Khóa luận Vai trò của phụ nữ dân tộc Tày trong phát triển kinh tế hộ nông nghiệp xã Lam Sơn, huyện Na Rì, tỉnh Bắc Kạn

pdf 90 trang thiennha21 19/04/2022 3960
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Vai trò của phụ nữ dân tộc Tày trong phát triển kinh tế hộ nông nghiệp xã Lam Sơn, huyện Na Rì, tỉnh Bắc Kạn", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfkhoa_luan_vai_tro_cua_phu_nu_dan_toc_tay_trong_phat_trien_ki.pdf

Nội dung text: Khóa luận Vai trò của phụ nữ dân tộc Tày trong phát triển kinh tế hộ nông nghiệp xã Lam Sơn, huyện Na Rì, tỉnh Bắc Kạn

  1. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM  HOÀNG THẢO NGUYÊN KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Tên đề tài: VAI TRÒ CỦA PHỤ NỮ DÂN TỘC TÀY TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ HỘ NÔNG NGHIỆP XÃ LAM SƠN, HUYỆN NA RÌ, TỈNH BẮC KẠN Hệ đào tạo : Chính quy Định hướng đề tài : Hướng nghiên cứu Chuyên ngành : Phát triển nông thôn Khoa : Kinh tế và PTNT Khóa : 2015 – 2019 Thái Nguyên, năm 2019
  2. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM  HOÀNG THẢO NGUYÊN KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Tên đề tài: VAI TRÒ CỦA PHỤ NỮ DÂN TỘC TÀY TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ HỘ NÔNG NGHIỆP XÃ LAM SƠN, HUYỆN NA RÌ, TỈNH BẮC KẠN Hệ đào tạo : Chính quy Định hướng đề tài : Hướng nghiên cứu Chuyên ngành : Phát triển nông thôn Lớp : K47 – PTNT – N01 Khoa : Kinh tế và PTNT Khóa : 2015 – 2019 Giảng viên hướng dẫn : ThS. Dương Thị Thu Hoài Thái Nguyên, năm 2019
  3. i LỜI CAM ĐOAN Đề tài tốt nghiệp “Vai trò của phụ nữ dân tộc Tày trong phát triển kinh tế hộ nông nghiệp xã Lam Sơn, huyện Na Rì, tỉnh Bắc Kạn”, chuyên nghành Phát triển nông thôn là công trình nghiên cứu của riêng tôi, đề tài đã sử dụng thông tin từ nhiều nguồn khác nhau, các thông tin có sẵn được trích rõ nguồn gốc. Tôi xin cam đoan rằng các số liệu và kết quả nghiên cứu đã đưa ra trong đề tài này là trung thực và chưa được sử dụng trong bất kì một công trình nghiên cứu khoa học nào. Tôi xin cam đoan rằng mọi sự giúp đỡ trong việc thực hiện đề tài này đã được cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong đề tài này đều được chỉ rõ nguồn gốc. Thái nguyên, ngày tháng năm 2019 Sinh viên Hoàng Thảo Nguyên
  4. ii LỜI CẢM ƠN Được sự nhất trí của Ban giám hiệu nhà trường, Ban chủ nhiệm khoa Kinh tế và Phát triển nông thôn Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên, sau khi hoàn thành khóa học ở trường tôi đã tiến hành thực tập tốt nghiệp tại xã Lam Sơn, huyện Na Rì, tỉnh Bắc Kạn với đề tài: “Vai trò của phụ nữ dân tộc Tày trong phát triển kinh tế hộ nông nghiệp xã Lam Sơn, huyện Na Rì, tỉnh Bắc Kạn”. Khóa luận được hình thành nhờ sự quan tâm giúp đỡ của thầy cô, cá nhân, cơ quan và nhà trường. Tôi xin chân thành cảm ơn Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên nơi đào tạo, giảng dạy và giúp đỡ tôi trong suốt thời gian học tập, nghiên cứu tại trường. Tôi xin chân thành cảm ơn cô giáo ThS. Dương Thị Thu Hoài, giảng viên khoa Kinh tế và PTNT, người đã trực tiếp hướng dẫn và chỉ bảo tận tình tôi trong quá trình thực hiện đề tài. Đồng thời tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong khoa đã tạo mọi điều kiện giúp đỡ tôi. Tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của UBND xã Lam Sơn, các ban ngành cùng nhân dân trong xã đã tạo mọi điều kiện giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện đề tài. Thái nguyên, ngày tháng năm 2019 Sinh viên Hoàng Thảo Nguyên
  5. iii DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng 2.1: Sự khác nhau về đặc trưng cơ bản giữa giới và giới tính 5 Bảng 4.1: Tình hình sử dụng đất xã Lam Sơn giai đoạn 2016 - 2018 31 Bảng 4.2: Tình hình phát triển một số cây trồng trên địa bàn xã Lam Sơn 33 Bảng 4.3: Tình hình sản xuất chăn nuôi giai đoạn 2016 – 2018 34 Bảng 4.4: Tình hình dân số và lao động của xã Lam Sơn giai đoạn 2016 – 2018 35 Bảng 4.5: Cơ cấu dân số phân theo dân tộc và giới tính của xã Lam Sơn năm 2018 36 Bảng 4.6: Phụ nữ tham gia lãnh đạo cấp Đảng ủy, chính quyền và đoàn thể năm 2018 37 Bảng 4.7: Thông tin chung về các nhóm hộ điều tra 43 Bảng 4.8: Thông tin về phụ nữ ở các hộ điều tra 45 Bảng 4.9: Phân công lao động trong hoạt động trồng trọt ở các hộ điều tra 47 Bảng 4.10: Phân công lao động trong hoạt động chăn nuôi của các hộ điều tra 49 Bảng 4.11: Phân công lao động trong hoạt động buôn bán, dịch vụ của các hộ điều tra 50 Bảng 4.12: Nguồn vay vốn của các hộ điều tra 52 Bảng 4.13: Tình hình quản lý vốn vay của các hộ điều tra 53 Bảng 4.14: Phụ nữ dân tộc Tày đối với hoạt động tái sản xuất 55 Bảng 4.15: Phụ nữ dân tộc Tày với vai trò cộng đồng 57 Bảng 4.16: Các yếu tố ảnh hưởng đến vai trò của phụ nữ dân tộc Tày trong phát triển kinh tế hộ gia đình 59
  6. iv DANH MỤC CÁC HÌNH Trang Hình 4.1: Biểu đồ người đứng tên trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất 53
  7. v DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT Chữ viết tắt Nghĩa DTT : Dân tộc Tày DT : Dân tộc DTTS : Dân tộc thiểu số UBND : Ủy ban nhân dân GDP : Thu nhập bình quân ĐVT : Đơn vị tính GAD : Gender and development: Giới và phát triển WAD : Women and development: Phụ nữ và phát triển WID : Women in development: Phụ nữ trong phát triển BQ : Bình quân KHKT : Khoa học kỹ thuật TT : Thị trường KHHGĐ : Kế hoạch hóa gia đình SKSS : Sức khỏe sinh sản TC – CĐ – ĐH : Trung cấp – Cao đẳng – Đại học
  8. vi MỤC LỤC Trang LỜI CAM ĐOAN i LỜI CẢM ƠN ii DANH MỤC CÁC BẢNG iii DANH MỤC CÁC HÌNH iv DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT v MỤC LỤC vi Phần 1: MỞ ĐẦU 1 1.1. Tính cấp thiết của đề tài 1 1.2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài 2 1.2.1. Mục tiêu chung 2 1.2.2. Mục tiêu cụ thể 2 1.3. Ý nghĩa của đề tài 3 1.3.1. Ý nghĩa khoa học 3 1.3.2. Ý nghĩa trong thực tiễn 3 Phần 2: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU 4 2.1. Cơ sở lý luận của đề tài 4 2.1.1. Một số khái niệm cơ bản 4 2.1.3. Những yếu tố ảnh hưởng đến vai trò của người phụ nữ trong phát triển kinh tế gia đình 13 2.1.2. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng ta về giải phóng phụ nữ 15 2.1.3. Quan điểm về nâng cao vai trò của phụ nữ 17 2.2. Cơ sở thực tiễn của đề tài 18 2.2.1. Vai trò của phụ nữ trong phát triển kinh tế hộ ở mộtsố nước trên thế giới 18 2.2.2. Vai trò ủc a phụ nữ dân tộc trong phát triển kinh tế hộ gia đình ở Việt Nam. 20 2.2.3. Kinh nghiệm trong phát huy vai trò của phụ nữ dân tộc Tày ở Việt Nam 21
  9. vii 2.2.4. Những chính sách trong phát triển phụ nữ dân tộc ở Việt Nam 21 2.2.5. Đặc điểm kinh tế, văn hóa, xã hội của dân tộc Tày 22 Phần 3: ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU . 25 3.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 25 3.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu 25 3.3. Nội dung nghiên cứu 25 3.4. Phương pháp nghiên cứu 25 3.4.1. Phương pháp điều tra chọn mẫu 25 3.4.2. Phương pháp thu thập số liệu 27 3.4.3. Phương pháp phân tích và xử lý số liệu 28 Phần 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 29 4.1. Đặc điểm địa bàn nghiên cứu 29 4.1.1. Đặc điểm tự nhiên 29 4.1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội xã Lam Sơn 32 4.2. Thực trạng vai trò của phụ nữ dân tộc Tày trong phát triển kinh tế hộ gia đình tại xã Lam Sơn 42 4.2.1. Thông tin chung về các hộ điều tra 42 4.2.2. Phụ nữ dân tộc Tày đối với sản xuất 46 4.2.3. Phụ nữ dân tộc Tày đối với vai trò tái sản xuất 55 4.2.4. Phụ nữ dân tộc Tày đối với vai trò cộng đồng 56 4.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến vai trò của phụ nữ dân tộc Tày trong phát triển kinh tế hộ gia đình 58 4.3.1. Những yếu tố khách quan 59 4.3.2. Những yếu tố thuộc về bản thân phụ nữ 63 4.4. Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao vai trò của phụ nữ dân tộc Tày trong phát triển kinh tế hộ gia đình 64 4.4.1. Giải pháp đối với địa phương 64 4.4.2. Giải pháp đối với bản thân người phụ nữ 69
  10. viii Phần 5: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 70 5.1. Kết luận 70 5.2. Kiến nghị 71 5.2.1. Đối với Đảng và Nhà nước 71 5.2.2. Đối với các cấp chính quyền và đoàn thể địa phương 71 5.2.3. Đối với bản thân người phụ nữ dân tộc Tày 72 TÀI LIỆU THAM KHẢO 73
  11. 1 Phần 1 MỞ ĐẦU 1.1. Tính cấp thiết của đề tài Trong lịch sử loài người từ trước đến nay, phụ nữ giữ một vai trò rất quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội, bằng sự lao động sáng tạo của mình, họ đã góp phần làm giàu cho xã hội, làm phong phú cuộc sống con người. Không chỉ sản xuất ra của cải vật chất, phụ nữ còn đóng vai trò chính trong công việc sinh sản và nuôi dưỡng con người để duy trì và phát triển xã hội. Trong lĩnh vực hoạt động tinh thần, phụ nữ có vai trò sáng tạo nền văn hóa nhân loại. Nền văn hóa dân gian của bất cứ nước nào, dân tộc nào cũng có sự tham gia bằng nhiều hình thức của đông đảo phụ nữ. Trong những năm gần đây, nền kinh tế nước ta nói chung và nền kinh tế nông thôn nói riêng đã có những bước phát triển đáng kể. Để đạt được những thành tựu đó, các thành phần kinh tế đã không ngừng vươn lên và có nhiều đóng góp to lớn. Kinh tế hộ nông nghiệp là là một bộ phận không thể thiếu được trong các thành phần kinh tế đó. Từ những trang sử xưa của dân tộc, phụ nữ Việt Nam đã giữ vị trí và vai trò quan trọng trong việc dựng nước và giữ nước. Những tấm gương, hình ảnh của Bà Trưng, Bà Triệu, Nguyễn Thị Minh Khai, các mẹ Việt Nam anh hùng, đã trở thành biểu tượng cho lòng yêu nước và tinh thần bất khuất. Ngày nay, phụ nữ Việt Nam tiếp tục kế thừa, phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp ấy và ngày càng khẳng định được vai trò to lớn của mình trong xã hội. Ở nông thôn nước ta, phụ nữ chiếm gần 50% dân số. Người phụ nữ hết sức quan trọng trong xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ và hạnh phúc. Tuy nhiên, phụ nữ nông thôn còn chịu nhiều thiệt thòi, họ tham gia vào hầu hết các khâu trong sản xuất nông nghiệp nhưng vai trò của họ vẫn chưa được nhìn nhận đúng đắn. Phụ nữ có tác động trực tiếp đến sự phát triển mọi mặt của địa phương. Có đóng góp không nhỏ vào sự phát triển của gia đình và xã hội. Nhưng thực trạng hiện nay cho thấy, vấn đề việc làm, thu nhập, địa vị của người phụ nữ dân tộc Tày là vấn đề bức xúc. Do
  12. 2 vậy, việc giúp đỡ, tạo điều kiện để người phụ nữ phát huy vai trò của mình là trách nhiệm của các cấp, các ngành và địa phương. Lam Sơn là một xã thuộc địa bàn huyện Na Rì, tỉnh Bắc Kạn, có cơ sở hạ tầng còn kém phát triển. Đây là khu vực sinh sống của 4 dân tộc anh em là: Tày, Dao, Kinh, Nùng. Trong đó, dân tộc Tày chiếm đông nhất (49,59%). Trình độ dân trí chưa cao, nền kinh tế chủ yếu là sản xuất nông nghiệp. Đặc biệt, một vấn đề hiện nay là bất bình đẳng giới và bạo lực gia đình còn phổ biến, phụ nữ DTTS nhất là phụ nữ DTT trên địa bàn xã chưa được tham gia vào quá trình ra quyết định và các nguồn thông tin mới về kỹ thuật canh tác. Trong khi họ lại là người trực tiếp tham gia sản xuất, do đó hiệu quả canh tác không cao, đời sống chưa được cải thiện. Xuất phát từ tính cấp thiết trên và sự nhận thức sâu sắc về những tiềm năng to lớn của người phụ nữ DTT, những khó khăn đang cản trở sự tiến bộ của họ, những người có vai trò vô cùng quan trọng trong sự nghiệp đổi mới và phát triển kinh tế nông thôn, tôi tiến hành nghiên cứu đề tài:“Vai trò của phụ nữ dân tộc Tày trong phát triển kinh tế hộ nông nghiệp xã Lam Sơn, huyện Na Rì, tỉnh Bắc Kạn”. 1.2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài 1.2.1. Mục tiêu chung Nghiên cứu được thực trạng , vai trò của phụ nữ dân tộc Tày trong phát triển kinh tế hộ nông nghiệp trên địa bàn xã Lam Sơn, huyện Na Rì, tỉnh Bắc Kạn. Từ đó, đưa ra những giải pháp nhằm phát huy vai trò của phụ nữ dân tộc Tày trong các hoạt động tăng thu nhập cải thiện đời sống gia đình, đồng thời, góp phần phát triển kinh tế xã hội của địa phương. 1.2.2. Mục tiêu cụ thể - Phân tích và đánh giá được thực trạng vai trò của phụ nữ dân tộc Tày trong phát triển kinh tế hộ nông nghiệp tại xã Lam Sơn, huyện Na Rì, tỉnh Bắc Kạn.
  13. 3 - Phân tích được các yếu tố ảnh hường đến vai trò của phụ nữ dân tộc Tày trong phát triển kinh tế hộ nông nghiệp tại xã Lam Sơn, huyện Na Rì, tỉnh Bắc Kạn. - Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao vai trò của phụ nữ dân tộc Tày trong phát triển kinh tế hộ nông nghiệp tại xã Lam Sơn, huyện Na Rì, tỉnh Bắc Kạn. 1.3. Ý nghĩa của đề tài 1.3.1. Ý nghĩa khoa học - Củng cố kiến thức đã học với thực tiễn trong quá trình đi thực tập tại cơ sở. - Nâng cao khả năng tiếp cận, thu thập, xử lý thông tin kỹ năng nghề nghiệp. - Là tài liệu tham khảo cho nhà trường, cho khoa và các sinh viên khóa tiếp theo. 1.3.2. Ý nghĩa trong thực tiễn Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ giúp nhìn nhận đúng hơn về vai trò của người phụ nữ dân tộc Tày trong phát triển kinh tế gia đình. Từ đó, nâng cao nhận thức của chính người phụ nữ dân tộc Tày và người dân về vai trò của phụ nữ, góp phần phát huy hơn nữa vai trò của người phụ nữ trong phát triển kinh tế của chính gia đình họ, đóng góp vào sự phát triển của địa phương.
