Luận án Tiểu thuyết lãng mạn trong văn học Việt Nam 1930-1945 dưới góc nhìn thể loại
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận án Tiểu thuyết lãng mạn trong văn học Việt Nam 1930-1945 dưới góc nhìn thể loại", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
luan_an_tieu_thuyet_lang_man_trong_van_hoc_viet_nam_1930_194.docx
1. LA nop buóc 7.pdf
2 TÓM TẮT 24 TR Sau PBK (IN)b7.docx
2 TÓM TẮT 24 TR Sau PBK (IN)b7.pdf
3 Ban dịch TT.docx
3 Ban dịch TT.pdf
4 Thong tin mơi LA.docx
4 Thong tin mơi LA.pdf
4.1 BAN DICH - Thong tin tom tat ve nhung diem moi cua LA - Pham Thi Thiem.docx
4.1 BAN DICH - Thong tin tom tat ve nhung diem moi cua LA - Pham Thi Thiem.pdf
QDBM.Thiểm_20240401.pdf
Nội dung text: Luận án Tiểu thuyết lãng mạn trong văn học Việt Nam 1930-1945 dưới góc nhìn thể loại
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI *** PHẠM THỊ THIỂM TIỂU THUYẾT LÃNG MẠN TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM 1930 -1945 DƯỚI GÓC NHÌN THỂ LOẠI LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN Hà Nội, 2024
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI *** PHẠM THỊ THIỂM TIỂU THUYẾT LÃNG MẠN TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM 1930 -1945 DƯỚI GÓC NHÌN THỂ LOẠI Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 9.22.01.21 LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Trần Đăng Xuyền Hà Nội, 2024
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xác nhận rằng đây là kết quả của công trình nghiên cứu mà chính tôi đã thực hiện. Trong luận án này, tôi trình bày những kết quả nghiên cứu trung thực và khách quan, chưa được công bố bởi bất kỳ tác giả nào hay ở bất cứ công trình nào khác. Tất cả các thông tin được trích dẫn trong luận án đều được định rõ nguồn gốc. Tác giả Phạm Thị Thiểm
- DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT 1 CNLM Chủ nghĩa lãng mạn 2 TLVĐ Tự lực văn đoàn 3 TTLM Tiểu thuyết lãng mạn 4 VHLM Văn học lãng mạn 5 VHVN Văn học Việt Nam 6 HĐH Hiện đại hóa
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU....................................................................................................................1 1. Lí do chọn đề tài .....................................................................................................1 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu...........................................................................3 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu..........................................................................6 4. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................................7 5. Đóng góp mới của luận án ......................................................................................8 6. Cấu trúc luận án ......................................................................................................8 CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU...................................9 1.1. Chủ nghĩa lãng mạn và sự xuất hiện của chủ nghĩa lãng mạn trong văn học Việt Nam.....................................................................................................................9 1.1.1. Chủ nghĩa lãng mạn..........................................................................................9 1.1.2. Sự xuất hiện của chủ nghĩa lãng mạn trong văn học Việt Nam......................11 1.2. Tiểu thuyết và tiểu thuyết lãng mạn Việt Nam 1930 – 1945.............................13 1.2.1. Tiểu thuyết và những đặc điểm cơ bản của thể loại .......................................13 1.2.2. Khái quát về tiểu thuyết lãng mạn Việt Nam 1930 – 1945 .............................18 1.3. Tình hình nghiên cứu về tiểu thuyết lãng mạn Việt Nam 1930 - 1945..............21 1.3.1. Đôi nét về tình hình nghiên cứu văn học lãng mạn trên thế giới....................21 1.3.2. Lịch sử nghiên cứu về tiểu thuyết lãng mạn 1930 – 1945 ở Việt Nam ...........25 Tiểu kết .....................................................................................................................48 CHƯƠNG 2. SỰ XUẤT HIỆN VÀ CÁC CHẶNG ĐƯỜNG PHÁT TRIỂN CỦA TIỂU THUYẾT LÃNG MẠN VIỆT NAM 1930 -1945 .............................49 2.1. Hoàn cảnh lịch sử xã hội Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX và những ảnh hưởng đến đời sống văn học ................................................................................................49 2.1.1. Hoàn cảnh lịch sử xã hội Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX..................................49 2.1.2. Những ảnh hưởng của hoàn cảnh lịch sử xã hội Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX đến đời sống văn học ................................................................................................52 2.2. Ảnh hưởng một số nền văn học- văn hóa ..........................................................56 2.2.1. Văn học - văn hoá Trung Quốc.......................................................................57 2.2.2. Văn học - văn hoá phương Tây.......................................................................59
