Luận án Nguồn nhân lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức ở tỉnh Thừa Thiên Huế hiện nay

pdf 234 trang yendo 6970
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận án Nguồn nhân lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức ở tỉnh Thừa Thiên Huế hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfluan_an_nguon_nhan_luc_cho_cong_nghiep_hoa_hien_dai_hoa_gan.pdf

Nội dung text: Luận án Nguồn nhân lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức ở tỉnh Thừa Thiên Huế hiện nay

  1. HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH HÀ TH Ị HẰNG HÀ THỊ HẰNG NGUỒN NHÂN LỰC CHO CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA GẮN VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ LU ẬN ÁN TIẾN SỸ KINH TẾ KINH SỸ TIẾN ẬN ÁN TRI THỨC Ở TỈNH THỪA THIÊN HUẾ HIỆN NAY LUẬN ÁN TIẾN SỸ KINH TẾ HÀ N ỘI - 2013 HÀ NỘI - 2013
  2. HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH HÀ TH Ị HẰNG HÀ THỊ HẰNG NGUåN NH¢N LùC CHO C¤NG NGHIÖP HãA, HIÖN §¹I HãA G¾N VíI PH¸T TRIÓN KINH TÕ TRI THøC LU ẬN ÁN TIẾN SỸ KINH TẾ KINH SỸ TIẾN ẬN ÁN ë TØNH THõA THI£N HUÕ HIÖN NAY Chuyên ngành: Kinh tế chính trị Mã số : 62 31 01 01 LUẬN ÁN TIẾN SỸ KINH TẾ Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS. Trần Quang Lâm HÀ N 2. TS. Vũ Thị Thoa ỘI - 2013 HÀ NỘI - 2013
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, tư liệu được sử dụng trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng; những phát hiện đưa ra trong luận án là kết quả nghiên cứu của tác giả TÁC GIẢ LUẬN ÁN Hà Thị Hằng
  4. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT CNH Công nghiệp hóa CNH, HĐH Công nghiệp hóa, hiện đại hóa CMKT Chuyên môn kỹ thuật CNTT Công nghệ thông tin CNXH Chủ nghĩa xã hội CNKT Công nhân kỹ thuật CĐ Cao đẳng ĐH Đại học FDI Đầu tư trực tiếp nước ngoài GD - ĐT Giáo dục - Đào tạo GS Giáo sư KTTT Kinh tế thị trường KTTTh Kinh tế tri thức KT - XH Kinh tế - Xã hội KH - CN Khoa học - Công nghệ KCN Khu công nghiệp LLLĐ Lực lượng lao động LLSX Lực lượng sản xuất LĐ Lao động NCS Nghiên cứu sinh NNL Nguồn nhân lực NNLCLC Nguồn nhân lực chất lượng cao NNLKH - CN Nguồn nhân lực khoa học - công nghệ PGS Phó giáo sư SC Sơ cấp SX - KD Sản xuất - Kinh doanh THCS Trung học cơ sở THPT Trung học phổ thông THCN Trung học chuyên nghiệp Ths Thạc sỹ TCCN Trung cấp chuyên nghiệp TC Trung cấp TCH Toàn cầu hóa UBND Ủy ban nhân dân
  5. MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1 Chương 1: TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ 6 NGUỒN NHÂN LỰC CHO CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ GẮN VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC Các công trình nghiên cứu về nguồn nhân lực phục vụ cho công 1.1 nghiệp hoá, hiện đại hoá. 6 Các công trình nghiên cứu về nguồn nhân lực chất lượng cao trong 1.2 nền kinh tế tri thức 16 Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ NGUỒN 23 NHÂN LỰC CHO CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ GẮN VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC 2.1 Nguồn nhân lực cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển 24 kinh tế tri thức 2.1.1 Nguồn nhân lực và đặc thù của nguồn nhân l ực cho công nghiệp 24 hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức 2.1.2 Công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức và 30 yêu cầu của nguồn nhân lực 2.2 Tính quy luật trong dịch chuyển cơ cấu nguồn nhân lực theo hướng 41 công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức 2.2.1 Các yếu tố tác động đến xu hướng dịch chuyển cơ cấu nguồn nhân lực 42 theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức 2.2.2 Xu hướng và tính quy luật trong dịch chuyển cơ cấu nguồn nhân lực theo 44 hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức 2.3 Kinh nghiệm của một số quốc gia và một số tỉnh trong nước về phát 50 triển nguồn nhân lực 2.3.1 Kinh nghiệm về phát triển nguồn nhân lực ở một số quốc gia Đông Á 51 2.3.2 Kinh nghiệm về phát triển nguồn nhân lực của một số tỉnh ở Việt Nam 59
  6. 2.3.3 Những bài học rút ra đối với tỉnh Thừa Thiên Huế trong phát triển 64 nguồn nhân lực cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức Chương 3: THỰC TRẠNG NGUỒN NHÂN LỰC CHO CÔNG 67 NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ GẮN VỚI PHÁT TRỂN KINH TẾ TRI THỨC Ở THỪA THIÊN HUẾ 3.1 Đặc điểm về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của tỉnh Thừa 67 Thiên Huế ảnh hưởng đến hình thành và phát triển nguồn nhân lực cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức 3.1.1 Điều kiện tự nhiên của tỉnh Thừa Thiên Huế ảnh hưởng tới sự hình 67 thành và phát triển nguồn nhân lực cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức 3.1.2 Điều kiện kinh tế - xã hội của tỉnh Thừa Thiên Huế ảnh hưởng tới sự hình 69 thành và phát triển nguồn nhân lực cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức 3.1.3 Đánh giá về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội ảnh hưởng tới sự 71 hình thành và phát triển nguồn nhân lực cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức ở tỉnh Thừa Thiên Huế 3.2 Thực trạng phát triển và dịch chuyển cơ cấu nguồn nhân lực cho công 73 nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức ở tỉnh Thừa Thiên Huế 3.2.1 Thực trạng quy mô và chất lượng nguồn nhân lực cho công nghiệp 73 hoa, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức ở tỉnh Thừa Thiên Huế 3.2.2 Thực trạng dịch chuyển cơ cấu nguồn nhân lực cho công nghiệp 88 hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức ở tỉnh Thừa Thiên Huế 3.2.3 Thực trạng hệ thống đào tạo nguồn nhân lực cho công nghiệp hoá, hiện đại 100 hoá gắn với kinh tế tri thức ở tỉnh Thừa Thiên Huế 3.3 Đánh giá chung về nguồn nhân lực cho công nghiệp hoá, hiện đại 105 hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức ở tỉnh Thừa Thiên Huế
  7. 3.3.1 Những lợi thế, ưu điểm trong phát triển và dịch chuyển cơ cấu 105 nguồn nhân lực cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức ở tỉnh Thừa Thiên Huế 3.3.2 Những hạn chế, nguyên nhân của hạn chế và những vấn đề đặt ra 107 trong phát triển và dịch chuyển cơ cấu nguồn nhân lực cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức Chương 4: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN 117 NGUỒN NHÂN LỰC CHO CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ GẮN VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC Ở TỈNH THỪA THIÊN HUẾ 4.1 Quan điểm và dự báo về phát triển nguồn nhân lực cho công nghiệp hoá, 117 hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức ở tỉnh Thừa Thiên Huế 4.1.1 Dự báo về nhu cầu nguồn nhân lực cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá 117 gắn với phát triển kinh tế tri thức ở tỉnh Thừa Thiên Huế đến năm 2020. 4.1.2 Những quan điểm cơ bản trong phát triển nguồn nhân lực cho công 119 nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức ở tỉnh Thừa Thiên Huế 4.2 Các giải pháp phát triển nguồn nhân lực cho công nghiệp hoá, hiện 125 đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức ở tỉnh Thừa Thiên Huế 4.2.1 Nhóm các giải pháp tạo tiền đề phát triển nguồn nhân lực cho công 125 nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức ở tỉnh Thừa Thiên Huế 4.2.2 Nhóm các giải pháp trực tiếp đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực 131 cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức ở tỉnh Thừa Thiên Huế 4.2.3 Nhóm các giải pháp khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn nhân 147 lực cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức ở tỉnh Thừa Thiên Huế KẾT LUẬN 155 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC
  8. DANH MỤC CÁC BẢNG VÀ HÌNH Số hiệu Tên bảng và hình Trang Bảng 2.1 LLLĐ thông tin trong tổng LLLĐ ở các nước phát triển 48 Bảng 2.2 LLLĐ trong lĩnh vực phần mềm ở các nước phát triển 48 Bảng 2.3 Sự phát triển việc làm theo các khu vực kinh tế ở các nước 49 tiên tiến Bảng 3.1 Cơ cấu dân số trong tuổi LĐ phân theo trình độ học vấn 78 Bảng 3.2 Đội ngũ trí thức của tỉnh Thừa Thiên Huế đến năm 2010 79 Bảng 3.3 Đội ngũ cán bộ KH - CN của Đại học Huế giai đoạn 2001 - 2011 80 Bảng 3.4 LĐ làm việc trong ngành CNTT năm 2009 81 Bảng 3.5 Đánh giá của cơ quan sử dụng LĐ về khả năng sáng tạo 84 trong công việc của người LĐ Bảng 3.6 Dân số từ 15 tuổi trở lên có trình độ C MKT chia theo bậc 91 đào tạo Bảng 3.7 LLLĐ từ 15 tuổi trở lên chia theo lĩnh vực đào tạo năm 2011 93 Bảng 3.8 LĐ có việc làm từ 15 tuổi trở lên theo trình độ CMKT và 94 lĩnh vực đào tạo năm 2011 Bảng 3.9 Số lượng LĐ có việc làm chia theo nghề nghiệp 98 Bảng 3.10 LĐ qua đào tạo nghề tỉnh Thừa Thiên Huế giai đoạn 2001 - 2010 102 Hình 3.1 Cơ cấu NNL theo trình độ CMKT giai đoạn 1999 - 2011 89 Hình 3.2 Cơ cấu LĐ theo ngành kinh tế giai đoạn 1999 - 2010 96 Hình 3.3 Cơ cấu LĐ có việc làm phân theo khu vực kinh tế giai đoạn 97 1999 - 2011
  9. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu Lý luận và thực tiễn đều khẳng định vai trò quyết định của nguồn nhân lực (NNL), nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao (NNLCLC) đối với sự phát triển kinh tế - xã hội (KT - XH) nói chung và công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH, HĐH) nói riêng. Thực tế, những quốc gia, địa phương nào quan tâm, đào tạo, sử dụng hợp lý và có hiệu quả NNL đều dẫn đến thành công. Sự hồi phục nhanh chóng của nước Đức sau chiến tranh thế giới thứ II hay sự phát triển thần kỳ của các quốc gia và vùng lãnh thổ có nền công nghiệp phát triển ở Châu Á như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Singgapore là những minh chứng rõ ràng cho nhận định trên. NNL giữ vai trò quyết định, song ở những trình độ phát triển khác nhau lại đặt ra những yêu cầu khác nhau đối với NNL. Trong bối cảnh cuộc cách mạng khoa học - công nghệ (KH - CN) phát triển như vũ bão và xu t hế toàn cầu hoá (TCH) kinh tế thúc đẩy sự lan toả nhanh của kinh tế tri thức (KTTTh), Việt Nam không thể thực hiện CNH, HĐH theo con đường “truyền thống”, mà phải “đi tắt, đón đầu”, tức là CNH, HĐH gắn với phát triển KTTTh. Nghị quyết Đại hội lần thứ X của Đảng đã khẳng định “Tranh thủ thời cơ thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng, lợi thế của nước ta để rút ngắn quá trình CNH, HĐH đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) gắn với phát triển KTTTh”[43; 87]. Để thực hiện được mục tiêu trên, trong Chiến lược phát triển KT - XH đến năm 2020 Đảng ta xác định có ba khâu đột phá và một trong ba khâu đột phá đó là phát triển nhanh NNL, đặc biệt là NNLCLC. Thừa Thiên Huế là một tỉnh của miền Trung có điều kiện tự nhiên tương đối khắc nghiệt, các nguồn lực để phát triển KT - XH hạn chế. Nhận thức rõ tầm quan trọng của việc phát triển NNL, NNLCLC đối với sự tăng trưởng và phát triển KT - XH, tỉnh Thừa Thiên Huế đã xây dựng Đề án 02/TU/2008 về đào tạo tiến sỹ (TS), thạc sỹ (Ths) tại cơ sở nước ngoài; Đề án 03/TU/2008 về đào tạo cán bộ cơ sở chủ chốt xã, phường, thị trấn theo chức danh; Quy hoạch phát triển giáo dục - đào tạo (GD - ĐT) đến năm 2015 và định hướng đến 2020; Đề án phát triển dạy nghề giai
  10. 2 đoạn 2011 - 2015 và tầm nhìn 2020 Đến nay, tỉnh Thừa Thiên Huế đã xây dựng được đội ngũ NNL không chỉ đông về số lượng, đa dạng về cơ cấu nghề nghiệp, mà còn đảm bảo về mặt chất lượng. Trình độ học vấn của dân số trong độ tuổi lao động (LĐ) có sự chuyển biến tích cực: tỷ lệ LĐ biết chữ năm 2005 là 83% đến năm 2010 tăng lên 93,5%; tỷ lệ LĐ có trình độ học vấn từ trung học cơ sở (THCS) và trung học phổ thông (THPT) ngày càng tăng và chiếm tỷ trọng cao, năm 2001 chiếm 33,6% đến năm 2010 chiếm 49,5%. Cùng với trình độ học vấn của người LĐ được nâng lên, xu hướng tri thức hoá để hình thành NNLCLC ngày càng rõ nét: năm 2010 số người có trình độ trên đại học (ĐH) là 2.024 người, 41.744 người có trình độ ĐH, 13.505 người có trình độ cao đẳng (CĐ), 34.198 người có trình độ trung cấp (TC), công nhân kỹ thuật (CNKT), sơ cấp (SC) là 202.860 người, 148 giáo sư (GS) và phó giáo sư (PGS), 106 nhà giáo nhân dân và nhà giáo ưu tú, 15 thầy thuốc nhân dân và thầy thuốc ưu tú, 16 nghệ sỹ ưu tú. Ngoài ra, năng lực, khả năng sáng tạo, biết vận dụng những tri thức, kỹ năng được đào tạo vào nghiên cứu khoa học, giảng dạy, lãnh đạo, quản lý, LĐ sản xuất, chăm sóc sức khoẻ cộng đồng cũng được nâng lên: năm 2006 đã có 98 nhà nghiên cứu khoa học được tặng giải thưởng cố đô về KH - CN; giai đoạn 2003 - 2008 có 13.100 đề tài nghiên cứu khoa học, sáng kiến, sáng tạo của công nhân viên chức được ứng dụng Tuy nhiên, NNL của tỉnh còn chưa tương xứng với yêu cầu CNH, HĐH gắn với phát triển KTTTh. Những biểu hiện chủ yếu: 1) LĐ từ 15 tuổi trở lên không có trình độ CMKT chiếm tỷ lệ khá cao (năm 2009 là 87,4%), số LĐ có trình độ CMKT chỉ chiếm 12,6% ; 2) Các bậc đào tạo chậm chuyển biến; 3) Cơ cấu đào tạo trình độ giữa các cấp nghề có sự bất cập: SC nghề và tương đương chiếm hơn 84%; trong khi TC nghề và tương đương chỉ 14%, còn CĐ nghề lại quá ít, chỉ có 1,79%; 4) Đội ngũ cán bộ cấp xã, phường, thị trấn hiện rất hạn chế về năng lực, trình độ chuyên m ôn nghiệp vụ, hiện hơn 50% cán bộ xã, phường, thị trấn chưa đạt chuẩn Vấn đề đặt ra, để tiếp thu, ứng dụng những thành tựu tri thức của nhân loại, sáng tạo ra tri thức mới và thực hiện Kết luận 48/KL - TW ngày 25/5/2009 của Bộ Chính trị về xây dựng, phát triển tỉnh Thừa Thiên Huế đến năm 2020, đòi hỏi tỉnh cần tập trung phát triển NNL, NNLCLC. Đây là thách thức lớn đối với Thừa Thiên Huế -
  11. 3 một tỉnh mà phần đông dân cư sống bằng nghề nông với trình độ sản xuất còn lạc hậu, LĐ phổ thông, giản đơn là chủ yếu. Do đó, phát triển NNL đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH gắn với phát triển KTTTh cần được nghiên cứu sâu sắc cả về lý luận và thực tiễn để có sự thống nhất trong nhận thức, cũng như cách thức thực hiện. Xuất phát từ những lý do trên, nghiên cứu sinh (NCS) chọn đề tài “Nguồn nhân lực cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức ở tỉnh Thừa Thiên Huế hiện nay” làm đề tài luận án tiến sĩ của mình. 2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án 2.1. Mục tiêu nghiên cứu Trên cơ sở hệ thống hoá những vấn đề lý luận và thực tiễn về NNL cho CNH, HĐH gắn với phát triển KTTTh, luận án phân tích, đánh giá thực trạng NNL cho CNH, HĐH gắn với phát triển KTTTh ở tỉnh Thừa Thiên Huế. Từ đó đề xuất một số giải pháp phát triển NNL cho CNH, HĐH gắn với phát triển KTTTh ở tỉnh Thừa Thiên Huế trong thời gian tới. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để thực hiện mục tiêu trên, luận án có các nhiệm vụ chủ yếu sau đây: Thứ nhất, hệ thống hoá và phân tích những cơ sở lý luận và thực tiễn về NNL cho CNH, HĐH gắn với phát triển KTTTh. Thứ hai, nghiên cứu kinh nghiệm của một số quốc gia và một số tỉnh trong nước về phát triển NNL, luận án rút ra những bài học bổ ích, có giá trị tham khảo để học hỏi, lựa chọn mô hình và cách thức phát triển NNL nhằm đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH gắn với phát triển KTTTh ở tỉnh Thừa Thiên Huế Thứ ba, phân tích thực trạng NNL cho CNH, HĐH gắn với phát triển KTTTh ở tỉnh Thừa Thiên Huế. Trên cơ sở đó, luận án đưa ra các quan điểm và đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển NNL cho CNH, HĐH gắn với phát triển KTTTh ở tỉnh Thừa Thiên Huế từ nay đến năm 2020. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu của luận án Luận án nghiên cứu NNL cho CNH, HĐH gắn với phát triển KTTTh dưới góc độ khoa học Kinh tế chính trị, chủ yếu là nghiên cứu thực trạng phát triển và
  12. 4 dịch chuyển cơ cấu NNL ở tỉnh Thừa Thiên Huế, từ đó đề xuất các giải pháp xây dựng NNL cho CNH, HĐH gắn với phát triển KTTTh ở tỉnh Thừa Thiên Huế từ nay đến năm 2020. 3.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài Về không gian: Nghiên cứu NNL cho CNH, HĐH gắn với phát triển KTTTh ở tỉnh Thừa Thiên Huế. Về thời gian: Nghiên cứu NNL cho CNH, HĐH gắn với phát triển KTTTh ở tỉnh Thừa Thiên Huế với trọng tâm số liệu được giới hạn trong khoảng thời gian từ năm 1999 đến năm 2012, các giải pháp đưa ra cho thời kỳ đến năm 2020. 4. Phương pháp nghiên cứu - Luận án dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước về phát triển NNL và các lý thuyết kinh tế liên quan. Cơ sở thực tiễn của luận án là phân tích kinh nghiệm của một số nước, địa phương của nước ta và đánh giá thực trạng phát triển và dịch chuyển cơ cấu NNL theo hướng CNH, HĐH gắn với phát triển KTTTh ở tỉnh Thừa Thiên Huế. - Trên cơ sở lý luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, luận án sử dụng các phương pháp cụ thể: phương pháp phân tích - tổng hợp, phương pháp thu thập và xử lý thông tin. Đồng thời có sự kế thừa các kết quả nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án. - Đặc biệt, đề tài sử dụng phương pháp điều tra bằng bảng hỏi đề thu thập ý kiến của người LĐ về các vấn đề liên quan đến NNL. Do giới hạn về t hời gian, kinh phí nên luận án tiến hành khảo sát 500 LĐ, bao gồm công nhân trong các xí nghiệp (100 mẫu), LĐ làm công tác quản lý (100 mẫu); LĐ trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, bảo hiểm (100 mẫu); LĐ làm công tác GD - ĐT (100 mẫu) và LĐ trong ngành xây dựng, CNTT, viễn thông (100 mẫu). Ngoài ra, luận án sử dụng phương pháp chuyên gia: phỏng vấn 80 người làm công tác lãnh đạo, qu ản lý NNL ở nhiều cơ quan, doanh nghiệp đóng trên địa bàn tỉnh và trao đổi trực tiếp với một số nhà khoa học để làm rõ thêm các vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến luận án.
