Tiểu luận Văn hóa chính trị ở Việt Nam hiện nay
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tiểu luận Văn hóa chính trị ở Việt Nam hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- tieu_luan_van_hoa_chinh_tri_o_viet_nam_hien_nay.doc
Nội dung text: Tiểu luận Văn hóa chính trị ở Việt Nam hiện nay
- 1 ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC KHOA VĂN-XÃ HỘI BÀI TIỂU LUẬN Đề tài: “Văn hóa chính trị ở Việt Nam hiện nay” Nhóm: 6 1. 2. 3. 4. 5. 6. 7. 8. 9. 10. Lớp: N02 Giảng viên hướng dẫn: Bùi Trọng Tài Thái Nguyên, ngày 26 tháng 02 năm 2012
- 2 Mục lục
- 3 Phụ lục A.MỞ ĐẦU 3 1. Lí do chọn đề tài: 3 2. Mục tiêu nghiên cứu: 4 3. Phương pháp nghiên cứu: 4 4. Kết cấu của đề tài: 5 B. NỘI DUNG 5 Chương 1. Cơ sở lý luận: 5 1.1. Khái niệm văn hóa 5 1.2. Khái niệm chính trị 7 1.3. Khái niệm văn hóa chính trị 8 Chương 2. Một số nét tiêu biểu của văn hóa chính trị ở Việt Nam 10 2.1. Cấu trúc của văn hóa chính trị Việt Nam 10 2.2. Đặc điểm của văn hóa chính trị Việt Nam 18 2.3. Văn hóa chính trị thể hiện trong sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam 22 2.4. Một số vấn đề phương hướng giáo dục, nâng cao văn hóa chính trị ở nước ta hiện nay 26 C.KẾT LUẬN 28 Danh mục tài liệu tham khảo 28 A.MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài:
- 4 Văn hóa chính trị có vai trò rất to lớn đối với mỗi quốc gia, mỗi dân tộc. Văn hóa chính trị giữ vị trí rất quan trọng trong việc tổ chức xã hội, định hướng điều chỉnh các hành vi và quan hệ xã hội. Đồng thời, cổ vũ, động viên, thúc đẩy hoạt động của cá nhân, giai cấp trong chính trị, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả của hoạt động chính trị của mỗi quốc gia, dân tộc. Hiện nay, trên thế giới, xu hướng toàn cầu hóa đang ngày càng càng phổ biến sâu rộng hơn. Nó mở ra cơ hội phát triển cho các nước song cũng tạo ra những thách thức mới cho mỗi quốc gia, mỗi dân tộc. Việc giữ vững những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc, đặc biệt là những giá trị văn hóa chính trị có vai trò rất quan trọng đối với sự ổn định nền chính trị. Từ đó sẽ tạo ra động lực cho sự hòa nhập, phát triển, ổn định của nước ta. Văn hóa chính trị ở nước ta có một quá trình hình thành và phát triển lâu dài, gắn liền với lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc. Hiện nay, văn hóa chính trị Việt Nam đang được kế thừa và phát huy dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, hướng tới mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Điều đó cho phép đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa, thống nhất giữa tính cách mạng và tính khoa học, truyền thống với hiện đại, dân tộc và quốc tế. Cũng chính từ đó đã tạo nên nét đặc sắc trong văn hóa chính trị ở nước ta. Thông qua đề tài: “Văn hóa chính trị Việt Nam hiện nay”, chúng tôi muốn làm rõ hơn những nét tiêu biểu, đặc thù trong văn hóa chính trị Việt Nam hiện nay. Từ đó có cái nhìn tổng quan về văn hóa chính trị cũng như nền chính trị nước ta hiện nay. 2. Mục tiêu nghiên cứu: Trên cơ sở phân tích, đánh giá các tài liệu, tác giả đưa ra những nét tiêu biểu của văn hóa chính trị Việt Nam trong thời đại hiện nay.
- 5 3. Phương pháp nghiên cứu: Phân tích và tổng hợp tài liệu: Đây là phương pháp được sử dụng chủ yếu trong đề tài nghiên cứu này Trên cơ sở tìm hiểu, phân tích các tài liệu: sách báo,trên internet, đưa ra những nội dung tiêu biểu của văn hóa chính trị Việt Nam trong thời kì hiện nay. Từ đó tổng hợp đánh giá đặc điểm của văn hóa chính trị Việt Nam trong thời kì hiện nay. 4. Kết cấu của đề tài: Ngoài các phần mở đầu, kết luận, đề tài có 2 chương: Chương 1. Cơ sở lý luận Chương 2. Một số nét tiêu biểu của văn hóa chính trị Việt Nam B. NỘI DUNG Chương 1. Cơ sở lý luận: 1.1. Khái niệm văn hóa Văn hóa chính trị là một bộ phận hữu cơ của văn hóa nói chung. Vì vậy, để hiểu được văn hóa chính trị trước hết cần có một quan niệm thống nhất về văn hóa. Văn hóa là một khái niệm phức tạp và đa nghĩa, gắn liền con người với đời sống xã hội loài người. Từ lâu văn hóa đã trở thành lĩnh vực nghiên cứu của nhiều ngành khoa học. Hiện nay đã và đang tồn tại rất nhiều các định nghĩa khác nhau về văn hóa. Văn hóa theo từ gốc Latinh “culture” lúc đầu chủ yếu nói về quan hệ giữa con người với tự nhiên, có nghĩa là gieo trồng, canh tác, khai hoang. Sau này thuật ngữ trên được mở rộng sang lĩnh vực xã hội, nói về quan hệ giữa con người với con người, có nghĩa là giáo dục, nuôi dưỡng, giáo hóa, rèn luyện, hoàn thiện nhân cách. Theo E.B. Tylor đưa ra định nghĩa “Văn hóa hay văn minh, theo nghĩa rộng về tộc người học, nói chung gồm có tri thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, tập quán và một số năng lực và thói quen khác được con người chiếm lĩnh với tư cách một thành viên của xã hội”. Theo định nghĩa này thì văn hóa và văn minh là một; nó bao gồm
- 6 tất cả những lĩnh vực liên quan đến đời sống con người, từ tri thức, tín ngưỡng đến nghệ thuật, đạo đức, pháp luật Theo F. Boas định nghĩa “Văn hóa là tổng thể các phản ứng tinh thần, thể chất và những hoạt động định hình nên hành vi của cá nhân cấu thành nên một nhóm người vừa có tính tập thể vừa có tính cá nhân trong mối quan hệ với môi trường tự nhiên của họ, với những nhóm người khác, với những thành viên trong nhóm và của chính các thành viên này với nhau”. Theo định nghĩa này, mối quan hệ giữa cá nhân, tập thể và môi trường là quan trọng trong việc hình thành văn hóa của con người. Hiện nay, có rất nhiều các nhà nghiên cứu ở Việt Nam cũng như ở nước ngoài đã vận dụng khái niệm văn hóa của UNESSCO: “Văn hóa hôm nay có thể coi là tổng thể những nét riêng biệt tinh thần và vật chất, trí tuệ và cảm xúc quyết định tính cách của một xã hội hay của một nhóm người trong xã hội. Văn hóa bao gồm nghệ thuật và văn chương, những lối sống, những quyền cơ bản của con người, những hệ thống giá trị, những tập tục và những tín ngưỡng. Văn hóa đem lại cho con người khả năng suy xét bản thân. Chính văn hóa làm cho chúng ta trở thành những sinh vật đặc biệt nhân bản, có lí tính, có óc phê phán và dẫn thân một cách đạo lý. Chính nhờ văn hóa mà con người tự thể hiện, tự ý thức được bản thân, tự biết mình là một phương án chưa hoàn thành đặt ra để xem xét những thành tựu của bản thân, tìm tòi không biết mệt những ý nghĩa mới mẻ và sáng tạo nên những công trình vượt trội lên bản thân”. Ở Việt Nam, văn hóa cũng được định nghĩa rất khác nhau. Hồ Chí Minh cho rằng “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặt ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa”. Với cách hiểu này, văn hóa sẽ bao gồm toàn bộ những gì do con người sáng tạo và phát minh ra. Theo Phạm Văn Đồng cho rằng “Nói tới văn hóa là nói tới một lĩnh vực vô cùng phong phú và rộng lớn, bao gồm tất cả những gì không phải là thiên nhiên mà có liên quan đến con người trong suốt quá trình tồn tại, phát triển, quá trình con người làm nên lịch sử (văn hóa) bao gồm cả hệ thống giá trị: tư tưởng và tình cảm, đạo đức với phẩm
