Luận án Nghiên cứu một số bài tập phát triển thể lực chuyên môn cho nữ vận động viên đội tuyển bóng rổ Thành phố Hồ Chí Minh

doc 157 trang Bích Hải 08/04/2025 250
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận án Nghiên cứu một số bài tập phát triển thể lực chuyên môn cho nữ vận động viên đội tuyển bóng rổ Thành phố Hồ Chí Minh", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docluan_an_nghien_cuu_mot_so_bai_tap_phat_trien_the_luc_chuyen.doc
  • pdf545 QĐ Thành lâp HĐ đánh giá LATS cấp Trường Lê Minh Chí.pdf
  • pdfLA. LÊ MINH CHÍ 11-07.pdf
  • pdfTomtatluananCHI 25.6.pdf
  • pdfTRANG THÔNG TIN VỀ NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN (Tiếng Anh).pdf
  • pdfTRANG THÔNG TIN VỀ NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN (Tiếng Việt).pdf

Nội dung text: Luận án Nghiên cứu một số bài tập phát triển thể lực chuyên môn cho nữ vận động viên đội tuyển bóng rổ Thành phố Hồ Chí Minh

  1. 1 PHẦN MỞ ĐẦU Lý do chọn đề tài Phát triển thể dục, thể thao là yếu tố quan trọng trong chính sách phát triển kinh tế - xã hội của đất nước nhằm bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người, tăng cường thể lực, tầm vóc, tăng tuổi thọ người Việt Nam và lành mạnh hóa lối sống của thanh thiếu niên. Mục tiêu tổng quát chiến lược phát triển thể thao Việt Nam đến năm 2020 nhằm xây dựng và phát triển nền Thể dục Thể thao nước nhà để nâng cao sức khỏe nhân dân, góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và tăng tuổi thọ của người Việt Nam theo tinh thần vì sự nghiệp dân cường, nước thịnh, hội nhập và phát triển [33]. Trên thế giới, Bóng rổ là một trong những môn thể thao hấp dẫn có đông đảo người tham gia tập luyện và xem thi đấu. Bóng rổ là môn thể thao được công nhận thi đấu tại Thế vận hội Olympic rất sớm (1936). Bóng rổ cũng là môn thể thao được thi đấu chính thức trong các kỳ Đại hội thể thao Châu Á, Đông Nam Á (Sea Games). Ở Việt Nam có hệ thống thi đấu đa cấp (Hội khỏe Phù Đổng, Vô địch Học sinh toàn quốc, Vô địch SV toàn quốc, giải Trẻ toàn quốc, giải Cúp liên đoàn bóng rổ Việt Nam, giải Vô địch toàn quốc) nhưng trình độ bóng rổ đỉnh cao Việt Nam đến nay còn hạn chế. Thành tích 2 đội tuyển quốc gia nam và nữ luôn xếp ở vị trí khiêm tốn trong khu vực. Với một phong trào rộng lớn và bề dày thành tích trong các giải đấu đỉnh cao, TP. Hồ Chí Minh đã trở thành “Trung tâm Bóng rổ Việt Nam” đây là nơi có số người tập luyện bộ môn bóng rổ nhiều nhất trong cả nước (16.692 người). Tổng số các quận, huyện có phong trào bóng rổ lên 19/24. Câu lạc bộ trường học hiện nay có 132 Câu lạc bộ trường học trên toàn thành phố. Các đơn vị xây dựng phong trào tập luyện thi đấu cho thanh thiếu niên học sinh khá tốt. Xây dựng thành công được hệ thống CLB Trường học và giải Festival truyền thống hàng năm ngày càng thu hút các CLB đến tham dự [23].
  2. 2 Cầu thủ bóng rổ cấp cao ngày nay phải có kỹ chiến thuật toàn diện tâm lý vững vàng và đặc biệt phải có trình độ thể lực sung mãn. Thật vậy bóng rổ là môn thể thao tập thể và đối kháng trực tiếp cùng sân. Hoạt động bóng rổ đa dạng với nhiều động tác như đi, chạy, nhảy, dừng, quay người, bắt, ném và dẫn bóng được thực hiện trong điều kiện thi đấu đối kháng. Tính đa dạng đó của các động tác giúp củng cố hệ thần kinh, cơ quan vận động, thúc đẩy nhanh sự trao đổi chất và tăng cường khả năng hoạt động của tất cả hệ thống trong cơ thể. Tập luyện bóng rổ có tác dụng thúc đẩy sự phát triển toàn diện các tố chất vận động cho người tập như: sức mạnh, sức nhanh, sức bền, mềm dẻo, khéo léo và khả năng phối hợp vận động. Mặt khác, do tác động của một số điều luật qui định về thời gian khống chế bóng nên ngoại trừ các tình huống phản công nhanh dẫn đến kết thúc rổ bất ngờ thì các đấu thủ trên sân thường có xu hướng tấn công qua nữa sân đối phương hoặc lui về phòng thủ tích cực ở nữa sân nhà. Nhìn chung, mọi hoạt động của 10 đấu thủ trên sân hầu như chỉ diễn ra trên cùng một nữa sân mà quyết liệt nhất vẫn là từ khu vực lân cận rổ cho đến những khu vực cách vòng 3 điểm khoảng từ 1.00m đến 1.20m. Các hành động vận động liên tục nêu trên đòi hỏi người chơi phải có thể lực sung mãn, thuần thục kỹ năng, kỹ xảo động tác và có khả năng nhận xét, đánh giá nhạy bén mọi tình huống xảy ra để lựa chọn hành động đáp trả một cách nhanh chóng và hợp lý nhất. Trên sân đấu, mỗi cú nhảy, mỗi đường chuyền, và mỗi nỗ lực phòng ngự đều đòi hỏi một cơ thể mạnh mẽ và sẵn sàng đối mặt với áp lực liên tục. Thể lực không chỉ là yếu tố quyết định giữa chiến thắng và thất bại, mà còn là nền tảng cho sự phát triển cá nhân và đội bóng. Do đó thể lực đóng vai trò quan trọng và quyết định thành tích thi đấu của môn bóng rổ; có thể lực tốt VĐV sẽ thực hiện tốt các kỹ chiến thuật do huấn luyện viên đề ra hoàn thành tốt nhiệm vụ và đạt hiệu quả cao trong thi đấu. Đội tuyển bóng rổ Nữ TP. HCM có kỹ thuật tốt, chiến thuật đa dạng, thi đấu với tốc độ cao và các VĐV rất linh hoạt. Tuy nhiên hiện nay trong đội có một số VĐV chủ lực đã lớn tuổi các VĐV trẻ chưa thay thế kịp nên quan sát các
