Khóa luận Tự chấp nhận của sinh viên Khoa Tâm lý học Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh

pdf 93 trang thiennha21 16/04/2022 4571
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Tự chấp nhận của sinh viên Khoa Tâm lý học Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfkhoa_luan_tu_chap_nhan_cua_sinh_vien_khoa_tam_ly_hoc_truong.pdf

Nội dung text: Khóa luận Tự chấp nhận của sinh viên Khoa Tâm lý học Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh

  1. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng dẫn khoa học của Th.S Đinh Thảo Quyên - Giảng viên Khoa Tâm lý học Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh. Các dữ liệu và kết quả trình bày trong khóa luận là trung thực và chưa từng công bố trong bất kì công trình nào khác. Tác giả khóa luận Lê Thị Toàn 1
  2. LỜI CẢM ƠN Tôi xin gửi lời tri ân chân thành tới Th.S Đinh Thảo Quyên – người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực hiện nghiên cứu, đặc biệt là sự đóng góp những ý kiến giúp tôi có thể hoàn thành khóa luận một cách trọn vẹn nhất. Cùng với đó, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới các Thầy, Cô Khoa Tâm lý học Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình học tập và thực hiện khóa luận. Qua đây tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến tập thể các bạn sinh viên Khoa Tâm lý học đã luôn sẵn lòng và tích cực hỗ trợ tôi trong quá trình tiến hành nghiên cứu thực tiễn giúp tôi thu thập được những số liệu định lượng và định tính quan trọng để có thể hoàn thành khóa luận tốt nghiệp. Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến những người cô, người bạn và gia đình đã luôn hiện diện và ủng hộ tôi thời gian qua để tôi vững vàng hơn trong việc hoàn thành đề tài nghiên cứu của mình. Trong giới hạn về khả năng và phạm vi nghiên cứu của đề tài, tôi vẫn còn nhiều thiếu sót nên rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của quý Thầy, Cô để tôi có thể hoàn thiện và phát triển đề tài về sau. Một lần nữa, tôi xin chân thành cảm ơn! Sinh viên Lê Thị Toàn 2
  3. DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT STT Chữ viết tắt Nội dung viết tắt 1 ĐLC Độ lệch chuẩn 2 ĐTB Điểm trung bình 3 ĐRL Điểm rèn luyện 4 ĐHSP TP.HCM Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh 3
  4. DANH MỤC BẢNG Bảng 2.1. Phân bố mẫu nghiên cứu 44 Bảng 2.2. Phân chia mức độ tự chấp nhận dựa trên giá trị trung bình 47 Bảng 2.3. Hệ số tin cậy của thang đo 47 Bảng 2.4. Mức độ tự chấp nhận của sinh viên Khoa Tâm lý học Trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh 48 Bảng 2.5. Một số khía cạnh nổi bật trong tự chấp nhận của sinh viên Khoa Tâm lý học Trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh 50 Bảng 2.6. Điểm trung bình về tự chấp nhận giữa các giới tính 53 Bảng 2.7. Điểm trung bình về tự chấp nhận giữa các năm học 54 Bảng 2.8. Điểm trung bình về tự chấp nhận giữa các học lực 54 Bảng 2.9. Điểm trung bình về tự chấp nhận giữa các kết quả rèn luyện 55 Bảng 2.10. Các chủ đề sinh viên tự chấp nhận cao 56 Bảng 2.11. Các chủ đề sinh viên tự chấp nhận thấp 57 Bảng 2.12. Các yếu tố tác động đến tự chấp nhận 59 4
  5. DANH MỤC BIỂU ĐỒ Bảng 2.1. Phân bố mức độ tự chấp nhận của sinh viên Khoa Tâm lý học Trường ĐHSP TP.HCM 49 Biểu đồ 2.2. Phân bố lựa chọn cho mệnh đề “Khi quyết định đặt mục tiêu cho chính mình thì việc cố gắng để đạt được hạnh phúc quan trọng hơn là cố gắng để chứng tỏ bản thân” 51 Biểu đồ 2.3. Phân bố lựa chọn cho mệnh đề “Tôi nghĩ rằng ai thành công trong những việc họ làm là người có giá trị đặc biệt” 52 5
  6. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Những thay đổi nhanh chóng trong sự biến động của văn hóa – xã hội tác động không nhỏ đến những cảm nhận của đời sống con người. Con người dễ rơi vào bế tắc, khủng hoảng và gặp những rối nhiễu tâm lý hơn khi tự mình họ không chấp nhận được thực tại. Với những khó khăn gặp phải, những thất vọng, những oán trách, mỗi người có thể mơ tưởng một thực tế khá hơn thực tại này, mong muốn bản thân khác đi, luôn muốn được sống thật với những gì mình là. Tuy nhiên, con người lại chịu tác động từ những định kiến và lề luật cứng nhắc, từ những trải nghiệm cá nhân trong việc bị bắt lỗi, bị xét đoán, bị từ chối đã khiến họ hành xử khác đi. Có thể nói, một trong những nhu cầu sâu xa nhất trong trái tim con người là được tôn trọng, được đón nhận. Điều quan trọng là việc cá nhân tin rằng mình đáng quý và thật sự có giá trị bất kể những lỗi lầm hay thất bại, bởi khi là chính mình thì họ mới không cần phải đóng giả một ai đó khác, họ can đảm và tự do hơn trong việc thể hiện những gì rất thật của bản thân. Điểm khởi đầu để có một cuộc sống khỏe mạnh về tinh thần đó là việc chấp nhận thực tại, chấp nhận