  13. 5 5. Đóng góp mới về mặt khoa học của luận án - Đưa ra khái niệm NNL, NNL cho CNH, HĐH gắn với phát triển KTTTh trên cơ sở tiếp thu tư tưởng của C. Mác về sức LĐ, các công trình nghiên cứu trước đó và làm rõ các đặc thù của NNL cho CNH, HĐH gắn với phát triển KTTTh. - Làm rõ các đặc điểm của CNH, HĐH gắn với phát triển KTTTh. Từ đó luận án khẳng định, ở những trình độ phát triển khác nhau đặt ra những yêu cầu khác nhau đối với NNL. Trong mô hình CNH, HĐH gắn với phát triển KTTTh, NNL phải đáp ứng được các yêu cầu nhất định về số l ượng, chất lượng và cơ cấu . - Làm rõ các yếu tố tác động, xu hướng và tính quy luật trong dịch chuyển cơ cấu NNL theo hướng CNH, HĐH gắn với phát triển KTTTh. - Trên cơ sở nghiên cứu kinh nghiệm phát triển NNL của một số nước Đông Á và các tỉnh trong nước, luận án đúc rút một số bài học bổ ích có khả năng vận dụng để phát triển NNL cho CNH, HĐH gắn với phát triển KTTTh ở tỉnh Thừa Thiên Huế. - Làm rõ thực trạng phát triển và dịch chuyển cơ cấu NNL theo hướng CNH, HĐH gắn với phát triển KTTTh ở tỉnh Thừa Thiên Huế với những nét đặc thù riêng có của một tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm miền Trung. - Dựa vào đặc điểm tự nh iên, con người và thực trạng NNL, luận án nêu ra 6 quan điểm và đề xuất 3 nhóm giải pháp lớn nhằm phát triển NNL cho CNH, HĐH gắn với phát triển KTTTh ở tỉnh Thừa Thiên Huế đến năm 2020. 6. Kết cấu luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận án được kết cấu thành 4 chương, 8 tiết
  14. 6 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ NGUỒN NHÂN LỰC CHO CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ GẮN VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC Trong những năm gần đây, vấn đề NNL, NNLCLC được nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước quan tâm và đã có rất nhiều công trình nghiên cứu khoa học có giá trị, được công bố rộng rãi dưới dạng sách tham khảo, luận án, bài báo khoa học Để đảm bảo tính kế thừa và khẳng định những đóng góp của luận án, luận án chia các công trình nghiên cứu khoa học theo 2 nhóm vấn đề: các công trình nghiên cứu về NNL phục vụ CNH, HĐH và các công trình nghiên cứu về NNLCLC trong nền KTTTh. Trên cơ sở sự phân định đó, luận án tiến hành chọn lọc và thực hiện tổng quan những công trình nghiên cứu khoa học có liên quan đến luận án như sau: 1.1. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ NGUỒN NHÂN LỰC CHO CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ 1.1.1. Sách tham khảo và chuyên khảo - Nolwen Henaff, Jean - Yves Martin biên tập khoa học (2001), LĐ, việc làm và NNL ở Việt Nam 15 năm đổi mới, Nxb Thế giới, Hà Nội. Đây là cuốn sách tập hợp nhiều bài viết của các nhà khoa học trong và ngoài nước về: chính sách giáo dục, việc làm, tổ chức lại nền kinh tế, phát triển doanh nghiệp, phát triển NNL của các nhà nghiên cứu tiêu biểu như: TS.Nolwen Henaff, TS.Jean - Yves Martin, GS.Geoffrey B.Hainsworth, TS.Fiona Hơwell, TS.Nguyễn Hữu Dũng, TS.Trần Khánh Đức, PGS.Võ Đại Lược, TS.Trần Tiến Cường Trong công trình nghiên cứu này, đáng chú ý có bài viết của GS.Geoffrey B.Hainsworth “Phát triển NNL đáp ứng với những thách thức của quá trình toàn cầu hoá (TCH) mạnh mẽ và một nền kinh tế dựa trên những hiểu biết mới”. Tác giả có cách tiếp cận độc đáo khi đặt các câu hỏi: Làm thế nào để mở rộng sự lựa chọn nghề nghiệp và viễn cảnh cuộc sống dân cư nông thôn - những người đang nắm giữ những nguồn lực to lớn nhất và chưa được phát huy của quốc gia? Làm cách nào để họ hiển nhiên nhận được sự
  15. 7 quan tâm đặc biệt của những nhà hoạch định chính sách và nhà tài trợ? Từ đó, tác giả phân tích 3 vấn đề để tìm câu trả lời: 1) Về phạm vi giáo dục, đào tạo nghề. Tác giả khẳng định, nền văn hoá Việt Nam luôn có truyền thống tôn trọng học vấn, trước thời kỳ đổi mới mặc dù gặp nhiều khó khăn Việt Nam vẫn đạt được mức độ biết chữ và bình đẳng về giới rất đặc biệt , nhưng khi chuyển sang nền kinh tế thị trường (KTTT) thì tỷ lệ bỏ học cao ở cấp trung học. Từ đó tác giả lập luận: mức học phí, sự thiếu hụt kinh niên số giáo viên mới vào nghề ở mỗ i cấp học, tiền lương thấp so với các ngành nghề khác làm hạn chế phạm vi GD - ĐT nghề; 2) Về tăng cường sử dụng LLLĐ và mở rộng sự lựa chọn nghề nghiệp. Tác giả nhận định, mặc dù tỷ trọng GDP tương đối của ngành nông nghiệp giảm so với công nghiệp và d ịch vụ nhưng sự thay đổi cơ cấu trong sử dụng LĐ hầu như không biến động về mặt việc làm. Vì vậy, theo tác giả cần thực hiện cải cách chương trình đào tạo và các cải cách giáo dục khác bao gồm tăng số lượng phòng học, tăng số lượng giáo viên, nâng cấp trang thiết bị phục vụ giảng dạy, tăng tiền lương 3) Về cơ cấu ngành nghề, lựa chọn công nghệ và sở hữu doanh nghiệp. Tác giả cho rằng, đối với một nước mới thực hiện CNH như Việt Nam nên phát triển ngành chế tạo, chế biến và các dịch vụ đi kèm, đồng thời k hông thể lựa chọn công nghệ cao mà cần lựa chọn công nghệ phù hợp như công nghệ phần mềm, nghiên cứu cơ bản - Stivastava M/P (1997), Human resource planing: Aproach needs assessments and priorities in manpower planing, Nxb Manak New Delhi. Tiếp cận dưới góc độ Kinh tế phát triển, tác giả cho rằng, NNL là toàn bộ vốn nhân lực; vốn nhân lực là con người được nhìn nhận dưới dạng là một nguồn vốn đặc biệt của quá trình sản xuất, là một dạng của cải có thể làm gia tăng sự giàu có của kinh tế; nguồn vốn nhân lực đó bao gồm những kỹ năng, kiến thức, kinh nghiệm mà người đó tích luỹ được nhờ vào quá trình LĐ sản xuất; các chị phí về GD - ĐT, y tế được xem như là những chi phí đầu vào của sản xuất nhằm nâng cao khả năng, năng lực sản xuất của NNL. Từ cách tiếp cận như vậy, tác giả đã chỉ ra các lợi ích thiết thực của NNL nếu chúng ta biết đầu tư và quý trọng nó, đó là: 1) Vốn nhân lực là loại vốn đặc biệt, có khả năng sản sinh ra các nguồn thu nhập trong tương lai, cho nên đầu tư
  16. 8 vào NNL sẽ có tỷ lệ thu hồi vốn cao, hơn nữa khi nguồn vốn này càng được sử dụng nhiều thì giá trị gia tăng càng lớn, càng tạo ra nhiều của cải, mang đến sự phồn thịnh cho xã hội; 2) Khác với các nguồn vốn khác, vốn nhân lực không mang đặc điểm có tính quy luật như các nguồn vốn khác : khấu hao vốn đã đầu tư vào các tài sản và loại hình vật chất khác ; vốn nhân lực sau khi đã đầu tư thì nó sẽ tự duy trì và phát triển mà không tạo ra áp lực về khối lượng vốn cần huy động trong khoảng thời gian ngắn; là loại vốn có kỹ năng, kiến thức, kinh nghiệm và khả năng sáng tạo cao. Do đó, nếu đầu tư vào vốn nhân lực thì hiệu ứng lan toả sẽ rất lớn mà không có nguồn vốn nào có thể sánh kịp. Với cách tiếp cận nà y tác giả đưa ra các gợi ý để luận án phân tích yêu cầu của NNL, nhất là NNLCLC đối với quá trình CNH, HĐH gắn với phát triển KTTTh. - Lê Thị Ái Lâm (2003), Phát triển NNL thông qua GD - ĐT - Kinh nghiệm Đông Á, Nxb Khoa học - Xã hội, Hà Nội. Cuốn sách là một công trình nghiên cứu khoa học công phu, tiếp cận theo chuyên ngành kinh tế thế giới và quan hệ kinh tế quốc tế, được chia làm 3 phần: phần thứ nhất, tác giả đưa ra các luận giải lý thuyết về phát triển NNL thông qua GD - ĐT trên cơ sở trình bày khái niệm phát triển NNL, phát triển con người, mối quan hệ giữa phát triển NNL với CNH. Đồng thời tác giả đã đưa một bộ khung lý thuyết với các luận điểm chính: NNL đóng góp cho tăng trưởng kinh tế; NNL đóng góp cho nâng cao năng suất LĐ, tăng thu nhập, xoá đói giảm nghèo và bất bình đẳng; xu thế phát triển KTTTh và toàn cầu hoá tạo ra nhu cầu đại chúng đối với NNLCLC để luận giải vai trò của nâng cao chất lượng NNL thông qua GD - ĐT; phần thứ hai, với 4 chương, tác giả tập trung vào phân tích thực tiễn phát triển NNL thông qua GD - ĐT ở Đông Á. Chương 2: Vai trò phát triển NNL thông qua GD - ĐT ở Đông Á. Tác giả phân tích vai trò phát triển NNL thông qua GD - ĐT bằng những dẫn chứng thực tiễn từ các nền kinh tế, các ngành và công ty đã chứng minh những luận điểm mà tác giả đưa ra là đúng đắn và có tính thuyết phục cao. Chương 3: Chiến lược CNH và sự p hù hợp lẫn nhau với phát triển NNL thông qua GD - ĐT ở Đông Á. Ở chương này, tác giả trình bày 4 điều kiện thuận lợi bên ngoài và lợi thế bên trong để các nước Đông Á xây dựng
  17. 9 chiến lược CNH. Đặc biệt, tác giả đã phác thảo 4 giai đoạn CNH và 4 giai đoạn n ày đặt ra những yêu cầu khác nhau của NNL. Những phác hoạ này sẽ là những gợi mở lý thú để NSC kế thừa, phát triển trong quá trình thực hiện luận án. Chương 4: Điều chỉnh phát triển NNL thông qua GD - ĐT ở Đông Á. Trên cơ sở phác hoạ 4 giai đoạn của CNH, tác giả cho rằng, mỗi giai đoạn có những yêu cầu khác nhau về phát triển NNL nên giáo dục cũng cần có sự điều chỉnh thích hợp. Vì vậy, chương này tác giả nghiên cứu quá trình điều chỉnh ở Đông Á trên các khía cạnh: mở rộng cơ hội đó cũng như xem xét các yếu tố dẫn đến tiếp nhận giáo dục phổ thông theo tiến trình CNH; phát triển hệ thống GD - ĐT nghề; xây dựng hệ thống giáo dục ĐH chất lượng cao. Chương 5: Vấn đề và giải pháp hiện nay của phát triển NNL thông qua GD - ĐT Đông Á. Tác giả phân tích một số vấn đề trong hệ thống phát triển NNL thông qua GD - ĐT ở Đông Á. Đáng chú ý là tác giả trình bày các giải p háp phát triển NNL cho nền KTTTh ở Đông Á: nâng cao nhận thức xã hội về học tập suốt đời; nhấn mạnh đào tạo lại và đào tạo nâng cao; cải cách hệ thống giá o dục chính quy; khuyến khích và phát triển các hệ thống giáo dục không chính quy; phần thứ ba, là sự tổng kết toàn bộ những bài học rút ra từ thực tiễn đã phân tích ở chương 3, 4, 5. Có 5 bài học được rút ra và phân tích trong chương thứ 6 và chương thứ 7 đưa ra một số lưu ý về bối cảnh phát triển NNL thông qua GD - ĐT hiện nay của Việt Nam, so sánh những nét tương đồng và khác biệt về phát triển NNL thông qua GD - ĐT ở Đông Á và Việt Nam, từ đó nêu ra 6 gợi ý để phát triển NNL thông qua GD - ĐT ở việt Nam đến 2010. Ở công trình nghiên cứu này, những kinh nghiệm quý của các quốc gia Đông Á về phát triển NNLCLC được kế thừa và chọn lọc trong luận án. - TS. Nguyễn Thanh (2005), Phát triển NNL phục vụ CNH, HĐH đất nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Tiếp cận dưới góc độ triết học, tác giả đã xuất phát từ quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và dựa trên các quan điểm của Đảng về phát triển con người, về vai trò của giáo dục để khẳng định GD - ĐT là “quốc sách hàng đầu” để phát triển NNL có chất lượng. Cuốn sách được cấu trúc thành ba phần: phần thứ nhất, tác giả trình bày sơ lược quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng về phát triển con
