Luận án Đảng lãnh đạo xây dựng lực lượng dân quân tự vệ từ năm 2001 đến năm 2015
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận án Đảng lãnh đạo xây dựng lực lượng dân quân tự vệ từ năm 2001 đến năm 2015", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
luan_an_dang_lanh_dao_xay_dung_luc_luong_dan_quan_tu_ve_tu_n.doc
1. BÌA LUẬN ÁN.doc
1. PHỤ LỤC LUẬN ÁN.doc
2. BÌA TÓM TĂT TIẾNG VIỆT.doc
2. TÓM TẮT TIẾNG VIỆT.doc
3. BÌA TÓM TĂT TIẾNG ANH.doc
3. TÓM TẮT TIẾNG ANH.doc
4. THÔNG TIN MẠNG TIẾNG ANH.doc
4. THÔNG TIN MẠNG TIẾNG VIỆT.doc
Nội dung text: Luận án Đảng lãnh đạo xây dựng lực lượng dân quân tự vệ từ năm 2001 đến năm 2015
- 3 MỤC LỤC Trang TRANG PHỤ BÌA MỤC LỤC 3 LỜI CAM ĐOAN DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT 4 MỞ ĐẦU 5 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 10 1.1. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án 10 1.2. Giá trị của các công trình khoa học đã tổng quan và những vấn đề luận án tập trung nghiên cứu 25 Chương 2 CHỦ TRƯƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG VỀ XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG DÂN QUÂN TỰ VỆ (2001 - 2009) 30 2.1. Những yếu tố tác động đến sự lãnh đạo của Đảng về xây dựng lực lượng dân quân tự vệ 30 2.2. Chủ trương của Đảng về xây dựng lực lượng dân quân tự vệ 44 2.3. Đảng chỉ đạo xây dựng lực lượng dân quân tự vệ 53 Chương 3 SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG VỀ XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG DÂN QUÂN TỰ VỆ (2009 - 2015) 82 3.1. Yếu tố mới tác động đến sự lãnh đạo của Đảng về xây dựng lực lượng dân quân tự vệ 82 3.2. Chủ trương xây dựng lực lượng dân quân tự vệ của Đảng 90 3.3. Sự chỉ đạo của Đảng về xây dựng lực lượng dân quân tự vệ 99 Chương 4 NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM 132 4.1. Nhận xét Đảng lãnh đạo xây dựng lực lượng dân quân tự vệ (2001 - 2015) 132 4.2. Kinh nghiệm từ quá trình Đảng lãnh đạo xây dựng lực lượng dân quân tự vệ (2001 - 2015) 150 KẾT LUẬN 168 DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 171 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 172 PHỤ LỤC 193
- 4 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT Chữ viết đầy đủ Chữ viết tắt Ban chỉ huy quân sự BCHQS Chính trị quốc gia CTQG Dân quân tự vệ DQTV Đảng ủy Quân sự Trung ương ĐUQSTƯ Nhà xuất bản Nxb Quân đội nhân dân QĐND Sẵn sàng chiến đấu SSCĐ Ủy ban nhân dân UBND Xã hội chủ nghĩa XHCN
- 5 MỞ ĐẦU 1. Lý do lựa chọn đề tài luận án Dân quân tự vệ Việt Nam là lực lượng vũ trang quần chúng không thoát ly sản xuất, một bộ phận quan trọng của lực lượng vũ trang nhân dân, có chức năng bảo vệ Đảng, bảo vệ chính quyền, bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân, tài sản của Nhà nước ở cơ sở; là lực lượng nòng cốt cùng toàn dân đánh giặc ở địa phương khi có chiến tranh. Dân quân tự vệ có nhiệm vụ SSCĐ, chiến đấu và phục vụ chiến đấu bảo vệ địa phương cơ sở; phối hợp với các lực lượng chức năng trên địa bàn tham gia xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân, khu vực phòng thủ, giữ gìn an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh, tìm kiếm cứu nạn; tham gia tuyên truyền, vận động nhân dân thực chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, tham gia xây dựng cơ sở vững mạnh toàn diện và phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Lực lượng này được tổ chức ở địa phương gọi là dân quân, được tổ chức ở cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, đơn vị sự nghiệp, tổ chức kinh tế gọi là tự vệ. Nói về vai trò của DQTV, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định “Dân quân, tự vệ và du kích là lực lượng của toàn dân tộc, là một lực lượng vô địch, là một bức tường sắt của Tổ quốc. Vô luận địch nhân hung bạo thế nào, hễ đụng vào lực lượng đó, bức tường đó, thì địch nào cũng phải tan rã” [129, tr.158]. Thực tiễn các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc cho thấy DQTV không chỉ trực tiếp tham gia lao động sản xuất, trực tiếp bám đất, bám dân, bảo vệ hậu phương mà còn là lực lượng nòng cốt trong thực hiện chiến tranh du kích, phối hợp chặt chẽ với bộ đội địa phương, bộ đội chủ lực tiến công tiêu diệt kẻ thù. Đó cũng là lực lượng hậu bị quan trọng cung cấp nhân lực bổ sung cho bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương. Thời kỳ 2001 - 2015, trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực có nhiều diễn biến phức tạp, chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, tranh chấp lãnh thổ, biển, đảo, tài nguyên, xung đột tôn giáo, can thiệp quân sự có xu hướng gia tăng. Các thế lực thù địch, phản động trong và ngoài nước tiếp tục
