Khóa luận Tư tưởng giáo dục của Khổng Tử và những giá trị, hạn chế của nó

pdf 76 trang thiennha21 15/04/2022 5050
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Tư tưởng giáo dục của Khổng Tử và những giá trị, hạn chế của nó", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfkhoa_luan_tu_tuong_giao_duc_cua_khong_tu_va_nhung_gia_tri_ha.pdf

Nội dung text: Khóa luận Tư tưởng giáo dục của Khổng Tử và những giá trị, hạn chế của nó

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN, ĐHQGHN KHOA TRIẾT HỌC NGUYỄN THỊ DUNG TƢ TƢỞNG GIÁO DỤC CỦA KHỔNG TỬ VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ CỦA NÓ KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC NGÀNH TRIẾT HỌC Hệ đào tạo: Chính quy Khóa học: QH-2016-X NGƯỜI HƯỚNG DẪN: ThS. Nguyễn Thị Liên ThS. Trương Thị Quỳnh Hoa HÀ NỘI, 2020
  2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan khóa luận “Tư tưởng giáo dục của Khổng Tử và những giá trị, hạn chế của nó” là công trình nghiên cứu của tôi và được hoàn thành dưới sự hướng dẫn của Giảng viên – Th. S Nguyễn Thị Liên và Th. S Trương Thị Quỳnh Hoa. Nếu phát hiện có bất kỳ sự gian lận nào tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về nội dung khóa luận của mình. Trường đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, ĐHQGHN không liên quan đến những vi pham tác quyền, bản quyền do tôi gây ra trong quá trình thực hiện (nếu có). Hà Nội, ngày 23 tháng 06 năm 2020 Sinh viên Nguyễn Thị Dung
  3. LỜI CẢM ƠN Lời đầu tiên, em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Th. S Nguyễn Thị Liên và Th. S Trương Thị Quỳnh Hoa - người trực tiếp hướng dẫn, giúp em hoàn thành khóa luận. Em cũng xin cảm ơn các thầy, cô giáo giảng dạy trong Khoa Triết học cũng như các thầy cô trong chuyên ban Logic học và các thầy cô trong trường đã truyền đạt cho em nhiều kiến thức bổ ích để thực hiện khóa luận và trang bị cho mình hành trang vững chắc cho sự nghiệp sau này. Cuối cùng em xin cảm ơn tới gia đình bạn bè đã luôn động viên, quan tâm, chăm sóc em trong quá trình thực hiện. Mặc dù đã nỗ lực hết sức để hoàn thành khóa luận này, tuy nhiên với khả năng có hạn nên khóa luận tốt nghiệp của em còn nhiều thiếu sót, em mong nhận được sự góp ý từ phía thầy cô và các bạn để em tiến bộ hơn nữa trong học tập và nghiên cứu. Bên cạnh đó, dù đã cố gắng tìm hiểu, nghiên cứu tài liệu cũng như sự giúp đỡ nhiệt tình từ các thầy cô và anh chị, nhưng do giới hạn kiến thức và khả năng lý luận của bản thân còn nhiều hạn chế, kính mong nhận được sự góp ý và chỉ dẫn của các thầy cô để khóa luận của em được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, ngày 23 tháng 06 năm 2020 Sinh viên Nguyễn Thị Dung
  4. MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 1. Lý do chọn đề tài 1 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của khóa luận 3 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của khóa luận 3 4. Tình hình nghiên cứu 3 5. Phƣơng pháp nghiên cứu 4 6. Những đóng góp của khóa luận 5 7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của khóa luận 5 8. Kết cấu của khóa luận 5 CHƢƠNG 1: ĐIỀU KIỆN VÀ TIỀN ĐỀ HÌNH THÀNH TƢ TƢỞNG GIÁO DỤC CỦA KHỔNG TỬ 6 1.1. Điều kiện kinh tế - xã hội. 6 2.2. Những tiền đề tƣ tƣởng 10 2.3. Khổng Tử- cuộc đời và sự nghiệp 12 Tiểu kết chƣơng 1 15 CHƢƠNG 2: MỘT SỐ TƢ TƢỞNG GIÁO DỤC CƠ BẢN CỦA KHỔNG TỬ 17 2.1. Quan niệm của Khổng Tử về mục đích giáo dục 17 2.2. Quan niệm của Khổng Tử về đối tƣợng giáo dục 19 2.3. Quan niệm của Khổng Tử về các lĩnh vực giáo dục 22 2.3.1. Giáo dục đạo đức 22 2.3.2. Giáo dục về các kiến thức khác 29 2.4. Quan niệm của Khổng Tử về phƣơng pháp giáo dục 30 2.4.1. Đối với ngƣời thầy 31 2.4.2. Đối với ngƣời học 39 Tiểu kết chƣơng 2 43 CHƢƠNG 3: GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ TRONG TƢ TƢỞNG GIÁO DỤC CỦA KHỔNG TỬ 45
  5. 3.1. Những giá trị trong tƣ tƣởng giáo dục của Khổng Tử 45 3.2. Những hạn chế trong tƣ tƣởng giáo dục của Khổng Tử 52 KẾT LUẬN 66 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 68
  6. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trên con đường phát triển của một quốc gia, bên cạnh những điều kiện tự nhiên thì điều kiện xã hội cũng đóng vài trò quan trọng chủ chốt để thúc đẩy quá trình tiến lên ấy. Trong đó nguồn lực con người đóng vai trò thiết thực và quan trọng đối với một đất nước. Để đào tạo ra được những người tài giỏi điều đầu tiên các nước chú trọng giáo dục, xem nó là động lực, đòn bẩy thúc đẩy sự phát triển. Trong thời đại ngày nay, với sự phát triển của khoa học và công nghệ và nền kinh tế tri thức, hàm lượng trí tuệ kết tinh trong mỗi sản phẩm hàng hóa ngày càng chiếm đa số trong giá trị được tạo ra và quyết định đến chất lượng sản phẩm. Tuy nhiên, tài năng, trí tuệ, năng lực và bản lĩnh trong lao động, sáng tạo của con người không phải xuất hiện một cách tự phát và ngẫu nhiên, mà phải trải qua một quá trình giáo dục, rèn luyện tích lũy lâu dài mới có được. Chính bởi vậy, giáo dục lại càng được coi trọng và trở thành yếu tố cấu thành nên nền sản xuất xã hội. Thực tiễn cho thấy bất kỳ quốc gia nào muốn phát triển đều phải quan tâm, đầu tư cho giáo dục. Bởi vì giáo dục- đào tạo là điều kiện tiên quyết góp phần phát triển kinh tế, góp phần ổn định chính trị xă hội và hơn hết là góp phần nâng cao chỉ số phát triển con người. Vì vậy, John Gelbriet viết: “Đồng đô la được đầu tư cho trí tuệ con người thường mang đến sự gia tăng thu nhập quốc dân lớn hơn đồng đô la đầu tư vào đường sắt, các đập chắn nước, máy móc, và các khoản mục cơ bản khác. Giáo dục đang trở thành hình thức đầu tư có hiệu suất cao”. Việt Nam là đất nước chịu sự đô hộ trong khoảng thời gian dài nhất dưới ách thống trị của Trung Hoa. Bởi vì quá trình tiếp xúc dài như vậy, nên nền giáo dục của Việt Nam cũng chịu sự ảnh hưởng, phân hóa lớn từ nền giáo dục nước bạn. Nho giáo du nhập vào nước ta trong khoảng 2000 1
  7. năm và đã có những ảnh hưởng to lớn đối với xã hội và con người Việt Nam. Trung Quốc là một trong những cái nôi văn hóa lớn, rực rỡ, phong phú bậc nhất của nền văn minh phương Đông. Và vậy nên, tư tưởng triết học Trung Quốc từ lâu đã khẳng định được vị trí của mình trong tiến trình phát triển chung của lịch sử tư tưởng nhân loại với tên tuổi của những nhà triết học nổi tiếng. Mặc dù, Nho giáo - một trong những học thuyết triết học và chính trị - xã hội lớn nhất trong lịch sử triết học Trung Quốc cổ đại ra đời rất sớm, nhưng nội dung của nó đã dành sự quan tâm lớn đến con người đặc biệt là vấn đề giáo dục con người. Cùng với sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, việc đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, thì công tác giáo dục đào tạo đã và đang được đặt lên hàng đầu và đóng góp một phần quan trong trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước. Việc phát triển giáo dục- đào tạo trực tiếp giúp con người nâng cao trí tuệ, hiểu biết và khả năng vân dụng những tri thức khoa học kỹ thuật để từ đó không ngừng phát triển kinh tế, xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân tiến tới thực hiện các mục tiêu cao cả mà Đảng và Nhà nước ta đã đặt ra. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã khẳng định: “Giáo dục và đào tạo có sứ mệnh nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng phát triến đất nước, xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam. Phát triến giáo dục và đào tạo cùng với phát triển khoa học công nghệ là quốc sách hàng đầu, đầu tư cho giáo dục và đào tạo là đầu tư cho phát triền” [23,tr. 115-116]. Với triết học Nho giáo, người mở đầu là Khổng Tử đã có nhiều đóng góp cho giáo dục Trung Hoa cũng như nhiều nước phương Đông khác. Bởi vậy, dù ở trong lịch sử hay hiện nay thì tư tưởng giáo dục của Khổng Tử vẫn có ảnh hưởng lớn đến Việt Nam 2
  8. Vì vậy, với tất cả lý do trên, tôi lựa chọn : “Tư tưởng giáo dục của Khổng Tử và những giá trị, hạn chế của nó” làm đề tài nghiên cứu trong khóa luận tốt nghiệp của mình. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của khóa luận 2.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của khóa luận là phân tích một cách có hệ thống tư tưởng giáo dục Khổng Tử từ mục đích, đối tượng, đến nội dung và phương pháp giáo dục để qua đó, đồng thời qua đó rút ra những đánh giá về giá trị và hạn chế của nó. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích trên, khóa luận tập trung làm rõ những nội dung chủ yếu sau: - Phân tích, khái quát những điều kiện và tiền đề chủ yếu cho sự hình thành tư tưởng giáo dục của Khổng Tử. - Phân tích, làm rõ một số nội dung chủ yếu trong tư tưởng giáo dục của Khổng Tử. - Bước đầu rút ra những đánh giá về giá trị và hạn chế của nó 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của khóa luận 3.1. Đối tƣợng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là tư tưởng giáo dục của Khổng Tử và đánh giá về tư tưởng đó. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu của khoá luận là tư tưởng giáo dục của Khổng Tử trong tác phẩm Luận ngữ và những công trình nghiên cứu về tư tưởng giáo dục của Khổng Tử. 4. Tình hình nghiên cứu - Các công trình: “Đại cương triết học Trung Quốc” của Nguyễn Hiến Lê (Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 1992),“Đại cương lịch sử tư tưởng Trung Quốc” của Lê Văn Quán (Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, 1996), “Đại 3
  9. cương triết học Trung Quốc cổ đại” của Doãn Chính (Nhà xuất bản Thanh niên, 2003), “Đại cương lịch sử triết học phương Đông cổ đại” của nhóm tác giả Doãn Chính, Trương Văn Chung, Nguyễn Thế Nghĩa, Vũ Tình (Nhà xuất bản Thanh niên, 2003) đã trình bày những nét cơ bản về đặc điểm kinh tế, chính trị, xã hội cho quá trình hình thành, phát triển của tư tưởng triết học Trung Quốc cổ đại, trong đó tư tưởng giáo dục Nho giáo nói chung và tư tưởng giáo dục của Khổng Tử nói riêng. - “Khổng Tử” của Nguyễn Hiến Lê (Nhà xuất bản Văn hóa thông tin, Hà Nội, 2006) đã trình bày ngắn gọn một số nội dung cơ bản trong học thuyết của Khổng Tử như: “chính danh”, “đức trị”, “tu thân’, “phải học”, “dưỡng dân”, “giáo dân”, “đạo làm người”.v.v Nghiên cứu những nội dung này giúp chúng tôi có thêm những gợi ý để phân tích một số nội dung giáo dục của Khổng Tử. - “Triết lý giáo dục thế giới và Việt Nam” của Phạm Minh Hạc (Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2013) đã trình bày triết lý giáo dục của Việt Nam và một số nhà giáo dục tiêu biểu trên thế giới. Tác giả đã dành nguyên chương thứ 3 để viết về Khổng Tử và triết lý giáo dục của Khổng Tử. - “Quan niệm Nho giáo về các mối quan hệ xã hội. Ảnh hưởng và ý nghĩa của nó đối với xã hội ta ngày nay” (Luận án của Nguyễn Văn Bình, 2001) đã trình bày khái lược về những mối quan hệ trong xã hội Trung Quốc. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Nhằm thực hiện mục đích và nhiệm vụ đặt ra, khóa luận chủ yếu vận dụng những quan điểm biện chứng duy vật của triết học Mác – Lênin, phương pháp lịch sử triết học kết hợp với một số phương pháp nghiên cứu khoa học khác như: phương pháp diễn dịch, quy nạp; phương pháp phân tích, luận giải; phương pháp đối chiếu - so sánh; phương pháp thống nhất lôgíc - lịch sử ; phương pháp tổng hợp, khái quát. 4
  10. 6. Những đóng góp của khóa luận Khóa luận phân tích và trình bày một cách có hệ thống những nội dung và một số giá trị, hạn chế chủ yếu trong tư tưởng giáo dục của Khổng Tử từ mục đích, đối tượng đến các lĩnh vực giáo dục và phương pháp giáo dục. 7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của khóa luận 7.1. Về mặt lý luận - Từ góc độ và phương pháp tiếp cận triết học khoa học, khóa luận trình bày khái quát các điều kiện và nhân tố tác động đến sự hình thành tư tưởng giáo dục của Khổng Tử. - Phân tích và hệ thống hóa những nội dung cơ bản trong tư tưởng giáo dục của Khổng Tử. 7.2. Về mặt thực tiễn Khóa luận có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong việc giảng dạy, nghiên cứu và học tập về tư tưởng giáo dục của Khổng Tử nói riêng, tư tưởng Nho giáo nói chung. 8. Kết cấu của khóa luận Ngoài các phần: Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, phần nội dung của khóa luận được kết cấu thành 3 chương, 9 tiết. 5
