Luận án Kết hợp tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường ở các tỉnh Bắc Trung Bộ Việt Nam hiện nay

pdf 176 trang yendo 6562
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận án Kết hợp tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường ở các tỉnh Bắc Trung Bộ Việt Nam hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfluan_an_ket_hop_tang_truong_kinh_te_voi_bao_ve_moi_truong_o.pdf

Nội dung text: Luận án Kết hợp tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường ở các tỉnh Bắc Trung Bộ Việt Nam hiện nay

  1. HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH ĐỖ TRỌNG HƯNG KÕT HîP T¡NG TR¦ëNG KINH TÕ VíI B¶O VÖ M¤I TR¦êNG ë C¸C TØNH B¾C TRUNG Bé VIÖT NAM HIÖN NAY Chuyên ngành : Chủ nghĩa duy vật biện chứng và Chủ nghĩa duy vật lịch sử Mã số : 62 22 03 02 LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS. TRẦN VĂN PHÒNG 2. PGS.TS. BÙI VĂN DŨNG HÀ NỘI - 2015
  2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định. TÁC GIẢ LUẬN ÁN Đỗ Trọng Hưng
  3. MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1 Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 6 1.1. Các công trình đề cập đến những vấn đề lý luận về kết hợp tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường 6 1.2. Các công trình đề cập đến thực trạng kết hợp tăng trưởng kinh tế với việc bảo vệ môi trường ở Việt Nam nói chung và ở Bắc Trung bộ Việt Nam nói riêng 16 1.3. Các công trình đề cập đến quan điểm, giải pháp kết hợp tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường 23 1.4. Khái quát kết quả của các công trình nghiên cứu liên quan và vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu về việc kết hợp tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường ở các tỉnh Bắc Trung bộ Việt Nam hiện nay 34 Chương 2: KẾT HỢP TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VỚI BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN 37 2.1. Kinh tế, tăng trưởng kinh tế và phát triển kinh tế 37 2.2. Môi trường và bảo vệ môi trường 47 2.3. Yêu cầu, nội dung và những nhân tố ảnh hưởng đến kết hợp tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường 53 Chương 3: THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRONG VIỆC KẾT HỢP TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VỚI BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG Ở CÁC TỈNH BẮC TRUNG BỘ VIỆT NAM HIỆN NAY 75 3.1. Điều kiện tự nhiên, đặc điểm tình hình kinh tế - xã hội và môi trường ở các tỉnh Bắc Trung bộ Việt Nam 75 3.2. Thực trạng việc kết hợp tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường ở các tỉnh Bắc Trung bộ hiện nay 84 3.3. Một số vấn đề đặt ra từ thực trạng kết hợp tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường ở các tỉnh Bắc Trung bộ Việt Nam hiện nay 97 3.4. Nguyên nhân của thực trạng kết hợp tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường ở các tỉnh Bắc Trung bộ Việt Nam hiện nay 108 Chương 4: MỘT SỐ QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM KẾT HỢP HÀI HÒA TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VỚI BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG Ở CÁC TỈNH BẮC TRUNG BỘ VIỆT NAM HIỆN NAY 114 4.1. Một số quan điểm nhằm kết hợp hài hòa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường ở các tỉnh Bắc Trung bộ Việt Nam hiện nay 114 4.2. Một số giải pháp chủ yếu nhằm kết hợp hài hoà tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường ở các tỉnh Bắc Trung bộ Việt Nam hiện nay 134 KẾT LUẬN 155 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ 158 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 159 PHỤ LỤC 172
  4. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN CCN : Cụm công nghiệp CNH, HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đại hóa CN : Công nghệ CT - XH : Chính trị - xã hội ĐT : Đào tạo GD : Giáo dục KCN : Khu công nghiệp KKT : Khu kinh tế KH : Khoa học KT - XH : Kinh tế - xã hội MT : Môi trường MTST : Môi trường sinh thái Nxb : Nhà xuất bản PTBV : Phát triển bền vững PTKT : Phát triển kinh tế TN - MT : Tài nguyên - môi trường TNTN : Tài nguyên thiên nhiên TTKT : Tăng trưởng kinh tế XHCN : Xã hội chủ nghĩa
  5. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ cũng như toàn cầu hoá diễn ra mạnh mẽ đã đặt ra nhiều cơ hội cùng thách thức cho tất cả các quốc gia, dân tộc. Nhận thức được điều đó, các quốc gia, dân tộc phải có một chiến lược phát triển kinh tế phù hợp để tránh nguy cơ tụt hậu xa hơn. Song, nhiều khi vì mong muốn tăng trưởng kinh tế nhanh nhất, thu được nhiều lợi nhuận nhất mà người ta đã quên đi các vấn đề xã hội, môi trường. Quả thực, trong những năm gần đây, vấn đề ô nhiễm môi trường, sự cạn kiệt các nguồn tài nguyên thiên nhiên, sự đe doạ khủng hoảng sinh thái trên phạm vi toàn thế giới đang thu hút sự chú ý của các quốc gia, dân tộc, các nhà nghiên cứu khoa học và các nhà quản lý. Con người ngày càng nhận thức rõ hơn rằng, để đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế nhằm khắc phục tình trạng đói nghèo, bất bình đẳng và giảm thiểu hậu quả về môi trường thì phải phát triển bền vững. Hiện nay, Việt Nam đang trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước với mục tiêu phát triển kinh tế nhanh, bền vững, tiếp tục xây dựng nền tảng để sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Để thực hiện được mục tiêu đó, vấn đề đặt ra cho chúng ta là trong khi phát triển kinh tế thì việc khai thác và sử dụng tài nguyên thiên nhiên phải bảo vệ được môi trường tự nhiên một cách có hiệu quả, nằm trong giới hạn cho phép của môi trường để bảo đảm cho sự phát triển bền vững. Trong thời gian qua, việc bảo vệ môi trường ở nước ta hiện chưa đáp ứng được yêu cầu của quá trình phát triển kinh tế - xã hội bền vững; môi trường nước ta vẫn tiếp tục bị ô nhiễm và suy thoái, có nơi nghiêm trọng. Việc thi hành pháp luật bảo vệ môi trường chưa nghiêm minh. Ý thức tự giác bảo vệ và giữ gìn môi trường chưa trở thành thói quen trong cách sống của đại bộ phận dân cư. Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng chỉ rõ:
  6. 2 Việc xây dựng pháp luật và chính sách bảo vệ môi trường còn chậm, thực hiện chưa nghiêm, hiệu lực, hiệu quả thấp. Môi trường ở nhiều nơi tiếp tục bị xuống cấp, một số nơi đã đến mức báo động. Chưa chủ động nghiên cứu, dự báo đánh giá tác động của biến đổi khí hậu; hậu quả của thiên tai còn nặng nề [42, tr.169]. Do đó, việc giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường vì sự phát triển bền vững có ý nghĩa sống còn đối với nước ta cả trước mắt và lâu dài. Trong quá trình đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế con người đã tác động rất lớn đến môi trường. Trước thực trạng môi trường ngày càng xấu đi do phát triển kinh tế gây ra, con người đã đặt ra yêu cầu và đi tìm các biện pháp để vừa tăng trưởng, phát triển kinh tế nhưng ít gây tổn hại đến môi trường nhất. Những địa phương có xuất phát điểm về kinh tế thấp như các tỉnh Bắc Trung bộ Việt Nam, thường phải đẩy nhanh tốc độ phát triển, vì vậy, mức độ tác động đến môi trường càng lớn do phải khai thác nhiều hơn đối với các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Bắc Trung bộ (gồm 6 tỉnh từ Thanh Hóa đến Thừa Thiên Huế) là một vùng kinh tế còn khó khăn, có điều kiện tự nhiên không thuận lợi cho việc phát triển sản xuất hàng hóa. Bên cạnh đó, kinh tế kém phát triển dẫn tới tình trạng khai thác tràn lan tài nguyên thiên nhiên và các nguồn lực, nhưng kết quả phát triển kinh tế không cao, còn gây ra nhiều vấn đề về môi trường. Thực tế việc kết hợp tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường ở các tỉnh Bắc Trung bộ còn nhiều bất cập chưa đáp ứng yêu cầu. Nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân trong vùng về vấn đề này vẫn còn hạn chế; vẫn còn biểu hiện tuyệt đối hóa tăng trưởng kinh tế mà chưa có sự quan tâm đúng mức tới bảo vệ môi trường, v.v Do vậy, kết hợp giữa đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường ở các tỉnh Bắc Trung bộ là vấn đề mang tính bức thiết hiện nay. Bởi vì, để đạt được các lợi ích kinh tế đơn thuần, hiện nay ở các tỉnh Bắc Trung bộ đang tạo ra sức ép rất lớn đối với môi trường. Để bảo đảm sự cân
  7. 3 bằng trong phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường, thời gian qua đã có rất nhiều công trình nghiên cứu, những ý kiến đề xuất và những giải pháp trong thực tiễn. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có công trình nào trực tiếp nghiên cứu vấn đề này ở các tỉnh Bắc Trung bộ. Vì vậy, để tiếp tục khẳng định cần phải kết hợp tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường tự nhiên nhằm tạo ra môi trường cho sự phát triển bền vững, tác giả chọn vấn đề: Kết hợp tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường ở các tỉnh Bắc Trung bộ Việt Nam hiện nay làm đề tài luận án tiến sĩ Triết học. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án 2.1. Mục đích của luận án Trên cơ sở phân tích một số vấn đề lý luận về kết hợp tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường cũng như thực trạng kết hợp tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường ở các tỉnh Bắc Trung bộ Việt Nam hiện nay, luận án đề xuất một số quan điểm và giải pháp chủ yếu nhằm kết hợp hài hòa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường trên địa bàn vùng. 2.2. Nhiệm vụ của luận án - Phân tích làm rõ một số vấn đề lý luận về kết hợp tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường tự nhiên. - Phân tích thực trạng và những vấn đề đặt ra của việc kết hợp tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường ở các tỉnh Bắc Trung bộ Việt Nam hiện nay. - Đề xuất một số quan điểm và giải pháp chủ yếu nhằm kết hợp hài hòa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường ở các tỉnh Bắc Trung bộ Việt Nam hiện nay. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án 3.1. Đối tượng nghiên cứu Luận án tập trung nghiên cứu, tìm hiểu sự kết hợp tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường ở các tỉnh Bắc Trung bộ Việt Nam hiện nay. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Môi trường là một vấn đề rất rộng, có thể nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau, như: môi trường tự nhiên, môi trường kinh tế, môi trường sống (tồn
  8. 4 tại), môi trường phát triển, môi trường xã hội Ở đây, luận án chỉ tập trung nghiên cứu sự kết hợp biện chứng tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường tự nhiên ở các tỉnh Bắc Trung bộ Việt Nam hiện nay (gồm 6 tỉnh: Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên Huế tính từ năm 2000 trở lại đây). Tác giả luận án xác định ba nhiệm vụ chính cần phải giải quyết (2.2) trong khuôn khổ cho phép của một luận án tiến sĩ Triết học, đặc biệt, tập trung đề xuất một số quan điểm và giải pháp chủ yếu nhằm kết hợp hài hòa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường ở các tỉnh Bắc Trung bộ Việt Nam hiện nay. Các điều kiện để thực hiện tốt các giải pháp đó sẽ được tác giả luận án tiếp tục đào sâu nghiên cứu, khảo nghiệm trong quá trình nghiên cứu và công tác của mình. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án 4.1. Cơ sở lý luận Cơ sở lý luận của luận án là phép biện chứng duy vật, những quan điểm của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa con người với tự nhiên; quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển bền vững, gắn tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường; những thành tựu lý luận hiện đại về cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật và công nghệ. 4.2. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu được sử dụng chủ yếu trong luận án là: phương pháp lịch sử và lôgíc; phân tích và tổng hợp; cách tiếp cận hệ thống, so sánh đối chiếu, điều tra khảo sát trên tinh thần kết hợp lý luận với thực tiễn. 5. Đóng góp về khoa học của luận án - Làm rõ hơn cơ sở triết học của việc kết hợp tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường. - Phân tích, chỉ rõ thực trạng của việc giải quyết sự kết hợp tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường ở các tỉnh Bắc Trung bộ Việt Nam hiện nay. - Đề xuất được một số quan điểm và giải pháp chủ yếu nhằm kết hợp hài hòa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường ở các tỉnh Bắc Trung bộ Việt Nam hiện nay.
  9. 5 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án - Luận án có thể làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy và học tập những vấn đề về môi trường, bảo vệ môi trường, kết hợp vấn đề môi trường trong phát triển kinh tế. - Luận án có thể giúp những người làm công tác lãnh đạo, quản lý xã hội, xây dựng pháp luật tham khảo vận dụng vào địa phương mình trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý. 7. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung luận án gồm 4 chương, 13 tiết.