- 6 đẩy mạnh thực hiện các âm mưu, thủ đoạn chống phá công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Đảng Cộng sản Việt Nam đã chủ trương xây dựng lực lượng DQTV vững mạnh, rộng khắp nhằm phát huy vai trò, sức mạnh của lực lượng tại chỗ tham gia giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, đồng thời tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh trong các khu vực phòng thủ. Theo đó, lực lượng DQTV đã không ngừng được củng cố cả về tổ chức, biên chế, về chất lượng chính trị, huấn luyện, cũng như khả năng SSCĐ bảo vệ trị an ở các địa bàn cơ sở, góp phần quan trọng trong giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở địa phương. Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm, quá trình Đảng lãnh đạo xây dựng lực lượng DQTV thời kỳ này cũng không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót như: Nhận thức và trách nhiệm của một số cấp ủy, chính quyền và một bộ phận cán bộ, đảng viên, nhân dân về vị trí, vai trò, chức năng nhiệm vụ của DQTV chưa sâu sắc, toàn diện; công tác cụ thể hóa, chỉ đạo xây dựng lực lượng DQTV có mặt chưa tốt; một số chỉ tiêu xây dựng lực lượng DQTV không đạt được, năng lực của đội ngũ cán bộ có mặt chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn, chất lượng DQTV không đồng đều, công tác huấn luyện chưa sát thực tiễn Thực tiễn đó rất cần được nhìn nhận, đánh giá một cách khách quan cả về ưu điểm, hạn chế, làm rõ nguyên nhân, trên cơ sở đó rút ra những bài học để vận dụng trong thời gian tới. Xuất phát từ tầm quan trọng của vấn đề, trong những năm qua đã có khá nhiều công trình nghiên cứu về xây dựng lực lượng DQTV, được đề cập dưới các cấp độ và phạm vi khác nhau. Tuy nhiên, dưới góc độ khoa học Lịch sử Đảng thì đến nay vẫn chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu một cách độc lập, có tính hệ thống về quá trình Đảng lãnh đạo xây dựng lực lượng DQTV từ năm 2001 đến năm 2015. Với những lý do trên, tác giả chọn vấn đề “Đảng lãnh đạo xây dựng lực lượng dân quân tự vệ từ năm 2001 đến năm 2015” làm Luận án tiến sĩ ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
- 7 2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu làm sáng tỏ quá trình Đảng lãnh đạo xây dựng lực lượng DQTV từ năm 2001 đến năm 2015; đúc kết những kinh nghiệm có giá trị tham khảo vận dụng trong thời gian tới. Nhiệm vụ nghiên cứu Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án. Luận giải, làm rõ những yếu tố tác động đến quá trình Đảng lãnh đạo xây dựng lực lượng DQTV (2001 - 2015). Hệ thống hóa, phân tích làm rõ chủ trương, sự chỉ đạo của Đảng về xây dựng lực lượng DQTV từ năm 2001 đến năm 2015, qua hai giai đoạn 2001 - 2009 và 2009 - 2015. Nhận xét và đúc kết kinh nghiệm từ quá trình Đảng lãnh đạo xây dựng lực lượng DQTV (2001 - 2015). 3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu Nghiên cứu hoạt động lãnh đạo của Đảng về xây dựng lực lượng DQTV từ năm 2001 đến năm 2015. Phạm vi nghiên cứu Về nội dung: Nghiên cứu chủ trương của Đảng về xây dựng lực lượng DQTV từ năm 2001 đến năm 2015 (bao gồm quan điểm, phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp) và quá trình Đảng chỉ đạo xây dựng lực lượng DQTV trên các mặt: Kiện toàn tổ chức, biên chế; đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn cán bộ; huấn luyện chiến sĩ DQTV; bảo đảm chế độ, chính sách đối với DQTV. Về thời gian: Luận án chọn mốc thời gian mở đầu là năm 2001 (gắn với Đại hội IX của Đảng), mốc kết thúc là năm 2015 (năm kết thúc nhiệm kỳ Đại hội XI của Đảng). Luận án chia 2 chương lịch sử, mốc chia chương là năm 2009 (năm Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa X ra Kết luận số 41-KL/TW ngày 31/3/2009 về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 16-CT/TW của Ban Bí thư
- 8 Trung ương Đảng khóa IX về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng dân quân tự vệ và lực lượng dự bị động viên trong tình hình mới”). Để bảo đảm tính hệ thống và đạt được mục đích nghiên cứu, luận án có đề cập một số nội dung liên quan trong khoảng thời gian trước năm 2001 và sau năm 2015. Về không gian: Trên phạm vi cả nước. 4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu Cơ sở lý luận Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận là chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nền quốc phòng toàn dân, lực lượng vũ trang cách mạng nói chung và xây dựng lực lượng DQTV nói riêng. Cơ sở thực tiễn Đề tài dựa vào thực tiễn quá trình Đảng lãnh đạo xây dựng lực lượng DQTV từ năm 2001 đến năm 2015, được thể hiện chủ yếu trong các văn kiện, nghị quyết của Trung ương Đảng và Chính phủ; các báo cáo tổng kết của ĐUQSTƯ (nay là Quân ủy Trung ương), Đảng bộ Quân đội, Bộ Quốc phòng, Bộ Tổng Tham mưu, Cục Dân quân tự vệ, phòng DQTV các quân khu, ban DQTV các tỉnh, thành phố; các công trình nghiên cứu khoa học của các cá nhân, tập thể trong những năm 2001 - 2015 về xây dựng lực lượng, công tác huấn luyện và hoạt động SSCĐ của lực lượng DQTV. Kết hợp với các số liệu của tác giả trong quá trình khảo sát thực tế về hoạt động của lực lượng DQTV trên một số địa bàn cụ thể. Phương pháp nghiên cứu Luận án sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu của chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, trong đó, phương pháp lịch sử, phương pháp lôgic và kết hợp hai phương pháp đó là chủ yếu; đồng thời, luận án cũng sử dụng các phương pháp khác như tổng hợp, phân tích, thống kê, so sánh để làm sáng tỏ các nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra. Phương pháp lịch sử được sử dụng chủ yếu để làm rõ tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án theo trình tự thời gian; bối cảnh, quá trình hoạch định chủ trương, chỉ đạo của Đảng về xây dựng lực lượng DQTV từ năm 2001 đến năm 2015, qua hai giai đoạn 2001 - 2009 và 2009 - 2015.