  11. CHƢƠNG 1: ĐIỀU KIỆN VÀ TIỀN ĐỀ HÌNH THÀNH TƢ TƢỞNG GIÁO DỤC CỦA KHỔNG TỬ 1.1. Điều kiện kinh tế - xã hội. Từ xa xưa đến nay, bất kì một sự việc hay vấn đề gì nảy sinh thì đều chịu những ảnh hưởng của chính xã hội, thời đại mà nó đang tồn tại chi phối. Và bất kì học thuyết gì ra đời và được nhiều người dân nhắc mãi thì đều phải chứa đựng trong nó vấn đề đáng chú ý và “học thuyết của Khổng Tử nói chung và tư tương giáo dục của ông nói riêng” cũng đáng giá như vậy. Vì vậy để có thể nghiên cứu và hiểu rõ được học thuyết của Khổng Tử thì trước hết chúng ta cần phải tìm hiểu về điều kiện kinh tế-xã hội mà ông đã sống - xã hội của thời kỳ Xuân Thu và trước Xuân Thu. Đây là thời kỳ xã hội Trung Quốc với sự cai trị của các vua nhà Chu. Về kinh tế, cũng như các nhà nước phương Đông bấy giờ, nền kinh tế ở đây xuất hiện nhiều thành tựu rực rỡ trong nông nghiệp khi sản lượng lương thực tăng nhiều hơn từ đó đáp ứng được nhu cầu và đã góp phần làm cho xã hội hưng thịnh và văn minh hơn trước. Bởi vì trải qua thời kì chiến tranh lâu dài giữa các nước chư hầu, cho nên việc quản lý tư liệu sản xuất và sức lao động rất được coi trọng. Thời gian này thì tư liệu sản xuất chủ yếu là ruộng đất, sức lao động là các công xã và thị tộc thất bại từ chiến tranh và thuộc quyền quản lí của vua nhà Chu. Vua lấy đất đai chia cho chư hầu, từ đó chư hầu có quyền quản lí đất nhưng cũng phải chịu áp lực quản lí từ bề trên. Chư hầu có quyền lấy đất đai được nhà vua ban cho chia lại cho họ hàng, họ hàng lại chia cho dân cày bởi dân không thể có riêng đất đai nên đành phải chịu cảnh đi làm thuê làm mướn. Khi có sự phân biệt trong của cải là đất đai thì đã có sự phân hóa sâu sắc trong đẳng cấp xã hội, từ đó ảnh hưởng đến văn hóa, giáo dục. Ở thời kì này, văn hóa, giáo dục chỉ dành cho quý tộc, thị tộc, giáo dục chủ yếu là ở trường quan dành riêng cho con quý tộc, quan lại. Giáo dục trong gia tộc và 6
  12. giáo dục học hiệu ngày càng mở nhiều để có thể đáp ứng nhu cầu của người học. Đặc biệt thời kì này, việc giáo dục chỉ dành cho nam nhân, đặc biệt là con trai trưởng của gia tộc thì vấn đề giáo dục, đào tạo được coi là một chuyện hết sức quan trọng. Vào thời kì này, nhà Chu đã thể hiện rõ lập trường của mình trong việc phân biệt rõ giữa thành thị và nông thôn; và đã thành lập thành thị với quy mô rộng lớn. Thành thị là nơi ngụ của vua và tầng lớp quý tộc- những kẻ đại diện cho tầng lớp thống trị; còn nông thôn là nơi ở của những người nông nô bị nô dịch. Từ đó trong xã hội có xuất hiện những người được coi trọng là “quân tử” và những kẻ thấp kém được gọi là “tiểu nhân”. Há phải chăng cứ là quân tử thì được mọi người mến mộ còn kẻ tiểu nhân thì bị người đời khinh bỉ. Liệu những người không là quân tử cũng chả là hạng tiểu nhân thì họ là ai? Trong các học thuyết của Khổng Tử ông cũng đề cập đến quân tử đến tiểu nhân đến việc giáo dục như thế nào để được thành quân tử và như thế nào sẽ trở thành tiểu nhân. Nhưng dù cho ông chủ trương “hữu giáo vô loại” thì ông vẫn coi trọng việc giáo dục người quân tử và giáo dục như thế nào để trở thành quân tử hơn. Trải qua thời kì còn sơ khai về văn minh, vào thời Xuân Thu, kinh tế Trung Quốc chuyển từ thời đại đồ đồng sang thời đại đồ sắt. Đồ sắt ra đời là bước ngoặt lớn trong nông nghiệp. Công cụ lao động bằng sắt ngày càng nhiều đã làm cho diện tích đất canh tác ngày càng mở rộng, kỹ thuật trồng trọt được cải tiến đã làm năng suất lao động tăng, sản lượng nông sản ngày càng nhiều. Bước tiến bộ trong việc sản xuất nông nghiệp đã ảnh hưởng đến nhiều lĩnh vực khác thúc đẩy nền kinh tế Trung Quốc phát triển nhanh chóng. Công cụ bằng sắt ra đời đã mở ra một ngành công nghiệp mới, lạ cho Trung Quốc là luyện kim, luyện sắt cùng với đó là sự phát triển của các ngành chăn nuôi trồng trọt, nông dân biết trồng dâu, nuôi tằm, dệt vải, các nghề thủ công nghiệp cũng phát triển theo đặc biệt là làm gốm. Khi kinh tế trong nước phát triển cộng với sự khai hoang ruộng đất, khai mở bờ 7
  13. cõi, dẫn đến việc thương nghiệp cũng phát triển. Vào thời điểm này đã có hình thức trao đổi mua bán bằng tiền tệ chứ không như trước. Sự xuất hiện tiền tệ và thương nghiệp phát triển đã hình thành một tầng lớp người mới- người thương nhân, tầng lớp này ngày càng có vị trí lớn và tầm ảnh hưởng quan trọng tới kinh tế- xã hội- chính trị. Sự phát triển kinh tế đã làm cho người dân thoát khỏi những cảnh đói nghèo lạc hậu từ đó họ quan tâm nhiều hơn đến các vấn đề khác trong xã hội – trong đó có giáo dục. Nếu ở xã hội trước, giai cấp quý tộc chủ nô nắm toàn bộ sức lao động ruộng đất và người nô lệ, thì thời kì này xuất hiện công xã nông nghiệp với tầng lớp nông nô- người được công xã giao ruộng đất cày và được khai khẩn đất hoang, luận canh để tăng năng suất. Bên cạnh đó đã tạo điều kiện cho giới quý tộc chiếm cứ ruộng đất công xã làm ruộng tư- xuất hiện chế độ sở hữu tư nhân về ruộng đất. Từ đó trong xã hội hình thành 1 giai cấp mới, giai cấp địa chủ, giai cấp này vừa giàu có về kinh tế, vừa mong muốn có quyền lực về chính trị, xuất hiện với tư cách địa chủ mới cùng với giai cấp quý tộc chủ nô vào việc thống trị xã hội. Ở thời kỳ Xuân Thu, tầng lớp quý tộc mới, vì có tiền và có tài đã bắt đầu có thế lực chính trị bắt đầu chi phối xã hội. Đây là tầng lớp đã nhận ra được sự sai sót, thiếu kém trong sự quản lý cũ mà bắt đầu xây dựng cho riêng mình một cách quản lí mới. Lúc này học tập không còn là của riêng mình ai mà còn là nhu cầu cấp thiết của một nhóm người trong xã hội, sách viết: “Việc học tập từ chỗ là độc quyền của giới quý tộc thị tộc nay được mở rộng đến cả thứ dân, nên trường tư mở ra, gọi là giai đoạn “học hạ tư nhân”” [44, tr.64] . Khổng Tử là người đầu tiên mở ra trường tư nhân để dạy cho tất cả mọi người, mở rộng phạm vi đối tượng giáo dục đến với các tầng lớp khác trong xã hội. Với chủ trương “hữu giáo vô loại” Khổng Tử dạy học không chỉ cho tầng lớp quý tộc địa chủ, những người thương nhân thích làm quan mà còn dạy cho những người khác không phân biệt đẳng cấp. 8
  14. Vào thời kì này, việc quản lý đất đai đã không còn nằm trong tay của nhà vua nữa, quyền cai trị đất đai của vua Chu bị tước đoạt, giai cấp quý tộc nhà Chu thì mất dần quyền lực, địa vị kinh tế ngày càng sa sút. Việc thực hành chế độ “phong hầu kiến địa” chỉ có kết quả trong thời gian đầu, đến lúc này, các nước chư hầu không còn quy phục và phục tùng nhà Vua như trước. Trật tự nhà nước đảo lộn, đạo đức suy đồi, chiến tranh loạn lạc liên miên. Các cuộc chiến thôn tính lẫn nhau giữa các chư hầu nhằm tranh giành địa vị cũng ngày càng nhiều dẫn đến sự diệt vong của hàng loạt các nước chư hầu, dân tình loạn lạc, chết chóc, khổ sở, xã hội trở nên rối loạn hơn bao giờ hết. Sử viết “khắp thiên hạ đều loạn lạc như nước đổ cuồn cuộn, làm thế nào cho thiên hạ trị?”[43, tr. 36] hay “Nghĩ như vua chẳng ra vua, tôi chẳng ra tôi, cha chẳng ra cha, con chẳng ra con, ở trong tình cảnh hỗn loạn như thế, dẫu ta có lúa đầy kho có chắc được ngồi yên mà ăn không?”[43, tr.36] . Đây là thời kì mà xã hội Trung Quốc có sự biến động sâu sắc, chế độ chiếm hữu nô lệ kiểu phương Đông ngày càng suy yếu, sự manh nha bắt đầu xuất hiện chế độ phong kiến sơ kỳ đang dần hình thành- đây chính là nguồn động lực để Khổng Tử đưa ra tư tưởng về giáo dục của mình. Bởi ông cho rằng, xã hội hỗn loạn như bấy giờ là do trình độ nhận thức, con người ngày càng vô đạo. Vì vậy cần phải có một triết thuyết về giáo dục để có thể đưa con người trở về đúng với bản chất tự nhiên là thiện, là yêu thương quý mến đồng loại. Trong giai đoạn xã hội xáo trộn như thế này, nếu như những nhà cầm quyền chủ trương dùng “hình pháp” để trị loạn xã hội như Quản Trọng ở nước Tề, Từ Sản ở nước Trịnh, Thương Ưởng ở nước Tần với phép trị nước là đề cao luật pháp, ban bố pháp luật cho dân biết, nếu phạm tội thì sẽ xử phạt theo pháp luật. Khổng Tử cho rằng chủ trương lập lại trật tự xã hội bằng con đường giáo dục với mục đích dạy cho con người hiểu rõ được đạo lý và coi đó là một trong những biện pháp chủ yếu để trở nên chính đạo, đồng thời ông chú trọng đào tạo nên những người quân tử để cải biến xã 9
  15. hội, đưa tới một xã hội thái bình thịnh trị như thời vua Nghiêu, vua Thuấn. Ngoài ra, Khổng Tử còn muốn thông qua giáo dục để xây dựng một xã hội lí tưởng- xã hội thái bình, thịnh trị có trật tự lễ nghĩa “quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử”, “chính danh, định phận”, “túc thực, túc binh, dân tín”. Với một xã hội lí tưởng như vậy thì việc đầu tiên và quan trọng nhất ông hướng tới giáo dục con người vừa có đức, vừa có tài đặc biệt có thể xây dựng tầng lớp đứng đầu với “tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”. Sinh ra và lớn lên trong giai đoạn đất nước đang trong quá trình phát triển nhưng lại xảy ra chiến tranh loạn lạc. Chính điều này đã phần nào đó là lý do Khổng Tử đưa ra tư tưởng giáo dục và cũng ảnh hưởng đến những nội dung giáo dục sau này của ông. 2.2. Những tiền đề tƣ tƣởng Tư tưởng triết học Trung Quốc cổ đại có từ thời tiền sử nhưng phát triển mạnh mẽ từ đời nhà Chu (1134-247 TCN). Trước đây, khi con người ở thời đại nguyên thủy, tri thức còn đang sơ khai, thường cho rằng tất cả sự vật trong vũ trụ này đều do các vị Thần sắp đặt. Lúc này, người dân đều lo sợ trước mẹ thiên nhiên, lo sợ trước những vị Thần tự nhiên. Từ thời nhà Hạ, nhà Thương đã bắt đầu có quan niệm về Trời và Đế, họ tin rằng Trời và Đế đều có quyền uy tối thượng: “Thượng đế có quyền uy rất cao, đặt các Thần giữ các chức quan, địa vị của các Thần là ở dưới Đế và phải phục tùng mệnh lệnh của Đế” [33, tr.38]. Cho đến thởi kỳ Tây Chu thì bắt đầu có triết học Trung Quốc. Vào lúc này người ta đã quan tâm đến thần thoại tôn giáo duy tâm với các biểu tượng về “Thượng đế”, “quỷ thần”. Cho đến thời Xuân Thu, con người đã biết đến ngũ hành, cho rằng hầu như toàn bộ vật chất tồn tại quy thành năm loại, đồng thời cũng sử dụng thuyết âm dương để giải thích những hiện tượng trong thế giới vật chất. Thời kỳ này, những “tín ngưỡng” đối với quỷ, thần càng ngày càng ít đi. Lúc này, tư tưởng chi phối nhà Tây Chu đã trở nên hình thức và giáo 10
  16. điều. Nếu như vào thời nhà Chu, “Lễ” vốn là điển chương thần thánh, là công cụ thống trị của quý tộc thị tộc; “Thi” vốn là huyết mạch tư tưởng của giai cấp thống trị thì đến thời Xuân Thu, “Lễ” đã trở thành nghi thức giao tế của quý tộc, “Thi” đã trở thành lệnh bang giao giữa các nước hay thành những lời thù tạc trong trường giao tế của quý tộc. Tuy nhiên, văn hóa thời Tây Chu với những thành tựu mà vua Văn Vương, Vũ vương, Chu Công để lại vẫn được nhiều người gìn giữ và bảo tồn ở thời Xuân Thu, đặc biệt là chế độ Lễ - Nhạc nhà Chu rất được Khổng Tử coi trọng. Vì là người có niềm tin về lịch sử, hoài cổ, nên Không Tử rất coi trọng việc gìn giữ và lưu truyền văn hóa truyền thống, đặc biệt là văn hóa, đạo đức lễ nghi do Chu Công tạo dựng. Để có thể tìm lại và lưu giữ văn hóa truyền thống thì Khổng Tử coi đó là một nhiệm vụ của giáo dục. Để sau này, trong các bài giảng của mình, ông thường sử dụng những câu chuyện về gương người cũ mà giáo hóa cho học trò của mình. Kể từ khi các nước chư hầu không còn phục tùng vương mệnh nhà Chu, dẫn đến chiến tranh loạn lạc. Các cuộc chiến tranh giành địa vị bá chủ càng ngày gay go, việc tranh giành đất đai và quyền cai trị dân chúng giữa các dòng họ và quý tộc ngày càng khốc liệt. Bởi vậy chính trị rối loạn, đạo đức băng hoại, đời sống tinh thần của ngươì dân ngày càng khổ cực, cuộc sống ngày càng khó khăn. Đứng trước tình hình này đã nảy sinh trong lòng người dân Trung Quốc một khát vọng về xã hội thái bình, thịnh trị. Đây cũng là nguyên nhân dẫn đến sự hình thành học thuyết chính trị- xã hội và tư tưởng giáo dục của Khổng Tử. Đứng trước hoàn cảnh như bấy giờ, đạo đức được coi như là một trong những vấn đề triết học Trung Quốc, từ đó các nhà tư tưởng đã đề cao việc “tu tâm, dưỡng tính”. Vào đầu thời nhà Chu, trong đời sống tinh thần của người Trung Quốc cổ đại thì ngoài việc tiếp tục truyền thống tế Đế tổ, Tiên vương của người Ân, nhà Chu còn bổ sung thêm tư tưởng kính trời, thờ Thượng đế, hợp mệnh trời, người với trời hợp nhất 11
  17. Vào thời Xuân Thu, mặc dù chiến tranh loạn lạc nhưng đây cũng là thời kỳ phát triển rực rỡ nhất của tư tưởng triết học Trung Quốc cổ đại, còn được gọi là thời kỳ “bách gia, chư tử”, “bách gia tranh minh”. Chính trong điều kiện này, đã giúp Khổng Tử nhận thấy được rằng muốn thiết lập lại trật tự, kỷ cương xã hội thì cần phải giáo hóa con người trước tiên. Trong giáo dục ông chủ trương dùng “đức trị” và thông qua giáo dục như là phương tiện để thực hiện đường lối chính trị của mình. Với mong muốn lập lại trật tự lễ pháp nhà Chu, Khổng Tử đề cao chính sách Nhân trị của Chu công, nêu lí tưởng Vương đạo của vua Nghiêu, vua Thuấn đời thái cổ. 2.3. Khổng Tử- cuộc đời và sự nghiệp Khổng Tử (孔子), sinh năm 551 tr.CN và mất năm 479 tr.CN, tên là Khâu (丘), tự là Trọng Ni (仲尼). Ông sinh ra vào thời Xuân Thu, tại ấp Trâu, làng Xương Bình, nước Lỗ (nay là huyện Khúc Phụ, tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc), trong một gia đình nghèo, có ông tổ ba đời vốn thuộc dòng quý tộc sa sút từ nước Tống, sau này dời sang nước Lỗ. Cha của Khổng Tử là Thúc Lương Ngột làm một chức quan nhỏ ở nước Lỗ. Năm Khổng Tử lên 3 tuổi thì cha mất, ông sống với mẹ trong cảnh nghèo khó. Tuy nhà nghèo nhưng cha làm quan nên lúc còn nhỏ “ông cũng được học trong một trường công (quan học) mở để dạy con cái quý tộc về lục nghệ” [54, tr.40]. Vốn là một người rất thông minh, ham học, xem xét kỹ lưỡng để hiểu biết tường tận vấn đề, gặp ai cũng học, ở đâu cũng học, bên cạnh đó ông cũng là một người tự học và biết học như thế nào để tốt hơn. Khi trưởng thành, trải qua sự dạy dỗ và tích lũy kiến thức mà mình có được, ông đã tự ý thức được rằng, giáo dục là con đường không thể thiếu đối với mọi người để từ đó ông mở trường tư dạy học (trước đó chỉ có trường công dạy cho con em quan lại, quý tộc, vua chúa), đưa giáo dục đến với mọi tầng lớp trong xã hội. Nhiều sách cho rằng, Khổng Tử bắt đầu dạy học từ sớm trước khi làm quan. Như có sách ghi rõ: “vào khoảng 30 tuổi, Khổng Tử bắt đầu 12