  10. 6 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 1.1. CÁC CÔNG TRÌNH ĐỀ CẬP ĐẾN NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KẾT HỢP TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VỚI BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG Kinh tế là một trong những lĩnh vực cơ bản của xã hội. Khi nói đến kinh tế là muốn nói đến các hoạt động của con người trong quá trình sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ. Trong quá trình tồn tại và phát triển, các hoạt động kinh tế của con người ngày càng tác động sâu sắc tới tự nhiên, tạo nên sự tăng trưởng về nhiều mặt trong đó có tăng trưởng kinh tế. Tăng trưởng kinh tế là một trong những nội dung được các học giả trao đổi, bàn luận khá nhiều dưới các góc độ kinh tế, xã hội, môi trường Ở khía cạnh kinh tế học, khái niệm tăng trưởng kinh tế được sử dụng khi muốn nói tới sự lớn lên, tăng thêm hay mở rộng của một nền kinh tế. Tăng trưởng kinh tế có thể được hiểu là “mức tăng sản lượng thực tế của một quốc gia trong một thời gian nhất định”; nói một cách khác, tăng trưởng kinh tế là việc mở rộng quy mô sản xuất quốc gia, tiềm năng của một nước, tiềm năng thực hiện: việc mở rộng khả năng kinh tế để sản xuất [47]. Các chỉ tiêu để đánh giá tăng trưởng kinh tế thường được sử dụng là tổng sản phẩm quốc nội (GDP), tổng sản phẩm quốc dân (GNP) [18], [30], [36], [47], [84], [120] Tác giả Trần Thọ Đạt với các công trình “Các mô hình tăng trưởng kinh tế” [44] và “Giáo trình mô hình tăng trưởng kinh tế” [45]; tác giả Vũ Thị Ngọc Phùng với công trình “Giáo trình kinh tế phát triển” [79] đã đi sâu phân tích các mô hình tăng trưởng kinh tế trên thế giới như: mô hình tăng trưởng của trường phái Keynes, Harrod Domar, tăng trưởng tân cổ điển mở rộng, tăng trưởng nội sinh Liên hệ ở Việt Nam về mô hình tăng trưởng kinh tế, tác giả cho rằng, cho đến nay mô hình tăng trưởng kinh tế của nước ta vẫn là mô hình tăng trưởng kinh tế theo chiều rộng, dựa vào tăng quy mô tài sản
  11. 7 cố định và khai thác tài nguyên thiên nhiên là chính. Mô hình tăng trưởng này có những ưu điểm nhưng cũng có nhược điểm: ưu điểm là đem lại nhiều lợi thế để kinh tế đất nước tăng trưởng với tốc độ nhanh; nhược điểm là tăng trưởng theo mô hình này sẽ không thật sự bền vững, đặc biệt là nguồn tài nguyên thiên nhiên sẽ nhanh chóng bị cạn kiệt và nhiều vấn đề về môi trường sẽ nảy sinh Như vậy, điểm qua một số công trình đã bàn về tăng trưởng kinh tế, chúng ta có thể thấy rõ, các tác giả đã tập trung làm rõ nội hàm của khái niệm tăng trưởng kinh tế, chỉ ra và so sánh các mô hình tăng trưởng kinh tế trên thế giới và mô hình tăng trưởng kinh tế của Việt Nam hiện nay. Các nghiên cứu đã phân tích rõ các nhân tố ảnh hưởng đến quy mô và tốc độ tăng trưởng kinh tế một số nước trên thế giới và Việt Nam, bàn luận, đưa ra các giải pháp để thúc đẩy quá trình tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam hiện nay. Khi đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, nhiều quốc gia đã khai thác tài nguyên thiên nhiên vượt quá ngưỡng cho phép. Hệ quả là môi trường bị biến đổi và sự suy thoái tăng dần lên nếu không có những biện pháp bảo vệ môi trường kèm theo. Do vậy, vấn đề môi trường, bảo vệ môi trường tự nhiên, phát triển bền vững cũng là một trong các nội dung được đề cập khá nhiều trong thời gian qua ở trong nước cũng như ở nước ngoài trên các khía cạnh khác nhau. Môi trường là tổng hợp các điều kiện sống của con người trong khi tăng trưởng kinh tế là quá trình con người tác động, sử dụng và cải thiện các điều kiện đó. Hiện nay, có rất nhiều khái niệm về môi trường tùy thuộc vào khía cạnh nghiên cứu, tiếp cận. Một số định nghĩa đáng lưu ý của các công trình Môi trường và tài nguyên Việt Nam [86]; Môi trường tự nhiên trong hoạt động sống của con người [61] Các tác giả của các công trình này đều cho rằng môi trường tự nhiên là tổng hòa nhiều yếu tố tự nhiên, hiện tượng tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên trong sự thống nhất với nền sản xuất xã hội, có mối quan hệ hữu cơ với nhau, tác động qua lại với nhau và có ảnh hưởng tới sự tồn tại, phát triển của tất cả các loài sinh vật trên trái đất.
  12. 8 Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng, Nhà nước ta luôn quan tâm, tạo nhiều điều kiện thuận lợi nhằm bảo vệ sức khỏe nhân dân, đảm bảo quyền con người cho nhân dân được sống trong môi trường trong sạch, đất nước được phát triển bền vững. Trong thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta đã ra nhiều văn bản luật, dưới luật, các chỉ thị, nghị quyết về môi trường và bảo vệ môi trường [9]; [10]; [11]; [12]; [43]; [82]; [105]; [109] Trong các văn bản này, Đảng và Nhà nước đã khẳng định nhiều nội dung quan trọng về môi trường, bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước Bảo vệ môi trường được hiểu là những hoạt động giữ cho môi trường trong lành, sạch đẹp, cải thiện môi trường, bảo đảm cân bằng sinh thái, ngăn chặn, khắc phục các hậu quả xấu do con người và thiên nhiên gây ra cho môi trường Bảo vệ môi trường là vấn đề chung, toàn cầu có ảnh hưởng tới cuộc sống của toàn bộ loài người. Luật Bảo vệ môi trường đã ghi rõ: “Bảo vệ môi trường là trách nhiệm và nghĩa vụ của mọi cơ quan, tổ chức, hộ gia đình và cá nhân” [82, tr.12]. Do vậy, bảo vệ môi trường không những tạo điều kiện cho tăng trưởng kinh tế ngày một bền vững hơn, mà còn giúp cho mọi người ngày một tiếp cận với cuộc sống văn minh hơn, tốt đẹp hơn. Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường thực chất là mối quan hệ giữa con người với tự nhiên. Mối quan hệ này được rất nhiều nhà khoa học, các trường phái tư tưởng, các tổ chức và chính phủ quan tâm nghiên cứu, giải quyết. Nhưng cách thức trình bày khác nhau, đi đến việc giải quyết cũng trên quan điểm khác nhau, thậm chí đối lập nhau. Cho đến nay, việc nhận thức và giải quyết mối quan hệ này hiệu quả nhất chỉ được thực hiện trên lập trường của chủ nghĩa Mác - Lênin. Mối quan hệ giữa con người với giới tự nhiên cần phải được xem như một hệ thống động học thống nhất, hoạt động theo nguyên tắc liên hệ ngược chứ không phải chỉ là mối quan hệ một chiều (con người tác động và cải tạo tự nhiên). Đáng chú ý là con người thường không thể hiểu biết hết và lường
  13. 9 trước được những tác động ngược đó (ví dụ như hiện tượng nóng lên toàn cầu, nước biển dâng, biến đổi khí hậu ) và nó gây ra sự tàn phá nặng nề đối với tự nhiên nhân tạo mà con người đã tạo ra. Quá trình nhận thức hậu quả gây ra của con người đối với tự nhiên là một quá trình lâu dài, luôn bị chi phối và cản trở bởi các nhân tố kinh tế - chính trị - xã hội khác. Những hậu quả đó ở mức độ nào và có khả năng khắc phục, hạn chế hay không là phụ thuộc vào nhận thức và hành động của con người, của xã hội loài người. Ph.Ăngghen phân tích: Khi đốt rừng trên các triền núi và lấy số phân tro đủ để bón cho một đời cây cà phê đem lại một số thu hoạch rất lớn, thì những người chủ đồn điền Tây Ban Nha ở Cu-ba có cần gì phải nghĩ rằng sau này, những trận mưa rào ở vùng nhiệt đới sẽ cuốn sạch lớp đất bên trên không có gì che chở và chỉ để lại những lớp đá trơ trụi! [69, tr.658]. Vậy, vì mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận, các nhà tư bản đã hành động bất chấp hậu quả, bất chấp quy luật tự nhiên, bất chấp sự “trả thù” của giới tự nhiên. Chính quy luật lợi nhuận cộng với sự vô ý thức của con người đã phá vỡ sự cân bằng của giới tự nhiên, gây ra những hậu quả nghiêm trọng về môi trường, sinh thái. Do đó, vấn đề đặt ra cho các nhà quản lý kinh tế nói riêng, loài người nói chung là cần giải quyết tốt mối quan hệ biện chứng giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sống xung quanh mình, các quốc gia cần quan tâm xem xét nhiều hơn tới vấn đề tăng trưởng kinh tế, phát triển kinh tế một cách bền vững. Ở tầm quốc tế, các tổ chức, liên minh toàn cầu cũng đã dành nhiều sự quan tâm, đưa ra những nguyên tắc và cam kết chung về vấn đề phát triển bền vững, bảo đảm môi trường sống cho các thế hệ tương lai, đồng thời góp phần tái tạo lại tài nguyên nói riêng, môi trường nói chung bằng nhiều biện pháp cụ thể, tích cực. Đặc biệt, Hội nghị Môi trường thế giới lần đầu tiên được tổ chức năm 1972 tại Stôckhôlm (Thụy Điển) đã đưa đến sự ra đời của Chương trình Môi
  14. 10 trường Liên Hợp quốc (UNEP), Uỷ ban Môi trường và Phát triển thế giới (WCED). Với sự kiện này càng chứng tỏ gắn với khả năng chinh phục và cải tạo tự nhiên của con người ngày càng cao, sự phát triển nhanh về kinh tế là sự suy thoái và xuống cấp gay gắt của môi trường, trở thành vấn đề chung đòi hỏi sự quan tâm của cả loài người. Hội nghị Thượng đỉnh Trái đất về Môi trường và Phát triển của Liên Hợp quốc tổ chức ở Rio de Janeiro (Braxin) năm 1992 với Tuyên ngôn RIO về môi trường và phát triển [63]. Hội nghị đã đưa ra rất nhiều quyền và nghĩa vụ về khai thác, sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường vì sự phát triển chung của nhân loại. Tại nguyên tắc thứ hai của Tuyên ngôn đã nêu rõ: Phù hợp với hiến chương Liên Hợp quốc và các nguyên tắc của Luật pháp Quốc tế, các quốc gia có chủ quyền khai thác những tài nguyên của mình theo những chính sách về môi trường và phát triển của mình và có trách nhiệm bảo đảm rằng những hoạt động trong phạm vi quyền hạn và kiểm soát của mình không gây tác hại gì đến môi trường của các quốc gia khác hoặc của những khu vực ngoài phạm vi quyền hạn quốc gia [63]. Khoa học và công nghệ ngày càng phát triển, con người được sử dụng công cụ lao động, máy móc, phương tiện hiện đại vừa phục vụ đắc lực cho cuộc sống của chính mình và cho cả quá trình sản xuất với năng suất, hiệu quả cao, nhưng nó cũng vừa là một trong những nguyên nhân đưa đến sự biến đổi khí hậu, sự nóng lên của trái đất, hiệu ứng nhà kính, băng tan Thấy rõ được vấn đề mang tính chất toàn cầu ấy, Hội nghị các bên tham gia lần thứ ba đã nhóm họp tại Kyoto vào ngày 11 tháng 12 năm 1997 bàn về vấn đề hiệu ứng nhà kính. Hội nghị cũng đã đưa ra Nghị định thư Kyoto liên quan đến Chương trình khung về biến đổi khí hậu và đã chính thức có hiệu lực vào ngày 16 tháng 2 năm 2005. Có thể thấy rằng vấn đề môi trường và phát triển không chỉ có tầm quan trọng đặc biệt đối với mỗi quốc gia mà còn cho chính mỗi người chúng ta.
  15. 11 Nhận thức sâu sắc vấn đề đó, thế giới đã đưa ra các chương trình hành động cụ thể để bảo vệ môi trường phục vụ cho cuộc sống và sản xuất của con người. Bên cạnh việc nghiên cứu tập trung vào mối quan hệ giữa môi trường và phát triển, nhiều học giả nước ngoài cũng đã đi sâu nghiên cứu bản chất kinh tế của các hành động của con người với động lực bảo vệ môi trường của họ. Ở Việt Nam, vấn đề mối quan hệ giữa tăng trưởng với bảo vệ môi trường được giải quyết một cách hài hòa và giản dị trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh quan niệm độc đáo về mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, giữa tăng trưởng kinh tế với gìn giữ, bảo vệ môi trường, theo đó, Người đã nói: “Việt Nam ta có hai tiếng Tổ quốc, ta cũng gọi Tổ quốc là đất nước. Có đất và có nước thì mới thành Tổ quốc. Có đất lại có nước thì dân giàu, nước mạnh. Nhiệm vụ của chúng ta là làm cho đất với nước điều hòa với nhau để nâng cao đời sống nhân dân, xây dựng chủ nghĩa xã hội” [73, tr.506]. Như vậy, con người và xã hội có thể tồn tại được là dựa vào tự nhiên, vì vậy, việc duy trì mối quan hệ hài hòa giữa con người với giới tự nhiên chính là điều kiện đầu tiên, tiên quyết nhằm bảo đảm sự phát triển bền vững của xã hội. Để tăng cường hoạt động bảo vệ tự nhiên, Hồ Chí Minh thường đề cao việc giáo dục để nâng cao nhận thức của nhân dân về tầm quan trọng của tài nguyên thiên nhiên, môi trường cũng như xây dựng ý thức bảo vệ môi trường, ví dụ như Người đã khởi xướng và phát động phong trào trồng cây gây rừng nhằm mục đích tạo ra môi trường trong lành hơn, góp phần bảo vệ môi trường. Tiếp nối quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nước ta đã thực sự quan tâm đến việc giải quyết mối quan hệ giữa con người với tự nhiên trong tiến trình phát triển kinh tế - xã hội chung của đất nước. Đặc biệt, vấn đề bảo vệ môi trường cũng như quan điểm phát triển bền vững đã trở thành nội dung quan trọng trong văn kiện của các kỳ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, VII, VIII, IX, X và XI của Đảng. Mục tiêu phát triển bền vững trở thành trọng điểm, yêu cầu xuyên suốt trong Chiến lược tổng thể về phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia cũng như của các vùng kinh tế, các
  16. 12 tỉnh, địa phương trong các thời kỳ, trong Kế hoạch quốc gia về môi trường và phát triển bền vững giai đoạn 1991 - 2000, 2001 - 2010, 2010 - 2020. Năm 1998, Bộ Chính trị ra Chỉ thị 36-CT/TW [9] Về tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Năm 2003, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020. Năm 2004, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 41-NQ/TW ngày 15/11/2004 [10] Về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước cũng như một loạt quy phạm pháp luật về bảo vệ môi trường và phát triển bền vững khác. Điều này đã ảnh hưởng khá nhiều tới nhận thức của các cơ quan quản lý nhà nước, cộng đồng doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế - xã hội, chính trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp và cộng đồng dân cư về tầm quan trọng của việc bảo vệ môi trường, bảo đảm môi trường phát triển bền vững của quốc gia. Trong Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam (Chương trình Nghị sự 21 của Việt Nam) [105], có viết: Mục tiêu tổng quát của phát triển bền vững là đạt được sự đầy đủ về vật chất, sự giàu có về tinh thần và văn hóa, sự bình đẳng của các công dân và sự đồng thuận của xã hội, sự hài hòa giữa con người và tự nhiên; phát triển phải kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hoà được ba mặt là phát triển kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi trường Thực hiện phát triển bền vững ở Việt Nam, Báo cáo quốc gia tại Hội nghị cấp cao của Liên Hợp quốc về Phát triển bền vững (RIO+20) [109]. Báo cáo được xây dựng với các mục đích sau: Thứ nhất, đánh giá toàn cảnh 20 năm thực hiện phát triển bền vững và hạn chế trong việc thực hiện phát triển bền vững ở Việt Nam; Thứ hai, đưa ra những quan điểm và cam kết của Việt Nam đối với những vấn đề toàn cầu sẽ được bàn thảo tại Hội nghị và các giải pháp để vượt qua các thách thức mới nảy sinh trong giai đoạn hiện nay, hướng tới nền kinh tế xanh, ứng phó với biến đổi khí hậu để phát triển bền vững; Thứ ba, đưa ra những bài học kinh nghiệm và khuyến nghị của Việt Nam cho Ủy ban Liên Hợp quốc về phát triển bền vững. Từ mục
