Luận văn Lý luận về tiền lương của CacMac trong chủ nghĩa tư bản

pdf 52 trang yendo 5950
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Lý luận về tiền lương của CacMac trong chủ nghĩa tư bản", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfluan_van_ly_luan_ve_tien_luong_cua_cacmac_trong_chu_nghia_tu.pdf

Nội dung text: Luận văn Lý luận về tiền lương của CacMac trong chủ nghĩa tư bản

  1. Luận văn: Lý luận về tiền lương của CacMac trong chủ nghĩa tư bản
  2. Lời mở đầu Lý luận về tiền lương đã được các nhà kinh tế nghiên cứu từ rất lâu bắt đầu là W.Petty. Chính William Petty là người đầu tiên trong lịch sử đặt nền móng cho lý thuyết "quy luật sắt về tiền lương". Lý thuyết mức lương tối thiểu phản ánh trình độ phát triển ban đầu của CNTB. Lúc này, sản xuất chưa phát triển, để buộc công nhân làm việc, giai cấp tư sản phải dựa vào Nhà nước để duy trì mức lương thấp. Tuy nhiên từ lý luận này ta thấy được là, công nhân chỉ nhận được từ sản phẩm lao động của mình những tư liệu sinh hoạt tối thiểu do họ tạo ra. Phần còn lại đã bị nhà tư bản chiếm đoạt. Đó là mầm mống phân tích sự bóc lột. Lý luận về tiền lương của Mác là sự tiếp tục phát triển lý luận về tiền lương của các nhà kinh tế cổ điển trước đó. Lý luận tiền lương của Mác đã vạch rõ bản chất của tiền lương dưới CNTB đã bị che đậy – tiền lương là giá cả của lao động, bác bỏ quan niệm của các nhà kinh tế tư bản trước đó (Ricardo). Những luận điểm của Mác về tiền lương vẫn còn giá trị đến ngày nay. Mặc dù ở nước ta chính sách tiền lương đã được cải cách. Tuy nhiên, nhiều vấn đề cốt lõi vẫn chưa được giải quyết một cách thoả đáng. Cho đến nay, thu nhập của người được hưởng lương tăng, mức sống, tiêu dùng tăng, về cơ bản không do chính sách tiền lương đem lại mà do tăng thu nhập ngoài lương, nhờ kinh tế tăng trưởng (tiền lương Nhà nước trả chỉ chiếm một phần ba, thu nhập khác chiếm tới hai phần ba). 1
  3. Việc hiểu và vận dụng đúng những nguyên lý về tiền lương của Mác trong điều kiện nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay có ý nghĩa rất lớn.Cải cách chính sách tiền lương sẽ ảnh hưởng như thế nào đến lợi ích của người lao động, và nên tiến hành cải cách như thế nào để đảm bảo được lợi ích người lao động, đến lợi ích của toàn quốc gia? Đây là vấn đề đã thu hút được sự quan tâm của đông đảo người lao động và chuyên gia nghiên cứu. Xuất phát từ ý nghĩa lý luận và thực tiễn nêu trên mà người viết lựa chọn đề tài này nhằm hiểu rõ hơn về hệ thống chính sách tiền lương ở Việt Nam, nhằm đưa ra các kiến nghị hoàn thiện hệ thống chính sách tiền lương ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. I. Lý luận tiền lương của C.Mác trong chủ nghĩa tư bản của Mác 1. Bản chất tiền lương dưới chủ nghĩa tư bản Công nhân làm việc cho nhà tư bản một thời gian nào đó thì nhận được số tiền trả công nhất định. Tiền trả công đó gọi là tiền lương. Số lượng tiền lương nhiều hay ít được xác định theo thời gian lao động hoặc lượng sản phẩm sản xuất ra. Hiện tượng đó làm cho người ta lầm tưởng rằng, tiền lương là giá cả lao động. Sự thật thì tiền lương không phải là giá trị hay giá cả của lao động. Vì lao động không phải là hàng hoá và không thể là đối tượng mua bán. Sở dĩ như vậy là vì: 2
  4. Thứ nhất: nếu lao động là hàng hoá thì nó phải có trước, phải được vật hoá trong một hình thức cụ thể nào đó. Tiền để cho lao động có thể “vật hoá” được là phải có tư liệu sản xuất. Nhưng nếu người lao động có tư liệu sản xuất thì họ sẽ bán hàng hoá do mình sản xuất, chứ không bán “lao động”. Người công nhân không thể bán cái mình không có. Thứ hai: việc thừa nhận lao động là hàng hoá dẫn tới một trong hai mâu thuẫn về lý luấn sau đây: Nếu lao động là hàng hoá và được trao đổi ngang giá, thì nhà tư bản không thu được giá trị thặng dư- điều này phủ nhận sự tồn tại thực tế của quy luật giá trị thặng dư trong chủ nghĩa tư bản. Còn nếu hàng hoá được trao đổi không ngang giá để có giá trị thặng dư cho nhà tư bản, thì sẽ phủ nhận quy luật giá trị. Thứ ba: nếu lao động là hàng hoá thì hàng hoá đó cũng phải có giá trị. Nhưng thước đo nội tại của giá trị là lao động. Như vậy, giá trị của lao động đo bằng lao động. Đó là một điều luẩn quẩn vô nghĩa. Vì thế, lao động không phải là hàng hoá, cái mà công nhân bán và nhà tư bản mua không phải là lao động mà chính là sức lao động. Do đó, tiền lương mà nhà tư bản trả cho công nhân là giá cả của sức lao động. Vậy bản chất của tiền lương dưới chủ nghĩa tư bản là biểu hiện ra bề ngoài như là giá trị hay giá cả của lao động. Sở dĩ biểu hiện bề ngoài của tiền lương đã che dấu bản chất của nó là do những nguyên nhân sau: 3
  5. Một là, việc mua bán sức lao động là mua bán chịu. Hơn nữa, đặc điểm của hàng hoá - sức lao động không bao giời tách khỏi người bán, nó chỉ nhận được giá cả khi đã cung cấp giá trị sử dụng cho người mua, tức là lao động cho nhà tư bản, do đó nhìn bề ngoài chỉ thấy nhà tư bản trả giá trị cho lao động. Hai là, đối với công nhân, toàn bộ lao động trong cả ngày là phương tiện để có tiền sinh sống, do đó, bản thân công nhân cũng tưởng rằng mình bán lao động. Còn đối với nhà tư bản việc bỏ tìên ra để có lao động, nên cũng nghĩ rằng cái mà họ mua là lao động. Ba là, do cách thức trả lương. Số lượng của tiền lương phụ thuộc vào thời gian lao động hoặc sản phẩm sản xuất ra, điều đó khiến người ta lầm tưởng rằng tiền lương là giá cả lao động. Tiền lương che đậy mọi dấu vết của sự phân chia ngày lao động thành thời gian lao động tất yếu và thời gian lao động thặng dư, thành lao động được trả công và lao động không được trả công, do đó tiền lương che đậy bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản. 1. Các chức năng cơ bản của tiền lương: a. Chức năng thuớc đo giá trị: Như trên đã nêu, tiền lương là sự thể hiện bằng tiền của giá trị sức lao động, được biểu hiện ra bên ngoài như là giá cả của sức lao động. Vì vậy tiền lương chính là thuớc đo giá trị sức lao động, được biểu hiện như giá trị lao 4
  6. động cụ thể của việc làm được trả công. Nói cách khác, giá trị của việc làm được phản ánh thông qua tiền lương. Nếu việc làm có giá trị càng cao thì mức lương càng lớn. b. Duy trì và phát triển sức lao động: Theo Mác tiền lương là biểu hiện giá trị sức lao động, đó là giá trị của những tư liệu sinh hoạt cần thiết để duy trì cuộc sống của người có sức lao động, theo điều kiện kinh tế, xã hội và trình độ văn minh của mỗi nước. Giá trị sức lao động bao hàm cả yếu tố lịch sử, vật chất và tinh thần. Ngoài ra, để duy trì và phát triển sức lao động thì người lao động còn phải sinh con (như sức lao động tiềm tàng), phải nuôi dưỡng con, cho nên những tư liệu sinh hoạt cần thiết để sản xuất ra sức lao động phải gồm có cả những tư liệu sinh hoạt cho con cái học. Theo họ, chức năng cơ bản của tiền lương còn là nhằm duy trì và phát triển được sức lao động. Giá trị sức lao động là điểm xuất phát trong mọi bài tính của sản xuất xã hội nói chung và của người sử dụng lao động nói riêng. Giá trị sức lao động mang tính khách quan, được quy định và điều tiết không theo ý muốn của một các nhân nào, dù là người làm công hay người sử dụng lao động. Nó là kết quả của sự mặc cả trên thị trường lao động giữa người có sức lao động “bán” và người sử dụng sức lao động “mua” c. Kích thích lao động và phát triển nguồn nhân lực Tiền lương là bộ phận thu nhập chính đáng của người lao động nhằm thoả mãn phần lớn các nhu cầu về vật chất và tinh thần của người lao động. 5