  18. nhận đệ tử dạy học” [ 21, tr.15]. Học trò thường gọi ông là Khổng Phu Tử (孔夫子) hay Khổng Tử (chữ Tử ở đây gọi là thầy). Vốn nổi tiếng là người học rộng, biết nhiều, nên ông được nhiều học trò xin theo học, ngay cả quan Đại phu nước Lỗ là Trọng Tôn Cồ cũng cho hai người con trai là Hà Kỵ và Nam Cung Quát theo Khổng Tử học lễ. Học trò của Khổng Tử rất đông, trong đó có nhiều người tài đức được Khổng Tử nhắc đến nhiều lần trong Luận ngữ như Nhan Uyên, Tử Lộ, Tử Cống, Nhiễm Hữu, Quý Lộ, Tử Du, Tử Hạ, Trọng Cung Ngay khi còn trẻ, Khổng Tử đã có mong muốn được làm quan để thi hành chính đạo, thực hiện mục tiêu chính trị của mình. Năm 21 tuổi, Khổng Tử được cử làm chức Ủy Lại, một chức quan nhỏ coi việc sổ sách. Sau đó, làm chức Tư Chức Lại, coi việc nuôi bò, dê, súc vật dùng trong việc tế tự. Theo các nhà nghiên cứu, Khổng Tử đã kinh qua một số chức quan, có sách viết ông làm đến chức “Thượng thư Bộ công, Thượng thư Bộ hình, rồi được thăng tới chức Đệ nhị Tướng quốc, Tư khấu (Quyền Tể tướng)” [21, tr.48]. Vào năm thứ mười đời Lỗ Quốc công, với tư cách là quan Tư khấu, Khổng Tử đã mang lại cho nước Lỗ nhiều thành tựu khi hội đàm với Tề hầu ở Giáp Cốc. Sau vì chính sách của ông không được áp dụng, ông đã đi chu du thiên hạ cùng với một số học trò thân cận như Nhan Uyên, Tử Lộ, Nhiễm Hữu để tuyên truyền cái đạo của mình. “Ông cũng là người đầu tiên mở phong trào du thuyết khắp các nước để tìm một ông vua biết dùng thầy trò ông” [43, tr. 48]. Sau 13 năm chu du liệt quốc, Khổng Tử vẫn không tìm được nơi nào để hành đạo của mình, ông quay về nước Lỗ tiếp tục nghiên cứu và dạy học để truyền đạo cho đời sau. Theo Sử ký Tư Mã Thiên, cuộc đời Khổng Tử được chia thành bốn thời kỳ: “1. Thời kỳ thơ ấu và tráng niên từ 1 đến 30 tuổi: Thời kỳ côi cút, nghèo nàn, hay làm, ham học; 2. Thời kỳ trưởng thành: từ 30 đến 50 tuổi: Thời kỳ lập chí học đạo, sang Chu, sang Tề, khảo sát phong tục, lễ nhạc, nghiên cứu sách vở tiền nhân; 3. Thời kỳ giảng giáo bằng phương pháp 13
  19. chính trị: Từ 50 đến 68 – Hoặc chấp chính tại Lỗ (50 - 55 tuổi), – Hoặc chu du thiên hạ (55 đến 68 tuổi); 4. Thời kỳ giảng giáo bằng phương pháp giảng dạy, giáo dục môn đệ và trước tác: từ 68 đến 73 tuổi” [Dẫn theo 43 tr. 48-49]. Như vậy, phần lớn cuộc đời Khổng Tử là để tâm cầu học và dạy người. Vốn “là người đi nhiều, học nhiều, Khổng Tử đã tổng kết được nhiều vấn đề về nhận thức, về thực tiễn giáo dục và phương pháp dạy học” [9, tr.19]. Đúng như nhận định của Nguyễn Văn Thọ: “Đức Khổng Tử sinh ra đời, có lẽ là để dạy đời, cho nên Ngài hết sức tha thiết với vấn đề giáo dục”. Gần như cả cuộc đời Khổng Tử theo đuổi sự nghiệp giáo dục với sự nhiệt tâm và tinh thần “hối nhân bất quyện” – dạy người không chán, ông đã trở thành nhà giáo dục vĩ đại trong lịch sử Trung Quốc. Ông rất coi trọng việc gìn giữ đạo của Thánh hiền, nhất là các kinh sách đời trước. Ông “đem Quan thư san định thành Thượng thư, đem thi ca cổ đại của vùng Hoa Bắc, tương truyền hơn 3.000 thiên (bài), san còn lại được hơn 300 thiên (tức Kinh Thi), sau đó đính định Lễ thư (tức Kinh Lễ), Nhạc thư (tức Kinh Nhạc)”. Những năm cuối đời, Khổng Tử thích nhất là việc san định bộ Chu Dịch, tức là Kinh Dịch, ông ghi chú cẩn thận, xếp đặt lại cho có thứ tự, chú thích những chỗ khó hiểu. Ngoài việc san định Thi, Thư, Lễ, Nhạc, Khổng Tử còn viết sách Xuân Thu, ghi chép sử nước Lỗ thời Xuân Thu. Đây cũng chính là những nguồn tài liệu mà Khổng Tử dùng để giảng dạy cho học trò của ông. Sự nghiệp dạy học của Khổng Tử lại có quan hệ mật thiết với sự ra đời của cuốn Luận ngữ. Trong quá trình dạy học, những lời dạy học trò, lời đối đáp của Khổng Tử với đệ tử và giữa các đệ tử với nhau đã được môn đệ của ông ghi chép và biên soạn lại thành cuốn Luận ngữ. Đây là cuốn kinh điển “phản ánh tư tưởng giáo dục tiến bộ của Khổng Tử”. 14
  20. Tiểu kết chƣơng 1 Được ví là một trong những nền văn minh lớn của thế giới, Trung Quốc ở giai đoạn Xuân Thu đã có nhiều thành tựu nổi bật đánh dấu sự phát triển của đất nước. Về kinh tế đã có nhiều cải tiến trong công cụ sản xuất, từ những hòn cuội, hòn đá để đập vỡ hạt thì bây giờ người Trung Quốc đã sử dụng những công cụ bằng kim loại để trồng trọt, chăn nuôi. Về chính trị, sau khi vua nhà Chu qua đời, đã có nhiều biến động xảy ra. Với địa thế là một đất nước có diện tích lãnh thổ rộng lớn bật nhất thì việc các cuộc chiến tranh loạn lạc giữa các chư hầu nhằm xâm chiếm lẫn nhau để giành quyền cai trị đất nước xảy ra thường xuyên vào giai đoạn này. Điều nãy dẫn đến cuộc sống của người dân ngày càng khó khăn, đất nước thì tà đạo ngày càng nhiều. Sống trong xã hội loạn lạc, vô đạo của xã hội đương thời đã làm cho Khổng Tử sớm nhận thức và tìm ra con đường cải tạo xã hội bằng việc phải giáo dục, giáo hóa con người, đào tạo nên những con người đủ đức hạnh và tài năng để gánh vác trách nhiệm phục hưng xã hội. Điều này đã thúc đẩy Khổng Tử xây dựng nên học thuyết của mình để xây dựng một xã hội bình trị, quốc thái dân an. Khổng Tử được sinh ra trong một gia đình quý tộc sa sút nhưng ông đã có cơ hội thụ hưởng nên giáo dục quan học, văn hóa, đạo đức, nghi lễ do Chu Công xây dụng. Vốn là một người thông minh, hiếu học, tài năng, uyên bác, chứng kiến cảnh nước nhà như vậy, là một người yêu nước có mong muốn xây dựng xã hội quay về thái bình thịnh trị như thời vua Nghiêu, vua Thuấn thì Khổng Tử đã hiều rõ được vấn đề ngay bây giờ là phải giáo hóa người dân. Giáo dục cho họ về đạo đức, về chính trị, về lục nghệ để từ đó có thể tự mình xem xét, học hỏi và sửa đổi theo chính đạo. Là một người bắt đầu sự nghiệp học tập cũng như giảng dạy từ rất sớm, Khổng Phu Tử đã có được những tư tưởng sâu sắc về giáo dục. Từ đó những bài giảng, lời nói, những so sánh của ông đã có những tác động to 15
  21. lớn đến học trò, để sau này chính những người học trò đó đã góp công xây dựng nên một công trình học thuật có ý nghĩ- tác phẩm “ Luận Ngữ”. 16
  22. CHƢƠNG 2: MỘT SỐ TƢ TƢỞNG GIÁO DỤC CƠ BẢN CỦA KHỔNG TỬ Với Khổng Tử, giáo dục không chỉ là phương tiện đưa lại tri thức hay phương pháp mang đến kỹ năng mà còn là phương thức ứng xử, đạo làm người trong xã hội. Trong quá trình giảng dạy của mình cũng như trong tác phẩm Luận ngữ không có chia rõ cụ thể về: mục đích giáo dục, đối tượng giáo dục, các lĩnh vực giáo dục, phương pháp giáo dục, mà là do người thực hiện sử dụng để có thể nghiên cứu về tư tưởng. 2.1. Quan niệm của Khổng Tử về mục đích giáo dục Giáo dục là việc dạy dỗ con người tránh khỏi sự mơ hồ về thế giới xung quanh và chính bản thân chúng ta. Giáo dục biến con người tự nhiên thành con người xã hội, có năng lực nhận thức nhất định. Hoạt động giáo dục không chỉ đơn thuần diễn ra trong nhà trường, lớp học chính quy mà còn có thể tồn tại ở nhiều môi trường khác trong xã hội. Đặc biệt trong thời kì xã hội Khổng Tử đang sinh sống, xã hội loạn lạc, chiến tranh liên miên, các nước chư hầu thôn tính lẫn nhau làm cho trật tự xã hội bị đảo lộn, thì việc giáo dục con người như thế nào để có hiệu quả nhất là vẫn đề cấp thiết. Trước tình hình xã hội như vậy, Khổng Tử chủ trương tác động đến con người, làm cho con người thấu hiểu đạo lí, biết rõ quy luật xã hội, từ đó mới có thể xây dựng một xã hội trật tự, kỉ cương, “ quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử”, một xã hội thịnh vượng như thời trước. Vậy nên ông đặt vai trò của giáo dục là vai trò quan trọng và cấp thiết có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của xã hội. Mỗi người sinh ra bản chất đều gần giống nhau, nhưng do môi trường sống, cách giáo dục, thói quen, tập tục vùng mà ngày càng xa nhau. Khổng Tử cho rằng : “Tánh tương cận giã, tập tương viễn giã- Bản tính con người gần giống nhau, do tập nhiễm mới khác xa nhau”[16,tr.268]. Vì vậy môi trường sống và sự giáo dục đối với con người rất quan trọng nhất là nếu được giáo dục đúng cách từ khi còn nhỏ thì sẽ giáo hóa được những 17
  23. người tốt. Nếu ở trong gia đình được sự định hướng giáo dục tốt ngay từ khi còn nhỏ, sau này lớn lên sẽ xây dựng cho người đó một nền tảng tốt để đối mặt với xã hội ngoài kia. Lớn lên ở những môi trường khác nhau, trong sự giáo dục khác nhau thì sẽ tạo ra những con người với bản tính và trách nhiệm khác nhau. Mục đích giáo dục của Khổng Tử là nhắm khơi dậy bản tính ngay thẳng, vốn lương thiện của con người, đánh thức con người hướng đến con người toàn diện. Bên cạnh đó với ông việc giáo dục có mục đích để sửa mình và sửa người “Người quân tử không trang trọng thì không uy nghi, học tất không vững, chuyên chú vào sự trung tín, không kết bạn với người không trung tín như mình, có lỗi thì chớ ngại sửa đổi”. Với mục tiêu giáo dục để thành người quân tử, nên ông luôn lấy người quân tử làm hình mẫu để giáo dục người khác, đặc biệt với ông mục đích cao cả nhất của giáo dục là có thể tự sử mình, tự tu tâm dưỡng tính và đặc biệt là không ngần ngại sửa sang lại lỗi lầm của mình khi mắc phải sai phạm dù là nhỏ nhất. Với Khổng Tử, mục đích giáo dục không đơn thuần là cung cấp kiến thức mà còn là phương tiện giúp giáo hóa, hình thành nhân cách con người, cải tạo nhân tính giúp chúng ta trở nên tốt hơn. Giáo dục giúp mình tự soi xét được chính mình, tự sửa mình, trách mình và tự hoàn thiện mình. Và chính Khổng Tử là người đã đặt nền móng cho thuyết bản tính con người chia làm thiện và ác để sau này Mạnh Tử và Tuân Tử hình thành nên học thuyết của mình. Ông cho rằng, con người phát triển không phụ thuộc vào bản tính tự nhiên mà chủ yếu là do giáo dục và đặc biệt trong xã hội lúc bấy giờ thì mục đích giáo dục của ông cũng chính là giúp cải tạo nhân tính, sửa trị bản thân. Bên cạnh đó, mục đích giáo dục của ông là đào tạo những con người biết tòng chính, biết làm chính trị. Ông cũng đã xây dựng hình mẫu lý tưởng là người quân tử có nhiệm vụ cải tạo, phục hưng xã hội. Bởi vì, tại thời điểm ông sinh sống xã hội đang còn loạn lạc, chư hầu khắp nơi nổ ra 18
  24. những cuộc chiến tranh để nhằm thâu chiếm lẫn nhau nên thời điểm ấy ông muốn giáo dục nên những nhân tài làm chính trị để có thể thiết lập lại trật tự xã hội. Theo ông, để có thể ổn định lại xã hội, cần phải có những người vừa có đức vừa có tài và họ phải thực sự có sức mạnh và có quyền lực. Cho nên, Khổng Tử rất quan tâm dạy dỗ học trò của mình đạo của người quân tử. Dù không phải là người đầu tiên đưa ra khái niệm “người quân tử” nhưng đến thời ông, quân tử mới được xem không chỉ là người có địa vị xã hội mà còn là người có đạo đức nhân cách và có vai trò to lớn trong xã hội. “Đạo của bậc quân tử phải lấy sự tu tập lấy mình làm gốc, mình hãy tỏ ra cho dân thấy hẳn mình là bậc có đức hạnh”[46, tr.87]. Là một khuôn mẫu toàn diện, chính Khổng Tử đã dệt nên người quân tử phải có những phẩm chất mà người thường không có, đặc biệt đó là “sự tu tập, lấy mình làm gốc”, phải tự mình cố gắng, tự mình làm việc, tu sửa bản thân để ngày càng tốt hơn; và phải “lấy mình làm gốc” bản thân mình phải tốt, phải hoàn thiện, làm việc gì cũng đặt trọng tâm vào chính mình. Hay đạo của người quân tử phải có bốn điều cốt lõi : “phận làm con phải hiếu thuận với cha mẹ, phận làm tôi phải trung với vua, phận làm em phải kính nhường anh, phận làm bằng hữu phải ra tay giúp người”[46, tr.55]. Mặc dù với mục đích giáo dục để phục hưng xã hội, nhưng một mặt ông chủ trương phục hưng xã hội bằng những người được giáo dục và một mặt ông lại giáo dục những người đó theo khuôn mẫu trong quá khứ, thì điều này sẽ tạo ra một vòng tròn lặp lại. Nói tóm lại, mục đích giáo dục của Khổng Tử là để cải biến xã hội, giáo dục người phát triển toàn diện, dạy cho con người biết hiểu biết về đạo và hành đạo, đào tạo những người có kiến thức để tham gia vào hoạt động chính trị, và giúp con người có thể tu dưỡng nhân tính. 2.2. Quan niệm của Khổng Tử về đối tƣợng giáo dục Ở thời kỳ này, việc giáo dục đã bắt đầu đi vào hệ thống, Khổng Tử cũng như tất cả những nhà tư tưởng thời kì này đều hướng đến đối tượng 19
