Tóm tắt luận án Cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước giữa cơ quan thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp ở Việt Nam

pdf 27 trang thiennha21 16/04/2022 2680
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tóm tắt luận án Cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước giữa cơ quan thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdftom_tat_luan_an_co_che_phap_ly_kiem_soat_quyen_luc_nha_nuoc.pdf

Nội dung text: Tóm tắt luận án Cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước giữa cơ quan thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp ở Việt Nam

  1. HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH PHẠM HỒNG PHONG CƠ CHẾ PHÁP LÝ KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC GIỮA CƠ QUAN THỰC HIỆN QUYỀN HÀNH PHÁP VÀ QUYỀN TƯ PHÁP Ở VIỆT NAM TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT Mã số: 9 38 01 06 HÀ NỘI - 2021
  2. Công trình được hoàn thành tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh Người hướng dẫn khoa học: GS,TS. Trần Ngọc Đường Phản biện 1: Phản biện 2: Phản biện 3: Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học viện họp tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh Vào hồi giờ ngày tháng năm 20 Có thể tìm hiểu luận án tại: Thư viện Quốc gia và Thư viện Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
  3. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Quyền lực nhà nước (QLNN) là thuộc tính của nhà nước, khẳng định ưu thế và tầm quan trọng của nhà nước so với các tổ chức khác của hệ thống chính trị trong quản lý xã hội. Tuy nhiên, QLNN bên cạnh khả năng vượt trội bởi tính hướng đích hiệu quả, sức mạnh bắt buộc trong điều chỉnh các quan hệ xã hội để thiết lập, duy trì trật tự xã hội thì còn có yếu tố cấu thành khách quan gắn liền với sự tồn tại và phát triển của nó là sự tha hóa của QLNN. Sự tha hóa của QLNN luôn có nguy cơ đe dọa phá hủy tất cả các thành quả của chính nó, thông qua việc phá vỡ các giới hạn trật tự, nền tự do dân chủ và thành tựu nhân quyền mà QLNN tạo ra. Ở nước ta, một trong những nguyên tắc nền tảng của công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN) của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân là nguyên tắc “Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân”. Nguyên tắc này đã được ghi nhận trong các Cương lĩnh của Đảng Cộng sản Việt Nam và được thể chế hóa bằng quy định của Hiến pháp và pháp luật. Nguyên tắc “Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân” xuất phát từ bản chất QLNN có nguồn gốc từ Nhân dân. Để bảo đảm cho QLNN không bị lũng đoạn, các cơ quan nhà nước không thể lạm dụng quyền lực được giao, cần phải xây dựng một cơ chế kiểm soát việc thực hiện QLNN một cách minh bạch và chặt chẽ. Đây cũng là đòi hỏi tất yếu của nguyên tắc tất cả QLNN thuộc về Nhân dân, bảo đảm ngăn chặn sự lạm dụng QLNN, xâm phạm chủ quyền nhân dân, bảo đảm cho Nhân dân luôn ở vị thế là chủ thể tối cao của QLNN. Hiến định vấn đề kiểm soát QLNN là cả một quá trình. Nếu như Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992 chưa đề cập đến sự cần thiết phải phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong thực hiện QLNN; Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) mới khẳng định QLNN là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, thì đến Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung nguyên tắc kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Sự thay đổi nhận thức trong tổ chức và thực hiện QLNN nêu trên xuất phát từ những thay đổi quan trọng trong quan điểm của Đảng. Nếu như Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
  4. 2 được Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII thông qua mới khẳng định: “Nhà nước Việt Nam thống nhất ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, với sự phân công rành mạch ba quyền đó”, thì Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã khẳng định: Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Quyền lực nhà nước là thống nhất; có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Trong cơ chế kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện QLNN thì cơ chế kiểm soát giữa cơ quan thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp đóng vai trò quan trọng, bởi vì: Quyền hành pháp với chức năng nhiệm vụ của mình, hoạch định chính sách và tổ chức thi hành pháp luật trong mọi lĩnh vực của cuộc sống xã hội, có tác động đến quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Các chính sách do quyền hành pháp hoạch định được chuyển hóa thành quy định của pháp luật để đưa vào cuộc sống xã hội. Tuy nhiên, pháp luật không bao giờ có thể dự liệu được tất cả mọi tình huống phát sinh trong thực tiễn của đời sống. Vì vậy, về nguyên tắc, trong quá trình tổ chức thực hiện pháp luật, quyền hành pháp phải thực hiện một cách chủ động, sáng tạo để thích ứng kịp thời với những diễn biến đa dạng và sinh động của thực tiễn đời sống. Tuy nhiên, để bảo đảm cho việc thực hiện quyền hành pháp không đi quá giới hạn, xâm phạm quyền con người, quyền công dân, lợi ích hợp pháp của các chủ thể khác trong xã hội, đòi hỏi cần xây dựng cơ chế ngăn cản sự lạm quyền của cơ quan hành pháp. Trong đó, cơ quan tư pháp phải đóng vai trò là chốt chặn, ngăn cản sự lạm quyền của cơ quan hành pháp. Nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân của cơ quan tư pháp được thực hiện thông qua chức năng xét xử của tòa án. Tòa án căn cứ vào quy định của pháp luật, thực hiện chức năng xét xử. Tức là, cơ quan tư pháp, căn cứ vào chính sách do cơ quan hành pháp hoạch định được chuyển hóa thành quy định của pháp luật để thực hiện chức năng của mình. Để bảo vệ chính sách đã được luật hóa, cơ quan hành pháp cần kiểm soát hoạt động của cơ quan tư pháp. Tuy nhiên, do tính chất đặc thù của quyền tư pháp, cơ quan hành pháp không thể tác động trực tiếp vào hoạt động xét xử của tòa
  5. 3 án, mà thông qua khả năng tác động đến tổ chức nhân sự của tòa án, bảo đảm việc lựa chọn thẩm phán của tòa án phải đáp ứng được các yêu cầu về phẩm chất đạo đức, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. Để bảo đảm cho việc kiểm soát QLNN giữa cơ quan thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp có hiệu lực và hiệu quả trên thực tế, trước hết, đòi hỏi cần xây dựng cơ chế pháp lý kiểm soát hoạt động thực hiện QLNN giữa cơ quan thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp một cách minh bạch, chặt chẽ và khoa học. Tuy nhiên, kể từ khi Hiến pháp năm 2013 được thông qua, không có nhiều thay đổi trong các quy định liên quan đến kiểm soát QLNN giữa cơ quan thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp. Trên thực tế, cơ chế pháp lý về kiểm soát QLNN giữa cơ quan thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp cũng chưa được làm rõ. Chính điều này dẫn đến hiệu quả thấp của cơ chế pháp lý kiểm soát QLNN nói chung, kiểm soát QLNN giữa các cơ quan thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp nói riêng. Trong bối cảnh đó, việc nghiên cứu đề tài: “Cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước giữa cơ quan thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp ở Việt Nam” có ý nghĩa cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn. 2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án 2.1. Mục đích nghiên cứu của luận án Mục đích của luận án là nghiên cứu, làm sáng tỏ cơ chế pháp lý về kiểm soát QLNN giữa cơ quan thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp; đồng thời, nghiên cứu, xây dựng luận cứ thực tiễn cho việc đề xuất giải pháp hoàn thiện cơ chế pháp lý về kiểm soát QLNN giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp ở Việt Nam. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận án - Nghiên cứu cơ sở lý luận về cơ chế pháp lý về kiểm soát QLNN giữa cơ quan thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp trên các phương diện làm rõ khái niệm, đặc điểm, nội dung cơ chế pháp lý về kiểm soát QLNN giữa cơ quan thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp. - Nghiên cứu vận dụng lý luận trong và ngoài nước về cơ chế pháp lý kiểm soát QLNN giữa cơ quan thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp để làm sáng rõ cơ sở lý luận cơ chế pháp lý về kiểm soát QLNN giữa cơ quan thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp ở nước ta. - Phân tích, đánh giá thực trạng cơ chế pháp lý về kiểm soát QLNN giữa cơ quan thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp ở nước ta hiện