  7. Do vậy, các mức tiền lương là các đòn bẩy kinh tế rất quan trọng để định hướng sự quan tâm và động cơ trong lao động của người lao động. Khi độ lớn của tiền lương phụ thuộc vào hiệu quả sản xuất của công ty nói chung và cá nhân người lao động nói riêng thì họ sẽ quan tâm đến việc không ngừng nâng cao năng suất và chất lượng công việc d. Thúc đẩy sự phân công lao động xã hội phát triển Nâng cao hiệu quả lao động, năng suất lao động suy cho cùng là nguồn gốc để tăng thu nhập, tăng khả năng thoả mãn các nhu cầu của người lao động. Khác với thị trường hàng hoá bình thường, cầu về lao động không phải là cầu cho bản thân nó, mà là cầu dẫn xuất, tức là phụ thuộc vào khả năng tiêu thụ của sản phẩm do lao động tạo ra và mức giá cả của hàng hoá này. Tổng mức tiền lương quyết định tổng cầu về hàng hoá và dịch vụ cần thiết phải sản xuất cũng như giá cả của nó. Do vậy, tiền lương phải dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động. Việc tăng nưang suất lao động luôn luôn dẫn đến sự tái phân bố lao động. Theo qui luật thị trường, lao động sẽ tái phân bố vào các khu vực có năng suất cao hơn để nhận được các mức lương cao hơn. e. Chức năng xã hội của tiền lương Cùng với việc kích thích không ngừng nâng cao năng suất lao động, tiền lương còn là yếu tố kích thích việc hoàn thiện các mối quan hệ lao động. Thực tế cho thấy, việc duy trì các mức tiền lương cao và tăng không ngừng chỉ được thực hiện trên cơ sở hài hoà các mối quan hệ lao động trong các 6
  8. doanh nghiệp. Việc gắn tiền lương với hiệu quả của người lao động và đơn vị kinh tế sẽ thúc đẩy các mối quan hệ hợp tác, giúp đỡ lần nhau, nâng cao hiệu quả cạnh tranh của công ty. Bên cạnh đó, tạo tiền đề cho sự phát triển toàn diện của con người và thúc đẩy xã hội phát triển theo hướng dân chủ và văn minh. 2. Các hình thức cơ bản của tiền lương Tiền lương có hai hình thức cơ bản là: tiền lương tính theo thời gian và tiền lương tính theo sản phẩm. a. Tiền lương tính theo thời gian Tiền lương tính theo thời gian là hình thức tiền lương mà số lượng của nó phụ thuộc vào thời gian lao động của công nhân (giời, ngày, tuần, tháng). Cần phân biệt lương giờ, lương ngày, lương tháng. Giá cả của một giờ lao động là thước đo chính xác mức tiền lương tính theo thời gian. Tiền lương ngày và lương tuần chưa nói rõ được mức tiền công đó thấp hay cao, vì còn tuỳ thuộc theo ngày lao động dài hay ngắn. Do đó, muốn đánh giá đúng mức tiền lương không chỉ căn cứ vào lượng tiền, mà còn căn cứ vào độ dài của ngày lao động và cường độ lao động. Thực hiện chế độ tiền lương theo thời gian, nhà tư bản có thể không thay đổi lương ngày, lương tuần, mà vẫn hạ thấp được giá cả lao dộng do kéo dài ngày lao động hoặc tăng cường độ lao động. Trả lương kéo dài thời gian còn có lợi cho nhà tư bản khi tình hình thị trường thuận lợi, hàng hoá tiêu thụ 7
  9. 80c + 20v (4/1) của tư bản nông nghiệp là 60c + 40v (3/2) nếu tỉ suất giá trị thặng dư đều là 100% thì sản phẩm và giá trị thặng dư sản xuất ra sẽ là. Trong công nghiệp : 80c + 20v + 20m = 120 Trong nông nghiệp : 60c + 40v + 40m = 140 Giá trị thặng dư dôi ra trong nông nghiệp so với công nghiệp là 20m. Nếu là trong công nghiệp thì số giá trị thặng dư này sẽ được đem chia chung cho các nhà công nghiệp trong quá trình bình quân hoá tỉ suất lợi nhuận . Nhưng trong nông nghiệp điều đó không thể diễn ra được ,đó là chế độ độc quyền tư hữu ruộng đất không cho phép tư bản tự do di chuyển vào trong nông nghiệp , do đó ngăn cản việc hình thành lợi nhuận bình quân chung giữa nông nghiệp và công nghiệp. Và như vậy ,phần giá trị thặng dư dôi ra ngoài lợi nhuận bình quân ( Nhờ cấu tạo hữu cơ của tư bản trong nông nghiệp thấp ,bóc lột được của công nhân nông nghiệp nhiều hơn) được giữ lại và dùng để nộp địa tô tuyệt đối cho địa chủ. Vậy địa tô chênh lệch tuyệt đối cũng là một loại lợi nhuận siêu ngạch dôi ra ngoài lợi nhuận bình quân, hình thành nên do cấu tạo hữu cơ của tư bản trong nông nghiệp thấp hơn trong công nghiệp mà bất cứ nhà tư bản thuê ruộng đất nào cũng phải nộp cho địa chủ .Nó là số chênh lệch giữa giá trị nông phẩm và giá cả thực tế hình thành nên do cạnh tranh trên thị trường . 12
  10. Địa tô tuyệt đối gắn liền với độc quyền tư hữu ruộng đất .Chính độc quyền tư hữu ruộng đất làm cho lợi nhuận siêu ngạch hình thành trong nông nghiệp không bị đem chia đi và làm cho lợi nhuận siêu ngạch đó phải chuyển hoá thành địa tô. Về địa tô tuyệt đối ,Mac nói :” bản chất của địa tô tuyệt đối là :Những tư bản ngang nhau của chúng sinh sản những khối lượng giá trị thặng dư khác nhau “. Để minh hoạ cho những điều nói trên chúng ta có thể lấy ví dụ sau đây: Do độc quyền về ruộng đất là nguyên nhân sinh ra địa tô tuyệt đối , cho nên nếu không có chế độ tư hữu về ruộng đất , không có giai cấp địa chủ , thì địa tô tuyệt đối sẽ bị xoá bỏ , giá cả nông phẩm sẽ giảm xuống có lợi cho xã hội . Tóm lại , nêú điều kiện sản xuất có lợi (điều kiện tự nhiên hoặc điều kiện kinh tế do thâm canh đưa lại ) là điều kiện hình thành địa tô chênh lệch và độc quyền kinh doanh ruộng đất là nguyên nhân trực tiếp để tạo ra địa tô chênh lệch ấy , thì điều kiện để hình thành địa tô tuyệt đối là cấu tạo hữu cơ của tư bản trong nông nghiệp thấp hơn trong công nghiệp , và nguyên nhân trực tiếp đẻ ra địa tô tuyệt đối là độc quyền tư hữu về ruộng đất . Song dù là địa tô chênh lệch hay địa tô tuyệt đối , nguồn gốc và bản chất của địa tô cũng chỉ là một bộ phận của giá trị thặng dư , do lao động không công của công nhân làm thuê trong nông nghiệp tạo ra . Nói cách khác ,địa tô chỉ là một hình thái đặc thù của giá trị thặng dư mà thôi . 13
  11. Địa tô cùng với lợi nhuận của nhà tư bản nông nghiệp chính là cái xác định tính qui định về mặt xã hội của tư bản kinh doanh trong nông nghiệp , nói lên tư bản nông nghiệp là mối quan hệ bóc lột , gắn liền với một quan hệ bóc lột khác của địa chủ do quyền tư hữu về ruộng đất sinh ra . 1.2.3.Các loại địa tô khác: Ngoài những loại địa tô trên còn có các loại địa tô khác như địa tô về cây đặc sản , địa tô về hầm mỏ , địa tô về các bãi cá , địa tô về đất rừng , thiên nhiên a.Địa tô về cây đặc sản: Là địa tô thu được trên những đám đất trồng những cây quí mà sản phẩm có thể bán với giá độc quyền , tức là giá cao hơn giá trị. Người tiêu thụ những sản phẩm trên phải trả địa tô này . b.Địa tô hầm mỏ Đất hầm mỏ_đất có những khoáng sản được khai thác cũng đem lại địa tô chênh lệch và địa tô tuyệt đối cho người sở hữu đất đai ấy.Địa tô hầm mỏ cũng hình thành và được quyết định như địa tô đất nông nghiệp. c.Địa tô đất xây dựng: Địa tô đất xây dựng về cơ bản được hình thành như địa tô đất nông nghiệp.Nhưng nó cũng có những đặc trưng riêng: 14