- 7 chất, trí tuệ và tài năng, sự nhạy cảm và sự tiếp thu cái mới từ bên ngoài, ý thức bảo vệ tài sản và bản lĩnh của cộng đồng dân tộc, sức đề kháng và sức chiến đấu bảo vệ mình và không ngừng lớn mạnh”. Theo định nghĩa này thì văn hóa là những cái gì đối lập với thiên nhiên và do con người sáng tạo nên từ tư tưởng tình cảm đến ý thức tình cảm và sức đề kháng của mỗi người, mỗi dân tộc. Nhìn chung, các định nghĩa về văn hóa hiện nay rất đa dạng. Mỗi định nghĩa đề cập đến những dạng thức hoặc những lĩnh vực khác nhau trong văn hóa. Để thuận tiện cho việc nghiên cứu, nhóm tác giả sẽ đưa ra một định nghĩa chung nhất dựa trên cơ sở những định nghĩa trên: Văn hóa là tổng hợp những giá trị vật chất và tinh thần do con người tạo ra trong quá trình lao động nhằm phục vụ mục đích cuộc sống con người. 1.2. Khái niệm chính trị Chính trị là một phạm trù phức tạp. Có rất nhiều quan điểm, tư tưởng khác nhau về chính trị. Trong đó, nổi bật lên có các quan niệm như sau: Với các quan điểm trước Mác như quan điểm của Hê-rô-đốt: chính trị tốt nhất là thể chế hỗn hợp của các chỉnh thể quân chủ, quý tộc và dân chủ. Theo Platon thì:chính trị là nghệ thuật cung đình liên kết trực tiếp của người anh hùng và sự thông minh. Sự liên kết đó được thực hiện bằng sự thống nhất tư tưởng và tinh thần hữu ái. Theo Aristotle thì chính trị là sản phẩm của sự phát triển tự nhiên – là hình thức giao tiếp cao nhất của con người; con người là động vật chính trị; quyền lực chính trị có thể được phân chia thành lập pháp, hành pháp và tư pháp. Ở phương Đông cổ đại thì ta thấy nổi bật có các quan điểm của Khổng Tử với quan niệm: chính trị là công việc của người quân tử, là làm cho chính đạo chính danh; với Hàn Phi Tử thì ông quan niệm để thực hiện hoạt động chính trị cần thiết phải xây dựng và ban hành pháp luật; Theo quan điểm chủ nghĩa Mác – Lê nin: Chính trị là lợi ích, là quan hệ lợi ích, là đấu tranh giai cấp trước hết vì lời ích giai cấp. Cái căn bản nhất của chính trị là việc tổ chưc quyền lực nhà nước, là sự tham gia vào công việc nhà nước, là định hướng cho nhà nước, xác định hình thức, nội dung nhiệm vụ của nhà nước. Chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế. Đồng thời, chính trị không thể không chiếm vị trí hàng đầu so với kinh
- 8 tế. Chính trị là lĩnh vực phức tạp, nhạy cảm nhất, liên quan tới vận mệnh hàng triệu người. Giải quyết những vấn đề chính trị vừa là khoa học vừa là nghệ thuật. Như vậy, chúng ta có thể đưa ra một khái niệm chung nhất về chính trị đó là: Chính trị là hoạt động trong lĩnh vực quan hệ giữa các giai cấp, cũng như các dân tộc và quốc gia với vấn đề giành, giữ, tổ chức và sử dụng quyền lực Nhà nước; là sự tham gia của nhân dân và công việc nhà nước và xã hội, hoạt động chính trị thực tiễn của giai cấp, các đảng phái chính trị, các nhà nước nhằm tìm kiếm những khả năng thực hiện đường lối và những mục tiêu đã đề ra nhằm thỏa mãn lợi ích. 1.3. Khái niệm văn hóa chính trị Văn hóa chính trị là một khái niệm đã xuất hiện từ lâu. Ngay từ thời cổ đại, các nhà tư tưởng Hy Lạp, La Mã như Platon, Aristotle, , ở Trung Quốc như Khổng Tử, Lão Tử, đã chú ý tới mối quan hệ giữa chính trị và văn hóa. Sau này các công trình nghiên cứu của các nhà tư tưởng thời kì khai sáng, cận đại và hiện đại cũng đã đề cập đến văn hóa chính trị ở các khía cạnh và mức độ khác nhau. Platon (428-347 TCN) và Aristôt (384-322 TCN) khi đưa ra quan niệm coi chính trị là khoa học và nghệ thuật, mặc dù triết lí chính trị - xã hội của các ông còn nhiều hạn chế lịch sử nhưng vẫn chứa đựng hạt nhân hợp lý trong quan niệm về VHCT. Khổng Tử (551-479 TCN) là một đại diện tiêu biểu cho những tư tưởng gia phương Đông cổ đại. Tư tưởng chính trị về “nhân và lễ”, “chính danh định phận”, tôn trọng người hiền, tư tưởng về giáo dục hàm chứa nhiều giá trị văn hoá sâu sắc, vẫn mang ý nghĩa thời đại đối với văn hóa chính trị phương Đông nói chung và văn hóa chính trị Việt Nam nói riêng. Môngtexkiơ (1689-1755), trong các học thuyết về nguồn gốc nhà nước, về sự phân quyền, lý luận về chính phủ và Rútxô (1712 -1778) với tư tưởng cách mạng dân chủ tư sản, tư tưởng về chủ quyền tối thượng của nhân dân cũng đưa ra nhiều tư tưởng lớn về văn hóa chính trị cùng với những giá trị trí tuệ, tài năng, quyền lực, nghĩa vụ của các chủ thể chính trị. Tuy nhiên, văn hóa chính trị chỉ xuất hiện với tư cách là một lĩnh vực nghiên cứu độc lập từ những năm 1950, gắn với công trình nghiên cứu của những nhà chính trị học
- 9 Mỹ. Trong bài “Các hệ thống chính trị so sánh” đăng trên tạp trí chính trị học số 8-1956, Almond đã đề xuất thuật ngữ “văn hóa chính trị” dùng để phân tích, so sánh các chế độ chính trị. Ông đưa ra hai giải thích về khái niệm vă hóa chính trị. Đó là 1.Văn hóa chính trị không hoàn toàn thống nhất với một hệ thống chính trị, hoặc một xã hội đã cho, là loại hình nhận thức định hướng chính trị có thể, hoặc nói chung thường vượt ra ngoài giới hạn của hệ thống chính trị; 2. Văn hóa chính trị cũng khác với văn hóa nói chung, tuy chúng luôn có mối quan hệ với nhau. Theo ông: “Văn hóa chính trị gồm các yếu tố nhận thức, tình cảm, giá trị. Nó hàm chứa nhận thức và ý kiến, quan niệm giá trị và tình cảm đối với chính trị”. Trong cuốn “Bách khoa toàn thư khoa học xã hội quốc tế” (1961), Pye-nhà chính trị học Mỹ đã đưa ra định nghĩa: “ Văn hóa chính trị là một hệ thống thái độ, niềm tin và tình cảm; nó đem lại ý nghĩa và trật tự cho quá trình chính trị; nó đưa ra tiền đề cơ bản và quy tắc chế ước hành vi của hệ thống chính trị; nó bao gồm lý tưởng chính trị và quy phạm vận hành của một chính thể. Bởi vậy, văn hóa chính trị là biểu hiện hình thức tập hợp tâm lý xã hội và góc độ chủ quan; một loại văn hóa chính trị vừa là lịch sử tập thể của một hệ thống chính trị, lại vừa là sản phẩm của lịch sử đời sống của các cá thể trong hệ thống đó; do đó, nó bắt rễ sâu xa trong lịch sử các sự kiện chung và lịch sử cá nhân”. Trên cơ sở quan điểm mang tính định hướng của tư tưởng Hồ Chí Minh, các nhà nghiên cứu lý luận Việt Nam đã đưa ra nhiều cách diễn đạt khác nhau về khái niệm văn hóa chính trị. PGS.TS. Hoàng Chí Bảo quan niệm: “Văn hoá chính trị là chất lượng tổng hoà của tri thức, tình cảm, niềm tin chính trị, tạo thành ý thức chính trị công dân, thúc đẩy họ tới những hành động chính trị tích cực phù hợp với lý tưởng chính trị của xã hội, là thói quen và nhu cầu tham gia một cách tự giác chủ động vào các quan hệ chính trị xã hội của công dân, góp phần hướng dẫn họ trong cuộc đấu tranh vì lợi ích chung của xã hội vì tiến bộ và phát triển”. GS.TS. Phạm Ngọc Quang đưa ra khái niệm: “Văn hoá chính trị là một phương diện của văn hoá trong xã hội có giai cấp, nói lên tri thức, năng lực sáng tạo trong hoạt động chính trị dựa trên nhận thức sâu sắc các quan hệ chính trị hiện thực cùng những