  25. cần phải giáo dục là chính con người. Khổng Tử chủ trương “hữu giáo vô loại”- có nghĩa là giáo dục, giáo hóa với tất cả mọi người mà không phân biệt loại người. Vì vậy một lần nữa khẳng định phạm vi giáo dục của ông không chỉ dừng lại ở các con em quý tộc quan lại mà còn bao gồm cả thường dân và nô lệ. Với mục đích là có thể giáo hóa tất cả mọi người trong thiên hạ thì điểm cốt lõi đầu tiên ông muốn đấy là có thể giáo dục hướng con người tới chỗ hoàn thiện (người quân tử). Trong sách Luận ngữ, có thể thấy, Khổng Tử chia xã hội thành nhiều hạng người. Ở góc độ tư chất, ông chia thành ba hạng người: Thượng trí, trung nhân và hạ ngu. Và đối với ông thì “trên từ bậc Thiên tử lần xuống chí hạng bình dân, ai ấy đều phải lấy sự tu tập lấy mình làm gốc”[46, tr.7] và muốn tu sửa bản thân để trở thành người có đức hạnh hoàn toàn thì trước hết phải giữ cái tâm cho chính, cái ý cho thành, rồi mới cách vật, trí tri được, mới hiểu rõ các sự vật và biết đến cùng cực cái biết. Trong sách Luận Ngữ ông có viết: “Trung nhân dĩ thượng khả dĩ ngữ thượng dã; trung nhân dĩ hạ bất khả dĩ ngữ thượng dã.”[45, tr.93]– Tức là “Người có tư chất từ bậc trung trở lên thì có thể giảng đạo lí cao xa cho được, từ bậc trung trở xuống, không thể giảng đạo lí cao xa cho được”[ 45]. Ý của ông ở đây không phải chỉ có những người trung nhân và thượng trí mới được giảng đạo lí cao xa còn những người còn lại thì không được giảng, mà ông muốn khuyên là không nên dạy vì nếu dạy người ta cũng không hiểu hết: “Đạo của người quân tử rộng lớn mênh mông mà cũng ẩn nhẹm hết sức. Dẫu cho hạng ngu phu ngu phụ trong xã hội cũng dự biết chút ít về đạo ấy. Mà biết cho cùng tột, ví dầu là thánh nhân cũng chẳng biết hết cho nổi”. Trong sách Luận ngữ, theo cấp bậc học tập Khổng Tử lại chia xã hội thành bốn hạng người: “Con người sinh ra, tự nhiên biết được đạo lý, đó là hạng người cao thượng. Cần phải học rồi mới biết, đó là hạng thứ hai. Tự mình ám độn, nhưng chịu khó học tập đạo lý, đó là hạng thứ ba. Đã ám độn mà chẳng chịu khó học tập, đó là hạng người đê hèn”[37] . Và 20
  26. nếu như trên thì số người cao thượng chỉ chiếm một lượng nhỏ nhoi trong xã hội- những thiên tài. Còn hạng thứ hai lại là hạng người chỉ cần học đến đâu hiểu đến đó để chỉ những kẻ thông minh với chỉ số thông minh cao. Còn hạng thứ ba dùng để chỉ những kẻ không biết gì nhưng chăm chỉ nỗ lực làm đi làm lại, nghiên cứu mày mò rồi cũng có chút thành tựu. Còn hạng cuối cùng là những kẻ đã chẳng biết gì còn lười biếng, không chịu tìm hiểu, học tập chứ không phải là không được giáo dục. Cho thấy ông không chê trách học trò không hiểu biết mà ông chỉ chê trách những người lười biếng, không chú tâm học hành. Đối với Khổng Tử, ông chia xã hội thành hai hạng người chủ yếu là : quân tử và tiểu nhân. Theo đó, quân tử là những người có địa vị, đức hạnh và có giáo dục bậc cao còn tiểu nhân là kẻ thấp kém, trí tuệ và đạo đức ít ỏi. Quân tử là hình mẫu lí tưởng cho việc giáo dục của Khổng Tử. Bên cạnh đó, Khổng Tử vẫn chỉ đề cập đến việc giáo dục nam nhân mà không đề cập đến việc giáo dục phụ nữ “Nếu sinh được con trai thì cho ngủ trên giường, cho mặc quần áo đẹp, cho chơi ngọc chương. Tiếng khóc vang vang lớn lên sẽ huy hoàng, là bậc quân vương thành gia lập nghiệp. Nếu sinh được con gái, cho ngủ dưới đất, cho quấn tá lót, cho chơi mảnh ngói. Lớn lên nhu thuận biết lễ nghi, lo cơm nước khéo việc nhà, không để cha mẹ lo lắng”[42, tr 910-941]. Trong xã hội bấy giờ thân phận người phụ nữ thấp hèn, bị xã hội coi thường, có lẽ bởi vậy nên họ ít có được cơ hội đi học hơn nam giới. Bên cạnh đó lúc này xã hội người giàu thì ít, người nghèo thì nhiều, dù cho Khổng Tử là người bảo “hữu giáo vô loại” thì cũng không phải ai, gia đình nào cũng đủ điều kiện để cho con cái đi học. Mặc dù không được đến trường đến lớp thì người phụ nữ vẫn được giáo dục ngay tại trong gia đình mình những việc làm. Là người đầu tiên đưa ra chủ trương hữu giáo muôn loại, mang kiến thức đến cho tất cả mọi người, đối với mỗi người ông lại có các kiến thức 21
  27. cũng như phương pháp dạy học khác nhau để giúp học trò có thể tiếp thu kiến thức được tốt nhất. 2.3. Quan niệm của Khổng Tử về các lĩnh vực giáo dục Trong quá trình thực hiện giáo dục, Khổng Tử không chỉ giảng dạy về một môn hay một lĩnh vực nhất định mà ông đã dạy cho học trò của mình nhiều nội dung quan trọng: từ đạo đức làm người, chính trị, cách học, cách dạy, cách kết bạn Nhưng cho dù ông dạy lĩnh vực nào cũng mang hết kiến thức có được của mình vào việc giảng dạy, mong cho học trò có thể hiểu, có thể biết, có thể làm và có thể hoàn thiện chính mình, góp phần xây dựng đất nước. 2.3.1. Giáo dục đạo đức Ngay từ đầu, Khổng Tử chủ trương dùng đức trị để cai trị xã hội nên nội dung giáo dục của ông phần lớn thường nghiêng về đạo đức và đạo lí làm người. Trong quá trình nghiên cứu nội dung giáo dục của ông, tôi nhận thấy rằng mặc dù ông là người chủ trương giáo dục toàn diện nhưng ông chỉ chú trọng nhiều đến đạo đức chính trị còn những lĩnh vực khác ông không quá đi sâu vào giáo dục. Trong nội dung giáo dục về đạo đức của mình, có thể nói Nhân, Lễ, Chính danh định phận là những nội dung cốt lõi mà ông đề cập đến. Với mục đích giáo dục đạo đức, nên trong các mối quan hệ khác nhau thì cách ứng xử lời nói đều phải tuân theo vai vế, tuân theo đạo tương xứng, phải “chính danh, định phận”. Khổng Tử cho rằng, mỗi vật, mỗi người sinh ra điều có một địa vị, công dụng nhất định. Ứng với mỗi địa vị, công dụng đó là “danh” nhất định. Vật nào, người nào trong thực tại điều có danh hợp với nó, nếu không danh sẽ không hợp với thực, là loạn danh. Chính danh là danh và thực phải phù hợp với nhau. Ông cho rằng, sở dĩ xã hội loạn lạc là do danh không phù hợp với thực, từ đó dẫn đến làm cho kỷ cương phép tắc đảo lộn. Muốn ổn định trật tự xã hội, Khổng Tử chủ trương phải giáo hoá đạo đức và thực 22
  28. hiện chủ nghĩa “Chính danh, định phận”. Danh và phận của mỗi người trước hết hết do xã hội quy định, Khổng Tử đã quy tất cả các quan hệ xã hội thành năm mối quan hệ cơ bản (Ngũ luân) như sau: Vua – Tôi: bề tôi phải lấy chữ trung làm đầu; Cha – Con: bề con phải lấy chữ hiếu làm đầu; Chồng – Vợ: vợ phải lấy tiết hạnh làm đầu; Anh – Em: phải lấy chữ hữu làm đầu; Bạn – Bè: phải lấy chữ tín làm đầu. Năm mối quan hệ này có tiêu chuẩn riêng: vua thì phải nhất; tôi thì phải trung; cha phải hiền từ; con phải hiếu thảo; phu xướng phụ tuỳ Trong năm quan hệ đó Khổng Tử nhấn mạnh ba quan hệ đầu là cơ bản nhất (Tam cương) cụ thể là: Vua – Tôi: vua là trụ cột; Cha – Con: cha là trụ cột; Chồng – Vợ: chồng là trụ cột. Theo Khổng Tử nếu không chính danh thì lời nói không thuận, lời nói không thuận thì việc làm không thành, việc làm không thành thì lễ nhạc không kiến lập được, không kiến lập lại được lễ nhạc thì hình phạt không đúng, hình phạt không đúng thì dân không biết đặt tay chân vào đâu. Cho nên, người quân tử đã dùng cái danh thì phải nói ra được, nói rồi tất phải làm được, vì thế người quân tử phải thận trọng với lời nói của mình. Nếu danh không chính, nói và làm không đúng theo chức phận của mình, “trên” không nghiêm “dưới” loạn, vua không ra vua, tôi chẳng ra tôi, cha không ra cha, chồng không ra chồng, vợ không ra vợ, Khổng Tử cho rằng , xã hội loạn là có nguồn gốc từ trên. Do vậy, ông rất đề cao tính tự giác của mỗi cá nhân trong việc giữ lấy cái danh phận của mình, bởi vì nếu mỗi người tự chính được bản thân mình thì không cần hạ lệnh mọi việc sẽ được tiến hành, nếu ngược lại dù có hạ lệnh cũng chẳng ai theo. Khi Tử Lộ hỏi về việc chính trị, Khổng Tử nói,: “muốn trị nước, trước tiên ắc phải sửa cho chính danh, vì nếu việc chính sự là ngay thẳng, cứ làm gương về sự ngay thẳng thì không ai không dám ngay thẳng nữa” [42]. Trong mối quan hệ vua- tôi, thì “Vua phải trọn đạo của vua, bầy tôi làm trọn đạo của bầy tôi”[21,tr.70]. Vua phải là người thương dân như con, chăm lo cuộc sống của người dân, đảm bảo nguồn sống cho người dân. Vua 23
  29. phải là người đức hạnh, chăm lo xã tắc thái bình thịnh trị như thế mới có thể có được lòng dân, mới có được niềm tin từ người dân. Theo ông, vua muốn dẫn dắt được cần phải có đức hạnh, học thức và quyền nghi. Bên cạnh đó người dân phải trọn đạo với về trên, trung thành, tin tưởng tôn kính và phải làm việc chăm chỉ để làm giàu giang san của vua, để có thể phụng sự vua lâu dài. Trong gia đình thì đạo cha- con, người cha phải “từ”, con phải “hiếu”. Theo Khổng Tử trong gia đình, người cha sẽ là hình mẫu là kiểu mẫu để người con noi gương, học tập theo. Vì vậy người cha trong gia đình luôn phải biết nhân từ độ lượng, dạy dỗ con cái mình. Còn người con thì có thể học tập từ cha mình, hiểu biết phép tắc lễ độ, hiếu thảo ngoan ngoãn với cha mẹ mình. Với ông, đạo hiếu là đạo quan trọng nhất đối với một người con trong gia đình. Và làm con phải phụng thờ cha mẹ theo Lễ: “Hễ làm con, khi cha mẹ còn sống, phải phụng sự cho có lễ; khi cha mẹ chết, phải chôn cất cho có lễ; khi cúng tế cũng phải giữ đủ lễ phép, nghiêm trang” [45, tr.17]. “Nhân” trong Luận Ngữ là phạm tù trung tâm trong nội dung giáo dục mà Khổng Tử đề cập đến. Mặc dù có nhiều người cho rằng “Lễ” mới là nội dung cơ bản trong quá trình giáo dục của ông. Những theo cá nhân tôi, cho rằng Nhân chính là nội dung giáo dục trọng tâm của Khổng Tử, bởi lẽ xét vào thời đại ông sống, chiến tranh loạn lạc, thôn tính lẫn nhau, người người mất hết nhân tính nên việc đầu tiên và quan trọng mà ông muốn đó là có thể giáo dục lại “Nhân” cho mọi người. Nhân vốn là một phạm trù đạo đức của quý tộc chủ nô thời Ân, Thương bao gồm nhiều nội dung như việc tuân theo ông cha, yêu thương con người, che chở quan tâm đến nhân dân nhưng những nội dung này chưa được xây dựng thành một hệ thồng chặt chẽ mà chỉ là những nội dung riêng rẽ. Khổng Tử đã kế thừa tư tưởng nhân của người trước đồng thời bổ 24
  30. sung thêm những nội dung mới trở thành phạm trù trung tâm bao trùm tất cả những phạm trù đạo đức khác. Trong Luận ngữ, khái niệm “Nhân” được Khổng Tử nhắc tới nhiều lần và tùy từng đối tượng, từng hoàn cảnh mà “Nhân” được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau. Theo nghĩa sâu rộng nhất “Nhân” là một nguyên tắc đạo đức trong triết học Khổng Tử. “Nhân” được ông coi là cái quy định bản tính con người thông qua “Lễ”, “Nghĩa”; quy định quan hệ giữa người và người từ trong gia tộc đến ngoài xã hội. “Nhân” có quan hệ chặt chẽ với các phạm trù đạo đức khác trong triết học Khổng Tử để làm nên một hệ thống triết lý nhất quán, chặt chẽ và do vậy, đã có người cho rằng, nếu coi các phạm trù đạo đức trong triết học Khổng Tử như những vòng tròn đồng tâm thì “Nhân” là tâm điểm, bởi nó đã chỉ ra cái bản chất nhất trong bản tính con người. “Nhân” cũng có thể hiểu là “trung thứ”, tức là đạo đối với người, nhưng cũng là đạo đối với mình nữa. Với mỗi đối tượng học, mục đích hướng đến giáo dục của đối tượng đó mà Khổng Tử dạy về Nhân khác nhau. Khi Nhan Uyên hỏi Khổng Tử về “Nhân”, Khổng Tử đã nói: “Sửa mình theo lễ là nhân. Ngày nào cũng khắc kỷ phục lễ, ngày đó mọi người trong thiên hạ tự nhiên cảm hoá mà theo về đức nhân. Vậy nhân là do mình, chớ há do người sao?”.Phàn Trì hỏi về đức Nhân (Phàn Trì là người có phần nặng về tư lợi, ít quan tâm nhiều tới người khác), Khổng Tử dạy ông rằng: “Nhân là thương người” [45, tr.193] ,– một học trò khác của Khổng Tử hỏi về “Nhân”, Khổng Tử cho rằng, những cái gì mà mình không muốn thì đừng đem thi hành cho người khác - đó là đức hạnh của người nhân . Còn khi Trọng Cung hỏi về “Nhân”, Khổng Tử giảng giải rằng, “Khi ở nhà thì giữ diện mạo cho khiêm cung; khi làm việc thì thi hành một cách kính cẩn; khi giao thiệp với người thì giữ dạ trung thành. Dẫu có đi đến các nước rợ Di, Địch cũng chẳng bỏ ba cái đó, như vậy là người có đức nhân” [45, tr.181]. Nhan Hồi vốn là một học trò có đức hạnh, được Khổng Tử 25