  6. 4 nay trên các phương diện những kết quả đạt được, hạn chế, bất cập, chỉ ra nguyên nhân của hạn chế, bất cập. - Đề xuất những quan điểm, luận giải tính khả thi của các giải pháp hoàn thiện cơ chế pháp lý về kiểm soát QLNN giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp ở nước ta hiện nay. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án 3.1. Đối tượng nghiên cứu của luận án Đối tượng nghiên cứu của luận án bao gồm các quan điểm lý luận khoa học chứa đựng những tư tưởng, quan điểm về tổ chức QLNN; cơ chế kiểm soát QLNN nói chung, cơ chế pháp lý về kiểm soát QLNN giữa cơ quan thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp nói riêng; các quy định của Hiến pháp và luật về tổ chức cơ quan thực hiện quyền hành pháp, quyền tư pháp; thực tiễn kiểm soát quyền lực giữa cơ quan thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp. 3.2. Phạm vi nghiên cứu của luận án - Về nội dung nghiên cứu: Luận án nghiên cứu những vấn đề liên quan đến việc xác định cơ sở lý luận về cơ chế pháp lý kiểm soát QLNN giữa cơ quan thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp; thực tiễn cơ chế pháp lý về kiểm soát QLNN giữa cơ quan thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp và hoàn thiện cơ chế này; đồng thời, có nghiên cứu so sánh cơ chế pháp lý về kiểm soát QLNN giữa cơ quan thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp ở một số nước trên thế giới để rút ra những giá trị tham khảo cho Việt Nam. - Về phạm vi thời gian: Luận án tập trung nghiên cứu cơ chế pháp lý về kiểm soát QLNN giữa cơ quan thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp từ khi Hiến pháp năm 2013 có hiệu lực đến nay, có liên hệ với quy định của các Hiến pháp trước đó. 4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận án 4.1. Phương pháp luận nghiên cứu của luận án Việc nghiên cứu đề tài luận án được tiếp cận dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam về nhà nước và pháp luật; quan điểm của Đảng về tổ chức, kiểm soát QLNN, tổ chức bộ máy nhà nước; các học thuyết, lý thuyết triết học, luật học, xã hội học chứa đựng những tư tưởng, quan điểm về nền dân chủ pháp quyền, về tổ chức QLNN, tổ chức bộ máy nhà
  7. 5 nước; các quan điểm, chủ trương cải cách bộ máy nhà nước, đổi mới đất nước của Đảng. 4.2. Phương pháp nghiên cứu của luận án Luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể gồm: Phương pháp nghiên cứu tài liệu thứ cấp, phân tích, tổng hợp, đánh giá, tổng kết thực tiễn, so sánh và dự báo. 5. Những đóng góp mới của luận án - Luận án kế thừa, tổng hợp các công trình đi trước và bổ sung vào hệ thống lý luận, các khái niệm về cơ chế kiểm soát QLNN; cơ chế pháp lý về kiểm soát QLNN giữa cơ quan thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp; các lý thuyết liên quan đến tổ chức thực hiện QLNN, cơ chế kiểm soát QLNN nói chung, cơ chế pháp lý về kiểm soát QLNN giữa cơ quan thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp nói riêng phù hợp với điều kiện, tình hình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam. - Luận án chỉ ra và phân tích đặc điểm, cơ cấu, vai trò, các yếu tố cấu thành và mối quan hệ giữa các yếu tố cấu thành cơ chế pháp lý về kiểm soát QLNN giữa cơ quan thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp. - Luận án đã phân tích, đánh giá một cách đồng bộ, chi tiết thực trạng cơ chế pháp lý về kiểm soát QLNN giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp ở Việt Nam từ khi Hiến pháp năm 2013 có hiệu lực cho đến nay. Từ đó, chỉ rõ những kết quả đạt được, hạn chế, bất cập và nguyên nhân của thực trạng này. - Luận án đã xây dựng được hệ thống những quan điểm và giải pháp hoàn thiện cơ chế pháp lý về kiểm soát QLNN giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp ở nước ta hiện nay. Những kiến nghị này có ý nghĩa cho hoạt động lập pháp, thực thi pháp luật và khoa học pháp lý. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án 6.1. Ý nghĩa lý luận của luận án Luận án đã nghiên cứu, làm sáng tỏ cơ sở lý luận về cơ chế pháp lý kiểm soát QLNN giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp ở nước ta; góp phần làm phong phú thêm lý luận về tổ chức thực hiện QLNN, về kiểm soát QLNN, cơ chế pháp lý về kiểm soát QLNN giữa các cơ quan thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp.
  8. 6 6.2. Ý nghĩa thực tiễn của luận án Kết quả nghiên cứu của luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo hữu ích cho các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp trong quá trình xây dựng, hoàn thiện Bộ máy nhà nước ta, hướng tới mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân; đồng thời, cũng là tài liệu tham khảo bổ ích cho việc giảng dạy, học tập và nghiên cứu trong lĩnh vực khoa học pháp lý. 7. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận án gồm 4 chương, 11 tiết. Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU 1.1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN Tác giả chia các công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài thành ba nhóm chính; qua đó đánh giá về việc nghiên cứu các vấn đề có liên quan đến nội dung luận án, bao gồm: Các công trình nghiên cứu về quyền lực nhà nước, quyền hành pháp, quyền tư pháp; các công trình nghiên cứu về kiểm soát quyền lực nhà nước, kiểm soát quyền hành pháp, quyền tư pháp; các công trình nghiên cứu về cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước, kiểm soát quyền hành pháp, quyền tư pháp. 1.2. ĐÁNH GIÁ CHUNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU 1.2.1. Đánh giá chung về tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Qua khái quát nội dung các công trình nghiên cứu trong nước và ngoài nước cho thấy, có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề QLNN, kiểm soát QLNN, cơ chế kiểm soát QLNN. Đánh giá khái quát về các công trình nghiên cứu có liên quan, tác giả chỉ rõ những vấn đề đã được nghiên cứu, những vấn đề còn có các ý kiến khác nhau, những vấn đề chưa được nghiên cứu. Tất cả các công trình nghiên cứu trước đây đều chưa nghiên cứu một cách cơ bản, toàn diện về đề tài “Cơ chế pháp lý về kiểm soát quyền lực nhà
  9. 7 nước giữa cơ quan thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp ở Việt Nam”. Như vậy, đây là một đề tài mới, không trùng lặp với đề tài trước đó đã được nghiên cứu. 1.2.2. Những vấn đề đặt ra trong nghiên cứu Trong phạm vi luận án tiến sĩ luật học, các vấn đề mà luận án cần tiếp tục nghiên cứu bao gồm: Khái niệm, nội dung quyền hành pháp; khái niệm, nội dung quyền tư pháp; phân biệt giới hạn giữa quyền hành pháp và quyền hành chính. Khái niệm cơ chế pháp lý về kiểm soát QLNN giữa cơ quan thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp; làm rõ sự khác nhau giữa cơ chế pháp lý về kiểm soát QLNN giữa cơ quan thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp với các cơ chế kiểm soát QLNN khác. Nội dung và những yếu tố cấu thành cơ chế pháp lý về kiểm soát QLNN giữa cơ quan thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp. Phương thức vận hành của cơ chế pháp lý về kiểm soát QLNN giữa cơ quan thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp. Thể chế, thiết chế cấu thành cơ chế pháp lý về kiểm soát QLNN giữa cơ quan thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp. Giả thuyết khoa học: Cơ chế pháp lý kiểm soát QLNN giữa cơ quan thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp đóng vai trò quan trọng trong kiểm soát QLNN. Tuy nhiên, trên thực tế, cơ chế pháp lý này chưa phát huy đúng vai trò trong kiểm soát QLNN. Việc hoàn thiện cơ chế pháp lý về kiểm soát QLNN giữa cơ quan thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp sẽ góp phần nâng cao hiệu quả kiểm soát QLNN nói chung, kiểm soát việc thực hiện các quyền hành pháp, tư pháp nói riêng, góp phần bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Câu hỏi nghiên cứu: 1) Cơ chế pháp lý về kiểm soát QLNN giữa cơ quan thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp gồm có nội dung gì? Vai trò của cơ chế này trong kiểm soát QLNN, bảo vệ quyền con người, quyền công dân? 2) Quy định của pháp luật về cơ chế pháp lý kiểm soát QLNN giữa cơ quan thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp ở nước ta hiện nay đã đạt được kết quả gì và còn những hạn chế chủ yếu nào? Đâu là những nguyên nhân chủ yếu của các hạn chế? 3) Cần thực hiện những giải pháp nào để hoàn thiện cơ chế pháp lý về kiểm soát QLNN giữa cơ quan thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp ở nước ta hiện nay?