- 2.3. Sự xuất hiện tiểu thuyết lãng mạn và các chặng đường phát triển của tiểu thuyết lãng mạn Việt Nam ...............................................................................61 2.3.1. Sự xuất hiện của tiểu thuyết lãng mạn ở Việt Nam.........................................61 2.3.2. Các chặng đường phát triển của tiểu thuyết lãng mạn Việt Nam...................62 Tiểu kết .....................................................................................................................68 CHƯƠNG 3. ĐỀ TÀI, CỐT TRUYỆN, KẾT CẤU VÀ CÁC KIỂU XUNG ĐỘT NGHỆ THUẬT TRONG TIỂU THUYẾT LÃNG MẠN VIỆT NAM 1930 - 1945..........................................................................................69 3.1. Đề tài của tiểu thuyết lãng mạn Việt Nam 1930 – 1945....................................69 3.1.1. Đề tài tình yêu.................................................................................................70 3.1.2. Đề tài lịch sử...................................................................................................76 3.1.3. Đề tài xê dịch ..................................................................................................84 3.2. Cốt truyện của tiểu thuyết lãng mạn Việt Nam 1930 – 1945.............................87 3.2.1. Cốt truyện sự kiện ...........................................................................................88 3.2.2. Cốt truyện tâm lý.............................................................................................92 3.3. Kết cấu của tiểu thuyết lãng mạn Việt Nam 1930 – 1945 .................................97 3.3.1. Kết cấu luận đề ...............................................................................................97 3.3.2. Kết cấu tâm lý ...............................................................................................104 3.3.3. Kết cấu lồng ghép .........................................................................................107 3.3.4. Kết cấu đa tầng bậc ......................................................................................109 3.4. Xung đột nghệ thuật trong tiểu thuyết lãng mạn Việt Nam 1930 – 1945........112 3.4.1. Xung đột giữa con người cá nhân với hoàn cảnh.........................................114 3.4.2. Xung đột nội tâm...........................................................................................118 Tiểu kết ...................................................................................................................121 CHƯƠNG 4. THẾ GIỚI NHÂN VẬT VÀ NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG NHÂN VẬT CỦA TIỂU THUYẾT LÃNG MẠN VIỆT NAM 1930 – 1945.......123 4.1. Thế giới nhân vật trong tiểu thuyết lãng mạn Việt Nam 1930 – 1945 ............124 4.1.1. Hình tượng nhân vật đại diện cho luân lý đạo đức phong kiến....................124 4.1.2. Hình tượng người phụ nữ mới ......................................................................135
- 4.1.3. Hình tượng người khách chinh phu ..............................................................149 4.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết lãng mạn Việt Nam 1930 – 1945 ..156 4.2.1. Miêu tả trực tiếp vẻ đẹp hình thể nhân vật bằng bút pháp tạo hình .............156 4.2.2. Miêu tả tâm lý nhân vật qua hình thức lồng ghép thư tín, nhật ký ...............159 4.2.3. Miêu tả tâm lý nhân vật qua đối thoại, độc thoại nội tâm............................163 Tiểu kết ...................................................................................................................168 CHƯƠNG 5. NGHỆ THUẬT TRẦN THUẬT VÀ NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT TRONG TIỂU THUYẾT LÃNG MẠN 1930 – 1945..........................169 5.1. Người kể chuyện và điểm nhìn trần thuật........................................................169 5.1.1. Người kể chuyện ngôi thứ ba với điểm nhìn tác giả ....................................171 5.1.2. Người kể chuyện ngôi thứ nhất với điểm nhìn bên trong..............................173 5.1.3. Di chuyển ngôi