  18. 10 người, phát triển NNL, từ đó tác giả cho rằng: NNL có vai trò quyết định đối với quá trình CNH, HĐH ở nước ta; phần thứ hai, tác giả đánh giá khái quát thực trạng NNL ở nước ta trên các khía c ạnh: về số lượng, cơ cấu, trí lực, trình độ chuyên môn kỹ thuật (CMKT) trên cơ sở đó tác giả đưa ra những định hướ ng phát triển NNL có chất lượng đáp ứng được đòi hỏi của CNH, HĐH bao gồm: gắn phát triển NNL với việc đẩy nhanh tốc độ phát triển KT - XH; gắn phát triển NNL với quá trình dân chủ hoá, nhân văn hoá đời sống xã hội, khai thác có hiệu quả các giá trị văn hoá truyền thống và hiện đại; nâng cao chất lượng và hiệu quả sử dụng đội ngũ cán bộ KH - CN; xây dựng chiến lược con người trên cơ sở đó, phát triển NNL có chất lượng cho CNH, HĐH; phần thứ ba, làm rõ vai trò của giáo dục với tư cách là yếu tố quyết định trong chiến lược phát triển con người, phát triển NNL có chất lượng cho CNH, HĐH ở nước ta. - TS. Đoàn Văn Khải (2005), Nguồn lực con người trong quá trình CNH, HĐH ở Việt Nam, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội. Là người có nhiều năm nghiên cứu vấn đề nguồn lực con người cả về lý luận và thực tiễn nên có những điểm mới so với quan niệm trước đây về con người trong CNH theo kiểu cũ. Trong công trình nghiên cứu này, chương 1 và chương 2 tác giả tập trung làm rõ những vấn đề lý luận. Ở chương 1, tác giả phân tích một số vấn đề chung về CNH, HĐH, nhưng đáng chú ý nhất là sự khái quát các mô hình CNH trên thế giới. Ở chương 2, tác giả đưa ra khái niệm nguồn lực con người với nội hàm rộng bao hàm 6 mặt cơ bản và xuất phát từ vị trí, đặc điểm của nguồn lực con người trong quan hệ so sánh, quan hệ tác động với các nguồn lực khác và nhấn mạnh, trong thời đại KTTTh vai trò của nguồn lực con người càng tăng lên gấp bội nhờ phát huy sức mạnh trí tuệ, nó trở thành nguồn lực của mọi nguồn lực. Dựa trên cơ sở phân tích về mặt lý luận, chương 3 và chương 4, tác giả đánh giá một cách toàn diện thực trạng và đặc điểm nguồn lực con người của nước ta từ năm 2001 - 2005 về số lượng, cơ cấu, chất lượng và rút ra 6 nhận xét, từ đó tác giả cho rằng, nguồn lực con người của nước ta chưa đáp ứng được yêu cầu CNH, HĐH. Để đáp ứng được yêu cầu CNH,HĐH đòi hỏi người LĐ phải có năng lực sáng tạo, khả năng thích nghi và kỹ năng LĐ giỏi,
  19. 11 do đó tác giả đề xuất 3 nhóm giải pháp lớn để khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn lực con người đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH: nhóm giải pháp về khai thác hợp lý, có hiệu quả nguồn lực con người; nhóm giải pháp về phát triển nguồn lực con người đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH; nhóm giải pháp về xây dựng môi trường xã hội thuận lợi, phục vụ cho việc khai thác, sử dụng có hiệu quả nguồn lực con người - TS. Vũ Bá Thể (2005), Phát huy nguồn lực con người để CNH, HĐH - Kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn Việt Nam , Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội. Cuốn sách tiếp cận theo chuyên ngành kinh tế thế giới và quan hệ kinh tế quốc tế, tập trung phân tích và làm rõ cơ sở lý luận liên quan đến NNL; kinh nghiệm phát triển NNL của một số nước tiên tiến như Nhật Bản, Mỹ, các nước Châu Á - Thái Bình Dương trên khía cạnh chính sách, chiến lược, mục tiêu ; đánh giá thực trạng NNL nước ta cả về quy mô, tốc độ, chất lượng NNL và rút ra những thành tựu, hạn chế, nguyên nhân của những hạn chế trong phát triển NNL; đề xuất 4 giải pháp nhằm phát triển NNL của Việt Nam trong thời gian tới: nhóm giải pháp phát triển giáo dục phổ thông; nhóm giải pháp phát triển giáo dục CĐ, ĐH và trên ĐH; nhóm giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng NNL hiện có; nhóm giải pháp nâng cao trạng thái sức khoẻ NNL. - TS. Mạc Văn Tiến (2005), An sinh xã hội và phát triển NNL, Nxb Lao động - Xã hội. Cuốn sách là tập hợp 100 bài viết trong 10 năm đề cập đến nhiều nội dung và nhiều khía cạnh khác nhau của an sinh xã hội và phát triển NNL. Bố cục cuốn sách được chia làm 3 phần: phần thứ nhất là tập hợp những bài viết về an sinh xã hội; phần thứ hai là tập hợp những bài viết về bảo hiểm xã hội; phần thứ ba là tập hợp những bài viết về phát triển NNL. Trong phần thứ ba , có nhiều bài viết mà NCS có thể tham khảo, kế thừa và phát triển trong quá trình thực hiện luận án như: một số vấn đề về phát triển NNL ở nước ta; phát triển NNL và chính sách phát triển NNL của một số nước; phát triển NNL và chính sách phát triển NNL thời kỳ CNH, HĐH; thực trạng chất lượng NNL ở Việt Nam Trong đó đáng chú ý là bài viết: Vai trò của NNL trong nền KTTTh. Theo tác giả, nhân loại đang đứng trước thềm của sự phát triển mới của xã hội loài người là chuyển sang nền KTTTh, nhưng đối với Việt Nam mới bước đầu tiến hành CNH, HĐH, vì vậy phải đi tắt, đón đầu nếu
  20. 12 không chúng ta sẽ bị tụt hậu xa hơn so với các nước trên thế giới. Điều này chỉ có thể làm được khi chúng ta có chiến lượ c đầu tư phát triển NNL đúng đắn. 1.1.2. Đề tài khoa học, luận án tiến sĩ - Vũ Duy Dự (Chủ nhiệm đề tài) (2005), Đánh giá nguồn nhân lực tỉnh Thừa Thiên Huế và nghiên cứu đề xuất các giải pháp sử dụng và phát huy, Đề tài KH - CN. Trong công trình nghiên cứu này, đáng chú ý là từ việc chỉ ra các chỉ tiêu đánh giá NNL và phương pháp thu thập số liệu (khảo sát hộ gia đình, doanh nghiệp ), tác giả đã đánh giá được thực trạng phát triển NNL ở tỉnh Thừa Thiên Huế từ năm 1999 - 2004 trên các mặt: thực trạng NNL hiện có; thực trạng sử dụng NNL (thực trạng việc làm của LLLĐ trong 3 nhóm ngành; thực trạng việc làm của 4 nhóm LĐ); điều kiện LĐ; tổ chức thị trường LĐ; thực trạng hình hệ thống GD - ĐT; thực trạng đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị các cấp; thực trạng LLLĐ làm việc trong các doanh nghiệp. Trên cơ sở thực trạng, tác giả đưa ra các dự báo về cung - cầu LĐ giai đoạn 2005 - 2015 và đề xuất một số giải pháp về chính sách phát triển NNL ở tỉnh Thừa Thiên Huế đến năm 2015. - Phan Thanh Tâm (2000), Các giải pháp chủ yếu nâng cao chất lượng NNL phục vụ nhu cầu CNH, HĐH đất nước, Luận án tiến sỹ Kinh tế. Tác giả trình bày các khái niệm NNL, chất lượng NNL; phân tích một số nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng NNL. Theo tác giả, GD - ĐT không chỉ là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp, nâng cao chất lượng về mặt trí lực của NNL mà còn tác động đến sức khoẻ, khả năng tiếp thu công nghệ, thu hút đầu tư, tạo việc làm; nghiên cứu kinh nghiệm của Mỹ, Nhật Bản, các nước Châu Á về nâng cao chất lượng NNL và rút ra bài học kinh ngh iệm cho Việt Nam. Trên cơ sở phân tích những vấn đề chung về NNL, tác giả đi sâu phân tích thực trạng chất lượng NNL Việt Nam từ năm 1989 đến 1999; các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng về mặt trí lực của NNL bao gồm: năng lực đào tạo cung cấp NNL của hệ thống giáo dục, đầu tư ngân sách nhà nước cho GD - DT, cơ chế kế hoạch GD - ĐT, chính sách sử dụng LĐ CMKT; đặc biệt tác giả đưa ra các căn cứ để xây dựng các giải pháp nâng cao chất lượng NNL và đề xuất 4 giải pháp về phát triển giáo dục và sử dụng, bồi dưỡn g cán bộ nhằm nâng cao chất lượng NNL.
  21. 13 - Bùi Sỹ Lợi (2002), Phát triển NNL trong thời kỳ CNH, HĐH ở tỉnh Thanh Hoá đến năm 2010, Luận án tiến sỹ Kinh tế. Tác giả luận án đã tập trung làm rõ những vấn đề chung về NNL: xây dựng được các khái niệm về nhân lực, con người, NNL và phát triển NNL; phác thảo những đặc trưng cơ bản của NNL; phân tích 3 nhóm nhân tố tác động đến phát triển NNL: nhóm nhân tố về mặt tự nhiên, nhóm nhân tố về KT - XH, nhóm nhân tố thuộc về cơ chế chính sách; phân tích mối quan hệ giữa biện chứng giữa phát triển NNL với chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển dịch cơ cấu LĐ và với CNH, HĐH; trình bày kinh nghiệm của các nước đang phát triển (Thái Lan, Malaixia), các nước đang chuyển đổi (Ấn Độ) đến các nước có nền công nghiệp tiên tiến (Nhật Bản) từ đó rút ra 7 bài học kinh nghiệm có thể áp dụng đối với Việt Nam nói chung, Thanh Hoá nói riêng. Luận án đi sâu đánh giá thực trạng phát triển NNL ở tỉnh Thanh Hoá từ năm 1996 - 2000. Trên cơ sở đó, tác giả đánh giá khái quát tình hình phát triển NNL về những thành tựu đạt được, những tồn tại và nguyên nhân của những tồn tại, đưa ra 4 quan điểm và đề xuất 5 nhóm giải pháp để phát triển NNL trong thời kỳ CNH, HĐH ở Thanh Hoá đến năm 2010. - Nguyễn Đình Luận (2003), Một số giải pháp phát triển NNL vùng Đồng bằng sông Cửu Long theo hướng CNH, HĐH đến năm 2010, Luận án tiến sỹ Kinh tế. Tác giả luận án đã trình bày những vấn đề lý luận và thực tiễn về phát triển NNL từ khái niệm, vị trí đến các bộ phận cấu thành NNL, kinh nghiệm phát triển NNL của các nước. Đặc biệt với cách tiếp cận xuyên suốt, tác giả tập trung phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển NNL theo hướng CNH, HĐH làm căn cứ để phân tích thực trạng NNL và đề xuất các giải pháp nhằm phát triển NNL vùng Đồng bằng sông Cửu Long ở chương 3. Dựa trên khung lý thuyết đó, tác giả đi vào phân tích thực trạng NNL vùng Đồng bằng sông Cửu Long theo hướng CNH, HĐH trên các mặt: thực trạng GD - ĐT trong phát triển NNL; thực trạng về KH - CN trong phát triển NNL; thực trạng về văn hoá - xã hội trong phát triển NNL. Từ đó, tác giả rút ra những nhận xét, đánh giá và đề xuất 3 nhóm giải pháp lớn về phát triển NNL vùng Đồng bằng sông Cửu Long theo hướng CNH, HĐH đến năm 2020. - Đào Quang Vinh (2006), Phát triển NNL cho CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, Luận án tiến sỹ Kinh tế. Tác giả luận án đã trình bày được một số vấn đề lý
  22. 14 luận và thực tiễn phát triển NNL cho CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn như: khái niệm NNL và phát triển NNL; nội dung và tiêu chí về phát triển NNL cho CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn; một số kinh nghiệm về phát triển NNL cho CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Đặc biệt tác giả luận án đã phân tích được mối quan hệ biện chứng giữa phát triển NNL với CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn và phác thảo được quy luật vận động của NNL trong CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Đồng thời tác giả phân tích thực trạng NNL, phát triển NNL và những nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển NNL cho CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn Việt Nam từ năm 1990, khái quát những thành tựu đạt được, hạn chế và tác giả cho rằng có 5 vấn đề cần phải được ưu tiên giải quyết trong phát triển NNL cho CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Trên cơ sở thực trạng và dựa vào tư tưởng chủ đạo coi con người là nguồn lực quan trọng nhất, tác giả đưa ra 5 quan điểm và đề xuất 7 nhóm giải pháp để phát triển NNL cho CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn Việt Nam trong những năm tới - Dương Anh Hoàng (2008), Phát triển NNL phục vụ CNH, HĐH ở Đà Nẵng , Luận án tiến sỹ Triết học. Tiếp cận dưới góc độ triết học, tác giả luận án đã kế thừa những kiến thức của các nhà khoa học đi trước để bổ sung và hoàn thiện ý tưởng nghiên cứu của mình về các vấn đề: đưa ra khái niệm NNL và cho rằng NNL bao gồm 2 yếu tố cơ bản cấu thành: số lượng NNL và chất lượng NNL; đưa ra khái niệm phát triển NNL; phân tích kinh nghiệm phát triển NNL của các nước và đặc biệt tác giả đã rút ra được 3 điểm tương đồng và 3 điểm khác biệt trong phát triển NNL giữa Việt Nam và các nước trong khu vực để từ đó rút ra 4 bài học kinh nghiệm về phát triển NNL cho Việt Nam nói chung và Đà Nẵng nói riêng; là m rõ 4 đặc điểm cơ bản của quá trình CNH, HĐH ở Đà Nẵng và theo tác giả chính những đặc điểm đó nó quy định chiến lược phát triển NNL của Đà Nẵng; phân tích thực trạng phát triển NNL của Đà Nẵng và nêu ra 5 vấn đề cấp bách trong phát triển NNL mà Đà Nẵng cần giải quyết; đưa ra 3 quan điểm định hướng và đề xuất 4 giải pháp để phát triển NNL cho CNH, HĐH ở Đà Nẵng trong thời gian tới, đó là: phát triển KT - XH, nâng cao chất lượng GD - ĐT, phát triển KH - CN và xây dựng nếp sống văn minh đô thị.