chính mình như những gì mình là. Chỉ khi chấp nhận chính mình với một cái tôi cá vị về mặt tâm lý và hiện tại, cá nhân mới có thể cảm nhận hạnh phúc trong sự tồn tại của đời sống con người. Vậy việc một cá nhân ý thức sự tự chấp nhận, hòa giải với chính mình, đón nhận mọi sự như chính nó được thể hiện như thế nào? Theo quan đểm của Albert Ellis, tự chấp nhận vô điều kiện được xem là một thành tố thay thế cho lòng tự trọng, phát triển trong liệu pháp hành vi cảm xúc hợp lý (REBT - Rational Emotive Behavior Therapy), ông nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc “cá nhân chấp nhận những sự kiện bên trong, hướng đến sự tồn tại như một tiến trình (ongoing process) – một cá nhân có quá khứ, hiện tại và tương lai; bất kì một sự đánh giá nào về bản thân đều chỉ áp dụng cho một thời điểm nhất định và không có tính liên tục”. Với sự quan trọng của mình, tự chấp nhận vô điều kiện được rất nhiều sự quan tâm, chú ý của các nhà tâm lý học trên thế giới. Nhiều công trình nghiên cứu về mối liên hệ giữa tự chấp nhận vô điều kiện và các thành tố trong đời sống tâm lý của con người như tự chấp nhận vô điều kiện và các yếu tố sức khỏe tâm lý (Unconditional 6
  7. Self-Acceptance and Psychological Health) (Chamberlain & Haaga, 2001), nghiên cứu của Thompson và Waltz về mối liên hệ giữa chánh niệm, lòng tự trọng và tự chấp nhận vô điều kiện (Mindfulness, Self-Esteem and Unconditional Self-Acceptance) (Thompson & Waltz, 2007) hay nghiên cứu về niềm tin phi lý và tự chấp nhận vô điều kiện (Irrational Beliefs and Unconditional Self-Acceptance) (Davies, 2008). Bên cạnh đó, kết quả của những nghiên cứu khác đều cho thấy vai trò quan trọng của tự chấp nhận vô điều kiện, trong đó ý nghĩa sâu xa là việc cá nhân từng bước tìm cách thấu hiểu chính mình và cuộc sống chứ không phải kiểm soát, đề từ đó dần xây dựng lòng tin nhằm tìm ra hướng giải quyết thích hợp cho mình và cho người khác. Hiện nay, tại Việt Nam chưa có công trình nghiên cứu khoa học nào xem xét về tự chấp nhận, cụ thể là ở thanh niên sinh viên. Trong khi đó, sinh viên là lứa tuổi đang trong giai đoạn với những biến động rất riêng của đời người, đối diện với rất nhiều những khó khăn, những tác động từ gia đình, xã hội và từ chính những trải nghiệm cá nhân. Tâm lý học - một khoa học đặc thù nhằm phục vụ và hướng đến sự phát triển đời sống con người, các bạn sinh viên đang chọn theo học Tâm lý học hướng đến việc có cái nhìn bao quát và toàn diện hơn về đời sống tâm lý con người, trên mọi phương diện và ở các mức độ khác nhau. Giá trị cuối cùng, có thể là cao nhất nơi những người theo học là giúp chính bản thân người học hiểu được về chính mình, tự rèn luyện, tự điều chỉnh mình theo hướng tích cực nhất (Huỳnh Văn Sơn, 2016). Liệu rằng các sinh viên đang theo học ngành Tâm lý học có sự tự chấp nhận ở mức độ nào, đâu là những yếu tố nào tác động đến việc sinh viên tự chấp nhận bản thân? Nhằm cung cấp thêm một phần lý thuyết cũng như góc nhìn khoa học, rõ ràng hơn về tự chấp nhận của lứa tuổi thanh niên sinh viên nói chung, sinh viên theo học Tâm lý học nói riêng, đề tài “Tự chấp nhận của sinh viên Khoa Tâm lý học Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh” được xác lập. 2. Mục đích nghiên cứu Tìm hiểu thực trạng tự chấp nhận của sinh viên ngành Tâm lý học Khoa Tâm lý học Trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh. Bên cạnh đó tìm hiểu sâu hơn một số yếu tố liên quan đến tự chấp nhận và đề xuất một số giải pháp giúp sinh viên nâng cao tự chấp nhận. 7
  8. 3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu 3.1. Khách thể nghiên cứu Sinh viên từ năm 1 đến năm 4 đang theo học ngành Tâm lý học (hệ chính quy) tại Khoa Tâm lý học Trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh năm học 2018- 2019. 3.2. Đối tượng nghiên cứu Tự chấp nhận của sinh viên ngành Tâm lý học Khoa Tâm lý học Trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh. 4. Giả thuyết nghiên cứu - Mức độ tự chấp nhận của đa số sinh viên Khoa Tâm lý học Trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh ở mức trung bình. - Có sự khác biệt ý nghĩa về sự tự chấp nhận của sinh viên Khoa Tâm lý học Trường ĐHSP TP.HCM dựa trên các tham số năm học, thành tích học tập. - Trong các yếu tố tác động, tự chấp nhận có mối liên hệ nhiều với các yếu tố thuộc về giá trị bản thân của sinh viên. 5. Nhiệm vụ nghiên cứu - Hệ thống hóa tổng quan về đề tài và cơ sở lý luận liên quan, bao gồm: lòng tự trọng, tự chấp nhận, tự chấp nhận vô điều kiện, đặc điểm tâm lý của thanh niên sinh. - Thực hiện tìm hiểu thực trạng tự chấp nhận của sinh viên Khoa Tâm lý học Trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh qua khảo sát và phỏng vấn. 6. Giới hạn nghiên cứu 6.1. Về nội dung: Đề tài tập trung nghiên cứu về tự chấp nhận (self-acceptance) trong bảng hỏi Tự chấp nhận vô điều kiện (USAQ - The Unconditional Self-Acceptance Questionaire) của Chamberlain & Haaga xây dựng năm 2001 được phát triển dưới tiếp cận của Albert Ellis. 6.2. Về khách thể: Đề tài tiến hành khảo sát trên 274 sinh viên, phỏng vấn 8 sinh viên từ năm 1 đến năm 4 đang theo học chuyên ngành Tâm lý học, hệ chính quy tại Khoa Tâm lý học Trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh. 8