- 9 Phương pháp lôgic được sử dụng chủ yếu để rút ra giá trị của các công trình khoa học đã tổng quan; những ưu điểm, hạn chế, chỉ rõ nguyên nhân và đúc kết những kinh nghiệm từ quá trình Đảng lãnh đạo xây dựng lực lượng DQTV (2001 - 2015). Phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh được sử dụng đồng thời với phương pháp lịch sử, phương pháp lôgic nhằm làm rõ chủ trương và luận chứng các mặt chỉ đạo của Đảng về xây dựng lực lượng DQTV (2001 - 2015). 5. Những đóng góp mới của luận án Cung cấp hệ thống tư liệu khách quan, trung thực về quá trình Đảng lãnh đạo xây dựng lực lượng DQTV từ năm 2001 đến năm 2015. Góp phần phục dựng có hệ thống quá trình Đảng lãnh đạo xây dựng lực lượng DQTV từ năm 2001 đến năm 2015. Đưa ra những nhận xét, đánh giá có cơ sở về quá trình lãnh đạo xây dựng lực lượng DQTV của Đảng từ năm 2001 đến năm 2015 trên cả hai bình diện ưu điểm, hạn chế, làm rõ nguyên nhân và đúc kết những kinh nghiệm chủ yếu. 6. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn của luận án Luận án góp phần tổng kết quá trình Đảng lãnh đạo xây dựng lực lượng DQTV trong sự nghiệp đổi mới và hội nhập quốc tế. Góp thêm luận cứ khoa học, kinh nghiệm có thể tham khảo cho việc bổ sung, phát triển chủ trương, sự chỉ đạo xây dựng lực lượng DQTV, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN trong tình hình mới. Là tài liệu tham khảo, phục vụ cho công tác nghiên cứu, giảng dạy Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam cũng như lịch sử ngành DQTV. 7. Kết cấu của luận án Luận án gồm: Mở đầu, nội dung (4 chương), kết luận, danh mục các công trình khoa học của tác giả đã công bố liên quan đến đề tài luận án, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.
- 10 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 1.1. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án 1.1.1. Các nghiên cứu về dân quân du kích của tác giả nước ngoài Kinh nghiệm phát động dân quân của Đảng Cộng sản Trung Hoa (1946) [113], đã đề cập đến một số kinh nghiệm trong tổ chức và chỉ đạo hoạt động lực lượng dân quân của Đảng Cộng sản Trung Hoa như: Hoạt động của dân quân bao giờ cũng “Phải đi sát với quyền lợi của dân chúng đó là điều kiện cần thiết cho việc phát triển dân quân trong Tỉnh Ký” [113, tr.3]; phải có sự lãnh đạo chắc chắn của Đảng Cộng sản “không có đảng lãnh đạo không thể nói đến việc tổ chức dân quân trong miền trung ương Tỉnh Ký được” [113, tr.3]; phải quan tâm đến mọi mặt, phải ái mộ dân quân; đội du kích quân chính quy phải phụ trách huấn luyện dân quân. Bên cạnh đó, cũng đề cập đến các hình thức hoạt động chiến đấu cụ thể của dân quân như: Chiến đấu về quân sự, tranh đấu về giao thông, tranh đấu về kinh tế, tranh đấu về chính trị, tranh đấu bằng mìn và địa lôi, tranh đấu bằng đường hầm. Cuốn sách cũng nêu ra quan điểm của Mao Trạch Đông về vai trò của chiến tranh du kích, nhấn mạnh sự cần thiết phải tổ chức lực lượng dân quân “giúp nhân dân tổ chức các đội du kích tràn lan rộng rãi các huyện, các khu đều có, đó là những đội ngũ nhỏ lan tràn khắp nơi để đánh úp quân địch, bảo vệ địa phương” [113, tr.22]. Cùng với đó là quan điểm của Đảng Cộng sản Trung Hoa lúc bấy giờ “nhiệm vụ chính của dân binh và tự vệ không được thoát ly sinh sản mà lo việc giữ nhà, giữ làng” [113, tr.24]. Lionel C. McGarr (1961), Đường lối và chiến thuật chống du kích ở miền Nam Việt Nam [126]. Trong đó, tác giả đã đưa ra một số luận điểm nhận xét về sức mạnh của du kích cách mạng miền Nam Việt Nam, tiêu biểu như: “Du kích là sức mạnh bắt nguồn từ sự huấn luyện lâu dài gian khổ về quân sự, về thể chất, kỷ luật sắt về tinh thần, và sự nhiệt thành tột độ đối với mục đích chính nghĩa của họ tin là sẽ thắng” [126, tr.10]. Lionel C. McGarr còn nhấn mạnh về sự thành công của du kích Việt cộng chính là áp dụng các quan niệm và nguyên tắc của đạo quân vô sản đơn giản về vũ khí, hạ thấp
- 11 yêu cầu về yểm trợ, tiếp tế, tăng cường cơ động tiến công điều kiện địa hình được lựa chọn làm chiến trường du kích đã làm ảnh hưởng tai hại, hay gạt bỏ xu thế vũ khí và tổ chức chính quy hiện đại. Ngô Giang (1964), “Chiến tranh du kích trong thời đại ngày nay”, Tập san bản thảo nội bộ Trung Quốc [101], đã phân tích vai trò của chiến tranh du kích thông qua việc trích dẫn quan điểm của Mác, Lênin, Mao Trạch Đông về chiến tranh du kích. Thông qua phân tích thực tiễn chiến tranh giải phóng tại Việt Nam, chiến tranh du kích tại Cuba, một số nước tại châu Phi, Mỹ latinh, trực tiếp là cách mạng Trung Quốc khi Hồng quân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Hoa chống lại quân phản cách mạng của Tưởng Giới Thạch và quan điểm của Mao Trạch Đông là “nông thôn bao vây thành thị”, “xoay quanh chủ lực đó vẫn nên có bộ đội du kích và chiến tranh du kích rộng lớn” [101, tr.37M], qua đó khẳng định vai trò quan trọng chiến lược của chiến tranh du kích, sự cần thiết phải tổ chức và huấn luyện lực lượng du kích, thực hiện vũ trang cho nông dân, phát triển lực lượng du kích đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ chính quyền cách mạng. X.A.Tiuskevich, N.Ia.Xusco, Ia.X.Dodiuba (1976), Chủ nghĩa Mác-Lênin bàn về chiến tranh và quân đội [157], đã phân tích những quan điểm cơ bản của C.Mác, V.I.Lênin về chiến tranh và quân đội. Trong đó đã nêu ra quan điểm của Ph.