tốc độ tăng trọng cao hơn 3 bữa/ngày. Tuy nhiên, cho ăn nhiều bữa trong ngày sẽ tốn công lao động trong chăn nuôi. Từ đó người chăn nuôi cần lựa chọn số bữa thích hợp để cho lợn con ăn. Cho lợn con ăn đúng giờ giấc quy định và tập cho lợn con những phản xạ có điều kiện về tiêu hóa. Cho lợn con ăn từ từ để tránh vung vãi ra ngoài và hạn chế được lợn con mắc các bệnh về đường tiêu hóa. Cho lợn con ăn đúng tiêu chuẩn và khẩu phần ăn. Theo dõi sức khỏe để điều chỉnh khẩu phần và tiêu chuẩn cho chúng. 2.3. Tình hình nghiên cứu trong nước và ngoài nước 2.3.1. Tình hình nghiên cứu trong nước Bộ máy tiêu hóa ở lợn con phát triển nhanh, song khả năng chống đỡ bệnh tật ở đường ruột và dạ dày còn yếu. Do đó, cần chú ý vệ sinh chuồng trại, máng ăn, máng uống và áp dụng các biện pháp kỹ thuật phòng chống bệnh đường tiêu hóa cao hơn.
  30. 23 Khi lợn nái nuôi con bằng chuồng sàn thì lợn con ít và không ỉa chảy phân trắng, còn lợn con theo mẹ nuôi chuồng nền thì tỷ lệ mắc hội chứng tiêu chảy từ 40 - 45%. Theo Trần Thị Dân (2008) [1], lợn con mới đẻ trong máu không có globulin nhưng sau khi bú sữa đầu lại tăng lên nhanh chóng do truyền từ mẹ sang qua sữa đầu. Lượng globulin sẽ giảm sau 3 - 4 tuần, rồi đến tuần thứ 5 - 6 lại tăng lên và đạt giá trị bình thường 65 mg/100ml máu. Các yếu tố miễn dịch như bổ thể, bạch cầu được tổng hợp còn ít, khả năng miễn dịch đặc hiệu của lợn con kém. Vì vậy, cho lợn con bú sữa đầu rất cần thiết để tăng khả năng bảo vệ cơ thể chống lại mầm bệnh. Theo Đoàn Thị Kim Dung (2004) [2], các yếu tố nóng, lạnh, mưa, nắng, hanh, ẩm thay đổi thất thường và điều kiện chăm sóc nuôi dưỡng ảnh hưởng trực tiếp đến cơ thể lợn, nhất là cơ thể lợn con chưa phát triển hoàn chỉnh, các phản ứng thích nghi của cơ thể còn rất yếu. Nhiều công trình nghiên cứu cho thấy điều kiện môi trường sống lạnh, ẩm đã làm thay đổi các chỉ tiêu sinh lý, sinh hóa máu của lợn, biến đổi về chức năng và hình thái của hệ tuần hoàn, hệ nội tiết, liên quan đến phản ứng điều hòa nội mô. Trong những trường hợp như thế sức đề kháng của cơ thể giảm đi là điều kiện để cho các vi khuẩn đường ruột tăng số lượng độc tính và gây bệnh. Nhu cầu Fe trong máu rất cần thiết cho duy trì Hemoglobin (Hb) và dự trữ cho cơ thể phát triển. Ở lợn sơ sinh, trong 100 ml máu có 10,9 mg Hb, sau 10 ngày tuổi chỉ còn 4 – 5 mg. Nếu lợn con chỉ nhận Fe qua sữa sẽ thiếu Fe dẫn đến thiếu máu gây suy dinh dưỡng, ỉa phân trắng. Theo Đào Trọng Đạt và cs (1996) [3], các yếu tố lạnh, ẩm ảnh hưởng rất lớn đến lợn sơ sinh, lợn con vài ngày tuổi. Trong các yếu tố về tiểu khí hậu thì quan trọng nhất là nhiệt độ và độ ẩm. Độ ẩm thích hợp cho lợn từ 75 - 85%. Vì thế việc làm khô và giữ ấm chuồng là vô cùng quan trọng.
  31. 24 Theo Phan Địch Lân và cs (1997) [11], chuồng trại ẩm, lạnh tác động vào cơ thể lợn gây rối loạn thần kinh từ đó gây rối loạn tiêu hóa. Tỷ lệ lợn con mắc hội chứng tiêu chảy thay đổi theo sự biến đổi hàng tháng của nhiệt độ, độ ẩm trung bình, cụ thể là có sự tương quan thuận với độ ẩm và tương quan nghịch với nhiệt độ không khí. Do đó, để hạn chế tỷ lệ mắc hội chứng tiêu chảy lợn con, thì ngoài các biện pháp về dinh dưỡng, thú y, cần đảm bảo tiểu khí hậu chuồng nuôi thích hợp. Theo Đoàn Thị Kim Dung (2004) [2], khi lợn bị tiêu chảy số loại vi khuẩn và tổng số vi khuẩn hiếu khí trong 1 gam phân tăng lên so với ở lợn không bị tiêu chảy. Khi phân lập tác giả thấy rằng các vi khuẩn đóng vai trò quan trọng trong hội chứng tiêu chảy như: E.coli, Salmonella và Streptococcus tăng lên trong khi Staphylococcus và Bacillus subtilis giảm đi. Theo Nguyễn Bá Hiên (2001) [6], nghiên cứu biến động của vi khuẩn đường ruột thường gặp ở gia súc khoẻ mạnh và bị tiêu chảy đã chỉ ra rằng, khi lợn bị tiêu chảy, số lượng vi khuẩn E. coli trung bình tăng 1,9 lần. Theo Nguyễn Thị Lan, Nguyễn Thị Hoa (2012) [8], hội chứng rối loạn hô hấp và sinh sản (PRRS) gây thiệt hại lớn cho người chăn nuôi lợn, đặc biệt là lợn con sau cai sữa có tỷ lệ mắc bệnh cao vì đây là lứa tuổi lợn dễ mẫn cảm, sức đề kháng yếu. Nghiên cứu này được tiến hành trên đàn lợn sau cai sữa từ 3 - 6 tuần tuổi. Lợn sau cai sữa bị mắc PRRS có biểu hiện bỏ ăn, chán ăn, sốt cao, da mẩn đỏ, khó thở. Phổi lợn bệnh có hiện tượng sung huyết, xuất huyết, viêm phổi. Hạch lâm ba sưng to, tụ máu. Thận có xuất huyết lấm tấm. Xoang bao tim tích nước. Các tổn thương vi thể bao gồm thâm nhiễm tế bào viêm, phế quản phế viêm hoặc phế phổi thùy, xuất huyết cầu thận , bể thận. Theo Nguyễn Trung Tiến và cs (2015) [15], dịch tiêu chảy cấp tính trên lợn (Porcine Epldemic Diarrhea - PED) là một bệnh truyền nhiễm cấp tính nguy hiểm do một loại vi rút thuộc họ Coronaviridae gây ra. Dịch PED xảy ra quanh năm nhưng thường phổ biến hơn vào mùa đông và trên 90% ca
  32. 25 bệnh xảy ra ở lợn con dưới 7 ngày tuổi. Trong nghiên cứu này 148 mẫu bệnh phẩm là các mẫu phân và ruột của lợn nghi mắc bệnh PED thu thập được từ 3 tỉnh là Quảng Trị, Thái Nguyên và Thái Bình từ năm 2013 - 2014 đã được chẩn đoán bằng phương pháp RT - PRC. Kết quả chẩn đoán cho thấy 57/148 (38,51%) mẫu bệnh phẩm dương tính với vi rút PED. Kết quả phân tích trình tự nucleotide và amino acid trên cơ sở giải trình tự một phân gen S (spike gene) cho thấy các chủng vi rút PED thu thập được trong nghiên cứu này có tỉ lệ tương đồng về nuleotide và amino acid rất cao khi so sánh với các chủng vi rút PED tham chiếu khác trước đây của Việt Nam, tỷ lệ tương đồng nucleotide từ 94,8 - 98,6% và amino acid từ 93,5 - 98,8%. Kết quả phân tích cây phả hệ cho thấy các chủng vi rút PED trong nghiên cứu này thuộc nhóm G1-1. Tiêu chảy là biểu hiện lâm sàng của quá trình bệnh lý ở đường tiêu hóa, là hiện tượng con vật đi ỉa nhanh, nhiều lần trong ngày, phân có nhiều nước do rối loạn chức năng tiêu hóa, ruột tăng cường co bóp và tiết dịch hoặc chỉ phản ánh đơn thuần sự thay đổi tạm thời của phân gia súc bình thường khi gia súc đang thích ứng với những thay đổi trong khẩu phần ăn. Tiêu chảy xảy ra ở nhiều bệnh và bản thân nó không phải là bệnh đặc thù. Nếu xét về nguyên nhân chính gây bệnh thì có các tên gọi như bệnh Colibacillosis do vi khuẩn E.coli gây ra, bệnh phó thương hàn lợn do vi khuẩn Samonella cholerae suis gây ra, bệnh viêm dạ dày ruột truyền nhiễm (TGE) do Coronavirus gây ra Thực chất tiêu chảy là một phản ứng tự vệ của cơ thể nhưng khi cơ thể tiêu chảy nhiều lần trong ngày (5 đến 6 lần trở lên) và nước trong phân từ 75% trở lên gọi là hiện tượng tiêu chảy. Tiêu chảy do nhiều nguyên nhân gây ra đồng thời nên gọi là hội chứng tiêu chảy. Cho dù do bất cứ nguyên nhân nào dẫn đến tiêu chảy thì hậu quả nghiêm trọng là mất nước, mất chất điện giải và kiệt sức, những gia súc khỏi thường bị còi cọc, thiếu máu, chậm lớn.