  23. 15 - Phạm Văn Mợi (2010), Giải pháp phát triển nhân lực KH - CN ở Hải Phòng phục vụ CNH, HĐH, Luận án tiến sỹ Kinh tế. Luận án đã nghiên cứu và giải quyết được các vấn đề về lý luận và thực tiễn đó là: đưa ra khái niệm nhân lực, nhân lực KH - CN, phát triển nhân lực KH - CN và xác định khi nghiên cứu nhân lực, nhân lực KH - CN, phát triển nhân lực KH - CN cần xem xét cả 3 yếu tố cấu thành đó là số lượng, chất lượng, cơ cấu; phân tích và khẳng định phát triển nhân lực KH - CN có vai trò to lớn đối với sự nghiệp CNH, HĐH; phân tích 5 nhân tố tác động đến phát triển nhân lực KH - CN; phân tích kinh nghiệm của một số các nước và địa phương trong nước về phát triển nhân lực KH - CN. Dựa trên cơ sở khung lý thuyết đã phân tích, tác giả đi sâu vào phân tích tiềm năng, thực trạng nhân lực KH - CN ở Hải Phòng giai đoạn 2001 - 2010 trên các nội dung về số lượng, chất lượng, cơ cấu nhân lực KH - CN, đặc biệt tác giả phân tích nhân lực KH - CN theo các nhóm; đánh giá thành tựu, hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế trong phát triển nhân lực KH - CN; phân tích bối cảnh quốc tế và trong nước tác động đến phát triển nhân lực KH - CN; đưa ra 3 quan điểm định hướng và 6 giải pháp để phát triển nhân lực KH - CN ở Hải Phòng trong thời gian tới. 1.1.3. Các bài viết đăng trên các tạp chí chuyên ngành - Phạm Công Nhất (2008), “Nâng cao chất lượng NNL đáp ứng yêu cầu đổi mới và hội nhập kinh tế’’, Tạp chí Cộng sản số 7. Trên cơ sở phân tích thực trạng NNL Việt Nam, tác giả chỉ rõ: so với yêu cầu của quá trình phát triển nền kinh tế trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng thì chất lượng NNL nước ta còn nhiều bất cập và hạn chế do: thu nhập bình quân đầu người thấp, vấn đề quy hoạch và phát triển NNL còn kém, nội dung và phương pháp giảng dạy lạc hậu T ừ đó, tác giả đưa ra các giải ph áp: nhận thức rõ tầm quan trọng của việc xây dựng, phát triển và nâng cao chất lượng NNL; tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới, trước hết là đổi mới trong lĩnh vực kinh tế theo hướng CNH, HĐH và tích cực chủ động hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới; xây dựng và triển khai chiến lược phát triển NNL Việt Nam từ nay đến năm 2020 và tầm nhìn 2030 - Ths. Lê Thị Kim Phương (2009), Phát huy vai trò của đội ngũ trí thức trẻ ở tỉnh Thừa Thiên Huế hiện nay, Tạp chí Lý luận chính trị số 6. Tác giả đã luận giải
  24. 16 vai trò của trí thức đối với sự phát triển của xã hội, nhất là trong thời đại ngày nay - thời đại bùng nổ của KH - CN và sự phát triển của KTTTh. Đặc biệt, tác giả đã phân tích được thực trạng đội ngũ trí thức nói chung, trí thức trẻ của tỉnh Thừa Thiên Huế nói riêng trên các mặt: số lượng, chất lượng, cơ cấu. Ngoài ra, tác giả đã chỉ ra những điểm hạn chế cần khắc phục và đưa ra các giải pháp nhằm phát huy hơn nữa vai trò của đội ngũ trí thức trẻ ở tỉnh Thừa Thiên Huế trong thời gian tới. Với nguồn số liệu phong phú, đáng tin cậy và những đánh giá khách quan của tác giả trong công trình nghiên cứu này đã được NCS kế thừa trong quá trình thực hiện luận án. - PGS.TS. Ngô Doãn Vịnh (2011), Bàn về sử dụng các chỉ tiêu phân tích, đánh giá chất lượng nhân lực Việt Nam, Tạp chí Kinh tế và Dự báo số 7. Tác giả cho rằng, chất lượng nhân lực là yếu tố quan trọng nhất đối với phát triển. Đặc biệt, tác giả đã gợi mở cho NCS những điểm cần nghiên cứu khi chỉ ra các tiêu chí định lượng để phân tích, đánh giá chất lượng nhân lực bao gồm: nhóm các tiêu chí phản ánh trực tiếp (thể lực, trí lực, khả năng thông minh, khả năng ứng xử, khả năng giao tiếp, khả năng thuyết trình); nhóm các chỉ tiêu chủ yếu phản ánh gián tiếp chất lượng NNL (năng suất lao động, hiệu suất sử dụng đầu tư, điện năng và đất đai, số năm đi học, chất lượng hệ thống giáo dục, số người có học vấn) - PGS.TS. Hà Nhật Thăng (2011), Đào tạo nhân tài - vấn đề cấp thiết của chiến lược giáo dục thời kỳ CNH, HĐH, Tạp chí Giáo dục số 269. Trên cơ sở so sánh yêu cầu phát triển NNL của các nền văn minh, tác giả chỉ ra, trong nền KTTTh yêu cầu con người phải có trình độ cao hơn rất nhiều. Theo tác giả, đối với nước ta đào tạo nhân tài là một trong những trọng tâm của chiến lược giáo dục thời kỳ CNH, HĐH và chiến lược nhân tài đó phải được thực hiện theo một quy trình chặt chẽ từ khâu phát hiện, tuyển chọn, đào tạo và sử dụng. 1.2. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO TRONG NỀN KINH TẾ TRI THỨC 1.2.1. Sách tham khảo và chuyên khảo - GS.TS.Nguyễn Ngọc Phú (chủ biên) (2010), Thực trạng NNL, nhân tài của đất nước hiện nay: Những vấn đề đặt ra - Giải pháp, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội. Cuốn sách tập hợp nhiều bài viết của nhiều tác giả, như: GS.TS. Nguyễn Ngọc
  25. 17 Phú, TSKH. Trịnh Thị Kim Ngọc, PGS.TS. Nguyễn Phương Ngọc, PGS.TS. Trịnh Quang Từ, PGS.TS. Hà Thế Truyền Hầu hết các bài viết tập trung phân tích về NNL, NNLCLC như: Phát triển NNL có kỹ năng, đặc trưng của NNLCLC; Đào tạo nhân tài trong các trường ĐH; Thực trạng NNLCLC Trong đó, TS. Cao Xuân Trung trong bài Đặc trưng cơ bản của NNLCLC, đã bước đầu phác hoạ 5 đặc trưng của NNLCLC: 1) Có động cơ chính trị - xã hội, nghề nghiệp ổn định; 2) Có năng lực hoạt động nghề nghiệp đáp ứng sự phát triển KH - CN; 3) Có kỹ năng sống, kỹ năng hợp tác trong LĐ với đồng nghiệp; 4) Có kỹ năng tự học, tự hoàn thiện nghề nghiệp và nhân cách; 5) Có sức khoẻ, tác phong đáp ứng yêu cầu hoạt động nghề nghiệp. TS. Đặng Quốc Thành trong bài Nhân lực chất lượng cao và và giải pháp xã hội hoá đào tạo nhân lực chất lượng cao cho đất nước hiện nay, đã đưa ra khái niệm NNLCLC và phân tích trên 5 khía cạnh: NNLCLC là một bộ phận cơ bản và quan trọng của NNL; là những người có năng lực hoạt động trí tuệ, khả năng thích ứng và sự sáng tạo trong công việc; là những người LĐ có t ính kỷ luật, tác phong công nghiệp, có trách nhiệm; là những người LĐ biết chủ động hội nhập quốc tế; là những người có thể lực, sức khoẻ tốt. Đây là những gợi ý bổ ích cho NCS kế thừa trong quá trình thực hiện luận án. Đồng thời tác giả cho rằng, có nhiều giải pháp để nâng cao chất lượng đội ngũ NNLCLC, trong đó giải pháp xã hội hoá đào tạo là rất quan trọng. TS. Nguyễn Văn Phán trong bài Xây dựng và phát triển N NLCLC trong các trường ĐH, CĐ ở nước ta hiện nay đã đánh giá thực trạng giảng viên ĐH, CĐ - một bộ phận của NNLCLC ở nước ta hiện nay. Tác giả khẳng định, ở các trường ĐH, CĐ thì việc xây dựng, phát triển đội ngũ giảng viên là khâu then chốt, nên tác giả đề xuất 4 giải pháp và cho rằng 4 giải pháp đó phải thực hiện thống nhất và tương tác lẫn nhau cùng tạo nên chất lượng đội ngũ giảng viên đáp ứng yêu cầu đào tạo NNL bậc cao cho đất nước trong thời kỳ mới. - GS. Hoàng Văn Chương (Chủ biên),(2006), Tài năng trong thời KTTTh và toàn cầu hoá, Nxb Văn hoá - Thông tin, Hà Nội. Đây là cuốn sách tập hợp những bài tham luận tâm huyết của nhiều nhà khoa học hàng đầu về GD - ĐT và văn hoá nghệ thuật tiêu biểu như: G S. Hoàng Tuỵ, GS.VS. Nguyễn Duy Quý, GS. Trường
  26. 18 Lưu, GS.VS. Nguyễn Cảnh Toàn, GS. Đỗ Nguyên Phương, GS. Đặng Hữu Trong cuốn sách này, đáng chú ý có các bài tham luận: 1) Tài năng trong thời KTTTh và toàn cầu hoá của GS. Hoàng Tuỵ. GS. đã khái quát được: sự hình thành nhân tài qua các thời kỳ lịch sử; nêu ra các giải pháp để phát tr iển tài năng trong thời đại KTTTh và toàn cầu hoá như: tạo môi trường làm việc để giữ chân người tài, tác giả cho rằng tài năng là một thứ tài nguyên đặc biệt rất khó tính nếu không được sử dụng, cho nên nếu không được sử dụng ở một nơi nào đó dù nơi đó là quê hương thì nó có xu hướng tìm đến một nơi khác có điều kiện phá t triển thuận lợi hơn; cần phải giành giật tài năng trong thời toàn cầu hoá, theo tác giả KTTTh là nền kinh tế dựa vào tài năng, còn toàn cầu hoá dẫn đến tự do hoá chính là sự di chuyển vốn mà vốn quý giá nhất đó là tài năng, cho nên xu thế tất yếu là tài năng sẽ di chuyển tập trung đến các nước giàu mạnh, xu thế này càng làm cho các nước giàu lại giàu thêm, các nước nghèo lại càng nghèo đi; cần biết quy tụ và sử dụng nhân tài, tác giả khẳng định muốn đất nước giàu mạnh, bản lĩnh quan trọng của người lãnh đ ạo là đánh giá đúng và mạnh dạn sử dụng người tài kể cả người tài hơn mình; cần tiến hành cải cách giáo dục để đem lại tri thức cho nhân dân và tăng cường tiềm lực sáng tạo; 2), Đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài theo yêu cầu phát triển KTTTh của GS. Đặng Hữu. Tác giả nêu lên 4 điều kiện để phát triển KTTTh bao gồm: phải có NNLCLC, có năng lực KH - CN quốc gia đủ mạnh, có hạ tầng thông tin phát triển, có bộ máy quản lý nhà nước trong sạch, vững mạnh. Tác giả so sánh kinh tế công nghiệp khác với KTTTh, từ đó khẳng định trong nền KTTTh, vốn tri thức trở thành nguồn lực quan trọng nhất của sản xuất và sức sáng tạo, đổi mới trở thành động lực trực tiếp của sự phát triển. Trên cơ sở đó, GS. Đặng Hữu cho rằng, để phát triển KTTTh, rút ngắn quá trình CNH, HĐH ở n ước ta thì tiền đề quan trọng nhất là đổi mới cơ bản nền giáo dục hiện nay bằng cách: Nhà nước phải có chính sách trọng dụng nhân tài; đẩy mạnh xã hội hoá giáo dục; tiến hành cải cách giáo dục 1.2.2. Đề tài khoa học, luận án tiến sỹ - TS. Hoàng Thị Thành (Chủ nhiệm đề tài) (2002), Một số định hướng chuẩn bị NNL đáp ứng yêu cầu từng bước phát triển KTTTh ở Việt Nam những thập niên
  27. 19 đầu thế kỷ XXI, Đề tài khoa học cấp Bộ, Hà Nội. Chương 1, các tác giả đã trình bày được những vấn đề lý luận và thực tiễn: 1) Khẳng định KTTTh là xu hướng phát triển tất yếu của xã hội loài người và KTTT h là vận hội để Việt Nam đẩy nhanh CNH, HĐH; 2) Đưa ra 5 nhóm chỉ số đánh giá sự phát triển KTTTh: nhóm chỉ số về năng lực sáng tạo của doanh nghiệp; nhóm chỉ số về nền tảng tri thức; nhóm chỉ số về cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin (CNTT) và viễn thông; nhóm chỉ số về cơ cấu nền kinh tế; nhóm chỉ số về vai trò của chính phủ; 3) Nêu ra những tiền đề ban đầu và những khó khăn mà Việt Nam phải đối mặt để phát triển KTTTh; 4) Chỉ ra các nguồn lực chủ yếu bao gồm vốn kết cấu hạ tầng KH - CN, vốn con người, vốn xã hội và vai trò của NNL trong phát triển KTTTh; 5) Nêu kinh nghiệm về phát triển NNL của một số nước đang phát triển nh ư Hàn Quốc, Singapore. Chương 2, các tác giả đi sâu phân tích thực trạng NNL nước ta và NNL của thành phố Hà Nội trước yêu cầu từng bước phát triển KTTTh và khẳng định: quy mô NNL tăng cao là nội lực lớn nhưng cũng tạo ra áp lực về đào tạo và việc làm, chất lượng NNL đã được cải thiện nhưng nhìn chung chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển KT - XH nói chung và yêu cầu phát triển KTTTh nói riêng. Chương 3, các tác giả đưa ra 5 định hướng để chuẩn bị NNL cho phát triển KTTTh ở nước ta: đổi mới một cách cơ bản quan điểm, cơ cấu và chính sách đầu tư phát triển NNL; nâ ng cao chất lượng và hiệu quả GD - ĐT, coi GD - ĐT là phương thức chủ yếu để phát triển NNL; mở rộng hợp lý quy mô GD - ĐT trên cơ sở đảm bảo chất lượng đào tạo, chú trọng tăng quy mô đào tạo nghề để đảm bảo NNL có cơ cấu hợp lý; phát triển mạnh CNTT nhằm nâng cao khả năng tiếp nhận thông tin và tạo cơ hội học tập suốt đời cho NNL; ưu tiên phát triển NNL cho các ngành công nghệ cao. Đồng thời các tác giả đề xuất 5 giải pháp cơ bản để c huẩn bị NNL cho phát triển KTTTh ở nước ta. - Lê Thị Ngân (2004), Nâng cao chất lượng NNL tiếp cận KTTTh ở Việt Nam, Luận án tiến sỹ Kinh tế. Tác giả luận án đã giải quyết được những vẫn đề lý luận và thực tiễn về nâng cao chất lượng NNL tiếp cận KTTTh: đưa ra quan điểm NNL, chất lượng NNL, nâng cao chất lượng NNL tiếp cận KTTT h; đưa ra các tiêu chí