  17. 13 đích đó, báo cáo mong muốn chia sẻ với cộng đồng quốc tế những kinh nghiệm của Việt Nam trong thực hiện phát triển bền vững. Đồng thời, báo cáo cũng mong muốn được tiếp tục hợp tác và nhận được sự hỗ trợ, nhất là về nguồn lực tài chính và kỹ thuật của cộng đồng quốc tế để tiếp tục thực hiện phát triển bền vững trong bối cảnh những cuộc khủng hoảng mới nảy sinh trong thế kỷ XXI hiện nay. Tác giả Nguyễn Văn Ngừng trong công trình Một số vấn đề về bảo vệ môi trường với phát triển kinh tế ở nước ta hiện nay [75] cho rằng, môi trường là địa bàn và là đối tượng của phát triển. Phát triển là nguyên nhân tạo nên mọi biến đổi tích cực và tiêu cực đối với môi trường. Phát triển kinh tế - xã hội là nhu cầu tất yếu của loài người và tất nhiên trong quá trình phát triển kinh tế con người sẽ phải khai thác môi trường Trong bài: Tăng trưởng kinh tế và môi trường: Quốc gia nào tăng trưởng, quốc gia nào bảo vệ môi trường? [140], Wilfred Beckerman cho thấy việc lên tiếng về những hành động hà khắc ngay lập tức làm giảm đi sự chú ý về vấn đề nóng lên toàn cầu và những vấn đề môi trường nghiêm trọng mà các quốc gia đang phát triển phải đối mặt. Các nguồn lực hạn chế không còn giới hạn sự tăng trưởng và dường như thiệt hại kinh tế do biến đổi khí hậu gây ra không đáng kể trong tổng đầu ra của thế giới. Sự sụt giảm phúc lợi của người dân ở các quốc gia đang và kém phát triển ngày nay là kết quả của việc tiếp cận không công bằng tới nước sạch và vệ sinh môi trường, hoặc ô nhiễm đô thị, là lớn hơn nhiều và cần được quan tâm ưu tiên hơn những quan tâm khác của các thế hệ tương lai. Hay như trong nghiên cứu Tăng trưởng kinh tế và môi trường của Gene M.Grossman và Alan B.Krueger cũng chỉ ra rằng sự suy thoái môi trường không tỷ lệ với tốc độ tăng trưởng kinh tế. Thông qua nghiên cứu bốn chỉ số: ô nhiễm không khí đô thị, nồng độ ôxy ở các lưu vực sông, ô nhiễm đáy của các lưu vực sông, ô nhiễm lưu vực sông do kim loại nặng gây ra, các tác giả đã rút ra kết luận rằng, chỉ trong giai đoạn đầu của quá trình tăng trưởng mới
  18. 14 gây ra suy thoái và ô nhiễm môi trường, trong giai đoạn tiếp theo, chất lượng môi trường ngày càng được quan tâm và cải thiện. Và khi thu nhập quốc dân của một quốc gia vượt ngưỡng 8.000 USD/người/năm thì nền kinh tế tạo ra bước ngoặt trong bảo vệ môi trường, mức độ ô nhiễm và suy thoái môi trường được cải thiện dần dần [132, tr.353-377]. Tác giả Nguyễn Thế Chinh trong Giáo trình Kinh tế và Quản lý môi trường [18] đã chỉ ra mối quan hệ giữa kinh tế với môi trường là mối quan hệ tương tác hai chiều. Trong đó, hệ thống môi trường là nguồn cung cấp tài nguyên cho con người, là nơi chứa đựng phế thải, là không gian sống cho con người. Tuy nhiên, các khả năng này của môi trường là hữu hạn. Còn hệ thống kinh tế luôn diễn ra quá trình khai thác tài nguyên, chế biến nguyên liệu, sản xuất và phân phối tiêu dùng. Hoạt động kinh tế của con người tuân theo định luật thứ nhất của động học, đó là năng lượng và vật chất không tự nhiên sinh ra và không tự nhiên mất đi, chúng chỉ chuyển từ dạng này sang dạng khác. Từ đó, có thể thấy được rằng khi tài nguyên thiên nhiên được khai thác càng nhiều thì lượng rác thải mà con người thải ra môi trường càng lớn. Khi hệ thống kinh tế của con người càng phát triển, các hành vi kinh tế càng tinh vi thì lượng rác thải ra môi trường càng mang tính chất độc hại, gây ô nhiễm hoặc suy thoái môi trường. Vì mối quan hệ giữa con người với tự nhiên có nguồn gốc sâu xa, sự tác động qua lại giữa con người, xã hội và tự nhiên mang bản chất nguyên thủy, vì vậy, muốn bảo vệ môi trường tự nhiên, con người cần tìm ra bản chất và tác động vào các động lực của mối quan hệ đó. Tác giả Phạm Văn Boong với công trình: Ý thức sinh thái và vấn đề phát triển lâu bền [8], tác giả Bùi Văn Dũng với: Cơ sở triết học nghiên cứu mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường [35] đã dựa trên lập trường chủ nghĩa duy vật biện chứng làm rõ mối quan hệ biện chứng giữa con người với tự nhiên. Trong mối quan hệ đó luôn tồn tại mâu thuẫn: mâu thuẫn giữa yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội với yêu cầu bảo vệ môi trường. Khi những mâu thuẫn này được giải quyết làm cho xã hội phát triển, đồng
  19. 15 thời duy trì được sự cân bằng của tự nhiên và môi trường. Yêu cầu bảo vệ môi trường, bảo đảm mối quan hệ cân bằng giữa tự nhiên với xã hội là mục tiêu của mọi quá trình phát triển kinh tế bền vững. Để giải quyết vấn đề bảo vệ tài nguyên môi trường, trong nghiên cứu Tiến tới môi trường bền vững [119] của Trung tâm Nghiên cứu Tài nguyên và Môi trường, các tác giả đã tiếp thu và thao tác hóa khái niệm phát triển bền vững theo Báo cáo Brundlantd, theo đó, phát triển bền vững được quan niệm như một tiến trình đòi hỏi đồng thời trên bốn lĩnh vực: bền vững về kinh tế, bền vững về nhân văn, bền vững về môi trường, bền vững về kỹ thuật. Kỷ yếu hội thảo: Chính trị và Phát triển bền vững trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế - Những vấn đề lý luận và thực tiễn [55], do Học viện Báo chí và Tuyên truyền cùng với Văn phòng Viện Friedrich Ebert (Đức) đồng tổ chức, gồm rất nhiều bài viết phong phú về mối quan hệ giữa chính trị với phát triển bền vững, trong đó có những bài nghiên cứu về vai trò nhà nước đối với phát triển bền vững như bài: Vai trò của nhà nước và các đảng phái chính trị đối với sự phát triển bền vững của Thomas Meyer; Vai trò của nhà nước với việc phát triển bền vững ở nước ta hiện nay của Trần Thành Nội dung các bài viết đã đề cập đến xu hướng và sự cần thiết phải đưa quan niệm phát triển bền vững từ lý luận đến thực tiễn, trong đó phải thấy được mối quan hệ giữa thể chế chính trị và chiến lược phát triển bền vững của từng quốc gia. Nói cách khác, các tác giả đã chỉ ra vai trò của nhà nước và các đảng phái chính trị đối với sự phát triển bền vững. Ngoài ra, quan tâm tới mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường cũng như các yếu tố cho sự phát triển, tác giả Nguyễn Trọng Chuẩn từ nhiều năm trước đây đã có nhiều bài viết nghiên cứu sâu và có hệ thống như: Chủ động đề phòng nạn ô nhiễm môi trường trong quá trình công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa [20]; Những tư tưởng của Ph.Ăngghen về quan hệ giữa con người và tự nhiên trong “Biện chứng của tự nhiên” [21]; Tăng trưởng kinh tế và những bảo đảm cần có nhằm duy trì môi trường cho sự phát
  20. 16 triển lâu bền [22]; Nguồn nhân lực trong công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước [23]; Nguồn nhân lực và sự phát triển [24]; Mối quan hệ biện chứng giữa đổi mới chính sách kinh tế và đổi mới chính sách xã hội [25]; Để cho khoa học và công nghệ trở thành động lực của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước [26]; Các bài viết và sách đã tập trung bàn đến: những tư tưởng của những nhà sáng lập chủ nghĩa Mác về quan hệ giữa con người và tự nhiên trong mối quan hệ với phát triển, chỉ ra vai trò của triết học - khoa học tự nhiên - cách mạng khoa học - kỹ thuật trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường; vai trò cách mạng khoa học kỹ thuật đối với công cuộc đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; tập trung phát triển nguồn nhân lực lực trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội; chủ động đề phòng nạn ô nhiễm môi trường trong quá trình công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa; tăng trưởng kinh tế và những bảo đảm cần có nhằm duy trì môi trường cho sự phát triển bền vững 1.2. CÁC CÔNG TRÌNH ĐỀ CẬP ĐẾN THỰC TRẠNG KẾT HỢP TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VỚI BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG Ở VIỆT NAM NÓI CHUNG VÀ Ở BẮC TRUNG BỘ VIỆT NAM NÓI RIÊNG Trong tiến trình phát triển, nhân loại sớm tìm cách nhận thức mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, giữa hoạt động kinh tế với bảo vệ môi trường sống và tìm cách giải quyết mối quan hệ đó. Tuy nhiên, phải đến khi chủ nghĩa Mác - Lênin ra đời, mối quan hệ này mới được nhìn nhận một cách toàn diện, trên cơ sở hiểu biết khoa học, biện chứng về thế giới. Ở nước ta, trong thời gian qua, vấn đề kết hợp tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường cùng nhiều vấn đề liên quan khác đã trở thành nội dung quan trọng trong các chiến lược, các hội nghị, hội thảo về phát triển, các công trình nghiên cứu khoa học của nhiều cấp bộ, ngành từ trung ương đến cơ sở. Tác giả Lê Quý An với bài viết Dân số, tài nguyên, môi trường và phát triển [2] đã chỉ ra rằng, nền kinh tế nước ta đang phát triển chủ yếu dựa vào khai thác tài nguyên, vì vậy, kinh tế tăng trưởng cao hơn đồng
  21. 17 nghĩa với việc khai thác và sử dụng tài nguyên thiên nhiên nhiều hơn. Khi đó, vừa khai thác nhiều tài nguyên thiên nhiên và lượng chất thải của nền kinh tế vào môi trường cũng tăng lên. Tuy nhiên, những tác động của kinh tế lên môi trường rất khó nhìn thấy ngay, vì vậy, vấn đề bảo vệ môi trường là rất khó khăn. Tác giả cũng đã đưa ra các ví dụ điển hình về mức độ môi trường bị ảnh hưởng, trên cơ sở đó đề xuất phải thực hiện ngay những biện pháp để bảo vệ môi trường cho sự phát triển. Thảo luận chính sách về Đánh giá tác động môi trường ở Việt Nam: Từ pháp luật tới thực tiễn [118] của Trung tâm Con người và Thiên nhiên đã chỉ ra, việc đánh giá tác động môi trường là một trong những công cụ pháp lý và kỹ thuật quan trọng để xác định, phân tích và dự báo các tác động môi trường của các dự án, kế hoạch, quy hoạch phát triển; chúng cung cấp những luận cứ khoa học cho chính quyền, cơ quan quản lý chuyên ngành và doanh nghiệp cân nhắc trong quá trình ra quyết định đầu tư. Các yêu cầu về đánh giá tác động môi trường đã được luật hóa và quy định trong Luật Bảo vệ môi trường của Việt Nam, tuy nhiên, hoạt động này ở Việt Nam vẫn bộc lộ nhiều bất cập và yếu kém cả về chất lượng cũng như sự tuân thủ quy trình đánh giá. Các chủ đầu tư, nhà lập kế hoạch và quy hoạch hiện đang coi quy trình đánh giá như là một bước thủ tục nhằm hợp thức hóa việc thẩm định và phê duyệt các dự án đầu tư, kế hoạch, quy hoạch và hậu quả là trên thực tế, những quy phạm pháp luật về bảo vệ môi trường vẫn bị vi phạm nghiêm trọng. Vấn đề đặt ra hiện nay đối với các nhà lập pháp chính là phải chấn chỉnh, tăng cường tính nghiêm minh của pháp luật, bảo đảm thực thi và tuân thủ chặt chẽ những quy định về đánh giá tác động môi trường trong quá trình xây dựng, đầu tư, quy hoạch phát triển, giúp bảo vệ môi trường tự nhiên và môi trường sống của Việt Nam trong những năm tiếp theo, giảm nhẹ tác động tới môi trường từ các hoạt động kinh tế của con người.
  22. 18 Kỷ yếu Hội thảo khoa học: Một số vấn đề phát triển kinh tế - xã hội buôn làng các dân tộc Tây Nguyên [103], có rất nhiều bài viết đề cập và phân tích về phát triển kinh tế - xã hội, vấn đề sử dụng đất đai, về nạn phá rừng, cần phải bảo vệ rừng nhất là rừng đầu nguồn ở các tỉnh nói riêng, ở buôn làng Tây Nguyên nói chung. Đặc biệt, trong Một số vấn đề về bảo vệ môi trường với phát triển kinh tế ở nước ta hiện nay [75], tác giả Nguyễn Văn Ngừng cho rằng đối với một quốc gia đang phát triển, đang trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, việc gắn phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường là tất yếu. Trên thực tế Đảng và Nhà nước ta đã có những biện pháp và chính sách khác nhau nhằm can thiệp mạnh mẽ vào các hoạt động kinh tế để bảo vệ các yếu tố của môi trường, ngăn chặn việc gây ô nhiễm, suy thoái về môi trường. Tác giả cho rằng bảo vệ môi trường là việc phải làm trong mọi thời kỳ, mọi giai đoạn phát triển của đất nước, đặc biệt trong giai đoạn phát triển kinh tế thị trường hiện nay thì vấn đề môi trường được đặt ra cấp bách hơn bao giờ hết. Phát triển kinh tế thị trường để tạo cơ sở, tiền đề vững chắc cho thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội nhưng không có nghĩa là phải phát triển bằng mọi giá. Nếu chỉ vì nhu cầu trước mắt, lợi ích trước mắt mà phá vỡ quy luật của phát triển bền vững, phá hủy môi trường thì chúng ta đang dần đánh mất cuộc sống của chính mình. Việc phát triển kinh tế hiện nay ở nước ta đang gây ra nhiều tác hại về môi trường. Vì vậy, muốn phát triển bền vững, chúng ta cần nhìn nhận đúng về mối quan hệ tương hỗ giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường ở nước ta hiện nay. Theo kinh nghiệm của nhiều quốc gia trên thế giới, nhờ đạt được mức độ nhất định trong phát triển kinh tế, khoa học và công nghệ mà có điều kiện dần dần hạn chế ô nhiễm môi trường, khôi phục các vùng tự nhiên bị khai thác và sử dụng quá mức. Đối với Việt Nam, trong quá trình chuyển giao giữa cơ chế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp sang cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì càng phải chú ý kết hợp tốt giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường.