- 10 thiết chế chính trị tiến bộ đựơc lập ra để thực hiện lợi ích chính trị cơ bản của giai cấp hay của nhân dân phù hợp với sự phát triển lịch sử. Văn hoá chính trị nói lên phẩm chất và hình thức hoạt động chính trị của con người cùng những thiết chế chính trị mà họ lập ra để thực hiện những lợi ích giai cấp cơ bản của chủ thể tương ứng”. Theo tập bài giảng Chính trị học đại cương của 2 tác giả Lê Văn Cảnh và Bùi Trọng Tài: “Văn hóa chính trị là một lĩnh vực, một biểu hiện đặc biệt của văn hóa loài người trong xã hội có giai cấp, văn hóa chính trị được hiểu là trình độ phát triển của con người thể hiện ở trình độ hiểu biết về chính trị, trình độ tổ chức hệ thống tổ chức quyền lực theo một chuẩn giá trị xã hội nhất định nhằm điều hòa các quan hệ lợi ích giữa các giai cấp và bảo vệ lợi ích của giai cấp cầm quyền, phù hợp với xu thế phát triển và tiến bộ xã hội”. Để thuận tiện cho việc nghiên cứu, chúng tôi sẽ lụa chọn khái niệm này làm khái niệm chính được sử dụng trong đề tài nghiên cứu này. Chương 2. Một số nét tiêu biểu của văn hóa chính trị ở Việt Nam 2.1. Cấu trúc của văn hóa chính trị Việt Nam Văn hóa chính trị Việt Nam có một cấu trúc rất phức tạp, bao gồm những thành tố cơ bản có mối quan hệ hữu cơ, thống nhất trong một chỉnh thể. Có thể có những cách tiếp cận khác nhau khi xem xét cấu trúc của văn hóa chính trị Việt Nam. 2.1.1. Văn hóa chính trị với tư cách là chủ thể chính trị - cá nhân và tổ chức Với tư cách là chủ thể, phản ánh trình độ của con người về chính trị, văn hóa chính trị được tạo thành bởi kết quả của sự thống nhất và tác động qua lại của văn hóa chính trị cá nhân và văn hóa chính trị tổ chức (cộng đồng). a. Văn hóa chính trị cá nhân
- 11 Cá nhân là phạm trù chỉ một con người, một cá thể người, một nhân cách. Sự phát triển đầy đủ và toàn diện văn hóa chính trị cá nhân phản ánh trình độ chín muồi của chế độ dân chủ. Văn hóa chính trị cá nhân được thể hiện trên ba mặt: - Trình độ hiểu biết về chính trị. - Khả năng, năng lực của cá nhân tham gia vào việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống tổ chức quyền lực chính trị. - Mức độ hoàn thiện nhân cách. Văn hóa chính trị cá nhân chịu sự chi phối bởi các tư tưởng xã hội, động cơ chính trị và lợi ích giai cấp; phụ thuộc vào trình độ dân chủ xã hội và truyền thống của dân tộc, đồng thời nó cũng phụ thuộc vào toàn bộ kinh nghiệm sống, kết quả đào tạo, tự đào tạo, sự phát triển trong hoạt động thực tiễn, sự tự ý thức, tự phát triển. Văn hóa chính trị cá nhân thường được bộc lộ qua văn hóa ứng xử, giao tiếp, tranh luận, bởi vì giao tiếp, ứng xử, tranh luận không chỉ thuần túy là thái độ, là biểu hiện của lòng trung thành, mà còn là trình độ giác ngộ chính trị, là năng lực trí tuệ, là đạo đức và tác phong, là động cơ chính trị hướng về một lợi ích chính trị, một mục tiêu lý tưởng nhất quán cơ bản và lâu dài. Văn hóa chính trị cá nhân không chỉ thể hiện qua quan hệ giao tiếp, ứng xử, mà còn bộc lộ đầy đủ ở năng lực, khả năng hoạt động sáng tạo, đặc biệt trong việc tham gia vào quá trình xây dựng, hoàn thiện hệ thống tổ chức quyền lực chính trị. Con đường đi tới hoạt động sáng tạo bắt đầu từ tri thức, sự hiểu biết chính trị, cơ sở để có hành động đúng; tiếp đến là tình cảm, động lực cho hoạt động, yếu tố tạo cho tri thức trở nên sống động; từ hiểu biết khoa học và tình cảm trong sáng, dẫn đến niềm tin mãnh liệt vào lý tưởng, con đường, mục tiêu đã chọn. Toàn bộ tri thức, tình cảm, niềm tin là cội nguồn cho hoạt động sáng tạo, đồng thời thông qua hoạt động sáng tạo mà tri thức được bổ sung, kiểm chứng và nâng cao, tình cảm thêm sâu sắc, niềm tin được củng cố và hành động trở nên tự giác hơn, mãnh liệt hơn, văn hóa hơn. Ở Việt Nam, văn hóa chính trị ở mỗi cá nhân, đặc biệt là đối với những nhà lãnh đạo, chính trị là sự thực hành văn hóa chính trị Hồ Chí Minh với phương châm: thường xuyên trau dồi kiến thức, tư duy khoa học, thực hành đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân, nghiêm khắc với mình, khoan dung, độ lượng đối với mọi người
- 12 b. Văn hóa chính trị của tổ chức Văn hóa chính trị cá nhân chỉ thực sự thể hiện và phát huy trong quan hệ với văn hóa giá trị của một tổ chức xác định, bởi con người bất cứ ở đâu và bất cứ bao giờ cũng không tồn tại ở một bình diện, một chiều mà ở nhiều bình diện, nhiều chiều, và luôn được đặt vào những quan hệ khác nhau, vào vị trí khác nhau. Con người, theo quan niệm của Hồ Chí Minh, “nghĩa hẹp là gia đình, anh em, họ hàng, bầu bạn. Nghĩa rộng là đồng bào cả nước. Rộng nữa là cả loài người”. Vậy là, thông qua một cộng đồng, một tổ chức và trong cộng đồng, tổ chức, cái cá nhân được thể hiện, cái nhân cách được hình thành, cũng có nghĩa là văn hóa chính trị cá nhân và tổ chức được hình thành, được thực hiện. Văn hóa chính trị của một tổ chức phụ thuộc vào văn hóa của từng cá nhân, vào văn hóa người thủ lĩnh (người đứng đầu), vào trình độ dân trí nói chung, vào trình độ tổ chức của tổ chức và suy đến cùng còn tùy thuộc vào bản chất của chế độ chính trị, trình độ chín muồi của chế độ dân chủ. Đối với người thủ lĩnh, văn hóa chính trị của họ lại tùy thuộc vào trình độ trí tuệ (tài), tâm trong sáng (đạo đức), sự giác ngộ mục tiêu lý tưởng, khả năng thu phục, tập hợp, tổ chức mọi người vào công việc chung, tùy thuộc vào kinh nghiệm thực tiễn, sự nếm trải trong cuộc sống và sự công tâm của họ. Trình độ tổ chức của tổ chức thể hiện nguyên tắc tổ chức, ở cơ cấu tổ chức, đặc biệt ở hiệu lực, hiệu quả trong việc thực hiện nhiệm vụ chính trị. Bản chất của chế độ xã hội quy định trình độ văn hóa dân chủ của tổ chức, cộng đồng. Trong chế độ tư bản chủ nghĩa, xã hội dựa trên cơ sở chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu, lấy việc bóc lột giá trị thặng dư làm phương thức tồn tại, dân chủ chỉ là hình thức. Điều đó quy định trình độ hạn chế của văn hóa chính trị cộng đồng. Trái lại, trong chủ nghĩa xã hội, xã hội dựa trên cơ sở chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu, xã hội lấy việc thủ tiêu bóc lột, bất công, bất bình đẳng làm cơ sở tồn tại, dân chủ xã hội chủ nghĩa được thực hiện trong thực tế. Do đó, văn hóa của mỗi tổ chức xã hội có môi trường nảy nở, phát huy. Sự tác động qua lại thuận chiều giữa văn hóa chính trị cá nhân và văn hóa chính trị tổ chức là nét đặc sắc của văn hóa chính trị xã hội chủ nghĩa. 2.1.2. Văn hóa chính trị với tư cách là hệ giá trị