  3. 3 VĐV thi đấu các trận đấu căng thẳng thường xuống sức vào giai đoạn cuối trận. Do đó duy trì và nâng cao thể lực cho các VĐV là việc làm quan trọng và cần thiết. Thể lực chuyên môn là nhân tố cấp thiết nhất phải duy trì và nâng cao của các nữ VĐV đội tuyển bóng rổ TP. Hồ Chí Minh để cũng cố và nâng cao thành tích thi đấu trong nước và quốc tế. Để nâng cao thể lực chuyên môn cho các nữa VĐV theo lý luận phương pháp huấn luyện hiện đại có nhiều phương pháp huấn luyện trong đó bài tập thể lực là phương tiện vô cùng quan trọng không thể thiếu. Thật vậy, huấn luyện thể thao là hình thức cơ bản của đào tạo vận động viên có hệ thống, chủ yếu bằng các phương pháp bài tập. Thực chất đây cũng là một quá trình sư phạm được tổ chức chặt chẽ với mục đích là làm cho thành tích thể thao của vận động viên không ngừng vươn lên đỉnh cao [19, tr 157]. Việc nghiên cứu xây dựng một số bài tập phát triển thể lực chuyên môn ở một số môn thể thao đã được nhiều tác giả quan tâm và nghiên cứu. Tuy nhiên, đối với môn Bóng rổ nữ tính tới thời điểm này vẫn chưa có một công trình nào nghiên cứu xây dựng một số bài tập phát triển thể lực chuyên môn được công bố. Vì vậy, kết quả nghiên cứu xây dựng một số bài tập phát triển thể lực chuyên môn là hết sức cần thiết, làm cơ sở khoa học và thực hiện để giúp cho nhà quản lý và huấn luyện viên xác định được thành quả đào tạo, phát hiện những hạn chế cần khắc phục, từ đó đề ra các giải pháp, kế hoạch đào tạo hợp lý nhằm nhanh chóng giúp nữ bóng rổ TP. Hồ Chí Minh tự tin hơn trong thi đấu, nhất là thi đấu quốc tế. Do đó, tôi chọn đề tài: “Nghiên cứu một số bài tập phát triển thể lực chuyên môn cho nữ vận động viên đội tuyển bóng rổ thành phố Hồ Chí Minh”. Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu một số bài tập phát triển thể lực chuyên môn cho nữ vận động viên đội tuyển bóng rổ TP.HCM một cách khoa học, qua đó góp phần cải thiện thể lực và nâng cao thành tích thi đấu. Kết quả nghiên cứu sẽ làm tài liệu tham khảo cho các HLV, chuyên gia, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo vận động viên đội tuyển bóng rổ nữ TP.HCM nói riêng và Việt Nam nói chung.
  4. 4 Mục tiêu nghiên cứu Mục tiêu 1: Đánh giá thực trạng một số bài tập phát triển thể lực chuyên môn cho nữ vận động viên đội tuyển bóng rổ TP. Hồ Chí Minh. - Thực trạng một số bài tập phát triển thể lực cho nữ vận động viên đội tuyển bóng rổ thành phố Hồ Chí Minh. - Thực trạng thể lực chuyên môn của nữ vận động viên đội tuyển bóng rổ thành phố Hồ Chí Minh. Mục tiêu 2. Lựa chọn một số bài tập phát triển thể lực chuyên môn cho nữ vận động viên đội tuyển bóng rổ thành phố Hồ Chí Minh. - Định hướng lựa chọn bài tập phát triển thể lực chuyên môn cho nữ vận động viên đội tuyển bóng rổ TP. HCM. - Lựa chọn một số bài tập phát triển thể lực chuyên môn cho nữ vận động viên đội tuyển bóng rổ thành phố Hồ Chí Minh. Tổng hợp một số bài tập phát triển thể lực chuyên môn cho vận động viên bóng rổ từ các nguồn tài liệu, công trình nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nước. Phỏng vấn các huấn luyện viên, chuyên gia, các nhà chuyên môn lựa chọn bài tập. Mục tiêu 3. Đánh giá hiệu quả một số bài tập phát triển thể lực chuyên môn cho nữ vận động viên đội tuyển bóng rổ TP. Hồ Chí Minh. - Xây dựng chương trình thực nghiệm. - Đánh giá hiệu quả một số bài tập phát triển thể lực chuyên môn cho nữ VĐV đội tuyển bóng rổ TP. Hồ Chí Minh sau thực nghiệm. Giả thuyết khoa học Trong tập luyện và thi đấu môn bóng rổ, thể lực chuyên môn là một nhân tố vô cùng quan trọng và mang tính quyết định đến kết quả thi đấu. Với những bài tập phù hợp với trình độ, thời kỳ huấn luyện, đặc điểm tâm sinh lý, lứa tuổi của VĐV sẽ phát triển thể lực góp phần nâng cao hiệu quả thi đấu của các nữ VĐV đội tuyển bóng rổ TP. Hồ Chí Minh.
  5. 5 CHƯƠNG 1 - TỔNG QUAN 1.1. ĐẶC ĐIỂM VÀ XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN BÓNG RỔ 1.1.1. Đặc điểm chung Bóng rổ là môn thể thao tập thể mang tính đối kháng trực tiếp và cùng sân. Trận thi đấu được tổ chức giữa hai đội trên sân có kích thước 28 x 15m, mỗi đội có 5 cầu thủ thi đấu trên sân, không hạn chế số lần thay đổi cầu thủ ra vào sân [81]. Mục đích của thi đấu bóng rổ là hạn chế tối đa đối phương ném bóng vào rổ mình và cố gắng đưa bóng vào rổ đội bạn càng nhiều càng tốt FIBA (2001) [81], [132]. Trận thi đấu bóng rổ bao gồm 4 hiệp, mỗi hiệp 10 phút (không tính thời gian bóng chết). Thời gian nghỉ giữa hiệp 1 – 2 và giữa hiệp 3 – 4 là 2 phút, giữa hiệp 2 –3 là 15 phút. Mỗi đội được quyền hội ý hai lần (1 phút/lần) trong hiệp 1 – 2, 3 lần trong hiệp 3 – 4, và một lần trong từng hiệp phụ (mỗi hiệp phụ kéo dài 5 phút) FIBA (2001) [81], [52]. Hiệu quả của các họat động thi đấu gắn liền với các chỉ số phản xạ của cơ quan cảm thụ vận động. Hoạt động tổng hợp của các cơ quan phân tích là cơ sở của sự phát triển “cảm giác thời