  23. 19 Trong Quản lý môi trường cho sự phát triển bền vững [50], các tác giả Lưu Đức Hải, Nguyễn Ngọc Minh đã làm rõ khái niệm phát triển, so sánh trình độ phát triển giữa các quốc gia. Vấn đề tăng dân số thế giới và tốc độ tăng trưởng kinh tế, bất bình đẳng về thu nhập, nghèo đói vấn đề ô nhiễm môi trường và nguy cơ biến đổi khí hậu toàn cầu nhằm đưa ra các chỉ tiêu về tính bền vững của phát triển; đồng thời các tác giả đã xác định phát triển bền vững qua các tiêu chí: bền vững kinh tế, bền vững môi trường, bền vững văn hóa, đồng thời tổng quan nhiều mô hình phát triển bền vững. Bàn về các khía cạnh cụ thể trong quá trình tăng trưởng, phát triển kinh tế và mối quan hệ với môi trường, cuốn Phát triển bền vững của Việt Nam: thành tựu, cơ hội, thách thức và triển vọng [99] của Ngô Quang Thái và Ngô Thắng Lợi. Các tác giả đã nghiên cứu, phân tích thực trạng phát triển của kinh tế - xã hội và môi trường Việt Nam trong thời gian đổi mới, phân tích những yếu tố hay những điều kiện để có thể giúp Việt Nam đạt được những tiến bộ khả quan để thực hiện phát triển bền vững. Thực tế thế kỷ XX chỉ ra rằng nếu đặt sự phát triển bền vững vào “bàn tay thị trường” thì không thể đem lại hiệu quả như mong muốn, bởi những khuyết tật của cơ chế này. Những khuyết tật đó là căn cứ luận chứng cho sự cần thiết phải có “bàn tay hữu hình” của Nhà nước tham gia vào điều tiết, quản lý môi trường xã hội. Song thực tế cũng chứng minh rằng nếu Nhà nước can thiệp bất hợp lý vào các quá trình phát triển cũng có thể trở thành trở ngại cho phát triển bền vững. Do đó, Nhà nước can thiệp đến mức độ nào, sử dụng công cụ như thế nào ở từng giai đoạn phát triển là vấn đề luôn được quan tâm nghiên cứu. Công trình: Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn ở nước ta hiện nay: khía cạnh môi trường sống [54], tác giả Nguyễn Đình Hòa đã khẳng định vai trò của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn. Tác giả chỉ ra những tác động của công nghiệp hoá đối với môi trường trong sản xuất nông nghiệp tại các địa bàn nông thôn. Tác giả đã đứng trên lập trường của phép biện chứng
  24. 20 duy vật để xem xét mối quan hệ con người - tự nhiên trong sự nghiệp công nghiệp hoá nông nghiệp, nông thôn. Trên cơ sở đó chỉ ra những biểu hiện cũng như xu thế biến đổi của môi trường dưới tác động của quá trình phát triển kinh tế mà công nghiệp hoá đang được sử dụng là một công cụ. Tác giả cũng luận giải và chỉ ra những biểu hiện và các nguyên nhân của ô nhiễm môi trường đối với nông nghiệp, nông thôn; từ đó đưa ra cách thức giải quyết cho vấn đề bảo vệ môi trường trong nông nghiệp nói riêng và môi trường nói chung hiện nay. Trong Bảo vệ môi trường - Yêu cầu cấp thiết trong thời kỳ mới [100], Chu Thái Thành đã đi vào phân tích mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường trước những đòi hỏi của thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Vấn đề bảo vệ môi trường trong quá trình thực hiện các chương trình phát triển kinh tế - xã hội ở vùng dân tộc và miền núi [6], tác giả Hoàng Hữu Bình đã khái quát được những nhiệm vụ quan trọng trong vấn đề bảo vệ môi trường ở các vùng dân tộc và miền núi, nơi mà đang chịu sự tác động của các chương trình kinh tế - xã hội mới của Đảng và Nhà nước. Việt Nam: Một số điển hình phát triển bền vững (2012), Báo cáo tại Hội nghị cấp cao của Liên Hợp quốc về Phát triển bền vững (RIO+20) [109], Thủ tướng Chính phủ đã trình bày tiến trình thực hiện phát triển bền vững ở Việt Nam, nhiều hoạt động, mô hình, sáng kiến phát triển bền vững đã được triển khai và đạt được những kết quả tích cực, góp phần thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững của đất nước. Trong những hoạt động, mô hình, sáng kiến đã được triển khai có những mô hình, sáng kiến tốt, được xem như là những điển hình phát triển bền vững ở Việt Nam. Báo cáo này là tổng hợp đánh giá một số điển hình phát triển bền vững được thực hiện ở Việt Nam thời gian qua, đồng thời rút ra những bài học kinh nghiệm và khuyến nghị để tiếp tục thực hiện các mô hình, sáng kiến điển hình, góp phần thúc đẩy tiến trình phát triển bền vững ở Việt Nam.
  25. 21 Về phía địa phương các tỉnh Bắc Trung bộ. Văn kiện Đại hội Đảng bộ các tỉnh Thanh Hoá, Hà Tĩnh lần thứ XV, XVI, XVII; Báo cáo tổng hợp Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Thanh Hoá đến năm 2020 [124] của Uỷ ban nhân dân tỉnh Thanh Hoá. Báo cáo này đã thể hiện chiến lược quy hoạch phát triển kinh tế của tỉnh Thanh Hoá đến năm 2020, trong đó có đưa ra các biện pháp giảm thiểu ô nhiễm môi trường cho các công trình kinh tế - xã hội. Báo cáo hiện trạng môi trường Thanh Hoá các năm từ 2010 đến năm 2014 [96], [97] đã cung cấp một cách khá đầy đủ về các mặt của môi trường và tài nguyên Thanh Hoá qua các năm dưới sự tác động của phát triển kinh tế - xã hội. Báo cáo tình hình thực hiện Nghị quyết 41/NQ-TW của Bộ Chính trị về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước tại tỉnh Thanh Hoá của Sở Tài nguyên và Môi trường Thanh Hoá v.v Các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên Huế trong những năm vừa qua đã có nhiều công trình và cách tiếp cận để giải quyết vấn đề môi trường, bảo đảm sự phát triển [122], [123], [124], [125], [126], [127]. Tuy nhiên, việc các tỉnh đưa ra các công trình, giải pháp đó là để giải quyết hậu quả của những vấn đề môi trường do kết quả quá trình phát triển kinh tế gây ra. Cũng vì vậy, các công trình và hoạt động thực tiễn đó chủ yếu là những biện pháp trước mắt chứ không có tính lâu dài cho sự phát triển bền vững. Tại Nghệ An, thông qua Báo cáo kết quả giám sát của Đoàn giám sát Ban kinh tế và ngân sách Hội đồng nhân dân tỉnh (6/2012) về công tác quản lý, bảo vệ và xử lý ô nhiễm môi trường trên địa bàn tỉnh cho thấy, Ủy ban nhân dân tỉnh đã tích cực chỉ đạo các ngành, các cấp quan tâm đến công tác quản lý, bảo vệ và xử lý ô nhiễm môi trường; nâng cao công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật, nâng cao nhận thức và trách nhiệm xã hội về bảo vệ môi trường Tại Hà Tĩnh, Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh cũng đã có sự điều tra và nghiên cứu về tác động môi trường của các Khu kinh tế (KKT), Khu công nghiệp (KCN), Cụm công nghiệp (CCN) trên địa bàn. Tuy nhiên, theo đánh giá,
  26. 22 hầu hết tại các KKT, KCN, CCN hiện nay chưa có số liệu đo đạc chính xác về mức độ ô nhiễm. Tại một số KKT, KCN như KKT Cửa khẩu quốc tế Cầu Treo đã có xây dựng khu xử lý chất thải rắn, hay KKT Vũng Áng đang tiến hành xây dựng nhà máy xử lý nước thải tập trung. Trong quá trình thẩm định các dự án đầu tư, yêu cầu về lập đánh giá tác động môi trường của dự án có được yêu cầu nhưng thực hiện trên thực tế lại chưa chặt chẽ, thiếu hướng dẫn cho các doanh nghiệp; vấn đề triển khai thực hiện các quy định pháp luật về môi trường còn chậm, lúng túng do hạn chế về nguồn lực con người, kinh tế [87] Tại Quảng Bình, UBND tỉnh đã có Quyết định số 12/2012/QĐ-UBND quy định về Quy chế bảo vệ môi trường trên địa bàn tỉnh. Trong đó có nêu ra các nguyên tắc bảo vệ môi trường bao gồm: bảo vệ môi trường phải gắn kết hài hòa với phát triển kinh tế, bảo đảm tiến bộ xã hội để phát triển bền vững địa phương và đất nước; bảo vệ môi trường là sự nghiệp của toàn xã hội, là quyền lợi và trách nhiệm của cơ quan nhà nước, tổ chức, hộ gia đình, cá nhân trong quá trình sống và hoạt động; hoạt động bảo vệ môi trường phải thường xuyên, lấy phòng ngừa là chính kết hợp chặt chẽ với xử lý, khắc phục ô nhiễm, suy thoái và cải thiện chất lượng môi trường ngày càng tốt hơn; tổ chức, hộ gia đình, cá nhân gây ô nhiễm, suy thoái môi trường có trách nhiệm đến cùng trong việc khắc phục triệt để ô nhiễm môi trường, bồi thường thiệt hại và chịu các trách nhiệm khác theo quy định của pháp luật hiện hành; không được nhập bất cứ một loài sinh vật ngoại lai, sinh vật biến đổi gen nào vào địa bàn khi chưa được cấp có thẩm quyền cho phép; các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ phải áp dụng công nghệ sạch, thân thiện với môi trường; bảo đảm phát triển sản xuất theo hướng bền vững Tại Quảng Trị, hàng năm đều có kế hoạch bảo vệ môi trường của UBND tỉnh. Từng năm, tỉnh xác định những điểm nóng về ô nhiễm môi trường để xử lý và tăng cường công tác phòng ngừa, kiểm soát ô nhiễm. Bên cạnh đó, UBND tỉnh Quảng Trị cũng có báo cáo đánh giá công tác thực hiện chính sách pháp luật về bảo vệ môi trường từ năm 2009 đến năm 2014, trong đó nêu lên hiện trạng môi
  27. 23 trường trên địa bàn tỉnh, các kết quả đạt được trong việc ban hành chính sách quy phạm pháp luật, chỉ đạo và tham gia thực hiện yêu cầu trong Chiến lược quốc gia về bảo vệ môi trường, quan trắc, đánh giá hiện trạng môi trường, từ đó có những biện pháp cụ thể để dự trù kinh phí cho công tác bảo vệ môi trường, ban hành và áp dụng các hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn về môi trường Tại Thừa Thiên Huế, UBND tỉnh cũng đã có nhiều cố gắng và chỉ đạo trong công tác bảo vệ môi trường, đặc biệt khi Huế là một trong những trung tâm du lịch - văn hóa - chính trị của khu vực Bắc Trung bộ và cả nước. Thông qua Chỉ thị số 16/2014/CT-UBND ngày 08/4/2014, UBND tỉnh đã chỉ rõ nhiệm vụ của các cấp, các ngành trong bảo vệ môi trường, quản lý chất thải và ô nhiễm môi trường cũng như xử lý các sự cố môi trường diễn ra trên địa bàn tỉnh. Trong đó, đóng vai trò nòng cốt là Sở Tài nguyên và Môi trường với chức năng, nhiệm vụ chính trong việc kiểm tra, giám sát việc thực hiện báo cáo đánh giá tác động môi trường; tổ chức quản lý, giám sát việc đăng ký và thực hiện thu gom, xử lý chất thải nguy hại, xây dựng cơ sở dữ liệu bản đồ trên nền GIS đối với các cơ sở có chất thải nguy hại trên địa bàn tỉnh; chủ trì, phối hợp với các sở, ban, ngành liên quan, các đoàn thể trong tuyên truyền, giáo dục nâng cao ý thức, xử lý triệt để các nguồn gây ô nhiễm nghiêm trọng, xử lý các vi phạm về môi trường, khuyến khích đầu tư vào lĩnh vực môi trường; đẩy nhanh xã hội hóa công tác bảo vệ môi trường, đặc biệt trong lĩnh vực thu gom, xử lý rác thải 1.3. CÁC CÔNG TRÌNH ĐỀ CẬP ĐẾN QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP KẾT HỢP TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VỚI BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG Trong tiến trình phát triển của xã hội loài người, dù ở cấp độ thấp hay cao, mỗi một bước tiến của con người đều tác động đến môi trường tự nhiên dù ít, dù nhiều, theo chiều hướng tích cực hay tiêu cực. Vì con người buộc phải tác động vào giới tự nhiên, dùng vật phẩm của tự nhiên để sản xuất tạo cho mình các sản phẩm đáp ứng sự phát triển. Do vậy, việc con người tác động vào tự nhiên liên tục và lớn dần tạo nên sự phát triển của xã hội, hình thành nên các giá trị của xã hội.
  28. 24 Tuy nhiên, trong thời gian qua, với những mục đích tăng trưởng kinh tế khác nhau, nhiều quốc gia đã để lại những hậu quả xấu về môi trường, về xã hội do bất chấp mọi điều để đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế. Đó là sự tăng trưởng kinh tế không bền vững. Trước thực trạng đó, các tổ chức quốc tế, các nhà khoa học đã cảnh tỉnh và kêu gọi nhân loại cần bước vào kỷ nguyên của sự tăng trưởng và phát triển bền vững. Nói cách khác, nhân loại cần tìm đến quan điểm, và các giải pháp kết hợp tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường. Xung quanh vấn đề này, trong thời gian gần đây đã có các tác giả trong và ngoài nước đề cập trên các phương diện khác nhau. Bài viết Có phải suy thoái môi trường là hệ quả tất yếu của tăng trưởng kinh tế: Nghiên cứu thông qua đường cong Kuznets môi trường - EKC [135] của Mohan Munasinghe cho rằng, những cải cách về kinh tế trên diện rộng thường góp phần thúc đẩy lợi ích về kinh tế, xã hội và môi trường. Tuy nhiên, nó cũng gây ra các tác dụng phụ khi trong quá trình cải cách kinh tế, người ta bỏ qua các chính sách khác, hoặc thị trường hay thể chế không hoàn hảo. Thông thường các biện pháp để khắc phục hậu quả không yêu cầu phải đảo ngược quá trình cải cách đó mà thay bằng việc đưa ra các biện pháp bổ sung vào việc thực hiện trước đó để loại bỏ sự không hoàn hảo. Cách tiếp cận EKC tìm cách liên hệ giữa môi trường và phát triển. Theo đó, các nước đang phát triển có thể học hỏi kinh nghiệm của các quốc gia công nghiệp, tiến hành chuyển dịch cơ cấu và tăng trưởng thông qua bất kỳ đường EKC tiềm năng nào, nhờ đó có thể tránh khỏi những phát triển có khả năng gây tổn hại tới môi trường. Tác giả cũng khuyến nghị các chính phủ cần quyết tâm trong việc tìm ra các chính sách cùng thắng để đồng thời mang lại lợi ích kinh tế và lợi ích môi trường; giảm thiểu tác hại đối với môi trường bằng các biện pháp khắc phục hậu quả trước đó, cải cách chính sách để tránh thiệt hại môi trường nghiêm trọng. Bài viết cũng chỉ ra việc áp dụng các chính sách bền vững hơn sẽ tạo điều kiện cho việc đạt được tăng trưởng cao hơn với chi phí môi trường thấp hơn.