  14. 4 Phần 2 TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU 2.1. Cơ sở lý luận của đề tài 2.1.1. Một số khái niệm cơ bản 2.1.1.1. Khái niệm về giới và giới tính * Khái niệm về giới Khái niệm về “Giới” được xuất hiện ban đầu là ở các nước nói tiếng Anh, vào khoảng những năm 60 của thế kỷ XX cho đến những thập kỷ 80 nó được xuất hiện tại Việt Nam. Có nhiều khái niệm về giới, sau đây là khái niệm của một số tác giả khác nhau: Giới trước hết không phải là phụ nữ. Giới liên hệ đến vai trò của nam và nữ do xã hội hoặc do một nền văn hóa xác lập nên. Giới có thể khác nhau giữa nơi này với nơi khác, giữa nền văn hóa này so với nền văn hóa khác và có thể thay đổi theo thời gian (Feldstein H.S và Jinggins J. 1994). Giới không nói đến nam hay nữ mà chỉ mối quan hệ giữa họ. Giới không phải là sự xác định sinh học - như kết quả của những đặc điểm về giới tính của nam hay nữ, mà giới là do xã hội xác lập nên. Nó là một nguyên tắc tổ chức xã hội có thể kiểm soát tiến trình sản xuất, tái sản xuất, tiêu thụ và phân phối (FAO, 1997). Giới là sự khác biệt giữa nam và nữ về góc độ xã hội, các đặc điểm khác nhau do xã hội quyết định, các mối quan hệ giữa nam và nữ do xã hội lập nên. Các vai trò của giới được xác định bởi các đặc tính xã hội, văn hóa và kinh tế, được nhận thức bởi các thành viên trong xã hội đó. Do đó, vài trò của giới có sự biến động và thay đổi qua các thời gian và không gian (Trần Thị Quế,1999 và Nancy J. Hafkin, 2002).
  15. 5 * Khái niệm về giới tính Giới tính là một thuật ngữ được các nhà khoa học xã hội và các nhà sinh học dùng để chỉ một phạm trù sinh học, trong ý nghĩa đó nam và nữ khác nhau về mặt sinh học, tạo nên hai giới tính: nam giới và nữ giới. Hay nói cách khác: Giới tính là sự khác biệt về mặt sinh học giữa nam giới và phụ nữ. Giới tính là những đặc điểm đồng nhất mà khi chúng ta sinh ra đã có và không thể thay đổi được. Sự khác biệt này chủ yếu liên quan đến quá trình tái sản xuất con người và di truyền nòi giống. Ví dụ như: sự khác nhau về hình dạng cơ thể bên ngoài (nam giới cao to hơn, nặng hơn, giọng nói trầm hơn, ), khác nhau về cấu tạo NST, hormone, khác nhau về chức năng sinh học, tạo nên vai trò của giới tính (phụ nữ mang thai, sinh con và cho con bú; nam giới sản xuất ra tinh trùng để thụ thai ). Những đặc trưng mang tính sinh học này có ngay từ khi con người được sinh ra, chúng ổn định và hầu như không biến đổi ở cả nam và nữ. * Phân biệt giữa giới và giới tính Bảng 2.1: Sự khác nhau về đặc trưng cơ bản giữa giới và giới tính Giới Giới tính Đặc trưng xã hội Đặc trưng sinh học Do dạy và học mà có Bẩm sinh Đa dạng Đồng nhất Biến đổi theo hoàn cảnh xã hội Không biến đổi Thay đổi theo không gian và thời gian Không thay đổi (Nguồn: Bài giảng Giới trong phát triển nông thôn) [6] - Sự khác biệt về giới Phụ nữ được xem là phái yếu vì một mặt thể lực họ yếu hơn nam giới, họ sống thiên về tình cảm. Vì vậy phân công lao động giữa hai giới cũng có sự khác biệt. Người phụ nữ có thiên chức là làm vợ, làm mẹ, chăm sóc con cái
  16. 6 và gia đình. Còn nam giới được coi là phái mạnh, là trụ cột gia đình. Họ có thể lực tốt hơn phụ nữ, cứng rắn, nhanh nhẹn hơn trong công việc. Đặc trưng này khiến nam giới ít bị ràng buộc bởi con cái và gia đình, họ tập trung hơn vào công việc tạo ra của cải vật chất và các công việc xã hội. Chính điều này đã làm tăng thêm khoảng cách khác biệt giữa phụ nữ và nam giới trong xã hội. Hơn nữa do các tác động của định kiến xã hội, hệ tư tưởng, phong tục tập quán đối với mỗi giới khác nhau nên phụ nữ thường ít có cơ hội tiếp cận cái mới, trong học tập và tìm kiếm việc làm. Mặt khác, phụ nữ thường bị ràng buộc bởi gia đình và con cái, do đó họ ít có cơ hội tham gia các công việc xã hội và cơ hội thăng tiến trong công việc. Sự khác biệt về giới tạo nên khoảng cách giữa hai giới trong xã hội. - Nguồn gốc giới Trong gia đình, từ khi sinh ra đứa trẻ đã được đối xử và dạy dỗ khác nhau tùy theo nó là trai hay gái. Đó là sự khác biệt về trang phục, hành vi, cách ứng xử mà cha mẹ, gia đình, nhà trường và xã hội trông chờ ở con trai và con gái. Đồng thời họ cũng hướng dẫn, dạy dỗ trẻ trai và gái theo những quan điểm riêng và cụ thể. Đứa trẻ phải học để trở thành con trai hay con gái và phải luôn điều chỉnh hành vi sao cho phù hợp với khuôn mẫu cụ thể của mỗi giới đã được quy định. Sau khi đã hình thành các đặc điểm như vậy, nhà trường và các tập quán xã hội lại tiếp tục củng cố các khuôn mẫu cụ thể của mỗi giới (ví dụ: nam thì học thêm các môn kỹ thuật, xây dựng; nữ thì học thêm các môn nữ công, may thêu, ). Các thể chế xã hội như: chính sách, pháp luật, cũng có ý nghĩa làm tăng hoặc giảm sự khác biệt giữa hai giới (ví dụ: ưu tiên nữ trong các nghề y tá, thư ký, nam trong nghề lái xe, cảnh sát, ). * Vai trò của giới - Vai trò sản xuất: là những hoạt động do phụ nữ và nam giới thực hiện để làm ra của cải vật chất hoặc tinh thần đem lại thu nhập hoặc để tự tiêu dùng. Ví dụ: trồng lúa, nuôi gà, dạy học,
  17. 7 - Vai trò tái sản xuất (còn gọi là công việc gia đình): như sinh con, nuôi dưỡng trẻ nhỏ, làm công việc nội trợ, chăm sóc người già, người ốm. - Vai trò cộng đồng: + Những hoạt động tự nguyện mang lại phúc lợi cho cộng đồng như: dọn đường xá cho sạch sẽ, bảo vệ nguồn nước sạch, hoạt động từ thiện, + Hoạt động lãnh đạo ra quyết định như: tham gia cấp ủy Đảng, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, lãnh đạo đoàn thể, * Lồng ghép giới trong các chương trình, dự án Lồng ghép là tập hợp những ý tưởng, các giá trị, các cách làm, các thể chế và các tổ chức nổi trội có mối quan hệ tương tác lẫn nhau để quyết định “ai được cái gì” trong xã hội. Các ý tưởng và thực tế trong việc lồng ghép phản ánh và củng cố lẫn nhau, qua đó đưa ra luận chứng cho bất kỳ sự phân bố các nguồn lực và cơ hội nào của xã hội - Lồng ghép giới được hiểu là: Lồng ghép giới là một quá trình hay chiến lược hướng tới mục đích bình đẳng giới. Đây là một quá trình diễn ra liên tục. Nó là một phương pháp để quản trị nhằm làm cho các mối quan tâm và kinh nghiệm của phụ nữ và nam giới trở thành một bộ phận không thể thiếu trong quá trình thiết kế, thực hiện kiểm tra và đánh giá các chính sách và chương trình trong tất cả các lĩnh vực của xã hội. Lồng ghép giới liên quan đến việc thay đổi các chính sách và thể chế nhằm thúc đẩy bình đẳng giới một cách tích cực hơn. Đó là một quá trình chuyển đổi lâu dài nhằm xem xét lại các giá trị văn hóa – xã hội và các mục tiêu phát triển. - Đối tượng để thực hiện lồng ghép giới Dòng chảy chủ đạo là một tập hợp mang tính chi phối, bao gồm các ý tưởng, giá trị, quan niệm, thái độ, mối quan hệ và cách thức tiến hành mọi việc trong xã hội. Dòng chảy chủ dạo bao trùm các thể chế chính của xã hội
  18. 8 (gia đình, nhà trường, chính quyền, tổ chức xã hội, ) quyết định ai được coi trọng và cách thức phân bổ nguồn lực, quyết định ai được làm gì và ai nhận được gì trong xã hội, và cuối cùng quyết định chất lượng cuộc sống của mọi thành viên trong xã hội. - Tại sao lồng ghép giới lại quan trọng? Lồng ghép giới là một khía cạnh quan trọng trong quản trị hữu hiệu. Nó đảm bảo rằng các thể chế, chính sách và chương trình đều đáp ứng các nhu cầu và mối quan tâm của phụ nữ cũng như nam giới và phân bố các lợi ích một cách công bằng giữa phụ nữ và nam giới. Lồng ghép giới sẽ góp phần vào sự tiến bộ xã hội, kinh tế, văn hóa, mang lại sự công bằng hơn cho phụ nữ và nam giới, qua đó nâng cao trách nhiệm của chính quyền nhằm mang lại thành tựu cho mọi công dân. * Nhu cầu, lợi ích, bình đẳng, giới và phát triển giới - Nhu cầu giới thực tế Là những nhu cầu của phụ nữ và nam giới cần được đáp ứng để thực hiện tốt các vai trò được xã hội công nhận. Nhu cầu này nảy sinh trong đời sống hằng ngày, là những thứ nhìn thấy được, thiết thực, cụ thể. Có liên quan đến trách nhiệm và nhiệm vụ gắn với các vai trò truyền thống. Khác với nhu cầu giới chiến lược, nhu cầu giới thực tế được chính người phụ nữ đưa ra từ vị trí của họ chứ không phải qua can thiệp từ bên ngoài. Ví dụ: phụ nữ có nhiều nhu cầu giới gắn với vai trò nuôi dưỡng của mình như củi, nước, thực phẩm, thuốc men nếu những nhu cầu này được đáp ứng thì họ sẽ làm tốt hơn vai trò của mình. - Lợi ích giới (nhu cầu giới chiến lược) Là những nhu cầu của phụ nữ và nam giới xuất phát từ sự chênh lệch về địa vị xã hội của họ. Những lợi ích này khi được đáp ứng sẽ thay đổi vị thế của phụ nữ và nam giới theo hướng bình đẳng. Nhu cầu giới chiến lược được
  19. 9 xác định để khắc phục tình trạng thấp kém hơn của mỗi giới, chúng có thể thay đổi theo hoàn cảnh xã hội, chính trị và văn hóa cụ thể. - Công bằng giới Là sự đối xử công bằng với cả nam giới và phụ nữ. Để bảo đảm có sự công bằng, luôn phải có nhiều biện pháp để điều chỉnh những khuyết thiếu của lịch sử và xã hội mà đã cản trở phụ nữ và nam giới tham gia vào các hoạt động xã hội dưới hình thức này hay hình thức khác. Công bằng sẽ dẫn tới sự bình đẳng. - Bình đẳng giới Là những nhu cầu của phụ nữ và nam giới xuất phát từ sự chênh lệch về địa vị xã hội của họ. Những lợi ích này khi được đáp ứng sẽ thay đổi vị thế của phụ nữ và nam giới theo hướng bình đẳng. Nhu cầu giới chiến lược được xác định để khắc phục tình trạng thấp kém hơn của mỗi giới, chúng có thể thay đổi theo hoàn cảnh xã hội, chính trị và văn hóa cụ thể. - Bất bình đẳng giới Là một trong những cản trở to lớn trong sự phát triển của từng nước và toàn cầu. Nó là một trong những nguyên nhân gây ra đói nghèo, mù chữ. Nó là hiện tượng không thể chấp nhận được trong thế giới văn minh, vì quyền và hạnh phúc của con người.Vì sự bất bình đẳng giới còn thể hiện trong các phong tục tập quán, lối sống của người dân với những định kiến giới từ hàng ngàn năm để lại. Phụ nữ là những người coi là có số xấu, đem lại không may cho người khác như quan niệm “Ra ngõ gặp gái”. Họ bị coi là “ngu dốt, thiếu kiến thức, suy nghĩ nông cạn”. Và họ được coi là những người có giá trị thấp: “Một trăm con gái không bằng cái con trai”, “Đàn ông rộng miệng thì sang, đàn bà rộng miệng thì tan hoang cửa nhà”. Trong hoàn cảnh như vậy thì người phụ nữ sẽ không đủ tự tin và điều kiện để vươn lên như nam giới và sự cam chịu của nhiều phụ nữ khác.