  28. 20 đánh giá chất lượng NNL; phân tích những nhân tố tác động đến chất lượng NNL; luận giải vai trò của NNLCLC trong nền KTTTh với tư cách tri thức - sản phẩm của NNL là yếu tố trực tiếp của quá trình sản xuất và nâng cao chất lượng NNL là động lực chủ yếu tiếp cận, phát triển KTTTh; khẳng định nâng cao chất lượng NNL tiếp cận KTTTh là yêu cầu cần thiết; phân tích kinh nghiệm nâng cao chất lượng NNL của Trung Quốc, Hàn Quốc. Luận án cũng đã phân tích thực trạng chất lượng NNL và việc nâng cao chất lượng NNL tiếp cận KTTTh từ năm 1990 đến năm 2003 trên các mặt về biến đổi chất lượng NNL, về các nhân tố tác động trực tiếp tới việc nâng cao chất lượng NNL ở Việt Nam. Trên cơ sở đó, tác giả luận án khẳng định: NNL nước ta dồi dào về số lượng, đã đạt được ở mức nhất định về chất lượng. Tuy nhiên, để đáp ứng yêu cầu phát triển KTTTh còn nhiều bất cập và tác giả nêu 7 quan điểm, đề xuất ba nhóm giải pháp để nâng cao chất lượng NNL tiếp cận KTTTh ở Việt Nam. - Lê Thị Hồng Điệp (2010), Phát triển NNLCLC để hình thành nền KTTT h ở Việt Nam, Luận án tiến sỹ Kinh tế. Tác giả luận án đã trình bày những vấn đề chu ng về NNLCLC để hình thành KTTTh: đưa ra khái niệm NNLCLC; khẳng định vai trò tiên phong của NNLCLC; đưa ra các tiêu chí phân định NNLCLC; nêu được các kinh nghiệm nâng cao chất lượng NNL của Mỹ, Singapore và rút ra những bài h ọc cho Việt Nam. Đồng thời, tác giả đã khái quát quan điểm của Đảng về phát triển NNLCLC qua các thời kỳ; phân tích thực trạng phát triển NNLCLC; đánh giá thực trạng phát triển NNLCLC ở Việt Nam cả thành tựu, hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế. Tác giả luận án cũng đã đưa ra 4 quan điểm và đề xuất 3 nhóm giải pháp phát triể n NNLCLC để hình thành nền KTTTh. 1.2.3. Các bài viết đăng trên các tạp chí chuyên ngành - TS. Nguyễn Hữu Dũng (2002), Phát triển NNLCLC trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế , Tạp chí Lý luận chính trị số 8. Từ cách tiếp cận của Liên Hiệp Quốc và của các nhà kinh tế, tác giả đưa ra khái niệm NNL, phát triển NNL, NNLCLC. Điều đặc biệt là, tác giả mở cho NCS một hướng nghiên cứu mới khi cho rằng giữa chất lượng NNL và NNLCLC có mối quan hệ chặt chẽ
  29. 21 với nhau, đó là mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng. NNLCLC là một bộ phận cấu thành tinh tuý nhất của chất lượng NNL, cho nên khi nghiên cứu không thể tách NNLCLC khỏi chất lượng NNL. - GS. Đặng Hữu (2005), Đào tạo nhân lực cho CNH, HĐH dựa trên KTTTh ở nước ta hiện nay, Tạp chí Cộng sản số 4. GS khẳng định, nhân tố cơ bản nhất để phát triển KTTTh là NNLCLC dựa trên nền giáo dục tiên tiến và luận giải KTTTh có nhiều khác biệt cơ bản so với kinh tế công nghiệp trên ba khía cạnh: vốn tri thức (trở thành yếu tố quan trọng nhất của sản xuất hơn cả LĐ và tài nguyên), sáng tạo (trở thành động lực quan trọng nhất), tốc độ đổi mới nhanh chóng. Theo tác giả, để rút ngắn quá trình CNH, HĐH đòi hỏi phải coi GD - ĐT là quốc sách hàng đầu và nền giáo dục đó phải thực hiện được 3 nhiệm vụ: nâng cao mặt bằng dân trí, đào tạo được NNLCLC và chăm lo bồi dưỡng đội ngũ nhân tài. - PGS.TS. Phạm Thành Nghị (2007), Phát triển NNL cho nền KTTTh, Tạp chí Nghiên cứu con người số 2. Tác giả cho rằng, Việt Nam có nguồn LĐ dồi dào nhưng chất lượng thấp, vấn đề đặt ra là, để rút ngắn con đường CNH, HĐH và chuẩn bị cho sự phát triển của nền KTTTh cần đầu tư vào phát triển con người. Tác giả nêu ra một số vấn đề trọng tâm trong phát triển NNL cho nền KTTTh: các loại hình LĐ có vai trò quan trọng nhất trong nền KTTTh, vấn đề học tập suốt đời và học tập chiế n lược. Trong đó, đặc biệt tác giả dẫn ra ý tưởng của Wolff và Baumol phân LĐ ra làm 2 loại chính: LĐ thông tin và LĐ phi thông tin. Ngoài ra, tác giả còn chỉ ra, có một nhóm LĐ mà ít người nghĩ có mối quan hệ chặt chẽ với sự phát triển của KTTTh là LĐ khoa học xã hội nhân văn. Sự phân định này là những gợi ý bổ ích trong quá trình nghiên cứu luận án. - TS. Bùi Việt Phú (2010), Đào tạo NNL trình độ cao để tham gia nền KTTTh, Tạp chí Giáo dục số 233. Tác giả cho rằng, trong bối cảnh phát triển KTTTh, đào tạo NNL trình độ cao là vấn đề trọng tâm trong chiến lược phát t riển của mỗi quốc gia nhằm chủ động tham gia nền KTTTh. Theo đó, tác giả đề xuất một số ý kiến nhằm xây dựng được đội ngũ nhân lực được đào tạo ở nước ngoài có chất lượng cao như: phải có sự thống nhất quản lý nhà nước về lĩnh vực này, đa dạng hoá con đường bồi dưỡng nhân tài, hoàn
  30. 22 thiện và củng cố hệ thống văn bản pháp quy theo hướng tạo hành lang mở cho các tác nhân tham gia đào tạo ở nước ngoài, thực hiện chế độ đãi ngộ và sử dụng tài năng hợp lý. Những kết luận và vấn đề đặt ra cho nghiên cứu tiếp t heo của luận án Trên cơ sở tổng quan những nội dung và kết quả chính của các công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề NNL, NNLCLC bước đầu luận án rút ra một số kết luận sau: Thứ nhất, trong thời gian qua, NNL, NNLCLC là một trong những chủ đề không chỉ thu hút nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu, mà còn trở thành chủ đề để các nghiên cứu sinh và học viên cao họ c lựa chọn làm nội dung nghiên cứu cho các luận án, luận văn của mình. Thứ hai, tổng hợp các nghiên cứu về vấn đề NNL, NNLCLC như đã trình bày ở trên cho thấy, các công trình nghiên cứu về NNL cho CNH, HĐH gắn với phát triển KTTTh còn rất ít. Đặc biệt, ở tỉnh Thừa Thiên Huế mới chỉ có một vài công trình nghiên cứu về NNL như của tác giả Vũ Duy Dự và Lê Thị Kim Phương từ năm 1999 - 2004, chưa có công trình nghiên cứu nào về NNL cho CNH, HĐH gắn với phát triển KTTTh ở tỉnh Thừa Thiên Huế, nhất là trong một thời kỳ dài. Vì vậy, trên cơ sở kế thừa và tiếp thu kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học đi trước, việc bổ sung vào khoảng trống các vấn đề nghiên cứu còn bỏ ngỏ để hoàn thiện thêm những vấn đề lý luận và thực tiễn về NNL cho CNH, HĐH gắn với phát triển KTTTh được luận án xác định là hướng phát triển nghiên cứu tiếp theo. Thứ ba, các công trình nghiên cứu trên đã đề cập nhiều vấn đề liên quan đến NNL, NNLCLC. Tuy nhiên, luận án cho rằng, có một số vấn đề vấn đề sau đây cần tiếp tục được nghiên cứu: - Cần thiết phải làm sáng tỏ các quan niệm khác nhau về NNL, NNL cho CNH, HĐH gắn với phát triển KTTTh và các đặc thù của NNL cho CNH, HĐH gắn với phát triển KTTTh khác với các mô hình CNH truyền thống. - .Các đặc điểm của CNH, HĐH gắn với phát triển KTTTh cần được rút ra và xem xét để thấy rằng, chính các đặc điểm đó tác động đến yêu cầu của NNL cho CNH, HĐH gắn với phát triển KTTTh.
  31. 23 - Các vấn đề như: yêu cầu của NNL cho CNH, HĐH gắn với phát triển KTTTh; các nhân tố tác động, xu hướng và tính quy luật trong dịch chuyển cơ cấu NNL theo hướng CNH, HĐH gắn với phát triển KTTTh vẫn đang là những vấn đề khá mới mẻ cần có sự nghiên cứu thấu đáo hơn. - Nghiên cứu và đánh giá thực trạng NNL cho CNH, HĐH gắn với phát triển KTTTh ở một địa phương trong một thời gian dài, trên cơ sở đó tìm kiếm các giải pháp nhằm phát triển NNL đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH gắn với phát triển KTTT h là hết sức cần thiết và chưa được nhiều người nghiên cứu. Đó là những gợi mở để đề tài luận án “Nguồn nhân lực cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức ở tỉnh Thừa Thiên Huế hiện nay” được lựa chọn thực hiện.
  32. 24 Chương 2 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ NGUỒN NHÂN LỰC CHO CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ GẮN VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC 2.1. NGUỒN NHÂN LỰC CHO CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ GẮN VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC 2.1.1. Nguồn nhân lực và đặc thù của nguồn nhân lực cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức 2.1.1.1. Quan niệm về nguồn nhân lực, nguồn nhân lực cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức Thuật ngữ “nguồn lực con người” (Human resources) hay “nguồn nhân lực” được bắt đầu sử dụng vào n hững thập niên 60 của thế kỷ XX ở các nước phương Tây và một số nước châu Á. Có thể nói, đây là t hời kỳ đánh dấu sự nhảy vọt trong nhận thức về vai trò, vị trí của con người trong sự phát triển KT - XH, từ chỗ con người được xem là công cụ LĐ trở thành nhân tố quyết định hàng đầu, nhất là trong điều kiện phát triển KTTTh. Ở Việt Nam từ năm 90 của thế kỷ XX đến nay, nguồn lực này được đặc biệt coi trọng, d o đó thuật ngữ NNL được các nhà khoa học, các nhà hoạch định chính sách nghiên cứu sâu và được sử dụng rộng rãi. Vì vậy, hiện nay có nhiều quan niệm khác nhau về khái niệm NNL, nhưng chung quy lại, NNL được tiếp cận theo 2 góc độ cơ bản: - Ở góc độ nghiên cứu NNL với tư cách là tiềm năng, là nguồn lực chung của con người, có một số các quan niệm đáng chú ý sau: 1) GS.TS. Hoàng Chí Bảo cho rằng, NNL là sự kết hợp thể lực và trí lực cho thấy khả năng sáng tạo, chất lượng, hiệu quả hoạt động và triển vọng mới phát triển của con người [4;14]. 2) Trong công trình nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước (KX - 07) “Con người Việt Nam - mục tiêu và động lực của sự phát triển KT - XH”, GS.TS. Phạm Minh Hạc và các cộng sự cho rằng, NNL là số dân và chất lượng con người bao gồm cả thể chất và tinh thần, sức khoẻ và trí tuệ năng lực phẩm chất [54;328].
  33. 25 3) Gần đây, TS. Nguyễn Bình Đức đã nhấn mạnh, nhân lực là nguồn lực trong mỗi con người. Đó là tổng thể thống nhất hữu cơ giữa tiềm năn g LĐ với năng lực LĐ hiện có của con người hình thành nên năng lực LĐ của họ [51;26]. Mặc dù có đối tượng và mục đích nghiên cứu khác nhau nhưng N NL ở góc độ này được hiểu theo các khía cạnh: NNL là một nhân tố bên cạnh các loại nhân tố vật chất khác (vốn tài chính, tài nguyên thiên nhiên, công nghệ, thể chế ) cho quá trình sản xuất xã hội; NNL là những con người cụ thể có sức LĐ, có khả năng LĐ; NNL là sự kết hợp của thể lực, trí lực, kiến thức, kỹ năng và nhân cách của mỗi con người; NNL là nguồn lực con người bao gồm cả nguồn lực tiềm năng và nguồn lực hiện có; NNL tồn tại với tư cách là một chủ thể có khả năng LĐ sáng tạo; NNL là khả năng LĐ của con người có ảnh hưởng đến sự phát triển của mỗi cá nhân và xã hội. - Ở góc độ nghiên cứu NNL với tư cách là tổng thể nguồn lực con người trong các đơn vị và trên phạm vi cả nước, có các quan niệm tiêu biểu: Theo quan niệm của tổ chức Lao động quốc tế (ILO), NNL của một quốc gia là toàn bộ những người trong độ tuổi có khả năng tham gia LĐ [100;61]. Quan niệm này được hiểu theo hai nghĩa: 1) Nghĩa rộng, NNL là nguồn cung cấp sức LĐ cho sản xuất xã hội, cung cấp nguồn lực con người cho phát triển, do đó NNL bao gồm toàn bộ dân cư có thể phát triển bình thường; 2) Nghĩa hẹp, NNL là khả năng LĐ của xã hội, bao gồm các nhóm dân cư trong độ tuổi LĐ, có khả năng tham gia vào LĐ - sản xuất, tức là toàn bộ các cá nhân có thể tham gia vào quá trình LĐ, là tổng thể các yếu tố về thể lực, trí lực của họ được huy động vào quá trình LĐ. Quan niệm NNL theo nghĩa này được sử dụng phổ biến trong các lý thuyết LĐ xã hội và trong các cuộc điều tra LĐ - việc làm. Theo quan niệm của UNDP thì NNL là tổng thể những năng lực (cơ năng và trí năng) của con người được huy động vào quá trình sản xuất, nguồn năng lực - nội lực đó của con người cũng chính là nội lực của xã hội [92;13]. Theo quan niệm của Bộ Lao động - Thương binh - Xã hội, NNL là tiềm năng về LĐ trong một thời kỳ xác định của một quốc gia, suy rộng ra có thể xác định trên phạm vi một địa phương, một ngành hay một vùng [9;13].
