Luận văn Nâng cao chất lượng công tác Bồi thường, hỗ trợ và tái định cư trên địa bàn Quận Ngô Quyền
Bạn đang xem tài liệu "Luận văn Nâng cao chất lượng công tác Bồi thường, hỗ trợ và tái định cư trên địa bàn Quận Ngô Quyền", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- luan_van_nang_cao_chat_luong_cong_tac_boi_thuong_ho_tro_va_t.pdf
Nội dung text: Luận văn Nâng cao chất lượng công tác Bồi thường, hỗ trợ và tái định cư trên địa bàn Quận Ngô Quyền
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Đất đai là nguồn tài nguyên thiên nhiên vô cùng quý giá mà tạo hoá đã ban tặng cho con người, là nguồn gốc của mọi của cải vật chất trong phường hội, là tư liệu sản xuất đặc biệt không thể thay thế, là thành phần quan trọng hàng đầu của sự sống, là nguồn tài nguyên không tái tạo trong nhóm tài nguyên hạn chế của mỗi quốc gia. Đất đai là địa bàn phân bố của các khu dân cư, là nền tảng xây dựng các ngành, các công trình phục vụ cho sản xuất, đời sống và sự nghiệp phát triển văng hoá, an ninh quốc phòng của mối đất nước. Nhận thấy tầm quan trọng của đất đai C.Mac đã khái quát rằng: “Đất là mẹ, sức lao động là cha sản sinh ra của cải vật chất”. Việt Nam cũng như nhiều nước khác trên thế giới, công tác bồi thường đất đai, giải phóng mặt bằng (GPMB), tái định cư (TĐC) là hiện tượng mà Nhà nước phải đối mặt như một quy luật tất yếu và phổ biến, không thể tránh khỏi. Đây là một vấn đề hết sức nhạy cảm, phức tạp tác động tới mọi mặt của đời sống kinh tế - chính trị - xã hội. Trong điều kiện quỹ đất ngày càng hạn hẹp, giá đất ngày càng cao, nhịp độ phát triển ngày càng lớn thì nhu cầu GPMB càng trở nên cấp thiết và trở thành một thách thức lớn đối với sự phát triển kinh tế, chính trị - phường hội trên phạm vi vùng, quốc gia. Vấn đề bồi thường giá đất, GPMB trở thành điều kiện tiên quyết để thực hiện dự án phát triển, nếu không được xử lý tốt thì sẽ trở thành vật cản của sự phát triển kinh tế - phường hội, bởi vậy đòi hỏi phải có sự quan tâm đúng mức và giải quyết triệt để. Ngày nay đất nước ta đang tiến hành công cuộc đổi mới kinh tế, công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Chúng ta đã và đang triển khai nhiều dự án đầu tư xây dựng và cải thiện cơ sở hạ tầng, các dự án đều cần quỹ đất. Sự phát triển đô thị, khu dân cư, an ninh quốc phòng, cơ sở sản xuất đều cần có qũy đất. Công tác bỗ trợ, tái định cư là một trong những khâu quan trọng khi thực hiện các dự án và 1
- là vấn đề nhạy cảm vì nó tác động đến người dân có đất thu hồi và nhiều lĩnh vực kinh tế xã hội. Hiện nay công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng thu hồi đất ở các địa phương gặp nhiều khó khăn, phức tạp ảnh hưởng đến tiến độ và thời gian thi công công trình, gây nhiều thiệt hại cho Nhà nước. Việc bồi thường, TĐC được thực hiện theo các quy định của Chính phủ như: điều 42 Luật Đất đai (LĐĐ) ngày 26/11/2003, Nghị định số 197/2004/NĐ-CP ngày 03/12/2004 của Chính phủ về bồi thường, hỗ trợ và TĐC khi Nhà nước thu hồi đất, Thông tư số 116/2004/TT-BTC ngày 07/12/2004 của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện Nghị định 197/2004/NĐ- CP, Nghị định 84/2007/NĐ-CP về quy định bổ sung về việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất, thực hiện quyền sử dụng đất, trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất và giải quyết khiếu nại về đất đai và Nghị định 69/2009/NĐ-CP về quy định bổ sung về quy hoạch sử dụng đất, giá đất, thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư. Từ ngày 01/7/2014 thực hiện theo Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất, Thông tư số 37/2014/TT-BTNMT ngày 30/6/2014 Quy định chi tiết về bồi thường, hỗ trợ, TĐC khi Nhà nước thu hồi đất, Quyết định số 2680/2014/QĐ-UBND ngày 03/12/2014 Quy định chi tiết một số nội dung về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn thành phố Hải Phòng có hiệu lực thi hành sau 10 ngày kể từ ngày ký và thay thế Quyết định số 130/2010/QĐ-UBND ngày 22/01/2010 Quyết định số 1263/2010/QĐ-UBND ngày 30/7/2010. Xuất phát từ thực tiễn trên, để nhìn nhận đầy đủ về công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư ở Quận Ngô Quyền - thành phố Hải Phòng, dưới sự hướng dẫn của PGS.TS Hà Xuân Chuẩn, tôi thực hiện đề tài: “ Nâng cao chất lượng công tác Bồi thường, hỗ trợ và tái định cư trên địa bàn Quận Ngô Quyền”. 