- 13 Cấu trúc văn hóa chính trị với tư cách là một hệ thống các giá trị, gồm các thành tố sau đây: Thứ nhất, trình độ giác ngộ lý luận chính trị, lập trường quan điểm của giai cấp. + Tri thức, sự hiểu biết, giác ngộ khoa học về chính trị: Chính trị vốn là một lĩnh vực phức tạp, nhạy cảm, đòi hỏi con người khi tham gia vào đời sống chính trị, hoạt động chính trị phải có những hiểu biết toàn diện, đúng đắn và sâu sắc về nó. V.I.Lênin nói: “người không biết chữ là người đứng ngoài chính trị”. Chỉ có trên cơ sở hiểu biết đúng đắn, sâu sắc về chính trị và về xã hội nói chung, các chủ thể chính trị mới có thể giác ngộ về lợi ích, mục tiêu chính trị, xác định được động cơ, thái độ chính trị đúng đắn, từ đó mới tự giác, quyết tâm, sáng tạo trong hoạt động thực tiễn, trong hành vi chính trị.V.I.Lênin đã từng khẳng định: “Chừng nào người ta chưa biết phân biệt được lợi ích của giai cấp này hay của giai cấp khác, ẩn đằng sau bất kỳ những câu nói, những lời tuyên bố và những lời hứa hẹn nào có tính chất đạo đức, tôn giáo, chính trị và xã hội, thì trước sau bao giờ người ta cũng vẫn là kẻ ngốc nghếch, bị người khác lừa bịp và tự lừa bịp mình về chính trị”. Tri thức, sự hiểu biết về chính trị bao gồm tri thức kinh nghiệm chính trị và tri thức lý luận chính trị là sản phẩm của một quá trình quan sát, trải nghiệm, đúc rút, tích lũy qua hoạt động thực tiễn của các chủ thể chính trị, tạo thành vốn sống, thói quen, linh cảm, sự nhạy bén chính trị, là cơ sở thực tiễn cho bước phát triển thành tri thức lý luận. Tri thức lý luận chính trị là sự hệ thống hóa, khái quát hóa, chỉ ra cái bản chất, tất yếu, cái chung, phổ biên, nâng lên thành lý luận, thành quy tắc từ những kinh nghiệm chính trị thực tiễn. Như vậy, hai cấp độ, hai hệ thống tri thức có mỗi quan hệ hữu cơ, bổ sung cho nhau, đòi hỏi trong hoạt động chính trị các chủ thể chính trị không được coi nhẹ hoặc tuyệt đối hóa một mặt nào. Tuyệt đối hóa tri thức lý luận, chú trọng bằng cấp, coi nhẹ kinh nghiệm thực tiễn sẽ dẫn đến lý luận suông và chủ nghĩa giáo điều. Ngược lại, tuyệt đối hóa kinh nghiệm, coi thường lý luận sẽ dẫn đến chủ nghĩa kinh nghiệm, hành động mù quáng, cảm tính. V.I. Lênin đã khẳng định: “Không có lý luận cách mạng thì không có phong trào cách mạng”. Suy cho cùng lý luận phải bắt nguồn từ tổng kết thực tiễn, gắn với thực
- 14 tiễn. Những kinh nghiệm thực tiễn phải được tổng kết, nâng lên thành lý luận, phải được tri thức lý luận soi đường mới phát huy được hiệu quả tích cực trong thực tiễn chính trị. + Nhu cầu, thói quen, trình độ nhận định và đánh giá những hiện tượng, những quá trình chính trị của các chủ thể chính trị: Trên cơ sở những hiểu biết về chính trị, truyền thống mỗi dân tộc, trình độ hoàn thiện và phát triển của các thể chế chính trị mà nhu cầu, thói quen chính trị của các chủ thể chính trị hình thành ổn định, đồng thời khả năng nhận định, đánh giá các hiện tượng, các quá trình chính trị của họ cũng từng bước được xác lập làm cơ sở cho những hoạt động của những cá nhân phù hợp với những chuẩn mực và lợi ích cộng đồng; nâng cao tinh thần và tính kiên quyết đấu tranh bảo vệ hoặc phê phán những hiện tượng, sự kiện trong đời sống xã hội theo quan điểm, lập trường chính trị nhất định. Theo V.I.Lênin thì một lập trường chính trị đúng đắn có nghĩa là: “Thứ nhất, nhân danh tổ chức mà nêu lên một nhận định hẳn hoi về tình hình hiện thời và về sách lược, đưa ra được một loạt nghị quyết. Thứ hai, đưa ra được một khẩu hiệu chiến đấu cho tình hình hiện nay. Thứ ba, đem hai điểm nói trên (nghị quyết, khẩu hiệu) gắn với hành động của quần chúng vô sản và của đội tiền phong giác ngộ của họ”. + Niềm tin, sự thuyết phục về chính trị: Chính trị là một lĩnh vực đầy khó khăn, phức tạp, nguy hiểm và bất trắc vì nó liên quan đến lợi ích, quyền lực. Vì vậy, trong hoạt động chính trị phải có niềm tin, phải được giác ngộ, thuyết phục. Niềm tin, sự thuyết phục về chính trị có thể được hình thành một cách tự phát, cảm tính, hoặc là kết quả của một quá trình nhận thức đúng đắn, khoa học về lý tưởng chính trị, con đường cách mạng đã chọn. Niềm tin, sự thuyết phục về chính trị được hình thành một cách tự phát, cảm tính dễ dẫn đến dao động, bế tắc, đổ vỡ khi hoàn cảnh thay đổi, thậm chí đưa con người đến chỗ cơ hội, phản bội khi gặp khó khăn, thất bạn tạm thời hoặc kết quả không như mong muốn. Ngược lại, niềm tin và sự thuyết phục về chính trị nếu được thành lập bằng con đường tự giác, khoa học, dựa trên sự hiểu biết đúng đắn, sâu sắc về quy luật, xu hướng phát triển tất yếu của sự vật về lý tưởng chính trị, về con đường cách mạng đã lựa chọn sẽ tạo nên động lực chính trị ổn định,
- 15 mạnh mẽ, giúp con người vững vàng trước mọi thử thách, phát huy tính chủ động, sáng tạo trong hoạt động chính trị. Vai trò ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động chính trị của chủ thể tùy thuộc vào mức độ và cơ sở của niềm tin, sự thuyết phục chính trị. Nếu kết hợp được cả tình cảm và lý trí, tự giác và khoa học, khi tạo dựng niềm tin thì niềm tin đó sẽ trở nên vững vàng, sắt đá, tạo nên sức mạnh to lớn giúp con người thành công trong hoạt động chính trị. Thứ hai, hệ thống các giá trị, chuẩn mực phù hợp với lợi ích của giai cấp được cụ thể hóa dưới dạng các quy phạm pháp luật, có chức năng điều khiển hành vi của toàn xã hội. + Các truyền thống chính trị: Theo quy luật kế thừa và phủ định biện chứng, văn hóa tổ chức ủa mỗi dân tộc, mỗi giai cấp không ra đời từ hư vô, tự nhiên xuất hiện, mà là kết quả của phủ định biện chứng, kế thừa và phát huy những yếu tố tích cực, tiến bộ, phù hợp trong truyền thống chính trị được tích lũy từ trước đó. Các truyền thống chính trị in đậm dấu ấn lên hoạt động chính trị, tạo nên bản sắc riêng của văn hóa của mỗi dân tộc, mỗi giai cấp, mỗi chế độ chính trị, đồng thời góp phần làm phong phú và đa dạng thêm cho văn hóa đương đại. Vì vậy, giáo dục và phát huy truyền thống chính trị cho các chủ thể chính trị là một phương thức để duy trì và phát huy văn hóa chính trị trong hoạt động chính trị. Việt Nam từ ngàn đời xưa, với lịch sử lâu dài dựng nước và giữ nước, nhân nghĩa chính là nét đặc sắc trong văn hóa chính trị truyền thống. Trong thời đại mới, văn hóa chính trị nhân nghĩa không chỉ là yên dân, trừ bạo, mà hơn thế nữa là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Nhân nghĩa tức là xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, dân chủ, tiến bộ xã hội và góp phần vào sự nghiệp hòa bình trên thế giới. + Những lý tưởng chính trị cao đẹp mà con người hướng tới: Nói đến văn hóa chính trị là nói đến những giá trị “chân - thiện - mỹ” mà con người phấn đấu, hướng tới trong hoạt động chính trị, trong đó có lý tưởng trong sáng cao đẹp. Ở mỗi giai đoạn lịch sử phát triển, mỗi giai cấp, mỗi dân tộc đều có những lý tưởng, hoài bão chính trị nhất định mà nó cần hướng tới, thể hiện tập trung những đặc trưng, phản ánh bản chất và cấu thành nội dung chủ đạo của văn hóa chính trị của nó tại thời điểm đó.