  9. 7. Phương pháp nghiên cứu 7.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu Với mục đích xây dựng hệ thống cơ sở lý luận về tự chấp nhận của sinh viên Khoa Tâm lý học Trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh, phương pháp nghiên cứu tài liệu được tiến hành bằng cách tập hợp các tài liệu có liên quan, phân tích thành từng đơn vị kiến thức và khái quát thành hệ thống kiến thức riêng biệt phù hợp cho đề tài. 7.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn 7.2.1. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi Phương pháp này được tiến hành bằng việc phát bảng hỏi tự chấp nhận vô điều kiện đến sinh viên nhằm khảo sát về mức độ tự chấp nhận của sinh viên và sự khác biệt trong các tham số. 7.2.2. Phương pháp thống kê toán học Phương pháp thống kê toán học được sử dụng để xử lý và phân tích các số liệu thu thập từ bảng hỏi thông qua chương trình SPSS 20. 7.2.3. Phương pháp phỏng vấn bán cấu trúc Phương pháp này được tiến hành bằng việc xây dựng hệ thống một số câu hỏi mở liên quan đến đề tài nhằm tìm hiểu thông tin, góc nhìn của người trong cuộc về tự chấp nhận. 7.2.4. Phương pháp phân tích dữ liệu theo chủ đề (thematic analysis) Phương pháp phân tích dữ liệu theo chủ đề được tiến hành bằng việc mã hóa nội dung phỏng vấn, phân tích thông tin theo các chủ đề nhất định nhằm xác định được các nội dung liên quan đến tự chấp nhận theo quan điểm của sinh viên. 9
  10. CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TỰ CHẤP NHẬN CỦA SINH VIÊN 1.1. Tổng quan các công trình nghiên cứu về tự chấp nhận của sinh viên 1.1.1. Tổng quan các công trình nghiên cứu ở nước ngoài 1.1.1.1. Nghiên cứu về tự chấp nhận nói chung Khái niệm về cái tôi và những khía cạnh của nó được các nhà tâm lý học quan tâm từ rất sớm. Tự chấp nhận đã được quan tâm trong tâm lý học về lý thuyết, nghiên cứu và đo lường nổi trội lên từ những năm đầu thế kỉ 20. Tâm lý học nhân văn là lý thuyết tâm lý đầu tiên nhấn mạnh, cân nhắc một cách rất nghiêm túc đối với giá trị và ý nghĩa của tự chấp nhận trong tâm lý học. Các nhà tâm lý học nhân văn tiêu biểu như Carl Roger, Abraham Maslow, Rollo May. Những bằng chứng đầu tiên trong nghiên cứu của Ryff (1989) “Thái độ tích cực đối với bản thân” được xem xét như một phần để định nghĩa tự chấp nhận và đo lường lòng tự trọng. Những năm cuối thập niên 1940, các nghiên cứu về tự chấp nhận đa số chịu ảnh hưởng dưới góc độ nhân văn đều cho thấy mức độ tự chấp nhận cao có mối liên hệ tích cực với cảm xúc tích cực, làm hài lòng những mối quan hệ xã hội, thành tích và điều chỉnh những sự kiện tiêu cực trong đời sống (Williams & Lynn, 2010). Theo thời gian, tự chấp nhận tiếp tục được nhấn mạnh trong một số hình thức của Liệu pháp nhận thức - hành vi (CBT - Cognitive Behavior Therapy), đặc biệt trong Liệu pháp hành vi cảm xúc hợp lý (REBT - Rational Emotion Behavior Therapy). Năm 1962, Albert Ellis đã đề xuất nhấn mạnh đến sự tự chấp nhận vô điều kiện và xem đó là một khái niệm cốt lõi, một phần không thể thiếu trong liệu pháp nhận thức hành vi. Sau đó tự chấp nhận được đẩy mạnh lên làm nền tảng của Liệu pháp hành vi biện chứng (DBT - Dialectical Behavior Therapy) và Liệu pháp chấp nhận và chú tâm (ACT - Acceptance and Commitment Therapy) (Szentagotai & David, 2013). Những nghiên cứu đầu tiên phản hồi về mối liên hệ giữa tự chấp nhận vô điều kiện và chấp nhận người khác vô điều kiện trong một dân số ngẫu nhiên từ những sinh viên khỏe mạnh và người lớn cho đến những bệnh nhân hay những tù nhân. Trong khi các nghiên cứu về sau cố gắng nhấn mạnh đến mối liên hệ của tự chấp nhận 10