  20. 10 - Giới và phát triển giới Xã hội loài người tồn tại và phát triển nhờ sự chiến đấu, lao động và hợp tác hai giống người: nam và nữ. Từ thế hệ này sang thế hệ khác, phụ nữ đã sát cánh cùng với nam giới để sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần xã hội. Về mặt sinh học (giới tính) hai giống người này không giống nhau trên nhiều phương diện như hình dáng, giọng nói và chức năng sinh sản, còn về mặt xã hội, (giới) thật khó có thể so sánh ai hơn ai vì nam và nữ đều đóng vai trò quan trọng không thể thiếu được trong gia đình và xã hội. Không thể nói rằng giới tính này là quan trọng giới tính kia là không quan trọng cũng không thể nói rằng giới tính này sinh ra để thống trị, giới tính kia là bị trị. Tuy nhiên, lịch sử đã không công bằng khi ghi chép về nam giới như là người sáng tạo ra tất cả còn phụ nữ chỉ đóng vai trò phụ giúp không đáng kể. Phụ nữ là người đảm nhiệm các vai trò sản xuất và đóng vai trò chính trong tái sản xuất: tái sản xuất sinh học, tái sản xuất ra sức lao động và tái sản xuất ra cơ cấu cộng đồng. Trong gia đình, họ là người sinh đẻ, nuôi dạy con cái, giữ gìn gia đạo, gia phong còn đối với dân tộc, phụ nữ đã đóng góp phần bảo lưu truyền thống văn hóa và hình ảnh của người mẹ luôn là biểu tượng của hòa bình, hạnh phúc. Mặc dù ở vị thế thấp nhưng trong lịch sử thế giới và Việt Nam, thời kỳ nào cũng có phụ nữ kiệt xuất trên tất cả các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hóa, quân sự, ngoại giao, du hành vũ trụ. 2.1.1.2. Khái niệm về dân tộc Dân tộc là một cộng đồng người ổn định được hình thành trong đời sống xã hội có chung tiếng nói, lãnh thổ, đời sống kinh tế và tâm lý đoàn kết dân tộc. Dân tộc thiểu số được hiểu là những người thiểu số sống trong một quốc gia. [5] 2.1.1.3. Khái niệm hộ gia đình, kinh tế hộ gia đình * Khái niệm về hộ Trong một số từ điển ngôn ngữ học cũng như một số từ điển chuyên ngành kinh tế, người ta định nghĩa về “hộ” như sau: Hộ là tất cả những người
  21. 11 sống chung trong một ngôi nhà và nhóm người đó có cùng chung huyết tộc và người làm công, người cùng ăn chung. Thống kê Liên Hợp Quốc cũng có khái niệm về “hộ”: Gồm những người sống chung dưới một ngôi nhà, cùng ăn chung, làm chung và cùng có chung một ngân quỹ. Giáo sư Mc. Gee (1989) – Đại học tổng hợp Colombia (Canada) cho rằng: “hộ” là một nhóm người có cùng chung huyết tộc hoặc không cùng chung huyết tộc ở trong một mái nhà và ăn chung một mâm cơm. Nhóm các học giả lý thuyết phát triển cho rằng: “Hộ là một hệ thống các nguồn lực tạo thành một nhóm các chế độ kinh tế riêng nhưng lại có mối quan hệ chặt chẽ và phục vụ hệ thống kinh tế lớn hơn”. Như vậy, có nhiều cách tiếp cận và quan niệm về hộ không giống nhau. Tuy nhiên, trong đó cũng có những nét chung để phân biệt về hộ, đó là: + Chung hay không cùng chung huyết tộc (huyết thống và quan hệ hôn nhân); + Cùng chung sống dưới một mái nhà; + Cùng chung một nguồn thu nhập (ngân quỹ); + Cùng ăn chung; + Cùng tiến hành sản xuất chung. * Khái niệm“gia đình” Gia đình là một nhóm xã hội được hình thành trên cơ sở hôn nhân và quan hệ huyết thống, những thành viên trong gia đình có sự gắn bó và ràng buộc với nhau về trách nhiệm, quyền lợi, nghĩa vụ có tính hợp pháp được nhà nước thừa nhận và bảo vệ. [14] * Khái niệm“hộ gia đình” Hộ gia đình được dùng để biểu thị các thành viên của nó có chung huyết tộc, quan hệ hôn nhân và có chung một cơ sở kinh tế. Các thành viên cùng đóng góp công sức, tài sản chung để hợp tác kinh tế chung trong hoạt
  22. 12 động sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp hoặc trong một số lĩnh vực kinh doanh khác do pháp luật quy định; là chủ thể trong các quan hệ dân sự đó (Điều 107, Dự thảo luật dân sự). * Khái niệm kinh tế“hộ gia đình” Theo Frank Ellis (1988), kinh tế hộ nông dân là “các nông hộ thu hoạch các phương tiện sống từ đất, chủ yếu sử dụng lao động gia đình trong sản xuất nông trại, nằm trong hệ thống kinh tế rộng hơn nhưng về cơ bản được đặc trưng bằng việc tham gia một phần thị trường hoạt động với một tốc độ không hoàn chỉnh”. Kinh tế hộ nông dân là hình thức tổ chức kinh tế cơ sở của nền sản xuất xã hội trong đó có các nguồn lực như: đất đai, lao động, tiền vốn, và tư liệu sản xuất được coi là của chung để tiến hành sản xuất. Có chung ngân quỹ, ngủ chung một nhà, ăn chung, mọi quyết định trong sản xuất kinh doanh và đời sống là tùy thuộc vào chủ hộ được Nhà nước thừa nhận, hỗ trợ và tạo điều kiện phát triển”. [4] 2.1.2. Quan điểm về tăng trưởng và phát triển kinh tế Tăng trưởng và phát triển kinh tế đôi khi được coi như nhau nhưng thực chất chúng có những nét khác nhau và có liên quan chặt chẽ với nhau. Muốn phát triển kinh tế phải có sự tăng trưởng kinh tế, nhưng không phải sự tăng trưởng kinh tế nào cũng dẫn tới sự phát triển kinh tế. Tăng trưởng kinh tế là một trong những vấn đề cốt lõi nhất của vấn đề lí luận kinh tế. Các nhà khoa học đều thống nhất cho rằng: “Tăng trưởng kinh tế là sự tăng thêm hay gia tăng về quy mô, sản lượng của nền kinh tế trong một thời kì nhất định”. [1] Trong khi đó phát triển kinh tế được hiểu là “Một quá trình lớn lên hay tăng tiến về mọi mặt của nền kinh tế trong một thời kì nhất định trong đó bao gồm cả tăng thêm về quy mô sản lượng và sự tiến bộ về cơ cấu kinh tế”. Phát triển kinh tế xã hội là nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân bằng việc phát triển lực lượng sản xuất, thay đổi quan hệ sản xuất, quan hệ xã hội, nâng cao chất lượng lao động văn hoá. [1]
  23. 13 Các nước trên thế giới trong quá trình phát triển kinh tế nói chung, phát triển nông nghiệp nói riêng đều phải quan tâm đến mục tiêu phát triển đó là: + Tăng khả năng sẵn có và mở rộng việc phân phối các loại hàng hóa thiết yếu cho cuộc sống như phương tiện, nhà ở, y tế và bảo vệ cho tất cả các thành viên trong xã hội. + Tăng mức sống tức là ngoài mục tiêu tăng thu nhập ra còn phải tạo thêm việc làm, cải thiện công tác giáo dục và chú trọng hơn đến giá trị văn hoá, nhân văn. + Mở rộng sự lựa chọn về y tế - xã hội cho các thành viên và các quốc gia bằng cách giúp họ thoát khỏi sự ràng buộc và lệ thuộc không chỉ đối với những người và những quốc gia khác nhau mà còn đối với những áp lực của sự nghèo đói. [2] 2.1.3. Những yếu tố ảnh hưởng đến vai trò của người phụ nữ trong phát triển kinh tế gia đình 2.1.3.1. Quan niệm về giới, những phong tục tập quán ở nông thôn Việt Nam là một nước thuộc khu vực Đông Nam Á nên còn lưu giữ rất nhiều những phong tục tập quán kể cả những phong tục cổ hủ lạc hậu. Ở nông thôn, nơi mà sự tiếp cận của cơ chế thị trường rất chậm, văn minh thường đến sau cùng, nên những tư tưởng “trọng nam khinh nữ” có cơ hội cản trở phụ nữ nông thôn tham gia vào các hoạt động xã hội, người dân không dám mạnh bạo làm ăn, hạn chế tính năng động sáng tạo và đương nhiên cản trở vai trò của người phụ nữ. Đặc biệt đối với các dân tộc thiểu số, nơi mà quan niệm về giới và vai trò của giới vẫn có xu hướng đề cao vai trò của nam giới hơn. Họ cho rằng chỉ nam giới mới có khả năng đảm đương được các công việc được xem là quan trọng của gia đình, cộng đồng và xã hội. [3] 2.1.3.2. Trình độ học vấn, chuyên môn, khoa học kỹ thuật của người phụ nữ Ở nông thôn đặc biệt là miền núi phương tiện thông tin nghe nhìn cũng như báo chí đến với người nông dân rất hạn chế, do vậy việc phụ nữ tiếp cận
  24. 14 và nắm bắt các thông tin khoa học liên quan đến kiến thức phát triển sản xuất và chăn nuôi gặp nhiều khó khăn. Tuy phụ nữ đã được bình đẳng với nam giới về tất cả các quyền và được quy định rõ trong hiến pháp, bộ luật dân sự và luật hôn nhân gia đình nhưng hầu hết phụ nữ nông thôn không hiểu biết về những văn bản trên và phải tuân theo các tập quán truyền thống. Phụ nữ bị hạn chế về trình độ chuyên môn kỹ thuật, sự hiểu biết nên gặp nhiều khó khăn trong việc nắm bắt thông tin về chính trị, pháp luật và gặp nhiều khó khăn trong áp dụng các tiến bộ KHKT mới hay các phương tiện hiện đại vào sản xuất, vào đời sống do vậy hiệu quả công việc và năng suất lao động thấp. [3] 2.1.3.3. Yếu tố vốn đầu tư Trong phát triển kinh tế, yếu tố vốn là rất quan trọng nhưng trong phát triển kinh tế hộ gia đình thì hầu hết là gặp khó khăn về vốn. Phụ nữ ít có cơ hội tiếp cận với các dịch vụ tài chính chính thống do trình độ học vấn thấp, các hàng rào về xã hội và văn hoá, bản chất công việc kinh doanh và những yêu cầu thế chấp ví dụ như việc ghi tên trên giấy chứng nhận sở hữu đất mà người phụ nữ không thể ghi tên mình vào. Hơn nữa thị trường ở nước ta nhất là thị trường vốn ở các vùng xa xôi hẻo lánh hoạt động rất kém, cơ chế vay vốn gặp nhiều khó khăn. Một điều là vay nợ ở khu vực nông thôn chủ yếu được thực hiện thông qua khu vực phi chính thống với lãi suất rất cao. Do đó mà phụ nữ nông thôn đặc biệt là phụ nữ nghèo không có điều kiện mở rộng sản xuất phát triển kinh tế. [3] 2.1.3.4. Khả năng tiếp cận thông tin của phụ nữ Phụ nữ phải đối mặt với nhiều ràng buộc về thời gian lớn hơn nam giới. Họ có thể dành ít thời gian hơn cho công việc đồng ruộng nhưng lại phải làm việc nhà nhiều hơn do sự phân công lao động mang tính chất giới về việc chăm sóc con cái và trách nhiệm chăm lo việc nhà. Do vậy mà phụ nữ ít có điều kiện tiếp xúc với các nguồn sách báo, thông tin. Điều này đã ảnh hưởng
  25. 15 rất lớn đến khả năng nhận thức và hiểu biết xã hội. ở nhiều vùng xa xôi hẻo lánh, người dân ít có cơ hội tiếp xúc với báo chí và các hình thức truyền tải thông tin khác. Do vậy mà cơ hội để phụ nữ giao tiếp rộng, tham gia hội họp để nắm bắt thông tin cũng rất hiếm. [3] 2.1.3.5. Yếu tố chủ quan Một yếu tố không thể không nhắc đến ảnh hưởng đến vai trò của phụ nữ đó là nguyên nhân chủ quan do chính họ gây ra. Chính họ cũng cho rằng những công việc nội trợ, chăm sóc gia đình, con cái, là công việc của người phụ nữ, như vậy vô hình chung họ công nhận cái định kiến của xã hội, tự trói buộc mình để rồi công việc gia đình đè lên đôi vai của họ, họ không còn thời gian cho việc tham gia các hoạt động xã hội. Họ tự đánh mất vai trò và vị trí của mình trong gia đình và xã hội. [3] 2.1.2. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng ta về giải phóng phụ nữ * Quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin về giải phóng phụ nữ Phụ nữ là phân nửa dân số không thể thiếu được trong đời sống xã hội. Phụ nữ là một bộ phận cấu thành quan trọng có ý nghĩa quyết định việc tái sản xuất lực lượng sản xuất, góp phần quan trọng vào sự phát triển xã hội bền vững. Theo ông: “Trong lich sử nhân loại, không có một phong trào to lớn nào của những người áp bức mà lại không có phụ nữ lao động tham gia, phụ nữ lao động là những người bị áp bức nhất trong tất cả những người bị áp bức”, chính vì vậy mà họ chưa bao giờ và không bao giờ đứng ngoài các cuộc đấu tranh giải phóng. V.I Lênin nhìn rõ thực trạng bất bình đẳng mà phụ nữ phải gánh chịu đó còn là ựs bất bình đẳng trong cuộc sống gia đình, thì sự thật phụ nữ vẫn bị trói buộc, vì toàn bộ công việc gia đình đều trút lên vai phụ nữ. Để xóa bỏ vĩnh viễn tình trạng bất bình đẳng, cần sự nỗ lực to lớn của Đảng, Nhà nước, toàn xã hội, nhưng trước hết và quyết định nhất là sự nỗ lực của
  26. 16 chính phụ nữ. “Việc giải phóng phụ nữ lao động phải là việc của bản thân phụ nữ lao động”. Trong lĩnh vực chính trị, V.I Lênin quan tâm trước hết đến việc “làm cho phụ nữ tham gia nhiều hơn nữa vào công cuộc bầu cử vì đó là cơ hội tốt nhất để họ lựa chọn những người đại diện cho quyền lợi của họ, nhất là những người đại diện cho quyền lợi của họ, nhất là những người đại diện là phụ nữ. Tạo điều kiện cho phụ nữ tham gia vào các lĩnh vực công tác xã hội. Trong lĩnh vực công tác Đảng, công tác Nhà nước cũng cần có sự tham gia của phụ nữ, hơn nữa trong công tác đó, phụ nữ phải giữ một vai trò chủ yếu và chắc chắn là phụ nữ giữ vai tròấ y. [21] * Tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng phụ nữ Kế thừa và phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác - Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh là một trong những người đầu tiên tìm hiểu và đặc biệt quan tâm đến tiềm năng, vai trò, vị thế của người phụ nữ trong phong trào cách mạng thế giới nói chung và sự nghiệp cách mạng của Việt Nam nói riêng. Có thể khái quát tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng phụ nữ ở những luận điểm sau: Thứ nhất: Giải phóng phụ nữ là một mục tiêu tất yếu của cách mạng vô sản. Trong quá trình tìm đường cứu nước. Hồ Chí Minh khẳng định, quá trình thực hiện cách mạng xã hội chủ nghĩa cũng chính là quá trình thực sự giải phóng phụ nữ. [13] Thứ hai: Giải phóng phụ nữ – bản thân nó cũng là một cuộc cách mạng. Phụ nữ có vai trò quan trọng trong xã hội, nhưng dưới chế độ thực dân phong kiến phụ nữ là đối tượng bị bóc lột, đè nén nặng nề nhất. Vì vậy, theo Hồ Chí Minh giải phóng phụ nữ – bản thân nó cũng là một cuộc cách mạng. [13] Thứ ba: Giải phóng phụ nữ là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước và của toàn thể xã hội. Theo Hồ Chí Minh giải phóng phụ nữ không chỉ là trách nhiệm của Đảng và chính quyền mà còn là trách nhiệm của toàn xã hội. [13]
  27. 17 Thứ tư: Giải phóng phụ nữ là trách nhiệm của bản thân người phụ nữ. Sự tự thân vận động, sự nỗ lực vươn lên trong học tập và công tác của chính chi ̣em mới có thể đưa đến sự thành công của công cuộc giải phóng phụ nữ. [13] Thứ năm: Xây dựng hội phụ nữ ngày càng vững mạnh. Ngay từ những năm hai mươi của thế kỷ XX, Hồ Chí Minh đã xác định các Đảng Cộng Sản cần phải xây dựng tổ chức riêng của phụ nữ và thường xuyên chăm lo xây dựng tổ chức đó cho vững mạnh để tập hợp, vận dụng phụ nữ hoạt động cách mạng, giải phóng dân tộc, giải phóng phụ nữ và đấu tranh vì sự tiến bộ của phụ nữ. [13] * Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về bình đẳng giới Ngay từ năm 1930, Chánh cương vắn tắt của Đảng ta đã nêu rõ: về phương diện xã hội thì thực hiện “nam, nữ bình quyền”. Luận cương chính trị của Đảng cũng ghi: một trong mười nhiệm vụ cốt yếu của cách mạng Việt Nam lúc này là “nam, nữ bình quyền”. Bước vào thời kỳ đổi mới, Đảng tiếp tục ban hành các Chỉ thị, Nghị quyết lãnh đạo công tác phụ nữ, thúc đẩy bình đẳng giới, vì sự tiến bộ của phụ nữ. Nghị quyết số 04-NQ/TW ngày 12/7/1993 của Bộ Chính trị về đổi mới và tăng cường công tác vận động phụ nữ trong tình hình mới. Chỉ thị số 37- CT/TW ngày 16/5/1994 của Ban Bí thư về một số vấn đề công tác cán bộ nữ trong tình hình mới Nghị quyết số 11- NQ/TW ngày 27/04/2007 của Bộ Chính trị về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đảng ta đã đưa ra các Chỉ thị, Nghị quyết nhằm nâng cao vai trò của phụ nữ trong tất cả các lĩnh vực, và giải quyết vấn đề bất bình đẳng giới. 2.1.3. Quan điểm về nâng cao vai trò của phụ nữ * Quan điểm“Phụ nữ trong phát triển”(WID) Quan điểm này ra đời vào những năm đầu của thập kỷ 70 của thế kỷ 20 tại Ủy ban phụ nữ thuộc tiểu ban xã hội Washington. Quan điểm này đặt trọng tâm vào phụ nữ, trên cơ sở giải quyết các vấn đề của phụ nữ nảy sinh trong
  28. 18 quá trình phát triển. Cách tiếp cận WID đòi hỏi công bằng xã hội và quyền lợi cho phụ nữ. Quan điểm WID đã chú trọng đến vai trò sản xuất của phụ nữ, chủ trương đưa phụ nữ vào hòa nhập nền kinh tế đất nước, coi việc tiếp cận với cơ hội có việc làm trong sản xuất và tham gia công tác xã hội là biện pháp nâng cao vai trò, địa vị của phụ nữ. [12] * Quan điểm“Phụ nữ và phát triển”(WAD) WAD ra đời vào nửa sau những năm 1970, với mục đích khắc phục những nhược điểm của WID. Quan điểm này đã thừa nhận phụ nữ là chủ thể quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế, vì thế phụ nữ đương nhiên là một bộ phận cốt yếu của quá trình phát triển. Mục tiêu chính của WAD là giải quyết mối quan hệ giữa phụ nữ và phát triển. [12] * Quan điểm“Giới và phát triển”(GAD) Quan điểm này ra đời vào những năm 1980. Khắc phục nhược điểm của 2 quan điểm trên, GAD tập trung vào mối quan hệ giới chứ không chỉ riêng phụ nữ, quan tâm đến sự phát triển bền vững, tập trung vào cân bằng giới và các chương trình phát triển nhằm đáp ứng nhu cầu của cả nam và nữ. Quan điểm GAD cung cấp cơ sở lý luận cho việc xem xét vai trò của phụ nữ trong mối tương quan với vai trò của nam giới trong phát triển cộng đồng xã hội trên mọi lĩnh vực hoạt động khác nhau. [12] 2.2. Cơ sở thực tiễn của đề tài 2.2.1. Vai trò của phụ nữ trong phát triển kinh tế hộ ở một số nước trênthế giới Tại Châu Phi, Châu Á, Thái Bình Dương, trung bình một tuần phụ nữ làm việc nhiều hơn nam giới 12 – 13 giờ và có ít thời gian để nghỉ ngơi hơn. Hầu hết mọi nơi trên thế giới phụ nữ được trả công thấp hơn nam giới cho cùng một loại công việc. Thu nhập của phụ nữ bằng khoảng 50% - 90% thu nhập của nam giới. [10] * Phụ nữ chiếm một tỷ trọng lớn trong lực lượng lao động: Tỷ lệ nữ tham gia các hoạt động kinh tế theo các nhóm tuổi rất cao.