- 16 Chẳng hạn, trong thời kỳ cách mạng tư sản, lý tưởng giải phóng con người ra khỏi thần quyền và xiềng xích phong kiến, hướng đến những giá trị tự do, bình đẳng, bác ái, nhân quyền, sở hữu tư nhân được giai cấp tư sản đề xướng, nêu cao, trở thành khẩu hiệu chiến đấu, ngọn cờ để tập hợp các tầng lớp nhân dân trong cuộc đấu tranh chống chế độ phong kiến, thiết lập trật tự xã hội mới, chính trị mới. Đó cũng là những nội dung, những giá trị cơ bản, chủ đạo của văn hóa chính trị thời kỳ tư bản. Sang thời kỳ cách mạng vô sản thì lý tưởng cộng sản chủ nghĩa vì một xã hội không có giai cấp, không có áp bức, bóc lột, trở thành định hướng và mục tiêu chiến lược của văn hóa chính trị vô sản. Ở nước ta, lời Chủ tịch Hồ Chí Minh “Không có gì quý hơn Độc lập và Tự do” trở thành lý tưởng, niềm tin, sức mạnh của toàn dân trong cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc, tạo thành nội dung chủ đạo của văn hóa chính trị thời kỳ đất nước ta chưa có độc lập, thống nhất. Ngày nay, mục tiêu “ Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” đã quy định nội dung chủ đạo và mục tiêu văn hóa chính trị Việt Nam thời kỳ đổi mới. Thứ ba, tập hợp những giá trị được quy phạm hóa thành những chuẩn mực có chức năng điều khiển những chủ thể tham gia vào đời sống chính trị. + Những chuẩn mực, phương tiện, phương thức tổ chức và hoạt động của quyền lực: Những giá trị chính trị được đúc kết thành những chuẩn mực chính trị, được xã hội thừa nhận sẽ có ý nghĩa trong việc định hướng, điều chỉnh hành vi cho các chủ thể chính trị trong cuộc đấu tranh giành và thực thi quyền lực. Các chuẩn mực chính trị một khi được xã hội thừa nhận, nghĩa là được thể chế hóa thành kết cấu xã hội, thành phương thức hoạt động của các chủ thể chính trị, trong đó hình thức tổ chức quyền lực, tổ chức nhà nước, cơ chế vận hành của nó thích ứng với yêu cầu chính trị thực tiễn là nhân tố quan trọng cấu thành văn hóa chính trị trong xã hội tương ứng. Ngoài ra, các phương tiện phục vụ cho hoạt động, điều chỉnh các quan hệ chính trị, những giá trị vật chất của văn hóa chính trị không chỉ là yếu tố cấu thành văn hóa chính trị mà hơn thế nữa làm cho việc tổ chức quyền lực, mà cơ bản nhất là quyền lực nhà
- 17 nước, có hiệu quả nhất trong việc thực thi quyền lực và bảo vệ lợi ích của giai cấp chủ thể quyền lực. + Hệ tư tưởng chính trị, đường lối, chính sách của giai cấp cầm quyền: Hệ tư tưởng chính trị phản ánh tập trung lợi ích cũng như phương thức, phương tiện, con đường hiện thực hóa lợi ích cơ bản của giai cấp, của xã hội nói chung. Trong văn hóa chính trị, thì hệ tư tưởng xã hội là một bộ phận cốt lõi, là thành tố cơ bản thể hiện trình độ, năng lực sáng tạo, mức độ nhận thức chung về chính trị của xã hội ở một giai đoạn nhất định. Trong xã hội bao gồm nhiều giai cấp, tầng lớp, nhóm xã hội với những lợi ích, động cơ hoạt động khác nhau, do đó cũng tồn tại nhiều hệ tư tưởng, với những biểu hiện văn hóa chính trị khác nhau. Tuy nhiên, hệ tư tưởng của giai cấp thống trị sẽ là hệ tư tưởng thống trị xã hội và chi phối trình độ, xu hướng phát triển văn hóa chính trị của xã hội. Hệ tư tưởng được giai cấp cầm quyền thể chế hóa thành pháp luật, đường lỗi, chính sách chỉ đạo hoạt động thực tiễn nhằm thực thi những mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể. Đối với giai cấp vô sản, hệ tư tưởng Mác - Lênin là đỉnh cao trí tuệ, văn hóa của nhân loại, cũng đồng thời là nền tảng của tư tưởng văn hóa chính trị vô sản. Hiện nay ở nước ta, việc giáo dục truyền bá tư tưởng Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước có ý nghĩa quan trọng trong định hướng và khẳng định văn hóa chính trị trong hiện thực cuộc sống. + Trình độ hoàn thiện của thể chế chính trị: Sự hoàn thiện của thể chế chính trị trước hết biểu hiện sức mạnh, tính hiệu lực của thiết chế và pháp chế; giá trị và sức mạnh của truyền thống; tính pháp lý, tính phổ biến của các chuẩn mực xã hội trong việc điều chỉnh những hành vi, quan hệ xã hội - chính trị phù hợp với mục tiêu chính trị. Sau nữa, sự hoàn thiện của thể chế chính trị biểu hiện sự kiện toàn và sức mạnh của hệ thống tổ chức quyền lực trong tổ chức xã hội, trong phối hợp hành động, trong việc khơi dậy và nhân lên sức mạnh của truyền thống và hiện tại, sức mạnh của giai cấp, dân tộc, nhân loại trong việc hiện thực hóa mục tiêu chính trị. Như vậy, ta thấy văn hóa chính trị là một cấu trúc phong phú, đa dạng, là một tổng thể chứa đựng trong nó hàng loạt những hệ vấn đề: Hệ tư tưởng, quan điểm và định
- 18 hướng chính trị; tri thức, sự hiểu biết về chính trị; niềm tin, sự thuyết phục về chính trị; các truyền thống về chính trị được thiết lập trong lịch sử dân tộc; những tư tưởng mà chúng ta cố gắng đạt tới trong chính trị; những phương tiện chính trị, những chuẩn mực, những phương thức tổ chức và hoạt động của quyền lực chính trị Rút gọn lại, nói văn hóa chính trị là nói đến trình độ và hiệu quả của hoạt động chính trị. Trình độ và hiệu quả đó phải mang tính tích cực đối với sự phát triển và tiến bộ xã hội. Nói một cách khác, văn hóa chính trị cũng phải là một hệ thống giá trị xã hội phản ánh đầy đủ các dấu hiệu “chân - thiện - mỹ”, nó là một tiêu chí quan trọng để xác định sự phát triển và trình độ chung của ý thức xã hội và ý thức công dân. 2.2. Đặc điểm của văn hóa chính trị Việt Nam 2.2.1. Những yếu tố làm nên nét đặc sắc của văn hoá chính trị Việt Nam Một là, về lịch sử, văn hoá chính trị Việt Nam được hình thành và phát triển trong quá trình hình thành ý thức dân tộc, quốc gia, kết tinh thành truyền thống dựng nước và giữ nước của các thế hệ người Việt Nam. Ý thức độc lập dân tộc, tự lực tự cường, tinh thần yêu nước, đoàn kết cộng đồng đã trở thành nội dung bền vững mang tính truyền thống của văn hoá chính trị Việt Nam. Hai là, lòng tự hào, tự tôn dân tộc, nền văn hiến quốc gia, tinh thần yêu nước, đoàn kết, phát huy nội lực, sức mạnh của mọi tầng lớp nhân dân, gắn liền với việc coi trọng, tôn vinh hiền tài đã tạo nên sức sống của văn hoá chính trị, và, khả năng phát huy những truyền thống, giá trị tốt đẹp đó của dân tộc đã tạo nên “độ cao” của văn hoá chính trị. Ba là, tôn trọng đạo lý, tôn trọng chính nghĩa, bảo vệ công lý, quật cường dân tộc, nhưng nhân ái, khoan dung, độ lượng, vị tha. Những nét đẹp đó đã tác động, ảnh hưởng, làm cho văn hóa chính trị Việt Nam mang tính nhân văn, nhân đạo sâu sắc. Bốn là, do đặc điểm của địa chính trị nước ta, nên văn hoá chính trị Việt Nam có nột nét nổi bật là phải sáng tạo. Nhờ khả năng sáng tạo mà bản sắc văn hoá dân tộc dã được giữ vững và phát triển qua các thời kỳ. Đặc biệt, tính sáng tạo này càng thể hiện rõ