  29. 25 Trong bài Lựa chọn chính sách nội bộ: trường hợp giữa ô nhiễm và tăng trưởng [134], tác giả Larry E.Jonesa và Rodolfo E.Manuellib đã phân tích mối quan hệ giữa hành vi cân bằng của hai đại lượng: mức độ ô nhiễm và thu nhập, trong bối cảnh xã hội tiến hành lựa chọn, thông qua biểu quyết, quy định về mức độ ô nhiễm cho phép là bao nhiêu. Các tác giả đã đi đến kết luận rằng, mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và ô nhiễm môi trường không hoàn toàn tỷ lệ và sự cân bằng tự nhiên giữa chúng phụ thuộc vào việc người ta bỏ phiếu cho các loại phí thải hay giới hạn trong việc lựa chọn công nghệ sử dụng. Bên cạnh đó, việc lựa chọn chính sách nội bộ dựa trên tính không đồng nhất về các nguồn lực tiềm năng, tùy thuộc vào nền kinh tế của từng quốc gia áp dụng chính sách môi trường riêng của mình. Tuy nhiên, hiện nay các mô hình tăng trưởng của hầu hết các quốc gia trên thế giới đều mâu thuẫn với các mục tiêu bảo vệ môi trường, tất cả chúng đều có những giới hạn nhất định. Khi phân tích về Giới hạn của các mô hình tăng trưởng [136], Robert U.Ayres đã chỉ ra bốn điểm chính trong các mô hình tăng trưởng hiện nay là: (1) tăng trưởng kinh tế không phải và không bao giờ là thành phần quan trọng nhất đóng góp vào việc tăng phúc lợi của con người; (2) nếu xem xét một cách riêng biệt thì những tiến bộ khoa học - công nghệ luôn là động lực quan trọng thúc đẩy tăng trưởng và tiến bộ xã hội; (3) thương mại có thể đóng góp một phần cho tăng trưởng trong quá khứ, nhưng trong hiện tại lại gây ra những tác động tiêu cực cho sự giàu có của quốc gia và ảnh hưởng tới phúc lợi (trường hợp nghiên cứu ở Tây Âu và Bắc Mỹ) và (4) cả tăng trưởng (trong GDP) và thương mại đều có mâu thuẫn với các mục tiêu bảo vệ môi trường. Trên thực tế, sự gia tăng thịnh vượng khiến môi trường trở nên nhạy cảm hơn, nhiều quy trình được áp dụng trên thực tế gây ra sự suy thoái môi trường nghiêm trọng. Trong nghiên cứu về Tăng trưởng kinh tế, sức chống đỡ và môi trường [133], nhóm tác giả Kenneth Arrow, Bert Bolin, Robert Costanza, Partha Dasgupta, Carl Folke, C.S.Holling, Bengt-Owe Jansson, Simon Levin, Karl- Goran Maler, Charles Perrings, David Pimentel kết luận rằng tự do hóa kinh
  30. 26 tế và các chính sách khác thúc đẩy tăng trưởng sản lượng quốc gia là không thể thay thế cho chính sách môi trường. Ngược lại, nó cũng có thể đi cùng với cải cách chính sách chặt chẽ hơn. Đặc biệt, quan trọng là sự cần thiết phải cải cách để cải thiện các tín hiệu được nhận bởi người sử dụng tài nguyên. Thiệt hại môi trường, bao gồm mất khả năng phục hồi sinh thái, thường xảy ra đột ngột, và không tái tạo lại được. Nhưng hiếm khi thay đổi đột ngột có thể được dự đoán từ hệ thống tín hiệu thường nhận được hay ra quyết định trong thế giới ngày nay. Hơn nữa, các tín hiệu rằng có tồn tại thường không quan sát thấy, hoặc được hiểu sai, hoặc không phải là một phần của cơ cấu khuyến khích của xã hội. Điều này là do sự thiếu hiểu biết về tác động của những thay đổi trong các biến hệ sinh thái (ví dụ, ngưỡng, khả năng đệm và mất khả năng phục hồi) và sự hiện diện của những trở ngại về thể chế, chẳng hạn như thiếu quyền sở hữu được xác định rõ. Trên tất cả, với sự không chắc chắn cơ bản về bản chất của động lực học của hệ sinh thái và các hậu quả nghiêm trọng, chúng ta sẽ phải đối mặt nếu chúng ta đoán sai, điều cần thiết là phải hành động một cách thận trọng để duy trì sự đa dạng và khả năng phục hồi của hệ sinh thái. Tăng trưởng kinh tế không phải là liều thuốc chữa bách bệnh cho chất lượng môi trường. Nội dung của tăng trưởng - thành phần đầu vào (bao gồm cả tài nguyên môi trường) và đầu ra (bao gồm cả chất thải) là vấn đề quan trọng. Các biện pháp mà nghiên cứu đưa ra sẽ không chỉ thúc đẩy hiệu quả cao hơn trong việc phân bổ các nguồn tài nguyên môi trường ở tất cả các mức thu nhập, mà còn bảo đảm một quy mô bền vững của hoạt động kinh tế trong hệ thống hỗ trợ sự sống sinh thái. Bảo vệ năng lực của các hệ sinh thái để duy trì phúc lợi ngày càng có tầm quan trọng đối với các nước nghèo cũng như đối với nước giàu. Trong nghiên cứu Chuyển đổi mô hình tăng trưởng và tăng trưởng bền vững ở Trung Quốc [139], nhóm tác giả Wang Xiaolu, Fan Gang and Liu Peng đã sử dụng mô hình tăng trưởng Lucas để kiểm tra sự chuyển đổi mô hình tăng trưởng ở Trung Quốc, và thấy rằng sự chuyển đổi mô hình tăng
  31. 27 trưởng của Trung Quốc đang tăng lên trong suốt quá trình chuyển đổi. Các nguồn lực của sự chuyển đổi mô hình tăng trưởng đang thay đổi, tiến trình công nghệ và việc nâng cao hiệu quả nguồn nội bộ đang được thay thế bằng các nguồn lực bên ngoài làm tăng hiệu quả. Nghiên cứu thực nghiệm này cũng cho thấy các tác động tiêu cực nội bộ lên sự chuyển đổi mô hình tăng trưởng là quan trọng, tức là, việc mở rộng các chi phí hành chính của chính phủ và việc tiếp tục giảm trong tỷ lệ tiêu dùng cuối cùng trên GDP. Giả định rằng những vấn đề này có thể giải quyết được, Trung Quốc vẫn có thể duy trì tốc độ tăng trưởng trên 9% cho đến năm 2020. Trong bài viết Tăng trưởng kinh tế, tính cạnh tranh quốc tế và bảo vệ môi trường: Nghiên cứu phát triển và các chiến lược đổi mới với mô hình WARM [130] của Carlo Carraro, Marzio Galeotti cho thấy, người ta thường cho rằng những chính sách bảo vệ môi trường thường gây cản trở cho tăng trưởng kinh tế. Hơn nữa nếu xét đơn lẻ ở một quốc gia chúng có thể làm giảm sức cạnh tranh quốc tế của các doanh nghiệp trong nước. Những lập luận đó nhìn chung đều dựa trên những giả định là việc bảo vệ môi trường đồng nghĩa với áp dụng các chi phí xả thải (ví dụ như thuế Cacbon). Tuy nhiên, ba vấn đề cần được đặt ra là: một, thuế không phải là công cụ chính sách duy nhất; hai, ngay cả khi chính sách thuế được thực hiện, điều quan trọng là đánh giá hiệu quả thông tin phản hồi đưa ra bởi việc quay vòng nguồn thu thuế; ba, quan trọng nhất là tiến bộ khoa học kỹ thuật không thể bỏ qua. Do đó, có thể cùng tồn tại chính sách cung cấp cả những ưu tiên cho các công ty áp dụng các công nghệ tiết kiệm năng lượng và đầu tư nghiên cứu phát triển các công nghệ thân thiện với môi trường. Sử dụng WARM, một mô hình cân bằng tổng thể của EU cho mỗi quốc gia thành viên, nghiên cứu trình bày kết quả mô phỏng đến năm 2015 về tác động của một số chính sách công nghiệp - môi trường nhằm mục đích bảo vệ môi trường mà không cần thiết làm giảm tính cạnh tranh và giảm tăng trưởng kinh tế. Kết quả cho thấy các chính sách kích thích nghiên cứu và phát triển vì
  32. 28 môi trường, tiến bộ công nghệ và việc phổ biến chúng có thể cho phép các công ty với những khuyến khích đúng đắn sẽ làm giảm tác động tới môi trường, trong khi đó có thể giữ vững tính cạnh tranh của chúng trên thị trường. Học giả Robert W.Haun và Robert N.Stavins trong bài Khuyến khích kinh tế cho việc bảo vệ môi trường: kết hợp giữa lý thuyết và thực tiễn [137], cho rằng trong nhiều thập kỷ nhiều nhà kinh tế đã đề cao ưu điểm của phương pháp tiếp cận dựa vào thị trường hoặc động lực kinh tế để bảo vệ môi trường. Trong những năm 70 của thế kỷ XX, Pigou đề nghị điều chỉnh thuế để khuyến khích các hoạt động có tác động bên ngoài hệ thống. Gần nửa thế kỷ sau, Dales chỉ ra rằng quyền sở hữu có thể chuyển nhượng được có thể khuyến khích việc bảo vệ môi trường với chi phí gia tăng thấp hơn các tiêu chuẩn thông thường. Có nhiều nghiên cứu đã được phát triển từ hai ý tưởng trên. Cho đến nay, những nghiên cứu đều tập trung vào việc sử dụng lệ phí và giấy phép có thể giao dịch để kiểm soát các vấn đề ô nhiễm. Tuy nhiên, vẫn có một khoảng cách khá lớn giữa lý thuyết và áp dụng các công cụ đó mặc dù chúng đã được nhiều quốc gia trên thế giới áp dụng hàng thập kỷ. Các công cụ sử dụng trong việc kiểm soát ô nhiễm môi trường được chia thành hai nhóm chính: (1) Nhóm cho phép các công ty sự linh hoạt tương đối để đạt được các mục tiêu - cách tiếp cận “ra lệnh và kiểm soát”; (2) Nhóm cho phép các công ty được linh hoạt hơn trong việc đưa ra những tiến bộ môi trường cùng với những động lực để tìm kiếm phương pháp hiệu quả hơn trong việc tạo ra các tiến bộ môi trường bền vững - cách tiếp cận dựa trên thị trường hoặc dựa trên động lực. Trên thực tế những công cụ ra lệnh và kiểm soát thường không mang lại hiệu quả bằng những công cụ dựa trên thị trường hoặc động lực bởi khi đó, các công ty sẽ buộc phải kiểm soát để đạt được yêu cầu về cùng một lượng phát thải chứ không phải kiểm soát tại cùng mức chi phí kiểm soát cận biên và do đó các giải pháp không đạt được hiệu quả về chi phí. Hiện đã có rất nhiều học giả quan tâm tới bảo vệ môi trường thông qua tiếp cận dựa trên thị trường đối với tất cả bốn nhóm của chính sách cộng đồng
  33. 29 về môi trường - chính phủ, các ngành công nghiệp, các tổ chức môi trường, và các tổ chức giáo dục. Bên cạnh đó cách tiếp cận dựa trên động lực cũng chứng minh được ưu điểm khi cung cấp các công cụ có hiệu quả hơn về mặt chi phí để đạt được chất lượng môi trường nhất định - ít nhất là ở mặt lý thuyết. Tùy theo điều kiện và sự thích hợp đối với nền kinh tế, các quốc gia có thể lựa chọn các công cụ tác động dựa trên cách tiếp cận thị trường hoặc động lực hoặc phi thị trường, phù hợp với bối cảnh thể chế và văn hóa. Để tăng cường biện pháp bảo vệ môi trường, các học giả cũng đề xuất với chính quyền các cấp cần tăng cường các công cụ kinh tế trong thực hiện các nguyên tắc phát triển bền vững. Trong bài Các công cụ kinh tế cho quy định về môi trường [138] của tác giả T.H.Tietenberg, Colby College có nêu ra vấn đề bảo vệ môi trường thông qua cách tiếp cận dựa trên động lực kinh tế, các nghiên cứu lý thuyết và thực nghiệm đã được nghiên cứu một cách thận trọng và nghiêm túc, cung cấp những kiến thức nhất định cho các nhà hoạch định chính sách. Các nhà kinh tế đều khuyến cáo cần nâng cao mối quan tâm đối với việc thắt chặt kiểm soát về môi trường cũng như những mối nguy hiểm trong nền kinh tế địa phương với việc thắt chặt kiểm soát trong môi trường toàn cầu có tính cạnh tranh cao. Bài nghiên cứu tập trung vào việc khái quát hóa về hai cách tiếp cận tạo động lực kinh tế - buôn bán khí thải và phí xả thải - cũng như mối liên hệ giữa chúng tới các chính sách điều tiết truyền thống. Ví dụ như chương trình mua bán khí thải cố gắng tạo ra sự linh hoạt đối với các điều luật về tiêu chuẩn môi trường trong bộ luật của các chính phủ bằng cách mở rộng sự lựa chọn của các công ty, các ngành công nghiệp trong việc đáp ứng các chuẩn trần về môi trường. Hay như chính sách bù đắp đòi hỏi phải có các nguồn lực mới và mở rộng trong những khu vực “không đạt” các tiêu chuẩn môi trường, để bảo đảm thực hiện đầy đủ sự cắt giảm lượng phát thải. Hoặc chính sách ngân hàng khí thải cho phép các công ty thu gom các chứng nhận ERC (Emission Reduction Certification - Chứng nhận giảm phát thải) để sử dụng trong chính sách bù đắp, chính sách bong bóng hoặc
  34. 30 bán cho các công ty khác. Nói chung, các công cụ sử dụng phương pháp tiếp cận dựa trên động lực kinh tế tạo ra những giá trị tăng thêm, bổ sung doanh thu từ các chính sách này cho các nguồn ngân sách thu về bằng các con đường truyền thống khác. Các công cụ sử dụng phương pháp tiếp cận dựa trên động lực kinh tế góp phần giảm bóp méo việc phân bổ các nguồn lực, sản xuất không hiệu quả và nâng cao hiệu quả trong sản xuất và tiêu dùng. Cũng có nhiều học giả nhìn nhận vai trò của công nghệ đối với việc xây dựng chính sách và bảo vệ môi trường như là một nhân tố quan trọng. Khi bàn về việc Xem xét lại chính sách môi trường: Vai trò của đổi mới công nghệ [131], tác giả Carlo Carraroa và Domenico Siniscaico, đã nhận thấy vai trò của đổi mới công nghệ và tổ chức ảnh hưởng tới sự khôn ngoan trong các chính sách về môi trường. Dựa trên những bằng chứng xác thực, thực tế cho thấy những mô hình toán kinh tế được sử dụng trong phân tích chính sách môi trường hiện nay chưa xác định đúng yếu tố quyết định tới ảnh hưởng của sự đổi mới và đưa ra những ước tính đáng tin cậy về hiệu ứng của chính sách. Một vài giải pháp sau đó cho thấy sự tích hợp giữa chính sách môi trường và chính sách công nghiệp tạo ra tầm ảnh hưởng lớn hơn những chính sách truyền thống trong việc bảo vệ môi trường. Hơn nữa, hợp tác công nghệ có thể là công cụ quan trọng để tạo ra sự ổn định trong các thỏa thuận môi trường quốc tế. Công trình Phát triển bền vững từ quan niệm đến hành động [101] Hà Huy Thành - Nguyễn Ngọc Khánh (Đồng chủ biên), đã đề cập những nội dung cơ bản, quá trình hình thành và phát triển của khái niệm, khuôn khổ, chương trình hành động, chỉ tiêu phát triển bền vững của Liên Hợp quốc và các quốc gia, khu vực trên thế giới, trên cơ sở đó rút ra những bài học về phát triển bền vững phù hợp với điều kiện Việt Nam. Đề tài nghiên cứu cấp Bộ: Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường ở Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa [34], Bùi Văn Dũng (Chủ nhiệm đề tài) đã phân tích mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường dưới góc độ triết học, quan niệm về