  31. đánh giá cao, khi nói về đức Nhân, Khổng Tử lại dạy rằng: “Hành nhân chính là khắc kỷ, phục lễ” [45, tr.181], nghĩa là phải chế ngự lòng tư dục, thuận theo lễ tiết, cái gì không hợp lễ thì đừng nhìn, đừng nghe, đừng nói và đừng làm. Như vậy, muốn có đức Nhân thì phải biết làm chủ và chế thắng lòng dục vọng của mình, không để các dục vọng ấy chi phối, làm băng hoại đạo đức con người. Ngoài việc dạy học trò như thế nào để có đức Nhân thì Khổng Tử còn khuyên răn học trò về những trường hợp không có đức Nhân. Ở thiên Học nhi trong Luận Ngữ, Khổng tử nói: “Nói năng khéo léo, nét mặt giả bộ niềm nở, hạng người đó ít có lòng nhân”[37 ]. Trong nguyên văn Khổng Tử dùng chữ: “xảo ngôn” bởi vì có thể nhận xét rằng những người xảo ngôn là người nói khéo, khéo đến mức không thấy được lời nói của họ là xảo trá, mà trái lại, họ sẽ cố gắng làm người khác tin tưởng họ. Người xảo ngôn cũng là người dẻo miệng, người lúc nào cũng lo trau chuốt sao cho lời nói bóng bẩy, bay bướm. Đó thường là người thiếu thành thật, là người chuộng hình thức và thường tìm mọi cách để che đậy những ý nghĩ xấu xa của mình. Bên cạnh những người xảo ngôn, ông cũng không đề cao những người có nét mặt giả bộ niềm nở, bởi vì những người như thế thường sẽ hay suy tính, suy đoán, bên ngoài thì hiền hậu nhưng bên trong lại gian ác. Vì vậy ông khuyên học trò nên tránh xa những người “xảo ngôn” và “lệnh sắc” bởi những người như thế nào thương là người mưu mô, xảo quyệt, sống không ngay thẳng. Bên cạnh việc “khắc kỷ”, người muốn có Nhân phải biết “phục lễ”, nghĩa là tuân theo lễ chế, quy định của xã hội. Như đã đề cập ở trên, bên cạnh việc giáo dục Nhân, Khổng Tử cũng đề cao giáo dục Lễ. Trong quan niệm của Khổng Tử, Lễ là quy tắc, là chuẩn mực để phân định giới hạn, Lễ để duy trì trật tự xã hội, xã hội có trật tự thì vua mới được tôn, mới trị được nước. 26
  32. Lễ còn được hiểu là những quy định về nghi thức tế lễ, với Khổng Tử khi tế lễ phải kính cẩn “Cư thương bất khoan, vi lễ bất kính, lâm tang bất ai, ngô hà dĩ quan tri tạng” nghĩa là bậc trên làm lễ phải nghiêm tức nếu không sẽ gặp việc tang. Bên cạnh đó ông còn đề cập đến nghi thức, nghĩa vụ, bổn phận của mỗi người khi tế lễ, ngay cả cách ăn mặc, trật tự tế lễ. Lễ là đường lối trị nước và luật lệ quốc gia. Lễ được vận dụng trong lĩnh vực chính trị còn có tên là đường lối trị nước gọi là Lễ trị. Lúc bấy giờ có hai quan điểm khác nhau về đường lối trị nước đó là Pháp trị và Lễ trị. Khổng Tử phê phán Pháp trị và đề cao Lễ trị. Khổng Tử cho rằng dùng đức và Lễ để trị nước thì có sức quy tụ lớn. Ông nói: “Lấy đức làm cơ sở cho chính sự thì như sao Bắc đẩu ở trên trời, chỉ đứng một chỗ mà các sao khác đều chầu về”. Phạm trù Lễ của Khổng Tử còn được dùng về phương diện phân tôn ti trật tự, tức là phép tắc để tổ chức luân lí ở trong gia đình, xã hội và quốc gia. Lễ là chuẩn mực đạo đức của con người trong xã hội. Mục đích cơ bản của Khổng Tử là xây dựng Lễ, xây dựng mẫu người có đạo đức nhân nghĩa mong muốn có một xã hội bình yên theo quan niệm của giai cấp phong kiến đương thời. Trước hết những quan hệ đạo đức đó được thể hiện trong gia đình, tế bào của xã hội mà trước hết là mối quan hệ với cha mẹ, bởi vì cha mẹ là người đầu tiên của các mối quan hệ xã hội. Con người dùng Lễ để đối đãi với nhau, xã hội cần có Lễ làm quy tắc, chuẩn mực để phân định giới hạn như phân biệt ranh giới vị trí vua tôi, trên dưới, lớn nhỏ. Bên cạnh đó, Lễ còn dùng để trị quốc, để quản lý các mối quan hệ từ trong gia đình tới ngoài xã hội. Theo Khổng Tử, bản tính con người vốn ngay thẳng, lành (dã trực), con người trở nên bất thiện là do con người không có Lễ, trật tự xã hội bị đảo lộn cũng do con người không tuân theo trật tự lễ pháp. Vì vậy, cần phải lấy Lễ để khiến hành vi của con người có chừng mực, để lúc nào cũng hợp với đạo trung dung. Như Khổng Tử dạy rằng: “Cung kính quá lễ thành ra lao nhọc thân hình; cẩn thận quá lễ thành ra 27
  33. nhát gan; dũng cảm quá lễ thành ra loạn nghịch; ngay thẳng quá lễ thành ra gắt gỏng, cấp bách” [45, tr.121] hay “Lễ là việc làm của con người, không có lễ, không có gì đứng vững được” [10, tr.336]. Như vậy, Lễ theo Khổng Tử, còn cốt để giữ chừng mực cho hành vi của con người trong xã hội, do vậy mà Lễ được coi như là tiêu chuẩn đạo đức để tu thân. Lễ còn được quy định cả những cách ứng xử của những người có chức, có quyền trong xã hội như trong quan hệ vua tôi Lễ giáo khuyên người ta trong quan hệ với bạn bè phải chân thành thân mật với nhau. Trên cơ sở những chuẩn mực đạo đức ấy mà con người điều chỉnh hành vi xử thế của mình trong các quan hệ cho phù hợp. Trong nội dung giáo dục đạo đức cho học trò, Khổng Tử còn dạy những chuẩn mực đạo đức: Trí, Dũng, Trung, Tín Theo Khổng Tử, nhân cách người quân tử là nhân cách lý tưởng, đó là sự thống nhất của Nhân, Trí và Dũng. Trí là biết mình, biết người, biết phân biệt đúng sai, hay, dở; Dũng là không sợ sệt, không sợ cường quyền, bạo lực; Trung là làm hết bổn phận của kẻ bề tôi đối với vua. Trung ở đây còn được hiểu là “trung thứ” tức là trung thành, thành thực với người, cư xử với người sao cho hợp với lòng mình. Khổng Tử từng nói: “Kỷ sở bất dục vật thi ư nhân” (Điều gì mình không muốn thì đừng làm cho người khác). “Trung thứ” là từ ta suy ra người, cho nên Khổng Tử khuyên người học lấy “trung thứ” làm phương pháp và con đường chủ yếu để đạt đến Nhân và khôi phục Lễ, đây cũng chính là nội dung tu thân mà ông quan tâm dạy cho học trò. Tín là một trong bốn đức cơ bản trong nội dung giáo dục của Khổng Tử “văn (học vấn), hạnh (đạo đức), trung (trung trực), tín” [25, tr.361]. Theo ông, “người quân tử là người có đạo đức đoan trang, uy nghiêm, nhất là trung và tín” [25, tr.203]. Như vậy, Trung và Tín cũng là những phẩm chất mà người quân tử cần có. Khổng Tử cho rằng: “Người mà không tín thật, ta không biết người ấy làm việc gì cho nên được” [25, tr.234]. Tín là cái đức cần có ở mỗi người trong quan hệ bằng hữu (bạn bè). Ông quan niệm rằng: “Giữ 28
  34. lòng trung tín làm chủ yếu. Không đánh bạn với người chẳng giống mình” [25, tr.415]. Điều này quả thật rất đúng, không nhất thiết phải là người quân tử nhưng điều chúng ta cần có trong cuộc sống là “tín” đấy là việc phải giữ đúng lời hứa hẹn, làm theo những gì mình đã nói chứ không phải là giả dối, gian trá, xảo quyết. Những người có thế giữ chữ Tín thường sẽ được mọi người tin tưởng tin cậy. Có thể nói Khổng Tử là một người coi trọng giáo dục đạo đức, thông qua những bài giảng của mình ông muốn nâng cao đạo đức của người học trò. Đặc biệt ông chú trọng giáo dục về các đức : Nhân, Lễ, Nghĩa, Tín , Trí , Dũng cho học trò. 2.3.2. Giáo dục về các kiến thức khác Bên cạnh việc giáo dục đạo đức, Khổng Tử còn giảng dạy nhiều kiến thức chính trị như: đạo trị nước, cách dùng người, Với mục đích giáo dục nhằm đào tạo những nhà cầm quyền, những người cai trị nên khi trao đổi, giảng giải cho học trò, Khổng Tử thường định hướng cho họ cách cai trị xã hội, cách làm chính trị. Khi trả lời Tử Lộ về cách cai trị, Khổng Tử bảo rằng: “Chính sự là làm những việc sao cho dân làm theo, chịu khó lo liệu, giúp đỡ dân” [25, tr.496]. theo Khổng Tử là người cầm quyền phải lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ, lo cho dân, bảo hộ dân, dạy dân, “dân đông rồi phải giàu, giàu rồi thì phải giáo hóa” [25, tr.504]. Theo Khổng Tử những người được giáo dục thì dễ sai bảo, dễ trị, nếu kết quả của sự giáo hóa dân được tốt thì nhà cầm quyền không phải làm gì mà vẫn cai trị được đất nước. Bên cạnh những nội dung giáo dục về đạo đức, kiến thức về chính trị, Khổng Tử còn khuyên học trò nên biết thêm về “lục nghệ”. Ngoài Lễ, và Nhạc, ông còn dạy cho học trò các môn như: Xạ (bắn cung), Ngự (cưỡi ngựa, đánh xe), Thư (viết chữ), Số (tính toán). Khi đã tinh thông “lục nghệ”, người học có được sự giáo dục đầy đủ cả lý thuyết lẫn thực hành, sẵn sàng đem sở học của mình để “kinh bang tế thế”. Ông khuyên học trò: “Trước hết hãy giữ các nết: hiếu, đễ, cẩn, tín, thương mọi người, mến bậc nhân, sau 29
  35. sẽ học sáu khoa: lễ, nhạc, xạ, ngự, thư, số” [25, tr.201]. Điều này chứng tỏ để học được những điều tốt đẹp thiên về tài năng thì trước hết chúng ta phải học làm người cho chính đã. Khi bàn về “ lục nghệ”, trong sách Luận Ngữ có nhiều chỗ Khổng Tử dạy Nhạc cho học trò, đặc biệt ở thiên “ Bát dật”. Khi bàn về Nhạc, Khổng Tử cho rằng : “ Thiều âm nhạc của vua Thuấn, hay tột bậc và lành cũng tột bậc” [25, tr.264], “ Phép tấu nhạc vốn không khó. Lúc mới khởi, nên cho các món nhạc trồi lên, mọi tiếng đều hợp tụ. Lúc mở rộng ra, cần cho các thứ tiếng đều thuần thục, tiếng nào phân minh theo tiếng ấy, rồi tiếng này liên kết với tiếng kia. Như vậy được thành một bản nhạc” [25, tr.261]. Bên cạnh đó ông còn dạy cho về Xạ( bắn cung) : “Bắn giỏi là bắn cho trúng cái đích ở trung tim, chứ chẳng cần bắn cho lủng tấm da; là vì sức của người ta chẳng đồng bậc với nhau. Đó là phép bắn của người xưa đã định như vậy” [25, tr.253]. Điều này cho ta thấy, Khổng Tử muốn nhắn nhủ, cho dù làm việc gì cũng phải cố gắng làm tốt nhất, đạt được kết quả cao nhất chứ nếu chỉ muốn đạt hay cho qua thì ai cũng làm được. Khổng Tử dùng phép Bắn cung mà giáo hóa học trò mình cố gắng. Mặc dù ông khuyên học trò học về “lục nghệ”, song ông lại cho rằng: “Lễ, nhạc, thư, số, xạ, ngự học cho biết thì tốt chứ không nên học chuyên làm lấy nghề, tức đánh xe mướn cho người, thì hèn”. Điều này chứng tỏ một điều rằng, trong suy nghĩ cũng như tư tưởng của mình, Khổng Tử luôn đề cao vấn đề đạo đức hơn những mặt hay những vấn đề khác. 2.4. Quan niệm của Khổng Tử về phƣơng pháp giáo dục Trong bất kì lĩnh vực nào, thì phương pháp để hoàn thành được mục tiêu đặt ra luôn là yêu cầu quan trọng mà chúng ta cần có. Trong lĩnh vực giáo dục cũng vậy, nếu có một phương pháp học tập hay phương pháp giảng dạy đúng đắn và phù hợp thì sẽ giúp chúng ta tiến bộ và nắm vững được rất nhiều kiến thức. Theo cá nhân tôi : “Bên cạnh một người thầy giỏi thì phải là một người học trò biết rõ mục đích việc học của mình là gì”. 30
  36. Người thầy giỏi ở đây không chỉ có nghĩa là người có kiến thức cao rộng, sâu sắc như thế nào, mà một người thầy giỏi còn chính là người có thể truyền cảm hứng học tập cho học trò, sau đó phải có một “phương pháp” riêng của mình trong quá trình truyền thụ kiến thức để bất kì học trò nào cũng thích nghe, cũng hiểu được kiến thức mình đã dạy. 2.4.1. Đối với ngƣời thầy Khi tìm hiểu sách “ Luận ngữ” ta mới thấy được Khổng Tử có cách dạy học đặc sắc như thế nào, ông không chỉ gói mình trong một phương pháp nhất định, hay ông không sử dụng những phương pháp của người xưa mà ông đan xen trong mình rất nhiều phương pháp giảng dạy mà đến tận sau này những phương pháp ấy được đánh giá cao và được khuyến khích sử dụng. Có lần Khổng Tử bảo với học trò Tử Cống rằng: “Ta nhờ để tâm quan sát, bắt một mối mà thông suốt tất cả”. Theo Khổng Tử, nhờ để tâm quan sát, hiểu được tâm tính người đời, nguyên nhân của hành vi, hiện tượng, mới có thể nắm bắt từ chỗ gần mà xét tới chỗ xa, nắm bắt từ ngọn mà đi tới gốc Khổng Tử luôn khuyến khích học trò phải biết suy nghĩ sâu sắc, tìm tòi cho sáng tỏ. Nếu học trò chưa khao khát muốn biết, chưa hổ thẹn vì không biết thì ông chưa dạy bảo. Khi học trò nôn nóng muốn học thì ông lại tùy tính cách và khả năng của từng người mà có phương pháp riêng. Rõ ràng, Khổng Tử luôn chú trọng đến sự nỗ lực, tính tích cực, tự giác của người học. Cách dạy của ông không gò bó, mà cốt ở sự chỉ dẫn, gợi ý cho người học để phát huy tính tích cực, tự giác của người học Phƣơng pháp dạy học bằng thuyết trình/ thuyết giảng Đầu tiên, ông dùng phương pháp thuyết trình- đây là phương pháp dạy học mà trong quá trình người thầy đóng vai trò như một người truyền giảng, người thầy sẽ dùng lời nói của mình để trình bày và giảng giải một vấn đề. Trong phương pháp này sự tương tác giữa người truyền giảng và người học rất ít- đây cũng là phương pháp tồn tại từ xa xưa, đến nay thì vẫn còn đang được sử dụng rộng rãi. Và có lẽ trong hầu hết các bài giảng của 31
  37. mình, chính Khổng Tử cũng vận dụng phương pháp này rất nhiều. Bởi lẽ trong luận ngữ, chúng ta luôn bắt gặp cụm: “Tử nói ”, hay “Khổng Tử nói ”, chứng tỏ trong quá trình giảng dạy ông đã phải nói rất nhiều, phải giải thích rất nhiều để khi mà học trò của ông có thể nhớ hết lời dạy và nội dung dạy học của ông. Trong quá trình diễn giảng, ông không chỉ đề cập riêng rẽ về lý thuyết suông đưa ra các ví dụ cụ thể, vẫn dụng Kinh Thi, Kinh Lễ, Tam tự kinh vào các vấn đề mà mình dạy ngoài ra ông còn giải thích vận dụng các lí thuyết đó vào từng vấn đề trong thực tiễn cuộc sống. Mặc dù trong quá trình diễn giảng chủ yếu chỉ là Khổng Tử nói và giải thích nhưng ông cũng rất để tâm, để ý tới sắc thái của học trò, khuyến khích học trò đặt câu hỏi, luôn luôn có ý mở hỏi han học trò. Với cách thức giảng dạy như vậy, ông đã khắc phục được hạn chế của việc thuyết minh trong giảng dạy là nhàm chán, chỉ có mỗi mình người dạy thuyết giảng, không có tương tác để ý đến người học. Nếu nói phương pháp thuyết mình là mô hình giảng dạy, trong đó người thầy là trung tâm truyền đạt kiến thức một chiều thì đối với Khổng Tử điều này không hoàn toàn chính xác. Trong quá trình giảng dạy của mình Khổng Tử không chỉ nói-nói-nói, mà khi ông trình bày một vấn đề gì thì luôn đi kèm những lời giải thích của mình. Khi giải thích về một vấn đề, Khổng Tử đưa ra những nhận xét những lí lẽ cá nhân của mình, nhưng được học trò ông ủng hộ và công nhận những điều chủ quan ấy. Chẳng hạn như ở thiên thứ I bài thứ 15, khi Tử Cống hỏi ông về nghèo- vui: Tử Cổng viết: “bần nhi vô siểm, phú nhi vô kiêu, hà như? Tử viết: Khả dã, vị nhược bần nhu lạc, phú nhi hiếu lễ giả dã Tử Cống viết: Thi vân: Như thiết như ta, như trác như ma – Kì tư chi vị dư? Tử viết: Tứ dã, thủy khả dữ ngôn Thi dĩ hĩ, cáo chư vãng nhi tri lại giả Dịch: - Tử Cống hỏi: Nghèo mà không nịnh, giàu mà không kiêu, hạng người đó ra sao? 32