  12. +Thứ nhất,trong việc hình thành địa tô xây dựng ,vị trí của đất đai là yếu tố quyết định,còn độ màu mỡ và trạng tháI của đất đai không ảnh hưởng lớn. +Thứ hai,địa tô đất xây dựng tăng lên nhanh chóng do sự phát triển của dân số,do nhu cầu về nhà ở tăng lên và do những tư bản cố định sát nhập vào ruộng đất ngày càng tăng lên. d.Địa tô độc quyền: Địa tô luôn luôn gắn liền với độc quyền sở hữu ruộng đất,độc chiếm các đIều kiện tự nhiên thuận lợi,cản trở sự cạnh tranh của tư bản,tạo nên giá cả độc quyền của nông sản.Tuy nhiên,có những loại đất có thể trồng những loại cây cho những sản phẩm quý hiếm,có giá trị cao(như những vườn nho có thể cho những thứ rượu đặc biệt)hay có những khoáng sản đặc biệt có giá trị,thì địa tô của những đất đai đó sẽ rất cao,có thể xem đó là địa tô độc quyền .Nguồn gốc của địa tô độc quyền này cũng là lợi nhuận siêu ngạch do giá cả độc quyền cao của sản phẩm thu được trên đất đai ấy mà nhà tư bản phảI nộp cho địa chủ_ người sở hữu những đất đai đó. Các địa tô như địa tô về đất xây dựng , địa tô địa tô về hầm mỏ , địa tô về các bãi cá , địa tô về đất rừng thiên nhiên tuy là địa tô thu được trên những đám đất phi nông nghiệp nhưng đều dựa trên cơ sở của địa tô nông nghiệp theo đúng nghĩa của từ này.Chúng bao gồm cả hai loại địa tô: địa tô tuyệt đối và địa tô chênh lệch . Mac nói :” Bất kì ở đâu có những sức tự cho nhà công nghiệp lợi dụng những sức tự nhiên ấy , chẳng kể đó là thác nước ,là hầm mỏ giàu khoáng sản , là những nơi nhiều cá hay là đất để xây dựng có vị trí tốt ,thì số lợi nhuận siêu ngạch đó của nhà tư bản 15
  13. hoạt động cũng đều bị kẻ có cái giấy chứng nhận về quyền sở hữu những của cải tự nhiên ấy chiếm đoạt dưới hình thái địa tô". Chương 2 Vận dụng lí luận về địa tô của Mac trong luật đất đai thuế nông nghiệp và việc thuê đất ở ViệT NAm Thông qua những lí luận về địa tô đã nghiên cứu ở trên , ta thấy địa tô tư bản chủ nghĩa là sự bóc lột của chủ ruộng đất đối với công nhân nông nghiệp làm thuê . Nó tồn tại ở nhiều hình thức : Địa tô chênh lệch , địa tô tuyệt đối , địa tô cây đặc sản , địa tô về đất xây dựng , địa tô về hầm mỏ, địa tô về bãi cá 16
  14. Ngày nay, khi đất nước ta đang trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội , những lí luận địa tô đó được Đảng và nhà nước ta vận dụng một cách sáng tạo trong thực tiễn dể xây dựng đất nước giàu mạnh. Lí luận địa tô của Mac đã trở thành cơ sở khoa học để xây dựng các chính sách thuế đối với nông nghiệp và các ngành có liên quan nhằm kích thích phát triển nông nghiệp và các ngành trong nền kinh tế . 2.1 .Vận dụng trong luật đất đai: Đất đai là một tài nguyên vô cùng quí giá , là tư liệu sản xuất đặc biệt, là thành phần quan trọng hàng đầu của môi trường sống là địa bàn phân bố các khu dân cư , xây dựng các cơ sở kinh tế ,văn hoá , xã hội , an ninh và quốc phòng. Trải qua nhiều thế hệ nhân dân ta đã tốn bao công sức xương máu mới tạo lập , bảo vệ được vốn đất như ngày nay. ở mỗi chế độ đất đai lại thuộc về mỗi giai cấp khác nhau , ví như sở hữu của thực dân Pháp ,của bọn quan lại quí tộc Phong kiến , của địa chủ và dù ở chế độ nào cuối cùng Mac cũng kết luận :” Mỗi bước tiến của nông nghiệp tư bản chủ nghĩa là một bước tiến không những trong nghệ thuật bóc lột người lao động mà còn là bước tiến về mặt làm cho đất đai bị kiệt quệ mà sự bóc lột đó được thực hiện dưới nhiều hình thức trong đó có địa tô.” Ngày nay, đất đai thuộc quyền sở hữu của toàn dân do nhà nước thống nhất quản lí ( Nhà nước của dân ). Nhà nước giao đất , rừng cho các tổ chức kinh tế , đơn vị vũ trang để sử dụng. ở đây thực hiện sự tách rời giữa quyền sở hữu với quyền sử dụng ruộng đất nhằm sử dụng tài nguyên của đất nước một cách hiệu quả. Để bổ sung cho nguồn nhân sách và thông qua ngân sách thực hiện một số chính sách phát triển nông 17
  15. nghiệp những người thuê đất phải đóng thuế cho nhà nước . Thuế này khác xa với địa tô phong kiến và địa tô tư bản chủ nghĩa vì thuế này tập chung vào ngân sách mang lại lợi ích cho toàn dân, nó không mang bản chất bóc lột của địa tô phong kiến và địa tô tư bản chủ nghĩa 2.2.Các đIều khoản: Với việc vận dụng một cách sáng tạo lí luận về địa tô của Mac ,nhà nước ta đã ban hành luật đất đai để quy định một cách rõ ràng quyền và nghĩa vụ của người dân theo những điều khoản sau : Điều 1 : đất đai thuộc quyền sở hữu toàn dân , do nhà nước thống nhất quản lí. Nhà nước giao đất cho các tổ chức kinh tế ,đơn vị vũ trang , nhân dân, cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị xã hội , hộ gia đình , cá nhân , sử dụng ổn định lâu dài . Nhà nước còn cho tổ chức , hộ gia đình ,cá nhân thuê đất.Tổ chức, hộ gia đình và cá nhân đựoc nhà nước cho thuê đất , giao đất trong luật này gọi chung là người sử dụng đất . Điều 4: Người sử dụng đất đai có trách nhiệm bảo vệ , cải tạo và sử dụng đất hợp lí , có hiệu quả , phải làm đầy đủ thủ tục địa chính , nộp thuế chuyển quyền sử dụng đất và các khoản thu khác theo qui định của pháp luật . Điều 5: Nhà nước khuyến khích người sử dụng đất đầu tư lao động, vật tư, tiền vốn và áp dụng các thành tựu khoa học kĩ thuật vào các việc sau đây: 18
  16. _ Làm tăng giá trị sử dụng đất . _ Thâm canh tăng vụ ,nâng cao hiệu quả sử dụng đất. _ Khai hoang , vỡ hoá , lấn biển để mở rộng diện tích đất , sản xuất nông nghiệp , lâm nghiệp , nuôi trồng thuỷ sản và làm muối. _ Bảo vệ ( tiết kiệm ) cải tạo làm tăng độ màu mỡ của đất . _ Sử dụng tiết kiệm đất . Điều 12: Nhà nước xác định giá các loại đất để tính thuế chuyển quyền sử dụng đất , thu tiền khi giao đất , bồi thường thiệt hại về đất khi thu hồi đất . Chính phủ qui định khung giá các loại đất đối với từng vùng và theo từng thời gian. Điều 22: Tổ chức ,hộ gia đình ,cá nhân được nhà nước giao đất để sử dụng vào mục đích sản xuất nông nghiệp , lâm nghiệp , nuôi trồng thuỷ sản và làm muối không phải trả tiền sử dụng đất , nếu được nhà nước giao đất dể sử dụng và mục đích khác thì phải trả tiền sử dụng đất , trừ các trường hợp được miễn giảm theo qui định của chính phủ. Điều 79: Người sử dụng đất có những nghĩa vụ sau đây: 1. Sử dụng đất đúng mục đích , đúng ranh giới và các yêu cầu khác đã được qui định khi giao đất . 19