kể và điểm nhìn trần thuật linh hoạt....................................176 5.2. Giọng điệu trần thuật .......................................................................................179 5.2.1. Giọng điệu mang đậm sắc thái trữ tình và suy tư.........................................179 5.2.2. Giọng điệu giễu nhại, châm biếm, mỉa mai ..................................................185 5.3. Ngôn ngữ nghệ thuật trong tiểu thuyết lãng mạn Việt Nam 1930-1945..........188 5.3.1. Tính đối thoại trong ngôn ngữ tiểu thuyết ....................................................189 5.3.2. Ngôn ngữ giản dị, tinh tế, giàu sức biểu cảm ...............................................196 Tiểu kết ...................................................................................................................200 KẾT LUẬN............................................................................................................202 TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................................206
- 1 MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài 1.1. Trong tiến trình văn học Việt Nam (VHVN), giai đoạn từ 1900 – 1945 được coi là thời kỳ vàng đánh dấu bước chuyển mình mạnh mẽ từ hệ hình văn học truyền thống sang quỹ đạo văn học hiện đại. Trong đó, nếu ba mươi năm đầu được coi là giai đoạn giao thời, đặt bản lề cho sự hiện đại hóa (HĐH) thì mười lăm năm sau đó (1930 – 1945) là giai đoạn diễn ra vô cùng quyết liệt quá trình HĐH với sự nở rộ của nhiều khuynh hướng, trào lưu văn học, sự xuất hiện của những thể loại văn học mới gắn liền với những tác gia, tác phẩm để lại dấu ấn quan trọng trong lịch sử văn học. Góp phần tạo ra những bước chuyển quyết liệt đó, chúng ta không thể không nhắc đến tên tuổi của các nhà văn như Thế Lữ, Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Nguyễn Công Hoan, Nhất Linh, Khái Hưng, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Tuân, Nam Cao, Nguyễn Huy Tưởng... 1.2. Theo M. Bakhtin, “Mỗi một thể loại, nhất là thể loại lớn, thể hiện một thái độ thẩm mỹ đối với hiện thực, một cách cảm thụ, nhìn nhận, giải minh thế giới và con người ” [14, tr.7]. Cùng với việc đề cao vai trò của thể loại, M. Bakhtin đặc biệt coi trọng vai trò của tiểu thuyết vì nó là “thể loại chính”, “là sản phẩm tinh thần tiêu biểu nhất cho thời đại mới một thể loại chúa tể” [14, tr 8]. Bởi vậy, nghiên cứu tiểu thuyết là nghiên cứu một thể loại quan trọng, giữ vị trí trung tâm, kết tinh giá trị của tư duy văn học nhân loại nói chung và văn học dân tộc nói riêng. Sự phát triển của tiểu thuyết không chỉ phản ánh bước đi, sự dịch chuyển của đời sống văn chương mà còn ghi nhận những đổi mới trong tư duy nghệ thuật. Gắn với đời sống VHVN 1930 – 1945, đề cập đến tiểu thuyết, ta không thể không nhắc đến tiểu thuyết lãng mạn (TTLM) với những sáng tác kết tinh tư tưởng và tài năng nghệ thuật của các nhà văn lớn như Nhất Linh, Khái Hưng, Nguyễn Huy Tưởng, Nguyễn Tuân... Sáng tác của họ có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc tạo nên sự phát triển mạnh mẽ của văn học giai đoạn này – một giai đoạn “văn học phát triển rất mạnh mẽ, có thể nói là bùng nổ, đạt được nhiều thành tựu phong phú, rực
- 2 rỡ, đặc sắc... vừa mới mẻ về nội dung, vừa già dặn, điêu luyện về nghệ thuật” [167, tr.14]. Mặc dù vậy, cho đến thời điểm này, dẫu gần một thế kỷ đã đi qua nhưng chưa có một công trình nào nghiên cứu tập trung, chuyên biệt về TTLM Việt Nam 1930 – 1945 từ góc nhìn thể loại. 1.3. “Có một thực tế là văn học lãng mạn (VHLM) ở ta dường như bị lãng quên trong khi trên thế giới nó vẫn được nghiên cứu rất nghiêm túc, toàn diện. Thậm chí có nhiều tác phẩm lãng mạn được khám phá lại trong trường ảnh hưởng của lý thuyết mới” [124, tr.7]. Thực tế đó cho thấy, trong khi tiểu thuyết - một thể loại trung tâm – nhân vật chính trên sân khấu văn học, đã tạo ra bước chuyển mạnh mẽ, phong phú chưa từng có trong lịch sử VHVN nhưng dường như lại chưa được quan tâm nghiên cứu một cách thỏa đáng. Bởi vậy, việc nghiên cứu về TTLM Việt Nam 1930 – 1945 từ góc nhìn thể loại là hướng nghiên cứu có ý nghĩa nhằm đánh giá đúng mức giá trị của TTLM giai đoạn này. 1.4. Sau gần một thế kỷ, vấn đề nhận thức lại để tìm “những cách đọc khác” đã và đang trở thành một hướng đi mới trong nghiên cứu văn học lãng mạn (VHLM) ở Việt Nam. Gần một thế kỷ đã đi qua nhưng những ngổng ngang, dang dở trong định giá về bộ phận văn học này càng khiến cho vấn đề “nhận thức lại” trở nên cấp thiết hơn. Trong tình hình ấy, việc chọn góc nhìn mới- góc nhìn thể loại để nghiên cứu TTLM sẽ giúp cho việc nghiên cứu về bộ phận văn học này trở nên toàn diện, công tâm hơn. Xuất phát từ những lý do khách quan và chủ quan nêu trên, chúng tôi quyết định lựa chọn Tiểu thuyết lãng mạn trong văn học Việt Nam 1930 - 1945 dưới góc nhìn thể loại làm đề tài luận án của mình. Khái niệm Tiểu thuyết lãng mạn ở đây được quan niệm tiểu thuyết thuộc khuynh hướng trào lưu lãng mạn Việt Nam 1930-1945. Nó không thuần túy là lãng mạn chủ nghĩa mà còn bao gồm cả những tác phẩm có yếu tố hiện đại chủ nghĩa, thuộc chủ nghĩa hiện đại, mà cơ sở của nó là lãng mạn. Những