  10. 8 Tiểu kết chương 1 Với mục tiêu tìm kiếm mô hình tổ chức, kiểm soát QLNN một cách hiệu lực, hiệu quả, để thiết lập một xã hội dân chủ, văn minh, bộ máy nhà nước hoạt động tuân thủ pháp luật, ghi nhận và bảo đảm quyền con người, thì đề tài kiểm soát QLNN rất hấp dẫn đối với các nhà khoa học ở nhiều lĩnh vực trong và ngoài nước. Qua khảo cứu đã cho thấy, liên quan đến vấn đề này, đã có nhiều công trình nghiên cứu trong nước và quốc tế đề cập ở những góc độ khác nhau. Tuy nhiên, từ thực tiễn Việt Nam, với nhiều điểm mới quan trọng, trong đó có nội dung yêu cầu kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp thì việc nghiên cứu chuyên sâu về cơ chế pháp lý kiểm soát QLNN giữa cơ quan thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp theo tinh thần của Hiến pháp năm 2013 còn là vấn đề mới trong bối cảnh xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân ở nước ta hiện nay. Các kết quả nghiên cứu về QLNN, kiểm soát QLNN của các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước là nền tảng, chất liệu vô cùng quý báu cho tác giả luận án khi triển khai nghiên cứu đề tài - một công trình nghiên cứu chuyên sâu, có hệ thống về vấn đề hoàn thiện cơ chế pháp lý về kiểm soát QLNN giữa cơ quan thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp ở Việt Nam hiện nay. Chương 2 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CƠ CHẾ PHÁP LÝ KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC GIỮA CƠ QUAN THỰC HIỆN QUYỀN HÀNH PHÁP VÀ QUYỀN TƯ PHÁP 2.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN, ĐẶC ĐIỂM, CƠ CẤU, VAI TRÒ CƠ CHẾ PHÁP LÝ KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC GIỮA CƠ QUAN THỰC HIỆN QUYỀN HÀNH PHÁP VÀ QUYỀN TƯ PHÁP 2.1.1. Khái niệm quyền hành pháp, quyền tư pháp; nội dung, đặc điểm, vai trò của quyền hành pháp, quyền tư pháp 2.1.1.1. Khái niệm quyền hành pháp, quyền tư pháp Quyền hành pháp là một bộ phận hợp thành của QLNN, có nhiệm vụ xây dựng và thực thi chính sách, quản lý, điều hành đất nước trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, với nội dung trọng tâm là hoạch định và điều hành chính sách quốc gia; được thực hiện bởi các cơ quan trong bộ máy nhà nước.
  11. 9 Quyền tư pháp là một bộ phận hợp thành của QLNN, có nhiệm vụ duy trì, bảo vệ công lý, trật tự pháp luật, do Tòa án thực hiện với hoạt động trọng tâm là hoạt động xét xử. 2.1.1.2. Nội dung, đặc điểm, vai trò của quyền hành pháp - Nội dung của quyền hành pháp gồm quyền đề xuất, xây dựng chính sách và trình dự án luật; quyền lập quy và quyền tổ chức thi hành chính sách, pháp luật. - Đặc điểm của quyền hành pháp gồm: Quyền hành pháp có tính độc lập tương đối với các nhánh QLNN khác song vẫn trong khuôn khổ kiểm soát, đối trọng với các nhánh quyền lực khác, nhằm đảm bảo cho quyền lực được thực hiện một cách thống nhất, tránh sự lạm dụng quyền lực. Quyền hành pháp đóng vai trò quan trọng nhất trong việc hoạch định, tổ chức và thực thi chính sách và pháp luật; thông qua chủ thể thực hiện là hệ thống cơ quan thực hiện quyền hành pháp. Hoạt động của quyền hành pháp có tính liên tục, tác động tới nhiều đối tượng, trên phạm vi rộng khắp lãnh thổ quốc gia; thể hiện tập trung và rõ nét nhất QLNN đối với các chủ thể. - Vai trò của quyền hành pháp: Đối trọng, kiềm chế, kiểm soát, cân bằng, đảm bảo tính thống nhất của quyền lực và chống lạm quyền; kiến tạo, duy trì trật tự, an ninh, an toàn thúc đẩy đời sống xã hội phát triển; tạo lập môi trường dân chủ, phát triển; bảo đảm và thực thi quyền con người, quyền công dân và giải phóng mọi nguồn lực trong xã hội cho sự phát triển của đất nước; khởi xướng, hoạch định chính sách quốc gia; quyền hành pháp điều hành (tổ chức thực hiện) các chính sách, pháp luật 2.1.1.3. Nội dung, đặc điểm, vai trò của quyền tư pháp - Nội dung của quyền tư pháp gồm: Quyền xét xử nhằm giải quyết các tranh chấp khi xảy ra mâu thuẫn, xung đột trong việc thực hiện quyền, nghĩa vụ của các chủ thể khi tham gia các mối quan hệ xã hội nhằm xác định lẽ phải, đảm bảo công lý, công bằng xã hội, đồng thời giám sát, đảm bảo thực thi các phán quyết của mình trên thực tế và xét xử các hành vi vi phạm pháp luật có đủ yếu tố cấu thành tội phạm theo truy tố của cơ quan thực hiện quyền hành pháp; xét xử các quyết định, hành vi vi phạm hành chính theo đề nghị (khởi kiện) của các cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân; phán xét, phân xử tranh chấp về thẩm quyền giữa cơ quan hành pháp và cơ quan lập pháp. Xem xét, tuyên bố một đạo luật của cơ quan lập pháp là vi hiến hoặc văn bản pháp quy, quyết định, hành vi của cơ quan hành pháp, người có thẩm
  12. 10 quyền trong cơ quan hành pháp là trái luật và hủy bỏ hoặc tuyên bố văn bản pháp quy, quyết định hay hành vi đó là vô hiệu. Giải thích luật nhằm đảm bảo các quy định của pháp luật được hiểu và thực hiện đúng tinh thần của nó; tạo ra án lệ làm căn cứ cho việc xét xử nhằm đảm bảo mọi tranh chấp, mọi hành vi vi phạm đều được xét xử một cách công minh, khách quan, hướng tới công lý, công bằng. Giám sát đối với những hoạt động khôi phục quan hệ xã hội bị xâm hại trở lại nguyên trạng hoặc khắc phục những thiệt hại mà hành vi vi phạm pháp luật đã gây ra. - Đặc điểm của quyền tư pháp: Nội dung hoạt động chủ yếu (xét xử) của quyền tư pháp có tính độc lập rõ nét trong phân chia cơ cấu quyền lực giữa quyền lập pháp, quyền hành pháp, quyền tư pháp; kết quả của việc thực hiện quyền tư pháp là mệnh lệnh của QLNN, có giá trị bắt buộc các chủ thể khác phải nghiêm chỉnh chấp hành; kết quả hoạt động của quyền tư pháp chỉ được công nhận và có giá trị bắt buộc đối với các chủ thể khác khi tuân thủ đầy đủ, nghiêm chỉnh các quy định về trình tự, thủ tục trong tiến hành các hoạt động; quyền tư pháp được thực hiện bởi hệ thống cơ quan nhất định - cơ quan thực hiện quyền tư pháp. - Vai trò của quyền tư pháp: Bảo vệ hiến pháp, bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ, bảo vệ lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, Nhà nước và cá nhân. Tham gia làm luật thông qua việc tạo ra các án lệ phục vụ cho việc xét xử của chính cơ quan thực hiện quyền tư pháp. Bên cạnh đó, quyền tư pháp đảm bảo tính thống nhất của pháp luật thông qua việc giải thích luật, áp dụng pháp luật trong giải quyết các tranh chấp giữa cơ quan, tổ chức với cơ quan, tổ chức hoặc giữa cơ quan, tổ chức với cá nhân hoặc giữa cá nhân với cá nhân khi xét xử các tranh chấp trong mối quan hệ dân sự, kinh tế, hình sự, hành chính, hôn nhân, gia đình các tranh chấp khác. 2.1.2. Khái niệm, đặc điểm, cơ cấu, vai trò cơ chế pháp lý về kiểm soát quyền lực nhà nước giữa cơ quan thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp 2.1.2.1. Khái niệm cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước giữa cơ quan thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp Cơ chế pháp lý kiểm soát QLNN giữa cơ quan thực hiện quyền hành pháp và cơ quan thực hiện quyền tư pháp là tổng thể các thiết chế và thể chế pháp lý trong điều kiện bảo đảm phù hợp, tiến hành kiểm soát lẫn nhau và
  13. 11 kiểm soát bên trong mỗi quyền, nhằm đảm bảo cho cơ quan thực hiện quyền hành pháp, quyền tư pháp làm đúng, làm đầy đủ nhiệm vụ, quyền hạn của mình được Hiến pháp, luật quy định, phòng, chống sự tha hóa quyền lực trong mỗi quyền. 2.1.2.2. Đặc điểm của cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực giữa cơ quan thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp Cơ chế kiểm soát QLNN giữa cơ quan thực hiện quyền hành pháp và cơ quan thực hiện quyền tư pháp bao gồm tổng thể các thể chế, thiết chế có thẩm quyền kiểm soát, trong điều kiện đảm bảo phù hợp; đề cao tính độc lập của quyền tư pháp, không can thiệp vào quyền tư pháp và tính năng động, sáng tạo của quyền hành pháp; đề cao vai trò của cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước bên trong mỗi quyền. 2.1.2.3. Cơ cấu cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực giữa cơ quan thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp Cơ cấu cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực giữa cơ quan thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp gồm: Các thể chế pháp lý kiểm soát QLNN giữa cơ quan thực hiện quyền hành pháp và cơ quan thực hiện quyền tư pháp; Các thiết chế pháp lý kiểm soát việc thực hiện QLNN (giữa cơ quan thực hiện quyền hành pháp và cơ quan thực hiện quyền tư pháp); Các điều kiện bảo đảm cơ chế pháp lý kiểm soát QLNN giữa cơ quan thực hiện quyền hành pháp và cơ quan thực hiện quyền tư pháp. 2.1.2.4. Vai trò của cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước giữa cơ quan thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp Cơ chế pháp lý kiểm soát QLNN giữa cơ quan thực hiện quyền hành pháp và cơ quan thực hiện quyền tư pháp là công cụ, phương tiện góp phần đảm bảo cho hoạt động hành pháp và hoạt động tư pháp thượng tôn pháp luật, phòng, chống sự lạm quyền trong mỗi quyền; góp phần bảo vệ quyền con người, quyền công dân trong tổ chức và hoạt động của cơ quan thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp; đảm bảo cho tổ chức và hoạt động của mỗi quyền được kiểm soát chặt chẽ, thống nhất; là đảm bảo để quyền tư pháp độc lập và tuân theo pháp luật; là phương tiện góp phần làm trong sạch và xây dựng bộ máy nhà nước, tăng cường hiệu lực, hiệu quả trong thực hiện quyền hành pháp.
  14. 12 2.2. CÁC YẾU TỐ CẤU THÀNH VÀ MỐI QUAN HỆ GIỮA CÁC YẾU TỐ CẤU THÀNH CƠ CHẾ PHÁP LÝ KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC GIỮA CƠ QUAN THỰC HIỆN QUYỀN HÀNH PHÁP VÀ QUYỀN TƯ PHÁP 2.2.1. Các yếu tố cấu thành cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước giữa cơ quan thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp Các yếu tố cấu thành cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước giữa cơ quan thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp gồm thể chế pháp lý, thiết chế pháp lý và điều kiện bảo đảm cơ chế pháp lý kiểm soát QLNN giữa cơ quan thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp. 2.2.2. Mối quan hệ giữa các yếu tố cấu thành cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước giữa cơ quan thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp Thể chế pháp lý là cơ sở để hình thành, củng cố thiết chế pháp lý kiểm soát QLNN giữa cơ quan thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp; thiết chế pháp lý với tổ chức, hoạt động của nó là sự hiện thực hóa hiệu lực, hiệu quả của thể chế pháp lý kiểm soát QLNN giữa cơ quan thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp; điều kiện bảo đảm là yếu tố quyết định việc vận hành thể chế pháp lý, thiết chế pháp lý có hiệu quả, đúng mục đích trong việc kiểm soát QLNN. 2.3. CƠ CHẾ PHÁP LÝ KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC GIỮA CƠ QUAN THỰC HIỆN QUYỀN HÀNH PHÁP VÀ QUYỀN TƯ PHÁP Ở MỘT SỐ QUỐC GIA VÀ GIÁ TRỊ THAM KHẢO CHO VIỆT NAM 2.3.1. Cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước giữa cơ quan thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp ở một số quốc gia Kiểm soát QLNN, trong đó có kiểm soát giữa hai nhánh quyền lực hành pháp, tư pháp là nội dung cơ bản của nhà nước pháp quyền. Tuy nhiên, mỗi quốc gia khác nhau, tùy thuộc và hình thức tổ chức nhà nước, chế độ chính trị khác nhau có cơ chế kiểm soát quyền lực khác nhau. Tác giả trình bày về vấn đề cơ chế pháp lý về kiểm soát quyền lực nhà nước giữa cơ quan thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp ở những quốc gia theo mô hình cộng hòa tổng thống, mô hình chính thể cộng hòa đại nghị và theo truyền thống pháp luật châu Âu lục địa. 2.3.2. Giá trị tham khảo cho Việt Nam Việc kiểm soát quyền lực giữa hai loại cơ quan thực hiện quyền lập pháp và cơ quan thực hiện quyền tư pháp nhìn chung đều biểu hiện dưới hai