  17. 2. Thực hiện các biện pháp đẻ bảo vệ và làm tăng khả năng sinh lời của đất. 3. Tuân theo những qui định về bảo vệ môi trường , không làm tổn hại đến lợi ích chính đáng của người sử dung đất xung quanh. 4. Nộp thuế sử dụng đất , thuế chuyển quyền sử dụng đất , lệ phí địa chính theo qui định của pháp luật . 5. Nộp tiền sử dụng đất khi được giao đất theo qui định của pháp luật 6. Đền bù cho người có đất bị thu hồi để giao cho mình . 7. Giao lại đất khi nhà nước có quyết định thu hồi trong những qui định trên đây của luật đất đai , người dân sử dụng đất phải có trách nhiệm bồi bổ cải tạo đất hay việc đóng thuế , tiền thuê đất đều là một hình thức của địa tô . Hiện nay nhà nước ta đang có những văn bản thu thuế sử dụng đất , đối với những nhà ở mặt đường thì mức thuế nhà đất là 15000đ/1m2/năm.Còn với những nhà trong khu dân cư thì thuế nhà đất là 10 000/1m2/năm.Tuy nhiên cho đến ngày 2/12/1998 Quốc hội nước CHXHCN VIET NAM khoá X kì họp thứ tư đã thông qua luật sửa đổi bổ sung một số điều của luật đất đai, từ đó ta càng thấy lí luận địa tô được vận dụng trong luật đất đai một cách linh động như thế nào. Điều 22: Được sửa đổi bổ sung như sau: 20
  18. “Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất trong trường hợp sau đây: 1.1 Hộ gia đình , cá nhân trực tiếp lao động làm nông nghiệp , lâm nghiệp , nuôi trồng thuỷ sản , làm muối mà nguồn sống chủ yếu là thu nhập có từ các hoạt động sản xuất đó được uỷ ban nhân dân xã , phường , thị trấn xác nhận sử dụng đất vào mục đích sản xuất nông nghiệp ,lâm nghiệp nuôi trồng thuỷ sản , làm muối trong hạn mức đất được nhà nước giao . Hộ gia đình đang sử dụng đất nông nghiệp vượt quá hạn mức trước ngày luật này có hiệu lực thì đước tiếp tục sử dụng diện tích đất vượt mức theo thời gian bằng 1/2 thời gian giao đất và phải nộp thuế bổ sung đối với diện tích đó theo qui định của pháp luật ; sau thời hạn này thì phải chuyển sang thuế đất . đối với diện tích đất vượt hạn mực có sau ngày luật này có hiệu lực thì người sử dụng đất đó phaỉ nộp thuế đất . 1.2 Tổ chức sử dụng đất để trồng và bảo vệ rừng phòng hộ , rừng đặc dụng . 1.3 Cơ quan nhà nước ,tổ chức chính trị , tổ chức chính trị xã hội , Đơn vị vũ trang nhân dân sử dụng đất để xây dựng trụ sở làm việc , sử dụng đất vào mục đích quốc phòng an ninh. 1.4 Cơ quan nhà nước , tổ chức chính trị , tổ chức chính xã hội , đơn vị vũ trang nhân dân sử dụng đất để xây dựng các công trình thuộc các ngành và lĩnh vực sự nghiệp kinh tế, văn hoá ,xã hội , khoa học kĩ thuật, ngoại giao. 21
  19. 1.5 Tổ chức sử dụng đất vào mục đích công cộng để xây dựng đường giao thông , cầu , cống vỉa hè, hệ thống cấp thoát nước , sông , hồ , đe đập ,trường học , bệnh viện ,công viên ,vườn hoa, khu vui chơi trẻ em, quảng trường , sân vận động , sân bay , bến cảng và các công trình công cộng khác theo qui định của chính phủ . Bổ sung điều 22a như sau : 2.1 Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất trong các trường hợp sau đây : a. Hộ gia đình , cá nhân có nhu cầu sử dụng đất làm nhà ở . b. Tổ chức kinh tế đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng để chuyển nhượng hoặc cho thuê quyền sử dụng đất gắn liền với kết cấu hạ tầng đó. c. Tổ chức kinh tế đầu tư xây dựng nhà ở để bán hoặc cho thuê . d. Giao đất có thu tiền sử dụng đất đối với một số trường hợp để tạo vốn xây dựng cơ sở hạ tầng theo dự án do chính phủ quyết định . 2.2 Việc giao đất có thu tiền sử dụng đất được qui định tại điểm d khoản 1 điều này phải bảo đảm các điều kiện sau đây: a. Người sử dụng đất phải có dự án khả thi đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt . b. Sử dụng đất phải theo đúng kế hoạch. 22
  20. c. Người sử dụng đất phải có điều kiện về vốn và kĩ thuật . Tiền thu được từ việc giao đất , tiền xây dựng công trình tương ứng với giá trị quyền sử dụng đất được giao phải được hạch toán đaày đủ vào ngân sách nhà nước theo qui định của pháp luật. 3. Bổ sung điều 22 C như sau : 3.1 Tổ chức hộ gia đình , cá nhân , được nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất , cho thuê đất được miễn giảm tiền sử dụng đất hoặc tiền thuê đất trong các trường hợp sau đây : a. Thực hiện các dự án thuộc lĩnh vực ưu đãi đầu tư . b. Thực hiện dự án đầu tư tại các địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn , điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn . c. Thực hiện chính sách nhà ở , đất ở . d. Các trương hợp khác theo quy định của pháp luật . 3.2 Chính phủ quy định cụ thể việc miễn giảm tiền sử dụng đất , tiền thuê đất 4 Bổ sung điều 78a như sau : 4.1 Hộ gia đình cá nhân được nhà nước cho thuê đất mà trả tiền thuê đất hàng năm có quyền : 23
  21. a . Thế chấp giá trị quyền sử dụng đất thuê và tài sản thuộc quyền sở hữu của mình gắn liền với đất thuê trong thời hạn thuê tại tổ chức tín dụng VN để vay vốn sản xuất , kinh doanh theo quy định Pháp luật . b . Chuyền nhượng quyền sử dụng đất thuê cùng với tài sản thuộc sở hữu của mình gắn liền với đất thuê để thừa kế quyền sử dụng đất thuê trong thời hạn thuê theo quy định của pháp luật . Người nhận chuyển nhượng , người được thừa kế quyền sử dụng đất thuê các quyền quy định tại khoản này . 4.3 Hộ gia đình cá nhân được nhà nước cho thuê đất đã trả tiền thuê đất cho nhiều năm , nếu thời hạn thuê đã được trả tiền còn lại ít nhất là 5 năm thì có các quyền quy định tại khoản 2 điều này . Bên cạnh những quy định của luật đất đai về nghĩa vụ nộp tiền hay những lợi ích của người nộp tiền thuê đất , ta thấy địa tô được Đảng và Nhà nước ứng dụng một cách sáng tạo , đem lại lợi ích cho nhân dân , đồng thời làm cho quỹ NS của nhà nước tăng lên , nó không hề mang tính chất bóc lột như trong XH phong kiến hay XH TBCH . Ngoài ra , trong pháp luật về đất đai của NN ta hiện nay cũng ban hành những quy định để người dân phải trả tiền thuê đất ( một hình thức của địa tô ) khi sử dụng đất một cách tự nguyện . Việc giao đất đối với các loại đất có thể khái quát theo bảng sau đây 24
  22. Loại đất Khi giao Khi sử dụng 1.Đất nông nghiệp - Giao ổn định lâu -Nộp thuế sử dụng Thu hồi đền bù dài ho hộ gia đình, đất hàng năm. thiệt hại hoặc trợ cá nhân từ 20-50m cấp theo quy định của NN -Nộp thuế chuyển -Không nộp tiền sử quyền sử dụng đất dụng đất khi chuyển nhượng quyền sử dụng đất 2.Đất ở -Giao sử dụng ổn -nộp thuế đất hàng định lâu dài. năm. ( khu dân cư) -Phải nộp tiền sử -Nộp thuế chuyển dụng đất. quyền sử dụng đất, khi chuyển quyền sử dụng đất. 25
  23. 3.Chuyên dùng 1.Giao sử dụng vào -Không nộp thuế sử quốc phòng an dụng đất. ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công -Nộp thuế đất. cộng: -Nộp thuế chuyển +) Không phải nộp quyền sử dụng đất, tiền sử dụng đất khi chuyển quyền (được miễn). sử dụng đất. +) Nộp lệ phí địa -Trả tiền thuê đất chính. trực tiếp hoạch nhận nợ ngân sách nhà 2.Giao sử dụng vào nước nếu góp vốn mục đích kinh liên doanh doanh. +) phải nộp tiền sử dụng đất. +) cho thuê đất. 4.Đất chưa sử dụng Tất cả mọi trường hợp đều phải nộp lệ phí địa chính( nếu đươc phục vụ về địa chính). Tuỳ trường hợp phải nộp lệ phí trước bạ 26