  33. 26 Đặc biệt khi gia súc bị tiêu chảy nặng kèm hiện tượng viêm nhiễm, tổn thương thực thể đường tiêu hóa dẫn đến gia súc có thể chết với tỷ lệ cao, gây thiệt hại lớn về kinh tế. Khi nghiên cứu về nguyên nhân gây hội chứng tiêu chảy nhiều tác giả đã kết luận rằng trong bất cứ trường hợp nào của bệnh cũng có vai trò tác động của vi khuẩn. Trong đường ruột của gia súc nói chung và của lợn nói riêng, có rất nhiều loài vi sinh vật sinh sống. Vi sinh vật trong đường ruột tồn tại dưới dạng hệ sinh thái. Hệ sinh thái vi sinh vật đường ruột ở trạng thái cân bằng động theo hướng có lợi cho cơ thể vật chủ. Hoạt động sinh lý của gia súc chỉ diễn ra bình thường khi mà hệ sinh thái đường ruột luôn ở trạng thái cân bằng. Sự cân bằng này biểu hiện ở sự ổn định của môi trường đường tiêu hóa của con vật và quan hệ cân bằng giữa các nhóm vi sinh vật với nhau trong hệ vi sinh vật đường ruột. Dưới tác động của các yếu tố gây bệnh, trạng thái cân bằng này bị phá vỡ dẫn đến loạn khuẩn và hậu quả là lợn bị tiêu chảy. Nhiều tác giả nghiên cứu về hội chứng tiêu chảy đã chứng minh rằng khi gặp những điều kiện thuận lợi, những vi khuẩn thường gặp ở đường tiêu hóa sẽ tăng độc tính, phát triển với số lượng lớn trở thành có hại và gây bệnh. - Các vi khuẩn gây hội chứng tiêu chảy chủ yếu là: + Escherichia coli (thường được viết tắt là E. coli) hay còn được gọi là vi khuẩn đại tràng là một trong những loài vi khuẩn chính ký sinh trong đường ruột của động vật máu nóng (bao gồm chim và động vật có vú). Vi khuẩn này cần thiết trong quá trình tiêu hóa thức ăn và là thành phần của khuẩn lạc ruột. Sự có mặt của E. coli trong nước ngầm là một chỉ thị thường gặp cho ô nhiễm phân. E.coli thuộc họ vi khuẩn Enterobacteriaceae và thường được sử dụng làm sinh vật mô hình cho các nghiên cứu về vi khuẩn. Hình thái: E.coli là một trực khuẩn Gram âm, hình gậy ngắn, kích thước 2-3 x 0,6 µ. Trong cơ thể có hình cầu trực khuẩn, đứng riêng lẻ đôi khi
  34. 27 xếp thành chuỗi ngắn, có lông xung quanh thân nên có thể di động được, không hình thành nha bào, có thể có giáp mô. Độc tố: vi khuẩn E.coli tạo ra 2 loại độc tố là nội độc tố và ngoại độc tố Ngoại độc tố: là một chất không chịu được nhiệt, dễ bị phá hủy ở 56°C trong vòng 10 - 30 phút. Dưới tác dụng của formon và nhiệt ngoại độc tố chuyển thành giải độc tố. Ngoại độc tố có tính thần kinh và gây hoại tử. Nội độc tố: là yếu tố gây độc nằm trong tế bào vi khuẩn và gắn với tế bào vi khuẩn rất chặt. Nội độc tố có tính kháng nguyên hoàn toàn, chịu nhiệt và có khả năng sinh choáng mạch máu. + Salmonella: đây là những trực khuẩn Gram âm, hiếu khí tùy ý, hầu hết các Salmonella đều có lông xung quanh thân (trừ Salmonella gallinarum và Salmonella pullorum) vì vậy có khả năng di động, không sinh nha bào kích thước khoảng 0,4-0,6 x 2-3 μm. + Salmonella lên men glucose có sinh hơi (trừ Salmonella typhi lên men glucose không sinh hơi) không lên men lactose, indol âm tính, đỏ methyl dương tính, VP âm tính, citrat thay đổi, urease âm tính H2S dương tính (trừ Salmonella paratyphi A: H2S âm tính) Dễ mọc trên các môi trường nuôi cấy thông thường. - Nhiệt độ phát triển từ 5 - 45oC, thích hợp ở 37oC, pH thích hợp là 7,6 nhưng nó có thể phát triển được ở pH từ 6 - 9. Với pH > 9 hoặc < 4,5 vi khuẩn có thể bị tiêu diệt, khả năng chịu nhiệt của vi khuẩn kém: ở 50oC trong 1 giờ, ở 70o C trong 15 phút và 100o C trong 5 phút. - Theo Nguyễn Như Thanh và cs (2004) [16], ở nồng độ muối 6 - 8% vi khuẩn phát triển chậm và ở nồng độ muối là 8 - 19% sự phát triển của vi khuẩn bị ngừng lại. - Nhiều công trình nghiên cứu cho thấy điều kiện môi trường sống lạnh, ẩm đã làm thay đổi các chỉ tiêu sinh lý, sinh hóa máu của lợn, biến đổi về chức năng và hình thái của hệ tuần hoàn, hệ nội tiết, liên quan đến phản ứng
  35. 28 điều hòa nội mô. Trong những trường hợp như thế sức đề kháng của cơ thể giảm đi là điều kiện để cho các vi khuẩn đường ruột tăng số lượng độc tính và gây bệnh. - Vấn đề chăm sóc nuôi dưỡng có vai trò hết sức quan trọng trong chăn nuôi. Việc thực hiện đúng quy trình kỹ thuật chăm sóc nuôi dưỡng trong chăn nuôi sẽ đem lại sức khỏe và tăng trưởng cho lợn. Khi thức ăn chăn nuôi không đảm bảo, chuồng trại không hợp lý, kỹ thuật chăm sóc không phù hợp, là nguyên nhân làm cho sức đề kháng của lợn giảm, tăng nguy cơ mắc bệnh. - Thức ăn bị nhiễm độc tố nấm mốc cũng là nguyên nhân gây ra tiêu chảy. Trong các loại độc tố nấm mốc thì aflatoxin là loại độc tố được quan tâm nhất hiện nay. - Thức ăn thiếu đạm, tỷ lệ protit và axitamin không cân đối dẫn đến quá trình hấp thu chất dinh dưỡng không tốt. Cơ thể lợn thiếu dinh dưỡng, hàm lượng albumin huyết thanh giảm và kéo theo hàm lượng γ - globulin huyết thanh cũng giảm. Hệ quả là khả năng miễn dịch của cơ thể giảm đi rõ rệt, tạo điều kiện cho các vi khuẩn phát triển và gây bệnh. - Nếu khẩu phần thức ăn của lợn thiếu khoáng và vitamin cũng là nguyên nhân làm cho lợn con dễ mắc bệnh. Chất khoáng góp phần tạo tế bào, điều hòa thức ăn đạm và chất béo. Lợn con thiếu khoáng dễ dẫn đến bị còi xương, cơ thể suy nhược, sức đề kháng giảm tạo điều kiện cho vi khuẩn đường ruột tăng độc lực và gây bệnh. - Vitamin là yếu tố không thể thiếu được với mọi cơ thể động vật, nó đảm bảo cho quá tŕnh chuyển hóa trong cơ thể diễn ra bình thường. Thiếu một vitamin sẽ làm cho lợn còi cọc, sinh trưởng kém, dễ mắc bệnh đường tiêu hóa. 2.3.2. Tình hình nghiên cứu ngoài nước Sokol và cs (1981) [21] cho rằng, vi khuẩn E.coli cộng sinh có mặt thường trực trong đường ruột của người và động vật, trong quá trình sống vi khuẩn có khả năng tiếp nhận các yếu tố gây bệnh như: yếu tố bám dính (K88,