2. Mục đích, đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu a. Mục đích nghiên cứu - Đánh giá việc thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và TĐC khi Nhà nước thu hồi đất trên tại một số dự án trên địa bàn Quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng. 2
- - Đề xuất các giải pháp góp phần hoàn thiện và đẩy mạnh công tác bồi thường, hỗ trợ và TĐC khi Nhà nước thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng. - Hiểu và nắm vững các quy định về chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư cũng như các văn bản pháp lý có liên quan đến công tác GPMB. - Các số liệu, tài liệu điều tra phải phản ánh đúng tình hình thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất ở một số dự án trên địa bàn Quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng. - Các số liệu phải có độ chính xác và được phân tích, đánh giá một cách khách quan. b. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Các dự án thu hồi đất và các quy định của pháp luật có liên quan. - Phạm vi nghiên cứu: Quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng c. Phƣơng pháp nghiên cứu * Phương pháp thu thập tài liệu, số liệu thứ cấp Thu thập tại các cơ quan chức năng các tài liệu có liên quan đến chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất đai trên địa bàn nghiên cứu. * Phương pháp phỏng vấn trực tiếp Sử dụng để phỏng vấn ban quan lý dự án, các phòng ban liên quan và các tổ chức. người có đất bị thu hồi (sử dụng bộ câu hỏi và phiếu điều tra) về mức độ hợp lý, cách thức tiến hành giải phóng mặt bằng, mức độ phù hợp của chính sách và các đề xuất kiến nghị về các điểm bất hợp lý trong chính sách và quá trình thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư . * Phương pháp thống kê, tổng hợp, phân tích, xử lý số liệu. * Phương pháp chuyên gia Phương pháp này phỏng vấn các chuyên gia trong lĩnh vực chuyên môn, để đưa ra các giải pháp tối ưu phù hợp với tình hình thực tế tại địa phương. 3
- *Phương pháp minh hoạ số liệu bằng bản đồ, đồ thị sử dụng phần mềm Exel. d. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn - Ý nghĩa khoa học: Phân tích đánh giá thực trạng việc tổ chức công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất ở một số dự án và đề xuất các kiến nghị giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách bồi thường giải phóng mặt bằng. - Ý nghĩa thực tiễn: góp phần giải quyết một số tồn tại, khó khăn trong quá trình thực hiện bồi thường, hỗ trợ và tái định cư trên địa bàn Quận Ngô Quyền nói riêng, các địa phương khác nói chung. 4
- CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.1 Cơ sở lý luận về bồi thƣờng giải phóng mặt bằng 1.1.1 Khái niệm về bồi thường và chính sách bồi thường - Bồi thường thiệt hại có nghĩa là trả lại tương xứng giá trị hoặc công lao cho một chủ thể nào đó bị thiệt hại vì một hành vi của chủ thể khác. - Việc bồi thường thiệt hại này có thể vô hình hoặc hữu hình (bồi thường bằng tiền, bằng vật chất khác ) có thể do các quy định của pháp luật điều tiết, hoặc do thoả thuận giữa các chủ thể. - Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất: là việc Nhà nước trả lại giá trị quyền sử dụng đất đối với diện tích đất bị thu hồi cho người bị thu hồi. - Giải phóng mặt bằng là quá trình tổ chức thực hiện các công việc liên quan đến di dời nhà cửa, cây cối và các công trình xây dựng trên phần đất nhất định được quy định cho việc cải tạo, mở rộng hoặc xây dựng một công trình khác trên diện tích đó. - Công tác bồi thường giải phóng mặt bằng xác lập từ khi thành lập Hội đồng giải phóng mặt bằng cho tới khi bàn giao mặt bằng cho chủ đầu tư. 1.1.2 Đặc điểm của quá trình bồi thường Giải phóng mặt bằng là quá trình phức tạp, liên quan trực tiếp đến lợi ích của các bên tham gia và lợi ích của toàn phường hội nó thể hiện khác nhau đối với mỗi dự án. Quá trình bồi thường giải phóng mặt bằng có các đặc điểm sau: - Tính đa dạng thể hiện: mỗi dự án được tiến hành trên một vùng đất khác nhau với điều kiện tự nhiên kinh tế, phường hội dân cư khác nhau. Khu vực nội thành, mật độ dân cư cao, ngành nghề đa dạng, giá trị đất và tài sản trên đất lớn, cho nên quá trình giải phóng mặt bằng có đặc điểm khác với khu vực nông thôn hoạt động sản xuất chủ yếu là nông nghiệp hoặc tiểu thủ công nghiệp. Do đó mỗi khu vực bồi thường GPMB có những đặc trưng riêng và được tiến hành với những giải pháp riêng phù hợp với những đặc điểm riêng của mỗi khu vực và từng dự án cụ thể. 5
- - Tính phức tạp: đất đai là tài sản có giá trị cao, có vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế phường hội đối với mọi người dân. Tại khu vực nông thôn, dân cư chủ yếu sống nhờ vào hoạt động sản xuất nông nghiệp cho nên đất đai là tư liệu sản xuất cơ bản. Đối với khu vực thành thị đất đai là tài sản có giá trị lớn gắn trực tiếp với đời sống sinh hoạt của người dân, với những chủ thể kinh doanh thì vị trí đất còn gắn với thu nhập của họ. Từ các đặc điểm như trên cho chúng ta thấy việc bồi thường thiệt hại cho mỗi diện tích đất khác nhau bị thu hồi về vị trí, điều kiện sử dụng thường khác nhau. - Đối với đất ở lại càng phức tạp hơn do những nguyên nhân sau: + Đất ở là tài sản có giá trị lớn, gắn bó trực tiếp với đời sống và sinh hoạt của người dân mà tâm lý, tập quán là ngại di chuyển chỗ ở. + Nguồn gốc sử dụng đất khác nhau qua nhiều thời kỳ với chế độ quản lý khác nhau, cơ chế chính sách không đồng bộ dẫn đến tình trạng lấn chiếm đất đai xây nhà trái phép diễn ra thường xuyên. + Thiếu quỹ đất do xây dựng khu tái định cư cũng như chất lượng khu tái định cư thấp chưa đảm bảo được yêu cầu. + Dân cư một số vùng sống chủ yếu bằng nghề buôn bán nhỏ và sống bám vào các trục đường giao thông của khu dân cư làm kế sinh nhai nay chuyển đến ở khu vực mới thì điều kiện kiếm sống bị thay đổi nên họ không muốn di chuyển. Từ các điểm trên cho thấy mỗi dự án khác nhau thì công tác GPMB được thực hiện khác nhau. 1.1.3 Giá đất và định giá đất 1.1.3.1 Giá đất Trong điều kiện đổi mới quản lý kinh tế giá đất đã được hình thành và được quy định trong Luật pháp, đó là tại Điều 4 Luật Đất đai năm 2003 “Giá quyền sử dụng đất (sau đây gọi là giá đất) là số tiền tính trên một đơn vị diện tích đất do Nhà nước quy định hoặc được hình thành trong giao dịch về quyền sử dụng đất”. Điều 56 Luật đất đai 2003 quy định: “ Nhà nước quy định giá các loại đất để tính thuế chuyển quyền sử dụng đất, thu tiền khi giao đất, tính giá trị tài sản khi 6
- giao đất, bồi thường thiệt hại về đất khi thu hồi”. Do đó chúng ta có thể hiểu “Giá đất” là cầu nối giữa mối quan hệ về đất đai - thị trường - sự quản lý của Nhà nước. Nhà nước điều tiết quản lý đất đai qua giá hay nói một cách khác: giá đất là công cụ kinh tế để quản lý và người sử dụng đất tiếp cận với cơ chế thị trường, đồng thời cũng là căn cứ để đánh giá sự công bằng trong phân phối đất đai, để người sử dụng thực hiện nghĩa vụ của mình và Nhà nước điều chỉnh các quan hệ đất đai theo pháp luật. Như vậy giá đất do nhà nước quy định chỉ nhằm để giải quyết mối quan hệ kinh tế giữa Nhà nước - chủ sở hữu đất và người sử