  11. với các yếu tố khác của hạnh phúc tâm lý (psychological well-being), sự khác biệt giữa tự chấp nhận và lòng tự trọng (Sheere, 1949; Berger, 1952; Suinn, 1961). Năm 2005, David và Szentagotai đã nghiên cứu một thực nghiệm đóng góp cho quan điểm rằng tự chấp nhận là điều cốt lõi để đạt được hạnh phúc. Nghiên cứu này cũng tin chắc rằng lý thuyết của liệu pháp hành vi cảm xúc hợp lý về tự chấp nhận có thể đóng góp những giá trị nền tảng, không chỉ cho việc nâng cao hiểu biết về hạnh phúc mà còn là việc làm thế nào để đạt được và duy trì hạnh phúc (David & Szentagotai, 2013). Nghiên cứu của Macinnes (2006) đã tìm hiểu về mối liên hệ giữa các khái niệm lòng tự trọng và tự chấp nhận với sức khỏe tâm lý (Self-esteem and self-acceptance: An examination into their relationship and their effect on psychological health). Kết quả cho thấy, so với dân số chung mẫu nghiên cứu có mức độ tự chấp nhận và lòng tự trọng thấp; mức độ lo âu, trầm cảm và bệnh lý tâm lý (psychological ill health) cao hơn (Macinnes, 2006). Bernard và cộng sự đã tiến hành nghiên cứu về tự chấp nhận trong giáo dục và tham vấn cho người trẻ (Self-Acceptance in the Education and Counseling of Young People). Năm 2007, ông xây dựng các bài học trong việc giáo dục học sinh về tự chấp nhận (Lesson to Teach Self-Acceptane). Năm 2012, Bernard đã thực hiện một nghiên cứu trên 254 sinh viên của 4 trường học khác nhau tại Victoria, Úc. Để phát triển tự chấp nhận trong giáo dục và tham vấn cho học sinh, Bernard đã thiết kế bảng khảo sát dành cho trẻ em và thanh thiếu niên về tự chấp nhận (Bernard, 2012a). Ông đã đưa ra một vài lời khuyên tự giúp đỡ dành cho lứa tuổi học sinh trong việc tăng cường tự chấp nhận (Self-Help Tips for Strengthening Your Self-Acceptance) (Bernard, 2012b). Năm 2013, để giúp các em học sinh phát triển tự chấp nhận, ông đã xây dựng hệ thống bài tập nâng cao sự tự nhận thức qua các phản hồi (Bernard, Vernon, Terjesen & Kurasaki, 2013). Dù là một khái niệm trung tâm của Liệu pháp hành vi cảm xúc hợp lý nhưng tự chấp nhận vô điều kiện lại chưa được kiểm chứng một cách đầy đủ qua các thực nghiệm. Theo đó, một nghiên cứu được Popov và cộng sự (2016) xây dựng trong bối cảnh thực nghiệm để kiểm tra sự ảnh hưởng của tự chấp nhận vô điều kiện trên sức khỏe tâm thần (Unconditional Self-Acceptance and Mental Health in Ego-provoking 11
  12. experimental context) qua các yếu tố như mức độ tự chấp nhận, kiểu phản hồi và sự hài lòng đối với phản hồi (Popov, Radanovic & Biro, 2016). Năm 2017, Ciuhan và Dumitru đã tiến hành nghiên cứu trên mẫu 300 thanh thiếu niên Rumani (Unconditional Self-Acceptance, Functional and Dysfunctional Negative Emotions, and Self-Esteem as Predictors for Depression in Adolescents: a Brief Pilot Study Conducted in Romania). Kết quả cho thấy mối tương quan giữa tự chấp nhận vô điều kiện, lòng tự trọng và cảm xúc tiêu cực loạn chức năng (functional and dysfunctional negative emotions) của họ với mức độ trầm cảm của thanh thiếu niên tuổi từ 14 đến 17 tại Rumani (Ciuhan & Dumitru, 2017). Trong vòng ba thập kỉ qua, một lượng lớn các nghiên cứu về tự chấp nhận đã được tiến hành trên thế giới. Từ đó cũng cung cấp, bổ sung thêm các bằng chứng ấn tượng có liên quan đến tầm quan trọng của tự chấp nhận cho sức khỏe tâm thần và cảm nhận hạnh phúc trong đời sống tâm lý con người. 1.1.1.2. Nghiên cứu về tự chấp nhận và sự thể hiện bản thân Lứa tuổi thanh niên sinh viên đối mặt với những áp lực trong việc thể hiện bản sắc cá nhân với những người bạn, cụ thể là trong những kết nối có tính xã hội. Một nghiên cứu của Aricak và cộng sự (2015) tìm hiểu cách tự chấp nhận và giá trị tác động như thế nào đến việc sinh viên thể hiện chân thực bản sắc cá nhân trực tiếp và gián tiếp “như chính họ là” (Mediating effect of self-acceptance between values and offline/online identity expressions among college students). Kết quả thể hiện rằng sự tự do là một giá trị có ý nghĩa ảnh hưởng đến xu hướng của người tham gia trong việc thể hiện bản sắc cá nhân trực tiếp và gián tiếp. Đồng thời nghiên cứu cũng cho thấy sự tự do, giá trị lãng mạn, phẩm giá con người, xã hội và giá trị nghề nghiệp có một chút ảnh hưởng tích cực nhưng không trực tiếp trên tính chân thực trong việc thể hiện bản sắc cá nhân; trong khi giá trị vật chất, tinh thần và giá trị trí tuệ có một chút ảnh hưởng tiêu cực không trực tiếp (Aricak, Dundar & Saldana, 2015). Một nghiên cứu khác của Denmark (1973) đã xác định tự chấp nhận cũng có mối liên hệ với sự thể hiện bản thân. Nghiên cứu đã chỉ ra rằng người lãnh đạo với điểm tự chấp nhận vô điều kiện cao được đánh giá là hiệu quả nhất trên địa vị của họ (Szentagotai & David, 2013). 12
  13. Năm 2016, một nghiên cứu của Popov và cộng sự được thực hiện để tìm hiểu về ảnh hưởng của tự chấp nhận vô điều kiện trên sức khỏe tâm thần qua các chỉ số trong bối cảnh thực nghiệm khơi dậy cái tôi (Unconditional Self-Acceptance and Mental Health in Ego-provoking experimental context). Nghiên cứu được thực hiện trên mẫu là 188 sinh viên, các nhà nghiên cứu đã minh hoạ cuộc nói chuyện trước đám đông, sau đó các sinh viên tham gia có thời gian chuẩn bị trước, trình bày và nhận được các phản hồi (tích cực, tiêu cực và trung tính) một cách ngẫu nhiên (Popov, Radanovic & Biro, 2016). 