  36. 29 K99), yếu tố dung huyết (Hly), yếu tố cạnh tranh (Colv), yếu tố kháng kháng sinh (R) và các độc tố đường ruột. Các yếu tố gây bệnh này không được di truyền qua DNA của chromosome mà được di truyền qua DNA nằm ngoài chromosome gọi là plasmid. Những yếu tố gây bệnh này đã giúp cho vi khuẩn E.coli bám dính vào nhung mao ruột non, xâm nhập vào thành ruột, phát triển với số lượng lớn. Sau đó vi khuẩn thực hiện quá trình gây bệnh của mình bằng cách sản sinh độc tố, gây hội chứng tiêu chảy, phá huỷ tế bào niêm mạc ruột. Smith và cs (1967) [22], thông báo có 2 loại độc tố là thành phần chính của Enterotoxin được tìm thấy ở các vi khuẩn gây bệnh. Sự khác biệt của độc tố này là độc tố chịu nhiệt (Heat Stabletoxin – ST) chịu được nhiệt lớn hơn 1000C trong 15 phút, còn độc tố không chịu nhiệt (Heat labiletoxin – LH) bị vô hoạt ở nhiệt độ 600C trong 15 phút. Glawischning E. và cs (1992) [20], xác định Clostridium perfringens type A và type C là một trong những nguyên nhân gây tiêu chảy và đã gây thiệt hại kinh tế lớn cho người chăn nuôi. 2.4. Một số bệnh thường gặp ở lợn con 2.4.1. Bệnh phân trắng lợn con Bệnh thường xảy ra đối với lợn con ở giai đoạn sơ sinh đến 21 ngày tuổi. Bệnh xảy ra quanh năm nhưng hay gặp nhất khi thời tiết thay đổi như nóng lạnh thất thường, mưa nhiều, gió bão Nguyên nhân của bệnh thường là do lợn mẹ không được ăn đủ chất, đặc biệt là các loại khoáng chất và vitarnin làm lợn con kém phát triển, sức đề kháng yếu lai gặp lúc thời tiết thất thường, nền chuồng ầm ướt nên dễ bị nhiễm bệnh. Bệnh cũng có thể còn được gây nên bởi tình trạng chậm được bú sữa đầu, sức đề kháng giảm, một số vi khuẩn gây bệnh ỉa chảy phát triển, tăng độc lực gây bệnh ở lợn con yếu. Khi nhiễm bệnh, lợn con kém bú, dáng ủ rũ, đi đứng xiêu vẹo. Lợn con tiêu chảy, da nhăn nheo, gầy nhanh, hậu môn thương dính bết phân màu trắng
  37. 30 (lúc đầu phân màu xanh đen, sau chuyển sang màu xám rồi cuối cùng là màu trắng). Lợn hay khát nước, đôi khi nôn ra sữa chưa được tiêu hóa. Bệnh kéo dài khoảng 2 - 7 ngày làm lợn con suy kiệt nhanh, co giật, run rẩy và chết. Tỷ lệ chết từ 50 - 80%. Đôi khi cũng gặp trương hợp lợn ở 40 - 50 ngày tuổi nhưng vẫn bị ỉa phân trắng (nếu còn bú mẹ) nhưng thường biểu hiện nhẹ hơn, tỷ lệ sống sót cao hơn nhưng còi ọc c, chậm phát triển. Để phòng bệnh, người chăn nuôi cần chú ý chăm sóc lợn mẹ đầy đủ dinh dưỡng ở giai đoạn có thai và nuôi con. Chuồng nuôi lợn con cần khô ráo, tránh gió lùa, mưa tạt và phải có sân vận động không trơn trượt. Cố gắng cho lợn con bú được sữa đầu sớm nhất. Sớm bổ sung thức ăn cho lợn con, đồng thời tiêm thuốc bổ sắt (dextran sắt) cho lợn con. Đối với lợn mẹ cần tiêm autovacxin trước 1 - 2 tuần trước khi đẻ hay cho lợn mẹ uống 3 - 4 lần sau khi đẻ. Khi lợn đã mắc bệnh, dùng ngay các thuốc đặc trị tiêu chảy như neomyxin, antidia, becberin, nước sắc các loại lá, quả chát như hồng xiêm, lá sim, lá ổi, Đồng thời giữ ấm và khô ráo chuồng. 2.4.2. Bệnh viêm khớp Nguyên nhân: Do các vi khuẩn xâm nhập vào cơ thể lợn con theo đường miệng, cuống rốn, vết thương khi cắt đuôi, bấm răng, bấm tai, các vết thương trên chân, da, đầu gối khi chúng chà sát trên nền chuồng cứng khi bú. Lợn con sau khi sinh không được bú sữa đầu từ lợn mẹ đầy đủ. Triệu chứng: Lợn con đi lại khập khiễng từ 3 - 4 ngày tuổi. Khớp chân sưng lên. Dấu hiệu viêm có thể thấy trên mọi ổ khớp nhưng thường thấy nhất là khớp cổ chân, khớp bàn chân. Khi rạch ổ khớp thấy trong khớp có mủ đặc. Biện pháp điều trị: Dùng thuốc gentamox AP với liều 1 ml/10 kgTT,tiêm bắp. Kết hợp
  38. 31 tiêm dexa kháng viêm, chống dị ứng, phù nề với liều 1 ml/15 kg TT. Nếu sốt tiêm analgine + C với liều 1 ml/10 kg TT, tiêm liên tục trong 3 - 5 ngày Ngoài ra ta hạn chế cho lợn di chuyển đi lại, những tấm đan bị hỏng, kém chất lượng cần phải thay thế. 2.4.3. Hội chứng tiêu chảy ở lợn con theo mẹ Nguyên nhân: Lợn con bị tiêu chảy có thể do vi trùng, do thức ăn bị hỏng, hay đôi khi lại là do sinh lý, quản lý của con người không tốt. Cũng chính ởb i do nhiều nguyên nhân mà người ta gọi chung là hội chứng tiêu chảy ở lợn con theo mẹ. Triệu chứng: Phân lỏng màu vàng hay màu trắng đục dính ở hậu môn, hậu môn ướt đỏ, lợn sút cân nhanh chóng, mắt lờ đờ, dáng đi siêu vẹo, chán ăn. Biện pháp điều trị: + Đối với lợn con dưới 5 ngày tuổi thì pha colamox AP với nước ấm liều 1 g/2 lit nước, nhỏ cho uống 3 ngày liên tục. + Đối với lợn con 5 ngày tuổi trở lên: Tiêm hamcoli-s 1 ml/10 kgTT kết hợp atropin 1 ml/10k gTT, tiêm 3 ngày liên tục. 2.4.4. Bệnh viêm phổi địa phương do Mycoplasma hyopneumoniae Bệnh thường xảy ra ở lợn con giai đoạn sau cai sữa và lợn choai, đặc biệt là lợn lúc 7 tuần tuổi trở lên. Nguyên nhân: do Mycoplasma hyponeumoniae gây ra. Triệu chứng, bệnh tích: Cấp tính: thường gặp trong đàn lần đầu bị nhiễm bệnh, viêm phổi nặng, ho râm ran, thở khó, sốt và tỉ lệ chết cao. Tuy nhiên những triệu chứng này biến động và biến mất đi khi bệnh nhẹ đi. Mãn tính: thường gặp trong đàn có mầm bệnh xuất hiện nhiều lần, ho kéo dài và nhiều lần (ho theo kiểu chó ngồi). Một số con bị hô hấp nặng và
  39. 32 biểu hiện triệu chứng viêm phổi, sẽ có khoảng 30 - 70% số lợn có bệnh tích tổn thương phổi khi mổ khám. Biện pháp điều trị: Tiến hành điều trị bằng thuốc Bromhenxine 1 ml/10 kgTT kết hợp Bio genta – Tylosin 1 ml/10 kgTT, tiêm 3 - 5 ngày.