  34. 26 Theo quan niệm của Kinh tế phát triển trong lý thuyết về vốn người, NNL trước hết như là một yếu tố của quá trình sản xuất, một phương tiện để ph át triển KT - XH, ngoài ra còn xem xét con người từ quan điểm nhu cầu về các nguồn lực phát triển [170;138]. Điều đó có nghĩa, đầu tư cho con người cũng giống như đầu tư vào các nguồn lực vật chất khác, vì vậy phải tính đến hiệu quả của sự đầu tư đó. Quan điểm này hiện nay đang được áp dụng phổ biến ở nhiều quốc gia. Như vậy, nghiên cứu NNL với tư cách là tổng thể nguồn lực con người có nhiều quan niệm và biểu hiện khác nhau, nhưng chung quy lại NNL của một quốc gia phản ánh được những đặc điểm quan trọng nhất, đó là: 1) NNL là nguồn lực con người; 2) NNL là yếu tố cơ bản, quyết định của quá trình sản xuất; 3) NNL là bộ phận của dân số, là nguồn cung cấp sức LĐ cho xã hội nên việc thừa hay thiếu sức LĐ có tác động đến tốc độ tăng trưởng kinh tế; 4) NNL là tổng hoà giữa năng lực xã hội và tính năng động xã hội của con người; 5) NNL là tiềm năng, sức mạnh của con người; 6) NNL phản ánh khả năng LĐ của một xã hội; 7) NNL là tổng hoà thể lực và trí lực của LLLĐ. Từ một số cách tiếp cận trên, có thể thấy, đa số các quan niệm về NNL đều được tiếp cận và nhìn nhận dưới góc độ chuyên ngành Kinh tế phát triển hoặc Quản lý KT - XH, còn dưới dưới góc độ chuyên ngành Kinh tế chính trị luận án cho rằng: NNL của một quốc gia là toàn bộ những người đang và sẽ tham gia vào LLLĐ làm việc trong tất cả các ngành của nền kinh tế quốc dân với tất cả những năng lực thể chất, tinh thần và có quan hệ tới sự phát triển của mỗi cá nhân, quốc gia đó. Hay nói cách khác, NNL là tổng hoà giữa năng lực thể chất và năng lực tinh thần tồn tại trong toàn bộ LLLĐ và những người sẽ bổ sung có khả năng tham gia LĐ của một quốc gia, trong đó thể lực, trí lực, phẩm chất đạo đức, kinh nghiệm LĐ, tác phong nghề nghiệp được vận dụng vào các hoạt động KT - XH để tạo ra của cải vật chất và tinh thần phục vụ cho xã hội. Với cách tiếp cận này của luận án, khái niệm NNL nó phản ánh được đầy đủ các khía cạnh: 1) Các tiêu thức về lượng của NNL, bao gồm những người đang và sẽ tham gia hoạt động trong các ngành của nền kinh tế quốc dân; 2) Các tiêu thức về
  35. 27 chất của NNL như: thể lực, trí lực, tâm lực; 3) Các yếu tố quyết định đến hoạt động của NNL đó là toàn bộ năng lực thể chất và năng lực tinh thần của người LĐ. Từ quan niệm chung về NNL, có thể hiểu một cách khái quát NNL cho CNH, HĐH gắn với phát triển KTTTh: Là tổng hoà năng lực thể chất và tinh thần tồn tại trong toàn bộ những người đang và sẽ tham gia vào LLLĐ xã hội có khả năng hoàn thành tốt các mục tiêu, nhiệm vụ của tiến trình, trong đó tốc độ tăng của năng lực chịu đựng áp lực công việc và năng lực sáng tạo cũng như cơ cấu của LLLĐ phải phù hợp với tốc độ tăng của cơ sở vật chất kỹ thuật và sự dịch chuyển cơ cấu của nền kinh tế trong điều kiện bùng nổ cách mạng KH - CN và hội nhập kinh tế quốc tế. Cách tiếp cận NNL cho CNH, HĐH gắn với phát triển KTTTh như trên của luận án chỉ rõ: một là, phù hợp với cánh tiếp cận NNL của chuyên ngành Kinh tế chính trị; hai là, phản ánh được đầy đủ những nội dung cơ bản của NNL; ba là, phù hợp với đòi hỏi của tiến trình CNH, HĐH và gắn liền với đòi hỏi phát triển nền KTTTh và hội nhập kinh tế quốc tế. 2.1.1.2. Đặc thù nguồn nhân lực cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức CNH là nấc thang phát triển tất yếu của các quốc gia và tuỳ vào hoàn cảnh, điều kiện mà mỗi quốc gia tự lựa chọn mô hình CNH thích hợp. Trong bối cảnh toàn cầu hoá và sự phát triển KTTTh, là nước đi sau để rút ngắn quá trình CNH Việt Nam xác định phải thực hiện CNH, HĐH gắn với phát triển KTTTh. Khác với các mô hình CNH truyền thống, mô hình CNH, HĐH gắn với phát triển KTT Th mà nước ta đang thực hiện sẽ làm cho phương thức, phạm vi và kết cấu NNL có sự thay đổi hoàn toàn về chất dẫn đến NNL có những đặc thù mới: Một là, trong mô hình CNH, HĐH gắn với phát triển KTTTh, tỷ lệ LĐ phức tạp cao hơn LĐ giản đơn rất nhiều. CNH, HĐH gắn với phát triển KTTTh là sự kết hợp giữa CNH, HĐH với quá trình phát triển KTTTh mà thực chất đó chính là quá trình sử dụng tri thức vào tất cả các ngành kinh tế, do đó nhu cầu về LĐ trí óc ngày càng tăng lên. LĐ phức tạp là bộ phận tinh hoa nhất của NNL, có trình độ CMKT cao, có kỹ năng LĐ giỏi có thể đáp ứng đòi hỏi của nền sản xuất hiện đại. Ở nước
  36. 28 ta, LĐ phức tạp này càng có xu hướng tăng lên nhằm đáp ứng yêu cầu đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH gắn với phát triển KTTTh. Hiện nay ở nước ta, LĐ phức tạp có xu hướng gia tăng nhanh chóng: đội ngũ trí thức Việt Nam có 2,5 triệu người (chiếm 2,15% dân số), trong đó theo thống kê của Bộ Giáo dục và Đào tạo, có trên 14 nghìn TS khoa học và theo thống kê của Hội đồng chức danh GS nhà nước đến tháng 11 - 2011, có 1.459 GS và 8.048 PGS; lực lượng lãnh đạo, quản lý các cấp có 544 nghìn người, trong đó có 97% có trình độ CĐ trở lên [76;60]. Có thể khẳng định, sự tác động của cuộc cách mạng KH - CN và yêu cầu sử dụng tri thức của nền kinh tế làm cho NNL trong mô hình CNH, HĐH gắn với phát triển KTTTh có đặc thù khác với các mô hình CNH trước đó. Hai là, trong mô hình CNH, HĐH gắn với phát triển KTTTh, không phải chỉ những ngành kinh tế mũi nhọn, những ngành kỹ thuật cao mới đòi hỏi LĐ có trình độ CMKT cao mà ở tất cả các ngành, các lĩnh vực đều đòi hỏi người LĐ không chỉ có những tri thức nhất định, mà phải có tri thức và kỹ năng cao, tức phải có trình độ CMKT và nghề nghiệp. Ở nước ta CNH, HĐH gắn với phát triển KTTTh không phải là chuyển ngay các ngành kinh tế truyền thống sang các ngành công nghệ cao như nhiều nước đã thực hiện, mà là dựa vào tri thứ c, áp dụng KH - CN để cải tạo cả các ngành kinh tế truyền thống theo hướng gia tăng hàm lượng tri thức trong các sản phẩm. Do đó, trong các ngành truyền thống như công ng hiệp, nông nghiệp, dịch vụ cũng đòi hỏi người LĐ phải có trình độ CMKT, phải có tri thức. Sở dĩ như vậy, bởi vì bản thân những tiến bộ khoa học kỹ thuật mới được áp dụng vào trong các lĩnh vực, các ngành này rất phức tạp, hiện đại, người LĐ phải có kiến th ức mới nắm bắt được quy trình vận hành và vận dụng được. Chẳng hạn, Công ty TNHH Flora Việt Nam ở Hà Nội triển khai mô hình trồng hoa công nghệ cao với 10.000 m2 gồm hệ thống nhà kính, nhà lưới, máy móc hiện đại đã mang lại doanh thu khoảng 10 tỷ đồng/năm, tạo công ăn việc làm cho 100 LĐ thường xuyên, từng bước tạo dựng thương hiệu trên thị trường hoa cao cấp. Hay nông trại trồng hoa công nghiệp Hasfarm ở Đà Lạt áp dụng quy trình trồng, chăm bón hoa tự động được điều khiển toàn bộ bằng máy tính từ khâu đảm bảo nhiệt độ, độ ẩm đến các chế độ bón phân, cung cấp chất dinh dưỡng, năm 2004 doanh thu đạt 8,5 triệu USD.
  37. 29 Ba là, đặc thù của NNL trong mô hình CNH, HĐH gắn với phát triển KTTT h là phải có khả năng sáng tạo ra cái mới. Là nước đi sau, để tránh nguy cơ tụt hậu, đi tắt đón đầu Việt Nam thực hiện CNH, HĐH gắn với phát triển KTTTh thực chất là vận dụng tri thức mới vào tất cả các ngành kinh tế nhằm tăng nhanh giá trị gia tăng của sản phẩm, giảm chi phí về nguyên liệu và LĐ, nâng cao năng suất và chất lượng sả n phẩm, dịch chuyển nhanh cơ cấu kinh tế theo hướng HĐH. Yếu tố then chốt bảo đảm thành công cho chiến lược này là phát huy năng lực sáng tạo của NNL và như vậy, NNL trong CNH, HĐH gắn với phát triển KTTTh là NNL sáng tạo chứ không phải là một bộ phận của hệ thống máy móc trên dây chuyền sản xuất của các doanh nghiệp. Hiện nay, với sự tác động của cách mạng KH - CN, công nghệ đổi mới với tốc độ nhanh chóng, từ đó làm cho chu kỳ của một vòng đời công nghệ rút ngắn hơn trước kia và công nghệ thường lạc hậu rất nhanh nên những doanh nghiệp, quốc gia nào có tốc độ đổi mới nhanh thì doanh nghiệp, quốc gia đó có ưu thế trong cạnh tranh. Vì vậy, để thực hiện được CNH, HĐH gắn với phát triển KTTTh, nước ta cần có nhiều cơ chế, chính sách nhằm phải phát huy khả năng sáng tạo của NNL. Bốn là, trong mô hình CNH, HĐH gắn với phát triển KTTT h vai trò và địa vị của bộ phận LĐ trí tuệ trong cơ cấu NNL được đề cao. Trong mô hình CNH truyền thống cái thiếu nhất của các doanh nghiệp là vốn, vì vậy thông thường những người nào có vốn lớn là những người sở hữu và điều hành doanh nghiệp đó. Còn trong mô hình CNH, HĐH gắn với phát triển KTTTh (CNH dựa vào tri thức), nguồn vốn không còn giữ vai trò quyết định, bởi trong điều kiện toàn cầu hoá kinh tế, nhất là thị trường tiền tệ thế giới không ngừng được hoàn thiện dẫn tới nguồn vốn có hiện tượng dôi dư mang tính thế giới. Vì vậy, địa vị của những người sở hữu vốn có phần giảm sút trong khi đó địa vị của người sở hữu tri thức dần dần được nâng lên và ngày càng có nhiều người có tri thức tham gia sở hữu, điều hành các doanh nghiệp và ai sở hữu được nhiều tài sản trí tuệ hơn thì người đó sẽ chiến thắng trong cạnh tranh về kinh tế. Năm là, trong mô hình CNH, HĐH gắn với phát triển KTTTh có sự dịch chuyển cơ cấu LĐ theo hướng tri thức hoá. Trong quá trình dịch chuyển cơ cấu nền kinh tế luôn có tốc độ nhanh hơn, bởi lẽ khi hình thà nh một ngành kinh tế mới thì nhu cầu về
  38. 30 LĐ có CMKT tương đương. Do đó, để duy trì và phát triển ngành kinh tế mũi nhọn thì cơ cấu NNL phải dịch chuyển theo hướng t ri thức hoá, theo đó hình thành NNLCLC. 2.1.2. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức và yêu cầu của nguồn nhân lực 2.1.2.1. Đặc điểm của công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức CNH là nấc thang tất yếu trong sự phát triển của các quốc gia. Tuy nhiên, tuỳ thuộc vào hoàn cảnh và từng giai đoạn lịch sử khác nhau mà mỗi quốc gia có bước đi và mô hình thực hiện CNH khác nhau. Là một nước nông nghiệp lạc hậu đi lên CNXH bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN, Đảng ta xác định CNH, HĐH là nhiệm vụ trung tâm, xuyên suốt trong thời kỳ quá độ lên CNXH, nhưng trong điều kiện bùng nổ của cách mạng KH - CN và sự phát triển của KTTTh, Việt Nam không thể thực hiện CNH tuần tự như nhiều nước đã trải qua, mà phải thực hiện CN H, HĐH gắn với phát triển KTTTh. CNH, HĐH gắn với phát triển KTTTh có đặc điểm: Thứ nhất, CNH, HĐH gắn với phát triển KTTTh ở nước ta thực chất là CNH rút ngắn dựa vào tri thức. Ngày nay, xu thế toàn cầu hoá kinh tế và sự phát triển KTTTh đang làm thay đổi mạnh mẽ nội dung và bước đi của quá trình CNH,HĐH ở các nước đang phát triển như Việt Nam. Trong điều kiện hiện nay, là nước đi sau để tránh nguy cơ tụt hậu, nước ta phải thực hiện CNH, HĐH phải gắn với phát triển KTTTh. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định: Con đường CNH, HĐH của nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian, vừa có những bước tuần tự, vừa có bước nhảy vọt. Phát huy những lợi thế của đất nước, tận dụng mọi khả năng để đạt trình độ công nghệ tiên tiến, đặc biệt là CNTT và CNSH, tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn, ở mức cao hơn và phổ biến hơn những thành tựu mới về KH - CN, từng bước phát triển KTTTh [42;91]. Như vậy, thực chất của CNH, HĐH gắn với phát triển KTTTh mà nước ta đang thực hiện là CNH rút ngắn dựa vào tri thức. Rút ngắn ở đây là phải kết hợp cả hai quá trình vừa chuyển từ kinh tế nông nghiệp lên kinh tế công nghiệp và vừa chuyển từ
  39. 31 kinh tế công nghiệp lên KTTTh. Khác với các nước đi trước, đây là hai quá trình độc lập, nối tiếp nhau nghĩa là sau khi hoàn thành cơ bản CNH rồi mới chuyển sang nền KTTTh, nhưng với lợi thế là nước đi sau, ở nước ta hai quá trình này được lồng ghép vào nhau, hỗ trợ cho nhau, diễn ra song hành và phải được thực hiện đồng thời. Thứ hai, CNH, HĐH gắn với phát triển KTTTh ở nước ta vừa phải phát triển các ngành truyền thống, vừa phải phát triển các ngành công nghiệp mũi nhọn theo hướng đi tắt đón đầu công nghệ hiện đại. CNH, HĐH gắn với phát triển KTTTh đặt ra yêu cầu phát triển nhanh, có chọn lọc các ngành kinh tế dựa vào tri thức và công nghệ cao để đi tắt, đón đầu công nghệ hiện đại nhằm tránh nguy cơ tụt hậu so với các nước trong khu vực và trên thế giới, đó là các ngành: CNTT, CNSH, công nghệ vật liệu mới, công nghệ năng lượng mới Tuy nhiên, xuất phát là một nước nông nghiệp, nước ta thực hiện CNH, HĐH gắn với phát triển KTTTh không phải là chuyển ngay các ngành kinh tế truyền thống sang các ngành công nghệ cao như nhiều nước đã thực hiện, mà là dựa vào tri thức, áp dụng KH - CN để phát triển các ngành kinh tế truyền thống có lợi thế tuyệt đối về LĐ và tài nguyên theo hướng gia tăng hàm lượng tri thức trong các sản phẩm. Vì vậy, bên cạnh việc phát triển các ngành công nghệ cao, thì các ngành truyền thống cần phải được chú trọng đầu tư và phát triển, cụ thể: - Đối với ngành nông nghiệp. Nông nghiệp là một ngành kinh tế truyền thống, xuất phát là một nước nông nghiệp lạc hậu cho nên Đảng và Nhà nước ta khẳng định trong một thời gian khá dài nữa nó vẫn còn là một ngành kinh tế quan trọng trong nền kinh tế của nước ta. Vì vậy, trong điều kiện phát triển KTTTh, để nông nghiệp trở thành ngành sản xuất có vai trò quan trọng cần phải đưa tiến bộ KH - CN như CNTTT, CNSH vào trong nông nghiệp như: thay thế các dạng kỹ thuật sản xuất lạc hậu; thay thế các phương tiện, phương pháp sản xuất truyền thống bằng các phương pháp và phương tiện hiện đại; xây dựng các khu sản xuất nông nghiệp công nghệ cao dựa ứng dụng CNSH (công nghệ gen) - Đối với ngành công nghiệp. Công nghiệp cũng là một ngành truyền thống nên cũng phải có bước đi vừa tuần tự, vừa nhảy vọt. Hiện nay, trong tất cả các
  40. 32 ngành công nghiệp đều cần sử dụng tri thức, đổi mới công nghệ để nâng cao năng suất, chất lượng, tăng giá trị của sản phẩm, tận dụng cơ sở vật chất và LLLĐ sẵn có, giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập cho người LĐ - Đối với ngành dịch vụ. Trong xu thế hội nhập kinh tế thế giới và phát triển KTTTh ngành dịch vụ cần nhanh chóng được phát triển và hiện đại hoá. Chính CNTT có tác động to lớn đến sự phát triển và hiện đại hoá của ngành dịch vụ. Trong khoảng 5 năm trở lại đây, nhờ sử dụng thương mại điện tử, Internet mà các giao dịch nhanh chóng và thuận tiện hơn, chi phí giao dịch giảm xuống rất nhiều. Ước tính thương mại điện tử phát triển đã làm giảm chi phí cho các nền kinh tế phát triển hàng nghìn tỷ USD và cũng thông qua đó để phát triển du lịch, đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu, góp phần tăng trưởng kinh tế. Thứ ba, CNH, HĐH gắn với phát triển KTTTh ở nước ta diễn ra trong bối cảnh TCH và hội nhập kinh tế thế giới. TCH và hội nhập kinh tế thế giới là xu thế khách quan, nó tạo ra nhiều cơ hội phát triển cho các quốc gia, nhất là thúc đẩy LLSX phát triển, tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế Đặc biệt, TCH và hội nhập kinh tế quốc tế cho phép các quốc gia đi sau tiếp nhận được thàn h tựu KH - CN, kinh nghiệm phát triển NNL của các quốc gia đã hoàn thành CNH, HĐH và đang bước vào phát triển KTT Th. Đối với Việt Nam, TCH và hội nhập kinh tế thế giới đã tác động tích cực đến việc nâng cao chất lượng NNL trên hai khía cạnh: một là, TCH thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng của KH - CN, cho phép Việt Nam tiếp thu được thành tựu KH - CN của nhiều nước tiên tiến trên thế giới, từ đó thúc đẩy người LĐ nâng cao trình độ để tiếp cận và vận dụng thành tựu KH - CN vào các hoạt động SX - KD; hai là, khi người LĐ được làm việc trong các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp FDI, họ sẽ tiếp thu được phương pháp làm việc tiên tiến, biết sử dụng công nghệ hiện đại từ đó có điều kiện để học tập, nâng cao trình độ CMKT và tay nghề, rèn luyện tác phong công nghiệp. Như vậy, trong bối cảnh TCH, hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra sâu rộng, Việt Nam có thể tận dụng được nhiều cơ hội để thực hiện CNH, HĐH gắn với phát triển KTTTh, trong đó cơ hội nâng cao chất lượng NNL là vô cùng quan trọng.