- 3 cuốn tiểu thuyết mà luận án khảo sát có tính chất, đặc trưng khác với tiểu thuyết thuộc khuynh hướng, trào lưu hiện thực chủ nghĩa. 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 2.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận án là TTLM Việt Nam dưới góc nhìn thể loại. Thực chất, TTLM bao chứa trong nó hai vấn đề: thể loại và trào lưu, khuynh hướng nghệ thuật. Cụ thể hơn, trong luận án này, vấn đề thể loại (tiểu thuyết) luôn được xem xét trong mối quan hệ với trào lưu lãng mạn. 2.2. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu của luận án là tiểu thuyết Việt Nam sáng tác theo khuynh hướng lãng mạn ra đời trong khoảng thời gian 1930 - 1945. Để khoanh vùng TTLM thuộc phạm vi nghiên cứu của luận án, tác giả luận án dựa vào các tiêu chí sau: Thứ nhất: chỉ đưa vào phạm vi nghiên cứu của luận án những tiểu thuyết được sáng tác dựa trên nguyên tắc sáng tạo của chủ nghĩa lãng mạn (CNLM). Trên cơ sở lấy nguyên tắc sáng tạo của CNLM làm tiêu chí phân loại, tác giả luận án chủ yếu dựa vào những đặc điểm đã được khái quát như: thái độ phủ định với những chuẩn mực và những quy phạm đã lỗi thời; không mô tả - thậm chí thoát ly thực tại, trở về với thiên nhiên; đề cao tinh thần tự do và tính chủ quan trong sáng tạo nghệ thuật; đề cao tính dân tộc; tìm kiếm sự khác lạ và vươn tới cái phi thường . Những nguyên tắc này sẽ được phân tích cụ thể hơn trong nội dung 1.1.1. Chủ nghĩa lãng mạn. Thứ hai: chỉ đưa vào phạm vi nghiên cứu của luận án những TTLM được sáng tác trong khoảng thời gian 15 năm (từ 1930 – 1945). Liên quan đến mốc thời điểm 1930 này, hiện nay có nhiều quan điểm đa dạng về các năm mốc và phân kỳ văn học có liên quan đến cơ sở cho việc lựa chọn năm 1930 hay 1932. Một trong những nguyên nhân đưa đến sự khác biệt trong lựa chọn các năm mốc này là vì năm 1932 được coi là năm ra đời của trào lưu văn học
- 4 lãng mạn Việt Nam (năm này gắn liền với sự xuất hiện của Hồn bướm mơ tiên của Khái Hưng và phong trào Thơ Mới). Điều này đã được khẳng định thông qua một số công trình nghiên cứu như: Phong trào Thơ mới (1932 – 1945), Tự lực văn đoàn – con người và văn chương của tác giả Phan Cự Đệ Tuy nhiên, trong công trình này, tác giả luận án lại chọn mốc 1930 chứ không phải 1932. Tác giả lựa chọn mốc 1930 với ý nghĩa đây là một dấu mốc của một giai đoạn văn học mới – giai đoạn văn học hiện đại (quan điểm này được nhiều nhà nghiên cứu thừa nhận như: Phan Cự Đệ (Giáo trình Văn học Việt Nam (1900 - 1945), NXB Giáo dục, 1998; Văn học lãng mạn Việt Nam (1930 – 1945), NXB Văn học, 2002; Văn học Việt Nam thế kỷ XX – những vấn đề lịch sử và lý luận, NXB Giáo dục, 2005); Trần Đăng Suyền và Lê Quang Hưng (công trình Văn học Việt Nam từ đầu thế kỷ XX đến 1945, NXB Đại học Sư phạm, 2017). Hơn nữa, trong công trình này, tác giả luận án muốn đặt tiểu thuyết lãng mạn trong tiến trình của văn học Việt Nam hiện đại để thấy được những đóng góp của tiểu thuyết lãng mạn trong việc hiện đại hoá văn học hơn là chỉ đặt TTLM trong trào lưu VHLM nói chung. Trên tinh thần ấy, người viết luận án cũng khẳng định rằng: việc người viết lựa chọn mốc 1930 không đồng nghĩa với việc mốc thời gian này sẽ là một lát cắt rạch ròi phân biệt giữa thời kỳ văn học trước và sau đó (1900 – 1930 và 1930 – 1945). Điều này cũng không có nghĩa là người viết phủ định mốc 1932 với những ý nghĩa hết sức quan trọng gắn liền với sự ra đời của trào lưu văn học lãng mạn Việt Nam. Với những lí lẽ trên, việc lựa chọn khoảng thời gian 1930 – 1945 không đơn thuần là thời điểm chính xác gắn liền với sự ra đời của các TTLM thuộc phạm vi khảo sát mà thực chất nó là một giai đoạn văn học với những thành tựu nổi bật góp phần hiện đại hóa văn học nước nhà. Ngoài tiêu chí về thời gian và lấy nguyên tắc sáng tạo của CNLM làm kim chỉ nam định hướng, việc khoanh vùng TTLM Việt Nam vẫn thực sự là một công việc khó khăn, nhiều thách thức. Khó khăn trước hết là bởi sự thiếu rành mạch trong