- 19 nét khi đất nước, dân tộc đứng trước những thời điểm khó khăn, quyết định vận mệnh của dân tộc. Chính nét sáng tạo ấy đã đem lại một tầm vóc, một vẻ đẹp văn hoá của nền chính trị Việt Nam. Bên cạnh những nét đẹp đó, cũng cần nhận thấy rằng, do nước ta xuất phát là một nước nông nghiệp lạc hậu, lại trải qua quá nhiều các cuộc chiến tranh giữ nước, vì thế những yếu tố như tâm lý tiểu nông khá đậm, kinh nghiệm chủ nghĩa, triết lý chung chung, thiếu tính khách quan và cơ sở khoa học vững chắc, dễ hài lòng với mình, tâm lý chạy theo thành tích, “bệnh” hình thức , nếu như không được hạn chế, khắc phục kịp thời, sẽ có tác động tiêu cực, bào mòn dần sức sống và khả năng sáng tạo của văn hoá chính trị Việt Nam. 2.2.2. Một số đặc điểm tiêu biểu của văn hóa chính trị Việt Nam Văn hóa chính trị là một phương diện của văn hóa, ở đó kết tinh toàn bộ các giá trị, phẩm chất, trình độ năng lực chính trị, được hình thành. Văn hóa chính trị là một phương diện của văn hóa, ở đó kết tinh toàn bộ các giá trị, phẩm chất, trình độ năng lực chính trị, được hình thành trên một nền chính trị nhất định, nhằm thực hiện lợi ích giai cấp, dân tộc, cộng đồng phù hợp với xu hướng phát triển – tiến bộ của xã hội loài người. Là một phương diện của văn hóa, cho nên văn hóa chính trị là nhát bổ dọc lịch sử văn hóa theo lĩnh vực hoạt động chính trị. Những bản chất, tính chất, đặc trưng và kết cấu của văn hóa đều có mặt trong văn hóa chính trị. Cái riêng của văn hóa chính trị ở đây chỉ là những bản chất, đặc tính, yếu tố văn hóa đó biểu hiện trong lĩnh vực hoạt động chính trị. Văn hóa chính trị Việt Nam từ ngày có Đảng Cộng sản đến nay, một nền chính trị lấy chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng. Đây là nền chính trị thực hiện lý tưởng xã hội chủ nghĩa. Đặc điểm văn hóa chính trị Việt Nam mang tính xã hội chủ nghĩa được thể hiện trên những khía cạnh sau:
- 20 Thứ nhất, lấy chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng, đó cũng là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hoạt động chính trị, của văn hóa chính trị. Đây là hệ tư tưởng khoa học, tiến bộ soi sáng con đường cách mạng Việt Nam. Trong giai đoạn hiện nay việc bảo vệ, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn cách mạng Việt Nam là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách trong công tác tư tưởng, lý luận của Đảng ta. Thứ hai, văn hóa chính trị Việt Nam hiện nay là sự kế thừa văn hóa chính trị Việt Nam truyền thống. Văn hóa chính trị Việt Nam được hình thành và phát triển gắn liền với lịch sử dân tộc Việt Nam. Những giá trị văn hóa truyền thống ấy không ngừng được bổ sung, phát triển và hoàn thiện cho phù hợp với hoàn cảnh mới. Nếu như trong truyền thống hệ giá trị độc lập dân tộc và bảo vệ chủ quyền quốc gia thì trong giai đoạn hiện nay là độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội. Đây là hệ giá trị thiêng liêng trong giai đoạn hiện nay. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là tư tưởng chính trị đặc sắc, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa xã hội là mục tiêu, lý tưởng, là điều kiện bảo đảm cuộc sống ấm no, tự do hạnh phúc cho nhân dân, là nhân tố bảo đảm vững chắc nền độc lập dân tộc. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở đảm bảo vững chắc cho độc lập dân tộc. Xuất phát từ quan điểm độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội thì biểu hiện của lòng yêu nước trong giai đoạn hiện nay khác với lòng yêu nước truyền thống. Yêu nước trong giai đoạn hiện nay là yêu chủ nghĩa xã hội, đấu tranh chống đói nghèo, lạc hậu, âm mưu diễn biến hòa bình của các thế lực thù địch, quyết tâm thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
- 21 Từ trong lịch sử xa xưa, các thể chế chính trị đều coi mục tiêu chính trị là nhân dân, lực lượng chính trị cũng là nhân dân, dân là gốc. Hiện nay việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân được xem là mục tiêu chính trị quan trọng của Đảng và Nhà nước ta. Hệ thống chính trị tập hợp và phát huy cao độ sức mạnh toàn dân trong quá trình thực thi quyền lực chính trị với cơ chế hoạt động: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Chính sách đối ngoại của Việt Nam hiện nay là sự kết hợp tài tình giữa ngoại giao truyền thống mang tính hòa hiếu, hòa bình, nhân nghĩa, thủy chung với những tư tưởng ngoại giao của Chủ tịch Hồ Chí Minh được vận dụng linh hoạt và sáng tạo trong từng hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Phát triển quan hệ với tất cả các nước, các vùng lãnh thổ trên thế giới và các tổ chức quốc tế theo các nguyên tắc: tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau; tôn trọng lẫn nhau, bình đẳng và cùng có lợi, Thứ ba, văn hóa chính trị Việt Nam hiện nay là một nền văn hóa chính trị cách mạng – khoa học – nhân văn theo mục tiêu xã hội chủ nghĩa. Để thực hiện mục tiêu xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn hiện nay, Đảng ta tiến hành xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Phát triển kinh tế vì mục tiêu xã hội chủ nghĩa, nâng cao đời sống của nhân dân, đảm bảo công bằng, bình đẳng, ấm no, hạnh phúc cho con người. Thế nhưng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chỉ phát triển trên nền tảng một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân do dân vì dân, thực chất nói đến một nền chính trị thật sự dân chủ. Phát triển kinh tế, xây dựng nhà nước pháp quyền theo mục tiêu nhân văn trong nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc Việt Nam. Đây là sự tìm tòi sáng tạo trên con đường đi tới một nền chính trị văn hóa cao của Đảng và nhân dân ta. Ngoài ra, văn hóa chính trị hiện nay còn thể hiện ở tính khoa học. Xây dựng nền văn hóa chính trị với sự tiếp nhận những giá trị tiên tiến, những quy luật phát triển xã hội,