  15. 13 giác độ là kiểm soát lẫn nhau và cơ chế tự kiểm soát. Những kinh nghiệm và thực tiễn thực hiện việc kiểm soát QLNN của một số nước được nghiên cứu có giá trị tham khảo to lớn đối với Việt Nam. Tiểu kết chương 2 Chương 2 đã làm rõ cơ sở lý luận về cơ chế pháp lý kiểm soát QLNN giữa cơ quan thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp; thông qua việc nghiên cứu, giải thích về các vấn đề sau: Xây dựng và làm rõ nội hàm các khái niệm cơ bản cũng như các vấn đề lý luận có liên quan, bao gồm: Khái niệm quyền hành pháp, quyền tư pháp; cơ quan thực hiện quyền hành pháp, quyền tư pháp; vai trò, đặc điểm và nội dung hoạt động của quyền hành pháp, quyền tư pháp; khái niệm cơ chế pháp lý kiểm soát QLNN giữa cơ quan thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp; đặc điểm, vai trò, các yếu tố cấu thành cơ chế pháp lý kiểm soát QLNN giữa cơ quan thực hiện quyền hành pháp và cơ quan thực hiện quyền tư pháp. Bên cạnh đó, tác giả còn phân tích, làm rõ cơ chế pháp lý về kiểm soát QLNN giữa cơ quan thực hiện quyền hành pháp và tư pháp ở một số quốc gia và bài học kinh nghiệm rút ra. Những nội dung cơ bản của chương 2 là nền tảng lý luận để tác giả dựa vào đó đánh giá thực trạng và đề xuất các giải pháp ở chương 3 và chương 4. Chương 3 SỰ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN VÀ THỰC TRẠNG CƠ CHẾ PHÁP LÝ VỀ KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC GIỮA CƠ QUAN THỰC HIỆN QUYỀN HÀNH PHÁP VÀ QUYỀN TƯ PHÁP Ở VIỆT NAM 3.1. KHÁI QUÁT SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CƠ CHẾ PHÁP LÝ VỀ KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC GIỮA CƠ QUAN THỰC HIỆN QUYỀN HÀNH PHÁP VÀ QUYỀN TƯ PHÁP Ở VIỆT NAM 3.1.1. Quy định của Hiến pháp năm 1946 về kiểm soát quyền lực nhà nước giữa cơ quan thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp Hiến pháp năm 1946 giành Chương VI để quy định về cơ quan tư pháp và xác định các cơ quan tư pháp của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Hiến pháp đã khẳng định quyền tư pháp là một quyền độc lập, thực hiện
  16. 14 chức năng xét xử. Trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ, có thể thấy Chính phủ là cơ quan thực hiện quyền hành pháp, kiểm soát quyền tư pháp bằng việc bổ nhiệm Thẩm phán. Thực hiện quyền hành pháp còn có Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chính. Tòa án đặc biệt kiểm soát quyền hành pháp khi truy tố đối với một số chức danh quan trọng trong cơ quan thực hiện quyền hành pháp. Tuy nhiên, việc truy tố này chỉ đối với tội danh phản quốc và Nghị viện sẽ phải lập một Tòa án đặc biệt để xét xử. Bên cạnh đó, việc bắt bớ và truy tố trước Toà án một nhân viên Nội các về thường tội phải có sự ưng chuẩn của Hội đồng Chính phủ. Ngoài ra, cơ quan tư pháp còn kiểm soát đối với quyền hành pháp trong việc bắt bớ, giam cầm người dân. 3.1.2. Quy định của Hiến pháp năm 1959 về kiểm soát quyền lực nhà nước giữa cơ quan thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp Về thiết chế, quyền tư pháp trong giai đoạn này có sự thay đổi căn bản. Các cơ quan tư pháp có mối quan hệ chặt chẽ với Quốc hội. Tòa án nhân dân được hiểu là cơ quan chuyên môn thực hiện chức năng xét xử của Nhà nước theo sự phân công của cơ quan quyền lực. Về thể chế, cơ quan thực hiện quyền hành pháp là cơ quan thực thi ngân sách, thực thi biên chế, cơ quan thực hiện quyền hành pháp nắm giữ ưu thế trong việc kiểm soát hoạt động của cơ quan thực hiện quyền tư pháp trên phương diện cung cấp các nguồn lực vật chất, điều kiện làm việc; đồng thời, thực hiện chế độ quản lý chung theo ngạch, bậc công chức. Ngoài những yếu tố mang tính điều kiện, nguồn lực, khi thực hiện chức năng kiểm soát việc xét xử, Viện kiểm sát thực hiện chức năng của cơ quan hành pháp và trở thành một phương diện chính và chủ yếu trong việc kiểm soát cơ quan tư pháp. 3.1.3. Quy định của Hiến pháp năm 1980 về kiểm soát quyền lực nhà nước giữa cơ quan thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp So với quy định của Hiến pháp năm 1959, theo quy định của Hiến pháp 1980, hệ thống tư pháp đã có thay đổi theo hướng tăng cường mối quan hệ giữa cơ quan thực hiện quyền hành pháp và cơ quan thực hiện quyền tư pháp. Về thiết chế, với việc tái thành lập Bộ Tư pháp, Bộ Tư pháp quản lý Tòa án địa phương, chủ yếu là công tác tổ chức, biên chế, cán bộ, cơ sở vật chất, kinh phí hoạt động. Thời điểm này, Tòa án nói riêng và các cơ quan nhà nước nói chung được tổ chức, quản lý theo chế độ song trùng trực thuộc. Theo đó, Tòa án chịu sự quản lý về chuyên môn theo ngành dọc của
  17. 15 cơ quan quản lý cấp trên và đồng thời chịu trách nhiệm trước cơ quan quyền lực. Về thể chế, trong mối quan hệ giữa cơ quan thực hiện quyền hành pháp và cơ quan thực hiện quyền tư pháp, cơ quan thực hiện quyền hành pháp trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình thực hiện việc quản lý trên các mặt công tác. Ở chiều ngược lại, Tòa án với tư cách là cơ quan thực hiện quyền xét xử, sẽ kiểm soát lại hoạt động của cơ quan thực hiện quyền hành pháp trên các mặt công tác: Thực hiện quyền xét xử đối với các truy tố của Viện kiểm sát; Thực hiện quyền xét xử đối với các vi phạm pháp luật trong hệ thống cơ quan hành pháp, theo truy tố của Viện kiểm sát. 3.1.4. Quy định của Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) về kiểm soát quyền lực nhà nước giữa cơ quan thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp Hiến pháp năm 1992 về cơ bản có nhiều nội dung kế thừa quy định của Hiến pháp năm 1980 về cơ quan thực hiện quyền hành pháp, cơ quan thực hiện quyền tư pháp và kiểm soát QLNN giữa hai loại cơ quan này. Một số thay đổi quan trọng như chế định Chính phủ thay cho Hội đồng Bộ trưởng, chế định Chủ tịch nước thay cho Hội đồng Nhà nước. Sự ổn định nhất là quy định về TAND và VKSND. Theo đó, TAND và VKSND vẫn được xếp chung vào một chương, với việc xác định nhiệm vụ chung. TAND vẫn thực hiện theo chế độ song trùng trực thuộc với sự tham gia quản lý và kiểm soát của cả cơ quan QLNN và cơ quan QLNN, trong đó các Tòa án địa phương chịu sự quản lý của cơ quan chuyên môn cấp trên. Sự thay đổi đối với hệ thống cơ quan tư pháp nói chung và hệ thống Tòa án nhân dân nói riêng chủ yếu diễn ra sau khi ban hành Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) và Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị “Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”. 3.1.5. Quy định của Hiến pháp năm 2013 về kiểm soát quyền lực nhà nước giữa cơ quan thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp Sau gần 30 năm tiến hành công cuộc đổi mới, trên cơ sở khoa học và tổng kết thực tiễn, Hiến pháp năm 2013 ra đời. So với các bản văn hiến pháp trước đó, Hiến pháp năm 2013 có nhiều điểm mới tiến bộ, đặc biệt là những vấn đề liên quan đến tổ chức thực hiện QLNN nói chung và quyền hành pháp, quyền tư pháp nói riêng.