- 5 việc lựa chọn khuynh hướng sáng tác của các nhà văn. Chính sự thiếu rành mạch này đã dẫn đến hiện tượng một số cây bút hiện thực xuất sắc (Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Nguyên Hồng ) đồng thời cũng là tác giả của một số tiểu thuyết đậm chất lãng mạn (trường hợp Tắt lửa lòng của Nguyễn Công Hoan là một ví dụ). Ngược lại, một số cây bút lãng mạn xuất sắc nhưng đồng thời cũng là tác giả của những tiểu thuyết hiện thực có giá trị (trường hợp Khái Hưng với Thoát ly ). Đặc biệt, trong một số tiểu thuyết còn pha trộn cả yếu tố hiện thực và lãng mạn (những trang viết vừa đậm chất hiện thực (hiện thực nghiêm ngặt) nhưng cũng tràn đầy cảm hứng lãng mạn (Thời thơ ấu của Nguyên Hồng là một trường hợp). Bên cạnh sự không rành mạch trong khuynh hướng, sự đan xen trong bút pháp hiện thực và lãng mạn, việc xác định phạm vi nghiên cứu của luận án cũng gặp phải khó khăn bởi sự pha trộn giữa những yếu tố của CNLM và chủ nghĩa hiện đại (Bướm trắng, Đôi bạn của Nhất Linh, Đẹp của Khái Hưng). Thừa nhận tính chất tương đối trong việc xác định phạm vi nghiên cứu, trong công trình này, chúng tôi không tham vọng bao quát toàn bộ TTLM Việt Nam 1930 – 1945 mà chỉ lựa chọn một số tác giả, tiêu biểu với những tác phẩm, có giá trị về nội dung và nghệ thuật, có đóng góp quan trọng trong việc HĐH thể loại tiểu thuyết. Theo đó, một số TTLM không thực sự tiêu biểu sẽ không thuộc phạm vi nghiên cứu chính của luận án (như TTLM của Nguyễn Bính (Hai người điên giữa kinh thành Hà Nội), Thạch Lam (Ngày mới) Bên cạnh đó, khi nghiên cứu TTLM Việt Nam 1930 – 1945 từ góc nhìn thể loại, chúng tôi dành sự quan tâm đặc biệt đến đóng góp của TTLM ở thể tài tiểu thuyết lịch sử (TTLS). Nói đến TTLS giai đoạn này, ta không thể không nhắc đến khối lượng tiểu thuyết khá đồ sộ của Lan Khai nhưng chúng tôi cũng không đưa tiểu thuyết của Lan Khai vào phạm vi khảo sát của luận án. Sở dĩ như vậy là vì: “Tuy cảm hứng lãng mạn cũng là một trong những cảm hứng chủ đạo của TTLS Lan Khai nhưng ta không thấy ở đó sự thoát li thực tế để đề cao, tuyệt đối hóa cái Tôi như các nhà thơ trong phong trào Thơ Mới, cũng không phải là thứ tình yêu thoát li, trốn tránh hiện thực để tìm một cuộc sống hưởng thụ như trong tiểu thuyết
- 6 của Tự lực văn đoàn (TLVĐ) mà tất cả những nỗ lực của Lan Khai ở mảng TTLS chính là để “dân ta phải biết sử ta”, để khích lệ lòng yêu nước của cả dân tộc” [213, tr44]. Trên cơ sở những yếu tố kể trên, chúng tôi xác định phạm vi nghiên cứu của luận án gồm tiểu thuyết của các tác giả Khái Hưng, Nhất Linh, Nguyễn Huy Tưởng và Nguyễn Tuân như: Khái Hưng với Hồn bướm mơ tiên (1932-1933), Nửa chừng xuân (1934), Gia đình (1936), Trống mái (1936); Tiêu Sơn tráng sĩ (1937), Đẹp (1939 - 1940), Băn khoăn (1943); Nhất Linh với Đoạn tuyệt (1934), Đôi bạn (1936-1937), Lạnh lùng (1935), Bướm trắng (1939 - 1940), Nắng thu (1942); Nhất Linh và Khái Hưng với Gánh hàng hoa (1934), Đời mưa gió (1934); Nguyễn Huy Tưởng với Đêm hội Long Trì (1942), An Tư (1943) và Nguyễn Tuân với Thiếu quê hương (1940). 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Đề tài được thực hiện nhằm mục đích chỉ rõ những đặc điểm về nội dung và hình thức nghệ thuật của TTLM Việt Nam giai đoạn 1930 -1945 trên phương diện thể loại. Trên cơ sở đó, tác giả luận án đặt TTLM Việt Nam giai đoạn này trong diễn trình phát triển của thể loại tiểu thuyết ở Việt Nam để khẳng định những đóng góp, đổi mới, cách tân của TTLM Việt Nam 1930 – 1945 trên phương diện thể loại (đặc biệt là trên phương diện đổi mới tư duy và thi pháp thể loại). Đây cũng chính là nền tảng quan trọng góp phần khẳng định những đóng góp quan trọng trong nỗ lực HĐH văn học dân tộc của TTLM Việt Nam 1930 – 1945. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Hướng tới thực hiện những mục đích nghiên cứu nói trên, chúng tôi xác định những nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể như sau: Thứ nhất: chỉ ra đặc điểm của TTLM Việt Nam 1930 – 1945 trên cả phương diện nội dung và hình thức như đề tài, cốt truyện, kết cấu, xung đột, nhân vật, nghệ thuật trần thuật và ngôn ngữ nghệ thuật. Trên cơ sở phân tích và chỉ ra sự HĐH trên nhiều phương diện của TTLM Việt Nam 1930 – 1945, luận án hướng tới khẳng định những đổi mới trong tư duy và thi pháp thể loại của TTLM Việt Nam giai đoạn này.