  24. Số tiền sử dụng đất được miễn và giảm nộp , được xác định như sau : Số tiền sử Diện tích đất Giá đất Tỷ lệ mỗi mét dụng đất được giao hoặc được được được phép chuyển vuông miễn miễn mục đích sử dụng hoặc = hoặc ( m2 ) ( đ/m2 ) giảm giảm Việc thhu tiền sử dụng đất khi xét cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở , quyền sử dụng đất được thực hiện như sau : - Trường hợp đất mua được sử dụng làm đất ở ổn định trước ngày 18/12/1980 ( ngày ban hành hiến pháp năm 1980 ) không có đử giấy tờ hợp lệ , nay xét phù hợp quy hoạch không có tranh chấp và được UBND phương chứng nhận thì được xét cấp chứng nhận quyền sở hữu nhà ở , quyền xử dụng đất ở và không phải nộp tiền sử dụng đất . - Trường hợp đất đã được sử dụng làm đất ở ổn định trong thời gian từ 18/12/1980 đến ngày 15/10/1993 ( ngày Luật đất đai có hiệu lực ) nhưng không có đủ giấy hợp lệ này xét phù hợp với quy hoạch không có tranh chấp thì được cấp chứng nhận quyền sở hữu nhà ở , quyền sử dụng đất ở và phải nộp 20% tiền sử dụng đất . 27
  25. - Trường hợp sử dụng làm đất ở sau ngày 15/10/1993 , không có đủ giấy tờ hợp lệ này xét phù hợp với quy hoạch , không có tranh chấp thì được xét cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở phải nộp 100% tiền sử dụng đất . Với những quy định trong Luật đất đai , nguồn đất của Quốc gia sẽ không bị sử dụng bừa bãi , sẽ được cải tạo bồi bổ và mỗi người dân khi sử dụng đất đều phải nộp thuế đất , chấp hành theo mọi quy định của nhà nước , đó cũng là một hình thức để Nhà nước thu địa tô . Nhờ việc phân tích về bản chất địa tô của Mác , Đảng và Nhà nước ta đã nhìn rõ được những hạn chế trong việc thu địa tô TBCN , từ đó đề ra những quy định đúng đắn ,vừa tăng thêm được NS NN , vừa khuyến khích người dân tự nguyện thực hiện . Với thời đại ngày nay , trong chế độ XHCN , địa tô không còn có định nghĩa : “ Địa tô là hình thức biến tướng của một phần giá trị thặng dư do người công nhân nông nghiệp tạo ra , mà nhà TB kinh doanh NN phải trả cho địa chủ “ Mà hiện nay , đất được cấp cho dân , dân có quyền sử dụng đất vào mục đích của mình . Nếu đối với đất ở thì người dân chỉ phải nộp một khoản tiền thuê đất rất nhỏ so với thu nhập của họ . Còn đối với đất để làm Nông nghiệp thì người dân phải nộp thuế , nhưng bù lại , họ có thể tự do kinh doanh trên mảnh đất của mình sao cho thu được nhiều lợi nhuận cao nhất . Ví dụ: có vùng trồng lúa, có vùng trồng đay, có vùng trồng cà phê 28
  26. 2.3.Vận dụng trong thuế nông nghiệp: Địa tô không chỉ được vận dụng trong luật đất đai mà còn được vận dụng rất nhiều trong thuế nông nghiệp ở Việt Nam hiện nay. Thuế nông nghiệp ở đây không hề thể hiện sự bóc lột đối với người nông dân mà đó là quyền và nghĩa vụ của mỗi người nông dân. Để khuyến khích sử dụng đất nông nghiệp có hiệu quả, thực hiện công bằng, hợp lý sự đóng góp của tổ chức, cá nhân sử dụng đất nông nghiệp vào ngân sách nhà nước. Căn cứ vào điều 84 của hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992, Đảng và nhà nước ta đã đưa ra luật quy định sử dụng đất nông nghiệp. Điều 1: tổ chức, cá nhân sử dụng đất vào sản xuất mà không sử dụng vẫn phải nộp thuế sử dụng đất nông nghiệp. Họ vẫn được giao quyền sử dụng đất nông nghiệp mà không sử dụng vẫn phải nộp thuế sử dụng đất nông nghiệp. Điều 2: Đất chịu thuế sử dụng đất nông nghiệp là đất dùng vào sản xuất nông nghiệp bao gồm: 29
  27. - Đất trồng trọt. - Đất có mặt nước nuôi trồng thủy sản. - Đất trồng rừng. Điều 3: Đất không thuộc diện chịu thuế sử dụng đất nông nghiệp mà chịu các loại thuế khác hoặc không phải chịu thuế theo quy định của pháp luật bao gồm: - Đất có rừng tự nhiên. - Đất đồng cỏ tự nhiên. - Đất ở. - Đất chuyên dùng. Điều 4: Tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư vào Việt Nam sử dụng đất nông nghiệp phải nộp tiền thuê đất theo quy định tại điều 29 của luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, không phải nộp thuế sử dụng đất nông nghiệp theo quy định của luật này. 30
  28. Điều 5: Căn cứ thuế sử dụng đất nông nghiệp: - Diện tích. - Hạng đất. - Định suất thuế tính bằng kilogam thóc trên một đơn vị diện tích của từng hạng đất Điều 6: Diện tích tính thuế sử dụng đất nông nghiệp là diện tích giao cho hộ sử dụng đất phù hợp với sổ địa chính nhà nước. Trường hợp chưa nộp sổ địa chính thì diện tích tính thuế là diện tích ghi trên tờ khai của hộ sử dụng đất. Điều 7: 1. Đất trồng cây hàng năm và đất có mặt nước nuôi trồng thủy sản được chia làm 6 hạng, đất trồng cây lâu năm được chia làm 5 hạng. Căn cứ để xác định hạng đất gồm các yếu tố: 31
  29. - Chất đất. - Ví trị. - Địa hình. - Điều kiện khí hậu, thời tiết. - Điều kiện tưới tiêu. 2. Chính phủ quy định tiêu chuẩn hạng đất tính thuế theo các yếu tố nói tại điều này và có tham khảo năng suất bình quân đạt được trong điều kiện canh tác bình thường của 5 năm (1986-1990). 3. Hạng đất tính thuế được ổn định 10 năm. Trong thời hạn ổn định hạng đất, đối với vùng mà nhà nước đầu tư lớn, đem lại hiệu quả kinh tế cao, chính phủ điều chỉnh lại hạng đất tính thuế. Điều 8: Căn cứ vào tiêu chuẩn của từng hạng đất và hướng dẫn của ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, sự chỉ đạo của ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh. ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác định hạng đất tính thuế cho từng hộ nộp thuế trình cơ quan xét duyệt. 32
  30. Điều 9: Định suất thuế một năm tính bằng kilogram thóc trên 1 hecta của từng hạng đất sau: 1. Đối với đất trồng cây hàng năm và đất có mặt nước nuôi trồng thủy sản. Hạng đất Định suất thuế 1 550 2 460 3 370 4 280 5 180 6 50 2. Đối với đất trồng cây lâu năm. 33
  31. Định suất thuế Hạng đất 1 650 2 550 3 400 4 200 5 80 3. Đối với cây ăn quả lâu năm trồng trên đất trồng cây hàng năm chịu mức thuế như sau: - Bằng 1,3 lần thuế đất trồng cây hàng năm cùng hạng đất 1, hạng 2 và hạng 3. - Bằng thuế đất trồng cây hàng năm cùng hạng, nếu thuộc đất hạng 4, 34
  32. hạng 5 và hạng 6. 4. Đối với cây lấy gỗ à các loại cây lâu năm thu hoạch một lần chịu mức thuế bằng 4% giá trị sản lượng khai thác. Điều 10: Hộ sử dụngđất nông nghiệp vượt quá hạn mức diện tích theo quy định của luật đất đai, thì ngoài việc phải nộp thuế theo quy định tại điều 9 của luật này, còn phải nộp thế bổ sung do uỷ ban thường vụ quốc hội quy định đối với phần diện tích trên hạn mức. Đối với một số trường hợp vẵn được nhà nước ưu đãi, giảm thuế và miễn thuế. Đây chính là sự linh động của nhà nước trong việc vận dụng lí luận điạ tô của Mác để tăng ngân sách quốc gia. Điều 19: 1. Miễn thuế cho đất đồi núi trọc dùng vào sản xuất nông, lâm nghiệp, 35
  33. đất trồng rừng, phòng hộ và rừng đạc dụng. 2. Miễn thuế cho đất khai hoang không thuộc quyền quy định tại khoản 1 điều 9 dùng vào sản xuất. Trồng cây hàng năm 5 năm. Riêng đối với đất khai hoang ở miền núi, đầm lầy và lấn biển là 7 năm. Đối với cây lấy gỗ và các loại cây lâu năm thu hoạch 1 lần chỉ nộp thuế khi khác thác theo quy định tại khoản 4, điều này của luật này. 3. Miễn thuế cho đất trồng cây lâu năm chuyển sang trồng loại mới và đất trồng cây hàng năm chuyển sang trồng cây lâu năm cây ăn quả. Trong thời gian xây dựng cơ bản và cộng thêm 3 năm từ khi có thu hoạch. 4. Chính phủ quy định việc giảm thuế, miễn thuế đối với đất khai hoang được đầy tư bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước. 36