  40. 33 PHẦN 3 ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP TIẾN HÀNH 3.1. Đối tượng Đàn lợn con từ sơ sinh đến 21 ngày tuổi nuôi tại trại lợn Chu Bá Thơ. 3.2. Địa điểm và thời gian tiến hành - Địa điểm: Trại lợn Chu Bá Thơ, xã Việt Tiến, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang. - Thời gian: từ 20/11/2018 đến 26/05/2019. 3.3. Nội dung thực hiện - Đánh giá tình hình chăn nuôi tại trại lợn thực tập. - Áp dụng quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng lợn con từ sơ sinh đến 3 tuần tuổi tại trại. - Biện pháp phòng trị bệnh cho lợn con nuôi tại trại. 3.4. Các chỉ tiêu và phương pháp thực hiện 3.4.1. Các chỉ tiêu theo dõi Số lợn mắc bệnh (con) + Tỷ lệ lợn mắc bệnh (%)= ————————— x 100 Tổng số con theo dõi (con) Số lợn khỏi bệnh (con) + Tỷ lệ lợn khỏi bệnh (%) = ————————— x 100 Số lợn điều trị (con) Tổng số con chết + Tỷ lệ lợn chết (%) = ——————————— x 100 Tổng số lợn mắc bệnh 3.4.2. Phương pháp thực hiện
  41. 34 Phương pháp đánh giá tình hình chăn nuôi: để đánh giá tình hình chăn nuôi tại trại, em tiến hành thu thập thông tin từ trại, kết hợp với kết quả theo dõi tình hình thực tế tại trang trại. Phương pháp áp dụng quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng cho đàn lợn con từ sơ sinh đến 21 ngày tuổi nuôi tại trại: Thực hiện các quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng lợn con theo mẹ theo quy trình chăn nuôi của trang trại. Phương pháp chẩn đoán và điều trị bệnh cho lợn: để xác định tình hình nhiễm bệnh trên đàn lợn, em tiến hành theo dõi hàng ngày, thông qua phương pháp chẩn đoán lâm sàng. Quan sát các biểu hiện như: trạng thái cơ thể, phân ghi chép vào sổ theo dõi hàng ngày. Từ các triệu chứng thu thập được tiến hành chẩn đoán và điều trị bệnh cho lợn dưới sự hướng dẫn của kỹ sư trại. 3.4.2.1. Công tác phòng bệnh Bảng 3.1. Lịch sát trùng áp dụng tại trại Trong chuồng Ngoài khu Ngoài Thứ Chuồng Chuồng Chuồng Chuồng vực chăn Chuồng đẻ Chuồng nái chửa cách ly cai sữa Thịt nuôi Phun sát trùng + Phun sát Thứ 2 quét vôi Trùng đường đi Phun sát Phun sát Phun sát Phun sát Phun sát Thứ 3 Phun sát trùng trùng trùng trùng toàn trùng toàn Trùng bộ khu vực bộ khu vực Phun sát Phun sát Phun sát trùng Thứ 4 trùng toàn Trùng bộ khu vực Phun sát Phun sát Phun sát Thứ 5 Phun sát trùng trùng trùng toàn Trùng bộ khu vực Phun sát trùng Phun sát Thứ 6 + quét vôi Trùng đường đi Phun Phun Phun sát Vệ sinh Vệ sinh Dội vôi Phun sát trùng sát trùng + sát trùng+ trùng+ Thứ 7 tổng khu tổng khu gầm + dội vôi gầm dội vôi dội vôi dội vôi +Rắc vôi +Rắc vôi đường đi đường đi đường đi
  42. 35 Phun sát trùng Tổng Phun sát Khử nước CN + dội vôi vệ sinh trong trùng trong bể đường đi và ngoài trại Đồng thời, áp dụng quy trình tiêm phòng vắc-xin cho đàn lợn con từ sơ sinh đến 21 ngày tuổi theo lịch phòng bệnh áp dụng tại trại. Bảng 3.2. Lịch phòng bệnh cho lợn con từ sơ sinh đến 21 ngày tuổi áp dụng tại trại Tuổi Vắc-xin Phòng bệnh Liều lượng Vị trí Fe - Dextran – B12 Thiếu máu 2ml Tiêm bắp 01 ngày Hamcolifor Tiêu chảy 2 g/20 ml/10 con Uống 3 ngày Tolcoxin Cầu trùng 1 ml Uống 7 ngày Mycoplasma Suyễn 2 ml Tiêm bắp Hội chứng còi 14 ngày Circomaste vac 1 ml Tiêm bắp cọc sau cai sữa Hội chứng còi Circomaster vac 1 ml Tiêm bắp 21 ngày cọc sau cai sữa Coglapest Dịch tả 2 ml Tiêm bắp (Nguồn: Kỹ thuật trại) 3.4.2.2. Công tác chăn nuôi Công tác giống: Trong thời gian thực tập em cùng cán bộ kỹ thuật của trại tiến hành chọn lọc, lập hồ sơ theo dõi từng cá thể lợn nái với các chỉ tiêu như: Số lứa đẻ, số con sinh ra và số con nuôi trong mỗi lứa, số con cai sữa và số ngày nuôi con của từng con nái qua đó lựa chọn những con nái tốt nhất để sản xuất. Đồng thời dựa vào kết quả theo dõi qua nhiều lứa đẻ để tiến hành loại bỏ những lợn nái trong các trường hợp như: Phối giống 3 lần liên tiếp không thụ thai, số con trong lứa đẻ ít, tỷ lệ lợn con sơ sinh chết, dị tật cao, nái đẻ đạt 8 lứa, nái bị liệt