Ăngghen “Khởi nghĩa quần chúng, chiến tranh cách mạng, những đội du kích hoạt động ở khắp nơi - đó là phương thức duy nhất nhờ đó mà một dân tộc nhỏ dùng để chiến thắng được một dân tộc lớn..., chống lại một đội quân mạnh hơn mình” [157, tr.177]. Từ việc phân tích một số cuộc chiến tranh của nước Nga chống sự xâm lược của quân đội Napoleon năm 1812, nội chiến của Mỹ (1861 - 1866), chiến tranh giữa quân Anh với người Buốc (1802 - 1902), thời kỳ nội chiến và can thiệp quân sự của nước ngoài chống Nhà nước Xô-viết (1918 - 1920) và trong chiến tranh chống phát xít Đức xâm lược (1941 - 1945), thông qua các số liệu về số lượng du kích, số lượng các đơn vị phát xít phải chia ra để chống lại du kích, cũng như số lượng sĩ quan, binh sĩ, phương tiện chiến tranh đã bị du kích Liên xô tiêu diệt để
- 12 thấy vai trò to lớn của du kích và phong trào du kích trong chiến tranh nói chung và Chiến tranh vệ quốc vĩ đại nói riêng. A.A.Gre-sco (1978), Các lực lượng vũ trang của Nhà nước Xô viết [103], đã bàn đến vai trò to lớn của lực lượng dân quân, du kích trong chiến tranh vệ quốc vĩ đại bằng việc trích dẫn lại lời thú nhận của một viên tướng người Đức là Ren-du-líc “Lịch sử các cuộc chiến tranh chưa từng biết đến một ví dụ nào trong đó phong trào du kích đóng một vai trò to lớn như nó đã đóng trong cuộc chiến tranh thế giới gần đây” [103, tr.217]. Tác giả đã chỉ ra “Phong trào du kích có một ảnh hưởng nhất định đối với sự phát triển các hoạt động chiến đấu ở các mặt trận. Các chiến sĩ du kích đã tiêu diệt hàng chục vạn lính, sĩ quan, quan chức trong bộ máy chiếm đóng của địch, bọn đồng lõa với bọn xâm lược” [103, tr.218], đặc biệt là trong các trận đánh tại Matxcova, Xtalingrat ở đó lực lượng dân quân được thành lập đến cấp sư đoàn, trung đoàn, hỗ trợ đắc lực cho Hồng quân và trực tiếp tác chiến độc lập, trên thực tế đến cuối mùa Thu năm 1941 đã có “60 sư đoàn dân quân, 200 trung đoàn độc lập” [103, tr.222]. Tác giả cũng khẳng định “phong trào du kích và dân quân là một trong nhiều hình thức biểu hiện chủ nghĩa yêu nước xô-viết, nguyện vọng của quần chúng nhân dân muốn đem hết sức mình ra giúp đỡ quân đội đánh bại bọn xâm lược, bảo vệ những thành quả XHCN. Đó là một bằng chứng rực rỡ và hùng hồn về lòng trung thành vô hạn của nhân dân xô-viết đối với những tư tưởng của chủ nghĩa cộng sản” [103, tr.222]. V.Xa-môi-len-cô, V.Pu-xo-cô, V.Gup-chen-cô (1988), Các lực lượng vũ trang Liên xô [198], đã đề cập đến vai trò to lớn của phong trào du kích Liên xô trong chiến tranh vệ quốc, từ việc hoạt động ở vùng sau lưng địch với các hoạt động phá hoại cơ sở vật chất, hậu cần kỹ thuật của phát xít Đức đến các hoạt động phối hợp giúp Hồng quân Liên xô, nhất là trong trận Cuốc-xcơ. Công trình cũng đã nêu lên những thành tích cơ bản của lực lượng du kích Liên xô trong những năm Chiến tranh vệ quốc. Đồng thời, khẳng định hoạt động của lực lượng du kích là hoạt động có tổ chức, dưới sự chỉ đạo của Đảng Cộng sản Liên xô.
- 13 Philip B. Davitson (1995), Những bí mật của cuộc chiến tranh Việt Nam [81], trong đó có nhiều nội dung nói về lực lượng du kích và tự vệ của miền Nam Việt Nam. Philip B. Davitson đã phân chia lực lượng vũ trang cách mạng ở miền Nam lúc bấy giờ thành các bộ phận: Quân chủ lực, quân địa phương, lực lượng hành chính, dân quân, du kích, lực lượng tự vệ (SD), lực lượng tự vệ bí mật (SSD), cùng với những nhận xét cụ thể như: Du kích “là những chiến binh không thường xuyên, có vũ khí, không có quân phục, được tổ chức lỏng lẻo trên cở sở một làng hoặc xã đóng vai trò dẫn đường, nhân viên tình báo cho các đơn vị thuộc quân chủ lực đóng vai trò người khuân vác giúp cho quân chủ lực và địa phương” [81, tr.54]; lực lượng tự vệ bí mật (được gọi là SSD) “là những đơn vị không có hình dạng nhất định, cũng lại gồm những “cha già”, phụ nữ và trẻ em hoạt động trong khu vực do GNV kiểm soát. Chức năng của họ (ít được biết đến) dường như là thu thập tin tình báo về đồng minh, ngoài ra họ không có khả năng gì về quân sự” [81, tr.55]. Tuy nhiên, dưới góc nhìn của một viên sĩ quan tình báo Mỹ, có tư tưởng chống cộng, những nhận định trên có những hạn chế, thiếu sót thậm chí là thiếu chính xác, phiến diện, nhất là đánh giá thấp về vai trò, về tổ chức cũng như ý thức tổ chức kỷ luật của lực lượng du kích và tự vệ. Mặc dù vậy, Philip B. Davitson cũng phải thừa nhận lực lượng du kích và tự vệ đã gây ra những thiệt hại nhất định cho quân Mỹ và quân ngụy. Công trình đã cung cấp thêm một góc nhìn của những kẻ xâm lược đối với lực lượng du kích và tự vệ Việt Nam trong những năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Từ Khuê (2006), Động viên nhanh dân quân trong chiến tranh cục bộ thông tin hóa [112]. Ngay từ đầu tác giả đã nhấn mạnh “dân quân được coi là lực lượng chiến lược giữ gìn an ninh quốc gia và ổn định xã hội, là nền tảng vững chắc để tiến hành chiến tranh nhân dân” [112, tr.1], “đáp ứng nhu cầu mở rộng biên chế tổ chức và chi viện tác chiến cho lực lượng tại ngũ là nhiệm vụ cơ bản của dân quân” [112, tr.1]. Từ thực tiễn chiến tranh của Mỹ tại Irắc năm 2003, tác giả nêu ra sự cần thiết phải tổ chức các phân đội dân quân, bởi lẽ theo tác giả “dân quân là lực lượng vũ trang trong quần chúng “ngụ binh ư dân”, thời bình tương đối phân tán” [112, tr.5], mục đích là để “lấp vào chỗ