  34. Điều 26: Hộ di chuyển đến vùng kinh tế mới khai hoang để sản xuất nông nghiệp được miễn thuế trong thời hạn theo quy định tại điều 19 của luật này và cộng thêm 2 năm. Nếu đất được giao là đất đang sản xuất nông nghiệp thì được miễn thuế trong thời hạn 3 năm kể từ ngày nhận đất. Điều 21: Trong trường hợp thiên tai, dịch họa làm thiệt hại mùa màng, thuế sử dụng đất nông nghiệp được giảm hoặc miễn cho từng hộ nộp thuế từng vụ sản xuất như sau: 1. Thiệt hại từ 10% đến dưới 20%, giảm thuế tương ứng theo mức thiệt hại. 2. Thiệt hại từ 20% đến dưới 30%, giảm thuế 60%. 3. Thiệt hại từ 30% đến dưới 40%, giảm thuế 80%. 4. Thiệt hại từ 40% trở lên giảm thuế 100%. Điều 22: 37
  35. 1. Miễn thuế hoặc giảm thuế cho các hộ nông dân sản xuất ở vùng cao, miền núi, biên giới, hải đảo mà sản xuất và đời sống còn nhiều khó khăn. 2. Miễn thuế hoặc giảm thuế cho các hộ nông dân là dân tộc thiểu số mà sản xuất và đời sống còn ngiều khó khăn. 3. Miễn thuế cho các hộ nông dân là những người tàn tật, già yếu không nơi nương tựa. Điều 23: 1. Miễn thuế cho hộ nộp thuế có thương binh hang 1/4 và 2/4, bệnh binh hang 1/3 và 2/3. 2. Miễn thuế hoặc giảm thuế cho hộ nộp thuế là gia đình liệt sĩ. 3. Giảm thuế cho hộ nộp thuế có thương binh, bệnh binh không thuộc 38
  36. diện miễn thuế theo quy định tại khoản 1 điều này mà đời sống có nhiều khó khăn. Điều 24: Chính phủ quy định chi tiết việc giảm thuế, miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp. Việc giảm, miễn thuế cho những người dân có hoàn cảnh đặc biệt là một điều khác xa với việc thu địa tô tư bản chủ nghĩa, điều này cho thấy sự sáng tạo của Đảng ta trong việc ứng dụng lí luận địa tô của Mác khi đề ra chính sách thuế nông nghiệp động viên thúc đẩy người dân sản xuất làm cho dân giàu nước mạnh. Hiện nay, tổng cục thuế đã ban hành quy trình miễn giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp số 137 TCT/ QD / NV7 ngày 21/8/2001 cho các đối tượng chính sách xã hội như sau: Căn cứ vào đơn đề nghị miễn giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp của các hộ nộp thuế thuộc đối tượng chính sách xã hội. Đội thuế xã hội phối hợp với hộ đồng tư vấn thuế xã hội danh sách các hộ nộp thuế thuộc diện được miễn giảm thuế theo từng loại đối tượng chính sách xã hội như: hộ gia đình có công với cách mạng, hộ đời sống có bệnh binh, hộ gia đình liệt sĩ, thương binh, hộ gia đình có nhiều khó khăn và đầu năm giảm thuế cho các hộ này ( báo Pháp luật số 159 ra ngày 29/8/2001) 39
  37. Đối với các trường hợp bị thiên tai, dịch họa làm mùa màng thiêt hại ,tổng cục thuế cũng quy định: Trươc hêt là phải xác định mức độ thiệt hại mùa màng để xét miễn giảm thuế. Ngay sau thời điểm xảy ra thiên tai làm thiệt hại mùa màng. Đến vụ thu hoạch, chi cục thuế tỉnh chỉ đạo các chi cục thuế huyện nơi có thiên tai phối hợp với các ngành có liên quan ở huyệnh như : thống kê, nhà nước hướng dẫn kiểm tra các xã, xác định năng suất sản lượng thu hoạch thực tế của diện tích bị thiệt hại theo từng cánh đồng, xử đồng khu vực và lập biên bản thăm đồng. Sau đó tuỳ theo thiệt hại mà xét giảm thuế ( báo Pháp luật số 158 ngày 27/8/2001) Trên báo Tiền phong số ra ngày 27/8/2001 cũng cho biết Đảng và Nhà Nước ta đã quyết định xoá bỏ thuế sử dụng đất nông nghiệp trong hạn điền để giảm bớt khó khăn cho người nông dân. Cuối năm 2001 và sang 2002, bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn có văn bản trình thủ tướng chính phủ về việc giảm thuế sử dụng đất cho nông nghiệp. Trong quá trình thực hiện chính sách, nhà nước đã thường xuyên thực hiện chủ trương “khoán sức dân, từng bước giảm mức động viên khoảng 20% trên sản lượng quy thóc hàng năm đã giảm xuống 10-12%. Tuy chính sách giảm thuế đã có tác động tích cực với đời sống xã hội khu vực nông thôn nhưng vẫn phát sinh một số vấn đề chưa hợp lý: việc giảm 50% thuế nông nghiệp chỉ áp dụng đối với diện tích trồng lúa và cà phê, còn đối với nhiều loại hàng nông sản khác như chè, hạt tiêu, cũng bị thiệt hại, tuy đã được xét miễn giảm nhưng chưa kịp thời và đồng đều giữa các vùng miền Ngày 1/3/2002, trao đổi với phóng viên báo Tiền phong, ông Nguyễn Đức Triều – ủy viên trung ương Đảng, chủ tịch hội nhân dân Việt Nam cho biêt. Tại hội nghị ban chấp hành trung ương Đảng lần thứ 5 (khoá 40
  38. IX). Các đại biểu đã thống nhất việc xóa bỏ thuế hạn điền cho người nông dân. Mức hạn điền tại các địa phương trên cả nước hiện nay được áp dụng theo nghị định 85/CP của chính phủ. Cụ thể: đối với đất nông nghiệp để trồng cây hàng năm nuôi trồng thuỷ sản và làm muối thì mức hạn điền của các tỉnh Cà Mau, Bạc Liêu, Kiên Giang, Sóc Trăng, Cần Thơ, An Giang, Vĩnh Long, Trà Vinh, Đồng Tháp, Tiền Giang, Long An, Bến Tre, Tây Ninh, Bình Dương, Bình Phước, Đồng Nai, Bà Rịa, Vũng Tàu và thành phố Hồ Chí Minh là không quá 3 hecta cho mỗi loại đất. Còn các tỉnh và thànhh phố trực thuộc trung ương khác không quá 10 hecta, các xã trung du, miền núi không quá 30 hecta. Những hộ vượt mức hạn điền phải nộp thuế theo quy định của luật thuế sử dụng đất. Có thể nói việc xoá bỏ hạn điền là tạo điều kiện thuận lợi đặc biệt cho người nông dân. Điều này cho thấy sự tích cực vượt bậc của Đảng và Nhà Nước ta so với việc thu địa tô trong tư bản chủ nghĩa. Trên đây là những ứng dụng lí luận của Mác về địa tô trong việc đề ra thuế nông nghiệp cũng như luật đất đai để quy định nghĩa vụ quyền lợi đóng thuế của người dân. Sự khác biệt rõ nhất của việc quản lý đất đai và thu thuế bây giờ so với giai đoạn tư bản chủ nghĩa là đất đai là của dân. Nhà nước trực tiếp quản lý và điều hành, nhà nước giao đất cho dân làm nông nghiệp, thu thuế nhưng tạo mọi điều kiện cho người dân sản xuất. Mặt khác, nhà nước còn đưa ra một số quy định cho thấy thuế trong nông nghiệp bây giờ giảm đi rất nhiều mà chủ yếu là tăng thuế trong việc thuê đất để hoạt động phi nông nghiệp. 41
  39. + Trường hợp chuyển quyền sử dụng đất đai mà được phép chuyển mục đích từ đất nông nghiệp sang phi nông nghiệp thì thuế suất từ 20% đến 40%, nếu từ đất nông nghiệp chuyển sang xây dựng các công trình công nghiệp từ 40% sang 60%, nếu từ đất trồng lúa ổn định chuyển sang mục đích phi nông nghiệp. + Đối với các tổ chức, hộ gia đình và các cá nhân sử dụng đất vào mục đích nông nghiệp thì không phải trả tiền sử dụngđất cho nông nghiệp, nếu sử dụng vào mục đích khác thì phải trả tiền, thậm chí phải chuyển sang hình thức thuê đất nếu là tổ chức sử dụng đất ở trong nước. 2.4. Vận dụng trong việc cho thuê đất. Bên cạnh nghiên cứu việc thuê đất để phát triển nông nghiệp thì một điều mà chúng ta, những người kinh doanh trong tương lai không thể không quan tâm đến. Đó là việc thuê đất để kinh doanh. Hiện nay, một số các nhà kinh doanh có vốn muốn lập ra một công ty thì họ phải thuê đất của nhà nước, với việc thuê đất này họ phải trả cho nhà nước một số tiền tương đương với diện tích cũng như vị trí của nơi được thuê. Trong việc thuê đất để kinh doanh nhà nước cũng quy định rõ: Thế chấp giá trị quyền sử dụng đất gắn liền với tài sản thuộc quyền sở hữu của mình tại ngân hàng Việt Nam để vay vốn sản xuất trong thời 42