  18. 16 3.2. THỰC TRẠNG CƠ CHẾ PHÁP LÝ KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC GIỮA CƠ QUAN THỰC HIỆN QUYỀN HÀNH PHÁP VÀ QUYỀN TƯ PHÁP Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 3.2.1. Thực trạng cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước của cơ quan thực hiện quyền hành pháp đối với cơ quan thực hiện quyền tư pháp Đánh giá thực trạng cơ chế kiểm soát QLNN của cơ quan thực hiện quyền hành pháp đối với cơ quan thực hiện quyền tư pháp được tác giả nhìn nhận ở hai góc độ: Trên phương diện từng cơ quan thực hiện kiểm soát QLNN đối với Tòa án - cơ quan thực hiện quyền tư pháp và trên phương diện khái quát, bao trùm toàn bộ hoạt động kiểm soát QLNN của tất cả các cơ quan thực hiện quyền hành pháp (trước hết, chủ yếu và quan trọng nhất là Chính phủ) đối với Tòa án - cơ quan thực hiện quyền tư pháp. 3.2.2. Thực trạng cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước của cơ quan thực hiện quyền tư pháp đối với cơ quan thực hiện quyền hành pháp Đánh giá thực trạng cơ chế pháp lý kiểm soát QLNN của cơ quan thực hiện quyền tư pháp đối với cơ quan thực hiện quyền hành pháp, tác giả xem xét trên hai phương diện: Trên phương diện Tòa án thực hiện kiểm soát QLNN đối với từng cơ quan thực hiện quyền hành pháp và trên phương diện khái quát, Tòa án thực hiện hoạt động kiểm soát QLNN đối với tất cả các cơ quan thực hiện quyền hành pháp. 3.2.3. Thực trạng cơ chế pháp lý tự kiểm soát quyền lực nhà nước của cơ quan thực hiện quyền hành pháp và cơ quan thực hiện quyền tư pháp Tác giả nghiên cứu về cơ chế này với hai nội dung cơ bản: Tự kiểm soát QLNN của cơ quan thực hiện quyền hành pháp; Tự kiểm soát QLNN của cơ quan thực hiện quyền tư pháp. 3.3. THỰC TRẠNG VẬN HÀNH CƠ CHẾ PHÁP LÝ KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC GIỮA CÁC CƠ QUAN THỰC HIỆN QUYỀN HÀNH PHÁP VÀ QUYỀN TƯ PHÁP Ở VIỆT NAM 3.3.1. Thực trạng kiểm soát quyền lực nhà nước của cơ quan thực hiện quyền hành pháp đối với cơ quan thực hiện quyền tư pháp Tác giả đánh giá thực trạng với nội dung cụ thể: Kiểm soát nguồn lực phục vụ cho hoạt động của cơ quan tư pháp và kiểm soát quyền tư pháp thông qua thực hành quyền công tố, kiểm soát tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp.
  19. 17 3.3.2. Thực trạng kiểm soát quyền lực nhà nước của cơ quan thực hiện quyền tư pháp đối với cơ quan thực hiện quyền hành pháp Tác giả đánh giá thực trạng với nội dung cụ thể: Trên cơ sở thực hiện quyền xét xử, Tòa án có sự kiểm soát thực hiện QLNN đối với hoạt động thực hành quyền công tố; đối với việc ban hành, sửa đổi, bổ sung hoặc hủy bỏ quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan thực hiện quyền hành pháp; kiểm soát thực hiện QLNN của cơ quan thực hiện quyền hành pháp trong các lĩnh vực thuộc thẩm quyền quản lý của cơ quan hành pháp; qua việc kiểm soát quá trình ban hành văn bản pháp quy của cơ quan thực hiện quyền hành pháp. 3.3.3. Thực trạng tự kiểm soát quyền lực nhà nước của cơ quan thực hiện quyền tư pháp và cơ quan thực hiện quyền hành pháp Tác giả đánh giá thực trạng tự kiểm soát trong hoạt động xét xử của Tòa án, thông qua hoạt động kiểm tra nghiệp vụ và kháng nghị, xét xử giám đốc thẩm, tự kiểm soát trong việc tiến hành các hoạt động quản lý nội bộ 3.4. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ CƠ CHẾ PHÁP LÝ KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC GIỮA CƠ QUAN THỰC HIỆN QUYỀN HÀNH PHÁP VÀ QUYỀN TƯ PHÁP Ở VIỆT NAM 3.4.1. Những kết quả đạt được 3.4.1.1. Về thể chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước Các quy định pháp luật xác định địa vị pháp lý của cơ quan thực hiện quyền hành pháp và cơ quan thực hiện quyền tư pháp trong mối quan hệ thực hành quyền công tố ngày càng đầy đủ, rõ ràng; các quy định pháp luật ngày càng hoàn thiện hơn trong giải quyết mối tương quan về cung cấp và đảm bảo nguồn lực cho các cơ quan thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp. 3.4.1.2. Về thiết chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước Hệ thống cơ quan thực hiện quyền hành pháp và cơ quan thực hiện quyền tư pháp đã được tổ chức một cách khoa học, phù hợp, cơ bản đáp ứng yêu cầu kiểm soát QLNN trong điều kiện mới; bảo đảm tính năng động, sáng tạo và độc lập của từng cơ quan. 3.4.2. Những hạn chế, bất cập và nguyên nhân 3.4.2.1. Về thể chế pháp lý và nhận thức về kiểm soát quyền lực giữa cơ quan thực hiện quyền hành pháp và cơ quan thực hiện quyền tư pháp Nhận thức về quyền tư pháp, quyền hành pháp trong thực tiễn quản lý nhà nước chưa thực sự thống nhất, chưa đi vào bản chất của các quyền, nên
  20. 18 việc xác định nội hàm các khái niệm, phạm vi, nội dung, đặc điểm, bản chất của các quyền chưa xác đáng. Các quy định liên quan đến việc xây dựng cấu trúc xác định địa vị pháp lý của các nhánh quyền lực còn chênh lệch giữa nhận thức với thực tiễn và quy định của Hiến pháp. Chưa xây dựng được khung pháp lý phù hợp nhằm giải quyết sự mâu thuẫn giữa kiểm soát quyền lực với đảm bảo tính độc lập của tư pháp. 3.4.2.2. Về thiết chế pháp lý kiểm soát quyền lực giữa cơ quan thực hiện quyền hành pháp và cơ quan thực hiện quyền tư pháp Chưa phân định rạch ròi phạm vi kiểm soát QLNN giữa cơ quan thực hiện quyền hành pháp và cơ quan thực hiện quyền tư pháp. Chưa xây dựng được cơ quan tư pháp mạnh, đủ sức kiểm soát hoạt động của cơ quan thực hiện quyền hành pháp. Quyền tư pháp chưa được đặt đúng vị trí trong cấu trúc QLNN. Tính chuyên môn hóa, chuyên nghiệp hóa chưa cao 3.4.2.3. Nguyên nhân của những hạn chế, bất cập Nguyên nhân của hạn chế, bất cập bao gồm cả nguyên nhân về thiết chế và nguyên nhân về thể chế, cả nguyên nhân khách quan và chủ quan. Tiểu kết chương 3 Cơ chế kiểm soát quyền lực giữa cơ quan thực hiện quyền tư pháp và cơ quan thực hiện quyền hành pháp đã bước đầu được định hình và vận hành. Tuy nhiên, trên phương diện thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, sự tương tác giữa các cơ quan trung ương đã mang tính kiểm soát, đối trọng lẫn nhau nhiều hơn. Cơ chế kiểm soát giữa cơ quan tư pháp địa phương và cơ quan hành pháp địa phương đã cơ bản được hoàn thiện trên cả hai phương diện thể chế và thiết chế. Tuy vậy, vẫn cần nghiên cứu những quy định, chế tài để bảo đảm cơ chế kiểm soát này được vận hành một cách có hiệu quả. Nghiên cứu thực trạng còn cho thấy, một thực tế không thể thay đổi được mà ở bất kỳ mô hình nhà nước nào cũng thừa nhận đó là sự ưu thế của cơ quan quyền lực hành pháp trong mối tương quan với các cơ quan thuộc nhánh quyền lực khác cũng như sự yếu thế của quyền tư pháp trước các nhánh quyền lực khác. Do vậy, khi nghiên cứu hoàn thiện cơ chế kiểm soát QLNN cần chú trọng việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả, vị thế của quyền tư pháp; lấy đó làm cán cân đối trọng trong cơ chế kiểm soát quyền lực giữa cơ quan thực hiện quyền hành pháp và cơ quan thực hiện quyền tư pháp.