- 14 trống do lực lượng chủ lực để lại khi ra tiền tuyến” [112, tr.5]. Các phân đội dân quân có nhiệm vụ phối hợp với công an giữ gìn an ninh trật tự, trấn áp tội phạm, bảo vệ sản xuất và trật tự đời sống, bảo vệ các mục tiêu quan trọng về kinh tế, chính trị, đề phòng địch tập kích, phá hoại, giúp ngành dân phòng tổ chức phòng không nhân dân. Từ đó đã nêu ra sự cần thiết xây dựng lực lượng dân quân của Trung Quốc theo hướng hợp lý về quy mô, tổ chức hợp lý, theo hướng tinh, gọn, hiệu quả cao. Ngoài ra, tác giả cũng đề cập đến công tác huấn luyện cho dân quân theo nguyên tắc “đánh trận thế nào, lính phải được huấn luyện như thế” [112, tr.11], tập trung huấn luyện cho phân đội dân quân ứng phó nhanh và dân quân phòng không; thực hiện công tác bảo đảm chính sách cho dân quân trong quá trình thực hiện nhiệm vụ. 1.1.2. Các nghiên cứu liên quan đến xây dựng lực lượng dân quân tự vệ của tác giả trong nước 1.1.2.1. Những nghiên cứu chung về xây dựng lực lượng dân quân tự vệ Võ Nguyên Giáp (1975), Nắm vững đường lối chiến tranh nhân dân, đánh thắng chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ [102]. Trong đó đã đề cập một số nội dung bàn về vị trí, vai trò của lực lượng DQTV nói chung và vai trò của DQTV trong chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, bảo vệ miền Bắc nói riêng. Tác giả khẳng định “nếu xây dựng được lực lượng tự vệ và dân quân mạnh, thì chẳng những luôn bảo đảm được SSCĐ và chiến đấu tốt mà còn đảm bảo duy trì và đẩy mạnh sản xuất trong mọi tình huống” [102, tr.89], đồng thời “nếu các địa phương lãnh đạo tốt hơn, chỉ huy chặt chẽ hơn, tổ chức huấn luyện thích hợp hơn thì chắc chắn đây là một lực lượng rất mạnh, đáp ứng được yêu cầu của địa phương trong thời chiến cũng như trong thời bình” [102, tr.95]. Từ đó đặt ra vấn đề “Cần phải nắm chắc vấn đề nâng cao chất lượng, nâng cao sức mạnh chiến đấu, coi trọng khâu then chốt là đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chỉ huy” [102, tr.105]. Cuốn sách được trình bày theo hình thức tổng kết kinh nghiệm thực tiễn, trong đó vai trò của lực lượng DQTV được thể hiện trong một nhiệm vụ cụ thể là tham gia chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ trên địa bàn miền Bắc (1954 - 1975).
- 15 Văn Tiến Dũng (1979), Sức mạnh giữ nước vĩ đại của dân tộc Việt Nam trong kỷ nguyên mới [82]. Trong đó đã đề cập đến nhiều vấn đề về xây dựng nền quốc phòng toàn dân, lực lượng vũ trang nhân dân, phân tích đúng đắn mối quan hệ dựng nước và giữ nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ XHCN. Khi bàn về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, tác giả nhấn mạnh “đi đôi với việc xây dựng một quân đội nhân dân chính quy, hiện đại, tinh nhuệ, chúng ta cần ra sức củng cố, phát triển lực lượng dân quân tự vệ mạnh mẽ, rộng khắp và vững chắc, xứng đáng với vị trí chiến lược của nó” [82, tr.33]. Đặc biệt nhấn mạnh vai trò “là công cụ sắc bén của nền chuyên chính vô sản, bức tường kiên cố của nền quốc phòng toàn dân và của chiến tranh nhân dân ở cơ sở, vừa sản xuất, vừa chiến đấu, kịp thời đánh địch tại chỗ ở khắp nơi, trong mọi lúc” [82, tr.48]. Trong các kinh nghiệm rút ra, tác giả đã phân tích vai trò, vị trí, địa vị và tác dụng của từng thứ quân trong lực lượng vũ trang nhân dân, từ đó đặt ra một số vấn đề cơ bản về quy mô tổ chức lực lượng DQTV ở hợp tác xã, ở các cụm sản xuất của huyện, ở các nhà máy, công trường, ngư trường. Cục Dân quân tự vệ (1995), Sức mạnh dân quân tự vệ Việt Nam [69], gồm một tập hợp các hình ảnh về các hoạt động chiến đấu, bảo đảm chiến đấu, thực hiện chiến tranh phá hoại, tham gia lao động sản xuất, các tấm gương điển hình, các bài viết của lãnh đạo Đảng, Nhà nước và Quân đội về thành tích vẻ vang, những chiến công oanh liệt của DQTV Việt Nam. Trong đó còn trích dẫn một số bài viết của các tác giả nước ngoài như “tôi đã thấy khá nhiều cuộc chiến tranh và chiến tranh du kích, nhưng tôi chưa thấy một dân tộc đánh giặc như ở Việt Nam” của Giô-rit-ven (đạo diễn điển ảnh Hà Lan) [69, tr.43], hay của J.F.Ken-nơ-đi “Chúng ta đã đẩy mạnh việc thực hiện chương trình ấp chiến lược, tuy nhiên cuộc chiến đấu chống du kích đã gặp khó khăn lớn: người ta phải bỏ vào cuộc chiến đấu đó 10 hoặc 11 người để chống lại một du kích. Đặc biệt là ở một địa thế hiểm trở như Nam Việt Nam” [69, tr.44], hay lời thú nhận của Đin-ra-xco - Ngoại trưởng Mỹ ngày 01/02/1963 “nói chung chưa có một cuộc hành quân nào khó khăn, khó chịu và đáng chán bằng cuộc hành quân chống du kích ở Việt Nam” [69, tr.39].