gian”, bởi vì cảm nhận thời gian gắn liền với cảm nhận về không gian. Trong thi đấu, VĐV muốn ném được bóng vào rổ cần vượt qua sự cản phá của đối phương và điều này chỉ có thể thực hiện được khi các vận động viên đã có được các động tác kỹ – chiến thuật ổn định, có thể di chuyển nhanh, bất ngờ thay đổi hướng và tốc độ di chuyển. Hoạt động của VĐV bóng rổ trong thi đấu không đơn thuần là tổng các động tác tấn công hay phòng thủ riêng biệt mà là tập hợp những hành động được hợp nhất vào một hệ thống linh hoạt duy nhất. Các hành động trong thi đấu được dựa vào sự ổn định và ứng dụng biến dạng các kỹ năng vận động vào mức độ phát triển các tố chất thể lực, tình trạng sức khỏe và trí tuệ của VĐV. Thời gian gần đây cường độ của trận đấu bóng rổ đã tăng lên đáng kể. Hoạt động thể lực tích cực trong thời gian thi đấu đòi hỏi sự tiêu hao năng lượng
  6. 6 rất lớn. Các hành động trong thi đấu được dựa vào sự ổn định và ứng dụng biến dạng các kỹ năng vận động vào mức độ phát triển các tố chất thể lực, tình trạng sức khỏe và trí tuệ của vận động viên. Bản chất của thi đấu sẽ không được xác định đầy đủ nếu không tính đến sự căng thẳng lớn của hệ thần kinh đối với các vận động viên và sự cần thiết phải nỗ lực ý chí và đạo đức để giành chiến thắng. Việc hiểu biết tất cả các mặt thể hiện đặc điểm hoạt động của các vận động viên bóng rổ sẽ giúp cho việc lập kế hoạch đối với quá trình tập luyện, học tập và thi đấu, đồng thời sẽ giúp cho việc xây dựng cơ sở hoặc mô hình tiêu biểu cho quá trình tập luyện và học tập đạt kết quả tốt hơn [21], [81]. 1.1.2. Đặc điểm thi đấu bóng rổ Theo các tác giả: Portnova (1997) [21, tr 302-322], Brittenham (1996) [64], Krause (1994) [102], Vương Thế An và cộng sự (1996) [1], Tôn Dân Trị (1996) [36] ở những năm cuối thế kỷ 20 bóng rổ đang được phát triển theo 4 xu thế: (1) Ngày càng cao hơn (nhằm chiếm lĩnh không gian); (2) ngày càng nhanh hơn (nhằm tăng cường ghi điểm từ tấn công nhanh và có khả năng khống chế toàn bộ các vị trí trọng yếu trên sân); (3) ngày càng chuẩn xác hơn (nhằm đạt mục đích thi đấu) và (4) tinh thông kỹ chiến thuật (kỹ thuật điêu luyện nhằm thích ứng với mọi chiến thuật; chiến thuật đa dạng, biến hoá nhằm tăng áp lực tâm lý, không cho đối phương kịp thích nghi nhằm dành thế chủ động trong thi đấu). Đến ngày nay bóng rổ đỉnh cao ngày càng nhanh, chuẩn xác và biến hóa hơn; tuy nhiên nó vẫn phát triển theo 04 xu thế tất yếu đó là xu thế tăng tốc, tăng độ chuẩn xác, tăng về chiều cao và lượng vận động cực hạn. Đặc điểm hoạt động thi đấu bóng rổ [46]: Hoạt động trong thi đấu bóng rổ rất đa dạng và thay đổi liên tục: Bóng rổ là môn thể thao tập thể và đối kháng trực tiếp cùng sân. Hoạt động bóng rổ đa dạng với nhiều động tác như đi, chạy, nhảy, dừng, quay người, bắt, ném và dẫn bóng được thực hiện trong điều kiện thi đấu đối kháng. Trong thi đấu bóng rổ, tiến trình tấn công và phòng thủ được chuyển đổi liên tục. Các VĐV khi thì lấy
  7. 7 bóng bật bảng, khi thì ném rổ, chuyền bóng, dẫn bóng, đột phá, kèm người Riêng về hoạt động di chuyển, nghiên cứu của Mclnnes (1995) [110] đầu tiên đã phân thành 8 loại (Chạy: tăng tốc, giảm tốc, chuyển hướng và dừng nhanh; trượt phòng thủ: tiến về trước, lùi và sang ngang; bật nhảy) và thống kê tỷ lệ thời gian thực hiện các hoạt động đó trong thi đấu bóng rổ đỉnh cao. Theo quan sát, di động bước trượt phòng thủ chiếm 34,6%; chạy chiếm 31,2% và bật nhảy chiếm 4.6%; ngược lại hoạt động đứng và đi bộ chiếm 29.6% thời gian thi đấu. Tần số thay đổi các hoạt động trong thi đấu bóng rổ là 997 ±183 (khoảng 2 giây thì có một thay đổi) [110]. Điều này cho thấy các hoạt động trong thi đấu bóng rổ rất đa dạng và biến hóa liên tục, VĐV phải hoạt động liên tục với cường độ cao xen kẽ cường độ thấp và trung bình trong suốt trận đấu. Cấu trúc chuyển động cơ thể VĐV thay đổi liên tục ngay trong một khoảng thời gian ngắn đã có nhiều chuyển đổi qua lại giữa các dạng hoạt động, chạy tốc độ – trượt phòng thủ nhanh– bật nhảy. Trong một trận đấu số lần bật nhảy được VĐV thực hiện thường xuyên trong mỗi phút nhiều hơn so với các môn thể thao đồng đội khác [49], [129]. Thi đấu bóng rổ là hoạt động không liên tục (giãn cách) với mật độ hoạt động cường độ cao rất lớn: Mặc dù trận đấu bóng rổ kéo dài tới 1:30 giờ nhưng được chia thành 4 hiệp, ngoài ra mỗi đội được 5 lần hội ý (1 phút/lần) và 22,25 11,8 lần dừng ngẫu nhiên khác do bóng ra biên, cầu thủ phạm lỗi, ném phạt, hội ý của trọng tài Thời gian một lần dừng ngẫu nhiên 25 – 40 giây (Taylor, 2003) [137]. Theo Taylor (2003) giá trị trung bình hoạt động nỗ lực cường độ cao trong một trận đấu là 134,5 32,4 lần, cường độ dưới tối đa là 150,3 40,6 lần, một đợt hoạt động cường độ cao kéo dài từ 1,5 tới 35 giây; mật độ giữa hoạt động cường độ cao và cường độ dưới tối đa là 1:1,12. Điều này có nghĩa là khoảng thời gian dài gần 1:30 giờ thi đấu bóng rổ (tính cả thời gian nghỉ và thời gian bóng chết) được chia thành nhiều đoạn ngắn hơn kế tiếp nhau giữa hoạt động cường độ cao và cường độ dưới tối đa hay tạm nghỉ [137]. Lượng vận động yêu cầu trong thi đấu bóng rổ