  38. Khổng Tử đáp: Khá đấy, nhưng chưa bằng nghèo mà vui, giàu mà thích giữ lễ Tử Cống thưa: Kinh Thi có câu: Như cắt sừng bò, như giãu ngà voi, như đẽo ngọc đẹp, như mài đá quý. Ý nghĩa như vậy chăng? Khổng Tử khen: Tứ, như anh mới đáng cho ta giảng Kinh Thi cho. Vì bảo cho điều trước mà anh hiểu được điều sau”. Trong quá trình giảng dạy Khổng Tử không chỉ đơn độc trình bày quan điềm của mình mà ông còn gợi mở cho chính học sinh của mình để chính họ tìm ra những kiến thức mới. Qua việc thuyết giảng, ông còn tự tìm cho mình những người học trò ưng ý, tâm đắc. Phƣơng pháp hỏi- đáp, gợi mở. Phương pháp hỏi- đáp hay còn gọi là phương pháp vấn đáp, phương pháp đàm thoại hay phương pháp là phương pháp giảng dạy mà trong quá trình bài học, người thầy và người học luân phiên đặt câu hỏi, và trả lời cho vấn đề mình đang bàn luận đến. Với phương pháp này, người học và người hướng dẫn sẽ tích cực có sự giao lưu với nhau, tránh sự nhàm chán trong việc học. Bên cạnh đó, quá việc hỏi đáp, vấn đề càng ngày càng được đào sâu, và có nhiều cách nhìn, nhiều ý kiến về một vấn đề, chứ không phải cứ “ý kiến của giáo viên là luôn đúng, luôn là chuẩn mực”. Trong quá trình giảng dạy của mình phần lớn thời gian ông đều giành để trao đổi với học trò, ông hỏi- học trò trả lời, và ngược lại khi học trò hỏi, ông rất hào hứng trả lời. Với Khổng Tử việc học trò hỏi là một việc quan trọng. Ở thiên thứ IX bài 12, Tử Cống có hỏi thầy mình: Có viên ngọc đẹp ở đây, nên bỏ vào hộp mà cất đi hay cầu có thương nhân tốt mà bán đi? Thì Khổng Tử trả lời: “Bán đi chứ, bán đi chứ! Ta đợi có thương nhân đây”. Vào thời kỳ này, việc có ngọc quý ngọc đẹp như một phần thể hiện vị trí trong xã hội, lúc này Tử Cống hỏi thầy chứng tỏ ông rất coi trọng thầy và ông hiểu rằng ý kiến của thầy rất có lí. Trong phần hỏi đáp này của Khổng Tử và hoc trò là Tử Cống , hai thầy trò rất hiểu ý nhau, tựa như khi Tử Cống có trong mình 33
  39. băn khoăn, giữa việc lựa chọn, người xưa có câu: “Nếu xuất hiện một ý kiến khác thì chắc chắn bạn sẽ chọn ý kiến mới này, bởi nếu cái cũ đã tốt thì sẽ không có cái mới”, và khi Tử Cống đưa ra câu hỏi với hai sự lựa chọn là “cất đi” hay “bán đi” thì cả ông và Khổng Tử đều đã chọn là bán đi- Đây là sự hiểu ý nhau giữa thầy trò. Hay lần khác Tử Cống hỏi: “Có một câu cách ngôn nào có nghĩa tổng quát mà trọn đời mình có thể làm theo chăng?” Khổng Tử đáp: “Đó là câu cách ngôn về lượng thứ chứ gì? Việc gì mình không muốn, chớ làm cho người”. Khi học trò có những băn khoăn, những suy nghĩ không rõ thì Khổng Tử sẽ là người gỡ rối và giải đáp những thắc mắc ấy. Phương pháp hỏi- đáp được sử dụng như một phương tiện để kết nối giữa thầy và trò, nó như một sợi dây có thể kéo gần mối quan hệ giữa hai người. Qua cách hỏi và cách trả lời thì hai bên có thể hiểu được suy nghĩ, nội tâm của người đối diện, từ đó có thể hiểu rõ nhau hơn. Khổng Tử còn là một người thấy gì cũng hỏi: “Tử nhập Thái miếu, mỗi sự vấn” [45, tr.40], bản thân ông đã hiểu rõ tầm quan trọng của việc hỏi khi mình không rõ, không biết. Nên ông luôn muốn học trò có thể chăm chỉ học tập, đặt ra những câu hỏi, thường xuyên nêu ý kiến của mình để có thể được rõ được sâu hơn trong học tập. Bởi vì, có thể cùng một vấn đề, cùng một câu hỏi, những với mỗi đối tượng học trò ông lại có những câu trả lời khác nhau để phù hợp. Bên cạnh đó, ông còn cố gắng hỏi han tận tình sao cho học trò có thể dần dần gợi mở được vấn đề, hiểu được vấn đề. Như trong đoạn trích ở thiện thứ I, bài thứ 15, khi Tử Cống hỏi ông:“Bần nhi vô siểm, phú nhi vô kiêu, hà như?”- Tử đáp: “ Khả dã, vị nhược nhi lạc, phú nhi hiểu lễ giả dã”Tử Cống lại hỏi: Thi vân, như thiết như tha, như trác như ma- Kì tư chi vị dư? Tử đáp: Tú dã, thủy khả dữ ngôn Thi dĩ hĩ, cáo chư vãng nhi tri lai giả” Dịch là Tử Cống hỏi: Nghèo mà không nịnh, giàu mà không kiêu, hạng người đó ra sao? 34
  40. Khổng Tử đáp: Khá đấy, nhưng chưa bằng nghèo mà vui, giàu mà thích giữ lễ Tử Cống lại hỏi: Kinh Thi có câu : Như cắt sừng bò, như giũa ngà voi, như đẽo ngọc đẹp, như mài đá quý.- Ý nghĩa như vậy chăng? Khổng Tử khen: “Tứ, như anh mới đáng cho ta giảng Kinh Thi cho. Vì bảo cho điều trước mà anh hiểu được điều sau.” Đây há chẳng phải là sự hiểu ý lẫn nhau giữa trò và thầy qua phương tiện hỏi đáp hay sao? Rõ ràng bằng phương thức hỏi- đáp, người học có thể lĩnh hội được tri thức phù hợp với khả năng của mình. Trong quá trình này sự tương tác đó đã làm cho việc học trở nên thoải mái, không gò bó trong khuôn phép truyền thống là chỉ có người thầy nói mà học trò chỉ ngồi im, thụ động nghe. Vì vậy việc sử dụng phương pháp này trong học tập sẽ giúp cho người học dễ tiếp thu tri thức, phát huy được tính tích cực, chủ động của người học trước các vấn đề trong bài giảng, đồng thời có thể giúp người dạy hiểu được khả năng nắm bắt vấn đề, khả năng nhận thức của người học. Mặc dù vậy, trong quá trình dùng phương pháp này, thứ nhất người dạy phải có đủ kiến thức sâu rộng để bất cứ học trò hỏi câu nào cũng có thể trả lời; thứ hai, trong quá trình học, người thầy phải biết cách tổng hợp, khái quát và phải linh hoạt trong quá trình dạy học để có thể tổng quát lại tất cả các ý chủ chốt cho bài giảng. Cũng vì vậy trong quá trình giảng dạy, người thầy đóng vai trò rất quan trọng. Song song với phương pháp hỏi- đáp, trong quá trình dạy học Khổng Tử cũng thường xuyên dùng lời lẽ, câu hỏi gợi mở để dẫn dắt học trò đến với chân lý. Với phương pháp này, người thầy sẽ cố gắng dùng sự tinh táo, linh hoạt của mình hướng dẫn, để học trò tự khám phá, tự lĩnh hội từ đó tự mình hình thành hệ thống kiến thức cá nhân. Và trong quá trình giảng dạy, người học và người thầy sẽ cố gắng giao lưu thông qua các câu hỏi- câu trả lời, từ đó sẽ nắm bắt được vấn đề. Người thầy ở đây sẽ đóng vai trò là một người dẫn dắt chứ họ không thật sự sẽ tham gia vào quá trình, nếu ví 35
  41. việc học bằng phương pháp này là một câu chuyện thì người thầy chỉ đứng dẫn chuyện gợi mở dẫn dắt câu chuyện còn những người học trò sẽ là các nhân vật sẽ dựng lên cho câu chuyện nội dung nhưng tất cả đều sẽ xoay quanh sự dẫn dắt bởi người dẫn truyện. Trong quá trình Khổng Tử giảng dạy bằng phương pháp này, ông không chỉ gợi lên những vấn đề, những suy tư cho người học mà ông còn cố gắng gợi ra những ý nghĩ để học trò tự mình tìm được tri thức. Khổng Tử luôn luôn lắng nghe, để ý những ý kiến suy nghĩ của học trò để có thể giúp họ tư duy và lập luận theo hướng đi chính xác để đạt được kết quả tốt. Ông khuyến khích và ưa thích những học trò chăm chỉ, có cách tư duy độc lập, và đặc biệt mạnh dạn nói lên ý kiến của mình bởi với ông đó chính là cả quá trình người học trò của mình học tập và rèn luyện mới có thể đạt được chứ không phải tự nhiên mà có. Bởi vậy nên, ông rất khinh thường những kẻ chỉ biết ăn cắp ý tưởng lười suy nghĩ, lười động não tư duy- “Kẻ nào mà chẳng phấn phát lên để hiểu thông, thì ta chẳng giúp cho hiểu thông được. Kẻ nào chẳng ráng bày tỏ ý kiến thì ta chẳng khai phát cho được. Kẻ nào đã biết rõ một góc nhưng chẳng chịu căn cứ vào đó để biết luôn ba góc kia, thì ta chẳng dạy cho kẻ ấy nữa” [25, tr.347]. Chứng tỏ, ông là người coi trọng việc tư duy độc lập, tự suy nghĩ và còn mạnh dạn đưa ra ý kiến của mình bằng lời nói, còn những người chỉ biết ngồi im nghe giảng không hiểu cũng không hỏi, cũng chẳng nói lên suy nghĩ của mình thì ông không muốn giảng dạy cho nữa. Thông qua việc gợi mở những suy nghĩ, tư duy cho học trò Khổng Tử còn tự tìm cho mình những người học trò hiểu biết. Tử Hạ nói: “miệng xinh chum chím cười, mắt đẹp long lanh sáng, trên nền trắng vẽ màu sặc sỡ” nghĩa là thế nào?” Khổng Tử đáp: “ Có sắn nền trắng rồi sau mới vẽ”- Tử Hạ lại hỏi: “Nghĩa là, lễ phải ở sau (nhân) chăng? Khổng Tử nói: “Anh Thương phát khởi được ý ta, như anh mới có thể giảng Kinh Thi cho được” [25, tr.245]. 36
  42. Thông qua quá trình gợi mở, Khổng Tử giúp học trò của mình có thể tích cực suy nghĩ, động não làm cho tư duy ngày càng sâu sắc và khả năng diễn đạt ngày càng tốt hơn. Điều này thể hiện được ngay từ xưa, Khổng Tử đã rất coi trọng ý kiến của người học, thông qua suy nghĩ, cách diễn đạt, lối tư duy logic của mỗi người mà ông có thể đánh giá, nhận xét mỗi người sao cho chính, sao cho thuận. Mặc dù Khổng Tử đã vận dụng phương pháp hỏi đáp và phương pháp gợi mở thành công nhưng trong quá trình giảng dạy ông vẫn còn hạn chế ở chỗ ông vẫn còn đi sâu vào quá trình suy nghĩ của học trò. Tóm lại, qua quá trình hỏi đáp cộng hưởng với cách gợi mở của người thầy, có thể giúp người học không những tự khám phá những điều mình chưa rõ mà còn có thể tự khám phá ra được những năng lực cá nhân của bản thân. Qua việc tương tác giưa thầy và trò ngày càng sôi nổi, giúp cho quá trình học tập tư duy, tích lũy kiến thức không còn nhàm chán hay khô khan như trước. Phƣơng pháp dẫn luận Có thể nói, Khổng Tử chính là người sử dụng nhiều trích dẫn, đưa là nhiều nhân vật trong quá khứ cộng với lời nói của họ để giáo hóa học trò hoặc có thể lấy chính bản thân mình để làm ví dụ giảng dạy cho học trò. Trong Luận Ngữ, Khổng Tử thường trích dạy “gương” của người xưa, thông qua nhân cách của các bậc thánh hiền để giáo dục học trò như Đường Nghiêu, Ngu Thuấn, Văn Vương, Chu Công “Như có tài năng tốt đẹp như Chu Công, mà có tính kiêu ngạo, biến lận, thì những tài đức gì khác cũng không xét nữa.” Hay “Vua Văn Vương nhà Chu, cha vua Võ Vương được hai phần ba thiên hạ theo mình, thế mà vẫn phụng sự triều nhà Ân, vấn giữ ngôi chư hầu chứ không dành ngôi Thiên tử, đó là đức của ngài; đức ấy có thể gọi là chí cực đó” [45, tr.131] hay “ Ông Chu Công, em vưa Võ Vương, có công giúp vua Võ Vương lập ra nhà Chu ”[45, tr.295]; “Lớn thay, sự nghiệp làm vua của ông Nghiêu, ông Thuấn. Vòi vọi thay, 37
  43. chỏ có trời là vĩ đại và chỏ có vua Nghiêu là theo được trời. Lồng lộn thay, dân chũng không tìm được lời nào để khen cho đúng đức nghiệp của ông. Vòi vọi thya, sự thành công của ông, rực rỡ thya, lễ nhạc và chế độ của ông”. Dường như, Khổng Tử thường lấy gương những nhà hiền triết, bậc thánh nhân, những người không chỉ có quyền có tài mà đạo đức còn rất đáng khâm phục. Việc ông dùng trích dẫn gương người tốt việc tốt cũ để nhằm mục đich giáo hóa học trò, khuyên học trò nên theo gương người cũ để học tập, để ứng xử, rất có hiệu quả trong quá trình truyền dạy. Bởi ông không phải chỉ diễn suông bằng lời nói hay kinh nghiệm cá nhân của mình( rất chủ quan) mà ông đã dùng những lời lẽ, minh chứng của người xưa để bảo vệ cho những lập luận, lĩ lẽ đấy- rất thuyết phục. Một trong những điều xuất sắc mà Khổng Tử làm được là ,học trò của Khổng Tử không những ngưỡng mộ chính thầy mình có vốn tri thức lớn mà còn ngường mộ cả những bậc anh tài thời xưa. Chính qua những bài giảng của thầy mà học trò có thể biết thêm, tìm hiểu và nghiên cứu về những người thánh nhân này, vậy há chẳng phải rất thành công sao. Bên cạnh việc dẫn những gương bậc thánh, thì Khổng Tử còn thường trích dẫn những câu cổ ngữ, những dẫn luận trong Kinh thi, Kinh Lễ, và những lời nói ngắn gọn súc tích của những người hiền tài để giảng dạy. Như: “Cổ ngữ có câu: nếu bậc thiện nhân nối nhau trị nước được trăm năm, thì đủ khiên những kẻ tàn bạo hóa ra hiền lương và chính phủ chẳng dùng đến phép xử giết nữa. Lời ấy thật hay lắm” [45, tr.203] hay “ Tiết Quan Thư trong Kinh Thi có chép: Khái lạc mà không dâm dật, ai cảm mà không bi thương” [45, tr.43] hay “Ví như: Vua Thuấn có năm vị hiền thần mà thiên hạ được thái bình. Đến đời nhà Chu, vua Võ Vương nói rằng: “Ta có mười vị đại thần giúp ta mà bình trị thiên hạ” [45, tr.131]. Khổng Tử đã cung cấp nhiều phương pháp giáo dục có ý nghĩa cho việc giảng dạy. Qua đó cho thấy ông là người chú trọng sự đa dạng trong 38