  43. 36 Công tác chăm sóc nuôi dưỡng đàn lợn: Trong quá trình thực tập tại trang trại, em đã thực hiện quy trình chăm sóc lợn nái chửa, nái đẻ, tham gia đỡ đẻ, chăm sóc lợn con theo mẹ đến cai sữa; trực tiếp vệ sinh, chăm sóc, theo dõi đàn lợn thí nghiệm. * Đối với nái chửa: Lợn nái chửa được nuôi chủ yếu ở chuồng bầu 1 và bầu 2. Hàng ngày vào kiểm tra lợn để phát hiện lợn phối không đạt, lợn nái bị sảy thai, lợn mang thai giả, vệ sinh, dọn phân không để cho lợn nằm đè lên phân, lấy thức ăn cho lợn ăn, rửa máng, phun thuốc sát trùng hàng ngày, xịt gầm, cuối giờ chiều chở phân ra khu xử lý phân. Lợn nái chửa được ăn loại thức ăn 1042, 1052 với khẩu phần ăn tùy theo kì chửa, thể trạng, lứa đẻ cụ thể: + Đối với nái chửa kì 1 (1 → 84 ngày) ăn thức ăn Cargill 1042 với tiêu chuẩn 2 kg/con/ngày, cho ăn 2 lần trong ngày. + Đối với nái chửa kì 2 (85 → 110 ngày) ăn thức ăn Cargill 1042 với tiêu chuẩn 3 - 3,5 kg/con/ngày, cho ăn 2 lần trong ngày. + Đối với nái chửa từ ngày 111 →113, ăn thức ăn Cargill 1052 với tiêu chuẩn 2 -2,5 kg/con/ngày, cho ăn 2 lần trong ngày. * Đối với nái đẻ: Lợn nái chửa được chuyển lên chuồng đẻ trước ngày đẻ dự kiến 7 - 10 ngày. Trước khi chuyển lợn lên chuồng đẻ, chuồng phải được dọn dẹp, sát trùng và cọ, rửa sạch sẽ. Lợn chuyển lên phải được ghi đầy đủ thông tin lên bảng ở đầu mỗi ô chuồng. Thức ăn của lợn chờ đẻ được cho ăn thức ăn Cargill 1052 với tiêu chuẩn ăn 2,5 kg/ngày, chia làm 2 bữa sáng, chiều. Lợn nái chửa trước ngày đẻ dự kiến 3 ngày, giảm tiêu chuẩn ăn, mỗi ngày giảm 0,5 kg đến ngày đẻ dự kiến còn khẩu phần ăn là 1 kg/con/ngày Khi lợn nái đẻ được 2 ngày tăng dần lượng thức ăn từ 0,5 - 1 kg/con/ngày chia làm hai bữa sáng, chiều. Đối với nái nuôi con quá gầy hoặc
  44. 37 nuôi nhiều con có thể cho ăn tăng lượng thức ăn lên 3 kg/con/ngày. Điều chỉnh lượng thức ăn cho phù hợp nhu cầu của lợn nái. * Chăm sóc nuôi dưỡng lợn con sau cai sữa Đối với lợn con sau cai sữa sử dụng thức ăn Cargill 1020. Lợn được nuôi chuồng trệt nền bê tông, nuôi đến 5-6 kg thì xuất đi các trại khác để nuôi hậu bị. Ở giai đoạn này, do thay đổi điều kiện chuồng trại, thức ăn nhiều lần nên lợn thường hay mắc bệnh đường tiêu hóa. Do vậy, cần theo dõi chăm sóc lợn cẩn thận. * Chăm sóc nuôi dưỡng lợn hậu bị nhập về Lợn con từ 30kg thì được chuyển về chuồng cách ly nuôi hậu bị. Thức ăn sử dụng cho lợn thịt là thức ăn Cargill 1102 - S. 3.4.3. Phương pháp xử lý số liệu Số liệu được xử lý theo phương pháp thống kê sinh vật học (Nguyễn Văn Thiện 2008) [18], và trên phần mềm Excel.
  45. 38 PHẦN 4 KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 4.1. Tình hình chăn nuôi lợn tại Trại lợn Chu Bá Thơ, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang Quá trình thưc tập tốt nghiệp tại trại, em đã tiến hành theo dõi tình hình chăn nuôi của trại trong 3 năm (2017 - 2019) qua số liệu trực tiếp tại thời điểm thực tập và trên hệ thống sổ sách của trại. Bảng 4.1. Tình hình chăn nuôi lợn tại trại qua 3 năm 2017 - 2019 Số lượng ( con ) STT Loại lợn 2017 2018 5/2019 1 Lợn đực giống 5 4 3 2 Lợn nái hậu bị 60 60 70 3 Lợn nái sinh sản 598 190 185 4 Lợn con 16.445 6.049 2.737 5 Lợn thịt 15.989 5.993 2.689 Tổng 33.107 12.296 5.684 (Nguồn: Bộ phận thống kê của trại lợn Chu Bá Thơ) Số liệu bảng 4.1 cho thấy cơ cấu của trại chủ yếu là lợn nái và lợn con theo mẹ, vẫn có nuôi lợn thịt. Số lượng lợn đực năm 2017 là 5 con, năm 2018 là 4 con, sang năm 2019 còn lại 3 con. Trong 2 năm 2017 - 2018, lợn nái sinh sản dao động trong khoảng 190 - 598 con, lợn hậu bị giữ nguyên 60 con và lợn con dao động trong khoảng 12.269 – 33.107 con. Năm 2018 số lượng lợn nái sinh sản của trại giảm do thị trường lợn trong nước có sự biến động mạnh, trại phải giảm số lượng lợn của trại để đáp ứng thị trường cũng như là vấn đề kinh tế phục vụ cho khả năng chăn nuôi của trại.
  46. 39 Cụ thể năm 2017 là 598 con, tới năm 2018 giảm mạnh so với năm 2017 408 con và năm 2019 là 403 con. Số lượng lợn hậu bị năm 2017 và năm 2018 giữ nguyên, năm 2019 tăng 10 con do trại nuôi thêm lợn hậu bị. Số lượng lợn con năm 2018 và 2019 giảm so với năm 2017 là do số lợn nái giảm mạnh. Bảng 4.2. Kết quả công tác chăm sóc lợn con Số Kết quả an toàn STT Công việc lượng Số lượng Tỷ lệ (con) (con) (%) 1 Số lợn con được đỡ đẻ (con) 1.655 1.626 98,24 Mài nanh, bấm tai, cắt đuôi, tiêm sắt 2 1.626 1.626 100 (con) 3 Thiến lợn đực (con) 882 882 100 5 Mổ herni 13 10 76,92 Trong 4 tháng làm tại chuồng đẻ, em đã trực tiếp tham gia đỡ đẻ là 1.655 lợn con, trong quá trình đỡ đẻ lợn con chết với một số lý do như chết ngạt, chết lưu, chết đè, chết bệnh dẫn đến số con còn sống là 1.626, tỷ lệ sống là 98,24%; số con được mài nanh, bấm tai, cắt đuôi, tiêm sắt là 1.626 con, tỷ lệ an toàn là 100%; thiến lợn đực là 882 con tỷ lệ an toàn là 100%; mổ hernia 13 con tỷ lệ an toàn là 76,92% (3 con chết do nhiễm trùng). 4.2. Kết quả công tác chăm sóc, nuôi dưỡng đàn lợn con từ sơ sinh đến 21 ngày tuổi tại trại - Nuôi dưỡng, chăm sóc lợn con theo mẹ: Mục đích của việc chăm sóc nuôi dưỡng lợn con là đạt khối lượng cai sữa cao. Sau khi sinh ra, lợn con chịu sự thay đổi môi trường sống, vì vậy cần tạo điều kiện tốt nhất cho lợn con để tránh các yếu tố stress và giảm tỷ lệ chết lúc sơ sinh.