  8. 8 Khối lượng vận động trong thi đấu bóng rổ đỉnh cao rất lớn, các VĐV phải di chuyển tổng cộng 5000 – 7000m, phải thực hiện 130 – 140 lần bật nhảy, 120 – 150 lần chạy biến tốc và dừng nhanh [2, Tr.5]. Riêng về hoạt động di chuyển phòng thủ của VĐV nam bóng rổ trong thi đấu đã lên tới 1340 – 2430m (Baechle. T. R. và cộng sự, 2000) [56]. Tần số tim trung bình (TST) trong suốt thời gian bóng sống 169 9 lần/phút (chiếm 89 2% giá trị TST tối đa); Thời gian TST đáp ứng cao hơn 85% TST tối đa chiếm tới 75% thời gian thi đấu và 95 % TST tối đa chiếm 15 % thời gian đấu [9]. Qua đó cho thấy lượng vận động trong thi đấu bóng rổ rất lớn, nên các VĐV cần có khả năng chịu đựng và hệ thống tim mạch tốt. Theo McINNES (1995), cùng với sự ảnh hưởng của cường độ hoạt động cao, lượng vận động sinh lý rất lớn trong thi đấu bóng rổ còn phụ thuộc vào hoạt động kỹ năng (sử dụng phần thân trên cơ thể) như cướp bóng bật rổ, chuyền bóng, ném rổ, động tác tay phòng thủ và các va chạm vật lý khác như dựa, tỳ vào nhau để duy trì hoặc chiếm vị trí thuận lợi gần rổ hơn [110], [9]. Nguồn cung cấp năng lượng trong thi đấu bóng rổ: Hoạt động thi đấu bóng rổ rất đa dạng, mang tính chất không liên tục và diễn ra trong thời gian dài nên có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến nguồn cung cấp năng lượng (biểu đồ 1.1), dựa trên các tài liệu của Brittenham (1996) [64], Hoffman (2002) [96] và Wilkens (1997) [141], William (1997) [142]. Hệ cung cấp năng lượng ATP-CP: cung cấp cho các hoạt động mang tính chất bột phát cao như ném rổ, bật nhảy, xuất phát nhanh, chạy chuyển hướng quãng ngắn, đột phá, các đợt nỗ lực với cường độ cao trong thời gian ngắn và trong những giây đầu tiên của 1 đợt nỗ lực với cường độ cao (B) [17]. Hệ cung cấp năng lượng oxy hoá: cung cấp chính trong thời gian nghỉ (A) như khi hội ý (1 phút), nghỉ giữa hiệp 1-2 và 3-4 (2 phút), nghỉ giữa hiệp 3-4 (15 phút) và những lần nghỉ ngẫu nhiên khác như bóng ra biên, có cầu thủ phạm lỗi hay được thay thế [17]. Hệ cung cấp năng lượng đường phân yếm khí: Các đợt hoạt động
  9. 9 cường độ cao với thời gian tương đối dài (10 – 180 giây) (C) thì hệ thống cung cấp năng lượng đường phân yếm khí đóng vai trò chính [17]. Hệ cung cấp năng lượng ưa và yếm khí (kết hợp): Chủ động: Khi nhịp độ trận đấu không cao (D), cường độ từng đợt nỗ lực hoạt động chỉ đạt khoảng 85% khả năng tối đa; hoặc khi năng lực thể chất cả hai đội đều yếu như nhau thì họ đều chủ động giảm nhịp độ trận đấu (D’) [8], [10]. Bị động: Khi một trong hai đội có thể lực tốt hơn chủ động tăng nhịp độ trận đấu và tới một thời điểm nào đó, khả năng cung cấp năng lượng yếm khí lactic của đội yếu hơn không đáp ứng nổi, hệ năng lượng oxy hoá sẽ cùng tham gia đóng góp để duy trì hoạt động cơ bắp (D’’) [11], [18]. Qua phân tích trên cho thấy, các hệ thống cung cấp năng lượng đều đóng vai trò quan trọng trong thi đấu bóng rổ. Tuy nhiên hệ cung cấp năng lượng ưa khí chỉ cung cấp năng lượng chính trong các quãng nghỉ (giai đoạn hồi phục ngắn) và các hoạt động với cường độ thấp; ngược lại hệ thống cung cấp năng lượng chính trong từng khoảng thời gian hoạt động thi đấu với cường độ cao phụ thuộc vào năng lực yếm khí lactic của mỗi vận động viên, nên VĐV nào khả năng yếm khí tốt thì hệ đường phân yếm khí sẽ đóng góp năng lượng chính trong thời gian dài hơn; VĐV nào năng lực yếm khí lactic kém thì hệ thống cung
  10. 10 cấp năng lượng oxy hoá sẽ sớm đóng vai trò chính để đảm bảo năng lượng cho hoạt động của cơ bắp. Theo tổng kết của Nguyễn Ngọc Cừ, Dương Nghiệp Chí (2000) [9], Baechle (2000) [56], Hoffman (2002) [96] qua trên cho thấy hoạt động thi đấu bóng rổ yêu cầu 85% năng lượng từ nguồn phosphagel và gycolysis, 15% từ hệ Glycolysis - Oxy hoá. Do đó, để đảm bảo công suất và hiệu quả làm việc trong từng đợt nỗ lực hoạt động thi đấu (từ đợt nỗ lực đầu tiên tới đợt nỗ lực cuối cùng) thì VĐV phải cải thiện năng lực yếm khí (C) để duy trì cường độ hoạt động cao đồng thời phải nâng cao khả năng ưa khí (A) để tăng tốc độ hồi phục giúp cơ thể sung sức trước từng đợt nỗ lực mới. 1.1.3. Xu hướng phát triển bóng rổ [57], [115], [105] [136], [85], [70]. Trải qua hơn 150 năm phát triển, bóng rổ ngày nay được phát triển về mọi mặt thể lực, kỹ chiến thuật, tâm lý trên cơ sở khoa học chặt chẽ của công tác nghiên cứu, huấn luyện và đào tạo vận động viên. Nó phát triển theo xu thế tốc độ ngày càng nhanh, đua tranh chiếm ưu thế tranh chấp trên không và kỹ thuật ngày càng toàn diện, khéo léo. Người ta ngày càng nhận thức rõ hơn giá trị và đặc điểm của môn bóng rổ. Thực chất, đó là một môn thể thao thi đấu theo những quy tắc chuyên môn chặt chẽ, thông qua cách thức chủ động tranh đoạt quyền không chế bóng để ném được vào rổ đối phương (cũng như hạn chế đối phương ném bóng vào rổ bên mình), giành được càng nhiều điểm càng tốt để cuối cùng chiến thắng. Có thể nói, bóng rổ hiện đại đã bước lên một đỉnh cao mới. Trên cơ sở khoa học chặt chẽ của công tác tuyển chọn và đào tạo VĐV, trình độ về mọi mặt thể lực, tâm lý, kỹ chiến thuật đã được nâng lên rõ rệt. Nó phát triển theo xu thế tốc độ càng nhanh, đua tranh chiếm ưu thế khống chế về độ cao và kỹ thuật cao siêu càng gay gắt. Nói cách khác, bóng rổ đỉnh cao ngày càng nhanh, chuẩn và biến hóa hơn. Nó thể hiện nổi bật cái đẹp và sự hấp dẫn trong những cuộc thi đấu quyết liệt. Dưới đây là một số xu thế phát triển: ❖ Xu thế đầu tiên là tăng tốc. Nhiều cuộc thi đấu bóng rổ đỉnh cao thế giới, nhất là đối với những đội nhà nghề ở phương Tây, đã có tỷ số gần tới hoặc