  29. 19 - Tại Bangladesh: Có 67,3% phụ nữ nông thôn tham gia lực lượng lao động so với 82,5% nam giới. Tỷ lệ này của phụ nữ nông thôn cao gấp 2 lần phụ nữ thành thị (28,9%). Theo nhóm tuổi tỷ lệ tham gia lực lượng lao động nhiều nhất ở độ tuổi 30 – 49, tiếp đó là các nhóm tuổi 25 – 29, 50 – 54. Đáng chú ý rằng gần 61% phụ nữ nông thôn ở độ tuổi 60 – 64 vẫn tham gia lực lượng lao động, cao gần gấp 2 lần phụ nữ thành thị cùng nhóm tuổi. Đặc biệt phụ nữ nông thôn trên 65 tuổi vẫn có 36% tham gia lực lượng lao động [14]. - Tại Trung Quốc: Nhóm phụ nữ nông thôn tham gia lực lượng lao động cao nhất từ 20 – 29 tuổi, tiếp đó là nhóm 30 – 39 tuổi và giảm dần theo các nhóm tuổi cao hơn. Giống như ở Bangladesh, ở nông thôn Trung Quốc phụ nữ ở độ tuổi 60 – 64 vẫn còn 32,53% tham gia lực lượng lao động, con số này cao gấp 2 lần phụ nữ thành thị cùng nhóm tuổi. [14] * Trình độ chuyên môn kỹ thuật thấp: Nhìn chung, trình độ kỹ thuật của lao động nữ nông thôn ở các nước đang phát triển còn rất thấp. Ở các nước đang phát triển cho đến nay có tới 31,6% lao động nữ không được học hành, 5,2% mới chỉ học phổ thông và 0,4% mới chỉ tốt nghiệp cấp hai, vì ít có điều kiện học hành nên những người phụ nữ này không có điều kiện tiếp cận một cách bài bản với các kiến thức về công nghệ trồng trọt và chăn nuôi theo phương thức tiên tiến, những kiến thức họ có được đều là do tự học từ họ hàng, bạn bè hay từ những người thân của mình. Một hạn chế lớn là những kinh nghiệm được truyền đạt theo phương thức này, ít khi làm thay đổi được mô hình, cách thức sản xuất của họ. [14] * Bất bình đẳng giới mang tính phổ biến: bất bình đẳng giới tồn tại ở hầu hết các nước đang phát triển. Điều đó bắt nguồn từ tình trạng phụ nữ có trình độ học vấn thấp. Một nguyên nhân khác không kém phần quan trọng là những định kiến xã hội không coi trọng phụ nữ đã được hình thành ở hầu hết các nước đang phát triển. Do vậy ngay cả khi phụ nữ có bằng cấp cao và kỹ năng tốt thì những công việc họ làm vẫn không được ghi nhận một cách xứng đáng. [14]
  30. 20 2.2.2. Vai trò của phụ nữ dân tộc trong phát triển kinh tế hộ gia đình ởViệtNam Nước ta là một quốc gia đa dân tộc, cùng với dân tộc Kinh còn có 53 dân tộc thiểu số. Tuy chỉ chiếm 14% dân số cả nước nhưng địa bàn cư trú của các dân tộc là ¾ diện tích đất nước. Phụ nữ chiếm hơn ½ dân số, là nguồn lực có vai trò, vị trí đặc biệt, tác động rất lớn tới phát triển kinh tế – xã hội bền vững ở từng địa phương. Phụ nữ nước ta là những chủ nhân của đất nước, có tiềm năng lớn tác động trực tiếp đến sự phát triển ngay trên chính quê hương họ. Người phụ nữ không chỉ cùng chồng tham gia sản xuất kinh doanh tạo thu nhập mà còn bận rộn với các công việc gia đình như nội trợ, chăm sóc con cái Do đó mà thời gian nghỉ ngơi của họ là rất ít. Ở những vùng DT sinh sống hầu như còn sản xuất nông nghiệp là chủ yếu, người phụ nữ tham gia vào hầu hết các khâu trong quá trình trồng trọt như gieo hạt, bón phân, làm cỏ, thu hoạch, bảo quản, phòng trừ sâu bệnh Còn chăn nuôi thì họ chủ yếu là chăm sóc, cho ăn, vệ sinh chuồng trại. Người phụ nữ có đóng góp quan trọng vào phát triển kinh tế hộ gia đình. Đặc biệt, những năm gần đây, phụ nữ đã được quan tâm nhiều hơn, họ được tiếp cận với các nguồn lực trong sản xuất kinh doanh, nâng cao trình độ Vì thế mà vị thế của họ ngày càng được cải thiện hơn, đời sống vật chất và tinh thần được nâng cao. Trong việc gieo trồng các nông sản thì nam giới là người làm đất còn phụ nữ là người gieo cấy, thu hoạch bảo quản, chế biến và tiêu thụ sản phẩm. Phụ nữ là người làm ra đa số các loại lương thực, thực phẩm trong gia đình. Do đó có thể thấy được vai trò của phụ nữ trong gia đình nông thôn là rất quan trọng. Ngoài tham gia trồng trọt phụ nữ còn phải phòng trừ dịch bệnh cho vật nuôi, chăm sóc con cái. Phụ nữ tham gia vào hầu hết các hoạt động sản xuất nông nghiệp.
  31. 21 2.2.3. Kinh nghiệm trong phát huy vai trò của phụ nữ dân ytộc Tà ở Việt Nam Nước ta đã có nhiều chính sách nhằm phát huy vai trò của phụ nữ DT. Thông qua đó mà đã có nhiều chi ̣em phụ nữ DTT được nâng cao trình độ, được tiếp cận và quản lý những nguồn lực, do đó mà họ vươn lên và có nhiều đóng góp cho kinh tế gia đình cũng như xã hội. Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam cũng như hội Liên hiệp Phụ nữ ở các tỉnh thành cũng đã tạo điều kiện hết sức thuận lợi để chị em phát triển kinh tế, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần. Hội triển khai đồng thời nhiều hoạt động hỗ trợ tích cực như: cho vay vốn ưu đãi để phụ nữ phát triển kinh tế gia đình, làm chủ cuộc sống, tặng nhà tình thương cho phụ nữ neo đơn khó khăn về chỗ ở, hỗ trợ cho học sinh nữ để các em tiếp tục được đến trường Những hoạt động này đã tạo sự chuyển biến về nhận thức và hành động khá rõ nét và cụ thể. Bên cạnh Hội Liên hiệp phụ nữ còn có nhiều tổ chức quốc tế đã có những chương trình thiết thực giúp cho phụ nữ DTTS được nâng cao trình độ về mọi mặt, nâng cao vi ̣thế xã hội. 2.2.4. Những chính sách trong phát triển phụ nữ dân tộc ở Việt Nam Ngay từ khi mới thành lập, Đảng Cộng Sản Việt Nam với Cương lĩnh chính trị đầu tiên tháng 10/1930 đã khẳng định: “Vấn đề giải phóng phụ nữ và sự nghiệp giải phóng phụ nữ là một trong mười nhiệm vụ quan trọng của Đảng”. Phụ nữ đã được Đảng và Nhà nước quan tâm nhiều mặt, phụ nữ không chỉ là người được hưởng lợi từ nhiều thành quả của đất nước mà còn là nhân tố quan trọng tham gia vào hoạt động sản xuất, công tác quản lý xã hội. Và một số hiến pháp, chỉ thị, nghị quyết như: + Hiến pháp năm 1954, Điều 24. + Hiến pháp được bổ sung và sửa đổi năm 1959, 1980 và 1992 đều thể hiện quyền bình đẳng nam nữ trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. + Năm 1993, Uỷ ban quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam được thành lập.
  32. 22 + Nghị quyết 04/NQ – TW ban hành ngày 12/07/1993 của Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VII Tháng 6/1994. + Bộ luật lao động Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam được Quốc hội khóa XIX thông qua. + Quyết định số 19/2002/QĐ-TTg ngày 21/01/2002 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chiến lược Quốc gia về sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam đến năm 2010. + Nghị quyết 11/NQ-TW ngày 24/07/2007 của Bộ Chính trị. + Quyết định số 2531/QĐ-TTg ngày 24/12/2010 phê duyệt chiến lược Quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011- 2020. Đó là những hiến pháp, chỉ thị, nghị quyết thể hiện sự quan tâm sâu sắc của Đảng và Nhà nước ta về phụ nữ nói chung, giúp phụ nữ phát huy được vai trò ủc a mình, chính sự nhận thức đúng đắn của Đảng và Nhà nước về vai trò to ớl n của phụ nữ trong xây dựng đất nước, đặc biệt trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa được thể hiện trong các văn bản trên đã tạo điều kiện cho phụ nữ phát huy được tiềm năng to lớn của mình, đóng góp cho sự phát triển của đất nước. 2.2.5. Đặc điểm kinh tế, văn hóa, xã hội của dân tộc Tày Người Tày có mặt ở Việt Nam từ rất sớm, có thể từ nửa cuối thiên niên kỷ thứ nhất trước công nguyên, có dân số đông nhất trong các DTTS ở nước ta với 1.626.392 người (2009). Người tày cư trú ở vùng thung lũng các tỉnh Đông Bắc, từ Quảng Ninh, Bắc Giang, Lạng Sơn, Cao Bằng, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Hà Giang, Tuyên Quang đến Lào Cai, Yên Bái. * Đặc điểm kinh tế Người Tày có một nền nông nghiệp cổ truyền khá phát triển với đủ loại cây trồng như lúa, ngô, khoai Và rau quả mùa nào thức đó. Người Tày có truyền thống làm lúa nước. Ngoài lúa nước, người Tày còn trồng ngô, hoa màu, cây ăn quả Chăn nuôi phát triển với nhiều loại gia súc, gia cầm nhưng cách nuôi thả dông vẫn còn khá phổ biến. Các nghề thủ công gia đình được chú ý nổi tiếng nhất là nghề dệt thổ cẩm với nhiều loại hoa văn đẹp và độc đáo. Chợ là một hoạt động kinh tế quan trọng.
  33. 23 * Tổ chức cộng đồng Bản của người Tày thường ở chân núi hay ven suối, tên bản thường gọi theo tên đồi núi, đồng ruộng, khúc sông. Ngôi nhà truyền thống của người Tày là nhà sàn có bộ sườn làm theo kiểu vì kèo 4, 5, 6, hoặc 7 hàng cột, họ thường chọn những loại gỗ quý để dựng nhà, nhà có 2 hoặc 4 mái lợp ngói, tranh hoặc lá cọ. Xung quanh nhà thưng bằng ván gỗ hoặc che bằng liếp nứa. Khi làm nhà phải chọn đất xem hướng, xem tuổi chọn ngày tốt. * Hôn nhân và gia đình Gia đình Người Tày thường quý con trai hơn và có quy định rõ ràng trong quan hệ giữa các thành viên trong nhà. Vợ chồng yêu thương nhau, ít ly hôn. Đã từ lâu không còn tục ở rể. Nam nữ được tự do yêu đương, tìm hiểu nhưng có thành vợ thành chồng hay không lại tùy thuộc vào bố mẹ hai bên và “số mệnh” của họ có hợp nhau hay không. Vì thế trong quá trình đi tới hôn nhân phải có bước nhà trai xin lá số của cô gái về so với lá số của con mình. Hôn lễ truyền thống của người Tày được tiến hành qua các nghi thức lễ dạm, lễ ăn hỏi, lễ báo ngày cưới, lễ cưới, lễ đón dâu, đưa dâu, , thể hiện bản sắc văn hóa của một dân tộc. Sau khi cưới, cô dâu ở nhà bố mẹ đẻ cho đến khi có mang sắp đến ngày sinh nở mới về ở hẳn bên nhà chồng. * Văn hóa Người Tày có một nền văn nghệ cổ truyền phong phú, đủ các thể loại thơ, ca, múa, nhạc, Tục ngữ, ca dao chiếm một khối lượng đáng kể. Các điệu dân ca phổ biến nhất là hát lượn, hát đám cưới, hát ru con. Đàn tính là một loại nhạc cụ có mặt trong tất cả những sinh hoạt văn hóa tinh thần của đồng bào Tày. Bao đời nay đàn tính như một phương tiện giao tiếp mang đậm bản sắc dân tộc. Người Tày mến khách, cởi mở, dễ làm quen và thích nói chuyện. Họ rất coi trọng người cùng tuổi, khi đã kết nghĩa bạn bè thì coi nhau như anh em ruột thịt, bà con thân thích của mình. * Ăn uống Trước kia, ở một số nơi, người Tày ăn nếp là chính và hầu như gia đình nào cũng có ninh và chõ đồ xôi. Trong các ngày tết, ngày lễ, người Tày
  34. 24 thường làm nhiều loại bánh như: bánh chưng, bánh dày, bánh gai, bánh dợm, bánh gio, bánh rán, bánh trôi, bánh khảo. * Trang phục Có đặc trưng riêng về phong cách thẩm mỹ. Người Tày thường mặc quần áo vải bông nhuộm chàm. Trang phục cổ truyền của người Tày được làm từ vải sợi bông tự dệt, nhuộm chàm đồng nhất trên trang phục nam và nữ, hầu như không có hoa văn trang trí. Trước kia, phụ nữ Tày nhiều vùng cũng mặc váy, gần đây chuyển sang mặc quần dài chấm gót, quần chân què, đũng rộng, cạp lá tọa. Đồ trang sức có vòng ổc , vòng tay, vòng chân và dây xà tích bằng bạc. Trang phục của nam giới có quần chân què, đũng rộng, cạp lá tọa, áo ngắn cũng may nam thân, cổ đứng. Nam cũng có áo dài như áo ngắn kéo dài vạt xuống quá đầu gối. * Thờ cúng Người Tày chủ yếu thờ cúng tổ tiên. Ngoài ra còn thờ cúng thổ công, vua bếp, bà mụ.
  35. 25 Phần 3 ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 3.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Phụ nữ dân tộc Tày trong các hộ gia đình trên địa bàn xã Lam Sơn - huyện Na Rì - Tỉnh Bắc Kạn. - Phạm vi nghiên cứu: + Phạm vi về nội dung: Đề tài nghiên cứu về vai trò của phụ nữ dân tộc Tày trong phát triển kinh tế nông hộ. + Phạm vi về không gian: Đề tài được nghiên cứu trên địa bàn xã Lam Sơn - huyện Na Rì - Tỉnh Bắc Kạn. 3.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu - Địa điểm nghiên cứu: xã Lam Sơn - huyện Na Rì - Tỉnh Bắc Kạn. - Thời gian nghiên cứu: Được triển khai từ 13/08/2018 đến 23/12/2018. 3.3. Nội dung nghiên cứu - Điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội xã Lam Sơn - huyện Na Rì - Tỉnh Bắc Kạn. - Thực trạng vai trò phụ nữ dân tộc Tày trong phát triển kinh tế hộ gia đình trên địa bàn xã Lam Sơn. - Các yếu tố ảnh hưởng đến vai trò của phụ nữ dân tộc Tày trong quá trình phát triển kinh tế nông hộ trên địa bàn xã Lam Sơn. - Một số giải pháp nhằm nâng cao vai trò của phụ nữ dân tộc Tày trong phát triển kinh tế hộ gia đình. 3.4. Phương pháp nghiên cứu 3.4.1. Phương pháp điều tra chọn mẫu * Chọn điểm nghiên cứu - Địa điểm nghiên cứu phải đại diện về các điều kiện tự nhiên, KTXH, văn hóa, môi trường, chủ yếu là người dân tộc Tày, để làm rõ được vai trò của phụ nữ dân tộc Tày trong phát triển kinh tế hộ gia đình. Trong tổng số 10
  36. 26 thôn của xã Lam Sơn, tôi chọn ra 4 thôn đại diện để nghiên cứu: Xưởng Cưa, Pan Khe, Thanh Sơn, Pò Chẹt. - Xưởng Cưa: Là thôn thuộc trung tâm xã. Có nhiều điều kiện thuận lợi giao lưu văn hóa, kinh tế với các thôn lân cận tốt hơn. Phát triển các ngành dịch vụ tốt hơn. - Thanh Sơn: Là thôn đặc biệt khó khăn của xã. Địa bàn cách xa trung tâm xã nên việc tiếp cận nguồn thông tin còn hạn chế. - Pan Khe: Là thôn khó khăn của xã. Địa hình đồi núi bát úp, chủ yếu phát triển rừng và chăn nuôi gia súc. - Pò Chẹt: Là thôn nằm ở phía Nam của xã Lam Sơn. Được thiên nhiên ưu đãi, đất đai màu mỡ, có hệ thống thủy lợi phục vụ cho sản xuất nông nghiệp. * Chọn mẫu nghiên cứu Số lượng mẫu lựa chọn nghiên cứu được xác định theo công thức của Slowin (1960), độ tin cậy 90%, sai số 10%: N n = (1+N.e2) Trong đó: n là cỡ mẫu e là sai số cho phép N là tổng số hộ trong khu vực nghiên cứu Trên địa bàn xã có 486 hộ, do đó số mẫu tiến hành điều tra là 84 hộ. Tại 4 thôn đã chọn, tôi lựa chọn số mẫu tại mỗi thôn cụ thể như sau: + Thôn Xưởng Cưa: 21/84 hộ + Thôn Thanh Sơn: 21/84 hộ + Thôn Pan Khe: 21/84 hộ + Thôn Pò Chẹt: 21/84 hộ Dựa theo danh sách các hộ có phụ nữ dân tộc Tày, tôi tiến hành chọn ngẫu nhiên 84 hộ và đảm bảo đủ các hộ thuộc 3 nhóm hộ: khá, trung bình, nghèo. Kết quả chọn mẫu:
  37. 27 Bảng 3.1: Kết quả chọn mẫu điều tra (ĐVT: Hộ) Tổng số hộ Phân theo mức sống STT Tên thôn điều tra Khá Trung bình Nghèo 1 Xưởng Cưa 21 7 13 1 2 Thanh Sơn 21 1 17 3 3 Pan Khe 21 2 17 2 4 Pò Chẹt 21 4 15 2 Tổng 84 14 62 8 (Nguồn: Tổng hợp từ số liệu điều tra, 2018) Điều tra trình độ nhận thức của người dân trên địa bàn xã Lam Sơn về vai trò của người phụ nữ trong phát triển kinh tế, mẫu nghiên cứu là 84 người, sử dụng phương pháp phân tầng theo các tiêu chí: + Là người dân tộc Tày, có hộ khẩu trên địa bàn xã Lam Sơn. + Nữ giới thuộc nhóm tuổi từ 18 đến dưới 50 tuổi và trên 50 tuổi. 3.4.2. Phương pháp thu thập số liệu * Thu thập số liệu thứ cấp Các thông tin thứ cấp được thu thập từ internet, sách báo, công trình nghiên cứu có liên quan, các báo cáo tổng kết của UBND, báo cáo tổng kết các hoạt động của Hội Liên Hiệp phụ nữ xã Lam Sơn. * Thu thập số liệu sơ cấp Phỏng vấn phụ nữ trong hộ qua bảng hỏi: Sử dụng phương pháp phỏng vấn phụ nữ trong hộ, tôi tìm hiểu về công việc của người phụ nữ DTT trong gia đình, quyền quyết định những công việc quan trọng trong gia đình do ai đảm nhiệm, những yếu tố ảnh hưởng đến vai trò của họ và họ có những ý kiến đề xuất gì để nâng cao vai trò của mình trong phát triển kinh tế hộ gia đình.