  21. 19 Chương 4 QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG VÀ HOÀN THIỆN CƠ CHẾ PHÁP LÝ VỀ KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC GIỮA CƠ QUAN THỰC HIỆN QUYỀN HÀNH PHÁP VÀ QUYỀN TƯ PHÁP Ở VIỆT NAM 4.1. QUAN ĐIỂM XÂY DỰNG VÀ HOÀN THIỆN CƠ CHẾ PHÁP LÝ VỀ KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC GIỮA CƠ QUAN THỰC HIỆN QUYỀN HÀNH PHÁP VÀ QUYỀN TƯ PHÁP Ở VIỆT NAM 4.1.1. Xây dựng cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực giữa cơ quan thực hiện quyền hành pháp và cơ quan thực hiện quyền tư pháp phải đáp ứng đòi hỏi của công cuộc cải cách hành chính và cải cách tư pháp Quan điểm này bắt nguồn từ quan điểm của Đảng và quy định của Hiến pháp năm 2013 về cải cách hành chính, cải cách tư pháp nhằm đảm bảo tính thống nhất của QLNN và xây dựng nhà nước pháp quyền. 4.1.2. Xây dựng cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực giữa cơ quan thực hiện quyền hành pháp và cơ quan thực hiện quyền tư pháp đảm bảo tính năng động, sáng tạo của cơ quan thực hiện quyền hành pháp và tính độc lập trong xét xử của cơ quan thực hiện quyền tư pháp Tính năng động, sáng tạo của cơ quan thực hiện quyền hành pháp và tính độc lập trong xét xử của cơ quan thực hiện quyền tư pháp là đặc trưng cơ bản của các cơ quan này khi thực hiện QLNN, đồng thời, đó cũng là đòi hỏi phải được quán triệt trong kiểm soát QLNN. 4.1.3. Xây dựng cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực giữa cơ quan thực hiện quyền hành pháp và cơ quan thực hiện quyền tư pháp phải tiến hành đồng bộ với xây dựng và hoàn thiện cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước nói chung; đồng bộ giữa kiểm soát bên trong (kiểm soát trong mỗi quyền) với kiểm soát giữa các quyền với nhau Cơ chế pháp lý kiểm soát QLNN bao gồm tổng thể các yếu tố thể chế, thiết chế và các điều kiện bảo đảm để xây dựng, hoàn thiện và vận hành cơ chế kiểm soát QLNN. Các yếu tố thể chế, thiết chế và các điều kiện bảo đảm trong cơ chế kiểm soát QLNN thể hiện trên cả hai khía cạnh: Sự kiểm soát mang tính tương đối độc lập trong việc thực hiện từng quyền và sự kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền.
  22. 20 4.2. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CƠ CHẾ PHÁP LÝ VỀ KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC GIỮA CƠ QUAN THỰC HIỆN QUYỀN HÀNH PHÁP VÀ QUYỀN TƯ PHÁP Ở VIỆT NAM 4.2.1. Các giải pháp chung 4.2.1.1. Đổi mới nhận thức về kiểm soát quyền lực nhà nước và cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước giữa cơ quan thực hiện quyền hành pháp và cơ quan thực hiện quyền tư pháp Giải pháp này đòi hỏi phải có các biện pháp cụ thể để thực hiện, tác động về nhận thức, giúp cho các chủ thể đánh giá đúng, thực chất tầm quan trọng, sự cần thiết của việc thực hiện cơ chế kiểm soát QLNN và cơ chế kiểm soát QLNN giữa cơ quan thực hiện quyền hành pháp và cơ quan thực hiện quyền tư pháp. Nội dung gồm: Đổi mới nhận thức về QLNN, nhận thức về cơ chế, thể chế kiểm soát QLNN, nhận thức về cơ quan thực hiện quyền hành pháp; vị trí, vai trò của cơ chế pháp lý kiểm soát QLNN giữa cơ quan thực hiện quyền hành pháp và cơ quan thực hiện quyền tư pháp. 4.2.1.2. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả kiểm soát quyền lực nhà nước bên trong của hệ thống cơ quan thực hiện quyền hành pháp và cơ quan thực hiện quyền tư pháp Cơ chế kiểm soát bên trong có vai trò quan trọng đối với sự vận hành và hiệu quả của cơ chế pháp lý kiểm soát QLNN. Do đó, cần phải nâng cao hiệu lực, hiệu quả kiểm soát bên trong từng hệ thống (cơ quan thực hiện quyền hành pháp, cơ quan thực hiện quyền tư pháp). Đối với cơ quan thực hiện quyền hành pháp, chú trọng đổi mới mô hình tổ chức, hoạt động thanh tra, tiếp tục hoàn thiện tổ chức và cơ sở pháp lý của hệ thống thanh tra trong lĩnh vực hành chính nhà nước. Đối với cơ quan thực hiện quyền tư pháp, sự hình thành và vận hành cơ chế xét xử theo cấp là cần thiết, đồng thời, cần phải kiểm soát chặt chẽ các hoạt động khác của quyền tư pháp nhằm ngăn chặn sự tác động đến quá trình giải quyết vụ án của Tòa án và Thẩm phán. 4.2.1.3. Nâng cao chất lượng đội ngũ công chức, đặc biệt là đội ngũ công chức có chức danh quản lý, chức danh nghề nghiệp Con người luôn là khâu then chốt trong mọi cơ chế; bởi vì, suy cho cùng, con người tạo ra thể chế, thiết chế, đồng thời là người tổ chức thực hiện các thiết chế, thể chế. Do đó, nâng cao chất lượng đội ngũ công chức,
  23. 21 nhất là đội ngũ công chức giữ chức vụ quản lý và công chức giữ các chức danh nghề nghiệp trong cơ quan thực hiện quyền hành pháp và cơ quan thực hiện quyền tư pháp như Công tố viên (kiểm sát viên); Thẩm phán, Điều tra viên, Thẩm tra viên là một trong những khâu quan trọng phục vụ quá trình xây dựng, tổ chức thực hiện cơ chế kiểm soát QLNN giữa cơ quan thực hiện quyền hành pháp và cơ quan thực hiện quyền tư pháp. Để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ này cần chú trọng vào tất cả các khâu gồm tuyển dụng, bố trí, sử dụng, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng; khen thưởng, kỷ luật 4.2.1.4. Bảo đảm đủ nguồn kinh phí; trang thiết bị, phương tiện làm việc cho cơ quan thực hiện quyền hành pháp, cơ quan thực hiện quyền tư pháp Kinh phí, cơ sở vật chất, phương tiện làm việc cùng với nguồn nhân lực tạo lên nguồn lực cho hoạt động của bộ máy hành pháp và tư pháp. Do đó, đảm bảo đủ kinh phí, cơ sở vật chất, phương tiện làm việc cũng là một trong những trọng tâm cần quan tâm, để tạo ra thế và lực cho cơ quan thực hiện quyền hành pháp và cơ quan thực hiện quyền tư pháp tiến hành các hoạt động kiểm soát quyền lực lẫn nhau. Tuy nhiên, để phát huy hiệu quả của kinh phí cần lưu ý tập trung vào một số nội dung như: Đầu tư trang thiết bị, chi phí lương bổng, đãi ngộ; chi phí đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp; chi phí cho hoạt động kiểm soát quyền lực 4.2.2. Hoàn thiện thể chế pháp lý về tổ chức và hoạt động của cơ quan thực hiện quyền hành pháp và cơ quan thực hiện quyền tư pháp Thể chế pháp lý về địa vị pháp lý của các cơ quan là cơ sở pháp lý cho kiểm soát QLNN, vì vậy, đổi mới thể chế pháp lý chính là tiền đề, tạo hành lang pháp lý cho việc xây dựng thiết chế và tiến hành các hoạt động kiểm soát QLNN giữa cơ quan thực hiện quyền hành pháp và cơ quan thực hiện quyền tư pháp. Muốn có cơ chế kiểm soát QLNN hiệu quả, thể chế pháp lý này phải đầy đủ, toàn diện, rõ ràng, phù hợp thực tiễn và đảm bảo tính công khai, minh bạch. Minh bạch trong xác định quyền hạn, nghĩa vụ, trách nhiệm; minh bạch trong trình tự, thủ tục thực hiện Hoàn thiện thể chế pháp lý cần tập trung vào các nội dung sau: Hoàn thiện thể chế pháp lý về tổ