  40. hạn thuê. Giá trị thế chấp do ngân hàng quyết định và không vượt quá giá trị tài sản đẫ đầu tư trên khu đất thế chấp cộng với tiền thuê đất đã trả. Khi đến thời hạn mà không trả nợ thì ngân hàng yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền phát mại tài sản trên đất mà tổ chức đã thế chấp để trả nợ ngân hàng và quyết định cho người mua tài sản được tiếp tục thuê đất. Doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp của tổ chức chính trị, xã hội, doanh nghiệp quốc phòng, an ninh trong thời hạn thuê đất được góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất để liên doanh tổ chức, cá nhân trong nước với tổ chức cá nhân nước ngoài Đặc biệt các tổ chức được nhà nước cho thuê đất có nghĩa vụ trả tiền thuê đất đầy đủ đúng thời hạn quy định. Tiền thuê được nộp hàng năm và được hạch toán vào giá thành sản xuất, kinh doanh hằng năm của tổ chức thuê đất. Ngoài ra, còn phải đền bù thiệt hại cho người có đất bị thu hồi để giao cho tổ chức này thuê theo quy định của nhà nước. Điều này cho thấy một sự khác biệt và sự vận dụng lí luận của Mác về địa tô của Đảng ta trong thời đại ngày nay. Đó chính là việc nhà nước sử dụng những văn bản pháp lý quy định quyền và nghĩa vụ của người thuê đất để người dân khi nộp tiền thuê đất đều thông suốt và tự nguyện đóng. Trong việc thuê đất để kinh doanh thì người thuê đất đã thuê đất của nhà nước, sau đó phát triển kinh doanh trên mảnh đất của mình và lấy lợi nhuận mà mình làm xa để trả cho nhà nước. Ví dụ: nhà nước đã quy hoạch khu đô thị Định Công, xây dựng những kiôt và cho những người kinh doanh thuê, người này có thể tự kinh doanh 43
  41. trên kiôt của mình, một phần lợi nhuận mà họ thu được trong việc kinh doanh sẽ được trả cho nhà nước, số tiền đó được cho vào ngân sách nhà nước. Hiện nay, không chỉ có việc thuê đất trong nông nghiệp trong việc kinh doanh mà nhà nước còn cho nước ngoài thuê đất để thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài tại Việt Nam, và tăng nguồn thu cho ngân sách. Số tiền mà người nước ngoài phải trả được quy định như sau: 2.4.1. Về giá thuê đất ở đô thị: Một trong những nội dung cơ bản cua hợp đồng thuê đất và là mối quan tâm hàng đầu của bên thuê là giá thuê đất. Việc quyết định giá cho thuê đất ở Việt Nam phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố nhưng phải đảm bảo sức hấp dẫn đối với các dự án đầu tư nước ngoài, phù hợp với thông lệ quốc tế và các điều kiện kinh tế chính trị-xã hội của đất nước ta hiện nay. Theo Quyết định số 179/QD-BTC ngày 24/02/1998 thì giá thuê đất ở đô thị là:  Đô thị loại 1: 1,00  12,00 USD/m2/năm.  Đô thị loại 2: 0,80  9,60 USD/m2/năm.  Đô thị loại 3: 0,60  7,20 USD/m2/năm.  Đô thị loại 4: 0,35  4,20 USD/m2/năm. 44
  42.  Đô thị loại 5: 0,18  2,16 USD/m2/năm. Đối với đô thị thuộc địa bàn vùng núi, vùng sâu, vùng xa, địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn, giá thuê đất được xác định bằng 80% mức quy định chung. Các thị trấn ở các vùng này, giá thuê đất đô thị được xác định như sau: Đơn giá Mức giá tối Hệ số Hệ số thuê đất = thiểu cho từng vị ngành (USD/m2/năm) nhóm đô thị trí nghề a.Hệ số vị trí: Hệ số vị trí được chia làm 4 loại: . Vị trí 1 có hệ số là 3. áp dụng cho các lô đất, thửa đất có mặt tiền tiếp giáp với đường phố chính của đo thị, đầu mối giao thông nội đô thị, rất thuận lợi cho hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, du lịch, sinh hoạt, có khả năng sinh lợi cao nhất, có giá đất thực tế cao nhất. 45
  43. . Ví trí 2 có hệ số 2,5. áp dụng cho lô đất có mặt tiền không tiếp giáp với đường phố chính, thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ, du lịch, sinh hoạt và có khả năng sinh lợi kém vị trí 1, có giá đất thực tế trung bình thấp hơn giá đất thực tế của vị trí 1. . Vị trí 3 có hệ số là 2. áp dụng cho các lô đất có mặt tiền không tiếp giáp nội đường phố, tương đối thuận lợi với các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ, du lịch, sinh hoạt và có khả năng sinh lời kém vị trí số 2, có giá đất thực tế trung bình thấp hơn so với vị trí 2. . Ví trị 4 có hệ số là 1. áp dụng cho các lô đất không có mặt tiền tiếp giáp với đường phố, ngõ phố, kém thuận lợi đối với các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ, du lịch, sinh hoạt có giá đấu thấp nhất trong đô thị. b.Hệ số kết cấu hạ tầng. Hệ số 2 áp dụng cho các lô đất có đủ 3 điều kiện: 46
  44. + Giao thông thuận lợi. + Có công trình cấp trên ở gần nơi thực hiện dự án, có thể đáp ứng được các nhu cầu của dự án. + Có hệ thống cấp nước gần hàng rào công trình có thể sử dụng cho dự án. Hệ số 1,7 áp dụng cho lô đất thiếu một trong các điều kiện trên. Hệ số 1,4 áp dụng cho lô đất thiếu hai điều kiện trên. Hệ số 1 áp dụng cho lô đất thiếu cả 3 điều kiện trên. c. Hệ số ngành nghề Hệ số 2 áp dụng cho các ngành thương mại và du lịch khách sạn, nhà hàng, tài chính, tư vấn, môi giới, kinh doanh bất động sản (trừ kinh doanh cơ sở hạ tầng, xây dựng nhà ở để bán hoặc thuê), ngân hàng, bảo hiểm, kiểm toán. Hệ số 1 áp dụng cho các ngành sản xuất là phân phối điện, cấp nước và thóat nước, công nghiệp khai thác mỏ, luyện kim sản xuất máy móc, thiết bị và phương tiện vận tải hoá chất cơ bản, phân dãn khí, công nghiệp chế biến sản phẩm nông lâm, thuỷ sản, sản xuất nông, lâm, ngư 47
  45. nghiệp, khám và chữa bệnh, thiết bị và phương tiện y tế, thể dục thể thao, xử lý ô nhiễm, bảo vệ môi trường và xử lý chất thải đất xây dựng cầu đường, kinh doanh cơ sở hạ tầng, xây dựng nhà ở để bán hoặc cho thuê, khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghiệp cao và các cơ sở sản xuất sử dụng công nghệ cao. Hệ 1,5 áp dụng cho các ngành nghề khác không thuộc các ngành nghề áp dụng hệ số 2 và hệ số 1. 1. Đối với đất tại các vùng núi đá, đồi trọc, đất xấu khó sử dụng.Nếu sử dụng cho các dự án không phải là sản xuất, công nghiệp, dịch vụ, du lịch, thương mại thì đơn giá thuê đât được tính từ 30 đến 100 USD/ha/năm. Những vùng đất khác được tính từ 100 dến 600 USD/ha/năm. 2. Đối với mặt nước sông, hồ, vịnh tiền thuê đất từ 75 đến 525 USD/km2/năm. Mặt biển có đơn giá tiền thuê là từ 150 đến 600 USD/km2/năm. Đối với trường hợp thuê đất có diện tích sử dụng không cố định thì áp dụng mức tiền thuê từ 150 đến 750 USD/năm. Mức tiền thuê đất nêu trên không bao gồm chi phí đền bù, giải toả. Sau mỗi thời hạn 5 năm nếu xét thấy cần thiết thì bộ tài chính sẽ xem xét và 48