  44. quá giảng dạy, luôn xem xét cẩn trọng những phương pháp phù hợp với kiến thức, đối tượng mà mình dạy. 2.4.2. Đối với ngƣời học Để thành công trong việc học tập, không chỉ cần một người thầy giỏi mà còn cần một người học trò biết học như thế nào cho tốt. Một người thầy không chỉ truyền dạy cho học trò mình kiến thức mà người thầy đó còn tạo cho người học trò của mình “ cái thú” hăng say học tập; tự tạo cho chính mình một phương pháp học riêng thì rất đáng ngưỡng mộ. Khổng Từ không những bàn về phương pháp dạy học cho một người thầy mà ông còn bàn luận về cả phương pháp học cho học trò. “Có học mới biết được đạo, sinh ra chưa biết” [40, tr.358]- theo ông trên con đường tìm đến tri thức không phải là khó khăn hay là không biết mà quan trọng bạn có chịu học và có học được hay không. * Học thì phải suy nghĩ Với Khổng Tử trong quá trình học tập thì không gì quan trọng hơn việc suy nghĩ, tư duy, cái quan trọng là trong đầu bạn nghĩ gì chứ không phải trong đầu bạn có gì. Ông cho rằng: “Học mà không suy nghĩ ắt mờ tối; suy nghĩ mà không chịu học thì nguy hiểm” [25, tr.227]- Với Khổng Tử việc được giảng dạy có được kiến thức mà không tự mình suy ngẫm về vấn đề, không tự mình nghĩ về vấn đề thì chắc chắn sẽ ngày càng mờ mịt. Nếu chỉ đọc qua mà không suy nghĩ thì não bạn sẽ ngày càng trì trệ đần độn dần, không còn nhanh nhẹn linh hoạt nữa. Còn nếu có suy nghĩ, bắc tay lên trán nằm nghĩ mà không bắt tay vào việc học hành đọc sách ghi chép nghiên cứu thì cũng vô dụng- Tất cả chúng chỉ nằm trong đầu thôi và tất cả cũng chỉ là suy nghĩ rồi một ngày nọ sẽ quên tất cả. Vì vậy Khổng Tử khuyên học trò phải vừa học kết hợp với suy nghĩ thấu đáo về vấn đề như thế. Ông cho rằng: “Người nào chẳng ra công tìm tòi, như làm việc chi, chẳng tự hỏi: tôi phải làm cách nào? Tôi phải làm sao? Người như vậy, ta cũng chẳng có cách gì mà chỉ bảo cho được” [25, tr.574] hay “Kẻ nào không phát phẫn để 39
  45. tìm hiểu thì ta không mở giảng cho; không ráng tỏ ý kiến (muốn nói mà không được) thì ta không khai phát cho. Ta vén cho một góc rồi mà không tự suy nghĩ tìm ra ba góc kia, thì ta không dạy cho nữa”. Điều này ông luận giải rất đúng, với người học thì việc tự mình tìm tòi, nghiên cứu, say sưa với việc học thì mới đáng được người thầy quan tâm, dẫn lối vì chính họ đã ý thức được việc học. Còn những người mà chỉ gắn mác người học nhưng trong đầu chả có gì, không chuyên tâm chăm chú nghiên cứu, tìm hiểu, chả chịu động não suy nghĩ bao giờ thì làm sao được người thầy coi trọng và giúp đỡ. Ở đây Khổng Tử mong muốn người học trò cần có ý thức tự giác, học cần phải có ý chí quyết tâm, kiên trì nhẫn nại mới thành công được. Làm cách nào ông có thể xác định được người học trò có suy nghĩ tự giác học hành? Đó là ở chỗ người học biết đặt câu hỏi, trong quá trình học thầy giảng bài thì biết nêu lên ý kiến riêng của mình. Muốn có được tri thức thì phải trải qua quá trình học tập, tu dưỡng đầy gian khổ, ở đó yêu cầu người học phải có sự nỗ lực bền bỉ, vượt khó khăn, học tập lâu dài, thì sau đó sẽ mang lại cho họ những điều tuyệt vời mà những người khác không thể có được. Để trở thành một người hoàn mỹ thì không chỉ có đạo đức tốt thôi chưa đủ mà phải có trình độ, có đầu óc thì mới không bị kẻ khác lợi dụng lòng tốt của mình để làm điều xấu được. Bên cạnh đó, ông khuyến khích mọi người phải học mọi nơi, mọi lúc, học ở tất cả mọi người. Ông chủ trương mọi người: “chọn điều lành, điều phải của người này đặng làm theo, xét điều dữ, điều quấy của người kia đặng sửa đổi lấy mình”. Loài người luôn được biết với sự tò mò và học hỏi cao nhất trên thế giới, nhưng không phát điều gì chúng ta cũng học, điều gì chúng ta cũng làm theo. Trong quá trình học tập, phải biết chọn lọc cho mình những điều thiện, điều tốt, tránh học theo cái xấu cái ác. Điều này được ông thể hiện rõ hơn ở việc, ông khuyên học trò của mình nên học tâp theo gương của những người hiền “Thấy người hiền thì mong làm sao bằng người; thấy người bất hiền thì phải tự xét mình( có mắc tật của người đó 40
  46. không) hay câu “Ba người cùng đi tất có người làm thầy ta; lựa cái hay của người này mà học, xét cái quấy của người kia mà sửa” [25, tr.395]. Ở chỗ này Khổng Tử chỉ ý định ba người, nhưng chúng ta có thể xét rộng hơn là một nhóm nhiều hon ba người, trong một nhóm đấy, thì phải cố gắng để ý và học tập những điều tốt đẹp mà sửa mình, còn những điều xấu xa thì cố gắng tránh đi. Ở đây ý như chọn bạn mà chơi, chọn người làm việc cũng như vậy. Chọn người hiền để học tập, nhưng cũng phải nhìn xuống những người khác xem họ có gì hơn mình không để còn làm theo, “Thông minh mà lại hiếu học, không thẹn hỏi người kém mình”. Mỗi chúng ta không có ai từ khi sinh ra đã hiểu đã biết hết tất cả mọi vấn đề trên thế giới, vì vậy cần phải có sự học tập, tìm và hỏi từ những người khác để càng ngày càng hoàn thiện hơn. Học tập không quan trọng người ấy phải giỏi giang tài giỏi xuất chúng mà tìm học ở người có tính tốt, học mà không thấy thẹn với người, không cảm thấy xấu hổ, chăm chỉ như vậy thì sẽ “thành người”. Ông khuyên răn học trò cố gắng tự mình tìm tòi học hỏi ở mọi người thì “không cô độc, tất có người đồng đạo kết bạn với mình như ở đâu thì có láng giềng ở đó”. Điều này quả thật rất đúng, khi mình tìm tòi, hỏi han về vấn đề chưa rõ thì người đối diện là một người thầy cũng như một người bạn mới của mình. Để sau này, có thể sẽ có những người khác tìm đến hỏi han mình về vấn đề cũ thì lúc đó mình chẳng phải sẽ có được nhiều người bạn đồng hành hơn sao. Là một người ham học và chăm học Khổng Tử là ví dụ điển hình cho mẫu người tam học. Ông luôn tìm đến những người tài giỏi về những lĩnh vực khác nhau để học hỏi như: tìm Sư Tưởng để học đánh đàn, tìm Đàm Tử để học ngoại ngữ, vào Thái miếu cũng hỏi. có lần Khổng Tử bảo học trò: “Ta biết có rộng không? Không. Có người nhà quê nào lại hỏi ta, ta vốn không biết gì cả, nhưng ta hỏi đầu đuôi( hoặc mặt trái mặt phải) mỗi nghi ngờ của người đó ( do đó mà hiểu được) mà giảng giải hết cho.” Ở đây ông muốn nhắn nhủ rằng, dù có là một người hiểu biết sâu rộng như thế nào, thì 41
  47. cũng có những việc, những vấn đề mà người ta chưa biết. Là một người chăm chỉ tìm tòi học hỏi thì có cái gì không biết thì sẽ hỏi ngay, bới chúng ta đâu phải người toàn diện, có những việc cần phải học hỏi, tích lũy mỗi ngày mới thành. Phƣơng pháp học đi đôi với hành Khổng Tử khuyến khích học trò học phải đi đôi với hành- nghĩa là học được gì thì phải cố gắng áp dụng nó để biến nó thành có ý nghĩa. Ông viết : “Học nhi thì tập chi, bất diệc duyệt hồ” [25, tr.196] tức là Học mà thường xuyền ôn tập những điều mình đã học há chẳng thích lắm sao? Hay “Như có ai đã đọc thuộc hết ba trăm thiên trong Kinh Thi, được bậc quốc trưởng trao quyền hành chính cho mình nhưng cai trị chẳng xuôi, được phái đi sứ ở các nước bốn phương, nhưng tự mình chẳng có tài ứng đối; người ấy dù học nhiều nhưng có biết dùng tài học của mình chăng” [44, tr. 201]. Theo Khổng Tử, trong việc học thì phải cố gắng thực hành được, nếu đem được những điều mình học được mà thực hành trong cuộc sống thì quả rất đáng để học. Phƣơng pháp học tập bằng cách ôn luyện Bên cạnh đó ông khuyến khích học trò của mình ôn tập lại cái cũ : “Người nào ôn lại những điều đã học, do nơi đó mà biết thêm những điều mới, người ấy có thể làm thầy thiên hạ đó” [25, tr.225], Khổng Tử rất lo người học không biết hướng vào quá khứ mà “ôn cố” để tìm lại những đỉnh cao cần đạt tới. Do vậy mà, ông thường khuyên học trò phải “ôn cố nhi tri tân”, tức là ôn lại cái cũ xưa để biết cái mới ngày nay và mai sau: “Mỗi ngày biết thêm những điều mình chưa biết, mỗi tháng không quên những điều mình đã biết” [45, tr.299]. Với Khổng Tử, ông không chỉ cho rằng việc ôn lại cái cũ chỉ để củng cố kiến thức cũ mà còn giúp mình tìm ra được thêm nhiều kiến thức mới từ việc ôn tập. Điều này quả thực rất đúng với việc không quan trọng bạn đọc được bao nhiêu, mà quan trọng bạn đọc nó bao nhiêu lần. Trong việc tích lũy kiến thức, không quan trọng bạn học 42
  48. qua bao nhiêu mà quan trọng bạn ôn tập lại nó bao nhiêu lần, bạn hiểu được nó tường tận như thế nào. Càng ôn tập, cái cũ càng nhuần nhuyễn, càng ôn tập cái mới sẽ xuất hiện. Ông chủ trương học ở mọi người: “chọn điều lành, điều phải của người này đặng làm theo; xét điều dữ, điều quấy của người kia đặng sửa đổi lấy mình” [45, tr.109] Có thể nói, phương pháp tự học mà Khổng Tử khuyên học trò nên làm theo rất chính xác. Bên cạnh việc nghe giảng từ người thầy thì lựa chọn áp dụng những phương pháp tự học phù hợp với chính mình cũng sẽ giúp người học tiếp thu thêm được nhiều kiến thức mới, đào sâu kiến thức cũ. Tiểu kết chƣơng 2 Khổng Tử không chỉ là nhà tư tưởng lớn của Trung Quốc mà còn là một người thầy trong lịch sử giáo dục của nhân loại. Ông đã để lại một hệ thống tư tưởng giáo dục hết sức phong phú đa dạng và có ý nghĩa sâu sắc đối với nền giáo dục không chỉ của Trung Quốc mà còn của cả thế giới. Dù trong quá trình giảng dạy Khổng Tử không chỉ ra cụ thể về logic trong tư tưởng của mình, nhưng qua tìm hiểu, tôi nhận ra được những mặt, những vấn đề như đã trình bày ở trên. Khổng Phu Tử là người thầy có sự sáng tạo độc đáo trong phương pháp dạy của mình, bên cạnh việc dạy lý thuyết- ông cũng đưa ra những tình huống giả dụ để học trò xử lí, thông qua quá trình hỏi- đáp, trao đổi thì người học trò lại hiểu sâu hơn về vấn đề Ông tập trung giáo dục học trò mình về Nhân, Lễ, Nghĩa, Tín, Trung, Hiếu để hoàn thiện đạo đức cá nhân; ông còn dạy cho học trò những kiến thứ về chính trị như đạo trị nước, cách làm chính trị hay cách dùng người; ngoài ra ông còn dạy cho học trò về cả lục nghệ : lễ, nhạc, thư, số, xạ, ngự. Đây đều là những kiến thức thiên về khoa học xã hội, còn ông hầu như ít đề cập đến kiến thức về khoa học tự nhiên và lao động sản xuất. Là một người thầy cũng như là một người đã trải qua quá trình học tập tự tích lũy kiến thức cho mình, ông cũng đã nêu 43
  49. ra những phương pháp học tập, cách tu thân, dưỡng tính để có thể trở thành một người có đạo đức, một người có trí tuệ. Có thế nói, mặc dù tư tưởng giáo dục của Khổng Tử còn chứa nhiều hạn chế nhưng cho đến ngày này, nó vẫn còn giữ nguyên giá trị đối với quá trình giáo dục và đào tạo con người. 44
  50. CHƢƠNG 3: GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ TRONG TƢ TƢỞNG GIÁO DỤC CỦA KHỔNG TỬ Có thể nói, Khổng Tử là người thầy đầu tiên trong lịch sử giáo dục Phương Đông, để từ đó những tư tưởng giáo dục của ông không chỉ mang lại nhiều giá trị lúc bấy giờ mà còn giá trị đến tận ngày nay. Bên cạnh những giá trị đem lại trong tư tưởng giáo dục của ông, thì vẫn còn đó rất nhiều hạn chế mà chúng ta cần phải xem xét lại và khắc phục. 3.1. Những giá trị trong tƣ tƣởng giáo dục của Khổng Tử Là một trong những nhà giáo đầu tiên xuất hiện trong lịch sử giáo dục, có thể nói Khổng Tử đã để lại nhiều tư tưởng giáo dục có giá trị. Thông qua quá trình nghiên cứu và tìm hiểu về hệ thống tư tưởng giáo dục của Khổng Tử, cá nhân tôi nhận thấy được những điểm có giá trị như dưới đây. Về đối tƣợng giáo dục Nếu như trong lịch sử trước thế kỷ VI tr. CN chỉ có những trường công lập mà đối tượng học chính là con em của tầng lớp quý tộc, vua chúa trong triều đình và cũng chưa từng có trường học nào thu nhận những người học từ tầng lớp bình dân dẫn đến việc bất bình đẳng xã hội thời kì này ngày càng sâu sắc hơn. Thì đến Khổng Tử, ông chủ trương “hữu giáo vô loại”- giáo dục, giáo hóa người mà không phân biệt hạng người. Ông là người đầu tiên mở trường tư dạy học có quy mô lớn với chủ trương giáo dục cho mọi hạng người trong xã hội. Vậy nên, đối tượng giáo dục của ông không chỉ dành cho quý tộc chủ nô, cho thương nhân giàu có, cho con em của vua chúa trong triều mà còn mở rộng đến toàn bộ người dân. Đây là một tiến bộ vượt bậc của Khổng Tử, khi mà ông nhận thấy rõ được hoàn cảnh xã hội lúc bấy giờ loạn lạc là do tâm tính con người biến đổi. Khi mà người không còn thương người mà chỉ nhằm giành được mục tiêu bản thân, khi mà lòng tham nổi lên, ai cũng muốn giành được quyền uy cai quản xã hội, và lúc đó nổ ra chiến tranh. Khi chiến tranh nổ ra giữa các chư hầu, lại 45