  11. 11 trên cả giới hạn 100 điểm. Sự chuyển đổi từ công sang thủ và ngược lại rất nhanh. Hơn nữa, tấn công nhanh (TCN) đã trở thành một trong những biện pháp chiến thuật tấn công quan trọng và giành được nhiều điểm nhất. Trong giải vô địch bóng rổ lần thứ 9, đội Croatchia (Nam tư cũ) tấn công nhanh đạt 40.9% tổng số điểm; Tây ban nha - đạt 33.6%; Nga (Liên xô cũ) - 27%. Đến đại hội Olympic lần thứ 25 và giải vô địch bóng rổ lần thứ 12 thì số lần tấn công nhanh càng nhiều, mà trong đó phần lớn các đội thường kiếm được trên 30% tổng số điểm của mình nhờ tấn công nhanh. Tuy vậy, hình thức phát động tấn công nhanh hiện nay trên thế giới rất đa dạng. Ngoài các cách phát động tấn công nhanh bắt đầu từ cướp bóng bật bảng (dưới rổ), cắt được đường chuyền bóng của đối phương và phát bóng biên ra, các đội hết sức tranh thủ lợi dụng mọi thời cơ có thể (dù là nhỏ) để phát động tấn công nhanh. Muốn thế VĐV phải di động, thực hiện các kỹ-chiến thuật trong tốc độ càng cao, không gian càng hẹp với nhịp độ đột biến. Theo số liệu thống kê, bình quân mỗi trận đấu trong giải vô địch bóng rổ của Olympic lần thứ 25 Barcelona năm 1992 là 85,2 điểm, Olympic lần thứ 29 Bắc Kinh 2008 là 91,7 điểm. Trong 68 trận của giải có 29 trận vượt quá 100 điểm Tại Olympic tại LonDon năm 2012 đội tuyển bóng rổ nam của Mỹ lập kỷ lục số điểm ghi được trong một trận thi đấu bóng rổ tại Olympic khi thắng đội tuyển Nigeria với số điểm 156 – 73, tại vòng tứ kết Mỹ thắng Australia 119 – 86, vòng bán kết Mỹ thắng Argentina 109 – 83 và tại trận chung kết với Tây Ban Nha đội tuyển Mỹ thắng với số điểm 107 – 100 [149]. Tình hình cũng tương tự với nữ giới. Trung bình mỗi trong 6 đội nữ trên từng trận đấu ở Olympic lần thứ 23 năm 1984 được 63,6 điểm. Đến Olympic lần thứ 25 năm 1992 có 8 đội nữ thì bình quân từng trận là 75,8 điểm. Tại Olympic tại Rio năm 2016 trong trận chung kết bóng rổ nữ đội tuyển Mỹ thắng đội tuyển Tây Ban Nha với số điểm 101 -72 [149]. Tuy thời gian thi đấu có hạn nhưng điểm của các đội nam và nữ đều tăng lên. Như thế có nghĩa phải đánh nhanh và chính xác hơn.
  12. 12 ❖ Thứ hai là xu thế càng cao hơn. Có nghĩa chiều cao trung bình của các VĐV bóng rổ càng tăng. Nhìn lại chiều cao trung bình của 2 đội mạnh nhất thế giới Mỹ, Nga sẽ thấy rõ. Chiều cao trung bình của các đội tham dự Olypmpic 1992 Barcelona là lm96; Trong đó đội tuyển Tây Ban Nha có chiều cao trung bình là 199.2cm và đội tuyển Serbian là 199.5 ± 7.4cm. Ở Barcelona Cá biệt có những vận động viên có chiều cao vuợt trội như Patrick Femerling (Đức) 2ml4, Pau Gasol (TBN) 2ml5. Tại Olypmpic Bắc Kinh 2008 chiều cao Trung bình của các VĐV bóng rổ là 200cm. Nghiên cứu chiều cao trung bình của 16 đội tuyển vô vòng 16 giải vô địch bóng rổ thế giới năm 2019 cho thấy chiều cao của các VĐV tương đương với chiều cao của các VĐV đội tuyển bóng rổ nhà nghề Mỹ (NBA) là 200,6cm [145]. Brady, Benedict (2017) và Curcic, Dimitrije (2021) [151], [152] thống kê chiều cao của 4.504 VĐV bóng rổ trong 69 mùa giải NBA cho thấy chiều cao trung bình của các VĐV không thấp hơn 198.8cm (6.63 feet) trong 39 mùa giải gần đây. Năm 2021 có khoảng 28% VĐV có chiều cao trên 210cm (6.9 feet) [136]. Ở Việt Nam chiều cao trung bình của đội tuyển bóng rổ Việt Nam tham dự Seagames 31 năm 2021 tại Việt Nam là 188cm, trong đó VĐV Nguyễn Huỳnh Phú Vinh cao nhất 203cm và 03 VĐV Dư Minh An, Triệu Hán Minh và Corey Cilia thấp nhất 178cm [150]. Tuy VĐV bóng rổ nam nữ ngày càng cao rõ rệt, nhưng lại không chậm chạp. Kỹ thuật của họ rất toàn diện và độc đáo, cơ thể cân đối (đặc biệt giữa chiều cao và thể trọng). Mặt khác, sự tăng độ cao còn thể hiện ở sức bật. Do đó đã mở rộng ưu thế khống chế về không gian, nói riêng là độ cao. Nhờ vậy, các kỹ thuật úp rổ, hất bóng vào rổ (bù rổ), chắn bóng ném vào rổ và cướp bóng dưới rổ càng phát triển mạnh. Đáng lưu ý, sự tranh đoạt bóng dưới rổ càng quyết liệt và hấp dẫn thường có khoảng 5-6 VĐV của hai đội đồng thời chiếm chỗ và bật nhảy tranh bóng. Có lúc thân thể va chạm nhau, làm mất trọng tâm. Có VĐV có thể vươn tay cao hơn vành rổ đến 50-60cm để cướp bóng. Còn một số VĐV tương đối thấp hơn lại có các kỹ thuật ném rổ đa dạng và tuyệt hảo. Vì sự tranh