  35. 31 phát triển lâu bền, về những điều kiện cần thiết để duy trì mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường cho sự phát triển lâu bền trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước ở tầm vĩ mô. Bảo vệ môi trường và phát triển bền vững ở Việt Nam [16] của Lê Thạc Cán, Trương Quang Học, Phan Quang Thắng đã bàn tới sự cần thiết phải bảo vệ môi trường để tạo nên sự phát triển bền vững ở Việt Nam với những giải pháp cụ thể, thiết thực. Về luận án tiến sĩ đã thực hiện liên quan đến tăng trưởng kinh tế, phát triển kinh tế, bảo vệ và giám sát quá trình thực thi pháp luật về môi trường có: Luận án tiến sĩ Triết học của tác giả Bùi Văn Dũng với đề tài: Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường cho sự phát triển lâu bền [33], tác giả đã lý giải rõ hơn cơ sở triết học trong việc giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường; phân tích mâu thuẫn giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường và đưa ra những điều kiện cần thiết để giải quyết mâu thuẫn đó; phân tích một cách tương đối có hệ thống quan niệm phát triển lâu bền; bước đầu đề xuất một số giải pháp để kết hợp tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường cho sự phát triển lâu bền ở Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Luận án tiến sĩ Triết học của tác giả Lê Thị Thanh Hà với đề tài: Vai trò của Nhà nước đối với bảo vệ môi trường trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn ở Việt Nam hiện nay [48], đã làm rõ lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về vai trò của Nhà nước trong việc bảo vệ môi trường; đánh giá thực trạng vai trò của nhà nước Việt Nam đối với việc bảo vệ môi trường trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn; đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao vai trò của Nhà nước Việt Nam đối với việc bảo vệ môi trường trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Luận án tiến sĩ Triết học của tác giả Nguyễn Thị Khương với đề tài: Vai trò của Nhà nước trong việc kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế với
  36. 32 bảo vệ môi trường sinh thái ở nước ta hiện nay [60], đã làm rõ được những vấn đề đặt ra đối với việc nâng cao vai trò của Nhà nước trong việc kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái ở Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá; đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao vai trò của Nhà nước trong việc kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tác giả Lương Đình Hải trong: Một số nguyên tắc phương pháp luận căn bản của việc giải quyết mối quan hệ giữa hiện đại hoá xã hội và môi trường sinh thái [51], đã đưa ra các nguyên tắc để bảo đảm mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường gồm: “Nguyên tắc thay đổi nhận thức” - thay đổi cách nhìn nhận về môi trường và vai trò của môi trường sinh thái đối với các hoạt động của con người trong quá trình hiện đại hoá xã hội. Thay đổi cách thức tác động của con người vào tự nhiên và môi trường, làm cho sự tác động của con người vào môi trường mang tính thân thiện. Nguyên tắc thứ hai là: “Nguyên tắc về mặt lợi ích” - là gắn các lợi ích kinh tế của con người, cộng đồng với các giá trị về môi trường sinh thái. Bảo đảm cho quá trình duy trì và đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, đồng thời làm phong phú thêm các giá trị của tài nguyên thiên nhiên và môi trường. Trên cơ sở đó đưa vấn đề bảo vệ môi trường thành tiêu chí của sự tăng trưởng và bảo đảm các lợi ích của các thế hệ sau, duy trì sự phát triển bền vững. Nguyên tắc thứ ba là: “Nguyên tắc tăng trưởng kinh tế gắn liền với cải thiện và bảo vệ môi trường sinh thái”. Và nguyên tắc thứ tư là: “Nguyên tắc công nghệ tiên tiến”, tức là áp dụng các thành quả về khoa học, công nghệ vào quá trình khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên cho phát triển kinh tế và làm tốt công tác bảo vệ môi trường. Công trình Nghiên cứu xây dựng tiêu chí phát triển bền vững cấp quốc gia ở Việt Nam - giai đoạn I [129] do Viện Môi trường và phát triển bền vững, Liên hiệp các hội Khoa học và kỹ thuật Việt Nam thực hiện. Trên cơ sở tham khảo bộ tiêu chí phát triển bền vững của Bruntland và kinh nghiệm các
  37. 33 nước, các tác giả đã đưa ra các tiêu chí cụ thể về phát triển bền vững đối với một quốc gia là bền vững kinh tế, bền vững xã hội và bền vững môi trường. Đồng thời, nhóm tác giả cũng đề xuất một số phương án lựa chọn bộ tiêu chí phát triển bền vững cho Việt Nam. Để bảo vệ môi trường, các tác giả đề xuất một số nguyên tắc: bảo đảm tính hệ thống của môi trường; bảo đảm tính tổng hợp (bảo đảm tác động tổng hợp của hoạt động phát triển lên đối tượng quản lý - hệ thống môi trường); bảo đảm tính liên tục và nhất quán nhằm phù hợp với đặc tính của môi trường là một hệ thống liên tục, tồn tại, hoạt động và phát triển thông qua chu trình trao đổi vật chất, năng lượng và thông tin vận động liên tục trong không gian và thời gian; bảo đảm tập trung dân chủ bởi vấn đề môi trường là vẫn đề toàn cầu, đòi hỏi cần có sự tham gia của nhiều ngành, nhiều cấp, nhiều đối tượng thụ hưởng liên quan; kết hợp quản lý theo ngành và theo vùng lãnh thổ để tăng hiệu quả quản lý môi trường, quản lý khai thác và sử dụng tài nguyên hợp lý hơn. Ngoài ra, trong quản lý môi trường cần bảo đảm sự hài hòa về mặt lợi ích của các nhóm trong xã hội; kết hợp chặt chẽ giữa quản lý tài nguyên - môi trường với quản lý kinh tế, quản lý xã hội; sử dụng tiết kiệm và hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên sẵn có, tích cực tìm kiếm các nguồn năng lượng thay thế nhằm góp phần tích cực cải thiện môi trường, giảm nhẹ những tác động tiêu cực từ môi trường kinh tế - xã hội tới môi trường tự nhiên. Công trình: Đạo đức sinh thái trong hoạt động khai thác, sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường vì sự phát triển bền vững [115] của tác giả Phạm Thị Ngọc Trầm đề cập các nguyên tắc như: nguyên tắc quan hệ đạo đức sinh thái; những chuẩn mực của hành vi đạo đức sinh thái; những cơ sở lý luận và thực tiễn để xây dựng các chuẩn mực đạo đức sinh thái mới và biểu hiện cụ thể của chúng trong đời sống xã hội hiện nay Bàn về vai trò của Nhà nước đối với việc bảo vệ tài nguyên và môi trường trong mối tương quan với tăng trưởng kinh tế, nghiên cứu Quản lý nhà nước đối với tài nguyên và môi trường vì sự phát triển bền vững dưới góc nhìn xã hội - nhân văn [116] của Phạm Thị Ngọc Trầm đã phân tích vai trò của Nhà nước
  38. 34 thông qua việc khảo sát luật pháp và chính sách về tài nguyên môi trường, đánh giá ưu điểm và hạn chế của các chính sách đó đối với phát triển bền vững, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm bảo vệ bền vững tài nguyên, môi trường. Trong Giáo trình phát triển bền vững [36] của Bùi Văn Dũng (Chủ biên), các tác giả đã bàn đến những vấn đề lý luận về phát triển bền vững; giới thiệu khuôn khổ và thực thi phát triển bền vững của Liên Hợp quốc và một số quốc gia trên thế giới; đặc biệt các tác giả đã nghiên cứu về một số vấn đề phát triển bền vững ở Việt Nam trên các nội dung như: mục tiêu, nguyên tắc phát triển bền vững; các lĩnh vực xã hội cần ưu tiên thực hiện phát triển bền vững; các lĩnh vực tài nguyên - môi trường cần ưu tiên thực hiện phát triển bền vững; các vấn đề về thể chế cần ưu tiên thực hiện phát triển bền vững; Việt Nam thực hiện chiến lược phát triển bền vững trong thời gian qua; định hướng phát triển bền vững của Việt Nam đến năm 2020 1.4. KHÁI QUÁT KẾT QUẢ CỦA CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN VÀ VẤN ĐỀ ĐẶT RA CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU VỀ VIỆC KẾT HỢP TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VỚI BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG Ở CÁC TỈNH BẮC TRUNG BỘ VIỆT NAM HIỆN NAY Từ các công trình nêu trên cho thấy, các tác giả đã nghiên cứu các nội dung chủ yếu sau: 1. Xác định khái niệm liên quan tới tăng trưởng kinh tế, bảo vệ môi trường và mối quan hệ biện chứng giữa con người với tự nhiên, giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường trong tiến trình phát triển kinh tế chung của xã hội; 2. Nêu lên những nguyên nhân chủ yếu dẫn tới tình trạng suy thoái môi trường, biến đổi khí hậu và bất ổn kinh tế trên thế giới và ở trong nước cũng như những kinh nghiệm xử lý mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường thông qua các công cụ chính sách, công cụ kinh tế và công cụ tài chính; 3. Nghiên cứu về một số mô hình tăng trưởng được áp dụng trên thế giới cũng như ảnh hưởng của nó tới khả năng bảo vệ môi trường, phát triển
  39. 35 bền vững tại các quốc gia và sự lựa chọn của từng quốc gia trong điều kiện hạn hẹp về các nguồn lực giữa mục tiêu tăng trưởng hay mục tiêu môi trường; 4. Thực tiễn giải quyết mối quan hệ tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường, vai trò của các cơ quan quản lý nhà nước, các tổ chức, đoàn thể, các thành phần kinh tế và cộng đồng dân cư đối với sự nghiệp phát triển bền vững tại Việt Nam trong thời gian qua cũng như chính sách, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, môi trường và một số kinh nghiệm và giải pháp đã được áp dụng tại nhiều địa phương trên cả nước, đặc biệt là ở các tỉnh Bắc Trung bộ Việt Nam gồm: Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên Huế. Về cơ bản, các tác giả đã phản ánh khá đầy đủ, chi tiết về khái niệm, vai trò, vị trí và mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường đối với sự phát triển chung của xã hội trong tình hình hiện nay. Tuy nhiên, về mặt lý luận các công trình nghiên cứu kể trên chưa nêu bật được mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường ở các tỉnh Bắc Trung bộ Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, chưa phân tích được những yếu tố về tự nhiên, chính trị, văn hóa, lịch sử, xã hội, kinh tế và môi trường có ảnh hưởng tới mối quan hệ này nhằm đưa ra những phương hướng, định hướng và giải pháp để giải quyết tốt mối quan hệ này, giúp kinh tế của vùng phát triển một cách bền vững, ổn định và nhanh chóng. Về mặt thực tiễn, chưa có một công trình nào nghiên cứu đầy đủ và chi tiết về thực trạng kết hợp tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường ở các tỉnh Bắc Trung bộ trên cơ sở liên kết vùng, ngành, vì vậy, chưa có cái nhìn khái quát về việc phát triển bền vững ở vùng này. Đồng thời, các tác giả chưa đưa ra được hệ thống các mục tiêu, phương hướng và giải pháp thiết thực, có khả năng áp dụng trên thực tế phù hợp, nhằm giải quyết vướng mắc trong việc lựa chọn giữa mục tiêu tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường trong điều kiện bị hạn chế bởi các nguồn lực của vùng Bắc Trung bộ (đặc biệt là về nguồn vốn, khoa học và công nghệ cùng nhân lực).
  40. 36 Nghiên cứu về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường, hay nói cách khác là vấn đề mối quan hệ giữa con người, xã hội với tự nhiên không phải là vấn đề mới, thực tế đã có khá nhiều công trình nghiên cứu, đề tài và bài viết với tầm cỡ, quy mô và khía cạnh khác nhau, song chưa có công trình nào đề cập đến vấn đề mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường ở các tỉnh Bắc Trung bộ hiện nay một cách khái quát dưới góc độ triết học. Vì vậy, để khắc phục khoảng trống về mặt lý luận cũng như khảo sát thực tiễn, từ kết quả nghiên cứu của những công trình đi trước, để có cái nhìn rõ hơn về những lý do vì sao vấn đề môi trường lại quan trọng đối với sự phát triển của con người và xã hội, đặc biệt là để làm rõ thêm một phần về lý luận của triết học Mác - Lênin về mối quan hệ biện chứng của con người với môi trường sống, mối quan hệ biện chứng giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường, chúng tôi thực hiện luận án tiến sĩ của mình theo hướng này nhằm góp phần vào trong nhận thức cũng như xây dựng mối quan hệ biện chứng giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường ở các tỉnh Bắc Trung bộ Việt Nam hiện nay.