dụng đất - người được Nhà nước giao đất hoặc cho thuê đất, không áp dụng giá này cho giao dịch dân sự như chuyển quyền sử dụng đất, thế chấp giá trị quyền sử dụng đất giữa những người được Nhà nước giao đất và cho thuê đất. Giá bán quyền sử dụng đất được hình thành trong các giao dịch dân sự là do các bên tự thoả thuận và giá này được gọi là “giá đất thực tế” hay “giá đất thị trường”. Giá đất thị trường là giá bán quyền sử dụng đất của một mảnh đất nào đó có thể thực hiện phù hợp với quy luật giá trị (trao đổi ngang giá), quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh, biểu hiện bằng tiền do người chuyển nhượng (bán) và người nhận chuyển nhượng (mua) tự thoả thuận với nhau tại thời điểm xác định. Như vậy trên thực tế có hai loại giá đất: giá do Nhà nước quy định và giá đất theo giá thị trường, hai giá này đều có mặt trong việc xử lý quan hệ đất đai (hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp) giữa Nhà nước với người sử dụng đất. 1.1.3.2 Định giá, định giá đất và định giá bất động sản Định giá: Là sự ước tính giá trị quyền sở hữu tài sản cụ thể bằng hình thái tiền tệ cho một mục đích đã được xác định. Thông qua các giao dịch, trao đổi giữa các tác nhân bên giao và bên nhận trên thị trường. Định giá là hoạt động chuyên môn vừa mang tính kinh tế - kỹ thuật, tính pháp lý, vừa mang tính phường hội, tính nghệ thuật. Hoạt động định giá hình thành, tồn tại và phát triển gắn với quá trình hình thành, tồn tại và phát triển của thị trường. Hiện nay, hoạt động định giá tại nhiều nước trên thế giới đã trở thành đối tượng, công cụ cần thiết với hoạt động quản lý của Nhà nước trong việc vận hành 7
- nền kinh tế thị trường một loại dịch vụ phổ biến nằm trong sự kiểm soát của Nhà nước. Ở Việt Nam, các hoạt động định giá đã có từ lâu nhưng chưa thực sự phát triển do bị chi phối bởi nền kinh tế tập trung, hoạt động định giá chủ yếu là thụ động, chỉ từ năm 1991 trở lại đây khi nền kinh tế chuyển sang cơ chế thị trường thì hoạt động định giá được sắp xếp và vận hành theo đúng vai trò và chức năng của nó. - Định giá là sự ước tính quyền sở hữu tài sản cụ thể bằng hình thái tiền tệ cho một mục đích đã được xác định. - Định giá là một nghệ thuật hay khoa học về ước tính giá trị cho một mục đích cụ thể tại một thời điểm xác định, có cân nhắc đến tất cả các đặc điểm của tài sản cũng như xem xét tất cả các yếu tố kinh tế căn bản của thị trường bao gồm các loại đầu tư lựa chọn. Định giá đất: là những phương pháp kinh tế nhằm tính toán lượng giá trị của đất đai bằng hình thái tiền tệ tại một thời điểm xác định khi chúng tham gia trong một thị trường nhất định. Đất đai là một tài sản đặc biệt vì có đủ các thuộc tính của một tài sản, là vật có thực - có thể đáp ứng một nhu cầu nào đó của con người, có đặc trưng giá trị và là đối tượng của giao dịch dân sự: + Đất đai không do lao động làm ra, lao động chỉ tác động vào đất đai làm cho nó sử dụng vào đa mục đích. + Đất đai cố định về vị trí, có giới hạn về không gian và vô hạn về thời gian sử dụng. + Đất đai có khả năng sinh lợi, nếu sử dụng hợp lý thì giá trị của đất đai không ngừng được tăng lên. Đất đai là tài sản, vì vậy về nguyên tắc việc định giá đất cũng như định giá các tài sản thông thường. Mặt khác, đất đai là một tài sản đặc biệt, nên giá đất ngoài các yếu tố về không gian, thời gian, kinh tế, pháp luật chi phối, nó còn bị tác động bởi các yếu tố tâm lý phường hội. Vì vậy, như trên đã trình bày thì giá đất chỉ có thể là sự ước tính về mặt giá trị mà không có thể tính đúng, tính đủ như các tài 8