  46. điều chỉnh mức tiền thuê. Khi điều chỉnh tăng thì mức tăng không vượt quá 15% của mức quy định lần trước. Trên quy định của bộ tài chính về tiền thuê đất mặt nước, mặt biển áp dụng đối với các hình thức đầu tư nước ngoài tại Việt Nam theo đề nghị của giám đốc sở tài chính, ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương sẽ: - Quyết định đơn giá thuê đất đối với dự án do mình cấp giấy phép đầu tư. - Đề nghị bằng văn bản đơn giá thuê đất đối với dự án do mình cấp giấy phép đầu tư. - Đề nghị bằng văn bản về đơn giá thuê đất đối với dự án thuộc thẩm quyền cấp giấy phép của bộ kế hoạch và đầu tư ủy quyền cấp giấy phép. Trong trường hợp này, bộ kế hoạch và đầu tư (ủy quyền cấp giấy phép) hoặc cơ quan được bộ kế hoạch và đầu tư ủy quyết sẽ quyết định việc thuê giá đất. 49
  47. 3.Thời điểm tính tiền là thời điểm doanh nghiệp được bàn giao đất để sử dụng. Trường hợp chưa bàn giao đất mà doanh nghiệp đã sử dụng đất thì thời điểm tính tiền thuê đất tính từ thời điểm doanh nghiệp sử dụng đất Tiền thuê đất được nộp mỗi năm 20, mỗi lần nộp 50% . Khuyến khích việc trả tiền một lần trong thời hạn 5 năm và trên 5 năm. Một tỷ lệ giảm nhất định được ghi nhận rõ tại quyết định H9 của bộ tài chính Việt Nam. Nếu trả cho 5 năm thì được giảm 5% số tiền thuê đất của 5 năm đó. Trả tiền cho thời hạn thuế đất trên 5 năm thì mỗi năm tăng thêm được giảm 1% số tiền thuê đất phải trả, nhưng tổng mức không giảm quá 25% số tiền thuê đất phải trả của thời gian này. Trường hợp trả tiền thuê đất cho toàn bộ thời gian thuê đất trên 30 năm thì được giảm 30% số tiền thuê đất phải trả. Với những quy định rõ ràng trên đây thì việc nộp tiền thuê đất sẽ diễn ra một cách dễ dàng. Có một hình thức thuế mà cho đến ngày nay vẫn còn tồn tại rất rõ. Đó là địa tô độc quyền. Trong các thành phố lớn, ở các khu đất có vị trí thuận lợi cho phép xây dựng các trung tâm công nghiệp, thương mại, dịch vụ, nàh cho thuê có khả năng thu lợi lớn thì giá thuê nhà, đất rất cao. Đến đây, sau khi đã nghiên cứu kỹ về luật đất đai, thuế nông nghiệp cũng như trong một số lĩnh vực kinh doanh, ta có thể khẳng định hiện nay 50
  48. địa tô vẫn còn tồn tại nhưng về bản chất của nó hoàn toàn khác so với địa tô tư bản chủ nghĩa hay địa tô phong kiến. Nếu như trong xã hội phong kiến, trong xã hội tư bản chủ nghĩa, người sử dụng đất phải nộp tô cho địa chủ . Tô đó là do các nhà điạc chủ năm giữ và hưởng thì ngày nay, điạ tô hay nói cách khác là thuế đất, thuế nhà, tiền thuê đất đều được nộp vào ngân sách nhà nước. Nguồn ngân sách đó lại được dùng vào những việc công nhằm xây dựng đất nước. Tuy nhiên trong việc sử dung lí luận của Mác về địa tô vào trong luật đất đai, thuế nông nghiệp và một số ngành khác vẫn còn tồn tại một số vướng mắc, hạn chế. - Như việc nhà nước thu đất của nông dân với giá rất rẻ (khoảng mấy chục ngàn một m2) sau đó quy hoạch, xây dựng nhà ở và cho thuê với giá rất cao. Đây cũng là một vấn đề cần kiến nghị lên cấp có thẩm quyền nhằm có sự đền bù thỏa đáng. - Ngay cả trong việc thực hiện xoá bỏ thuế hạn điền cũng phải gặp nhiều vướng mắc để thực hiện được nhanh chóng thì các địa phương cần rà soát lại hệ thống chính sách đất đai ở nhiều nơi rành mạch hoá phần diện tích cuả từng hộ nông dân, nhất là với diện tích đất nuôi trồng thủy sản ở các tỉnh ven biển, nơi mà nhiều nông ngư dân đã chuyển nhượng quyền sử dụng cho nhau, xác định chủ sở hữu ở những nơi này sẽ gặp khó khăn hơn trước. Bên cạnh đó việc xoá bỏ thuế hạn điền cho người nông dân sẽ ảnh hưởng đến nguồn thu ngân sách của các cấp chính quyền địa phương đặc biệt là cấp xã. Họ sẽ gặp khó khăn trong chi trả phụ cấp cho 51
  49. cán bộ xã đang làm việc trực tiếp. Nhà nước nên có những hỗ trợ ngân sách trong một vài năm đầu, sau đó các địa phương phải từ vượt lên khó khăn tận thu các nguồn để dần tự trang trải. Trong việc cho người nước ngoài thuê đất cũng gặp nhiều khó khăn. Ngày 27/3 tại Hà Nội, tổng cục điạc chính và câu lạc bộ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã tổ chức hội nghị lấy ý kiến góp ý kiến cho dự thảo sửa đổi, bổ sung pháp lệnh về quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân nước ngoài thuê đất tại Việt Nam. Với nội dung sửa đổi lần này là mở rộng hình thức sử dụng đất, có những ý kiến cho rằng nếu cho phép việc thuê đất của nông dân thì sẽ xảy ra tình trạng nhà đầu tư thành điạ chủ khi họ thuê hết đất sản xuất của nông dân rồi lại thuê nông dân làm công trên chính mảnh đất đó. Bởi vậy nhà nước phải quy định chi tiết các điều kiệ ràng buộc thật chặt chẽ để nhằm kiểm soát được nếu pháp lệnh sửa đổi mở thêm hình thức cho phép nhà đầu tư nước ngoài thuê lại đất của nông dân (báo Tiền phong số 63 ra ngày 28/3/2002). Mặc dù hiện nay vấn đề thu địa tô (thuế đất và tiền thuê đất) có những cải tiến vượt bậc so với trước nhưng đôi khi vẫn gặp những bất lợi trong công tác thu tiền và chỉ đạo người dân thi hành nghĩa vụ nộp thuế. Vì vậy, nhà nước đã phải đưa ra những giải pháp thật kịp thời. Ngày 6/5/2020, tại thành phố Hồ Chí Minh diễn ra cuôc họp của ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh triển khai chỉ thị số 08 về chấn chỉnh và tăng cường quản lý nhà nước vè nhà đất trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh. Các đơn vị và cá nhân trong diện kê khai phải kê khai về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính, trong đó xem đã nộp đủ tiền sử dụng đất hay chưa, số tiền đã nộp, đồng thời ghi tương ứng với số diện tích đã nộp tiền sử dụng đất thì tương ứng với số tiền phần trăm so với tổng số diện tích được giao. 52
  50. Cần ghi rõ phần lệ phí trước bạ đã nộp và đã đạt bao nhiêu phần trăm so với nghĩa vụ phải nộp. 53
  51. Kết luận Sau khi nghiên cứu về lý luận địa tô của Mác , cũng như những ứng dụng sáng tạo của Đảng ta trong việc đề ra luật đất đai , thuế nông nghiệp và những quy định về thuế đất , ta thấy đây là một vấn đề rất cấp thiết mà những người làm kinh tế cần phải quan tâm . Hiện nay , việc thu thuế trong nông nghiệp đã được giảm đi rất nhiều, mà việc nộp thuế đang dần chuyển sang các nhà kinh doanh thuê đất để làm ăn. Nếu như trong chế độ TBCN , địa tô được thực hiện chủ yếu trong NN và khoản tô đó thuọc quyền sở hữu của địa chủ , thì ngày nay khoản thuế đó lại được giảm trong nông nghiệp và do NN quản lý , số tiền đó nằm trong NS quốc gia dùng vào các việc XH như xây trường học , bệnh viện Với việc thu thuế như ngày nay , NN vừa thúc đẩy được sự phát triển sản xuất trong NN , khuyến khích người dân sản xuất lại vừa tăng thêm nguồn NS cho NN . 54
  52. Tuy nhiên , việc nghiên cứu đề tài này cũng gặp nhiều khó khăn , và đây là một vấn đề ít được chú ý đối với những nhà kinh tế , khó tìm tư liệu ,và đặc biệt đây là vấn đề rất khó tư duy , nhưng em rất mong nhận được sự giúp đỡ và sự chỉ bảo tận tình của thầy giáo . 55