  38. 28 3.4.3. Phương pháp phân tích và xử lý số liệu - Phương pháp tổng hợp và phân tích số liệu: số liệu được tổng hợp và phân tích trên bảng tính Excel, sau đó được thống kê và phân tích theo phương pháp so sánh. - Phương pháp so sánh: các số liệu được so sánh qua các năm, các nhóm hộ giàu - khá, trung bình, nghèo để thấy được sự khác nhau về thực trạng vai trò của người phụ nữ qua các năm cũng như trong từng nhóm hộ. Từ đó có thể đưa ra những nhận xét.
  39. 29 Phần 4 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 4.1. Đặc điểm địa bàn nghiên cứu 4.1.1. Đặc điểm tự nhiên 4.1.1.1. Vị trí ịđ a lý, địa hình * Vị trí địa lý Xã Lam Sơn nằm cách trung tâm huyện Na Rì 6,5km về phía Nam, cách thị xã Bắc Kạn 61km, tiếp giáp với các xã như sau: Phía Bắc giáp xã Lương Hạ, thị trấn Yến Lạc huyện Na Rì. Phía Nam giáp xã Cư Lễ huyện Na Rì. Phía Đông giáp xã Kim Lư, huyện Na Rì, tình Bắc Kạn. Phía Tây giáp xã Lương Thành, Văn Minh huyện Na Rì. * Địa hình Xã Lam Sơn có địa hình đồi núi cao, giữa là những cánh đồng nhỏ hẹp chạy dọc theo quốc lộ 3B và các khe núi. Độ cao trung bình từ 300m đến 700m. Độ dốc trung bình từ 15 - 350. 4.1.1.2. Điều kiện khí hậu, thủy văn * Khí hậu, thời tiết Xã Lam Sơn mang đặc điểm chung của khí hậu miền núi vùng cao phía Bắc, nhiệt đới gió mùa, chia thành 2 mùa rõ rệt là mùa mưa và mùa khô: mùa mưa từ tháng 4 đến tháng 10. Mùa khô từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau. Nhiệt độ trung bình năm là 21,50C, nhiệt độ cao nhất lên đến 370C, nhiệt độ thấp nhất xuống tới 50C. - Lượng mưa trung bình năm 1.084 mm, lượng mưa cao nhất vào tháng 5,6,7; trung bình khoảng từ 186,2 mm/tháng, lượng mưa thấp nhất vào tháng 11-12. - Tổng số giờ nắng trung bình năm là 1.483,0 giờ, tháng có số giờ nắng cao nhất là tháng 5,6,7; trung bình khoảng 185 giờ, tháng có số giờ nắng thấp nhất là tháng 11,12; trung bình khoảng 61,0 giờ.
  40. 30 - Độ ẩm không khí trung bình khoảng 82%, thấp nhất là 78% vào tháng 2,3; cao nhất 87% vào tháng 8, tháng 9. - Lượng bốc hơi trung bình hằng năm 840 mm, thấp nhất là 65,4 mm vào tháng 2, cao nhất 77 mm vào tháng 4. - Gió, bão: Là xã miền núi được bao bọc bởi những dãy núi cao trên xã không có hướng gió nhất định. Trên địa bàn xã chịu ảnh hưởng của khí hậu Đông - Bắc Bộ nên có gió mùa Đông - Bắc và gió Tây - Nam. Nhìn chung khí hậu thời tiết của xã tương đối thuận lợi cho cuộc sống sinh hoạt và sản xuất nông - lâm nghiệp.Tuy nhiên, là xã vùng cao, ảnh hưởng của núi đá nên vào mùa đông có sương mù, mưa phùn.Thời tiết hanh khô có khi phải chịu hạn hán vào mùa mưa do địa hình cao, độ dốc lớn, có mưa nhiều dễ gây ra lũ cuốn, lũ quét làm xói mòn, lở đất của các dãy đồi, núi. * Thủy văn Toàn xã có 34,88 ha đất sông suối và mặt nước chuyên dùng. Đây là nguồn nước tự nhiên phục vụ cho nhu cầu sản xuất và sinh hoạt của người dân. Đến nay trên địa bàn xã chưa có nghiên cứu cụ thể nào về nguồn nước ngầm. 4.1.1.3. Đặc điểm đất đai và tình hình sử dụng đất đai Lam Sơn là xã sản xuất nông nghiệp chủ yếu với tổng diện tích tự nhiên là 2.267,26 ha. Trong đó đất nông nghiệp là 231,33 (năm 2018) chiếm 11,05% diện tích đất tự nhiên. Cụ thể tình hình sử dụng đất qua các năm như sau:
  41. 31 Bảng 4.1: Tình hình sử dụng đất xã Lam Sơn giai đoạn 2016 - 2018 Năm 2016 Năm 2017 Năm 2018 Các chỉ tiêu CC CC SL (ha) CC (%) SL (ha) SL (ha) (%) (%) A. Tổng diện tích đất tự 2.267,26 100,00 2.267,26 100,00 2.267,26 100.00 nhiên I. Đất nông nghiệp 2.115,35 93,30 2.102,43 92,73 2.091,55 92,25 1. Đất sản xuất nông 249,40 11,79 247,67 11,78 231,33 11,05 nghiệp 2. Đất lâm nghiệp 1720,84 81,35 1697,5 80,74 1694,78 81,03 3. Đất nuôi trồng thủy sản 3,38 0,16 4,42 0,21 3,56 0,17 II. Đất phi nông nghiệp 151,91 6,70 137,62 6,07 149,41 6,59 1. Đất ở 81,17 3,58 82,30 3,63 84,11 3,71 2. Đất chuyên dùng 24,03 1,06 5,44 0,24 17,00 0,75 3. Đất chuyên dùng 3,63 0,16 5,89 0,26 3,63 0,16 4. Đất sông suối và mặt 31,74 1,40 31,74 1,4 31,74 1,40 nước chuyên dùng 5. Đất giao thông 11,33 0.50 12,24 0,54 12,92 0,57 III. Đất chưa sử dụng 29,47 1,30 27,21 1,20 26,07 1,15 1. Đất đồi núi chưa sử 8,39 0,37 7,94 0,35 7,01 0,34 dụng 2. Đất khác chưa sử dụng 21,08 0,93 19,27 0,85 18,36 0,81 B. Một số chỉ tiêu bình quân I. Bình quân đất nông 0,53 - 0,52 - 0,48 - nghiệp/hộ (ha/hộ) II. Bình quân đất nông 0,12 - 0,12 - 0,11 - nghiệp/lao động nông nghiệp (ha/lao động) (Nguồn: Địa chính xã Lam Sơn, 2018) [15] Đất đai của xã chủ yếu là đất đỏ nâu trên đá mác ma trung tính và đất đỏ vàng. Ngoài ra còn có đất nâu vàng trên phù sa và đất sa ngòi suối. Xã có
  42. 32 diện tích đất sản xuất nông nghiệp là 231,33 ha (năm 2018), chủ yếu trồng các cây hàng năm như lúa, ngô, hoa màu. Diện tích đất nông nghiệp có xu hướng giảm do lấy đất làm đường giao thông hoặc nhà ở. Bình quân đất nông nghiệp/hộ giảm từ 0,53 ha/hộ (năm 2016) xuống còn 0,48 ha/hộ (năm 2018). Bình quân đất nông nghiệp/lao động giảm qua các năm, cụ thể giảm từ 0,12 ha/lao động (năm 2016) xuống còn 0,11 ha/lao động (năm 2018). Do đó mà xã cần khai thác tốt hơn diện tích đất nông nghiệp hiện có để phục vụ cho sản xuất nông nghiệp. Năm 2018, xã có diện tích đất lâm nghiệp khá lớn là 1.694,78 ha, (chiếm 81,03%), trong đó đất rừng tự nhiên là 1592,37 ha (90,24%) và đất rừng trồng là 165,41 ha (9,76%). Diện tích đất phi nông nghiệp từ năm 2017 đến năm 2018 tăng lên, do đất ở, đất giao thông, đất chuyên dùng tăng. Diện tích đất chưa sử dụng đất còn ít (chủ yếu là đất đồi núi và đầm lầy khó sử dụng). Nhìn chung, xã có cơ cấu sử dụng đất tương đối hợp lý. Trong những năm tới cần khai thác có hiệu quả nguồn lực này một cách tối đa phục vụ cho sản xuất và đời sống. 4.1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội xã Lam Sơn 4.1.2.1. Tình hình kinh tế Bằng những nỗ lực trong quản lý điều hành hoạt động kinh tế thị trường cộng đồng với các ưu thế về vị trí đia lý, đất đai đã thúc đẩy nhịp độ tăng trưởng tổng giá trị sản xuất hằng năm, cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng ngành thương mại dịch vụ, công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp. * Thực trạng phát triển kinh tế - Về trồng trọt Trong toàn xã thì đóng góp của nền sản xuất nông nghiệp vẫn chiếm phần lớn cho kinh tế địa phương. Với những loại cây trồng phong phú cùng với sự chăm sóc của bà con nhân dân mà năng suất không ngừng được nâng
  43. 33 cao. Có thể nhận thấy sự biến đổi của sản lượng cây trồng trong giai đoạn từ năm 2016 – 2018 của xã Lam Sơn được thể hiện trong bảng sau: Bảng 4.2: Tình hình phát triển một số cây trồng trên địa bàn xã Lam Sơn Loại Năm Năm Năm So sánh (%) STT Chỉ tiêu ĐVT cây 2016 2017 2018 17/16 18/17 BQ 1 Lúa Diện tích Ha 155,50 145,12 149,30 93,32 102,88 98,10 Năng Tạ/ha 52,50 46,16 54,20 87,91 117,43 102,67 suất Sản Tấn 816,40 669,80 809,20 82,04 120,81 101,43 lượng 2 Ngô Diện tích Ha 271,20 222,26 226,10 81,95 101,73 91,84 Năng Tạ/ha 45,47 71,99 42,22 158,32 58,64 108,48 Suất Sản Tấn 1233,1 1600,00 954,50 129,75 59,66 94,71 lượng 0 3 Sắn Diện tích Ha 40,00 31,35 26,00 78,38 82,93 80,65 Năng Tạ/ha 75,00 75,00 95,00 100,00 126,67 113,34 suất Sản Tấn 300,00 235,10 247,00 78,37 105,06 91,72 lượng (Nguồn: Báo cáo thống kê xã Lam Sơn, 2018) [15] Qua bảng 4.2 ta thấy, lúa và ngô là hai cây trồng chính mang lại thu nhập cho người dân ở địa phương. Sắn cũng là cây trồng cho năng suất và giá trị kinh tế góp phần nâng cao thu nhập của người dân. Tuy nhiên, diện tích, năng suất cũng như sản lượng của ba loại cây trồng này có sự biến động qua các năm. Cụ thể: - Từ 2016 - 2018, diện tích của cả 3 loại cây trồng đều giảm, bình quân diện tích lúa giảm 1,9%, ngô giảm 8,16% và sắn giảm 19,35%. Tuy nhiên, năng suất của cả 3 loại cây trồng đều tăng, bình quân năng suất lúa tăng 2,67%, ngô tăng 8,48%, sắn tăng 13,34%. Nguyên nhân là do, mặc dù diện
  44. 34 tích gieo trồng giảm, nhưng người dân lại đầu tư hơn vào kỹ thuật trồng, chăm sóc cũng như sử dụng các loại giống cho năng suất và chất lượng cao hơn. - Lâm nghiệp Diện tích đất lâm nghiệp của xã Lam Sơn có: 1.694,78 ha, đất rừng phòng hộ có 293,20 ha, chiếm 17,3% diện tích đất lâm nghiệp, đất rừng sản xuất 1.401,58 ha chiếm 82,7% diện tích đất lâm nghiệp. Rừng trồng chủ yếu là mỡ, keo đang ở thời kỳ kiến thiết cơ bản, một phần có khả năng khai thác. Động vật rừng còn rất ít, chủ yếu là các loài chim, chồn, sóc. - Chăn nuôi Bảng 4.3: Tình hình sản xuất chăn nuôi giai đoạn 2016 – 2018 (ĐVT: Con) Loại vật Năm Năm Năm So sánh (%) STT nuôi 2016 2017 2018 17/16 18/17 BQ 1 Trâu 551 561 609 101,81 108,56 105,19 2 Dê 127 218 311 171,65 142,66 157,16 3 Lợn 1.377 1.782 970 129,41 54,43 91,92 4 Gia Cầm 19.152 24.646 24. 872 128,69 100,92 144,81 (Nguồn: Báo cáo thống kê xã Lam Sơn, năm 2018) [15] Qua bảng 4.3, ta thấy: Từ năm 2016 – 2018, xã Lam Sơn có số lượng trâu, dê và gia cầm tăng đều qua các năm, do được tiêm vắc xin, phòng trừ dịch bệnh đầy đủ, thường xuyên. Cụ thể: đàn trâu tăng từ 551 con (năm 2016) lên 609 con (năm 2018), bình quân mỗi năm tăng 5,19%; đàn dê tăng từ 127 con (năm 2016) lên 311 con (năm 2018), bình quân mỗi năm tăng 57,16%; gia cầm tăng từ 19.152 con (năm 2016) lên 24.872 con (năm 2018), bình quân mỗi năm tăng 44,81%. Đối với lợn, từ 2016 - 2017, tăng từ 1.377 con lên 1.782 con. Tuy nhiên, từ 2017 – 2018, giảm còn 970 con; bình quân từ 2016 – 2018 giảm 8,08% do dịch bệnh và giá cả thị trường có nhiều biến động.