  41. 37 Chương 2 KẾT HỢP TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VỚI BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN 2.1. KINH TẾ, TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ 2.1.1. Kinh tế Kinh tế là khái niệm phản ánh các hoạt động của con người có liên quan tới quá trình sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ. Adam Smith, trong cuốn sách nổi tiếng Sự giàu có của các quốc gia, đã đưa ra định nghĩa “Kinh tế” là khoa học gắn liền với những quy luật về sản xuất, phân phối và trao đổi. Ông cho rằng “Sự giàu có” xuất hiện khi con người có thể sản xuất ngày càng nhiều hơn các sản phẩm hàng hóa với những nguồn lực sẵn có (gồm lao động, vốn, tài nguyên ). Vậy có thể xem hoạt động kinh tế là bất kỳ hoạt động nào của con người, trong đó có sử dụng một cách hiệu quả các nguồn lực sẵn có để tạo ra những sản phẩm hàng hóa và dịch vụ, đem trao đổi và thu được những giá trị lớn hơn so với những giá trị mà mình đã bỏ ra. Tác giả Hồ Tú Bảo trong bài viết về Kinh tế tri thức ở Việt Nam ? cũng khẳng định: “Theo một nghĩa được thừa nhận rộng rãi, kinh tế là toàn bộ các hoạt động sản xuất, phân phối, trao đổi, tiêu thụ hàng hóa và dịch vụ của một cộng đồng hay một quốc gia” [5]. Theo Từ điển tiếng Việt, kinh tế được hiểu là: “1. Tổng thể nói chung những quan hệ sản xuất của một hình thái xã hội - kinh tế nhất định. 2. Tổng thể nói chung những hoạt động của con người nhằm thỏa mãn nhu cầu vật chất” [77, tr.527]. Do vậy, nói đến kinh tế là nói đến sự liên quan tới lợi ích vật chất của con người, như sử dụng đòn bẩy kinh tế để phát triển sản xuất; có tác dụng mang lại hiệu quả tương đối lớn so với sức người, sức của và thời gian tương đối ít bỏ ra, như cách làm ăn kinh tế Tác giả G.A.Côdơlốp và S.P.Perơvusưn trong Từ điển Kinh tế, khẳng định, kinh tế là: “Tổng hợp các quan hệ sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử hay chế độ kinh tế của xã hội, phù hợp với từng giai đoạn phát triển của
  42. 38 lực lượng sản xuất. Nhân tố quyết định của kinh tế là quan hệ sở hữu về công cụ sản xuất và tư liệu sản xuất” [30, tr.256]. Theo nghĩa rộng, danh từ kinh tế cũng có nghĩa là toàn bộ các ngành kinh tế quốc dân, cũng như các khoa học kinh tế nghiên cứu các ngành ấy (khoa kinh tế công nghiệp, khoa kinh tế nông nghiệp, khoa quản lý kinh tế v.v ). Theo quan điểm kinh tế chính trị có thể coi “Kinh tế” là tổng hòa các mối quan hệ tương tác lẫn nhau của con người và xã hội liên quan trực tiếp đến sản xuất, trao đổi, phân phối, tiêu dùng các loại sản phẩm hàng hóa và dịch vụ, nhằm thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao của con người trong một xã hội với một nguồn lực có giới hạn. Mặt khác, kinh tế là tổng thể các yếu tố sản xuất, các điều kiện sống của con người, các mối quan hệ trong quá trình sản xuất và tái sản xuất xã hội. Nói đến kinh tế suy cho cùng là nói đến vấn đề sở hữu và lợi ích. Tuy nhiên, định nghĩa về kinh tế đã thay đổi theo lịch sử các hoạt động kinh tế. Nói đơn giản, kinh tế có nghĩa là: dựa vào nguồn tài nguyên sẵn có và hạn hẹp, con người và xã hội loài người tìm cách trả lời ba câu hỏi: Sản xuất cái gì? Sản xuất như thế nào? Sản xuất cho ai?. 2.1.2. Tăng trưởng kinh tế và phát triển kinh tế 2.1.2.1. Khái niệm tăng trưởng kinh tế Khái niệm tăng trưởng được sử dụng khi muốn nói tới sự lớn lên, tăng thêm hay mở rộng về quy mô của một hiện tượng, một “hệ thống” nào đó. Trong tiếng Việt, khái niệm “tăng”, “sự gia tăng” chỉ sự tăng trưởng. Khái niệm tăng trưởng kinh tế trong kinh tế học là khái niệm dùng để diễn tả động thái của nền kinh tế, khi sản lượng quốc gia, tiềm năng hay khả năng sản xuất được mở rộng theo thời gian. Trong lịch sử kinh tế học, có rất nhiều cách tiếp cận khái niệm tăng trưởng. Tăng trưởng có thể được hiểu là “mức tăng sản lượng thực tế của một quốc gia trong một thời gian nhất định”, hoặc cũng có thể được hiểu là “mức tăng thu nhập quốc dân và thu nhập quốc dân tính theo đầu người” hay là “mức tăng quy mô và tốc độ sản phẩm”. Nói một cách khái quát hơn, tăng trưởng kinh tế là việc “mở rộng quy mô sản xuất
  43. 39 quốc gia, tiềm năng của một nước, tiềm năng hiện thực: việc mở rộng khả năng kinh tế để sản xuất” [47, tr.30-31]. Nói tóm lại, tăng trưởng kinh tế là mức tăng sản lượng thực tế qua từng thời kỳ, nếu hiểu theo nghĩa thông thường thì tăng trưởng kinh tế là sự tăng GDP (Gross Domestic Product - là tổng sản phẩm quốc nội), GNP (Gross National Product - là tổng sản phẩm quốc dân gồm sản phẩm quốc nội và vốn đầu tư hợp tác của nước ngoài) của mỗi quốc gia trong một thời kỳ (thường là 1 năm). Như vậy, có thể coi "tăng trưởng kinh tế" là "sự tăng lên của sản lượng hàng hóa và dịch vụ trong một nước do sự tăng lên của thu nhập quốc dân và sản phẩm bình quân đầu người" theo đó thu nhập theo đầu người được tính bằng sản phẩm quốc dân chia cho dân số [84, tr.200-203]. Mặc dù là tiêu thức phản ánh sự thay đổi về lượng của nền kinh tế nhưng bản thân sự tăng trưởng kinh tế cũng chứa đựng mặt lượng và mặt chất của sự tăng trưởng. Mặt lượng của tăng trưởng kinh tế là biểu hiện bên ngoài của sự tăng trưởng, nó thể hiện ở ngay trong khái niệm về tăng trưởng và sự phản ánh thông qua các chỉ tiêu đánh giá quy mô và tốc độ tăng trưởng thu nhập. Mặt chất của tăng trưởng kinh tế là sự thể hiện năng lực sử dụng các yếu tố đầu vào, tạo nên tính chất, sự vận động của các chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế và ảnh hưởng lan tỏa của nó đến các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội - môi trường. Mặt lượng và mặt chất của tăng trưởng kinh tế là hai mặt của một vấn đề, cho nên trong mỗi giai đoạn phát triển khác nhau và tùy theo sự lựa chọn mô hình phát triển mà vị trí của một trong hai mặt này được đặt ra khác nhau. Do vậy, trong quá trình phát triển, các quốc gia phải quan tâm đồng thời cả hai mặt của tăng trưởng kinh tế và xu hướng vận động tích cực của nó. Hầu hết các lý thuyết về tăng trưởng hiện nay đều chỉ ra, tăng trưởng kinh tế phụ thuộc vào các yếu tố chính là: (1) số lượng và chất lượng nguồn nhân lực; (2) số lượng và chất lượng nguồn tài nguyên; (3) mức độ tích lũy vốn; (4) sự đổi mới về khoa học và công nghệ.
  44. 40 Nguồn nhân lực, là lực lượng sản xuất chính, biểu hiện mối quan hệ tác động của con người lên tự nhiên thông qua những hiểu biết và năng lực hoạt động thực tiễn trong quá trình sản xuất và tái sản xuất xã hội. Lực lượng sản xuất gồm có người lao động với những năng lực, kinh nghiệm, kỹ năng lao động nhất định và tư liệu sản xuất, trong đó người lao động giữ vai trò quyết định, luôn sáng tạo, là yếu tố chủ thể của sản xuất. Ngày nay, bên cạnh sự phát triển của khoa học và công nghệ, lao động vẫn đóng vai trò quan trọng tới chất lượng và tốc độ của tăng trưởng kinh tế. Tài nguyên thiên nhiên như đất đai, khoáng sản, nước, khí hậu là những đầu vào quan trọng của sản xuất. Những quốc gia có nguồn tài nguyên thiên nhiên dồi dào, phong phú sẽ có những lợi thế tương đối trong phát triển kinh tế và đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng. Bên cạnh đó, mức độ tích lũy của các nguồn vốn như máy móc, thiết bị, nhà xưởng, giao thông - vận tải và thông tin liên lạc là nguồn cần thiết để kết hợp với lao động, tạo ra hàng hóa và dịch vụ đáp ứng nhu cầu của xã hội cũng như mở rộng quá trình tái sản xuất xã hội. Nguồn vốn tích lũy được lấy từ phần tiết kiệm tiêu dùng, do vậy, đối với những nước nghèo, chưa phát triển, quy mô nền sản xuất nhỏ sẽ dẫn tới tỷ lệ tích lũy/tiết kiệm thấp và luôn vấp phải cái “vòng luẩn quẩn” của sự nghèo khó. Con đường duy nhất để tạo ra bước ngoặt trong tăng trưởng kinh tế được nhiều nước áp dụng hiện nay chính là phá vỡ khâu vốn của cái “vòng luẩn quẩn” đó (chủ yếu bằng cách đi vay), kết hợp với khả năng sử dụng hiệu quả, hợp lý các nguồn lực khác trong giới hạn khả năng về vốn. Trong số những yếu tố ảnh hưởng tới tăng trưởng kinh tế, thì hiện nay khoa học và công nghệ đóng vai trò quan trọng trong việc mở rộng quy mô sản xuất, hạ thấp chi phí, nâng cao chất lượng, sức cạnh tranh của hàng hóa, giúp khai thác hiệu quả các nguồn tài nguyên và vốn, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng. Đặc biệt, đối với các quốc gia đang và kém phát triển, nếu có một chiến lược khôn ngoan, biết nắm bắt và tận dụng
  45. 41 các cơ hội trong và ngoài nước sẽ tạo ra bước ngoặt về phát triển kinh tế, bắt kịp với tốc độ phát triển của các nước trên thế giới. Ở mỗi quốc gia trong mỗi thời kỳ, việc kết hợp bốn yếu tố chính kể trên tạo ra kết quả đầu ra cho nền kinh tế (tăng trưởng kinh tế) khác nhau. Ngoài bốn yếu tố chính kể trên thì sự ổn định về chính trị, xã hội; hệ thống thể chế pháp luật; kết cấu hạ tầng kỹ thuật - xã hội; sự phát triển của thị trường tài chính cũng có tác động tới sự tăng trưởng kinh tế của từng quốc gia. Ngoài ra, trong chừng mực nhất định, mức tăng trưởng kinh tế nhanh hay chậm còn phụ thuộc vào đặc điểm của dân tộc (truyền thống văn hóa, xã hội, tính cách, năng lực con người ) cũng như vị trí địa lý của quốc gia. Để đánh giá sự tăng trưởng kinh tế của một quốc gia, có thể sử dụng một trong những tiêu chí sau: ü Tổng sản phẩm quốc nội (GDP): đây là tiêu chí đo lường giá trị tổng sản lượng hàng hóa và dịch vụ được sản xuất ra bởi các yếu tố sản xuất nằm trong phạm vi lãnh thổ quốc gia trong một thời kỳ nhất định (thường là một năm); ü Tổng sản phẩm quốc dân (GNP): đây là tiêu chí đo lường giá trị tổng sản lượng hàng hóa và dịch vụ cuối cùng được sản xuất của một nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định (thường là một năm), bất kể chúng được sản xuất ở trong hay ngoài nước; ü Tổng thu nhập quốc dân (GNI): đây là tiêu chí phản ánh tổng thu nhập từ sản phẩm và dịch vụ cuối cùng do công dân của một nước tạo ra trong một thời kỳ nhất định (thường là một năm). Về nội dung GNI và GNP là như nhau, trong đó chỉ tiêu GNI tiếp cận từ thu nhập và được hình thành từ GDP tiếp cận theo góc độ thu nhập và được điều chỉnh theo sự chênh lệch về thu nhập nhân tố với nước ngoài, còn GNP tiếp cận theo sản phẩm sản xuất; ü Thu nhập quốc dân (NI): là phần giá trị sản phẩm vật chất và dịch vụ mới sáng tạo ra cho một nền kinh tế trong một khoảng thời gian nhất định (một năm);
  46. 42 ü Thu nhập quốc dân sử dụng (NDI): là phần thu nhập của quốc gia dành cho tiêu dùng cuối cùng và tích lũy thuần trong một khoảng thời gian nhất định (một năm). Tăng trưởng kinh tế có tính hai mặt. Ngoài mặt tích cực như thúc đẩy các ngành sản xuất phát triển; tạo điều kiện cho sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế; góp phần giải quyết việc làm, v.v Nhưng mặt khác, việc tăng trưởng quá nóng có thể gây ra tình trạng lạm phát cho nền kinh tế, đẩy nền kinh tế tới bất ổn khi sự phát triển là không đồng đều về các phương diện. Tăng trưởng kinh tế quá cao có thể gia tăng sự giàu có cho một bộ phận cư dân nhưng đồng thời cũng khiến nền kinh tế phải khai thác nhiều tài nguyên hơn, dẫn tới sự suy kiệt về tài nguyên thiên nhiên. Việc tăng trưởng kinh tế bằng mọi giá cũng khiến xã hội bỏ qua nhiều mục tiêu phát triển bền vững khác như duy trì công bằng xã hội hoặc bảo vệ môi trường Vì vậy, đối với mỗi quốc gia trong mỗi thời kỳ nhất định, việc cân nhắc duy trì mức độ tăng trưởng kinh tế ở tỷ lệ bao nhiêu và tương quan như thế nào với các vấn đề xã hội - môi trường và phát triển bền vững chính là quyết định quan trọng, giúp duy trì sự hợp lý, ổn định về lâu dài. 2.1.2.2. Khái niệm phát triển kinh tế Theo nghĩa triết học, phát triển là quá trình vận động từ thấp đến cao, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện hơn, mà nét đặc trưng chủ yếu là cái cũ mất đi và cái mới ra đời. Trong lĩnh vực kinh tế - xã hội, nói tới phát triển là nói tới sự vận động đi lên, sự biến đổi theo chiều hướng tốt đẹp của những lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội [77, tr.759], [36, tr.21-24]. Trong tiến trình phát triển của lịch sử xã hội loài người, đã có rất nhiều quan điểm về sự phát triển, tuy nhiên, có thể tóm lược trong ba quan điểm chính sau đây: Quan điểm thứ nhất, quan điểm nhấn mạnh vào sự tăng trưởng, trong đó, người ta quan niệm rằng phát triển là việc tạo ra và duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm của một quốc gia ở mức cao (thường là hơn 5-7%/năm).