  13. 13 chấp độ cao là vấn đề sống còn của thi đấu bóng rổ nên nhiều HLV hiện nay quan tâm rất nhiều đến việc “săn lùng” người cao cùng huấn luyện kỹ thuật bật nhảy và giành khoảng không trong tranh chấp bóng bổng. ❖ Thứ ba là xu thế ngày càng chuẩn xác. Điều này chủ yếu được thể hiện ở kỹ thuật và hiệu quả ném rổ. Trong thi đấu bóng rổ quả ném rổ là cách ghi bàn chính và là một kỹ thuật quan trọng nhất. Ngày nay tỷ lệ ném rổ thành công không ngừng gia tăng và đây cũng là yếu tố quyết định chiến thắng. Đội mạnh nào trên thế giới cũng có những VĐV “thần xạ thủ” [77], [94]. Có một số VĐV thường đạt mức ném rổ chuẩn xác hơn 70% trong từng trận. Một VĐV Mỹ trong giải vô địch bóng rổ thế giới lần thứ 12 đạt đến 71.3%. VĐV Tôn Quân của Trung Quốc ném phạt được đến 93.8% . Tại Olympic Bắc Kinh 2008, vận động viên Dwayne Wade (Mỹ) đạt 67,1%, Pau Gasol (Tây Ban Nha) 65,3%, Scola (Agentina) 58,8% . Hiệu suất ném rổ của đội Mỹ tại Olympic Bắc Kinh 2008 đạt đến 55% [126]. Đạt được những tỷ lệ ngày càng cao trong các trận đấu ngày càng căng thẳng, duới áp lực phòng thủ quyết liệt, biến tốc cao là điều không dễ dàng nhưng đó là một xu thế của bóng rổ hiện đại mà tất cả các quốc gia muốn nâng cao thành tích đều phải phấn đấu. Tuy cá biệt có đột xuất như vậy nhưng mức chuẩn xác nói chung của các đội đều được nâng cao không ngừng. Mỗi trận đấu của đội Mỹ trong Olympic lần thứ 25 trung bình đạt 61%. Nga và Croachia trong giải vô địch bóng rổ phân biệt ở các mức 51% và 55%. Đạt được những tỷ lệ ngày càng cao trong các trận thi đấu căng thẳng, bám kèm chặt chẽ, biến tốc cao, kỹ thuật ném rổ không cố định thì quả là điều không dễ dàng nhưng đó lại là một xu thế của bóng rổ hiện đại mà tất cả các quốc gia đều đang hướng đến [126]. Về nữ VĐV nghiên cứu 156 VĐV về tỷ lệ ghi điểm tại 04 kỳ olympic từ 2004 – 2016 (2016, Rio de Janeiro, n = 38; 2012, London, n = 38; 2008, Beijing, n = 38; 2004, Athens, n = 42) kết quả tỷ lệ này > 62.243% [104]. Số liệu trên cho thấy trong bóng rổ hiện đại tỷ lệ ghi điểm của các VĐV các đội tuyển đạt thành tích cao luôn trên 50% và tỷ lệ này
  14. 14 càng cao thì thành tích thi đấu của đội càng tốt đây cũng là xu hướng phát triển của bóng rổ hiện đại. Thứ tư là lượng vận động cực hạn [122]. Theo Portnova (1997), lượng vận động trong thi đấu của các VĐV bóng rổ có đẳng cấp rất lớn. Mỗi trận phải di chuyển đột biến, nhanh và biến hóa khoảng 5000 - 7000 mét. Trong lúc đó phải bật nhảy khoảng 130 -150 lần; có đến 120 -150 lần tăng tốc và dừng đột ngột, chuyển hướng; nhịp tim lên tới 180 - 210 lần/phút. Sau mỗi trận đấu, thể trọng VĐV sút khoảng 2-5 kg [21]. Thể lực đóng vai trò quan trọng trong thi đấu bóng rổ hiện đại theo nghiên cứu của Fort- Vanmeerhaeghe A và cộng sự [84] trên các nữ VĐV (U 18) trong tất cả các trận thi đấu bóng rổ chính thức của mùa giải năm 2013 – 2014 cho thấy hiệu suất ném rổ có tương quan chặt đến thể lực của các VĐV. Ngày 8 tháng 5 năm 2000, FIBA đã thông qua luật bóng rổ năm 2000 với một số thay đổi thi đấu 4 hiệp, Luật 10 giây còn 8 giây, Luật 30 giây còn 24 giây và bóng phải chạm vòng rổ mới kết thúc một đợt 24 giây [80] với những thay đổi trên buộc VĐV phải tấn công nhanh hơn và chuyền bóng nhanh hơn do đó các VĐV phải hoạt động với tần suất cao hơn và liên tục chạy nước rút và di chuyển ngang với cường độ cao do đó các VĐV phải nổ lực tối đa trong thi đấu [49], [131]. Mặt khác, hiện nay kỹ thuật bóng rổ của nữ cũng có xu hướng nam hóa, đặc biệt về mặt tố chất thể lực, tinh thần và kỹ thuật đã đạt đến trình độ khả quan. Nói riêng về các kỹ thuật đột nhiên nhảy ném, dẫn bóng đột phá lên rổ, hất tiếp bóng vào rổ, ném úp vào rổ, chắn bóng ném rổ, cướp bóng dưới rổ, sự biến hóa động tác trên không, khả năng thường xuyên tấn công nhanh, phòng thủ kèm người toàn sân hoặc khu vực... thì giữa nam và nữ không khác nhau bao nhiêu. Trong những giải tầm cỡ thế giới trên, các đội dẫn đầu thường đạt mức xấp xỉ 50%. Do chiều cao, thể lực và kỹ-chiến thuật của các đội nam và nữ không ngừng biến hóa, cải tiến và toàn diện nên hai mặt công và thủ trong thi đấu ngày càng cân đối.Tiêu chí chính để đánh giá các đội bóng rổ mạnh trên thế giới
  15. 15 chính là sự cân bằng, hài hòa về năng lực tấn công và phòng thủ của toàn đội. VĐV nào cũng có kỹ thuật toàn diện, giỏi cả công lẫn thủ. Ngoài ra toàn đội cũng như từng VĐV đều có những lối đánh và kỹ thuật độc đáo riêng. Thứ năm nắm vững và tinh thông kỹ – chiến thuật Theo Ziv G, Lidor R (2009) trong thi đấu bóng rổ hiện đại hiệu suất ném rổ tối ưu rất phức tạp vì nó đòi hỏi sự kết hợp giữa khả năng kỹ thuật, chiến thuật và trình độ thể lực cao [Ziv G, Lidor R. Physical attributes, physiological characteristics, oncourt performances and nutritional strategies of female and male basketball players. Sports Med 2009; 39:547–68] thật vậy một VĐV bóng rổ hiện đại muốn thi đấu tốt phải có kỹ - chiến thuật hoàn thiện và nền tảng thể lực sung mãn. Kỹ thuật là cơ sở của chiến thuật, nhưng chiến thuật phải nhằm vận dụng và phát huy kỹ thuật có