- 7 Thứ hai: phân tích đặc điểm TTLM Việt Nam 1930 – 1945 từ góc nhìn thể loại trong tương quan so sánh với tiểu thuyết trước đó và tiểu thuyết hiện thực cùng thời để thấy được sự khác biệt giữa TTLM và hiện thực giai đoạn này cũng như chỉ ra những đóng góp quan trọng của TTLM Việt Nam 1930 – 1945 trên phương diện đổi mới tư duy nghệ thuật tiểu thuyết, HĐH thi pháp thể loại. Thứ ba: phân tích đặc điểm TTLM Việt Nam 1930 – 1945 từ góc nhìn thể loại trong tương quan so sánh với tiểu thuyết Việt Nam giai đoạn 1945 – 1975, đặc biệt sau 1986 để thấy được những nền móng quan trọng mà TTLM 1930 – 1945 đã xây dựng và vai trò của nó trong việc tạo đà cho sự phát triển, đổi mới tư duy nghệ thuật và thi pháp thể loại giai đoạn sau. 4. Phương pháp nghiên cứu Trong luận án chúng tôi vận dụng linh hoạt các phương pháp sau: - Phương pháp nghiên cứu văn học theo đặc trưng thể loại: phương pháp nghiên cứu văn học theo đặc trưng thể loại (cụ thể là thể loại tiểu thuyết) được vận dụng thường xuyên, xuyên suốt nhằm chỉ ra những đặc điểm cơ bản về nội dung cũng như hình thức nghệ thuật trên phương diện thể loại. - Phương pháp nghiên cứu loại hình: được sử dụng trong phân loại các loại hình sáng tác, loại hình học thể loại tiểu thuyết (tiểu thuyết, tiểu thuyết tâm lý, tiểu thuyết luận đề). - Phương pháp nghiên cứu hệ thống: phương pháp này cho phép xem xét một tác phẩm hay toàn bộ sáng tác của một nhà văn, một thể tài (tiểu thuyết tâm lý, tiểu thuyết luận đề), một thể loại (tiểu thuyết) như là những hệ thống – những cấu trúc phức hợp của nhiều yếu tố có mối quan hệ hữu cơ và tác động lẫn nhau. Trên cơ sở đó, tác giả luận án có thể chỉ ra những yếu tố có mối quan hệ hữu cơ, tìm ra sự tác động giữa các yếu tố trong một chỉnh thể thống nhất đồng thời chỉ ra những yếu tố giữ vai trò hạt nhân có tác động chi phối đến các yếu tố khác làm nên diện mạo của toàn hệ thống. Đặc biệt, khi xem xét TTLM Việt Nam 1930 – 1945 như là một bộ phận hợp thành văn học, là sự kế thừa – phát triển của tiểu thuyết trước đó, là nền
- 8 tảng cho sự phát triển của tiểu thuyết sau này... thì người viết sẽ có những đánh giá chính xác, đầy đủ hơn về giá trị vị trí, vai trò của TTLM Việt Nam giai đoạn này. - Phương pháp tiếp cận thi pháp học: Luận án vận dụng hướng tiếp cận thi pháp học (vận dụng thi pháp thể loại tiểu thuyết, thi pháp CNLM) trong việc xem chỉ ra mối quan hệ giữa nội dung – hình thức cũng như sự chi phối từ quan niệm nghệ thuật dẫn đến những lựa chọn về nội dung và hình thức nghệ thuật. - Phương pháp so sánh: phương pháp này được sử dụng nhằm chỉ ra sự tương đồng và khác biệt giữa TTLM với các trào lưu, khuynh hướng văn học cùng thời; Ngoài ra, việc so sánh cũng giúp tác giả luận án thấy được sự đổi mới tư duy thể loại của TTLM Việt Nam 1930 – 1945 so với giai đoạn trước. 5. Đóng góp mới của luận án Thực hiện được mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu nói trên, luận án dự kiến có những đóng góp chủ yếu như sau: Thứ nhất: Luận án là công trình nghiên cứu toàn diện và hệ thống về TTLM Việt Nam dưới góc nhìn thể loại. Từ góc nhìn này, luận án tập trung phân tích và làm sáng tỏ những đặc điểm về thể loại của TTLM trên các phương diện như đề tài, cốt truyện, kết cấu, nhân vật, xung đột, nghệ thuật trần thuật và ngôn ngữ nghệ thuật. Thứ hai: đặt TTLM Việt Nam 1930 - 1945 trong diễn trình phát triển của thể loại tiểu thuyết, tác giả luận án đóng góp một góc nhìn nhằm khẳng định những đóng góp, đổi mới, cách tân của TTLM Việt Nam 1930 – 1945 trên phương diện thể loại (đặc biệt là trên phương diện đổi mới tư duy và thi pháp thể loại). Thứ ba: với đóng góp kể trên, luận án sẽ là tư liệu tham khảo cho những người làm công tác nghiên cứu, giảng dạy về TTLM Việt Nam 1930 - 1945. 6. Cấu trúc luận án Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, nội dung của luận văn gồm 5 chương: Chương 1. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu Chương 2. Sự xuất hiện và các chặng đường phát triển của tiểu thuyết lãng mạn Việt Nam 1930 - 1945
- 9 Chương 3. Đề tài, cốt truyện, kết cấu và các kiểu xung đột nghệ thuật trong tiểu thuyết lãng mạn Việt Nam 1930 - 1945 Chương 4. Thế giới nhân vật và nghệ thuật xây dựng nhân vật của tiểu thuyết lãng mạn Việt Nam 1930 - 1945 Chương 5. Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết lãng mạn Việt Nam 1930 - 1945 CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.1. Chủ nghĩa lãng mạn và sự xuất hiện của chủ nghĩa lãng mạn trong văn học Việt Nam 1.1.1. Chủ nghĩa lãng mạn Chủ nghĩa lãng mạn (romanticism, romantisme) là một trào lưu văn hóa xuất hiện ở những nước Âu Mĩ nhưng lại có tầm ảnh hưởng và ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của văn hóa văn học toàn thế giới. Tên gọi “Chủ nghĩa lãng mạn” (CNLM) phát sinh từ tính từ “lãng mạn” (romantique), xuất hiện ở Pháp ngay từ thế kỷ XVII và nhanh chóng trở thành một trong những trào lưu văn hóa lớn nhất Âu Mĩ vào cuối thế kỷ XVIII – nửa đầu thế kỷ XIX. Vào