  47. 40 Chuồng lợn đẻ phải ấm áp, sạch sẽ, khô ráo không có gió lùa. Lợn con sinh ra cần được lau khô mũi, miệng và toàn thân, bấm nanh và cố định đầu vú, cho bú sữa đầu càng sớm càng tốt. Tiêm sắt cho lợn con vào 1 ngày tuổi. Tập ăn sớm cho lợn con khi được 7 ngày tuổi bằng thức ăn hỗn hợp Cargill 1912. Thức ăn cho lợn con phải giàu đạm và năng lượng. Theo dõi thường xuyên để phát hiện bệnh và điều trị kịp thời, đặc biệt ở giai đoạn này lợn con thường hay mắc bệnh ỉa phân trắng. Chuồng trại phải được vệ sinh thường xuyên sạch sẽ.Chuồng nuôi đảm bảo luôn khô ráo, thoáng mát, tránh gió lùa và đảm bảo giữ ấm cho lợn con. - Chăm sóc nuôi dưỡng lợn con sau cai sữa. Hàng ngày cho lợn ăn, vệ sinh sạch sẽ. Đối với lợn con sau cai sữa sử dụng thức ăn Cargill 1020 . Lợn được nuôi trên sàn đến 15 ngày tuổi thì chuyển xuống chuồng trệt nền bê tông, nuôi đến 20kg thì chuyển sang dùng thức ăn Cargill 1102 – S, sau đó cho sang chuồng nuôi lợn thịt. Ở giai đoạn này, do thay đổi điều kiện chuồng trại, thức ăn nhiều lần nên lợn thường hay mắc bệnh đường tiêu hóa. Do vậy, cần theo dõi chăm sóc lợn cẩn thận. Bảng 4.3. Số lợn con trực tiếp đỡ đẻ, chăm sóc, nuôi dưỡng tại trại lợn trong 4 tháng thực tập tại chuồng đẻ Tháng Con đực (con) Con cái (con) Tổng (con) 12/2018 155 147 302 01/2019 149 185 334 02/2019 293 228 521 03/2019 285 213 498 Tổng 882 773 1.655
  48. 41 Trong 4 tháng thực tập tại chuồng đẻ, em đã trực tiếp đỡ đẻ, chăm sóc, nuôi dưỡng 1.655 lợn con. Cụ thể: + Số lợn đực là 882 con + Số lợn cái là 773 con Kết quả việc chăm sóc, nuôi dưỡng lợn con theo mẹ được thể hiện qua tỷ lệ sống của lợn con. Tỷ lệ nuôi sống lợn con được trình bày tại bảng 4.4 dưới đây: Bảng 4.4. Tỷ lệ nuôi sống lợn con từ sơ sinh đến 21 ngày tuổi tại trại lợn Con đực Con cái Số con Số con Số con Số con Tháng Tỷ lệ Tỷ lệ theo dõi còn sống theo dõi còn sống (%) (%) (con) (con) (con) (con) 12 155 151 97,41 147 143 97,28 01 149 149 100,0 185 180 97,30 02 293 288 98,29 228 225 98,68 03 285 281 98,60 213 209 98,12 Tổng 882 869 98,53 773 757 97,93 Kết quả bảng 4.4 cho thấy: Tỷ lệ nuôi sống của lợn con đực là 98,53%, lợn con cái là 97,93%. Tỷ lệ nuôi sống phụ thuộc vào quá trình chăm sóc, nuôi dưỡng. Lợn con có thể chết do nhiều nguyên nhân như: khi lợn con sinh ra có thể chết do quá yếu, mắc bệnh hay trong quá trình sống bị mẹ dẫm đè. Công tác chăm sóc, nuôi dưỡng và điều trị được thực hiện tốt thì tỷ lệ nuôi sống lợn con sẽ đạt kết quả cao hơn. Các chế độ chăm sóc tốt hơn như: cho uống thêm sữa, những con có dấu hiệu mắc bệnh được chẩn đoán và điều trị kịp thời. 4.3. Công tác phòng bệnh 4.3.1. Thực hiện biện pháp vệ sinh phòng bệnh Thực hiện phương châm“Phòng bệnh hơn chữa bệnh”, nên khâu phòng bệnh được đặt lên hàng đầu, nếu phòng bệnh tốt thì có thể hạn chế hoặc ngăn chặn được dịch bệnh xảy ra. Các biện pháp phòng bệnh tổng hợp được đặt lên hàng đầu, xoay quanh các yếu tố môi trường, mầm bệnh, vật chủ. Các công
  49. 42 việc cụ thể về vệ sinh phòng bệnh là: dọn phân, xịt gầm, rắc vôi, phun sát trùng chuồng trại và phương tiện vận chuyển, dụng cụ chăn nuôi, máng ăn. Tùy thuộc vào điều kiện thời tiết, mùa vụ mà việc vệ sinh chăm sóc có những thay đổi cho phù hợp. Các loại thuốc sát trùng mà trại sử dụng là Bioclean, ommicide. Kết quả thực hiện vệ sinh sát trùng tại trại được trình bày ở bảng 4.5. Bảng 4.5. Kết quả vệ sinh, sát trùng tại trại Số lượng Số lượng Tỷ lệ công việc cần thực hoàn Công việc thực hiện hiện thành được (lần) (%) (lần) Vệ sinh chuồng trại hàng ngày 385 385 100 Phun sát trùng 385 385 100 Quét và rắc vôi 385 385 100 Nhìn vào bảng 4.5 cho thấy trong thời gian 6 tháng thực tập tại trại em đã thực hiện vệ sinh, sát trùng chuồng đạt tỷ lệ 100% so với công việc được giao. Việc vệ sinh sát trùng hàng ngày luôn được trại quan tâm và làm thường xuyên hàng ngày. Theo quy định của trại việc vệ sinh chuồng, phun sát trùng và rắc vôi đường đi sẽ được thực hiện ít nhất 2 lần/ngày. 4.3.2. Kết quả tiêm vắc-xin phòng bệnh cho đàn lợn con tại trại Quy trình phòng bệnh bằng vắc-xin được trại thực hiện nghiêm túc, đầy đủ và đúng kỹ thuật. Lợn được tiêm vắc-xin ở trạng thái khỏe mạnh, được chăm sóc nuôi dưỡng tốt, không mắc các bệnh truyền nhiễm và các bệnh mạn tính khác để tạo được trạng thái miễn dịch tốt nhất. Kết quả công tác tiêm phòng được thể hiện qua bảng 4.6
  50. 43 Bảng 4.6. Kết quả tiêm phòng cho đàn lợn con từ sơ sinh đến 21 ngày tuổi tại cơ sở An toàn STT Phòng bệnh cho lợn Số lượng (con) Số lượng (con) Tỷ lệ (%) 1 Văc-xin Resvac 1.626 1.626 100% 2 Văc-xin circo 1.626 1.626 100% 3 Văc-xin dịch tả 1.626 1.626 100% Qua bảng 4.5 cho thấy, công tác tiêm phòng của trại được thực hiện một cách nghiêm ngặt và chủ động. Mọi lợn con đều được tiêm phòng đầy đủ các loại văc-xin phòng bệnh với tỉ lệ 100%. Cụ thể là: - Tiêm phòng văc-xin Resvac (suyễn) là 1.626 con - Circo là 1.626 con - Dịch tả là 1.626 con 4.3.3. Công tác chẩn đoán bệnh Để điều trị bệnh cho gia súc đạt được hiệu quả cao, việc chẩn đoán kịp thời và chính xác sẽ giúp chúng ta đưa ra phác đồ điều trị hiệu quả làm giảm tỷ lệ tử vong, giảm thời gian sử dụng thuốc và giảm thiệt hại về kinh tế. Vì vậy, hàng ngày chúng tôi cùng cán bộ kỹ thuật của trại tiến hành theo dõi đàn lợn ở các ô chuồng để phát hiện lợn ốm. Khi mới mắc bệnh, lợn thường không có triệu chứng điển hình. Các biểu hiện ở lợn ốm thường là: Ủ rũ, mệt mỏi, khả năng ăn uống giảm hoặc bỏ ăn, hoạt động ít, thân nhiệt cao.
  51. 44 Bảng 4.7. Kết quả chẩn đoán bệnh ở lợn con Số lợn Số lợn con Tỷ lệ Loại bệnh Triệu chứng điển hình con theo có triệu (%) dõi (con) chứng (con) Ủ rũ, kém ăn, ỉa chảy phân lỏng, màu Phân trắng trắng có mùi hôi tanh, khắm, gầy sút 1.626 224 13,77 lợn con nhanh. Lợn con 3 đến 4 ngày tuổi đi khập khiễng, khớp chân sưng lên vào ngày 7- 15 sau khi sinh, tử vong thường xảy ra lúc 2 đến 5 tuần tuổi. Thường thấy xảy 1.626 27 1,67 Bệnh viêm ra ở các vị trí như cổ chân, khớp háng khớp và khớp bàn chân. Lợn ăn ít, hơi sốt, chân lợn có hiện tượng què, đi đứng khó khăn, chỗ khớp viêm tấy đỏ, sưng. Lợn con còi cọc chậm lớn, lông xù, hở xương sống, khi thở hóp bụng lại. Bình thường nghỉ ngơi lợn không ho, chỉ khi Bệnh viêm 1.626 13 0,80 bị xua đuổi lợn mới ho hoặc ho vào lúc phổi ở lợn sáng sớm hay chiều tối, nhiệt độ cơ thể con bình thường hoặc tăng nhẹ. Kết quả bảng 4.7 cho thấy, tổng số lợn theo dõi là 1.626 con. Trong đó có 224 con mắc phân trắng lợn con, chiếm 13,77%; bệnh viêm khớp 27 con mắc, chiếm 1,67% và bệnh viêm phổi 13 con mắc, chiếm 0,80%. Lợn con mắc phân trắng do vi khuẩn E.coli gây nên. Sự lây nhiễm chủ yếu qua đường tiêu hoá, khi sử dụng thức ăn, nước uống đã nhiễm vi khuẩn. Do lây từ lợn mẹ sang lợn con.