  41. 33 2.1.2.2. Yêu cầu của nguồn nhân lực cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức Cả lý thuyết và thực tiễn đều khẳng định ở bất kỳ trình độ phát triển nào của nền sản xuất xã hội NNL đều giữ vai trò quyết định. Song, ở những trình độ phát triển khác nhau lại đặt ra những yêu cầu khác nhau đối với NNL. Khác với mô hình CNH mà các nước đi trước đã thực hiện, NNL trong mô hình CNH, HĐH gắn với phát triển KTTTh ở nước ta không phải là NNL bất kỳ, mà là NNL phải đáp ứng được các yêu cầu nhất định về số lư ợng, chất lượng và cơ cấu NNL. Thứ nhất, NNL cho CNN, HĐH gắn với phát triển KTTTh phải đảm bảo đủ số lượng Số lượng NNL là tổng thể số LLLĐ đang và sẽ sẵn sàng tham gia vào quá trình phát triển KT - XH. Số lượng NNL tăng lên hay giảm xuống chịu ảnh hưởng của các quy luật như: quy luật nhân khẩu, quy luật về sự phù hợp giữa khả năng cung ứng, sử dụng LĐ và nhu cầu sức LĐ trong từng thời kỳ sản xuất Hiện nay trong điều kiện phát triển KTTTh, các quy luật này vẫn phát huy tác dụng, nhưng số lượng NNL vận động theo 2 xu hướng: LĐ qua đào tạo, có trình độ CMKT cao ngày càng tăng; LĐ chưa qua đào tạo, có trình độ CMKT thấp không thích nghi kịp với yêu cầu của xã hội ngày càng giảm xuống. Xu hướng v ận động này dẫn đến tình trạng vừa thừa, vừa thiếu LĐ. Thừa LĐ không có trình độ CMKT, LĐ chưa qua đào tạo nhưng lại thiếu LĐ có trình độ CMKT cao, LĐ đã qua đào tạo , nhất là trong những ngành công nghệ cao như: CNTT, CNSH, tài chính - ngân hàng Sự thiếu hụt NNL có chất lượng buộc một số doanh nghiệp phải nhập khẩu LĐ có trình độ cao ở nước ngoài (sự bất cập này hiện nay đang diễn ra phổ biến trên phạm vi cả nước và ở nhiều địa phương của nước ta) . Vì vậy, để có đủ số lượng NNL đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH gắn với phát triển KTTTh, trong thời gian tới nước ta cần phải gia tăng nhanh chóng LĐ có trình độ CMKT các cấp và các loại hình LĐ trí tuệ. Trong đó, đặc biệt chú trọng đào tạo đội ngũ cán bộ KH - CN, LLLĐ CNTT và CNSH. Bởi đây là LLLĐ nòng cốt để tiếp thu những thành tựu của cuộ c cách mạng KH - CN, sáng tạo ra những tri thức mới và ứng dụng nó vào hoạt động SX - KD. Đồng thời, gia tăng nhanh chóng LLLĐ là công nhân tri thức ( knowledge worker),
  42. 34 hiện nay theo nhiều chuyên gia LLLĐ này chiếm khoảng 70%. Đó là những người LĐ được đào tạo bài bản, có kiến thức , tay nghề, kỹ năng giỏi và làm việc trong các ngành kinh tế mũi nhọn. Thứ hai, NNL cho CNH, HĐH gắn với phát triển KTTTh phải có chất lượng cao Trong thời đại ngày nay, thế mạnh sẽ nghiêng về quốc gia nào sở hữu được NNL, nhất là NNLCLC. Bởi lẽ đó, các quốc gia ngày càng chú ý đầu tư nhiều hơn để “nâng cấp” nguồn lực con người. Đối với các nước phương Tây, để tuyển chọn nhân tài và đánh giá chất lượng NNL trong nền KTTT h họ đã đưa ra một hệ thống tiêu chí sau: “có trình độ về toán học, có thực tiễn trong một lĩnh vực nghiên cứu phát triển nào đó, có tri thức cơ bản về máy tính , nắm được phương pháp quản lý hiện đại, có trình độ ngoại ngữ, có tri thức cơ bản về khoa học xã hội, đặc biệt là pháp luật, kinh tế, lịch sử, văn hoá ” [126;190]. Còn ở Trung Quốc đưa ra các tiêu chí “có năng lực tư duy logic, khả năng phục tùng mệnh lệnh, khả năng hợp tác với người khác, tính sáng tạo, năng lực kế thừa tính sáng tạo của người khác, lịch sử cá nhân, tình hình quan hệ xã hội và gia đình, tri thức văn hoá dân tộc và tri thức khoa học kỹ thuật hiện đại và phẩm chất tư tưởng ” [126;191]. Việt Nam thực hiện CNH, HĐH gắn với phát triển KTTTh là một loại hình CNH mới được thực hiện trong điều kiện của cuộc cách mạng KH - CN và xu hướng toàn cầu hoá đang gia tăng mạnh mẽ, do đó đòi hỏi chất lượng NNL hoàn toàn khác so với mô hình CNH truyền thống. Mô hình CNH rút ngắn dựa trên tri thức mà nước ta đang thực hiện đặt ra yêu cầu cao đối với NNL trên cả ba phương diện: thể lực, trí lực và những phẩm chất tâm lý xã hội nhưng đặc biệt nhấ n mạnh đến năng lực trí tuệ, khả năng sáng tạo và khả năng thích ứng với những thay đổi của công nghệ. * Về thể lực của NNL. CNH, HĐH là quá trình áp dụng phổ biến các máy móc thiết bị hiện đại nên bên cạnh sự cần cù, thông minh, sáng tạo và tính linh hoạ t cao thì vấn đề thể lực, sức khoẻ, thần kinh và tâm lý của người LĐ là rất quan trọng. Người LĐ có thể lực tốt phải đáp ứng các yêu cầu: 1) Có sức chịu đựng dẻo dai, bền bỉ để đáp ứng những đòi hỏi của quá trình sản xuất liên tục, kéo dài ; 2) Có tinh thần
  43. 35 sảng khoái, sáng suốt. Vì, hiện nay các thiết bị, máy móc rất hiện đại, hơn nữa có nhiều loại máy móc, thiết bị có giá trị lớn đòi hỏi độ chính xác rất cao nên chỉ cần một sơ suất nhỏ sẽ gây tổn thất rất lớn, do đó người LĐ phải là người có sức khoẻ tốt mới có thể vận hành được; 3) Đảm bảo những thông số về nhân chủng học (chiều cao, cân nặng), Bởi, thông thường hệ thống máy móc, thiết bị được sản xuất theo những tiêu chuẩn phổ biến nhất mới có thể trao đổi trên thị trường thế giới và khu vực. Vì vậy, nếu các yếu tố về nhân chủng học của người LĐ không đáp ứng được sẽ dẫn đến việc không phát huy hết công suất của thiết bị, dễ gây tai nạn LĐ và nhất là giá thành sẽ cao hơn nếu chúng ta phải đặt hàng thiết kế và sản xuất các thiết bị phù hợp với thể trạng của người Việt Nam. Các chỉ số nói trên của NNL càng tiếp cận các tiêu chuẩn quy định thì thể lực của người LĐ càng được cải thiện. Trong những năm gần đây, thể lực của LĐ nước ta đã được cải thiện hơn, nhưng so với nhiều nước thì thể lực của NNL Việt Nam còn nhiều hạn chế cả về chỉ số nhân chủng học và sức bền bỉ, dẻo dai. Sự hạn chế về thể lực gây khó khăn cho người LĐ trong sử dụng và vận hành các máy móc, thiết bị hiện đại, nhất là các loại máy móc có kích cỡ lớn; làm việc trong môi trường không thuận lợi; cường độ LĐ cao, điều kiện LĐ khó khăn Do đó, cải thiện nòi giống, nâng cao thể lực cho người LĐ phải được coi là vấn đề hệ trọng của quốc gia. * Về trí lực của NNL. Quá trình CNH, HĐH gắn với phát triển KTTTh đòi hỏi NNL phải có trí lực cao. Yêu cầu này đặt ra đối với NNL ở tất cả các ngành, các lĩnh vực, không chỉ ở các ngành công nghệ cao, mà cả ở các ngành công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ. Trí lực về hình thức thể hiện ở trình độ học vấn, trình độ CMKT của người LĐ, song về bản chất lại bộc lộ ở khả năng vận dụng những tri thức vào hoạt động thực tiễn nhằm đạt hiệu quả cao. - Trình độ học vấn của NNL: Trình độ học vấn thể hiện ở số năm được GD - ĐT bình quân, mức độ hoàn thành các cấp học Thông thường trình độ học vấn của người LĐ càng cao thì trí lực của người LĐ càng tốt. Trong thời gian qua, với chủ trương coi giáo dục là quốc sách hàng đầu, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chính
  44. 36 sách nhằm nâng cao trình độ dân trí. Vì vậy, so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, trình độ học vấn của n gười dân Việt Nam được xếp vào hạng trên trung bình: có 94% dân số từ 15 tuổi trở lên biết chữ (2009), số năm đi học bình quân đạt mức 7,8 năm, về cơ bản đã phổ cập cấp giáo dục tiểu học và đang trong giai đoạn kết thúc phổ cập THCS [69]. Trong đó, trình độ học vấn của LLLĐ tương đối cao: năm 2008 đạt khoảng 96 % LLLĐ biết chữ, trong đó, 32,08 % tốt nghiệp THCS và 23,58% tốt nghiệp THPT [69]. Tuy nhiên, hiện nay tỷ lệ LĐ không biết chữ vẫn chiếm tới 4% và 40,36% LĐ mới tốt nghiệp tiểu học; LĐ ở khu vực nông thôn có trình độ học vấn thấp, nhất là ở các vùng miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, hải đảo. Sự yếu kém về trình độ học vấn thực sự trở thành rào cản đối với người LĐ trong việc tiếp nhận tri thức của nhân loại và hội nhập kinh tế quốc tế. - Trình độ CMKT của NNL: Trình độ CMKT là tiêu chí quan trọng nhất khi đánh giá chất lượng NNL. Trình độ CMKT được phản ánh ở: tỷ lệ LĐ qua đào tạo nói chung và qua đào tạo nghề theo các cấp trình độ nói riêng; chỉ số về năng lực cạnh tranh của LĐ Qua khảo sát, trình độ CMKT của LĐ Việt Nam được nâng cao rõ rệt: năm 2009, tỉ lệ LĐ qua đào tạo đạt khoảng 38% và qua đào tạo nghề khoảng 28%, năm 2010 tỷ lệ này tương ứng là 40% và 30% [69]. Kết quả điều tra tại 1500 doanh nghiệp (năm 2009) cho thấy: LĐ có trình độ ĐH trở lên là 6,22%; CĐ chuyên nghiệp và CĐ nghề là 6,54%; THCN và TC nghề là 5,78%; CNKT có bằng hoặc qua đào tạo nghề: 56,08%) [69]. Tuy nhiên, NNL có trình độ CMKT của nước ta chưa đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH gắn với phát triển KTTTh, biểu hiện: tỷ lệ LĐ q ua đào tạo còn thấp (chỉ bằng 1/3 các nước và các nền công nghiệp mới như Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore); thiếu hụt NNLCLC, nhất là các nhà quản lý và chuyên gia giỏi, công nhân lành nghề; cơ cấu đào tạo mất cân đối Chính trình độ CMKT thấp đã ảnh hưởng rất lớn đến năng suất LĐ, khả năng cạnh tranh của nền kinh tế, biểu hiện: năng lực cạnh tranh của nước ta giảm 5 bậc, xếp thứ 75/133 nước xếp hạng (năm 2009), năng suất LĐ thấp hơn nhiều so với các nước trong khu vực và trên thế giớ i (khoảng 30 triệu đồng/LĐ/ năm, năm 2008) [69]. Sự thiếu hụt nghiêm trọng NNL có CMKT là một thách thức lớn đối với nước ta trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển KTTTh và hội nhập kinh
  45. 37 tế thế giới. Do đó, trong thời gian tới, nước ta cần giải quyết một số vấn đề cấp bách: một là, đòi hỏi phải nâng cao trình độ dân trí của NNL. Điều này chỉ có thể có được khi chúng ta nâng cao mặt bằng giáo dục phổ thông của đại bộ phận dân cư. Đây là điều kiện có tính tiền đề để người LĐ tiếp thu, lĩnh hội những tri thức khoa học cơ bản nhằm áp dụng chúng vào hoạt động hàng ngày và là cơ sở để nâng cao trình độ ở những bậc cao hơn; hai là, đại bộ phận NNL, đặc biệt là LLLĐ đang tham gia hoạt động kinh tế, phải được đào tạo về CMKT từ THCN, C Đ, ĐH, sau ĐH và đào tạo nghề. Trong đó, cần chú ý đến đào tạo các loại LĐ: LĐ trí tuệ có trình độ quản lý, trình độ CMKT cao (nhà khoa học, chuyên gia đầu ngành, kỹ sư trong các ngành công nghệ cao, công nghệ mũi nhọn và một số ngành quan trọng khác); dựa vào NNL làm công tác GD - ĐT; đào tạo đội ngũ công nhân có tay nghề cao. Sự đòi hỏi trên là do tác động của cuộc cách mạng KH - CN, những tiến bộ khoa học kỹ thuật được áp dụng vào sản xuất cần có những người LĐ hiểu biết, có trình độ CMKT mới có thể vận hành được. Thực tế, các xí nghiệp ở Mỹ c ó đến 60% công nhân tri thức, mức tăng trưởng và LĐ có CMKT cao hàng năm là 2% và năm 1999 tại các nước thuộc tổ chức OECD trung bình dân số trong độ tuổi từ 25 - 65 có 60% học hết trung học, 13 % có trình độ ĐH [103;41]. - Các tố chất và phẩm chất tâm lý xã hội của NNL. CNH, HĐH gắn với sử dụng rộng rãi thành tựu KH - CN hiện đại và trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế nên tính cạnh tranh của sản phẩm và LĐ được nâng cao ở phạm vi toàn cầu . Do đó, ngoài việc nâng cao thể lực và trí lực, đòi hỏi NNL phải có các tố chất và phẩm chất tâm lý xã hội tiêu biểu sau: + Hình thành và phát huy khả năng sáng tạo của NNL. Ta biết rằng, sự thay thế của các nền văn minh bắt nguồn từ sự sáng tạo không ngừng của con người và chính sự sáng tạo của con người, nhất là trong lĩnh vực KH - CN đã mang lại những thay đổi kỳ diệu và đưa loài người bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên KTTTh. Vì vậy, trong nền KTTTh tố chất sáng tạo của NNL trở thành “linh hồn”, là động lực quan trọng nhất thúc đẩy sự phát triển của sức sản xuất, và sáng tạo trở thành một nghề đặc biệt. Khi phân tích hệ thống máy móc C.Mác
  46. 38 đã chỉ rõ “phát minh trở thành một nghề đặc biệt và đối với nghề đó thì việc vận dụng khoa học vào nền sản xuất trực tiếp tự nó trở thành một trong những yếu tố có tính chất quyết định và kích thích” [85;367]. Việt Nam đang thực hiện quá trình CNH, HĐH gắn với phát triển KTTTh thì việc hình thành và phát huy tố chất sáng tạo của NNL càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết bởi: Một là, trong bối cảnh TCH và sự phát triển của nền KTTTh, năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trên thị trường phụ thuộc rất nhiều vào các dòng sản phẩm mới. Theo GS. Đặng Hữu, nếu trong kinh tế công nghiệp, năng lực cạnh tranh và việc tạo ra giá trị mới chủ yếu dựa vào bổ sung, hoàn thiện cái đã có thì tron g nền KTTTh muốn nâng cao năng lực cạnh tranh phải dựa trên việc sáng tạo cái mới. Bởi với sự tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng KH - CN, những cái đã biết (cái đã có) sẽ mất dần giá trị, cái chưa biết (cái mới) là cái mang lại giá trị cao nhất. Sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp, các quốc gia chủ yếu dựa vào việc sáng tạo ra cái mới, cái chưa biết chứ không phải bổ sung và hoàn thiện những cái cũ, cái đã có. Như vậy, cái quyết định năng lực cạnh tranh của các quốc gia, doanh nghiệp chính là sự sáng tạo ra những sản phẩm mới, chứ không phải cải tiến những cái đã có. Sự thay đổi này tạo ra cơ hội và thách thức đối với người LĐ. Những người có trình độ, có khả năng sáng tạo cao sẽ có nhiều cơ hội tìm kiếm những chỗ làm việc phù hợp và có thu nhập cao. Ngược lại, những người không có trình độ CMKT, không có khả năng sáng tạo và thường xuyên rèn luyện khả năng này sẽ khó có cơ hội tì m kiếm việc làm và nâng cao thu nhập. Hai là, trong điều kiện mà nguồn tài nguyên thiên nhiên ngày càng cạn kiệt, môi trường sống ngày càng biến đổi rõ rệt thì chính khả năng sáng tạo của con người sẽ tạo ra những sản phẩm có giá trị thay thế cao và chế ngự được tự nhiên. Điều này chúng ta có thể nhận thấy ở Nhật Bản - quốc gia rất nghèo tài nguyên thiên nhiên và thường xuyên gánh chịu thảm hoạ của thiên nhiên, nhưng lại sở hữu NNL có tri thức và khả năng sáng tạo cao, vì vậy Nhật Bản nhanh chóng trở thành một trong những cường quốc về phát triển kinh tế. Như vậy, ngày nay sáng tạo trở thành tiêu chí tồn tại của nhân loại, tạo nên sức mạnh của các quốc gia và là tố chất
  47. 39 cần thiết của mỗi cá nhân. Theo GS. Đặng Hữu, con người không có khả năng sáng tạo thì sẽ không có chỗ đứng trong nền KTTTh. Tuy nhiên, khả năng sáng tạo của NNL đến đâu còn phụ thuộc vào nhiều nhân tố: trình độ phát triển hiện tại, môi trường KT - XH, điều kiện cơ sở vật chất, tiềm lực về tài chính, sự đam mê công việc, ý thức trách nhiệm của cá nhân đối với cộng đồng và xã hội Vì thế, muốn phát huy khả năng sáng tạo của NNL, các quốc gia, nhà hoạch định chính sách và bản thân người LĐ cần quan tâm đến việc tạo điều kiện để hoàn thiện các nhân tố trên. + Hình thành và phát huy khả năng thích ứng, linh hoạt của NNL. Nếu khả năng sáng tạo của NNL giúp cho các quốc gia đạt đến đỉnh cao của sự phát triển, thì khả năng thích ứng với những thay đổi giúp cho các quốc gia bắt nhịp được với xu hướng TCH và hội nhập quốc tế hiện nay. Khả năng này của người LĐ thể hiện ở kỹ năng đón nhận sự tác động của cách mạng KH - CN; kỹ năng nắm bắt nhanh nhạy thông tin thị trường; kỹ năng trong đàm phán, thoả thuận; khả năng chấp nhận và sẵn sàng di chuyển, thay đổi việc làm trên thị trường LĐ; khả năng ứng phó với những rủi ro, thất bại trên thị trường Khi có những kỹ năng trên, người LĐ sẽ biết cách tự điều chỉnh, biết thích nghi nhanh chóng trước sự thay đổi, hướng tới việc làm chủ vốn tri thức của nhân loại. Có thể nói, khả năng thích ứng của NNL trở thành tố chất quan trọng quyết định sự tồn tại, phát triển của mỗi cá nhân trong xã hội, các tổ chức và mỗi một quốc gia. Trong thời đại ngày nay những người nào biết chấp nhận sự thay đổi, có khả năng thích nghi và linh hoạt trong việc tiếp nhận, hấp thu tri thức thì mới trở thành chủ nhân thực sự của nền kinh tế này. NNL cho CNH, HĐH gắn với phát triển KTTTh ở nước ta phải là lực lượng tiêu biểu cho khả năng thích ứng đó. Tuy nhiên, để hình thành và phát huy khả năng thích ứng của NNL thì NNL phải được đào tạo và trang bị những kiến thức cơ bản ngay trong nhà trường, thường xuyên tổ chức các khoá đào tạo ngắn hạn và dài hạn ở các doanh nghiệp, các ngành cho người LĐ nhằm nâng cao khả năng dự báo sự thay đổi, nắm bắt, quản lý, sẵn sàng đối phó với những thay đổi và có giải pháp thích ứng phù hợp với sự thay đổi của nền kinh tế.