  47. 43 Quan điểm thứ hai, quan điểm nhấn mạnh vào công bằng xã hội, theo đó phát triển không đồng nghĩa với việc phải tạo ra mức tăng trưởng cao nhưng phát triển phải giải quyết được tất cả các vấn đề nảy sinh, trong đó, người dân phải được hưởng phúc lợi như nhau, được công bằng trong việc tiếp cận những cơ hội phát triển. Quan điểm thứ ba, quan điểm phát triển toàn diện, theo đó, phát triển được nhìn nhận ở nhiều khía cạnh. Một xã hội phát triển là một xã hội vừa bảo đảm được sự tăng trưởng hợp lý, vừa bảo đảm được sự công bằng và phúc lợi cho mọi người dân trong xã hội. Để được coi là một quốc gia phát triển, quốc gia đó phải bảo đảm rằng, quá trình phát triển của quốc gia mình chính là quá trình làm giảm nghèo đói, giảm sự bất bình đẳng và thất nghiệp trong khi vẫn duy trì được sự tăng trưởng kinh tế; phát triển con người được diễn ra dựa trên sự tăng trưởng về mặt vật chất; quá trình phát triển phải nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống chung, phúc lợi cho quốc gia đó (bao gồm cả việc nâng cao thu nhập cho người dân bên cạnh việc bảo đảm một nền giáo dục tốt hơn, mức trang bị y tế và dinh dưỡng cao hơn, nghèo đói giảm, môi trường trong sạch hơn, bình đẳng hơn về cơ hội, tự do cá nhân được đáp ứng cao hơn và cuộc sống văn hóa phong phú hơn). Như vậy, nói đến phát triển kinh tế là nói tới việc nâng cao các tiêu chuẩn sống và cải thiện giáo dục, sức khỏe và sự bình đẳng về cơ hội; về việc nâng cao hạnh phúc của nhân dân. Ở một khía cạnh khác, phát triển kinh tế là quá trình tăng tiến về các mặt của nền kinh tế. Phát triển kinh tế được xem là quá trình biến đổi cả về lượng và về chất, nó là sự kết hợp một cách chặt chẽ quá trình hoàn thiện của hai vấn đề kinh tế và xã hội ở mỗi quốc gia. Theo cách hiểu như vậy, phát triển kinh tế phải là một quá trình lâu dài do các nhân tố nội tại của nền kinh tế quyết định. Tựu trung lại, phát triển kinh tế được hiểu là quá trình thay đổi theo chiều hướng tiến bộ hơn mọi mặt của nền kinh tế, nó bao gồm sự tăng trưởng
  48. 44 kinh tế cũng như sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế - xã hội theo hướng tiến bộ hơn, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân. Bản chất của phát triển kinh tế được hiểu theo những góc độ khác nhau: Từ góc độ nội dung, phát triển kinh tế là sự kết hợp một cách chặt chẽ quá trình hoàn thiện hai vấn đề kinh tế và xã hội của mỗi quốc gia. Từ góc độ logic của quá trình phát triển, phát triển kinh tế được xem như là quá trình biến đổi cả về lượng và về chất của nền kinh tế. Quan niệm về bản chất của phát triển kinh tế, theo thời gian đã được hoàn thiện, tuy nhiên, việc thực hiện trên thực tế lại muôn hình, muôn vẻ và thực sự khó khăn. Mỗi nước đang phát triển đều chọn cho mình những cách thức phát triển riêng có tùy thuộc vào điều kiện về địa lý, kinh tế, xã hội và thể chế chính trị. Lịch sử phát triển kinh tế của các nước trên thế giới trong những thập niên giữa thế kỷ XX cho thấy, trong một khoảng thời gian dài, người ta đã đặt mục tiêu kinh tế lên quá cao so với các mục tiêu khác. Thậm chí, còn xem sự tăng trưởng kinh tế gần như là thước đo duy nhất của sự phát triển. Cái giá phải trả cho quan niệm này ngày càng trở nên nghiêm trọng, bởi: một là, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế đã phải trả giá bằng việc sử dụng quá mức nguồn tài nguyên, môi trường sinh thái và môi trường sống của con người; hai là, sự tăng trưởng nhanh chỉ đem lợi cho một bộ phận nhỏ dân cư trong xã hội ở các nước đang phát triển; ba là, chạy theo mục tiêu tăng trưởng kinh tế nhanh đã dẫn đến xu hướng vi phạm các khía cạnh về quyền con người và những yếu tố văn hóa truyền thống Do đó, sau một thời kỳ tăng trưởng mạnh mẽ của các nền kinh tế thế giới vào các thập niên 70 và 80 của thế kỷ XX, loài người đã nhận thức được rằng: chỉ riêng thước đo kinh tế không thể phản ánh được đầy đủ quan niệm về sự phát triển. Do vậy, đã đến lúc phải xem lại và đánh giá đúng đắn các mối quan hệ con người - tự nhiên - xã hội, phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa - bảo vệ tài nguyên, môi trường và cả vấn đề xây dựng
  49. 45 thể chế trong đó con người phải đóng vai trò trung tâm của sự phát triển. Xuất phát từ thực tế đó, con người đã đi tìm một cách phát triển mới, đó là phát triển bền vững. Phát triển bền vững là phát triển đáp ứng được nhu cầu hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu đó của các thế hệ tương lai trên cơ sở kết hợp chặt chẽ, hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế, bảo đảm tiến bộ xã hội và bảo vệ môi trường [82, tr.8]. Phát triển bền vững là một khái niệm mới nhằm định nghĩa một sự phát triển về mọi mặt trong hiện tại mà vẫn phải bảo đảm sự tiếp tục phát triển trong tương lai. Phát triển bền vững đã trở thành phương hướng khái quát về phát triển mà hầu như tất cả các quốc gia, các tổ chức quốc tế, các nhà khoa học và đông đảo nhân dân chấp nhận trong ba thập niên trở lại đây. 2.1.2.3. Tăng trưởng kinh tế trong mối quan hệ với phát triển kinh tế Tăng trưởng kinh tế và phát triển kinh tế là hai khái niệm chỉ hai hiện tượng kinh tế khác nhau nhưng có quan hệ với nhau. Nói cách khác, khái niệm tăng trưởng và phát triển dùng để chỉ những biến đổi về lượng và chất của nền kinh tế - xã hội của các nước trên thế giới trong những khoảng thời gian nhất định. Khái niệm phát triển kinh tế rộng hơn khái niệm tăng trưởng kinh tế. Phát triển kinh tế là một khái niệm bao gồm cả việc gia tăng về sản lượng kinh tế, cơ cấu kinh tế lẫn việc nâng cao mức sống cho người dân và trình độ văn minh của xã hội. Như vậy, phát triển kinh tế bao hàm sự tăng trưởng kinh tế. Nhưng phát triển kinh tế còn bao gồm sự đổi mới cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp và giảm tỷ trọng nông nghiệp trong tổng sản phẩm quốc dân; tăng dân số thành thị, giảm dân số nông thôn; đổi mới cơ cấu tiêu dùng; việc tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ, giải trí, nghỉ mát gia tăng; phần thu nhập chi vào nhu cầu thiết yếu không lớn; trình độ văn hóa, giáo dục, y tế được cải thiện rõ rệt, v.v [36, tr.31-33]. Như vậy, bàn về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển kinh tế, theo nghĩa rộng nhất tăng trưởng kinh tế là phương tiện cơ bản để đạt
  50. 46 được phát triển kinh tế, nhưng bản thân tăng trưởng lại là một đại lượng không hoàn hảo của sự tiến bộ [74, tr.14]. Về điểm chung, tăng trưởng và phát triển đều là những khái niệm được dùng khi muốn nói tới những biến đổi về lượng và chất của nền kinh tế của một quốc gia trong một khoảng thời gian nhất định. Tuy nhiên, tăng trưởng tập trung nói lên sự chuyển dịch về mặt lượng, còn phát triển nói lên tính định hướng và chất lượng của sự chuyển dịch đó (mặt chất). Vì vậy, có thể coi tăng trưởng là phương tiện cơ bản nhất giúp đạt được sự phát triển bởi tăng trưởng kinh tế có thể thúc đẩy sự phát triển của xã hội thông qua sự thay đổi về mặt lượng, các kích thước vật chất của nền kinh tế, nhưng nó chưa chắc đã dẫn đến sự tiến bộ xã hội hay sự phát triển toàn diện theo hướng đầy đủ hơn, có hiệu quả hơn và tốt đẹp hơn. Theo các quan điểm hiện nay, phát triển kinh tế phải bao gồm cả những mục tiêu về xã hội (xóa đói giảm nghèo, thỏa mãn nhu cầu phát triển cơ bản của dân cư, đạt được công bằng xã hội, tạo ra sự đoàn kết trong các cộng đồng dân cư và nâng cao phẩm giá con người) bên cạnh những sự phát triển thuần túy về kinh tế. Nói cách khác, khái niệm phát triển kinh tế rộng hơn, bao hàm khái niệm tăng trưởng kinh tế. Như vậy, không có tăng trưởng kinh tế thì không thể có phát triển kinh tế và phát triển kinh tế chính là điều kiện để giải quyết các vấn đề xã hội. Mục tiêu của phát triển chính là vì con người. Do đó, phát triển bao trùm lên tất cả các khía cạnh trong cuộc sống của mọi cá nhân, từ tình trạng sức khỏe tới sự tự do về kinh tế và chính trị. Theo quan niệm của Liên Hợp quốc thì “phát triển con người là mục đích cuối cùng, tăng trưởng kinh tế là phương tiện” [64]. Ngày nay, sự phát triển xã hội không chỉ do yếu tố kinh tế quyết định, mà còn phụ thuộc vào rất nhiều các yếu tố khác. Bởi vậy, mà lý thuyết phát triển hiện đại bao gồm các yếu tố từ chính trị, kinh tế, tâm lý, đến xã hội, văn hóa, sinh thái, mà trong đó văn hóa ngày càng trở thành mục tiêu, động lực và hệ điều chỉnh đối với sự phát triển. Điều đó cho thấy, hiện tại thế giới văn minh nhìn nhận sự phát triển của một đất nước luôn trong mối quan hệ giữa tăng trưởng và phát triển. Đánh giá tiêu chí về đất nước phát triển không chỉ đơn thuần ở mặt
  51. 47 tăng trưởng kinh tế, ở mức thu nhập bình quân cao về GDP hay GNP tính theo đầu người, mà chú ý nhiều hơn đến các chỉ tiêu phát triển xã hội. Một quốc gia muốn được coi là phát triển tốt đẹp, bên cạnh sự tăng trưởng kinh tế, quốc gia đó còn phải đạt những chỉ số chung về mặt xã hội. 2.2. MÔI TRƯỜNG VÀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG 2.2.1. Khái niệm môi trường Hiện nay, có rất nhiều khái niệm về môi trường tùy thuộc vào khía cạnh nghiên cứu, cách tiếp cận. Trong cuốn Môi trường và tài nguyên Việt Nam, môi trường với nghĩa "Môi trường tự nhiên" bao gồm: Các yếu tố tự nhiên và phi tự nhiên tồn tại, vận động và phát triển gắn bó hữu cơ trong một cơ thể thống nhất, có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp, xấu hoặc tốt đến con người; và chính con người cũng là một yếu tố môi trường quan trọng tác động tới quá trình vận động và phát triển của chủ thể của nó [86, tr.7]. Tác giả cuốn Môi trường tự nhiên trong hoạt động sống của con người, cho rằng: "Môi trường tự nhiên là một tổng hòa những yếu tố tự nhiên vô cơ và hữu cơ, có ý nghĩa sống còn đối với sự tồn tại và phát triển của mọi sinh vật" [61, tr.20]. Tuy cách định nghĩa khác nhau nhưng nhìn chung, các tác giả đều cho rằng môi trường tự nhiên là tổng hòa nhiều yếu tố như yếu tố tự nhiên, hiện tượng tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên trong sự thống nhất với nền sản xuất xã hội, có mối quan hệ hữu cơ tác động qua lại với nhau và có ảnh hưởng tới sự tồn tại, phát triển của tất cả các loài sinh vật trên trái đất. Ở nghĩa rộng hơn, môi trường được coi là "toàn bộ nói chung những điều kiện tự nhiên, xã hội, trong đó con người hay một sinh vật tồn tại phát triển, trong quan hệ với con người, với sinh vật ấy" [77, tr.635]. Luật Bảo vệ môi trường được Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ bảy thông qua ngày 23 tháng 6 năm 2014 cũng đã định nghĩa: "Môi trường là hệ thống các yếu tố vật chất tự nhiên và nhân tạo có tác động đối với sự tồn tại và phát triển của con người và sinh vật" [82, tr.8].
  52. 48 Ngoài ra, còn có rất nhiều cách hiểu và phân chia khái niệm về môi trường khác như môi trường nhân tạo, môi trường xã hội, môi trường sống Nói tóm lại, môi trường là tập hợp tất cả các thành phần của thế giới vật chất bao quanh có khả năng tác động đến sự tồn tại và phát triển của mỗi sinh vật. Bất cứ một vật thể, một sự kiện nào cũng tồn tại và diễn biến trong một môi trường. Có thể phân chia môi trường thành ba loại chính là môi trường tự nhiên, môi trường xã hội và môi trường nhân tạo. Theo đó: - Môi trường tự nhiên bao gồm các yếu tố như vật lý, hoá học, sinh học tồn tại ngoài ý muốn con người, nhưng cũng ít nhiều chịu tác động của con người. Đó là ánh sáng mặt trời, núi, sông, biển, không khí, động thực vật, đất, nước Môi trường tự nhiên cho ta không khí để thở, không gian để xây dựng nhà cửa, trồng cấy, chăn nuôi, cung cấp cho con người các loại tài nguyên khoáng sản cần cho sản xuất, tiêu thụ và là nơi chứa đựng, đồng hoá các chất thải, cung cấp cảnh đẹp, làm cho cuộc sống của con người thêm phong phú. - Môi trường xã hội là tổng thể các quan hệ giữa người với người. Đó là những luật lệ, thể chế, cam kết, quy ước, quy định ở các cấp khác nhau như: Liên Hợp quốc, Hiệp hội các nước, quốc gia, tỉnh, huyện, cơ quan, làng xã, họ tộc, gia đình, tổ nhóm, các tổ chức tôn giáo, tổ chức đoàn thể, Môi trường xã hội định hướng các hoạt động của con người theo một khuôn khổ nhất định, tạo nên sức mạnh tập thể thuận lợi cho sự phát triển, làm cho cuộc sống của con người khác với các sinh vật khác. - Môi trường nhân tạo là “toàn bộ các yếu tố nhân tạo (do chính con người tạo nên) bao quanh con người, có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến sự tồn tại và phát triển của cá nhân con người và nhiều cơ thể sống khác”. Chúng bao gồm: các công trình thủy lợi, những làng mạc, hồ nước, hệ thống sông ngòi, vườn hoa, công viên được con người tạo nên, các loài động thực vật do con người thuần dưỡng, lai tạo và phát triển qua nhiều thế hệ. Môi trường nhân tạo có mối quan hệ mật thiết, hữu cơ với các yếu tố vật chất trong tự nhiên và ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp tới đời sống của con người và xã hội loài người [75, tr.20-21].