  52. 45 Lợn con mắc bệnh viêm khớp do cầu khuẩn Streptococcus gây viêm khớp cấp và mãn tính ở lợn các lứa tuổi. Lợn con mắc bệnh viêm phổi chủ yếu do nhiệt độ úm, nhiệt độ chuồng nuôi không tốt để lạnh, do bị gió lùa liên tục trực tiếp vào lợn con, chuồng nuôi thiếu thông thoáng hàm lượng khí amoniac quá cao, do lợn con bú sữa đầu kém, do lợn mẹ sữa mẹ không có kháng thể phòng bệnh liên quan đến hội chứng hô hấp, do mầm bệnh nhập vào theo lợn đực giống hoặc do công nhân không chủ động đưa lợn vào quây úm 4.3.4 Công tác điều trị bệnh Trong thời gian thực tập tại trại, chúng tôi đã tiến hành điều trị một số bệnh gặp ở đàn lợn. Cụ thể như sau: * Bệnh phân trắng lợn con: - Nguyên nhân: Do nhiễm khuẩn đường tiêu hoá từ môi trường chăn nuôi(có thể là do E.Coli) Do điều kiện thời tiết thay đổi đột ngột (nhiệt độ cao quá hoặc giảm đột ngột khiến lợn bị nhiễm lạnh), các chất thải của chăn nuôi khiến môi trường và nền chuồng ẩm ướt, có mùi hôi nồng(khí NH3, H2S). Do thức ăn, nước uống cho lợn mẹ không đảm bảo vệ sinh đặc biệt quá trình bảo quản thức ăn không tốt làm cho thức ăn bị nấm mốc sinh độc tố Aflatoxin hoặc đôi khi do thay đổi đột ngột loại thức ăn của lợn mẹ. Bệnh mắc ở lợn con từ 2 - 3 giờ sau khi sinh ra đến 21 ngày tuổi. - Triệu chứng: Lợn kém bú, rồi bỏ hẳn, ủ rũ, đi đứng siêu vẹo. Lợn đi ỉa, da khô nhăn nheo, đầu to bụng hóp, lợn gầy sút rất nhanh, hậu môn thường dính bết phân. Niêm mạc mắt nhợt nhạt, 4 chân lạnh, thở nhanh. Lợn rặn rất nhiều khi ỉa. Màu phân lúc đầu trắng sữa sau đó chuyển sang trắng đục, có mùi tanh, khắm đặc trưng. Phân dính nhiều vào hậu môn, vào khoeo. - Điều trị:
  53. 46 Tiêm Norfloxacin: Tiêm bắp thịt với liều 1 ml/10 kg TT kết hợp với Atropin tiêm dưới da liều: 1 ml/10 kg TT Điều trị liên tục trong 3 - 5 ngày - Kết quả: Điều trị 224 con, kết quả 208 con khỏi, đạt tỷ lệ 92,85% * Bệnh viêm khớp: - Nguyên nhân: Bệnh do cầu khuẩn Streptococcus gây viêm khớp cấp và mãn tính ở lợn các lứa tuổi. Bệnh thường xảy ra ở lợn con nơi bệnh được phân loại như một phần của hội chứng “yếu khớp” kết hợp với viêm rốn. Thông thường ở lợn khỏe, vi khuẩn Streptococcus cư trú ở hạch amidal, ở mũi. Khi thời tiết lạnh làm cho sức đề kháng của lợn giảm, bệnh dễ phát sinh. Tỷ lệ lợn mắc bệnh rất thấp chỉ < 5%. - Triệu chứng: Lợn thường bị viêm khớp gối, khớp bàn và khớp ngón. Lúc đầu con vật thường đi khập khiễng, sau nặng dần và bị què, ngại vận động, đứng dậy khó khăn. Tại chỗ viêm thấy sưng đỏ, sờ vào con vật có biểu hiện né tránh. - Điều trị: Tiêm Amox: 1 ml/ 10 kg TT kết hợp với Dexa để kháng viêm,chống dị ứng,phù nề tiêm bắp thịt với liều : 0,2 - 1,5ml Điều trị liên tục trong 3 - 5 ngày. Bổ sung thêm ADE để trợ lực và tăng sức đề kháng. - Kết quả: Điều trị 27 con lợn, kết quả 27 con khỏi, đạt 100%. * Bệnh viêm phổi: - Nguyên nhân: Do quá trình vệ sinh chuồng nuôi chưa được tốt, không khí trong chuồng nuôi nhiều bụi bẩn, thức ăn quá khô hoặc bị mốc sinh nhiều bụi nên trong khi ăn lợn hít phải, từ một số bệnh khác cũng dẫn tới viêm phổi. - Triệu chứng lâm sàng:
  54. 47 Lợn bỏ ăn, ủ rũ hoặc sốt nhẹ, lợn thở nhanh và thở thể bụng sờ tay vào gốc tai nóng. - Điều trị: Tiến hành điều trị bằng thuốc Bromhenxine 1 ml/10kgTT kết hợp Bio genta – Tylosin 1 ml/10 kgTT, tiêm 3 - 5 ngày. - Kết quả: 13 con, số con khỏi 11. Tỷ lệ là 84,61%. Kết quả điều trị bệnh cho lợn con được thể hiện ở bảng 4.8. Bảng 4.8. Kết quả điều trị một số bệnh ở lợn con. Số lợn điều trị Số lợn khỏi Tỷ lệ khỏi STT Tên bệnh (con) (con) (%) 1 Phân trắng 224 208 92,85% 2 Viêm khớp 27 27 100,00% 3 Viêm phổi 13 11 84,61% Kết quả bảng 4.8 cho thấy như sau: - Bệnh phân trắng lợn con: Sử dụng phác đồ điều trị là tiêm Norfloxacin kết hợp với Atropin với tỷ lệ 50/50 cho heo con với liều lượng 2 ml/10kgTT. Số con mắc bệnh là 224, số con khỏi là 208, số con chết là 16. Tỷ lệ khỏi là 92,85%. - Bệnh viêm khớp: Sử dụng phác đồ điều trị là tiêm Amox kết hợp với Dexa với tỷ lệ là 50/50 cho lợn con với liều lượng 1 ml/10kgTT. Số con mắc bệnh là 27, số con khỏi là 27. Tỷ lệ khỏi là 100%. - Bệnh viêm phổi: Sử dụng phác đồ điều trị là tiêm Bomhenxine kết hợp với Bio genta- Tylosin cho lợn con với liều lượng 2 ml/10kgTT. Số con mắc bệnh là 13 con, số con khỏi là 11, số con chết là 2. Tỷ lệ khỏi là 84,61%. Kết quả điều trị bệnh cho lợn con cho thấy, việc sử dụng thuốc và phác đồ điều trị của trại là hợp lý, tỷ lệ khỏi các bệnh được điều trị đạt từ 84,61-100%. 4.4. Công tác khác
  55. 48 Trong thời gian 6 tháng thực tập tại trại ngoài việc thực hiện chuyên đề nghiên cứu khoa học, em đã tham gia một số công việc khác. Kết quả được thể hiện ở bảng 4.9. Bảng 4.9. Kết quả một số công tác khác Số Kết quả STT Công việc lượng Đạt Tỷ lệ (%) (con) 1 Cho lợn con uống cầu trùng 1626 1626 100 2 Truyền dịch cho lợn mẹ (Glucose) 7 7 100 3 Xuất lợn con 125 125 100 4 Thụ tinh nhân tạo 71 71 100 Kết quả bảng 4.8 cho thấy, trong 6 tháng thực tập tại cơ sở em đã thực hiện được các công việc: Cho lợn con uống cầu trùng là 1626 con; truyền dịch cho lợn mẹ (Glucose) là 7 con; xuất 125 lợn con và thụ tinh nhân tạo là 71 con, đều đạt 100%. Qua những công việc trên đã giúp em học được nhiều kinh nghiệm trong chăm sóc lợn con cũng như tay nghề và các thao tác kĩ thuật. Từ đó giúp em tự tin hơn vào bản thân và hoàn thành tốt nhiệm vụ.