thời điểm mới ra đời, “lãng mạn” được hiểu là những gì hoang đường, kì lạ, không có trong hiện thực. Đến giữa thế kỷ XVIII, CNLM trở thành thuật ngữ dùng để chỉ trào lưu văn học mới, ghi nhận sự chuyển biến sâu sắc trong tâm lý, cảm xúc, ý thức hệ có ảnh hưởng sâu đậm đến đời sống văn hóa tinh thần nhân loại. CNLM nảy sinh do nhiều nguyên nhân – bao gồm cả nguyên nhân từ xã hội lịch sử và nguyên nhân nội tại của văn học nghệ thuật. Trong đó, nguyên nhân quan trọng nhất được xem như tiền đề tư tưởng – xã hội trực tiếp đưa đến sự ra đời của CNLM đó là những kinh nghiệm lịch sử mới gắn liền với Đại cách mạng Pháp (1789 - 1794). Lý tưởng khai sáng cùng những hứa hẹn đầy tinh thần nhân văn chủ nghĩa của cuộc Cách mạng đã từng mang lại cho các nhà văn biết bao hy vọng về một viễn cảnh tốt đẹp trong tương lai thì giờ đây, cuộc sống thực tại bị phong bế đã hình thành nên trong các nhà văn một cảm quan lịch sử mới thấm đẫm sự chán
- 10 chường và thất vọng. Ảo tưởng tiêu tan, các nhà lãng mạn chủ nghĩa sáng tạo văn học nghệ thuật trong một tâm thế chung có tính chất thế giới quan: một mặt thể hiện sự thất vọng, bất bình đối với thực tại đương thời; mặt khác, là ước mơ khát vọng hoàn thiện, vươn tới lý tưởng phổ quát. Sáng tạo văn học nghệ thuật trong tâm thế chung ấy đòi hỏi ở người cầm bút cần phải có sự thức tỉnh sâu sắc ý thức cá nhân. Điều này đã khiến cho những chuẩn mực thẩm mĩ, những quy phạm ràng buộc vốn được xem như “khuôn vàng thước ngọc” của chủ nghĩa cổ điển ở thế kỷ XVII nay trở thành giáo điều, cứng nhắc, cản trở và kìm hãm sự phát triển của văn học. Giải phóng văn chương khỏi những khuôn mẫu cứng nhắc của chủ nghĩa cổ điển, “CNLM san bằng mọi ngăn cách giả tạo giữa các thể loại, giải phóng cảm hứng và trí tưởng tượng nghệ thuật, làm phong phú ngôn ngữ văn chương” [222, tr.325]. Bởi vậy, căn cứ vào những đặc trưng phổ biến nhất, “có thể định nghĩa, CNLM trong văn học là một khuynh hướng thẩm mĩ được khơi nguồn từ sự khẳng định cái tôi cá nhân cá thể được giải phóng về mặt tình cảm, cảm xúc, phát huy mạnh mẽ trí tưởng tượng. Đối lập với nguyên tắc “bắt chước tự nhiên” của chủ nghĩa cổ điển, phản ứng với tính duy lí, tính quy phạm mực thước của văn chương cổ điển, các nhà lãng mạn đề cao tính tích cực sáng tạo, quyền cải biến thực tại của người nghệ sĩ” [169, tr.110]. Sự thay đổi trong thế giới quan, nhân sinh quan cũng như tâm thế sáng tạo đó đòi hỏi sự lý giải, kể cả lý giải bằng nghệ thuật và bắt buộc phải xem xét lại các nguyên tắc sáng tác. Từ điển thuật ngữ văn học do Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên), tại mục từ “Chủ nghĩa lãng mạn” [59, tr. 86-87], tập thể tác giả đã khái quát nguyên tắc sáng tạo của CNLM với những nét tiêu biểu gồm: Thứ nhất: một cá nhân cô đơn xung đột với môi trường xung quanh, một khát vọng tự do cá nhân vô hạn tách biệt với xã hội, dẫn tới sự thích thú với những tình cảm mạnh mẽ, những tương phản gay gắt, những vận động bí ẩn tối tăm của tâm hồn. Thứ hai: vai trò to lớn của cái trực giác, vô thức.
- 11 Thứ ba: ý thức đầy đủ vai trò cá tính sáng tạo của nghệ sĩ đối lập với sự “bắt chước tự nhiên” của Chủ nghĩa Cổ điển. CNLM cho rằng nghệ sĩ có quyền cải biến thế giới hiện thực bằng cách tạo ra cho mình một thế giới riêng đẹp hơn, chân thực hơn và vì thế hiện thực hơn. Nó thích sự tưởng tượng phóng khoáng và bác bỏ tính quy phạm trong mĩ học và sự quy định có tính chất duy lí trong nghệ thuật. CNLM đòi hỏi tính lịch sử và tính dân tộc của nghệ thuật với ý nghĩa chủ yếu là tái hiện lại màu sắc địa phương và thời đại. Với những nguyên tắc sáng tạo trên, CNLM đã “cởi trói” cho văn chương khỏi những quy phạm chặt chẽ trước đó đồng thời đề cao tinh thần tích cực sáng tạo, coi trọng quyền tự do sáng tác, quyền cải biến thực tại của người nghệ sĩ. Nó đặt ra vấn đề xem xét, tái định giá hệ quy chuẩn văn học của chủ nghĩa cổ điển. Đây chính là một “bệ phóng” quan trọng góp phần đưa đến những tìm tòi thể nghiệm nhằm đổi mới, cách tân diện mạo đời sống văn học toàn thế giới. 1.1.2. Sự xuất hiện của chủ nghĩa lãng mạn trong văn học Việt Nam Nếu CNLM đã xuất hiện ở Pháp từ thế kỷ XVII và đạt đến thời kỳ phồn thịnh vào cuối thế kỷ XVIII – đầu thế kỷ XIX thì ở Việt Nam, phải đến những năm ba mươi của thế kỷ XX CNLM mới thực sự xuất hiện với tư cách là một trào lưu văn học. Bởi đó là thời điểm CNLM trên thế giới (đặc biệt là CNLM Pháp) đã đạt đến giai đoạn phồn thịnh nên CNLM nhanh chóng bén rễ, phát triển mạnh mẽ và chỉ trong một khoảng thời gian ngắn đã mở ra một thời đại mới trong văn học nghệ thuật. Cũng phải khẳng định rằng, mặc dù xuất hiện vào những năm ba mươi của thế kỷ XX nhưng những mầm mống của CNLM đã xuất hiện ngay từ cuối thế kỷ XIX với những sáng tác thơ văn, từ khúc của Chu Mạnh Trinh, Dương Khuê, Dương Lâm, Đào Tấn. Sang đến đầu thế kỷ XX, một số tác phẩm văn học có tính chất lãng mạn như Khối tình con của Tản Đà, Một tấm lòng của Đoàn Như Khuê, Giọt lệ thu của Tương Phố, Linh Phượng kí của Đông Hồ, Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách cũng được xem như là mầm mống của CNLM. Tuy những nền tảng đó xuất