hiệu quả. Vận động viên ưu tú cần có kỹ thuật toàn diện, điêu luyện và chuẩn xác để có thể thích ứng và đạt hiệu quả cao trong mọi tình huống (mọi hình thức chiến thuật). Hầu hết các đội đều nắm vững và tinh thông các loại hình chiến thuật, do đó chiến thuật được sử dụng phổ biến hiện nay là chiến thuật tổng hợp [111]. * Về chiến thuật tấn công: phát triển theo xu thế tổng hợp các loại chiến thuật và đấu pháp: - Tận dụng cơ hội phản công nhanh: khi dành quyền khống chế bóng, đấu thủ phải nghĩ ngay đến việc tấn công nhanh. Tấn công nhanh không chỉ là 1 lần chuyền dài, phản công trong tình huống lấy nhiều đánh ít (pha thứ 1) mà còn lợi dụng khi đối phương đã về đủ nhưng chưa kịp tổ chức phòng thủ. - Tấn công dồn dập: các đội rất coi trọng việc chuyển đổi từ thủ sang công, nhanh chóng triển khai đội hình đưa bóng lên sân trên. Khi tấn công nhanh không thành công, các đội đều nhanh chóng triển khai, chiếm lĩnh vị trí và tấn công trận địa, tạo mắt xích liên hoàn giữa các đợt tấn công. - Trong ngoài kết hợp: các trung phong cao hoạt động gây áp lực mạnh dưới rổ nhằm thu hút phòng thủ tạo nhiều khoảng trống ở khu vực ngoại vi giúp các “thần xạ thủ” kết thúc rổ hiệu quả. Các trung phong đôi khi kéo ra ngoài
  16. 16 nhằm tạo khoảng trống khu vực dưới rổ giúp đồng đội siết nhập kết thúc ở khu cận rổ. Các “thần xạ thủ” cũng luôn gây áp lực từ xa bằng những quả ném 3 điểm chuẩn xác nhằm kéo dãn đội hình phòng thủ giúp trung phong có nhiều khoảng trống dưới rổ hơn. - Liên tục chạy xuyên: các vận động viên liên tục chạy xuyên, đổi cánh gây rối loạn hàng phòng thủ và làm đối phương mắc nhiều sai lầm tạo cơ hội kết thúc rổ hiệu quả hơn. * Về chiến thuật phòng thủ, theo xu thế nâng cao tính công kích và giành quyền chủ động thi đấu: - Lấy bóng làm trung tâm, tổ chức “bóng – người – rổ – khu vực” thành 1 thể thống nhất khi phòng thủ. Luôn gây áp lực lên đấu thủ giữ bóng, tận dụng mọi thời cơ vây ép người có bóng, dâng cao đội hình khống chế khu vực trọng điểm, chia cắt đội hình đối phương nhằm phá vỡ liên kết và phối hợp tấn công, nhằm cướp bóng và phản công nhanh. - Tăng cường tính tổng hợp: thể hiện qua việc kết hợp các mặt mạnh của 2 chiến thuật phòng thủ cơ bản – 1 kèm 1 và liên phòng. + Khi phòng thủ liên phòng các đội không chỉ co cụm tạo thế liên hoàn ngăn cản sự xâm nhập hay tấn công mạnh khu vực dưới rổ của đối phương nữa, mà tạo áp lực mạnh, 1 kèm 1 ở khu vực có bóng (kể cả việc vây ép – double team). + Khi phòng thủ 1 kèm 1, các cầu thủ bên có bóng kèm chặt đối phương, các cầu thủ bên không có bóng lui về hỗ trợ cho đồng đội. - Nâng cao tính biến hoá chiến thuật: hầu hết các đội đều vận dụng nhiều hình thức chiến thuật trong 1 trận đấu. Ví dụ: sân trước tiến hành kèm người chặt; giữa sân thì chuyển qua vây ép, khống chế khu vực; sân sau thì kết hợp liên phòng và 1 kèm 1. Chính nhờ áp dụng chiến thuật phòng thủ này, tại Olimpic lần thứ 21, đội nữ Nhật lần đầu tiên chiếm ngôi á quân thế giới. Đặc điểm chủ yếu là chủ động biến hoá, không cho đối phương kịp thích nghi, tạo áp lực tâm lý căng thăng cho đối phương.
  17. 17 - Tăng cường tính hợp đồng phòng thủ: hoạt động phòng thủ trong bóng rổ đỉnh cao ngày nay ngoài việc yêu cầu nỗ lực tối đa của các VĐV trong sự phối hợp chuyển đổi các hình thức phòng thủ, bổ sung phòng thủ, hỗ trợ khống chế khu vực trọng điểm, phối hợp vây ép, phối hợp chia cắt đội hình đối phương thì còn đòi hỏi sự nhạy cảm, tinh tế và hiểu rõ lẫn nhau đến mức 5 người là 1 người (5 become 1). HLV Croachia (Nigeliki) phát biểu: “sự liên hệ, hợp đồng mật thiết với nhau trong phòng thủ sẽ giúp nâng cao năng lực phòng thủ thêm 30%”. - Nâng cao tính co duỗi trong phòng thủ: các đội bóng mạnh thường gây áp lực phòng thủ lên khắp mặt sân nhưng rất nhanh chóng thu gọn đội hình để phòng thủ trọng điểm khi bị xuyên thủng hay bị đột kích. Chiến thuật thi đấu bóng rổ hiện đại ngày càng đa dạng, phong phú và được các nhà nghiên cứu phân tích sâu theo các phần mềm toán học như phân tích đa biến của Liu, W (2024) [106], nghiên cứu qua thuật toán Apriori của Nguyen Ngoc Hai (2012) [93], Zhong, X. (2018) [147]. Nói tóm lại, theo xu thế phát triển của bóng rổ hiện đại, VĐV càng phải toàn diện, không chỉ ưu thế trội về điều kiện thân thể, trình độ kỹ-chiến thuật mà còn có phẩm chất ý chí ngoan cường, nhạy bén và thể lực sung mãn mới ổn định phát huy cao độ khả năng về kỹ-chiến thuật trong thi đấu đỉnh cao với mật độ lớn và gay go. Điều này thể hiện rõ trong các đội bóng rổ nhà nghề ở Âu-Mỹ [71], [24]. 1.2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HUẤN LUYỆN CÁC TỐ CHẤT THỂ LỰC TRONG BÓNG RỔ 1.2.1. Thể lực trong bóng rổ [101], [108], [124], [14]. Bóng rổ hiện đại, là môn thể thao của những người khổng lồ, được thể hiện bằng cường độ vận động cao nhưng không liên tục, hành động thi đấu rất căng thẳng đòi hỏi vận động viên phải huy động đến cực hạn các khả năng chức phận của cơ thể và các tố chất nhanh - mạnh tối đa [74].