1.1.1.3. Nghiên cứu về tự chấp nhận trong mối quan hệ với người khác Bên cạnh khái niệm về “tự chấp nhận vô điều kiện”, Albert Ellis có một quan điểm tương đồng, đó là “chấp nhận người khác vô điều kiện” (unconditional others acceptance). Ông định nghĩa rằng “chấp nhận người khác mà không cần bất kì điều kiện tiên quyết nào, không xem xét hành vi, quan điểm hay cách ứng xử của họ như thế nào” (Ellis, 1994). Ellis đã nhận định rằng yếu tố chính của một mối quan hệ có hiệu quả, xét riêng trong mối quan hệ chính là tư duy hợp lý của mỗi người; người chấp nhận bản thân và người khác một cách vô điều kiện, đó là một điểm khởi đầu tốt đẹp để xây dựng và phát triển mối quan hệ. Ông cho rằng chìa khóa cho cả hai trong việc tìm kiếm và duy trì một mối quan hệ yêu thương là việc chấp nhận người khác một cách hoàn toàn mà không có bất kì sự mâu thuẫn nào trong tư tưởng, học cách để yêu mến sự tự do và sự khác biệt của mỗi cá nhân. Những năm đầu của thế kỉ 20, các nghiên cứu chủ yếu tìm hiểu về mối liên hệ giữa tự chấp nhận và chấp nhận người khác. Trong nghiên cứu của Sheerer (1949) đã tìm ra sự mối liên hệ giữa thái độ của tự chấp nhận và chấp nhận người khác, đây là một trong những nghiên cứu đầu tiên về tự chấp nhận vô điều kiện tập trung giải thích rằng cái tôi là một điểm tựa (anchor) ảnh hưởng đến góc nhìn và thái độ của chúng ta đối với người khác (Williams & Lynn, 2010). Có các nghiên cứu phản hồi về sự liên hệ giữa tự chấp nhận vô điều kiện và chấp nhận người khác vô điều kiện trong một dân số ngẫu nhiên từ những sinh viên khỏe mạnh và người lớn cho đến những bệnh nhân hay những tù nhân (Sheerer, 1949). Hầu hết các nghiên cứu chủ yếu quan sát một mối quan hệ giữa cảm nhận về bản thân và với người khác dựa trên kinh nghiệm 13
  14. lâm sàng, chỉ một số nghiên cứu gần đây mới cố gắng nghiên cứu mối quan hệ này một cách có hệ thống. Trên cơ sở nghiên cứu của Sheerer, một nghiên cứu được xây dựng trên mẫu là sinh viên của Trường Đại học Chicago nhằm tìm hiểu mối quan hệ về thái độ đối với bản thân và người khác (The relation between expressed acceptance of self and expressed acceptance of others) dưới ảnh hưởng từ tư tưởng của Carl Rogers. Trong nghiên cứu này, thay vì khái quát từ những kinh nghiệm lâm sàng, các nhà nghiên cứu đã cố gắng để đo lường thái độ của cá nhân đối với bản thân và người khác dựa trên việc sử dụng thang đánh giá. Kết quả cho thấy nghiên cứu có ý nghĩa tích cực, đóng góp bằng chứng cho thấy có mối liên hệ cao giữa chấp nhận bản thân và chấp nhận người khác (Berger, 1952). Nếu một người không thể hiện diện với chính mình thì không thể hiện hiện thật sự với người khác. Tự chấp nhận trong tâm điểm giao tiếp giúp mối tương giao với mọi người luôn được đặt trên nền tảng của sự chân thành, yêu thương và sẵn sàng đón nhận. 1.1.1.4. Nghiên cứu về tự chấp nhận và lòng tự trọng Ryff đã xây dựng công trình nghiên cứu đầu tiên xem xét về mối liên hệ giữa lòng tự trọng và tự chấp nhận. Qua tiểu thang đo SPWB (Scales of Psychological Well-being, Self-Acceptance Subscale) cho thấy lòng tự trọng có mối liên hệ khá cao (r = 0.62) với tự chấp nhận. Trong cấu trúc của Liệu pháp hành vi cảm xúc hợp lý, suốt những năm làm việc Albert Ellis đã trình bày về khái niệm lòng tự trọng (cao và thấp). Đến năm 1996, trong cuốn “Liệu pháp tâm lý”, Ellis đã đưa ra và nhấn mạnh đến khái niệm tự chấp nhận vô điều kiện và xem đó như là một khái niệm thay thế cho lòng tự trọng. Các nghiên cứu thực nghiệm cho thấy rất nhiều lợi ích có mục đích của lòng tự trọng cao (như tăng thành tích, mối quan hệ tốt hơn) không chứng minh được những kết quả này một cách khách quan. Lòng tự trọng cao có thể dẫn đến ái kỉ nếu đi cùng bởi một cảm giác rằng một người không chỉ tốt và có giá trị mà còn có giá trị “hơn” và đặc biệt hơn người khác. Nếu sự tự đánh giá của một người quá tốt về sự thể hiện khách quan và nhận thức của người khác, có thể đó là kết quả không thuận lợi xét về tính lâu dài, bao gồm cả sự từ chối bởi bạn bè, đồng nghiệp. Theo đó, một quan điểm có 14
  15. tính thuận lợi cao về bản thân bị đe dọa trong một vài thói quen có liên quan với hành vi bạo lực (Falkenstein & Haaga, 2013). Theo Chamberlain và Haaga trong nghiên cứu về tự chấp nhận và sức khỏe tâm lý họ đã tìm thấy mức độ tương đồng tương đối cao trong đo lường giữa lòng tự trọng và tự chấp nhận. Haaga nhận định rằng một vài điểm trong thang đo lòng tự trọng của Rosenberg (1965) vẫn có yếu tố “có điều kiện” trong những phát biểu và nhận thấy thiếu sự tự chấp nhận ở những người tham gia (Chamberlain & Haaga, 2001). Các khái niệm về lòng tự trọng và tự chấp nhận được xác định là tương tự nhau (similar) nhưng không đồng nghĩa (not synonymous). Lòng tự trong có liên quan chặt chẽ hơn về sự ảnh hưởng, mức độ lòng tự trọng cao biểu thị mức độ trầm cảm thấp. Tự chấp nhận dường như có liên quan chặt chẽ với cảm nhận chung về hạnh phúc