- 16 Công trình đã cung cấp một cái nhìn toàn cảnh về sự ra đời, phát triển, chiến đấu, trưởng thành và khẳng định vai trò to lớn của DQTV Việt Nam trong chiến tranh giải phóng, trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN. Lê Đình Sỹ (1995), Mấy vấn đề binh chế Đại Việt thế kỷ XI-XV [142], đã tập trung nghiên cứu về Binh chế của các triều đại phong kiến Lý, Trần, Hồ và Lê Sơ, trong đó phân tích sâu về tổ chức các ngạch quân của Đại Việt (quân triều đình, quân địa phương, quân vương hầu, dân binh làng xã). Đồng thời, làm rõ cách thức tuyển mộ, động viên binh lính, công tác quản lý những người trong độ tuổi tham gia lính; chế độ tuyển dụng võ quan, tướng lĩnh cũng như đề cập đến vũ khí, trang bị, trang phục, công tác nuôi dưỡng, huấn luyện. Có thể thấy việc tổ chức quân đội thời kỳ này, ngoài quân chính quy thì các bộ phận từ sương quân, quân địa phương, quân vương hầu, dân binh làng xã đều gắn với chính sách “ngụ binh ư nông”, không tách rời lao động, sản xuất, khi có nhiệm vụ, hoặc khi có chiến tranh thì tham gia chiến đấu bảo vệ đất nước, bảo vệ làng xã... chức năng, nhiệm vụ tương đồng với DQTV hiện nay. Bộ Tổng Tham mưu (2000), Tổng kết cách đánh của lực lượng dân quân du kích, tự vệ trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ (1945 - 1975) [57], đã làm rõ quá trình hình thành, phát triển, vận dụng, phổ biến, cũng như tính đa dạng, linh hoạt, sáng tạo, không theo khuôn mẫu các hình thức tác chiến của DQTV, du kích trong kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ (1945 - 1975), phản ánh phần nào nghệ thuật quân sự Việt Nam, nghệ thuật chiến tranh nhân dân. Từ đó, rút ra những bài học kinh nghiệm về chỉ đạo cách đánh của dân quân du kích, tự vệ có giá trị trong chỉ đạo duy trì, tổ chức hoạt động của DQTV hiện nay. Công trình đã cung cấp thêm những thông tin, tư liệu góp phần khẳng định vị trí, vai trò của DQTV trong chiến tranh giải phóng, trong giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở cơ sở hiện nay, khẳng định tính tất yếu, khách quan phải xây dựng lực lượng DQTV vững mạnh rộng khắp. Xây dựng và hoạt động tác chiến của lực lượng dân quân du kích (tự vệ) pháo binh trong kháng chiến chống đế quốc Mỹ (1954 - 1975) [199]. Trong đó
- 17 trình bày về tính chất, đặc điểm, quá trình xây dựng và hoạt động chiến đấu; những bài học kinh nghiệm chủ yếu về chỉ đạo xây dựng lực lượng, hoạt động chiến đấu và bảo đảm chiến đấu của dân quân du kích, tự vệ pháo binh trong kháng chiến chống Mỹ (1954 - 1975). Trong tổng thể công trình đã có nhận định: Lực lượng dân quân du kích, tự vệ pháo binh có bước phát triển rộng khắp, với nhiều cách đánh độc đáo, sáng tạo, phong phú, đạt hiệu suất chiến đấu cao, thực sự là bộ phận quan trong của hỏa lực pháo binh ba thứ quân, tạo thành hỏa lực nhiều tầng, nhiều hướng đánh máy bay, tàu chiến của đế quốc Mỹ ở khắp mọi nơi, mọi thời gian, làm cho đối phương luôn hoang mang, hoảng sợ. Lê Văn Thái (2003), Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng Việt Nam (2.1930 - 8.1945) [145]. Trong đó đã phân tích quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng Việt Nam (2.1930 - 8.1945) trên hai vấn đề: Xây dựng lực lượng vũ trang cơ sở (đội tự vệ, Việt Nam tiểu tổ du kích cứu quốc, đội du kích tập trung) và xây dựng lực lượng chủ lực (Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân và Việt Nam giải phóng quân). Đồng thời, phân tích nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng Việt Nam (2/1930 - 8/1945) gồm: Xây dựng lực lượng vũ trang cho toàn dân đánh giặc, muốn xây dựng lực lượng vũ trang thì phải xây dựng chính trị trước; lực lượng vũ trang cách mạng do Đảng tổ chức, lãnh đạo, giáo dục, mang bản chất giai cấp công nhân, tính chất nhân dân; tổ chức chặt chẽ, cơ cấu hợp lý, kỷ luật tự giác nghiêm minh, có các mối quan hệ tốt; xây dựng con người, đào tạo đội ngũ cán bộ, xác định nguồn trang bị vũ khí và lối đánh giặc của lực lượng vũ trang. Lê Huy Bình (2007), Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945 - 1954) [10], đã nghiên cứu một cách có hệ thống những tư tưởng, quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 - 1954), trong đó có lực lượng dân quân, du kích và tự vệ. Từ đó đưa ra phương hướng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân trong giai
- 18 đoạn hiện nay. Đồng thời, nêu 3 vấn đề cơ bản vận dụng xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh, nhấn mạnh sự cần thiết xây dựng lực lượng DQTV thực sự “vững mạnh, rộng khắp” đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Cục Dân quân tự vệ (2007), Tổng kết làng xã chiến đấu trong kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ (1946 - 1975), [74] đã đề cập đến vai trò nòng cốt của lực lượng dân quân, du kích và tự vệ trong tham gia xây dựng, củng cố và trực tiếp chiến đấu bảo vệ làng, xã trong kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Các số liệu mà công trình đề cập đến cho thấy số lượng đông đảo dân quân, du kích tham gia chiến đấu, phục vụ chiến đấu, chỉ tính trong năm 1946 “lực lượng dân quân, du kích lên đến 10% dân số (khoảng hai triệu người)” [74, tr.27]. Từ đó rút ra 6 bài học kinh nghiệm: Tập trung củng cố, xây dựng lực lượng dân quân... ở cơ sở vững mạnh; đội ngũ cán bộ quân sự ở cơ sở phải được đào tạo, bồi dưỡng kiện toàn có đủ phẩm chất, năng lực cần thiết; tăng cường chỉ đạo phối hợp hoạt động giữa DQTV với công an và các lực lượng vũ trang trên địa bàn trong việc bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở cơ sở; chú trọng xây dựng lực lượng DQTV cơ động; thường xuyên chăm lo, thực hiện tốt các chế độ, chính sách đối với DQTV. Cục Dân quân tự vệ (2007), Tổng kết công tác tham mưu chiến lược của Cục Dân quân tự vệ (1947 - 2007) [73], trong đó đề cập đến các hoạt động chính của Cục Dân quân tự vệ theo tiến trình lịch sử từ năm 1947 đến năm 2007. Nội dung chủ yếu hướng đến làm rõ vai trò tham mưu, xây dựng các văn bản giúp Đảng, Nhà nước, Bộ Quốc phòng và hoạt động chỉ đạo thực tiễn phát triển toàn diện lực lượng dân quân du kích, chỉ đạo hoạt động chiến tranh du kích, chiến tranh nhân dân ở các địa phương, công tác quân sự quốc phòng ở các bộ, ngành trong kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Mặc dù công trình đã đề cập đến tên của một số nghị quyết, chỉ thị, hướng dẫn của Đảng trong chỉ đạo xây dựng lực lượng DQTV, nhưng mới dừng lại ở việc liệt kê, chưa có sự đánh giá, phân tích, chưa thể hiện rõ vai trò chỉ đạo của Đảng trong xây dựng lực lượng DQTV.