  45. 35 Nhìn chung, ta thấy được nhu cầu về thực phẩm tăng, đồng thời người dân tận dụng phần lớn phụ phẩm nông nghiệp vào làm thức ăn chăn nuôi đem lại thu nhập cho bà con nông dân. Công tác thú y được quan tâm chỉ đạo, công tác vận động nhân dân tiêm phòng vắc xin phòng chống dịch bệnh cho gia súc, gia cầm được quan tâm. 4.1.2.2. Dân số, lao động Tình hình dân số và lao động của xã Lam Sơn qua các năm thể hiện ở bảng 4.4. Bảng 4.4: Tình hình dân số và lao động của xã Lam Sơn giai đoạn 2016 – 2018 Năm 2016 Năm 2017 Năm 2018 Chỉ tiêu ĐVT CC CC CC SL SL SL (%) (%) (%) A. Tổng nhân khẩu Người 1998 100,00 2047 100,00 2089 100,00 Nam Người 878 43,96 906 44,26 940 44,99 Nữ Người 1120 56,04 1141 55,74 1149 55,01 B. Tổng số hộ Hộ 469 100,00 475 100,00 486 100,00 Hộ Nông nghiệp Hộ 364 77,61 367 77,26 372 76,54 Hộ Phi nông nghiệp Hộ 73 15,57 73 15,37 78 16,05 Hộ kiêm Hộ 32 6,82 35 7,37 36 7,41 C. Tổng số lao động Người 1407 100,00 1425 100,00 1458 100,00 Lao động nông nghiệp Người 1110 78,91 1034 72,57 1051 72,10 Lao động phi nông nghiệp Người 297 21,09 391 27,43 407 27,9 D. Một số chỉ tiêu BQ BQ nhân khẩu/hộ Khẩu/hộ 4,26 - 4,31 - 4,30 - BQ lao động/hộ Khẩu/hộ 3,00 - 3 - 3 - (Nguồn: UBND xã Lam Sơn, năm 2018) [15] Tổng số lao động trong toàn xã năm 2018 là 1.458 người, chiếm 69,7% dân số. Trong đó lao động nông nghiệp là 1052 người chiếm 72,10 % lao
  46. 36 động của xã. Lao động phi nông nghiệp là 407 người chiếm 27,90 % lao động của xã. Xã sản xuất nông nghiệp là chủ yếu nên các hộ phi nông nghiệp, hộ kiêm chiếm tỷ lệ nhỏ, qua các năm có tăng về số lượng nhưng còn ít. Số hộ sản xuất nông nghiệp là chủ yếu nên lao động nông nghiệp chiếm đa số trong tổng số lao động trong xã. Đa số dân cư trong xã đều sống bằng nghề nông, do sản xuất nông nghiệp mang tính chất thời vụ nên có hiện tượng dư thừa lao động theo thời vụ. Do đó chủ trương của xã đang khuyến khích phát triển ngành nghề tại xã, tạo công ăn việc làm cho lao động tại địa phương, góp phần tăng thêm thu nhập, nâng cao đời sống vật chất cũng như tinh thần cho người dân trong xã. 4.1.2.3. Phụ nữ tham gia công tác xây dựng Đảng và chính quyền Bảng 4.5: Cơ cấu dân số phân theo dân tộc và giới tính của xã Lam Sơn năm 2018 STT Dân tộc Giới tính Nam Tỷ lệ (%) Nữ Tỷ lệ (%) 1 Tày 449 21,49 587 28,10 2 Nùng 238 11,39 272 13,02 3 Dao 148 7,08 163 7,80 4 Kinh 105 5,04 127 6,08 (Nguồn: UBND xã Lam Sơn, năm 2018) [15] Xã Lam Sơn có 10 thôn với 486 hộ, có 2089 nhân khẩu (năm 2018), với 4 dân tộc: Tày, Nùng, Dao, Kinh cùng sinh sống. Trong đó, dân tộc Tày chiếm đa số với 1036 người (chiếm 49,59%), tiếp đó là dân tộc Nùng với 510 người (chiếm 24,41%), sau đó là dân tộc Dao với 311người (chiếm 14,89%). Dân tộc Kinh chiếm ít nhất với 232 người (chiếm 11,11%). Cả 4 dân tộc có số lượng nữ giới chiếm nhiều hơn số lượng nam giới, tuy nhiên vai trò của nữ giới vẫn chưa được công nhận hết.
  47. 37 4.1.2.3. Phụ nữ tham gia công tác xây dựng Đảng và chính quyền Bảng 4.6: Phụ nữ tham gia lãnh đạo cấp Đảng ủy, chính quyền và đoàn thể năm 2018 Nữ Nữ dân tộc Tổng Số Số Các chức danh số CC CC lượng lượng (người) (%) (%) (người) (người) Lãnh đạo cấp Ủy Đảng 2 1 50,00 1 100,00 Lãnh đạo UBND xã 2 1 50,00 1 100,00 Tham gia ban chấp hành Đảng 114 4 3,51 4 100,00 ủy xã Số Đảng viên 173 86 49,71 84 97,67 Hội đồng nhân dân 19 6 31,58 6 100,00 (Nguồn: Hội Phụ nữ xã Lam Sơn, năm 2018) [15] Hiện nay, người phụ nữ ngày càng khẳng định được vị thế của mình trong xã hội, ở các cấp, các ngành, lực lượng cán bộ nữ tham gia vào công tác lãnh đạo đã không còn là điều gì xa lạ. Trong năm 2018, có thể thấy tỷ lệ cán bộ nữ và cán bộ nam tham gia lãnh đạo cấp Ủy Đảng, lãnh đạo UBND xã là bằng nhau, tín hiệu đáng mừng nhất ở đây là số cán bộ nữ đều là người dân tộc thiểu số. Số lượng Đảng viên là nữ chiếm 49,71%, cho thấy nữ giới đang ngày càng thể hiện hơn nữa vai trò cũng như năng lực của mình trong các hoạt động đoàn thể. Tuy nhiên, số lượng nữ tham gia vào Ban chấp hành Đảng ủy xã còn rất thấp, chỉ chiếm 3,51%, số lượng nữ tham gia vào Hội đồng nhân dân cũng chưa cao, chiếm 31,58%. Tuy tham gia vào cấp Ủy Đảng, chính quyền và đoàn thể giúp người phụ nữ tăng thu nhập cho gia đình nhưng lại khiến họ không có đủ thời gian lo chu toàn cho công việc gia đình. Nguyên nhân của tình trạng này có thể do
  48. 38 nhiều yếu tố như: trở ngại về phong tục tập quán, không có sự quan tâm giúp đỡ của người chồng và nhận thức của một bộ phận nữ còn hạn chế. Để tăng tỷ lệ nữ tham gia vào các hoạt động lãnh đạo ở các cấp, chính quyền các cấp cần quan tâm hơn nữa tới công tác bồi dưỡng cán bộ nữ, nhận thức đầy đủ hơn về năng lực và vai trò của cán bộ nữ, gia đình cần động viên, ủng hộ họ tham gia vào công tác lãnh đạo và hơn hết người phụ nữ phải nâng cao trình độbản thân và nhận thức đúng về vị thế của mình trong hoạt động đóng góp cho sự phát triển của xã hội. 4.1.2.1. Cơ sở hạ tầng * Giao thông - Hệ thống đường quốc lộ: Xã có quốc lộ 3B chạy qua với chiều dài 6,0 km hiện đang thi công quốc lộ 279 chạy qua với chiều dài 0,3 km. - Hệ thống đường giao thông liên xã: Trục đường từ thôn Khuổi Nằn II của xã Lương Hạ chạy qua địa phận của xã thuộc thôn Hát Lài đi tới thôn Phiêng Kèn của xã Lương Thành với chiều dài 5,0 km, nền đường rộng 4,0 km, mặt đường cấp phối rộng 6,0 m. - Đường giao thông trục thôn: Xã có tổng số 4 công trình đường trục thôn với tổng chiều dài là 15,1 km, tất cả là đường cấp phối, mặt đường rộng 3m, nền đường rộng 5m. + Đường từ ngã 3 Xưởng Cưa đi đến Khuổi Luông dài 4,1 km là đường cấp phối mặt đường rộng 3m nền đường rộng 5,0m. + Đường từ cầu Pác Cáp đi đến Nà Giảo thôn Hợp Thành dài 4,0 km, là đường cấp phối mặt đường rộng 3,0m, nên đường rộng 5,0m. + Đường rẽ từ cấp 3 đi vào đến Phja Khao dài 3,0 km là đường đất, mặt đường rộng 3,0m, nền đường rộng 5,0m.
  49. 39 - Đường ngõ xóm: Toàn xã có 5,0 km đường ngõ xóm, tất cả là đường đất, chiều rộng từ mặt đường từ 1,0 m đến 2,0 m. - Đường giao thông nội đồng: Xã có 3,6 km đường nội đồng, đường đến các khu sản xuất đều là các đường mòn bà con đi lại lâu ngày nên thành đường, chiều rộng mặt đường từ 0,5m đến 0,6m. * Thủy lợi - Thực trạng hệ thống thủy lợi của xã: + Hồ chứa: có 01 hồ chứa tại thôn Thanh Sơn. + Đập dâng: có 01 đập dâng tại thôn Hát Lài. + Kênh mương tưới tiêu: số kênh mương nội đồng hiện có 3.900m, trong đó có 3.000m đã cứng hóa; 900m chưa được kiên cố hóa. Nhìn chung, hệ thống thủy lợi của xã đã được đầu tư xây dựng, tuy nhiên vẫn cần được đầu tư xây dựng mới thêm nữa các công trình đập dâng và tăng tỷ lệ cứng hóa kênh mương tưới tiêu nhằm đáp ứng tốt hơn nữa cho sản xuất và dân sinh. * Điện - Toàn xã có 485/486 hộ dùng điện lưới quốc gia chiếm 98% hộ gia đình và các công trình công cộng trên địa bàn và xã đã được dùng điện lưới quốc gia. - Trạm hạ thế: Có 4 trạm biến áp treo tại các thôn Pò Chẹt, Xưởng Cưa, Pan Khe, Hợp Thành, với tổng công suất 140KVA; với 19 km đường dây hạ thế là dây bọc, đạt yêu cầu. - Tỷ lệ hộ dùng điện thường xuyên, an toàn từ các nguồn đạt 95%. - Chưa có hệ thống điện chiếu sáng công cộng.
  50. 40 Đảm bảo cung cấp đủ điện cho xã. Tuy nhiên, về lâu dài cần được tính toán xây mới, cải tạo, nâng cấp trạm biến áp và hệ thống đường dây. Xây dựng hệ thống điện chiếu sáng công cộng. * Bưu điện - Bưu điện xã: nhà cấp IV, 1 tầng, diện tích sàn 40 m2. Chưa có kết nối đến các thôn. Chưa có điểm kết nối internet công cộng. * Bưu chính viễn thông - Được sự quan tâm của các cấp, các ngành, mạng lưới bưu chính viễn thông trên địa bàn xã đang từng bước phát triển, số máy điện thoại lắp trong nhân dân ngày một tăng phần nào đáp ứng được nhu cầu thông tin liên lạc trong xã. 4.1.2.5. Văn hóa, giáo dục * Văn hóa - Trung tâm Văn hóa – thể thao xã: chưa có. Cần xây dựng mới. - Sân thể dục thể thao: chưa có. - Nhà văn hóa – Khu thể thao các thôn: + Hiện 4/10 thôn đã có nhà văn hóa đạt chuẩn, còn lại là nhà xây cấp 4, lợp Pro xi măng, cơ sở vật chất thiếu thốn. Cần xây dựng mới. + Chưa có thôn nào có sân thể thao. Phong trào xây dựng gia đình văn hóa, làng, xã văn hóa đã và đang được đông đảo các tầng lớp nhân dân hưởng ứng có hiệu quả. Tập trung tuyên truyền vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư” và công cuộc vận động xây dựng quỹ vì người nghèo, tổ chức thực hiện các hoạt động văn hóa văn nghệ nhằm động viên khích lệ nhân dân phát triển thực hiện được mục tiêu kinh tế xã hội của địa phương.
  51. 41 * Trường học - Trường THCS: tổng số biên chế 12 giáo viên, trình độ đạt chuẩn 100%. Hiện trạng trường THCS lớp học được xây 2 tầng, có 04 phòng học, 01 nhà hiệu bộ là nhà cấp IV và một nhà công cụ, sân chơi, bãi tập thể dục thể thao là sân đất diện tích 4.500m2. Cơ sở vật chất chưa đáp ứng tiêu chí, cần làm mới 8 phòng chức năng, nhà tập đa năng, thư viện, phòng y tế học đường, nhà kho, khu để xe, nâng cấp sân chơi bãi tập, đường xương cá trong sân trường, xây dựng tường rào, xây dựng giếng khoan, nâng cấp nhà hiệu bộ, nâng cấp công trình phụ, nhằm đáp ứng tiêu chí nông thôn mới. - Trường Tiểu học: tổng số biên chế 17, hiện trạng trường Tiểu học lớp học là nhà xây cấp IV có 11 phòng học chưa đạt chuẩn, nhà hiệu bộ là nhà cấp IV, 01 nhà công vụ, cần làm mới 05 phòng chức năng (phòng mỹ thuật, phòng tin học, phòng thư viện, phòng y tế học đường, phòng thiết bị giáo dục), 01 nhà đa năng, nâng cấp sân chơi, bãi tập thể dục, thể thao, nâng cấp tường rào, để đáp ứng tiêu chí nông thôn mới. - Trường Mầm non: Tổng số biên chế 14, trình độ Cao đẳng 07, trung cấp 07. Nhà hiệu bộ cấp IV. Hiện trạng trường Mầm non có số phòng học hiện tại là 0 phòng chưa đạt chuẩn, còn thiếu 5 phòng học; xây dựng mới 04 phòng chức năng (phòng âm nhạc, phòng y tế học đường, phòng truyền thông, phòng kế toán hành chính), xây mới 06 phòng ngủ, xây mới nhà đa năng, nâng cấp bếp ăn, nhà ăn, nâng cấp sân chơi, bãi tập thể dục, nâng cấp công trình phụ, khu để xe cho giáo viên, cán bộ, nhân viên có mái che để đáp ứng tiêu chí nông thôn mới. * Y tế Xã có 01 trạm y tế với 01 Bác sỹ, 4 y tá cùng 10 y tế thôn bản. Trạm y tế được trang bị đầy đủ cơ sở vật chất và trang thiết bị để phục vụ cho công
  52. 42 tác chăm sóc sức khỏa và khám chữa bệnh cho bệnh nhân. Các chỉ tiêu về khám chữa bệnh và điều trị ngoại trú đều vượt chỉ tiêu đề ra. Thường xuyên duy trì làm tốt công tác khám chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe cho nhân dân tại địa bàn xã , thôn, xóm. Hệ thống y tế thôn bản hoạt động có hiệu quả, duy trì chế độ giao ban, nắm chắc tình hình sức khỏe của nhân dân. * Công tác khuyến nông, khuyến lâm Hệ thống công tác khuyến nông – khuyến lâm được củng cố, hoạt động có hiệu quả. Thường xuyên phối hợ với các tổ chức đoàn thể trong việc áp dựng KHKT vào sản xuất, chủ động thông báo và đăng ký những loại giống ngô, lúa, phân bón, đáp ứng đủ và kịp thời vụ cho nhân dân. 4.2. Thực trạng vai trò của phụ nữ dân tộc Tày trong phát triển kinh tế hộ gia đình tại xã Lam Sơn 4.2.1. Thông tin chung về các hộ điều tra 4.2.1.1. Một số thông tin cơ bản của các nhóm hộ điều tra Thực trạng đời sống của một gia đình là sự thể hiện thực tại vai trò và địa vị của người phụ nữ. Hiện nay, cùng với sự đi lên của nền kinh tế, bộ mặt kinh tế - xã hội nông thôn cũng đang từng bước chuyển mình theo hướng tích cực trên mọi phương diện: kinh tế, văn hóa, xã hội, kể cả năng lực của người phụ nữ. Để có cái nhìn tổng quát về hộ gia đình và thực trạng vai trò của phụ nữ dân tộc Tày trong phát triển kinh tế hộ, em tiến hành điều tra 84 hộ dân tộc Tày để có được các thông tin cần thiết phục vụ cho mục tiêu nghiên cứu của đề tài.