- 22 tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng hệ thống chính trị khoa học và phù hợp với đặc điểm Việt Nam. Như vậy, văn hóa chính trị Việt Nam hiện nay với những đặc điểm cơ bản nêu trên là sự nối tiếp từ truyền thống đến hiện đại. Đó là sự nối dài, phát huy, nâng lên tầm cao mới các giá trị truyền thống làm cho các giá trị ấy được kết tủa, bồi đắp ngày càng phong phú, đa dạng, khoa học, nhân văn phù hợp với hoàn cảnh mới của đất nước trong giai đoạn hiện nay. 2.3. Văn hóa chính trị thể hiện trong sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam Xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh là mục tiêu mang đậm tính văn hóa chính trị nhân văn sâu sắc, mà đất nước ta, nhân dân ta vươn tới dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam - Đảng duy nhất cầm quyền ở nước ta. Nét văn hóa chính trị trong sự lãnh đạo của Đảng được thể hiện ở các khía cạnh sau: Thứ nhất, về lựa chọn giá trị, Đảng ta khẳng định để xây dựng nền văn hóa chính trị Việt Nam tiên tiến, hiện đại, cần kế thừa các giá trị văn hóa chính trị truyền thống tốt đẹp được kết tinh qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, kế thừa các giá trị văn hóa chính trị tinh hoa của các nước trên thế giới, trên cơ sở lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động. Chính vì cách lựa chọn giá trị như vậy nên trong bối cảnh các nước xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ vào thập kỷ cuối cùng của thế kỷ XX, Đảng ta vẫn kiên định chủ nghĩa Mác - Lê-nin, đồng thời chủ trương thực hiện đường lối đổi mới toàn diện đất nước. Đảng cũng khẳng định chúng ta “đổi mới” nhưng tuyệt đối không "đổi màu". Bản chất nền chính trị của chúng ta là khoa học, cách mạng, dân chủ và nhân văn. Đó là nền chính trị phấn đấu vì hạnh phúc của nhân dân, hướng tới mục đích "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh". Mục tiêu ấy không chỉ phù hợp với nguyện vọng của
- 23 đông đảo nhân dân Việt Nam, của lý tưởng xã hội xã hội chủ nghĩa, mà còn là mục tiêu cao đẹp mà nhân loại tiến bộ hướng tới. Thứ hai, trong đường lối xây dựng và phát triển kinh tế, Đảng chủ trương xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Việc xây dựng một nền kinh tế thị trường là một tất yếu kinh tế khách quan, bởi kinh tế thị trường kích thích sự phát triển kinh tế, phát huy sức sản xuất, khơi dậy tính năng động, sáng tạo của con người, tính hiệu quả trong việc sử dụng hợp lý các nguồn lực Tuy nhiên, kinh tế thị trường cũng có rất nhiều mặt trái, đó là sự cạnh tranh tàn khốc “cá lớn nuốt cá bé"; tạo ra sự bất công, bất bình đẳng, phân hóa giàu nghèo, phân cực trong xã hội; khai thác cạn kiệt môi trường, tài nguyên vì mục tiêu lợi nhuận kinh tế thuần túy; làm băng hoại nhiều giá trị đạo đức tốt đẹp; làm quan hệ con người với con người trở nên sòng phẳng, lạnh lùng hơn; làm phai nhạt những giá trị văn hóa truyền thống Việc Đảng ta xác định xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chính là để khắc phục những hạn chế vốn có của nền kinh tế thị trường. Đây là khía cạnh văn hoá của tăng trưởng kinh tế: tăng trưởng phải gắn liền với việc đảm bảo quyền lợi của đa số nhân dân lao động, với tiến bộ và thực hiện công bằng xã hội. Thứ ba, trong việc xây dựng một Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Việc khẳng định quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân đã được ghi trong Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam 1992. Văn kiện Đại hội lần thứ IX của Đảng chỉ rõ: "Nhà nước ta là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, là Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân. Quyền lực của nhà nước là thống nhất là của dân, không phân chia nhưng có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật. Mọi cơ quan, tổ chức, cán bộ, công chức, mọi công dân có nghĩa vụ chấp hành Hiến pháp và pháp luật". Việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta là hợp quy luật phát triển của lịch sử vì "suy cho cùng chính là nhằm thực hiện dân chủ. Pháp luật của Nhà nước ta luôn luôn là công cụ mạnh mẽ và có hiệu
- 24 lực đối với việc dân chủ hoá mọi mặt của đời sống xã hội, bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá - xã hội ". Tinh thần dân chủ trong tư duy chính trị của Đảng được thể hiện rất rõ ở tư tưởng lấy “dân làm gốc”, và, “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Một nền chính trị nhân văn phải là nền chính trị tôn trọng quyền lợi của đa số nhân dân, thực sự do dân làm chủ, nhà nước là cơ quan được ủy quyền để thực thi quyền lực nhân dân, để thực hiện lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Những bước tiến trong nhận thức lý luận và tư duy chính trị của Đảng được thể hiện rõ trong hàng loạt các văn kiện ban hành trong thời kỳ đổi mới. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991) đã chính thức sử dụng khái niệm "hệ thống chính trị". Hệ thống chính trị của chúng ta được vận hành theo cơ chế: "Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ". Để tăng cường vai trò của Nhà nước và sự nghiêm minh của pháp luật, Nhà nước đã ban hành nhiều luật khác nhau, nhằm làm cho mọi người sống và làm việc theo pháp luật. Chủ trương cải cách bộ máy hành chính, trưng cầu ý kiến rộng rãi của nhân dân, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội chính là những bước tiến đáng chú ý của văn hoá chính trị trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế. Thứ tư, thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế. Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác. Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực. Phát triển quan hệ với tất cả các nước, các vùng lãnh thổ trên thế giới và các tổ chức quốc tế theo các nguyên tắc: tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau; không dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực; giải quyết các bất đồng và tranh chấp thông qua thương lượng hòa bình; tôn trọng lẫn nhau, bình đẳng và
- 25 cùng có lợi. Với đường lối và chính sách đối ngoại rộng mở đó đến nay, chúng ta đã thiết lập quan hệ kinh tế - thương mại với trên 170 quốc gia, nền kinh tế, đã ký kết khoảng 60 hiệp định kinh tế - thương mại song phương, trong đó có toàn bộ các nước, nền kinh tế phát triển, thị trường lớn. Chúng ta ngày càng hoạt động tích cực và hiệu quả, nâng cao vị thế đất nước trong các thể chế hợp tác quốc tế. Thứ năm, xác định “xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt”. Để lãnh đạo đất nước nắm bắt cơ hội, vượt qua khó khăn, đạt được mục tiêu cao cả đã đề ra, Đảng - người lãnh đạo đất nước, phải có một đội ngũ cán bộ có văn hóa chính trị cao, có trình độ và khả năng thực hiện các nội dung chính trị một cách văn hóa. Chính vì thế, Đảng luôn tiến hành đổi mới và chỉnh đốn Đảng, làm trong sạch đội ngũ cán bộ, đảng viên, giữ vững sự đoàn kết và uy tín của Đảng trong nhân dân. Bản chất văn hoá chính trị tiến bộ cũng xa lạ với tệ quan liêu, tham nhũng, xa hoa, lãng phí. Trong những năm đổi mới vừa qua, Đảng ta đã tiến hành đổi mới và chỉnh đốn Đảng, làm trong sạch đội ngũ cán bộ, đảng viên, giữ vững sự đoàn kết và uy tín của Đảng, củng cố, và giữ vững niềm tin trong nhân dân. Văn kiện Đại hội VII của Đảng khẳng định: "Đảng ta coi việc tự đổi mới, tự chỉnh đốn và nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng là yêu cầu quan trọng hàng đầu trong công tác xây dựng Đảng, là công việc thường xuyên bảo đảm cho Đảng ta luôn ngang tầm nhiệm vụ cách mạng" . Tôn trọng, lắng nghe ý kiến của nhân dân, coi trọng phản biện xã hội, mở rộng dân chủ trong tất cả các lĩnh vực, xây dựng và từng bước hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đã tạo nên những tiền đề, động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp đổi mới ở nước ta ngày càng tiến triển mạnh mẽ. Phát huy những thành tựu đã đạt được, vượt qua những khó khăn, thách thức trong quá trình hội nhập quốc tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế, thực hiện tốt an sinh xã hội, giải quyết những tồn đọng, những vấn đề gây bức xúc trong dân hiện nay , sẽ là những yếu tố quan trọng để nâng cao hơn nữa