  56. 49 PHẦN 5 KẾT LUẬN VÀ ÐỀ NGHỊ 5.1. Kết luận Từ những kết quả nghiên cứu được, em rút ra một số kết luận sau: 1. Trại có quy trình chăn nuôi các loại lợn khoa học, hợp lý, được thực hiện nghiêm túc. Tỷ lệ nuôi sống của lợn con qua các tuần tuổi đạt từ 98,26 – 99,78%. Lợn con trong thời kỳ theo mẹ sinh trưởng tốt, lúc 21 ngày tuổi đạt khối lượng bình quân là 6 kg/con. 2. Trại đã xây dựng thực hiện tốt quy trình vệ sinh, phòng bệnh, đảm bảo khu chăn nuôi và chuồng trại luôn sạch sẽ; 100% lợn con được tiêm phòng 3 loại bệnh truyền nhiễm. 3. Kết quả chẩn đoán bệnh cho thấy, lợn con theo mẹ của trại có tỷ lệ mắc bệnh phân trắng là 13,77%, mắc bệnh viêm khớp là 1,67% và mắc bệnh viêm phổi là 0,80%. 4. Sử dụng phác đồ điều trị của trại để điều trị bệnh phân trắng lợn con cho tỷ lệ bệnh khỏi là 92,85%; điều trị bệnh viêm khớp cho tỷ lệ khỏi bệnh là 100% và điều trị bệnh viêm phổi cho tỷ lệ khỏi là 84,61%. 5.2. Ðề nghị Kết thúc đợt thực tập tại trại em đưa ra một số kiến nghị nhằm nâng cao năng suất chăn nuôi cũng như giảm tỷ lệ mắc bệnh trên lợn con theo mẹ như sau: - Cần bổ sung thêm công nhân và kỹ sư hỗ trợ công việc được hoàn thành tốt hơn. - Sửa chữa và thay thế các thiết bị hỏng trong các chuồng. - Công tác vệ sinh thú y cần được nâng cao hơn nữa, đặc biệt nâng cao tinh thần trách nhiệm của công nhân và sinh viên thực tập trong việc vệ sinh chuồng trại và chăm sóc cho lợn mẹ cũng như lợn con. - Cần có kỹ thuật chuyên theo dõi, phát hiện và điều trị bệnh cho lợn con nhằm đem lại kết quả điều trị cao nhất. - Cần tập cho lợn con ăn sớm đặc biệt là trong chăn nuôi tập trung.
  57. 50 TÀI LIỆU THAM KHẢO I. Tài liệu trong nước 1. Trần Thị Dân (2008), Sinh sản heo nái và sinh lý heo con, Nxb Nông nghiệp, TP. Hồ Chí Minh. 2. Đoàn Thị Kim Dung (2004), Sự biến động của một số vi khuẩn hiếu khí đường ruột, vai trò của E. coli trong hội chứng tiêu chảy của lợn con, các phác đồ điều trị, Luận án tiến sỹ Nông nghiệp, Hà Nội. 3. Đào Trọng Đạt, Phan Thanh Phượng, Lê Ngọc Mỹ (1995), Bệnh đường tiêu hóa ở lợn, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 4. Hội chăn nuôi Việt Nam (2002), Cẩm nang chăn nuôi gia súc gia cầm, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 5. Phạm Khắc Hiếu, Lê Thị Ngọc Diệp, Trần Thị Lộc (1998), Stress trong đời sống con người và vật nuôi, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 6. Nguyễn Bá Hiên (2001), Một số vi khuẩn đường ruột thường gặp và biến động của chúng ở gia súc khỏe mạnh và bị tiêu chảy nuôi tại vùng ngoại thành Hà Nội, điều trị thử nghiệm, Luận án tiến sỹ Nông nghiệp, Hà Nội. 7. Duy Hùng (2011), “Bệnh viêm vú ở lợn nái”, Báo nông nghiệp Việt Nam, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 8. Nguyễn Thị Lan, Nguyễn Thị Hoa (2012) , “Chẩn đoán hội chứng rối loạn hô hấp và sinh sản (PRRS) ở lợn con cai sữa bằng kĩ thuật bệnh lý và kĩ thuật RT- PCR”, Tạp chí Khoa học và phát triển, Học viện Nông nghiệp Việt Nam. 9.Phạm Sĩ Lăng, Nguyễn Bá Hiên, Trần Đức Hạnh ( 2013), Bệnh của lợn tại Việt Nam, trang 151. 10. Trương Lăng (2000), Hướng dẫn điều trị các bệnh lợn, Nxb Đà Nẵng II. 11. Phan Địch Lân, Phạm Sỹ Lăng, Trương Văn Dung (1997), Bệnh phổ biến ở lợn và biện pháp phòng trị, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội
  58. 51 12. Hồ Văn Nam, Nguyễn Thị Đào Nguyên, Phạm Ngọc Thạch (1997), Giáo trình bệnh nội khoa gia súc, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 13. Trần Văn Phùng, Từ Quang Hiển, Trần Thanh Vân, Hà Thị Hảo (2004), Giáo trình chăn nuôi lợn, Nxb. Nông nghiệp, Hà Nội 14. Vũ Đình Tôn, Trần Thị Thuận (2006), Giáo trình chăn nuôi lợn, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 15. Nguyễn Trung Tiến, Vũ Thị Thu Hằng, Huỳnh Thị Mỹ Lệ, Nguyễn Bá Hiên, Lê Văn Phan (2015), “Một số đặc điểm phân tử của virus gây ra dịch tiêu chảy cấp ở lợn (Porcine Epidemic Diarrhea- PED) tại Quảng Trị, Thái Nguyên và Thái Bình từ năm 2013- 2014”, Tạp chí Khoa học và phát triển, Học viện Nông nghiệp Việt Nam. 16. Nguyễn Như Thanh, Nguyễn Bá Hiên, Trần Lan Hương (2004), Giáo trình Vi sinh vật thú y, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 17. Hoàng Toàn Thắng, Cao Văn (2005), Giáo trình sinh lý học động vật, Nxb Nông nghiệp Hà Nội. 18. Nguyễn Văn Thiện (2008), Phương pháp nghiên cứu trong chăn nuôi thú y, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. II. Tài liệu nước ngoài 19. Glawisching E., Bacher H. (1992), The Efficacy of E costat on E.coli infected weaning pig, 12th IPVS Congress, August. 20. Soko. A., Mikula. I., Sova. C., (9/1981), Neonatal E.coli – infecie laboratoriana diagnostina a prevencia UOLV – Kosice. 21. Smith H.W., Halls S., (1976), Observations by the ligated segment and oral inoculation methods on Escherichia coli infections in pigs, calves, lamb and rabbits Journal of Pathology and Bacteriology 93, 499.
  59. 52 PHỤC LỤC HÌNH ẢNH MỘT SỐ HÌNH ẢNH TRONG QUÁ TRÌNH THỰC TẬP Hình 1: Cho lợn con uống cầu trùng Hình 2: Thiến lợn đực Hình 3: Bấm số tai cho lợn con Hình 4: Đỡ đẻ
  60. 53 Hình 5: Tiêm vắc-xin cho lợn con Hình 6: Phối lợn nái Hình 7: Lợn con bị tiêu chảy Hình 8: Lợn con sơ sinh
  61. 54 Hình 9: Kháng sinh Bimoxyl LA Hình 10: Thuốc cầu trùng COX-SOL Hình 11: vắc-xin Res-vac Hình 12: Thuốc trị viêm phổi