  18. 18 Nhiệm vụ của huấn luyện thể lực là phát triển toàn diện và củng cố sức khỏe, nâng cao các khả năng chức phận và các tố chất vận động của vận động viên bóng rổ. Đối với môn bóng rổ cũng như đối với các môn thể thao khác, cơ sở chương trình tiêu chuẩn cơ bản của huấn luyện thể lực là tiêu chuẩn rèn luyện thân thể. Các nhiệm vụ huấn luyện thể lực bắt nguồn từ những nhiệm vụ chung của hệ thống giáo dục thể chất Xô Viết và được cụ thể hóa bằng những nét đặc điểm chuyên môn đặc thù của mỗi môn thể thao. Huấn luyện thể lực cụ thể của vận động viên bóng rổ nhằm giải quyết những nhiệm vụ sau: Nâng cao mức độ phát triển và tăng khả năng chức phận của cơ thể (huấn luyện chức phận). Huấn luyện các tố chất thể lực (sức mạnh, nhanh, bền, mềm dẻo và khéo léo), cũng như phát triển các tổ hợp năng lực thể chất liên quan với các tố chất đó để đảm bảo hiệu quả hoạt động thi đấu (sức bật, năng lực tốc độ, sức mạnh của các động tác ném, độ khéo và sức bền thi đấu). Việc giải quyết những nhiệm vụ này được thực hiện trong quá trình huấn luyện thể lực chung và chuyên môn. Huấn luyện thể lực chung đảm bảo sự phát triển toàn diện của vận động viên bóng rổ và tạo những tiền đề để biểu hiện những tố chất thể lực chuyên môn có hiệu quả nhất trong môn thể thao đã chọn. Nó cần có tính định hướng đặc thù cụ thể là: củng cố các cơ quan và hệ thống của cơ thể vận động viên đáp ứng với những đòi hỏi của môn bóng rổ, tạo khả năng mang lại hiệu quả tập luyện từ những bài tập chuẩn bị để thực hiện những phối hợp cơ bản. Huấn luyện thể lực đóng vai trò chủ đạo trong việc hình thành những năng lực vận động của vận động viên bóng rổ và phụ thuộc trực tiếp vào những đặc điểm kỹ thuật và chiến thuật thi đấu, vào các chỉ số về lượng vận động thi đấu và căng thẳng tâm lý. Huấn luyện thể lực chuyên môn được thực hiện gắn chặt với việc tiếp thu và hoàn thiện các kỹ năng và kỹ xảo trong bóng rổ có tính toán
  19. 19 đến các điều kiện và tính chất sử dụng những kỹ xảo đó của người vận động viên trong tình huống thi đấu. Mức độ huấn luyện thể lực không cao của vận động viên bóng rổ hạn chế khả năng tiếp thu vốn kỹ - chiến thuật và hoàn thiện nó. Thí dụ, vận động viên bóng rổ phát triển sức bật nhảy chưa tốt thì không thể tiếp thu được kỹ thuật nhảy ném rổ hiện đại và tham gia tranh cướp bóng dưới rổ. Một đội có các vận động viên chậm chạp thì không thể áp dụng có hiệu quả đột phá tấn công nhanh, v.v... Huấn luyện thể lực chung và chuyên môn liên quan với nhau và bổ sung cho nhau. Một mặt, các môn huấn luyện này phụ thuộc vào những đặc điểm của thi đấu, mặt khác các môn đó quyết định những khả năng thực tế về phối hợp của vận động viên bóng rổ trong thi đấu. Cũng cần nhớ rằng mức độ huấn luyện thể lực vận động viên cao đúng mức là yếu tố quan trọng nhất của kế hoạch tâm lý, cụ thể là: tạo lòng tinh trong thi đấu, giúp biểu hiện cao nhất các tố chất về tâm lý, ý chí trong những điều kiện căng thẳng cực độ. Những khả năng chức phận của vận động viên bóng rổ tạo nên cơ sở để huấn luyện thể lực vận động viên - Mức độ phát triển của các khả năng đó được thể hiện cụ thể ở năng lực hoạt động thể thao – đó là khả năng của vận động viên hoàn thành công việc đặc thù giành cho bản thân trong thời gian dài đủ để nhận được những chuyển biến vững chắc. Năng lực hoạt động biểu hiện trước hết ở hai dạng hòa hợp khác nhau về bản chất sinh hóa học của mình – đó là hiệu suất ưa khí và yếm khí của cơ thể (tức là trong những điều kiện đảm bảo đủ và không đủ ô xy trong các cơ). Trong tổ chức huấn luyện ở những giai đoạn riêng lẻ cần tính đến mức độ tác động của các bài tập đối với những biến đổi chức năng của cơ thể vận động viên. Huấn luyện sức mạnh: Môn bóng rổ hiện đại có những yêu cầu cao về năng lực sức mạnh của vận động viên biểu hiện ở mức độ đáng kể ở độ cao các cú nhảy, sức nhanh thực hiện các động tác khác nhau, tốc độ di chuyển và có ý nghĩa lớn đối với việc thể hiện sức bền và khéo léo. Trong hoạt động thi đấu tố
  20. 20 chất thể lực sức mạnh biểu hiện phối hợp với sức nhanh của chuyển động trong phạm vi một kỹ xảo vận động nhất định tương ứng với một kỹ thuật thi đấu đúng trong bóng rổ [78], [72]. Theo tính chất và những điều kiện biểu hiện sức mạnh cơ bắp, người ta thường phân biệt các năng lực sức mạnh đơn thuần (theo chế độ tĩnh và vận động chậm). Những năng lực sức mạnh tốc độ đóng vai trò chủ yếu trong bóng rổ. Theo các tài liệu khoa học, trong bóng rổ hơn 70% động tác mang tính chất sức mạnh - tốc độ. Song khi di chuyển lúc đứng phòng thủ, lúc cướp bóng và ở nhiều động tác được gọi là động tác rắn thường đòi hỏi những nỗ lực tĩnh lớn. Bởi vậy việc huấn luyện sức mạnh cho vận động viên cần phải toàn diện và phải phát triển sức mạnh các cơ theo những chế độ khác nhau. Một biến thể quan trọng của sức mạnh cơ bắp là sức mạnh bột phát phản ánh năng lực biểu hiện sức mạnh đến mức tối đa trong một khoảng thời gian tối thiểu cho những điều kiện của bài tập thể thao hay phối hợp thi đấu chi phối. Vận động viên bóng rổ thực hiện dạng sức mạnh này trong các lần nhảy, đột phá tấn công nhanh, chuyền bóng xa với sức mạnh lớn [128]. Sức mạnh của cơ bắp đảm bảo hoạt động vận động đa dạng của vận động viên bóng rổ luôn phụ thuộc vào những đặc điểm sinh - cơ học của động tác (chiều dài các tay đòn bẩy, sự tham gia vào hoạt động của các nhóm cơ lớn) và vào độ lớn nhưng nỗ lực mà các cơ có liên quan có thể sản sinh ra. Độ lớn các nỗ lực được xác định bởi tiết diện sinh lý của cơ, bởi sự tham gia vào hoạt động của một số lượng nhất định những đơn vị vận động, bởi tần số các xung động thần kinh được chuyển đến cơ và bởi mức độ nỗ lực đồng thời của tất cả các đơn vị vận động tham gia hoạt động. Việc huấn luyện các năng lực sức mạnh cho vận động viên bóng rổ cần nhằm để: - Phát triển và duy trì mức độ sức mạnh tuyệt đối của các cơ; - Biểu hiện nỗ lực tối đa trong thời gian ngắn nhất;