  24. 22 chức và hoạt động của cơ quan thực hiện quyền hành pháp; Hoàn thiện thể chế pháp lý về tổ chức, hoạt động của cơ quan thực hiện quyền tư pháp. 4.2.3. Hoàn thiện thể chế pháp lý về phạm vi, nội dung, trình tự, thủ tục kiểm soát quyền lực nhà nước giữa cơ quan thực hiện quyền hành pháp và cơ quan thực hiện quyền tư pháp Để đảm bảo phát huy hiệu quả của kiểm soát quyền lực, ngoài việc xây dựng khung pháp luật nhằm xác định địa vị pháp lý của các chủ thể, thì việc xây dựng hành lang pháp lý làm căn cứ xác định phạm vi, nội dung; trình tự, thủ tục, hậu quả pháp lý của hoạt động kiểm soát quyền lực cũng là vấn đề được đặt ra. Do đó, cần sửa đổi, bổ sung các quy định có liên quan như: Quy định về trình tự, thủ tục để cơ quan thực hiện quyền tư pháp kiểm soát quyền lực hành pháp trong việc ban hành văn bản pháp quy; quy định về trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan hành chính trong việc tham gia phiên tòa xét xử các vụ án hành chính và thi hành các phán quyết của Tòa án trong các vụ án hành chính; quy định về phạm vi, nội dung, đối tượng kiểm soát QLNN giữa cơ quan thực hiện quyền hành pháp, cơ quan thực hiện quyền tư pháp 4.2.4. Đổi mới tổ chức và hoạt động của các thiết chế thực hiện quyền hành pháp, quyền tư pháp Đây là sự đổi mới của các thiết chế thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp, tập trung vào Chính phủ, chính quyền địa phương, Viện Kiểm sát nhân dân, Tòa án. Trong đó, cần chú ý: Đối với Chính phủ: Đổi mới việc hoạch định, điều hành chính sách quốc gia, dự thảo và trình Quốc hội các dự án luật, ban hành các kế hoạch, chính sách cụ thể và văn bản dưới luật theo thẩm quyền để các cơ quan Nhà nước khác thực thi; tổ chức thực hiện phân bổ ngân sách; quản lý, điều hành vĩ mô; thiết lập và duy trì trật tự công; phát hiện, điều tra, xử lý vi phạm theo thẩm quyền hoặc yêu cầu Tòa án thực hiện việc xét xử theo trình tự, thủ tục tư pháp Đối với Viện Kiểm sát nhân dân: đổi mới phải bao trùm cả hai hoạt động là thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Đối với thiết chế thực hiện quyền tư pháp: Tòa án - là cơ quan xét xử, với vị thế là người bảo vệ công lý, quyền con người, cũng là cơ quan giữ vị trí trung tâm của thiết chế thực hiện quyền tư pháp. Vì thế, đổi
  25. 23 mới tổ chức và hoạt động của các thiết chế thực hiện quyền tư pháp trong giai đoạn hiện nay cần tập trung vào đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án. Trong đó, trọng tâm là những vấn đề liên quan trực tiếp tới việc kiểm soát quyền lực của chính mình (quyền tư pháp) và các nhánh quyền lực khác (quyền lập pháp, quyền hành pháp). Tiểu kết chương 4 Chương 4 của luận án đã trình bày về quan điểm và giải pháp xây dựng và hoàn thiện cơ chế pháp lý về kiểm soát quyền lực nhà nước giữa cơ quan thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp ở Việt Nam. Trong đó, về quan điểm, tác giả khẳng định cần dựa trên các quan điểm sau: Xây dựng cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực giữa cơ quan thực hiện quyền hành pháp và cơ quan thực hiện quyền tư pháp phải đáp ứng đòi hỏi của công cuộc cải cách hành chính và cải cách tư pháp; đảm bảo tính năng động, sáng tạo của cơ quan thực hiện quyền hành pháp và tính độc lập trong xét xử của cơ quan thực hiện quyền tư pháp; phải tiến hành đồng bộ với xây dựng và hoàn thiện cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước nói chung; đồng bộ giữa kiểm soát bên trong với kiểm soát lẫn nhau giữa các quyền. Về giải pháp, cần tiến hành đồng bộ các giải pháp: Các giải pháp chung; Đổi mới nhận thức về kiểm soát QLNN và cơ chế kiểm soát QLNN giữa cơ quan thực hiện quyền hành pháp và cơ quan thực hiện quyền tư pháp; Đổi mới tổ chức và hoạt động của các thiết chế thực hiện quyền hành pháp, quyền tư pháp.
  26. 24 KẾT LUẬN Kiểm soát QLNN giữa các cơ quan thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp được hiểu là cơ chế chính trị - pháp lý do các chủ thể có đủ năng lực pháp luật và thẩm quyền thực hiện nhằm đảm bảo QLNN được thực hiện liên tục, đúng đắn và đầy đủ theo pháp luật, phát huy hiệu lực, hiệu quả trong tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật và điều hành mọi hoạt động kinh tế - xã hội, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của Nhà nước, tổ chức và cá nhân. Hiến pháp năm 2013 là cơ sở pháp lý cao nhất, công cụ quan trọng nhất để hình thành cơ chế kiểm soát chặt chẽ QLNN trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Ngay sau khi có Hiến pháp năm 2013, hoạt động kiểm soát QLNN giữa các cơ quan thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp bước đầu đã được thể chế hóa. Trên cơ sở Hiến pháp, các luật về tổ chức Chính phủ và tổ chức Tòa án nhân dân được ban hành. Thông qua các đạo luật này, cơ chế kiểm soát QLNN trong việc thực hiện quyền hành pháp và tư pháp ra đời, góp phần kiểm soát QLNN trong bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Tuy nhiên, trước yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế, nhất là yêu cầu phát huy dân chủ và xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, cơ chế pháp lý về kiểm soát QLNN giữa các cơ quan thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp chưa được hình thành một cách đầy đủ, còn thiếu đồng bộ, thống nhất, nội dung của cơ chế pháp lý còn chung chung; chưa nhận thức sâu sắc kiểm soát QLNN là nguyên tắc quan trọng nhất trong tổ chức và thực thi QLNN theo tinh thần Hiến pháp năm 2013. Luận án “Cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước giữa cơ quan thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp ở Việt Nam” đã nghiên cứu một cách toàn diện các vấn đề lý luận, thực tiễn liên quan đến kiểm soát QLNN; vấn đề kiểm soát quyền lực giữa cơ quan thực hiện quyền hành pháp với cơ quan thực hiện quyền tư pháp, đặc biệt nghiên cứu, đánh giá sâu về thể chế pháp lý, thiết chế kiểm soát quyền lực và đề xuất các quan điểm, giải pháp hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực giữa nhánh quyền hành pháp và tư pháp.
  27. DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 1. Phạm Hồng Phong (2014), “Tòa án nhân dân sơ thẩm khu vực, bước đột phá trong cải cách tư pháp”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, (20), tr.16-20. 2. Phạm Hồng Phong (2014), “Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Hiến pháp năm 2013”, Tạp chí lý luận chính trị, (3), tr.77-80. 3. Phạm Hồng Phong (2014), “Bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự”, Tạp chí Lý luận Chính trị, (10), tr.39-42. 4. Phạm Hồng Phong (2015), “Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc tranh tụng trong hoạt động xét xử”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, (4), tr.14-21. 5. Phạm Hồng Phong (2018), “Kiểm soát quyền tư pháp của Tòa án Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, (24), tr.8-12. 6. Phạm Hồng Phong (2019), “Gợi mở về cơ chế giám sát quyền hành pháp bằng quyền tư pháp”, Tạp chí Khoa học Viện Đại học Mở Hà Nội, (52), tr.6-19.