tâm lý và hữu ích hơn khi thực hiện các công việc lâm sàng liên quan đến các vấn đề tâm lý chung (Macinnes, 2006). Liệu pháp hành vi cảm xúc hợp lý nhìn nhận lòng tự trọng cao hay thấp đều là sự không khỏe mạnh (unhealthy), cho dù mức độ ấy phản ánh một sự đánh giá tổng quát về giá trị của một người, sau cùng sẽ dẫn đến sự rối loạn cảm xúc và vì thế lòng tự trọng là có hại cho sức khỏe tâm thần. Theo đó, giải pháp của A. Ellis cho vấn đề này là mọi người cần từ bỏ sự tìm kiếm đối với lòng tự trọng và quá trình tự đánh giá đi kèm với nó, thay vào đó làm việc theo hướng tự chấp nhận vô điều kiện. Năm 1996, trong cuốn “Liệu pháp tâm lý”, ông đã đưa ra và nhấn mạnh đến khái niệm tự chấp nhận vô điều kiện và chọn lựa đó như một khái niệm thay thế và là một nhân tố “lành mạnh hơn” so với lòng tự trọng (Chamberlain & Haaga, 2001a). 1.1.1.5. Nghiên cứu về tự chấp nhận và sức khỏe tâm lý/tâm thần Năm 2001, Chamberlain & Haaga đã thực hiện một nghiên cứu phi lâm sàng trên 107 người trưởng thành (tuổi từ 19 đến 81) để tìm hiểu về mối mối liên hệ của tự chấp nhận vô điều kiện và các chỉ số sức khỏe tâm lý (Unconditional Self-Acceptance and Psychological Health) như hạnh phúc, sự hài lòng đối với cuộc sống. Nghiên cứu này đã cho thấy một cách bao quát viễn cảnh của hạnh phúc trong tâm lý học và thảo luận về vai trò của tự chấp nhận vô điều kiện trong cảm nhận hạnh phúc, đồng thời nó cũng chỉ ra sự khác biệt giữa tự chấp nhận và lòng tự trọng (Chamberlain & Haaga, 2001). 15
  16. Albert Ellis cho rằng khi một người được giải phóng khỏi những lo âu, những cảm giác về sự không xứng đáng và thoát ra khỏi nỗi sợ bị chỉ trích, bị chối bỏ thì người ấy được tự do khám phá và tiếp tục theo đuổi những điều thật sự khiến họ hạnh phúc (Ellis, 1962). a. Tự chấp nhận và hạnh phúc Bản chất của hạnh phúc và cuộc sống tốt đẹp đã được con người quan tâm hàng thiên niên kỉ nay quan niệm rằng cho dù có chuyện gì thì không phải chỉ “sống” mà là “sống tốt” đã trở thành tâm điểm tư duy ở cả Tây phương và Đông phương (Kesebir & Diener, 2008). Các nghiên cứu vào những năm cuối thập niên 1940 đã nhận định rằng mức độ tự chấp nhận cao có mối liên hệ với cảm xúc tích cực, sự hài lòng về những mối quan hệ xã hội, thành tích và khả năng điều chỉnh những sự kiện tiêu cực của cuộc đời (Williams & Lynn, 2010). Theo Ellis, hạnh phúc lâu dài có khả năng liên quan đến việc theo đuổi và đạt được mục tiêu mà khi đó các cảm xúc đau đớn giảm, sự dễ chịu và hài lòng được tối đa hóa, điều đó tạo nên những mối quan hệ sâu sắc và sự mãn nguyện cũng như sự xuất sắc trong công việc và những hoạt động khác (Bernard, 2011). Năm 2005, một nghiên cứu của David và Szentagotai đã có những thực nghiệm đóng góp cho quan điểm về vai trò của tự chấp nhận đối với hạnh phúc và tin chắc rằng lý thuyết của Liệu pháp hành vi cảm xúc hợp lý có thể đóng góp nền tảng không chỉ cho việc hiểu biết về hạnh phúc mà còn là việc làm thế nào để đạt được hạnh phúc và duy trì nó (Szentagotai & David, 2013). Mặc dù có những thay đổi trong việc tiếp cận cũng như nghiên cứu về hạnh phúc và cảm nhận hạnh phúc từ đầu đến gần cuối thế kỉ 20. Khuynh hướng tâm lý học tích cực đạt đỉnh cao vào khoảng cuối những năm 90, trong đó nhìn nhận mối liên hệ giữa tự chấp nhận và hạnh phúc là một phần của việc khái niệm hóa những mối quan tâm của các nhà tâm lý. b. Tự chấp nhận và chủ nghĩa cầu toàn Nghiên cứu trên mẫu gồm 94 sinh viên của Flett và cộng sự (2003) đã tìm hiểu mối liên hệ giữa các khía cạnh của chủ nghĩa hoàn hảo, tự chấp nhận vô điều kiện và tự báo cáo về trầm cảm (Dimensions of Perfectionism, Unconditional Self-Acceptance and Depression). Những phát hiện trong nghiên cứu đã chỉ ra rằng những người cầu 16
  17. toàn tự đánh giá mình dựa vào cảm nhận tạm thời về giá trị bản thân, và như vậy, họ dễ bị tổn thương dẫn đến sự đau khổ tâm lý khi trải qua những sự kiện tiêu cực, cảm nhận về giá trị bản thân của họ không được khẳng định. Theo đó, người cầu toàn đánh giá bản thân trong những điều kiện của giá trị toàn thể, dễ bị tổn thương (vulnerable) với những phản ứng cảm xúc tiêu cực có thể ảnh hưởng đến những mục tiêu của họ và khi phải đương đầu với những sự kiện không khẳng định giá trị của họ (Flett, Davies & Hewitt, 2003). Năm 2007, Scott đã thực hiện một nghiên cứu để tìm hiểu sự tác động của chủ nghĩa cầu toàn và tự chấp nhận vô điều kiện trên trầm cảm (The effect of perfectionism and unconditional self-acceptance on depression), nghiên cứu trên mẫu phi lâm sàng gồm 134 người tham gia. Kết quả cho thấy tự chấp nhận vô điều kiện làm trung gian trong sự tác động của chủ nghĩa cầu toàn mang tính bắt buộc xã hội đối với trầm cảm. Trong đó, cấu trúc cốt lõi của chủ nghĩa cầu toàn có thể có hậu quả tiêu cực, dẫn