  51. tác động đến người thứ dân làm cho bản tính của họ cũng phải thay đổi. Vì vậy, ngay lúc này việc có thể giáo dục, giáo hóa tất cả mọi người để ai ai cũng có thể hiểu đạo, hiểu về Nhân, Lễ để từ đó thay đổi bản tính của mình, ép mình vào khuôn khổ thì xã hội ngày càng thịnh trị và thái bình. Với chủ trương giáo dục cho mọi hạng người, như thế này sẽ mở mang dân trí cho dân chúng để họ dần dần hiểu được đạo lý và khi hiểu được người ta sẽ dễ theo con đường chính đạo, mới thực hành theo những gì đã được dạy, được học. Đây chính là điều mà tất cả những nhà tư tưởng ở mọi thời đại đều mong muốn. Với chủ trương giáo dục cho tất cả mọi người nhưng không phải ai ông cũng dạy cùng một bài giảng cùng một kiến thức. Ông đã chia người học của mình ra thành nhiều đối tượng khác nhau: thượng trí, trung nhân, hạ ngu, hay quân tử - tiểu nhân , đối với mỗi đối tượng thì ông lại có nội dung giảng dạy và phương pháp khác nhau. Đối với mỗi người thì trình độ nhận thức, khả năng tư duy sẽ khác nhau, với những người thông minh học nhanh hiểu rộng không thể mãi chỉ dạy những bài cơ bản được, còn những người kém hơn thì không thể dạy cho những điều cao siêu được. Nên trong giáo dục cần phải có sự phân chia đối tượng để có thể giáo dục đúng trình độ, năng lực, khả năng của người học. Với những đối tượng khác nhau, người thầy vẫn luôn dành sự quan tâm, giáo dục, chỉ bảo thì sẽ làm cho người học ngày càng hấp dẫn bởi kiến thức; ngày càng phát triển hơn. Bên cạnh đó, trong giáo dục, ông cũng không phân biệt tuổi tác, già - trẻ, lớn - bé; ông đều nhận làm học trò của mình. Không chỉ những người trẻ tuổi mới cần được giáo dục mà ngay từ những người lớn, người già chính họ phải là những người đáng được giáo dục đầu tiên. Từ xưa đến nay, trong xã hội người trẻ luôn luôn thừa hưởng sự chỉ bảo, dạy dỗ của người lớn. Vì vậy, khi đã giáo dục được người lớn, người già trong gia đình, xã hội thì chính những người này, họ sẽ là người hướng dẫn những bước đầu 46
  52. tiên cho những người con, người cháu, người trẻ trong gia đình. Từ đó có thể hướng người trẻ đi theo con đường chính đạo không lâm vào sai trái. Một lần nữa, có thể khẳng định, tư tưởng đưa giáo dục đến với mọi người , đảm bảo sự bình đẳng trong việc tiếp cận giáo dục của người dân, là một tư tưởng tiến bộ vượt trước thời đại của mình và có giá trị cho đến ngày nay. Ngoài ra trong giáo dục phải xem xét đến số tuổi, tính cách, năng lực tiếp thu, thể lực của người học, bởi khả năng tiếp thu không phải là năng lực có tính đồng đều ở mọi người học, vì vậy sự giáo dục phải được tiến hành qua từng giai đoạn, có chương trình giảng dạy phù hợp tương ứng. Như vậy, tư tưởng giáo dục của ông đặt ra một vấn đề mà giáo dục ở thời đại nào cũng cần quan tâm là làm thế nào để con người có thể tiếp nhận sự giáo dục một cách tự nhiên, phù hợp với tư chất, năng khiếu tự nhiên của mỗi người. Về mục đích giáo dục Một trong những mục đích giáo dục quan trọng của Khổng Tử đó là giáo dục để đào tạo những người phát triển toàn diện. Khổng Tử luôn hướng đến xây dựng mẫu người lý tưởng hội đủ “Nhân, Trí, Dũng”; đó là những người quân tử tài đức vẹn toàn, với vai trò quan trọng là lập lại trật tự, kỷ cương xã hội, xây dựng một xã hội vinh phú. Ngoài việc giáo dục cho học trò nhân, lễ, nghĩa, trí, dũng thì ông còn dạy cho học trò về chính trị về lục nghệ. Với việc hướng tới đào tạo phát triển toàn diện, không chỉ giúp học trò nắm vững được những kiến thức cần có để trở thành một người tốt, một người hành đạo tốt; mà còn giúp cho người học trò có thể tìm ra cho mình những sở thích, những đam mê mà cá nhân người học thấy yêu thích. Điều này sẽ giúp người học có thể nâng cao trình độ cũng như kỹ năng trong cuộc sống, giúp người học có thể tự phát triển bản thân tốt hơn. 47
  53. Khổng Tử cho rằng giáo dục nhằm mục đích cải tạo nhân tính, cải tạo đạo đức con người. Bởi lẽ ông cho rằng bản tính tự nhiên của con người là gần giồng nhau, nhưng do chịu môi trường sống, tập tính sinh hoạt, sự giáo dục mà thành ra khác nhau. Vì vậy, có thể thừa nhận rằng bản tính con người có thể biến đổi từ thiện thành ác, và ngược lại, để có thể cải biến được bản tính con người thì Khổng Tử đề cao quá trình giáo dục. Điều này hoàn toàn chính xác, bởi thông qua giáo dục, ngay từ đầu người thầy có thể hiểu được bản thân người học trò của mình là như thế nào, để có thể sử dụng những phương pháp, bài giảng phù hợp với từng đối tượng. Như vậy chứng tỏ điều quyết định sự phát triển của con người không phụ thuộc và bản tính tự nhiên mà phần lớn là do giáo dục. Thông qua giáo dục con người có thể tự tìm hiểu chính mình, từ đó có thể rèn luyện bản thân để trở nên tốt đẹp hơn. Nhân tính ở đây chính là lòng yêu thương, quý mến người khác. Chúng ta không chỉ là một cá thể sống độc lập trong thế giới rộng lớn này, mà trong quá trình sinh sống tiếp xúc với nhiều người từ đó sẽ nảy sinh nhiều vấn đề xảy ra. Vì vậy, chúng ta nên đối xử với nhau tốt hơn, yêu thương, đùm bọc, quan tâm đến nhau nhiều hơn và có thể giúp đỡ nhau ngày càng phát triển và hoàn thiện. Ông khẳng định rằng giáo dục là cơ sở nhằm cải biến xã hội. Vào thời Xuân Thu loạn lạc, Khổng Tử chủ trương nhờ giáo dục để giáo hóa con người cải biến xã hội nên ông đặc biệt quan tâm đến việc dạy đạo đức, đạo lý cho người người từ đó để xây dựng một xã hội có đạo, có trật tự, kỷ cương. Mục đích của giáo dục là nhằm tác động đến con người để cải tạo xã hội, xây dựng xã hội phát triển. Ông mong muốn thông qua giáo dục có thể gây dựng lại một xã hội ổn định, thái bình, thịnh trị hay nói cách khác, giáo dục là cơ sở để cải biến xã hội. Điều này quả thật rất chính đáng, bởi lẽ ở thời điểm xã hội loạn lạc bất ổn , người người tranh giành cướp bóc lẫn nhau, chư hầu nơi nơi gây ra chiến tranh chết chóc, thì việc đạo đức của 48
  54. người dân ngày càng kém. Người dân chỉ quan tâm đến lợi ích cá nhân mà bỏ quên cộng đồng bỏ mặc đồng loại. Thông qua giáo dục người dân về đạo đức về đạo lý để họ có thể quay trở về là người lương thiện, nhận thức được trách nhiệm của bản thân, phải “tu thân”, “tề gia”, sau đó “trị quốc” và “bình thiên hạ”. Để xây dựng được một đất nước phát triển, thì điều đầu tiên là người dân của quốc gia ấy phải tự mình hiểu rõ được nhiệm vụ và vai trò của chính mình. Thông qua việc giáo dục không chỉ giúp người học hoàn thiện bản thân mình, mà còn cung cấp cho người học những kiến thức về chính trị, về xã hội, về ngoại giao để từ đó người học có thể đóng góp sức lực của mình vào quá trình xây dựng xã hội. Khi cuộc sống người dân ngày càng tốt đẹp thì đất nước sẽ ngày càng giàu mạnh, phát triển và văn minh. Khổng Tử đã nhìn ra được vai trò của giáo dục, chính giáo dục là một trong những nhân tố góp phần làm động lực cho sự phát triển ổn định của quốc gia, của đời sống xã hội. Về phƣơng pháp giáo dục Khổng Tử là người thầy có phương pháp giảng dạy đa dạng và phong phú. Nhắc đến phương pháp giảng dạy của ông có thể kể đến: phương pháp thuyết giảng, trao đổi tranh luận, nêu gương người xưa, phương pháp hỏi đáp, gợi mở, phương pháp giảng dạy dựa trên những tình huống có thật. Tùy vào tố chất, đức hạnh và khả năng của mỗi người học trò mà Khổng Tử tự có lựa chọn phương pháp giáo dục phù hợp. Ông là người thầy có đầy đủ khả năng, trình độ trí tuệ, đặc biệt là có phẩm chất đạo đức đáng quý. Ông cũng cho rằng mỗi người thầy phải là một tấm gương đạo đức, tự học và sáng tạo, không ngừng học hỏi, rèn luyện tích lũy kiến thức. Trong quá trình học tập giảng dạy, không còn việc người thầy chỉ sử dụng đơn nhất một phương pháp mà người thầy cần biết vận dụng kết hợp linh hoạt các cách dạy khác nhau để giúp người học có thể tiếp thu vấn đề 49
  55. theo nhiều hướng. Với việc sử dụng kết hợp nhiều phương pháp học sẽ làm cho buổi học thú vị và hấp dẫn hơn, trong đó sự tương tác giữa thầy và trò sẽ nhiều hơn, từ đó sẽ giúp người học không cảm thấy việc học là nhàm chán, áp lực hay quá khô khan. Việc sử dụng phương pháp trao đổi, tranh luận, với phương pháp này, người học có thể lĩnh hội được tri thức một cách chủ động, đáp ứng được yêu cầu và lợi ích của mình đưa ra. Đây là phương pháp mà người học đóng vai trò là trung tâm, qua đó có thể khơi gợi khả năng tư duy, coi trọng nội lực của người học, phát huy được tính tự giác, tích cực, chủ động của chủ thể người học. Để sử dụng phương pháp này trong giảng dạy thì đòi hỏi người thầy phải có sự hiểu biết sâu rộng trên nhiều lĩnh vực và phải có khả năng tổ chức, hướng dẫn quá trình học tập và xử lý những vấn đề mà người học đặt ra. Phương pháp mà Khổng Tử sử dụng với tần suất khá nhiều là phương pháp đàm thoại gợi mở. Phương pháp này vừa có thể phát huy được vai trò chủ động của người học vừa tạo nên môi trường giáo dục thân thiện, đảm bảo được sự tương tác giữa thầy và trò, kết nối người học tới những gì lớn hơn cái mà người ta nhìn thấy được. Ngoài ra phương pháp này còn giúp người học rèn luyện được khả năng tư duy, năng lực tự tìm tòi suy nghĩ của bản thân, từ đó giúp họ có khả năng logic và giải quyết vấn đề tốt hơn. Ngày nay, nhiều phương pháp dạy học hiện đại ra đời, chẳng hạn dạy học trực tuyến gắn với giáo dục số, thiết bị số Đây là một hình thức mới của phương pháp đàm thoại. Nếu như trong quá khứ thì phương pháp này được thực hiện trực tiếp, mọi người quây quần bên cạnh nhau cũng bàn luận thì bây giờ thông qua công nghệ - điện tử phương pháp này được nâng cao Ngoài ra, phương pháp hỏi – đáp, phương pháp dạy học thông qua tình huống có thật là những phương pháp dạy học có giá trị và mang tính thực tiễn cao, giúp người học cảm thấy việc học không mơ hồ, không nặng 50
  56. nề về lý thuyết trừu tượng. Đây là những phương pháp dạy học trong giáo dục hiện đại nhưng kỳ thực nó đã được Khổng Tử sử dụng trong quá trình dạy học. Ngày nay, các phương pháp dạy học này vẫn được sử dụng và đánh giá cao trong thực tiễn giáo dục. Đặc biệt, phương pháp dạy học thông qua tình huống có thật nên được áp dụng rộng rãi trong dạy học nhằm để giúp người học hình thành kỹ năng giải quyết vấn đề liên quan đến cuộc sống của họ, góp phần xây dựng con người năng động, nhạy bén đáp ứng với yêu cầu của đất nước trong thời kỳ hội nhập và phát triển. Trong tư tưởng giáo dục của Khổng Tử ông không chỉ đề cập đến phương cách giảng dạy của người thầy mà ông còn đưa ra những gợi ý về cách học cho người học trò định hướng cách học cho học trò để có thể thu nhận kiến thức tốt hơn và hoàn thiện bản thân hơn. Khổng Tử là tấm gương học tập không biết mỏi mệt, không ngừng nghỉ và lúc nào cũng sẵn sàng tâm thế học tập với mọi người, học ở mọi lúc, mọi nơi. Vì vậy ông đã đưa ra một số định hướng về cách học cho người học như: học đi đôi với hành; học phải suy nghĩ; học cũ để biết mới; học ở mọi nơi mọi lúc; học bằng cách hỏi; học phải kiên trì, phải vui học và tự học Tất cả những phương pháp học này đều mang lại hiệu quả rất tốt trong quá trình học tập. Phương pháp học đi đôi với hành sẽ cung cấp cho người học không chỉ những kiến thức lý thuyết mà từ đó còn có thể vận dụng áp dụng vào thực tế. Để thực hành được thì trong quá trình học cần phải suy nghĩ, học cũ để biết mới thì sữ giúp người học có thể tự mình đào sâu tìm hiểu kiến thức. Trong quá trình suy nghĩ, ôn lại kiến thức cũ sẽ càng làm cho chúng ta hiều vấn đề sẽ suy nghĩ nhiều hơn đến vấn đề từ đó có thể sẽ xuất hiện nên những kiến thức mới mà tự ta tìm ra được. Điều này một lần nữa khẳng định việc học không chỉ khô khan lý thuyết mà nó có tác dụng thực hành thực tế giúp phát triển con người nhằm cải biến xã hội. 51
  57. Phương pháp học thì phải kiên trì, học mọi nơi mọi lúc- đây là một lời khuyên rất chính xác. Việc học là một quá trình gom nhặt, tích lũy kiến thức lâu dài chứ không phải là trong một hay hai ngày vì vậy trong quá trình học có lúc chúng ta sẽ cảm thấy khó khăn rồi lùi bước. Vậy nên cần phải cố gắng, nỗ lực kiên trì phải có sự kiên định với việc học thì mới có thể kinh qua những trở ngại trong quá trình học. Thông qua việc học, người học có thể rèn luyện cho mình tính kiên nhẫn kiên trì, chăm chỉ- điều này quả thật rất có ý nghĩa. Học không chỉ mỗi trên lớp, trên giảng đường mà còn phải học mọi nơi mọi lúc, tự mình học hỏi những gì mình chưa biết, tích lũy nhiều kiến thức cho bản thân, từ đó ngày càng hoàn thiện chính mình. 3.2. Những hạn chế trong tƣ tƣởng giáo dục của Khổng Tử Một học thuyết trong quá khứ dù có xuất sắc đến mức nào cũng không thể nào luôn đáp ứng được nhu cầu phát triển của xã hội. Vì thế, mặc dù tư tưởng giáo dục của Khổng Tử để lại rất nhiều giá trị cho thời đại, nhưng trong chính những tư tưởng ấy vẫn còn nhiều điểm hạn chế. Về mục đích giáo dục Hạn chế đầu tiên trong tư tưởng giáo dục của Khổng Tử đó chính là việc ông hướng tới mục tiêu là đào tạo người quân tử, điều này cũng đồng nghĩa với việc trong đối tượng giáo dục của mình ông chú trọng đào tạo những người đàn ông. Theo cá nhân tác giả, điều này chứng tỏ một điều rằng, Khổng Tử cho rằng chỉ có những người nam giới mới có thể ra làm quan xây dựng, cải tạo và cai trị xã hội. Thứ hai, Khổng Tử cho rằng thông qua giáo dục ông có thể cải tạo xã hội, và xã hội mà ông hướng đến là cải lương quay lại xã hội cũ xã hội của các vua nhà Chu thái bình thịnh trị, nhưng trong quá trình giáo dục của mình ông không thể hoàn thành được mục tiêu đã đặt ra. Với Khổng Tử, ông luôn muốn giáo dục người tài để họ có thể ra làm quan, làm chính trị, tham gia quản lý xã hội. Ông cho rằng ở thời điểm 52