- 12 hiện từ khá sớm nhưng “phải đến đầu những năm 30 của thế kỷ XX, hoàn cảnh văn hóa xã hội ở Việt Nam mới đầy đủ những điều kiện chín muồi để CNLM ra đời. Và đến 1932, CNLM mới thực sự xuất hiện trong VHVN” [169, tr.112]. Ngay sau khi xuất hiện ở Việt Nam, CNLM đã có những bước phát triển mạnh mẽ với đầy đủ những đặc trưng của nó ở hầu khắp các thể loại và trở thành một trào lưu văn học quan trọng trong VHVN giai đoạn 1930 – 1945. Tiêu biểu hơn cả, đó là văn xuôi của nhóm TLVĐ (gắn liền với sáng tác của các nhà văn như Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo, Thạch Lam ), sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng, Nguyễn Tuân trước Cách mạng và thơ ca của phong trào Thơ mới (gắn liền với sáng tác của Thế Lữ, Xuân Diệu, Nguyễn Bính, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên ). Cần phải nói thêm rằng, mặc dù khẳng định sự phát triển của CNLM trong VHVN gắn liền với sáng tác của các nhà văn trong nhóm TLVĐ nhưng sáng tác của các nhà văn TLVĐ không thuần túy chỉ là lãng mạn (bên cạnh phần lớn những TTLM, vẫn có một số ít sáng tác mang khuynh hướng hiện thực như Thoát ly, Thừa tự); có một số tiểu thuyết Đẹp, Băn khoăn, Bướm trắng, Đôi bạn có yếu tố của chủ nghĩa hiện đại)... Thêm nữa, TTLM không chỉ có trong những sáng tác của các nhà văn TLVĐ mà còn có trong sáng tác của các nhà văn khác như Nguyễn Huy Tưởng (An Tư, Đêm hội Long Trì), Nguyễn Tuân (Thiếu quê hương), Nguyễn Công Hoan (Tắt lửa lòng) Bởi vậy, trong công trình này, khi nói đến tiểu thuyết TLVĐ, tác giả luận án chỉ đề cập đến những TTLM những tiểu thuyết có yếu tố hiện đại chủ nghĩa và những vấn đề có liên quan đến TTLM mà TLVĐ có thể được xem như là một phần tiêu biểu. Từ sự vận động nội tại và sự tác động của những yếu tố ngoại sinh, CNLM xuất hiện trong VHVN như một đòi hỏi tất yếu của lịch sử văn học. Cần phải nói thêm rằng, nếu sự ra đời của CNLM ở phương Tây bắt nguồn từ tinh thần giải phóng cho văn học khỏi những khuôn khổ chật hẹp, những nguyên tắc cứng nhắc của chủ nghĩa cổ điển để HĐH văn học cũng như đòi hỏi chuyển mình của văn học để phản ánh tâm thế của con người trong thời đại mới thì sự xuất hiện của CNLM trong VHVN, ngoài những nguyên nhân tương tự kể trên, đó còn là một hình thức đấu
- 13 tranh bằng văn hóa chống phong kiến quan liêu. Bởi thế, tinh thần đấu tranh chống phong kiến trong VHLM Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945 được thể hiện rõ nét qua sáng tác của nhiều tác giả, đặc biệt là sáng tác của các nhà văn trong nhóm TLVĐ. Sự xuất hiện của CNLM gắn liền với đó là việc khẳng định cái tôi cá nhân có vai trò hết sức quan trọng, góp phần không nhỏ trong việc tạo bước dịch chuyển lớn lao từ hệ hình văn học trung đại sang hệ hình văn học hiện đại. Có thể khẳng định rằng: “sự thay đổi lớn nhất trong VHVN đầu thế kỷ XX gắn liền với sự xuất hiện của cái tôi cá nhân (individu). Cái tôi cá nhân đã trở thành nhân lõi của cấu trúc nghệ thuật Thơ mới, VHLM nói riêng và văn học hiện đại nói chung” [42, tr.28]. Nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Điệp trong Một số vấn đề VHVN hiện đại [42, tr. 33] đã khái quát những thay đổi trong các bình diện thi pháp giữa văn học truyền thống và hiện đại như sau: Bình diện thi pháp Thi pháp văn học trung đại Thi pháp văn học hiện đại Quan niệm nghệ thuật Đề cao mục đích giáo huấn Đề cao tiếng nói cá nhân Tư duy nghệ thuật Sáng tạo trên cơ sở những Sáng tạo trên cơ sở phiêu quy phạm, những nguyên tắc lưu của trí tưởng tượng cá đã được xác lập nhân Sự thể hiện con người Giấu kín cá nhân, con người Con người cá nhân, cá tính văn học là con người vũ trụ được bộc lộ Ngôn ngữ Nguyên tắc định sẵn, ước lệ, Gần gũi với ngôn ngữ đời nhiều điển tích điển cố sống, giàu cá tính 1.2. Tiểu thuyết và tiểu thuyết lãng mạn Việt Nam 1930 – 1945 1.2.1. Tiểu thuyết và những đặc điểm cơ bản của thể loại 1.2.1.1. Tiểu thuyết và phân loại tiểu thuyết Tiểu thuyết (tiếng Pháp: Roman, tiếng Anh: Novel, Fiction), với tư cách là một thể loại của văn học châu Âu, đã nảy sinh từ văn học cổ đại Hy La. Trải qua