- sản thông thường. Với các đặc điểm nêu trên, khái niệm định giá quyền sử dụng đất được hiểu như sau: “Định giá đất được hiểu là sự ước tính về giá trị của quyền sử dụng đất bằng hình thái tiền tệ cho một mục đích đã được xác định tại một thời điểm xác định”. Định giá bất động sản: khi Nhà nước giao đất cho người sử dụng đều gắn với một mục đích sử dụng cụ thể. Mục đích sử dụng có thể thay đổi theo thời gian khi được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cho phép. Vì vậy, việc định giá đất phải dựa trên mục đích sử dụng đất do pháp luật quy định tại thời điểm xác định, việc định giá đất không thể tách rời với việc định giá tài sản gắn liền với đất. Đây chính là hai nội dung của một hoạt động thống nhất, đó là định giá bất động sản. Bất động sản trước hết là một tài sản nhưng nó khác với các tài sản khác là không thể di dời được, bao gồm: - Đất đai; - Nhà ở, công trình gắn liền với đất đai, kể cả các tài sản gắn liền với nhà ở, công trình xây dựng đó; - Các tài sản gắn liền với đất đai; - Các tài sản khác do pháp luật quy định. Từ các khái niệm trên cho thấy BĐS có thể là đất đai, cũng có thể là đất đai và các tài sản gắn liền với đất. Vì vậy, định giá BĐS thực chất là định giá đất và định giá các tài sản gắn liền với đất, nên không tách chúng hoàn toàn độc lập với nhau vì BĐS là một đơn vị thống nhất cả về quyền sở hữu và mục đích sử dụng. Như vậy, theo Điều 174 Bộ luật Dân sự Việt Nam ngày14/6/2005 thì đất đai và các tài sản gắn liền với đất cùng nằm trong nội dung của khái niệm BĐS. 1.1.4 Ảnh hưởng của yếu tố định giá đất đến công tác bồi thường GPMB và tái định cư Trong quá trình đổi mới quản lý kinh tế khái niệm kinh tế thị trường được hiểu và áp dụng khá rộng vào trong các văn bản pháp quy và trong các tài liệu nghiên cứu. Đồng thời khái niệm về thị trường bất động sản cũng hình thành và 9
- đang được hoàn thiện thông qua sự phát triển của nền kinh tế theo hướng thị trường mà trước hết là sự phát triển, hoàn thiện của hệ thống pháp luật về kinh tế. Mặc dù pháp luật nói chung và Luật Đất đai chưa đề cập đến việc đất có giá nhưng trên thực tế, lý thuyết “giá trị” bất động sản bao gồm các yếu tố nhu cầu sử dụng, sự khan hiếm, sức mua đã chứng minh rằng đất có giá. Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định: “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân, tổ chức cá nhân được quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật”. Điều 12 Luật Đất đai năm 1993 và Luật sửa đổi một số điều của Luật Đất đai năm 1998 và năm 2001 quy định: “Nhà nước xác định giá các loại đất để thu thuế chuyển quyền sử dụng đất. Thu tiền khi giao đất hoặc cho thuê đất, tính giá trị tài sản khi giao đất, bồi thường thiệt hại về đất khi thu hồi”. Tuy nhiên trong thực tế việc thực hiện thu hồi đất GPMB hầu hết đều bị ách tắc trong việc định giá đất để xác định giá trị bồi thường, mặc dù khung giá đất của Chính phủ tuy đã được điều chỉnh so với khung giá đất hiện hành, sau đó được cụ thể hoá ở từng địa phương, tuy nhiên để tính mức thuế thì ít người phản đối, nhưng tính tiền bồi thường GPMB thì người nhận bồi thường luôn không thoả mãn. 1.2 Cơ sở pháp lý về bồi thƣờng giải phóng mặt bằng 1.2.1 Chính sách bồi thường khi nhà nước thu hồi đất ở Việt Nam qua các thời kỳ [1], [2], [3], [4], 5], [6], [7], [8], [10], [11], [12], [13], [14], [15] a. Thời kỳ trước 1987 *Hiến pháp 1946 Sau cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, lần đầu tiên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ban hành Hiến pháp vào năm 1946. Đến năm 1953, Nhà nước ta thực hiện cuộc cải cách ruộng đất và Luật cải cách ruộng đất được ban hành. Một trong những mục tiêu đầu tiên của cuộc cải cách là: Thủ tiêu quyền chiếm hữu ruộng đất của thực dân Pháp và đế quốc xâm lược ở Việt Nam, xóa bỏ chế độ phong kiến, chiếm hữu ruộng đất của giai cấp địa chủ, thực hiện chế độ sở hữu ruộng đất của nông dân. Sau đó, Đảng và Nhà nước ta đã vận động nông dân vào làm ăn tập thể, đồng thời Nhà nước thành lập các nông trường quốc doanh, các trạm trại nông nghiệp 10