- 19 Hùng - Dũng (2011), Xây dựng lực lượng tự vệ trong các doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài - vấn đề và giải pháp [108]. Từ thực tiễn khảo sát công tác xây dựng lực lượng DQTV tại các doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài tại các địa phương có các cụm, khu công nghiệp lớn như Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Hải Phòng , tập thể tác giả đã chỉ ra một số nguyên nhân chính dẫn đến những hạn chế trong xây dựng lực lượng tự vệ ở các doanh nghiệp như: Luật pháp nhà nước chưa có điều khoản quy định trách nhiệm, nghĩa vụ phải thành lập đơn vị tự vệ trong các doanh nghiệp; cơ quan quân sự của nhiều địa phương chưa chủ động, tích cực phối hợp thực hiện. Đồng thời, đề xuất một số giải pháp như xây dựng hệ thống pháp luật đồng bộ, phù hợp thực tiễn, phát huy vai trò cơ quan quân sự các cấp và thực hiện đổi mới nội dung, phương pháp huấn luyện. Cục Dân quân tự vệ (2012), Lịch sử 65 năm ngành dân quân tự vệ (1947 - 2012) [79], đã trình bày theo tiến trình lịch sử quá trình hình thành, xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của lực lượng DQTV Việt Nam (1947 - 2012). Nội dung được chia thành bốn giai đoạn: Giai đoạn 2/1947 - 1954 gắn với cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp; giai đoạn 1954 - 1975 gắn với cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ; giai đoạn 5/1975 - 1995 là thời kỳ đầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; giai đoạn 1996 - 2012 là xây dựng lực lượng DQTV trong tình hình mới. Trong mỗi giai đoạn đều đề cập đến một số chủ trương và chỉ đạo của Đảng về xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng nói chung và lực lượng dân quân, du kích, tự vệ nói riêng. Đỗ Mạnh Hòa (2013), Xây dựng lực lượng dân quân tự vệ vững mạnh về chính trị trong thời kỳ mới [105]. Trong đó đã nêu ra sáu vấn đề nội hàm chính trị của lực lượng DQTV, khẳng định vai trò của chính trị và làm rõ một số vấn đề cơ bản trong xây dựng lực lượng DQTV vững mạnh về chính trị trong thời kỳ mới, từ đó chỉ ra bốn giải pháp trong xây dựng lực lượng DQTV về chính trị trong giai đoạn hiện nay. Đây là một nội dung trong tổng thể các mặt hoạt động, công tác về chính trị, tư tưởng, tổ chức, huấn luyện, SSCĐ... nhằm xây dựng lực lượng DQTV vững mạnh, rộng khắp.
- 20 Bộ Tổng Tham mưu (2015), Dân quân tự vệ Việt Nam, lực lượng vô địch của dân tộc anh hùng [58], là tập hợp các bài viết của các tướng lĩnh, sĩ quan, các nhà khoa học trong và ngoài Quân đội, trong đó đã phản ánh vào 3 vấn đề lớn: Một là, làm rõ những vấn đề lý luận về DQTV, khẳng định xây dựng lực lượng DQTV là sự vận dụng và phát triển sáng tạo học thuyết Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh của Đảng Cộng sản Việt Nam; hai là, làm rõ vai trò của DQTV trong sự nghiệp giải phóng dân tộc giai đoạn 1945 - 1975; ba là, các bài viết về DQTV trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN, trong đó chủ yếu đề cập đến vai trò của lực lượng DQTV trong tham gia giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở địa phương cơ sở, vai trò của DQTV trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo cũng như vai trò trong tham gia lao động sản xuất tại địa phương. 1.1.2.2. Những nghiên cứu về xây dựng lực lượng dân quân tự vệ tại các địa phương, vùng, miền Phạm Gia Đức (1988), Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân trên chiến trường Bình - Trị - Thiên (1946 - 1954) [100]. Trong đó, tập trung làm rõ quá trình phát triển lực lượng vũ trang nhân dân trên chiến trường Bình - Trị - Thiên trong ba giai đoạn 1946 - 1949, 1950 - 1953, 1953 - 1954. Đồng thời, phân tích vai trò của từng thứ quân, mối quan hệ, sự phụ thuộc, hỗ trợ phối hợp trong chiến đấu, phân tích vai trò của nhân tố kinh tế, hậu phương, cùng mối quan hệ mật thiết giữa giải quyết vấn đề tổ chức quân sự, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân với việc tổ chức hậu phương, phát triển nền kinh tế kháng chiến. Đặc biệt nhấn mạnh vai trò của làng xã chiến đấu, hoạt động của du kích và tác chiến du kích, sự phối hợp chặt chẽ giữa du kích và bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương trong xây dựng, củng cố, bảo vệ vùng du kích. Quân khu 2 (1993), Tổ chức và hoạt động tác chiến của lực lượng dân quân - tự vệ trong khu vực phòng thủ tỉnh - huyện [139], đã tập trung đi sâu phân tích một cách hệ thống về tổ chức và hoạt động tác chiến của lực lượng DQTV trong khu vực phòng thủ tỉnh, huyện. Trong đó đã hình thành khái niệm, nêu ra những đặc điểm cơ bản, 4 nhiệm vụ chính và tính