- 26 tính văn hóa chính trị trong sự lãnh đạo của Đảng,để Đảng xứng đáng với tên gọi: "Đảng ta là đạo đức, là văn minh”. 2.4. Một số vấn đề phương hướng giáo dục, nâng cao văn hóa chính trị ở nước ta hiện nay Xây dựng văn hóa chính trị trở thành một bộ phận không tác rời của chiến lược xây dựng và phát triển văn hoá ở nước ta, trước hết cần chú trọng đặc biệt tới các nhân tố tư tưởng, đạo đức lối sống và đời sống văn hoá tinh thần là những vấn đề nổi bật và bức xúc hiện nay. Xây dựng văn hóa chính trị gắn liền mật thiết giữa giáo dục tuyên truyền đường lối quan điểm của Đảng, chính sách và pháp luật của nhà nước với việc nâng cao ảnh hưởng thực tế của đường lối, chính sách ấy trong đời sống xã hội, thực hiện công phu lâu dài việc giáo dục ý thức chính trị, giáo dục đạo đức và tình cảm cách mạng, nâng cao trình độ học vấn và dân trí nối chung để quần chúng tham gia vào hoạt động chính trị một cách chủ động, tích cực và sáng tạo. Thực hành rộng rãi văn hóa chính trị một cách thiết thực vào lúc này là thực hành dân chủ, là đấu tranh với tệ quan liêu và tham nhũng, đấu tranh với mọi biểu hiện vi phạm dân chủ và quyền làm chủ của dân, vi phạm pháp luật, sự suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên nhất là những người có chức có quyền. Để làm cho văn hoá, trong đó có văn hóa chính trị thấm sâu vào đời sống trước hết phải chủ động giáo dục văn hóa chính trị trong Đảng, trong nhà nước và trong các đoàn thể chính trị xã hội của quần chúng, đặc biệt là trong Đảng, từ các tổ chức Đảng ở cơ sở đến toàn Đảng. Cán bộ đảng viên phải làm gương mẫu cho quần chúng nên việc giáo dục và thực hành văn hóa chính trị trong Đảng, trong các cơ quan nhà nước phải được chú trọng thường xuyên, phải thật sự có tác dụng nêu gương cho quần chúng, thực sự là nội dung cốt lõi, chủ đạo của văn hóa chính trị trong xã hội. Xây dựng văn hóa chính trị phải chú trọng đầy đủ những tiêu chuẩn, những giá trị và chuẩn mực, trước hết là đạo đức cách mạng cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, là
- 27 năng lực trong công tác thực tế, là năng lực vận động quần chúng và đề cao trách nhiệm với dân, sống gần dân, thấu hiểu dân, tận tuỵ phục vụ dân, chống mọi biểu hiện quan chủ, quan cách mạng vốn xa lạ với bản cất văn hóa chính trị thân dân, dân chủ. Đó là vấn đề chủ yếu trong phương hướng xây dựng văn hóa chính trị ở nước ta hiện nay. Để thực hiện được phương hướng nêu trên trong việc xây dựng văn hóa chính trị cần lưu ý những giải pháp sau: Nâng cao trình độ học vấn, mặt bằng dân trí trong xã hội. Dân trí không phải hướng vào đối tượng dân mà phải đặc biệt chú trọng tới năng lực hiểu biết, năng lực trí tuệ của người lãnh đạo, người quản lý của công chức, quan chức. Nâng cao dân trí, đòng thời phải rất chú trọng nâng cao chất lượng cácn bộ lãnh đạo, nhất là đạo đức năng lực trí tuệ của họ. Cán bộ đảng viên mà ngại khó, lười học tập, rèn luyện phải được xem là thoái hoá hư hỏng, không phù hợp với yêu cầu xã hội học tập trong điều kiện hiện nay. Mở rộng việc cung cấp thông tin, xã hội hoá và cập nhật hoá thông tin theo tinh thần công khai, dân chủ, đạo đức, pháp luật. Tính khách quan, trung thực của thông tin và truyền bá thông tin là điều không thể thiếu, để có chính trị lành mạnh và văn hóa chính trị dân chủ. Cùng với thông tin là đẩy mạnh giáo dục pháp luật. Tông trọng pháp luật, tự giác thực hiện pháp luật, đấu tranh cho việc pháp luật được coi trọng và xử lý nghiêm minh theo luật, thực hiện nghiêm chỉnh nguyên tắc bình đẳng của tất cả mọi người trước pháp luật là đòi hỏi cấp bách. Không có những đảm bảo khoa học, đạo đức, pháp luật thì không thể có bất cứ một văn hóa chính trị nào theo nghĩa trung thực, nghiêm túc của nó. Tôn trọng và thực hành các giá trị, các chuẩn mực dân chủ trong lối sống, hành vi, ứng xử chính trị Trao dồi đạo đức, thực hành đạo đức theo tư tưởng và gương sáng Hồ Chí Minh. Thực hành đạo đức cách mạng ở tất cả mọi người trong các mối quan hệ với tự mình, với người khác, với công việc, với tổ chức. Phải có đủ bốn đức: cần, kiệm, liêm, chính thì mới là người hoàn toàn. Cần, kiệm, liêm, chính là đạo đức, là chính trị, là sự cô đọng các
- 28 giá trị văn hoá đạo đức, văn hoá chính trị. Đề cao nguyên tắc tính kỷ luật trong công tắc, tính kỷ luật trong công tác, trong sinh hoạt Đảng, trong rèn luyện tư cách đảng viên, trong đấu tranh phê bình. Chú trọng công tác kiểm tra, quản lý cán bộ, giữ mối liên hệ mật thiết với dân, dựa vào dân mà xây dựng Đảng, mà giáo dục cán bộ. Đó là điều đặc biệt cần thiết để xây dựng văn hóa chính trị trong Đảng, nhà nước, hệ thống chính trị và trong xã hội nói chung. C.KẾT LUẬN Văn hóa chính trị là một bộ phận của chính trị nước ta. Nó có vai trò vô cùng quan trọng trong việc phát huy tính tự giác, chủ động, sáng tạo của các chủ thể trong hoạt động chính trị. Chính văn hóa chính trị đã góp phần nâng cao nhận thức, rèn luyện bản lĩnh chính trị; định hướng và điều chỉnh hành vi con người trong quan hệ chính trị - xã hội. Ở nước ta, văn hóa chính trị được hình thành và phát triển từ rất sớm dựa trên sự kế thừa những truyền thống của dân tộc và nền tảng chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Chính vì thế mà văn hóa chính trị nước ta rất phong phú và đa dạng. Việc tìm hiểu rõ những giá trị tiêu biểu của văn hóa chính trị sẽ góp phần làm rõ đặc điểm văn hóa chính trị nước ta. Qua đó sẽ tạo điều kiện phát huy nhưng ưu điểm và khắc phục những mặt còn hạn chế làm động lực thúc đẩy sự ổn định chính trị, phát triển xã hội. Chính vì vậy nên nhóm tác giả đã tiến hành làm đề tài: “Văn hóa chính trị ở Việt Nam hiện nay” góp phần vào việc làm rõ hơn đặc điểm của văn hóa chính trị nước ta. Trong quá trình làm việc, do nhóm tác giả còn hạn chế về hiểu biết và kiến thức nên không thể tránh khỏi những sai sót. Rất mong được sự đóng góp, chia sẻ của thầy (cô) và các bạn. Danh mục tài liệu tham khảo 1.Bùi Trọng Tài – Lê Văn Cảnh, “Tập bài giảng Chính trị học đại cương” 2.Bùi Văn Nam Sơn, “Văn hóa và văn hóa chính trị”, 3. Trần Ngọc Thêm, giáo trình “Cơ sở văn hóa Việt Nam” chinh-tr%E1%BB%8B-bui-van-nam-s%C6%A1n/
- 29 4. với “Văn hóa chính trị Việt Nam trong thời kì đổi mới”.