đến mức độ thấp của sự chấp nhận bản thân vô điều kiện, và từ đó dễ dẫn đến trầm cảm (Scott, 2007). Trong rất nhiều khía cạnh, sự khác biệt giữa tự chấp nhận có điều kiện và vô điều kiện theo Hamachek (1978) để phân biệt giữa người cầu toàn nhiễu tâm là những người có nhu cầu được chấp nhận, đòi hỏi sự thành công với những người cầu toàn bình thường là những người theo đuổi sự xuất sắc và tìm kiếm sự chấp nhận của người khác không bởi những nhu cầu chung chung nhưng là thỏa mãn ước muốn và sở thích mà không có những hậu quả tiêu cực (Jibeen, 2016). Trong sự trưởng thành về tâm lý, sự tự chấp nhận hướng đến việc cá nhân ý thức một cách đầy đủ và trọn vẹn về mình với tất cả những khía cạnh tích cực và tiêu cực, những ưu điểm và hạn chế cũng như việc nhìn nhận rằng mình dễ mắc sai lầm, thiếu sót và bản thân cần điều chỉnh để hoàn thiện mình mà không phán xét hay tức giận với chính mình. c. Tự chấp nhận và các niềm tin phi lý Trong một nghiên cứu phi lâm sàng trên 102 người trưởng thành của Davies (2006) để tìm hiểu về mối quan hệ giữa đo lường về niềm tin phi lý, tự chấp nhận vô điều kiện, lòng tự trọng và thang tính cách Big 5 (Big-5 personality dimensions). Kết quả cho thấy, tự chấp nhận vô điều kiện có mối liên hệ cao với lòng tự trọng. Trong 17
  18. lý thuyết nền tảng (key tenets) của Liệu pháp hành vi cảm xúc hợp lý, cá nhân có điểm số tự chấp nhận vô điều kiện cao sẽ có điểm thấp về niềm tin phi lý, khi lòng tự trọng đã được loại trừ. Bên cạnh đó, tự chấp nhận đã được tìm thấy có ý nghĩa trong mối liên hệ nghịch với yếu tố nhiễu tâm, niềm tin phi lý đã được tìm thấy có mối liên hệ thuận với yếu tố nhiễu tâm và tính cởi mở của thang tính cách Big-5 (Davies, 2006). Davies (2007) đã tiếp tực thực hiện một nghiên cứu để tìm hiểu về mối liên hệ hệ nhân quả giữa niềm tin phi lý và tự chấp nhận vô điều kiện trên mẫu phi lâm sàng là 106 người sử dụng kỹ thuật mồi (priming technique). Nghiên cứu chỉ ra rằng những người tham gia mồi với những phát biểu về niềm tin phi lý dẫn đến việc giảm tự chấp nhận trong khi những người tham gia mồi với những phát biểu về niềm tin hợp lý dẫn đến việc tăng tự chấp nhận vô điều kiện. Ngược lại, những người tham gia mồi với các phát biểu về tự chấp nhận vô điều kiện không dẫn đến sự tăng trong những suy nghĩ hợp lý và những người tham gia mồi với phát biểu về tự chấp nhận có điều kiện không dẫn đến sự gia tăng trong suy nghĩ phi lý. Đây cũng là nghiên cứu đầu tiên cung cấp bằng chứng về mối liên hệ nhân quả giữa suy nghĩa hợp lý/phi lý và tự chấp nhận vô điều kiện/có điều kiện (Davies, 2007a). Tiếp theo đó, Davies lại thực hiện hai nghiên cứu trên sinh viên đại học, một nghiên cứu tương quan (mẫu là 158) và một nghiên cứu thực nghiệm (mẫu là 128), ông nhận thấy rằng việc cá nhân cần thành tích, cần sự tán thưởng và tự hạ thấp là những niềm tin phi lý quan trọng của thái độ chung. Nhu cầu về sự thoải mái, nhu cầu về sự công bằng và những sự hạ thấp khác được tìm thấy là ít có ảnh hưởng đến cá nhân (Davies, 2007b). Một nghiên cứu của T. Jibeen (2016) trên 150 sinh viên tuổi từ 18 đến 25 để tìm hiểu về vai trò điều tiết của tự chấp nhận vô điều kiện và lòng tự trọng trong mối liên hệ với niềm tin không dung thứ sự thất vọng và đau khổ tâm lý (Unconditional Self- Acceptance and Self-Esteem in Relation to Frustration Intolerance Beliefs & Psychological Distress) đã chứng minh mối liên hệ cho thấy tự chấp nhận vô điều kiện và lòng tự trọng có khả năng điều tiết với các yếu tố trong niềm tin không dung thứ sự thất vọng bao gồm quyền lợi, thành tích, không chấp nhận cảm xúc (emotional intolerance), không chấp nhận sự khó chịu (discomfort intolerance) và đau khổ tâm lý. Tự chấp nhận vô điều kiện và lòng tự trọng có mối liên hệ nghịch ở mức trung 18
  19. bình với đau khổ tâm lý và niềm tin không dung thứ sự thất vọng. Nghiên cứu này cũng đã làm sáng tỏ và mở rộng cho những nghiên cứu trước về những niềm tin phi lý và đau khổ tâm lý bằng cách kết hợp sự tập trung trên tính khác biệt cá nhân trong tự chấp nhận và lòng tự trọng (Jibeen, 2016) Năm 2017, Milburn và cộng sự đã thực hiện một nghiên cứu trên 433 người tham gia nhằm để tìm hiểu về mối quan hệ giữa các khái niệm của niềm tin phi lý, tự chấp nhận và khuynh hướng tha thứ (Empirical Investigation of the Relationship Between Irrationality, Self-Acceptance and Dispositional Forgiveness). Kết quả cho thấy mối mối liên hệ nghịch mức vừa và cao giữa niềm tin phi lý và khuynh hướng tha thứ. Ngược lại, tự chấp nhận vô điều kiện có mối liên hệ thuận có ý nghĩa với khuynh hướng tha thứ. Phân tích hồi quy trong nghiên cứu đã chỉ ra rằng kiểu niềm tin phi lý và tự chấp nhận có thể dự báo khuynh hướng tha thứ của bản thân, người khác và tình huống. Khám phá này