  53. 43 Bảng 4.7: Thông tin chung về các nhóm hộ điều tra Tổng Chỉ tiêu ĐVT SL CC (%) Tổng số hộ điều tra Hộ 84 100,00 1. Giới tính chủ hộ Nam chủ hộ Hộ 71 84,00 Nữ chủ hộ Hộ 13 16,00 2. Loại hộ Nông nghiệp Hộ 68 81,00 Phi nông nghiệp Hộ 12 14,00 Hộ kiêm Hộ 4 5,00 3. Kinh tế của hộ Khá - giàu Hộ 14 16,00 Trung bình Hộ 62 74,00 Nghèo Hộ 8 10,00 4. Số nhân khẩu Người 327 100,00 Số nhân khẩu bình quân/hộ Người/hộ 3,89 - 5. Số lao động Người 214 100,00 Số lao động bình quân/hộ LĐ/hộ 2,55 - 6. Trình độ học vấn của chủ hộ Tiểu học Người 11 13,10 THCS Người 29 34,52 THPT Người 25 29,76 TC – CĐ - ĐH Người 19 22,62 (Nguồn: Tổng hợp từ số liệu điều tra, năm 2018) Qua bảng 4.7, ta thấy: trong gia đình, phần lớn các chủ gia đình đều là nam giới (chiếm 84%), tỉ lệ phụ nữ làm chủ hộ thấp, chỉ chiếm 16%. Phụ nữ Tày có vai trò quan trọng trong gia đình nhưng với cương vị người chủ quyền
  54. 44 quết định công việc lại mờ nhạt, quyền hạn đó không vượt qua việc mua bán lương thực và các nhu cầu cơ bản của các thành viên, công việc chăm sóc con cái trong gia đình. Các hộ có nữ giới làm chủ hộ hầu hết là do chồng mất hoặc không có chồng, qua đó cho thấy những hộ này, người phụ nữ thật vất vả và phải tự nuôi con một mình. Tỷ lệ hộ phi nông nghiệp rất thấp, chiếm 14%, đa phần các hộ làm nông nghiệp, chiếm tỷ lệ cao nhất là 81%, chỉ có một số ít là hộ kiêm. Nhóm hộ khá – giàu chiếm 16%. Phần lớn, nhóm hộ khá – giàu thường rơi vào các hộ kiêm, hộ phi nông nghiệp, hộ thuần nông chiếm tỷ lệ thấp hơn. Hộ trung bình chiếm tỷ lệ cao nhất (74%), chủ yếu là các hộ làm nông nghiệp. Những hộ này chủ yếu là các hộ đã biết chi tiêu một cách có kế hoạch, am hiểu và chăm chỉ làm ăn, ngoài thời gian nông nhàn, những hộ này chủ yếu có chồng làm thêm nghề hoặc dịch vụ giúp tăng thêm thu nhập cho gia đình, người vợ mạnh dạn áp dụng các tiến bộ kỹ thuật vào trồng trọt, chăn nuôi. Tỷ lệ hộ nghèo chiếm 10%. Những hộ nghèo trong nhóm hộ điều tra, theo em do nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan dẫn đến tình trạng nghèo, song chủ yếu vẫn là nguyên nhân chủ quan. Họ chi tiêu không có kế hoạch, không có sự tích lũy, cộng với ốm đau bệnh tật và sinh đẻ không có kế hoạch, thiếu đất, thiếu vốn sản xuất. Một số hộ không có chồng hoặc chồng không minh mẫn nên người vợ phải gánh vác phần lớn công việc trong gia đình. Nhưng nguyên nhân chính dẫn đến nghèo là do bệnh tật, thiếu lao động. Do đó, mà xã cần có các chương trình hỗ trợ, động viên để những hộ này vươn lên làm giàu. Sản xuất nông nghiệp cũng đòi ỏh i rất nhiều về khoa học kỹ thuật. Vì thế, kiến thức hay trình độ học vấn của chủ hộ cũng và các thành viên trong gia đình cũng ảnh hưởng đến nền kinh tế gia đình nói riêng và của toàn xã hội nói chung. Qua bảng 4.7, ta thấy, học vấn của các hộ điều tra tương đối đồng đều, có 11 người học tiểu học, chiếm 13,1%, số người học THCS chiếm tỷ lệ cao
  55. 45 nhất là 29 người, chiếm 34,52%. Số người học THPT là 25 người, chiếm 29,76% và 19 người học TC – CĐ – ĐH, chiếm 22,62%. Có thể thấy, thế hệ con, cháu của các gia đình đã và đang được đầu tư để học lên cấp bậc cao hơn. Một điểm giống nhau ở cả 3 nhóm hộ là số lao động nữ nhiều hơn lao động nam, chiếm trên 50% tổng số lao động, điều đó chứng tỏ, các công việc trong gia đình đều do phái nữ đảm nhiệm. Vậy vấn đề đặt ra là phải làm sao giảm bớt gánh nặng công việc cho người phụ nữ để họ có điều kiện học tập và nghỉ ngơi. 4.2.1.2. Những thông tin cơ bản về phụ nữ ở các hộ điều tra Phụ nữ có vai trò quan trọng trong sản xuất và đời sống. Trình độ học vấn, độ tuổi của phụ nữ sẽ phần nào phản ánh khả năng tiếp thu KHKT hay khả năng thực hiện các công việc trong gia đình. Những thông tin cơ bản về phụ nữ ở các nhóm hộ được thể hiện qua bảng 4.8. Bảng 4.8: Thông tin về phụ nữ ở các hộ điều tra Tổng Chỉ tiêu SL (người) CC (%) Tổng số phụ nữ trong nhóm hộ điều tra 146 100,00 1. Theo độ tuổi 18 – 50 tuổi 122 83,56 >=50 tuổi 24 16,44 2. Theo trình độ Tiểu học 32 21,92 THCS 53 36,30 THPT 41 28,08 TC – CĐ - ĐH 20 13,70 (Nguồn: Tổng hợp từ số liệu điều tra, năm 2018)
  56. 46 - Về cơ cấu nhóm tuổi: Trong số 146 phụ nữ được điều tra thì chỉ có 24 phụ nữ ≥ 50 tuổi (chiếm 16,44%), còn lại 122 phụ nữ trong độ tuổi từ 18 – 50 tuổi (83,56%). Đây là độ tuổi mà khả năng lao động vẫn còn tốt, hiệu quả cao. - Về trình độ học vấn: Có 21,92% người có trình độ tiểu học, có 36,3% người có trình THCS. Số người có trình độ THPT là 41 người, chiếm 28,08% và TC-CĐ-ĐH là 20 người, chiếm 13,7%. Có thể thấy, khả năng tiếp thu những cái mới, áp dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất và đời sống của chị em là khá cao, góp phần giúp chị em phụ nữ nâng cao vị trí của mình trong gia đình và ngoài xã hội. 4.2.2. Phụ nữ dân tộc Tày đối với sản xuất Ngày nay, tham gia vào các hoạt động tạo thu nhập kinh tế cho gia đình không còn chỉ riêng trách nhiệm của nam giới, trách nhiệm này đã có thêm vai trò của phụ nữa. Đặc biệt, tại khu vực nông thôn, người phụ nữ ngoài công việc nội trợ trong gia đình còn cùng người chồng, nam giới tham gia vào công việc đồng áng, các hoạt động sản xuất nhằm tăng thêm nguồn thu nhập. 4.2.2.1. Phụ nữ dân tộc Tày trong hoạt động trồng trọt Trong 84 hộ được điều tra thì các hộ chủ yếu là sản xuất nông nghiệp (81%), trên địa bàn xã, ngoài trồng lúa thì các hộ còn trồng rau màu, trồng ngô, trồng lạc, Luân canh cây trồng giúp các hộ có thêm thu nhập nhưng đồng thời với đó là sự vất vả của cả vợ và chồng. Quá trình phân công lao động trong hoạt động trồng trọt ở các hộ điều tra được thể hiện qua bảng 4.9.
  57. 47 Bảng 4.9: Phân công lao động trong hoạt động trồng trọt ở các hộ điều tra (ĐVT: %) Hộ khá (n=6) Hộ trung bình (n=58) Hộ nghèo (n=8) Chỉ tiêu Chồn Vợ Chồng Cả hai Vợ Chồng Cả hai Vợ Cả hai g Chọn giống 33,33 16,67 50,00 15,52 36,20 48,28 12,50 50,00 37,50 Làm đất 16,67 66,66 16,67 6,90 60,34 32,76 12,50 62,50 25,00 Trồng cây 16,67 50,00 33,33 46,55 12,07 41,38 12,50 37,50 50,00 Mua vật tư 33,33 16,67 50,00 36,21 36,21 27,58 37,50 25,00 37,50 Chăm sóc 66,66 16,67 16,67 46,55 12,07 41,38 62,50 12,50 25,00 Thu hoạch 16,67 16,67 66,66 53,45 12,07 34,48 25,00 12,50 62,50 Bảo quản 50,00 16,67 33,33 65,52 12,07 22,41 75,00 0,00 25,00 Tìm TT tiêu 16,67 66,66 16,67 6,90 75,86 17,24 12,50 62,50 25,00 thụ Bán sản 16,67 33,33 50,00 10,34 51,73 37,93 12,50 62,50 25,00 phẩm (Nguồn: Tổng hợp từ số liệu điều tra, năm 2018) Qua bảng 4.9, cho thấy phân công lao động trong sản xuất nông nghiệp tại các hộ nghiên cứu trên địa bàn xã Lam Sơn như sau: Qua điều tra 3 nhóm hộ thì hộ khá là nhóm có sự chia sẻ trong các công việc đồng áng cao nhất. Các công việc trong hoạt động trồng trọt, người được điều tra trả lời rằng đó là công việc của cả hai là rất cao, tức là họ đã có sự bàn bạc trong việc quyết định các hoạt động sản xuất, chăn nuôi của hộ gia đình. Ở nhóm hộ khá, nhiều khâu trong hoạt động sản xuất, người phụ nữ cũng tham gia nhiều hơn so với hai nhóm hộ còn lại. Như khâu chọn giống, 33,33% do người phụ nữ quyết đinh, 16,67% do người chồng và 50 % có sự bàn bạc của cả hai. Tỷ lệ này ở nhóm hộ trung bình và hộ nghèo có thấp hơn và thấp nhất là ở hộ nghèo, sự bàn bạc trong gia đình không cao, chỉ chiếm
  58. 48 37,5%. Quyết định trồng cây gì, nuôi con gì vẫn chủ yếu thuộc về người đàn ông (50%). Trong một số hoạt động khác như làm đất, phun thuốc trừ sâu, người đàn ông vẫn đảm nhiệm chính, do đây là những công việc đòi hỏi sức khỏe cao hơn và tỷ lệ này cũng có xu hướng giảm khi nghiên cứu hai nhóm hộ trung bình và khá. Đặc biệt là ở nhóm hộ nghèo, sự tham gia của phụ nữ trong hai hoạt động trên so với người đàn ông trong gia đình tuy có thấp hơn, nhưng vẫn là cao hơn khi so sánh với sự tham gia của phụ nữ ở hai nhóm hộ kia. Hoạt động này ở hộ khá cũng có sự thuê ngoài nhiều hơn. Do đây là nhóm hộ có điều kiện kinh tế tốt hơn. Các hoạt động mua vật tư, chăm sóc thì lại chủ yếu là công việc của phụ nữ. Tuy nhiên ở cả 3 nhóm hộ đều có sự chia sẻ công việc trong các hoạt động này, sự chia sẻ cao nhất ở nhóm hộ khá và thấp nhất ở nhóm hộ nghèo. Ở nhóm hộ khá việc bán sản phẩm do gia đình tạo ra chủ yếu là công việc của phụ nữ. Ngược lại ở nhóm hộ nghèo thì công việc này chủ yếu là do người đàn ông quyết định. Qua bảng phân công lao động 4.9 có thể thấy, sự tham gia của người phụ nữ vào các hoạt động sản xuất chiếm tỷ lệ rất cao, họ đã khẳng định vai trò quan trọng của mình trong các hoạt động sản xuất, tạo thu nhập. Và sự san sẻ công việc đồng áng được thể hiện rõ ở nhóm hộ khá và trung bình. Nhóm hộ nghèo hầu hết các công việc nặng vẫn đặt lên vai người phụ nữ. Họ phải đảm đương quá nhiều mà ít có sự chia sẻ từ phía người đàn ông trong gia đình 4.2.2.2. Phụ nữ dân tộc Tày trong hoạt động chăn nuôi Hầu hết các hộ sản xuất nông nhiệp đều chăn nuôi nhưng với quy mô nhỏ lẻ, chủ yếu là chăn nuôi lợn, gà, vịt, trâu. Trong các hoạt động chăn nuôi, việc phân công lao động ở các hộ điều tra được tổng hợp dưới bảng sau:
  59. 49 Bảng 4.10: Phân công lao động trong hoạt động chăn nuôi của các hộ điều tra (ĐVT: %) Hộ khá Hộ trung bình Hộ nghèo (n=6) (n=55) (n=8) Chỉ tiêu Vợ Chồng Cả Vợ Chồng Cả hai Vợ Chồng Cả hai hai Chọn giống 16,67 16,67 66,66 12,73 30,91 56,36 12,50 37,50 25,00 Kỹ thuật nuôi 33,33 33,33 33,34 41,82 21,82 36,36 50,00 25,00 25,00 Làm chuồng 0,00 66,67 33,33 9,09 78,18 12,73 12,50 62,50 25,00 Mua vật tư 33,33 16,67 50,00 29,09 27,27 43,64 12,50 37,50 50,00 Chăm sóc 66,66 16,67 16,67 70,91 12,73 16,36 50,00 25,00 25,00 Bán sản phẩm 16,67 16,67 66,66 7,27 36,37 56,36 0,00 37,50 62,50 (Nguồn: Tổng hợp từ số liệu điều tra, năm 2018) Qua bảng trên ta thấy các khâu quan trọng của quá trình chăn nuôi đòi hỏi sự nhất trí của hai vợ chồng do đó cả hai vợ chồng đều cùng tham gia, cả hai cùng quyết định đa số các công việc trong chăn nuôi như mua giống vật nuôi, mua thức ăn, mua vật tư, thuốc thú y, bán sản phẩm. Riêng việc làm chuồng, phần lớn là do người chồng đảm nhiệm, do công việc đòi hỏi sức khỏe nhiều hơn và có kỹ thuật trong xây dựng hơn. Các việc khác đều có sự tham gia của cả hai vợ chồng, tuy nhiên tỷ lệ tham gia vào các công việc này là khác nhau giữa các nhóm hộ. Vẫn có sự chênh lệch giữa nhóm hộ nghèo so với nhóm khá và trung bình. Cả hai vợ chồng đều tham gia vào các hoạt động tạo thu nhập cho gia đình. Nhưng hầu như mọi người đều cho rằng đó là việc của nam giới, là việc của đàn ông, còn phụ nữ dù tạo ra thu nhập cho gia đình thì mọi người cũng không công nhận tài năng của họ. Chính điều đó đã làm hạn chế khả năng và sự đóng góp của phụ nữ trong phát triển kinh tế gia đình.