- 21 chất của DQTV (tính giai cấp, tính quần chúng). Từ đặc điểm, yêu cầu, nhiệm vụ của Quân khu 2, đề tài đã nêu ra phương châm, yêu cầu đối với DQTV, nhấn mạnh việc xây dựng lực lượng tại chỗ, lực lượng cơ động, cán bộ chỉ huy DQTV. Đồng thời, cũng đề cập đến 5 nhiệm vụ chủ yếu của DQTV trong chống “diễn biến hòa bình”, gây bạo loạn của địch, nhiệm vụ của DQTV tại vùng nội địa và đô thị, tại vùng biên giới. Võ Thị Thanh Thảo (1999), Đảng lãnh đạo xây dựng lực lượng cách mạng tại miền Nam Việt Nam (1954 - 1960) [146]. Tác giả đã đi sâu phân tích quá trình hình thành đường lối, những quan điểm, chủ trương, nội dung lãnh đạo trên 4 nội dung: Củng cố, xây dựng Đảng; xây dựng căn cứ; củng cố, giữ gìn và xây dựng lực lượng chính trị; củng cố, xây dựng lực lượng vũ trang. Cùng với đó là kết quả xây dựng lực lượng vũ trang 3 thứ quân (chủ lực, địa phương tỉnh, huyện và DQTV xã, ấp), đồng thời rút ra ba bài học từ quá trình Đảng lãnh đạo xây dựng lực lượng cách mạng từ 1954 đến 1960. Công trình đã đi sâu phân tích những quan điểm, chủ trương và kết quả xây dựng lực lượng cách mạng ở miền Nam Việt Nam giai đoạn 1954 - 1960, trong đó có những chủ trương quan điểm xây dựng lực lượng vũ trang nói chung và DQTV nói riêng. Nguyễn Trung Anh (2007), Xây dựng lực lượng dân quân ở xã có nhiều giáo dân vùng đồng bằng Bắc Bộ [1]. Trong đó tác giả đã khái quát quan điểm của Đảng về xây dựng lực lượng DQTV trong thời kỳ mới thành 5 nội dung: Xây dựng lực lượng DQTV theo phương châm “vững mạnh, rộng khắp”, có lực lượng nòng cốt và lực lượng rộng rãi; xây dựng DQTV có số lượng hợp lý, chất lượng tổng hợp cao, lấy chất lượng chính trị làm chính; gắn xây dựng DQTV với xây dựng tổ chức cơ sở đảng; bảo đảm sự lãnh đạo trực tiếp về mọi mặt của cấp ủy đảng, chỉ đạo, quản lý của chính quyền, chỉ huy cơ quan quân sự; xây dựng lực lượng DQTV là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, các cấp, các ngành... Đồng thời, cũng nêu ra nhưng cơ sở pháp lý, thực trạng xây dựng lực lượng dân quân ở xã có nhiều giáo dân vùng đồng bằng Bắc Bộ trên các mặt: Tổ chức, chính trị, huấn luyện quân sự, hoạt động... Từ đó, nêu ra bốn nhiệm vụ, năm yêu cầu và tập trung phân tích 4 nội dung: Xây dựng về tổ chức,
- 22 chính trị, huấn luyện quân sự, huấn luyện thực hiện các nhiệm vụ khác. Đồng thời, đề xuất phương pháp thực hiện theo bốn bước và đưa ra năm giải pháp. Nguyễn Tiến Chung (2010), Nâng cao chất lượng chính trị của lực lượng dân quân tự vệ Quân khu 1 hiện nay [67], đã đi sâu làm rõ một số vấn đề cơ bản về lý luận và thực tiễn nâng cao chất lượng chính trị của lực lượng DQTV trên địa bàn Quân khu 1. Trong đó đưa ra bốn đặc điểm, những vấn đề lý luận về chính trị và chất lượng chính trị, chỉ ra bốn yếu tố cấu thành và đưa ra bốn tiêu chí để đánh giá chất lượng chính trị của DQTV Quân khu 1. Công trình đã đánh giá khá toàn diện về thực trạng chất lượng chính trị, chỉ ra một số nguyên nhân, rút ra sáu bài học kinh nghiệm, năm giải pháp nâng cao chất lượng chính trị của lực lượng DQTV Quân khu 1 trong giai đoạn hiện nay. Đây một công trình nghiên cứu dưới góc độ Chính trị học, các nội dung nghiên cứu trên một lĩnh vực cụ thể là về nâng cao chất lượng chính trị của lực lượng DQTV trên địa bàn Quân khu 1. Phạm Hồng Kỳ (2011), Nghiên cứu về tổ chức xây dựng, huấn luyện và hoạt động của lực lượng dân quân tự vệ biển trong tình hình mới [114]. Trong đó đã phân tích những đặc điểm về vị trí địa lý, tình hình kinh tế, chính trị của Việt Nam, chiến lược của các nước lớn và các nước xung quanh Biển Đông, thực trạng hoạt động xác lập chủ quyền về quốc phòng - an ninh trên Biển Đông của Việt Nam, thực trạng xây dựng, công tác huấn luyện, hoạt động chiến đấu trị an, công tác bảo đảm chính sách cho DQTV biển, từ đó rút ra một số kinh nghiệm xây dựng lực lượng DQTV biển. Đề tài cũng đã nêu ra một số kinh nghiệm trong xây dựng lực lượng dân quân biển của Trung Quốc, Thái Lan, Mỹ , đồng thời đưa ra quan điểm của Đảng về phát triển kinh tế gắn với bảo vệ chủ quyền biển, đảo. Khẳng định vai trò, nhiệm vụ, chức năng và phân tích những nguyên tắc, phương châm, mục tiêu, yêu cầu trong tổ chức, xây dựng và huấn luyện, từ đó đề xuất những giải pháp xây dựng lực lượng DQTV biển đáp ứng yêu cầu bảo vệ chủ quyền biển, đảo. Vũ Văn Minh (2013), Hoạt động của dân quân tự vệ chống bạo loạn chính trị trong khu vực phòng thủ tỉnh biên giới Tây Nguyên [133], đã đề cập