  48. 40 + Hình thành ý thức ham muốn học hỏi một cách tự giác. Tính tự giác ham học hỏi của NNL là yêu cầu cần thiết phải có của NNL trong thời đại KTTT h. Trong nền KTTTh, nguồn vốn tri thức trở thành nguồn vốn quan trọng nhất cho quá trình sản xuất chứ không phải ở số lượng LĐ và tài nguyên thiên nhiên. Vị thế của NNLCLC ngày càng được xã hội coi trọng và trở nên “đắt đỏ” trên thị trường sức LĐ. Xã hội phát triển không ngừng, chính vì vậy mà những đòi hỏi trong công việc sẽ ngày càng cao và đa dạng. Nếu như người LĐ không trang bị cho mình những kiến thức phù hợp với thời đại thì sẽ không tránh khỏi việc bị đào thải. Do đó, muốn có chỗ đứng trong xã hội, đòi hỏi người LĐ phải luôn nâng cao tinh thần tự giác học hỏi, học ở mọi nơi, mọi lúc nhằm tích luỹ và làm giàu nguồn vốn tri thức của mình . Nếu tự hài lòng với tri thức đã có thì không chỉ tự đào thải mình ra khỏi sự tiến hoá chung mà còn gây cản trở đến sự phát triển của quốc gia, dân tộc. Việt Nam vốn là dân tộc có truyền thống hiếu học, đây là lợi thế nếu chúng ta biết xây dựng và phát huy tố chất này. + Rèn luyện tác phong công nghiệp. Tác phong công nghiệp thể hiện trước hết ở việc tuân thủ và quý trọng thời gian. Ở các nước phát triển, việc tuân thủ giờ giấc làm việc, đúng hẹn là một trong những nguyên tắc cơ bản, luôn là yếu tố đầu tiên để đánh giá, tuyển chọn LĐ. Còn ở Việt Nam, người LĐ chưa ý thức được tầm quan trọng của việc xây dựng tác phong công nghiệp, vẫn có thói quen sử dụng “giờ cao su”, chậm chạp, lề mề trong công việc. Điều này đã tạo nên một hệ quả đáng lo ngại đó là “sức ỳ” trong khả năng sáng tạo và phát triển bản thân. Bên cạnh đó, tác phong công nghiệp được biểu hiện qua lề lối làm việc khoa học, bài bản, làm việc theo quy trình, chỗ làm việc của người LĐ chuyên nghiệp cũng thường gọn gàng, trật tự, ngăn nắp, sạch sẽ. Trong môi trường làm việc năng động, hiện đại, tác phong công nghiệp là một trong những tiêu chí hàng đầu quyết định sự thành công của một cơ quan, doanh nghiệp hay thăng tiến của các cá nhân. Rèn luyện tác phong công nghiệp cho người LĐ không chỉ mang lại lợi ích cho các cơ quan doanh nghiệp, mà còn có ý nghĩa quan trọng đối với chính người LĐ. Để người LĐ rèn luyện tác phong công nghiệp, tính chuyên nghiệp và ý thức kỷ luật cao, các cơ quan ngoài
  49. 41 việc tuyên truyền chủ trương của Đảng và pháp luật của Nhà nước, cần xây dựng một bộ qui tắc ứng xử nêu rõ những thông tin cần thiết về yêu cầu công việc, thời giờ làm việc, mức lương và hình thức xử lý, xử phạt Có như vậy việc rèn luyện tác phong công nghiệp cho người LĐ mới thực sự có hiệu quả. + Trau dồi đạo đức nghề nghiệp. Đạo đức nghề nghiệp là một hệ thống những chuẩn mực giá trị đạo đức xã hội phù hợp với đặc điểm của mỗi loại nghề nghiệp, phản ánh một phần nhân cách của người LĐ. Trong xã hội có bao nhiêu nghề nghiệp thì có bấy nhiêu loại đạo đức nghề nghiệp. Tuy nhiên, có những chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp chung cho tất cả các ngành nghề đòi hỏi người LĐ phải tuân theo đó là: lòng yêu nghề, say mê, tâm huyết, có trách nhiệm với công việc, trung thực, tiết kiệm, cần cù, chăm chỉ, chịu khó Và cao hơn nữa, đạo đức nghề nghiệp còn thể hiện ở việc bản thân người LĐ mong muốn được cống hiến tài năng, trí tuệ, công sức của mình vào sự phát triển KT - XH của đất nước. Cho nên, người LĐ phải luôn luôn biết trau dồi những đức tính trên, bởi nó là động lực để phát triển nhân cách, phát triển năng lực nghề nghiệp của người LĐ, góp phần làm tăng năng suất LĐ và hiệu quả công việc. Có thể nói, ở mỗi trình độ, mỗi thời kỳ phát triển của xã hội, của nền kinh tế đều đòi hỏi những tố chất, phẩm chất cá nhân của người LĐ phù hợp với yêu cầu của thời kỳ đó. Để thực hiện quá trình CNH, HĐH gắn với phát triển KTTTh và để LĐ Việt Nam cạnh tranh được với LĐ của các nước, đòi hỏi người LĐ Việt Nam cần phải: một mặt, phát huy những tố chất tích cực (cần cù, chăm chỉ, chịu khó, ham học hỏi ) và loại bỏ những yếu kém về tác phong lề mề, ý thức kỷ luật kém, tự do, tuỳ tiện vốn có của người LĐ Việt Nam; mặt khác, cần giáo dục về ý thức trách nhiệm đối với công việc, trau dồi đạo đức nghề nghiệp, rèn luyện tính sáng tạo, khả năng thích ứng cho người LĐ. 2.2. TÍNH QUY LUẬT TRONG DỊCH CHUYỂN CƠ CẤU NGUỒN NHÂN LỰC THEO HƯỚNG CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ GẮN VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC Ta biết rằng, bất kỳ một tiến trình CNH nào cũng đều phải thực hiện hai nội dung cơ bản: phát triển LLSX, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho nền kinh tế và dịch chuyển cơ cấu kinh tế. Dưới giác độ NNL , quá trình CNH, HĐH là dịch
  50. 42 chuyển cơ cấu LĐ, làm cho cơ cấu NNL phù hợp với cơ cấu kinh tế (từ đây trọng luận án gọi tắt là dịch chuyển cơ cấu NNL) . Tuy nhiên, trong CNH, HĐH gắn với phát triển KTTTh thì sự vận động của cơ cấu LĐ luôn phải tuân theo xu hướng có tính quy luật là tốc độ dịch chuyển của cơ cấu LĐ luôn có tốc độ tương thích với tốc độ dịch chuyển cơ cấu kinh tế và theo hướng tri thức hoá tập trung vào các ngành kinh tế mũi nhọn và tận dụng được tối đa lợi thế tiềm năng về NNL sẵn có của đất nước. Đối với một quốc gia đang phát triển, bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN đi lên xây dựng nền KTTT định hướng XHCN như nước ta, NNLCLC có tỷ trọng thấp thì việc dịch chuyển cơ cấu NNL này đòi hỏi phải được chuẩn bị trước một bước , tạo điều kiện cho cơ cấu kinh tế dịch chuyển khi tiếp thu kỹ thuật và công nghệ cao từ các nước tiên tiến q ua FDI. 2.2.1. Các yếu tố tác động đến xu hướng dịch chuyển cơ cấu nguồn nhân lực theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức Xu hướng dịch chuyển cơ cấu NNL trong CNH, HĐH gắn với phát triển KTTTh chịu sự tác động của nhiều yếu tố, đặc biệt là các yếu tố mang tính đặc trưng của quốc tế hoá sản xuất, đó là sự phát triển bùng nổ của cuộc cách mạng KH - CN, sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế quốc tế, sự phát triển của KTTT và quá trình TCH kinh tế. Thứ nhất, sự tác động của cuộc cách mạng KH - CN và TCH kinh tế làm xuất hiện các ngành sản xuất m ới đòi hỏi phải dịch chuyển cơ cấu NNL . Bước vào thế kỷ XXI, cuộc cách mạng KH - CN tiếp tục có những bước phát triển vượt bậc, làm cho LLSX phát triển có tính nhảy vọt, phân công LĐ quốc tế sâu rộng hơn, nền kinh tế thế giới được dẫn dắt bởi các tiến bộ về công nghệ, kỹ thuật, đặc biệt đưa xã hội loài người chuyển từ nền kinh tế công nghiệp sang nền kinh tế dựa vào tri thức. Sự tác động của cuộc cách mạng KH - CN đã làm cho nhiều ngành sản xuất truyền thống suy giảm và làm xuất hiện nhiều ngành sản xuất mới. Từ đó, đó cơ cấu kinh tế và tỷ trọng của các ngành kinh tế cũng có sự thay đổi: tỷ trọng ngành nông nghiệp giảm xuống, tỷ trọng ngành công nghiệp, dịch vụ tăng lên. Chính sự xuất hiện của các ngành sản xuất mới làm cho cơ cấu NNL có sự thay đổi theo hướng: tỷ trọng LĐ
  51. 43 trong ngành nông nghiệp giảm, tỷ trọng LĐ trong ngành công nghiệp, dịch vụ, đặc biệt là các ngành sản xuất và dịch vụ chủ yếu dựa vào tri thức và công nghệ cao, dựa vào việc xử lý thông tin và sáng tạo ra thông tin tăng lên nhanh chóng. Việt Nam đang trong quá trình thực hiện CNH, HĐH gắn với phát triển KTTTh, việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển một số ngành mũi nhọn, hình thành các vùng kinh tế trọng điểm, phát triển các KCN, khu chế xuất là cần thiết nên càng đặt ra yêu cầu phải dịch chuyển cơ cấu LĐ, từ đó làm cho cơ cấu NNL dịch chuyển theo. Thứ hai, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH tác động đến sự dịch chuyển cơ cấu NNL theo hai hướng: 1) Hướng thứ nhất là, chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành. Các nền kinh tế đang phát triển, tro ng đó có Việt Nam bước vào CNH muộn và được đặc trưng với nền kinh tế hai khu vực: khu vực truyền thống - nông nghiệp và các dịch vụ ở trình độ thấp; khu vực hiện đại - công nghiệp và dịch vụ dựa trên kỹ thuật - công nghệ tiên tiến. Sự tác động của cuộc cá ch mạng KH - CN làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành, những ngành truyền thống không còn có lợi thế cạnh tranh sẽ dần dần mất đi và nhường chỗ cho các ngành nghề mới xuất hiện, do đó cơ cấu NNL cũng được dịch chuyển theo. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI xác định để đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020, cần xây dựng cơ cấu kinh tế công nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ hiện đại: tỷ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ chiếm 85% trong GDP, giá trị sản phẩm công nghệ cao đạt khoảng 45% trong tổng GDP, tỷ lệ LĐ trong nông nghiệp giảm xuống 30 - 35% trong tổng LĐ xã hội . Để thích ứng với sự thay đổi này, trước hết cần phải tổ chức đào tạo lại LLLĐ trong các ngành nghề cũ cả về trình độ CMKT và kỹ năng cho phù hợ p với đòi hỏi của các ngành nghề mới. Bên cạnh đó, cần dự báo nhu cầu LĐ của các ngành nghề mới để có kế hoạch đào tạo NNL có thể tham gia ngay vào hoạt động SX - KD. 2) Hướng thứ hai là, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo vùng, dẫn đến cơ cấu lại LLLĐ theo v ùng và đặt ra yêu cầu mới trong đào tạo NNL, đặc biệt là đào tạo LĐ có trình độ CMKT tại chỗ nhằm hạn chế tình trạng di chuyển LĐ có trình độ CMKT giữa các vùng. Do đó, đào tạo NNL cần phải chú trọng nâng cao chất lượng đào tạo LĐ có trình độ