  60. 50 4.2.2.3. Phụ nữ dân tộc Tày trong hoạt động dịch vụ, buôn bán Trong 84 hộ điều tra có 16 hộ (chiếm 19,05%) tham gia hoạt động dịch vụ, buôn bán. Chủ yếu là hoạt động buôn bán, dịch vụ nhỏ lẻ. Cả 16 hộ này đều thuộc nhóm hộ khá – trung bình, không có hộ nghèo. Quá trình phân công lao động trong hoạt động này được tổng hợp tại trong bảng sau: Bảng 4.11: Phân công lao động trong hoạt động buôn bán, dịch vụ của các hộ điều tra (ĐVT: %) Hộ khá (n=11) Hộ trung bình (n=5) Các hoạt động Cả Cả Vợ Chồng Vợ Chồng hai hai Quản lý thu, chi, thanh toán 100,00 0,00 0,00 100,00 0,00 0,00 Vận chuyển, bốc dỡ, áp tải hàng 0,00 72,73 27,27 0,00 60,00 40,00 Trực tiếp phục vụ hay bán hàng 18,18 9,09 72,73 20,00 0,00 80,00 (Nguồn: Tổng hợp từ số liệu điều tra, năm 2018) (Ghi chú: Hộ nghèo không tham gia các hoạt động dịch vụ,buôn bán) Hộ tham gia hoạt kinh doanh hàng hóa và dịch thuộc nhóm hộ khá và trung bình, là các hộ phi nông nghiệp và hộ kiêm. Họ có vốn để nhập hàng và bán chịu cho người dân trong vùng, điều này các hộ nghèo không thể thực hiện được, hơn nữa các hộ này có điều kiện thuận lợi về địa điểm, thường có nhà nằm ở vị trí trung tâm của bản thuận tiện cho hoạt động buôn bán, họ có được sự nhanh nhạy, khả năng quay vòng nguồn vốn và biết kết hợp giữa hoạt động nông nghiệp và phi nông nghiệp. So với hộ nghèo, hộ trung bình và hộ khá ngoài những lợi thế mà họ có, họ còn dám nghĩ dám làm và mạnh dạn đầu tư, vì vậy mà tỷ lệ thành công của họ cao hơn. Các khâu trong hoạt động buôn bán, dịch vụ chủ yếu là do phụ nữ đảm nhiệm. Qua bảng 4.11, ta thấy, việc quản lý thu chi, thanh toán, do phụ nữ đảm nhiệm 100% tại các hộ gia đình được điều tra. Công việc vận chuyển,
  61. 51 bốc dỡ, áp tải hàng chủ yếu là do người đàn ông đảm nhiệm do công việc này yêu cầu có sức khỏe. Việc trực tiếp phục vụ hay bán hàng do cả 2 đảm nhiệm, do ở nông thôn, ngoài việc buôn bán dịch vụ ra, các hộ gia đình vẫn tham gia các hoạt động trồng trọt, chăn nuôi khác. 4.2.2.4. Vai trò của phụ nữ trong việc sử dụng nguồn vốn, thu nhập, tài sản Biểu đồ 4.1: Người đứng tên trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất 100 91.94 85.71 87.5 80 60 Chồng 40 Vợ Người khác 20 14.29 12.5 4.89 0 3.23 0 0 Hộ Khá Hộ TB Hộ nghèo (Nguồn: Tổng hợp từ số liệu điều tra, năm 2018) Biểu đồ 4.1 cho thấy trong các hộ nghiên cứu tỷ lệ phụ nữ đứng tên trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (sổ đỏ) là rất thấp ở cả 3 nhóm hộ. Hầu hết người đứng tên trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là người chồng, một số ít là những người khác như ông bà, con, Nhìn vào biểu đồ có thể thấy rõ sự khác biệt giữa người chồng và người vợ trong vai trò kiểm soát nguồn lực đất đai của hộ. Ở hộ nghèo người vợ đứng tên trong sổ đỏ chiếm 0% trong khi nam giới là 87,5%, một sự chênh lệch quá lớn. Tương tự như vậy, ở hộ khá và hộ trung bình nguồn lực quan trọng này cũng do đàn ông trong gia đình kiểm soát. Đây là một thực tế trong các hộ nghiên cứu và điều này dẫn đến sự bất công bằng trong việc sở hữu và kiểm soát nguồn lực đất đai giữa nam giới và nữ giới. Việc tiếp cận nguồn vốn cũng là một yếu tố quan trọng trong sản xuất. Đa phần các hộ đều vay từ Ngân hàng, một bộ phận vay từ các tổ chức, đoàn thể ở xã như Hội phụ nữ, Hội nông dân, quỹ xóa đói giảm nghèo, Khi vay
  62. 52 ở các tổ chức đoàn thể thì không cần có tài sản thế chấp nhưng vay ở ngân hàng lại khác. Để vay vốn ở ngân hàng, gia đình phải có tài sản thế chấp, mà các hộ chỉ có đất đai là tài sản giá trị nhất. Nhiều khi người chồng không quan tâm đến chuyện làm ăn, mọi việc trong nhà đều do người vợ quyết định và thực hiện nhưng chồng lại là chủ hộ. Điều này làm hạn chế khả năng tiếp cận nguồn vốn của phụ nữ, từ đó mà có thể ảnh hưởng tới hiệu quả sản xuất kinh doanh. Số liệu trong bảng 4.12 sẽ cho ta thấy nguồn vốn vay của các hộ điều tra: Bảng 4.12: Nguồn vay vốn của các hộ điều tra Nguồn vay Số lượng vay (hộ) Tỷ lệ (%) Ngân hàng 45 53,57 Hội phụ nữ 30 35,71 Hội nông dân 7 8,33 Quỹ xóa đói giảm nghèo 14 16,67 Nguồn khác (họ hàng, bạn bè, ) 9 10,71 (Nguồn: Tổng hợp từ số liệu điều tra, năm 2018) Trong số 84 hộ điều tra, thì có 8 hộ không vay vốn để sản xuất kinh doanh. Có hộ vay từ nhiều nguồn khác nhau như vừa vay từ Hội nông dân, vừa vay từ nguồn khác (họ hàng, bạn bè, ). Tỷ lệ vay ngân hàng là lớn nhất (45 hộ) 53,57%. Do vay ngân hàng có thể vay với số vốn lớn. Những hộ này đều lấy đất đai làm tài sản thế chấp để vay vốn. Nên khi vay ngân hàng cần có sự đồng ý của chủ hộ (thường là người chồng) thì mới có thể vay vốn. Nên việc tiếp cận vốn của chị em còn gặp nhiều khó khăn. Còn vay ở Hội Phụ nữ, Hội nông dân, không cần tài sản thế chấp nhưng được vay vốn với số vốn nhỏ hơn và phải theo từng đợt. Ngoài ra, nhiều hộ cũng vay mượn từ họ hàng, bạn bè. Đây là nguồn tín dụng không chính thống, hầu hết đều dựa vào sự quen biết và tin tưởng nhau. Đa số các hộ vay vốn với mục đích chủ yếu là để làm vốn sản xuất kinh doanh, chủ yếu là dùng để chăn nuôi. Một số hộ khác dùng để mua công cụ
  63. 53 sản xuất và vay tiền cho con đi học xa nhà. Đây đều là những mục đích chính đáng, giúp phát triển kinh tế hộ gia đình, vươn lên làm giàu để có được một cuộc sống tốt hơn. Như vậy, việc tiếp cận nguồn vốn của chị em còn gặp nhiều khó khăn làm cản trở khả năng tiếp cận nguồn lực. Từ đó, ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh. Bảng 4.13: Tình hình quản lý vốn vay của các hộ điều tra (ĐVT: %) Hộ khá Hộ trung bình Hộ nghèo Các vai trò (n=10) (n=47) (n=3) Số hộ vay vốn 10/14 hộ 47/62 hộ 3/8 hộ Tỷ lệ vay vốn 71,43 75,81 37,50 1. Quản lý - - - Chồng 40,00 36,17 66,67 Vợ 20,00 27,66 0,00 Cả hai 40,00 36,17 33,33 2. Quyết định sử dụng - - - Chồng 60,00 27,66 33,33 Vợ 10,00 19,15 33,33 Cả hai 30,00 53,19 33,34 3. Đứng tên vay vốn - - - Chồng 100,00 95,74 100,00 Vợ 0,00 4,26 0,00 Cả hai 0,00 0,00 0,00 4. Trả lãi tiền vay - - - Chồng 20,00 36,17 0,00 Vợ 60,00 29,79 66,67 Cả hai 20,00 34,04 33,33 (Nguồn: Tổng hợp từ số liệu điều tra, năm 2018)
  64. 54 Trong vai trò kiểm soát nguồn lực tài chính được thể hiển ở bảng trên cho thấy vai trò khác nhau của người phụ nữ trong các nhóm hộ khác nhau. Tỷ lệ vay vốn ở các nhóm hộ cũng rất khác nhau, tỷ lệ vay vốn ở nhóm hộ khá là 71,43%, nhóm hộ trung bình là 75,81% và nhóm hộ nghèo là 37,5%. Có thể thấy sự dè dặt trong việc vay vốn của nhóm hộ nghèo khi so sánh với tỷ lệ vay vốn của nhóm hộ khá. Người nghèo thường không dám nghĩ xa và không dám làm ăn lớn. Đối với họ nguy cơ rủi ro là rất cao, do đó đồng vốn của họ cũng không lớn. Còn hộ khá họ lại muốn làm ăn lớn và họ dám làm, do đó tỷ lệ vay vốn của họ cao hơn. Vậy trong vai trò quản lý, sử dụng vốn vay giữa các nhóm hộ khác nhau như thế nào? Qua bảng 4.13, ta thấy quyền quản lý vốn vay trong các nhóm hộ rất khác nhau. Ở nhóm hộ khá thì cả hai vợ chồng cùng quản lý vốn chiếm tỷ lệ khá cao. Ở nhóm hộ trung bình và hộ nghèo, tỷ lệ này thấp hơn. Sự chênh lệch giữa vai trò của chồng và vợ trong quản lý vốn trong gia đình còn khá lớn, trong chi tiêu hàng ngày thì người vợ là người quản lý chi tiêu. Nhưng các quyết định lớn trong gia đình thì lại do người đàn ông quyết định. Trong vai trò quyết định sử dụng, sự khác biệt càng được thể hiện rõ hơn giữa nam giới và nữ giới. Trong gia đình người đàn ông vẫn chiếm tỷ lệ lớn trong việc quyết định sử dụng đồng vốn. Ở nhóm hộ nghèo có tới 33,33%, nhóm hộ trung bình là 27,66%, nhóm hộ khá là 60%. Trong nhóm hộ khá và trung bình thì người phụ nữ tham gia vào vai trò quyết định sử dụng vốn vay ít hơn hai nhóm hộ còn lại (hộ khá chiếm 10%, hộ trung bình chiếm 19,15%), tỷ lệ cả hai cùng quyết định là 30% ở nhóm hộ khá và 53,19% ở nhóm hộ trung bình. Thể hiện nhận thức về vai trò của người phụ nữ trong việc kiểm soát nguồn lực tài chính trong nông hộ của nhóm hộ khá và nhóm hộ trung bình cao hơn so với nhóm hộ nghèo. Người đứng tên vay vốn phần lớn là người đàn ông trong gia đình. Nhưng người đi trả lãi thì lại thường là người vợ. Tỷ lệ người phụ nữ đảm nhiệm vai trò này trong các nhóm hộ là tương đối cao. Sự đối lập
  65. 55 giữa tỷ lệ phụ nữ có quyền quyết định sử dụng vốn vay và tỷ lệ phụ nữ đi trả lãi hàng tháng cho ta thấy phần nào về sự bất công bằng trong vai trò kiểm soát nguồn lực tài chính của nông hộ. 4.2.3. Phụ nữ dân tộc Tày đối với vai trò tái sản xuất Gia đình hạnh phúc, mọi người trong gia đình phát triển toàn diện là điều mà ai cũng mơ ước. Để làm được điều đó thì ngoài công việc tạo thu nhập cho gia đình thì chăm lo, yêu thương các thành viên trong gia đình cũng là điều rất cần thiết. Mỗi một gia đình lại có những cách riêng để xậy dựng gia đình hạnh phúc. Hiện nay, nhiều gia đình rất tiến bộ, người chồng đã giúp người vợ trong việc nội trợ và dạy con học bài chứ không cho rằng đó là việc của vợ nữa. Do đó mà nhiều người vợ đã có thời gian hơn cho bản thân mình. Tuy nhiên không phải gia đình nào cũng được như vậy. Nhiều người chồng vẫn coi đó là việc đương nhiên của phụ nữ. Kèm theo đó là nhiều người vợ cũng coi việc nội trợ, chăm sóc gia đình là thiên chức của mình, cho nên mình làm là đương nhiên. Do những suy nghĩ đó mà họ ít có thời gian lo cho bản thân mình. Số liệu ở bảng 4.13 cho thấy việc phân công lao động trong vai trò tái sản xuất ở các gia đình. Bảng 4.14: Phụ nữ dân tộc Tày đối với hoạt động tái sản xuất (ĐVT: %) Hộ khá (n=14) Hộ trung bình (n=62) Hộ nghèo (n=8) Chỉ tiêu Vợ Chồng Cả hai Vợ Chồng Cả hai Vợ Chồng Cả hai Làm việc 50,00 14,29 35,71 56,45 12,90 30,66 75,00 12,50 12,50 nhà Chăm sóc 28,57 21,43 50,00 46,77 6,45 46,78 25 12,50 62,50 con cái Quyết định 0,00 0,00 100,00 0,00 0,00 100,00 0,00 0,00 100,00 số lượng con cái Xây dựng, 6,96 78,75 14,29 8,06 75,81 16,13 0,00 75,00 25,00 sửa chữa (Nguồn: Tổng hợp từ số liệu điều tra, năm 2018)
  66. 56 Sự phân công trong các hoạt động khác ngoài sản xuất nông nghiệp được thể hiện qua bảng 4.14. Sự phân công trong các hoạt động tái sản xuất được thể hiện rất rõ rệt qua bảng trên. Tỷ lệ phụ nữ làm việc nhà, chăm sóc con cái là rất cao. Rõ nét nhất là ở nhóm hộ nghèo: 75% phụ nữ thuộc nhóm hộ nghèo được điều tra phải đảm nhiệm các công việc nhà như dọn dẹp nhà cửa, nấu ăn, giặt giũ, và ít có sự chia sẻ của người chồng.Tuy nhiên ở nhóm hộ khá và trung bình tỷ lệ cả hai vợ chồng tham gia vào công việc nhà, chăm sóc con cái khá cao. Điều này cho thấy nhận thức của những người đàn ông trong gia đình ở hai nhóm hộ này khá cao, họ không còn quá phân biệt công việc đó là của phụ nữ, mà đã coi đó là trách nhiệm của cả hai. Ở cả 84 hộ điều tra, việc quyết định số lượng con cái đều do cả hai vợ chồng cùng quyết định. Bởi lẽ, đây không phải là việc mà một trong hai người có thể tự quyết. Còn trong xây dựng, sửa chữa thì người đàn ông vẫn đảm nhiệm chính, sự phân công này vẫn còn rất rõ rệt. 4.2.4. Phụ nữ dân tộc Tày đối với vai trò cộng đồng Xã hội ngày càng phát triển, chị em phụ nữ ngày càng khẳng định được tài năng và trí tuệ của mình không chỉ trong những công việc gia đình mà còn cả ngoài xã hội. Phụ nữ đã tham gia nhiều hơn vào các tổ chức Đoàn thể, các tổ chức chính trị - xã hội ở địa phương cũng như giữ vững chức vụ chủ chốt của đơn vị. Ngoài ra, những hoạt động như giao lưu văn nghệ, các cuộc thi cũng được chị em tham gia sôi nổi, nhiệt tình. Trong 84 hộ điều tra, mỗi hộ có quá trình phân công lao động khác nhau trong vai trò sản xuất và tái sản xuất. Mỗi gia đình có điều kiện kinh tế khác nhau, do đó mà việc phân công lao động hợp lý nhất cho gia đình phụ thuộc rất lớn vào sự đồng lòng, nhất trí của cả hai vợ chồng. Vai trò cộng đồng thể hiện ở sự tham gia các hoạt động cộng đồng và lãnh đạo cộng đồng. Phụ nữ ngày nay có xu thế hướng ra ngoài nhiều hơn,
  67. 57 tham gia nhiều hoạt động xã hội và cũng giữ nhiều chức vụ quan trọng. Từ đó, dần khẳng định được vị trí, vai trò của mình. Để hiểu được phụ nữ xã Lam Sơn tham gia các hoạt động cộng đồng ra sao, số liệu trong bảng 4.14 sẽ cho thấy điều đó. Bảng 4.15: Phụ nữ dân tộc Tày với vai trò cộng đồng Tỷ lệ (%) Hộ khá (n=14) Hộ trung bình (n=62) Hộ nghèo (n=8) Chỉ tiêu Cả Cả Vợ Chồng Vợ Chồng Cả hai Vợ Chồng hai hai Đi tập huấn 21,43 21,43 57,14 27,42 37,10 35,48 12,50 62,50 25,00 Họp phụ huynh 42,86 28,57 28,57 27,42 37,10 35,48 25,00 62,50 12,50 Đi họp thôn 42,86 28,57 28,57 29,03 29,03 41,94 25,00 50,00 25,00 Lao động công 7,14 7,14 85,71 41,94 32,26 25,80 37,50 37,50 25,00 ích Tham gia các 14,29 7,14 78,57 17,74 14,52 67,74 12,50 12,50 75,00 hoạt động giao lưu văn hóa, văn nghệ Tham gia các 21,43 28,57 50,00 22,58 37,10 40,32 12,50 62,50 25,00 đám cưới, ma chay của làng. (Nguồn: Tổng hợp từ số liệu điều tra, năm 2018) Qua bảng 4.15, có thể thấy, trong các hoạt động cộng đồng, tỷ lệ cả hai vợ chồng cùng tham gia chiếm tỷ lệ cao hơn ở nhóm hộ khá và nhóm hộ trung bình. Trong hoạt động cộng đồng, thôn xóm sự phân công công việc trong gia đình thể hiện rõ ở hộ nghèo. Đi tập huấn, họp thôn, họp phụ huynh hay tham gia vào các đám cưới, ma chay của làng vẫn là công việc của đàn ông.
  68. 58 Lao động công ích thì tỷ lệ nữ tham gia lại khá cao.Thể hiện sự bất bình đẳng trong phân công tham gia hoạt động cộng đồng. Qua sự phân công này, có thể thấy người mẹ, người phụ nữ trong gia đình vẫn là người quan tâm, sát sao hơn với việc học của con, còn chức năng tham gia các hoạt động nâng cao kiến thức phục vụ phát triển kinh tế của gia đình thì vẫn thuộc về người đàn ông. Trong 84 hộ điều tra thì 100% chị em phụ nữ tham gia vào Hội phụ nữ của thôn. Đây là nơi để chi ̣ em trao đổi kinh nghiệm trong cuộc sống cũng như trong phát triển kinh tế, bày tỏ quan điểm của mình, là nơi giao lưu, học hỏi nhiều điều mới. Hơn nữa, Hội phụ nữ ở các thôn và xã cũng có tổ chức nhiều buổi tập huấn về sức khỏe sinh sản, cung cấp những thông tin cần thiết cho chi ̣em để chi ̣em có thể áp dụng vào sản xuất và trong cuộc sống. Các chị em tham gia sinh hoạt Hội phụ nữ thường xuyên cho rằng những lớp tập huấn đều đáp ứng mong muốn của chi ̣em. Đây là một điều đáng khích lệ, cho thấy Hội đã hoạt động rất hiệu quả, tăng khả năng tin tưởng của chi ̣ em, giúp chị em đoàn kết, hoạt động hiệu quả hơn. 4.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến vai trò của phụ nữ dân tộc Tày trong phát triển kinh tế hộ gia đình Một thực tế cho thấy, xã hội không thể tiến bộ, nền kinh tế không thể phát triển nếu có một bộ phận nào đó bị loại trừ hoặc xem nhẹ. Qua điều tra đánh giá thực trạng ở 84 hộ dân, có thể thấy người phụ nữ DTT luôn là đối tượng yếu thế hơn so với nam giới. Bảng 4.16 dưới đây sẽ cho thấy những yếu tố đã và đang cản trở họ trong việc khẳng định năng lực của mình trong xã hội.
  69. 59 Bảng 4.16: Các yếu tố ảnh hưởng đến vai trò của phụ nữ dân tộc Tày trong phát triển kinh tế hộ gia đình Nội dung Hộ khá Hộ trung bình Hộ nghèo (n=14) (n=62) (n=8) Số hộ Tỷ lệ Số hộ Tỷ lệ Số Tỷ lệ % % % hộ 1. Những yếu tố khách quan - Quan niệm xã hội 14/14 100,00 60/62 96,77 8/8 100,00 - Khả năng tiếp cận thông tin 9/14 64,29 55/62 87,71 8/8 100,00 - Sự giúp đỡ của chồng trong 8/14 57,14 51/62 82,26 7/8 87,50 công việc gia đình - Chủ trương, chính sách của 3/14 21,43 39/62 62,90 5/8 62,50 Đảng 2. Những yếu tố chủ quan - Trình độ văn hóa, chuyên 14/14 100,00 62/62 100,00 8/8 100,00 môn - Sức khỏe 13/14 92,86 62/62 100,00 7/7 87,50 - Nhận thức của chị em về vai 10/14 71,43 45/62 72,58 5/7 62,50 trò của bản thân (Nguồn: Tổng hợp từ số liệu điều tra, năm 2018) 4.3.1. Những yếu tố khách quan 4.3.1.1. Quan niệm xã hội Nói về những yếu tố khách quan, có lẽ quan niệm xã hội là rào cản lớn nhất đối với phụ nữ trong quá trình thể hiện vai trò của mình. 100% số hộ được hỏi ở nhóm hộ khá và nhóm hộ nghèo cho biết còn nhiều quan niệm xã hội như: đàn bà thì phải làm nội trợ, chăm con, không nên học cao, việc lớn thì để đàn ông làm, khiến họ đôi khi dù muốn tham gia vào các công việc,