đã hỗ trợ thêm về kinh nghiệm cho giả thuyết của Milburn khi ông cho rằng việc giữ những niềm tin phi lý cản trở quá trình tha thứ và mức độ tự chấp nhận của một người dự báo khuynh hướng tha thứ của người ấy (Milburn, Porada & Sammut, 2017). Các nghiên cứu đều chỉ ra rằng giữa tự chấp nhận vô điều kiện và niềm tin phi lý luôn có mối mối liên hệ nghịch. Một người có những niềm tin phi lý sẽ cản trở họ trong việc chọn lựa mục tiêu, chấp nhận bản thân với toàn bộ giá trị và khả năng phát triển của một con người. d. Tự chấp nhận và các rối loạn tâm thần Có rất nhiều các nghiên cứu được thực hiện để xác định mối liên hệ giữa tự chấp nhận và các chỉ số sức khỏe tâm thần như trầm cảm, lo âu, các rối loạn tâm thần. Liệu pháp hành vi cảm xúc hợp lý cho rằng sự đánh giá của cá nhân (tích cực hay tiêu cực) và sự đánh giá tổng thể về giá trị của một người dựa trên những thành tích đạt được là một sự phi lý và dễ dẫn đến các vấn đề tâm lý. Hầu hết các đau khổ tâm lý đều có liên quan tới sự tập trung quá mức, nhạy cảm với những lời chỉ trích, tức giận, cầu toàn và một số trong chúng là các vấn đề tâm bệnh. Trong nghiên cứu của Chamberlain và Haaga về tự chấp nhận vô điều kiện và sức khỏe tâm lý đã tìm thấy mối mối liên hệ nghịch giữa tự chấp nhận vô điều kiện với lo âu, trầm cảm (Chamberlain & Haaga, 2001a). 19
  20. Một nghiên cứu của Macinnes (2006) về mối liên hệ và ảnh hưởng của tự chấp nhận vô điều kiện và lòng tự trọng trên sức khỏe tâm lý (Self-esteem and self- acceptance: An examination into their relationship and their effect on psychological health). Nghiên cứu này được thực hiện trên 58 người tham gia đã được chẩn đoán một vài vấn đề về sức khỏe tâm thần nghiêm trọng, họ cũng được đánh giá về mức độ lòng tự trọng, tự chấp nhận, trầm cảm, lo âu và hạnh phúc tâm lý. Kết quả cho thấy, so với dân số chung, mẫu nghiên cứu có mức độ tự chấp nhận và lòng tự trọng thấp; mức độ lo âu, trầm cảm và bệnh lý tâm lý (psychological ill health) cao hơn (Macinnes, 2006). Theo Falkenstein và Haaga (2013) trong tác phẩm đo lường và nét đặc trưng của tự chấp nhận vô điều kiện (Measuring and Characterizing Unconditional Self- Acceptance) chỉ ra rằng hạnh phúc phi lý (irrational happiness) có điểm đặc trưng là những hành vi không thích ứng, có cảm xúc tiêu cực loạn chức năng, những mục tiêu và giá trị luôn đặt ra một cách khuôn khổ và cứng nhắc. Trong đó, sự tự hạ thấp được xem là nguyên nhân của những căng thẳng và đau khổ. Còn tự chấp nhận, một cách độc lập với lòng tự trọng có liên hệ với lo âu thấp, ái kỉ thấp, trầm cảm thấp, niềm tin phi lý thấp và một khả năng tuyệt vời để đạt được sự khách quan về hành vi và sự tử tế của bản thân trong phản ứng với những lời chỉ trích. Người có điểm tự chấp nhận vô điều kiện cao cho thấy sự hiện hữu với ít buồn, lo lắng, tức giận, cầu toàn hay phi lý. Tuy nhiên, mối liên hệ giữa tự chấp nhận vô điều kiện với các rối loạn lâm sàng phần lớn chưa được kiểm chứng (Falkenstein & Haaga, 2013). Một nghiên cứu thực nghiệm của Popov và cộng sự (2016) được thực hiện trên 188 sinh viên để tìm hiểu sự ảnh hưởng của tự chấp nhận vô điều kiện trên sức khỏe tâm thần. Các nhà nghiên cứu đã thiết kế các thực nghiệm gần như được sử dụng trên một mặt bằng chung và dự đoán được những người tham gia với mức độ tự chấp nhận vô điều kiện thấp, không hài lòng với phản hồi sẽ có điểm cao hơn cho các triệu chứng rối nhiễu tâm lý (lo âu và trầm cảm) (Popov và cộng sự, 2016). Đầu thế kỉ 20 các nghiên cứu trên thế giới tập trung tìm hiểu về mối liên hệ giữa tự chấp nhận và chấp nhận người khác. Về sau, các nghiên cứu về tự chấp nhận ngày càng được mở rộng và sâu hơn, không chỉ dừng lại trong các nghiên cứu tương quan để tìm hiểu về mối liên hệ giữa tự chấp nhận với các yếu tố như trầm cảm, lo âu, niềm 20
  21. tin phi lý, chủ nghĩa cầu toàn mà còn phát triển các nghiên cứu thực nghiệm để xác định vai trò của tự chấp nhận đối với các vấn đề và đau khổ tâm lý. 1.1.2. Tổng quan các công trình nghiên cứu ở Việt Nam Tự đánh giá bản thân là thái độ của con người hướng tới năng lực, khả năng và giá trị của mình. Hàng loạt công trình nghiên cứu về tự đánh giá được các nhà Tâm lý học Việt Nam tìm hiểu qua các giai đoạn lứa tuổi như nghiên cứu về “Tự đánh giá của học sinh trung học cơ sở ở Hà Nội” của tác giả Đỗ Ngọc Khanh (2005), đề tài “Khả năng tự đánh giá các phẩm chất ý chí của học sinh trung học phổ thông” được nghiên cứu bởi Bùi Thị Hồng Thắm (2010). Năm 2007, công trình nghiên cứu “Khảo sát việc tự đánh giá của sinh viên tại thành phố Hồ Chí Minh” của Ngô Thị Đẹp và Dư Thống Nhất đã được thực hiện trên 234 sinh viên đang theo học tại một số Trường Đại học tại thành phố Hồ Chí Minh. Nghiên cứu này đo lường mức độ tự đánh giá của sinh viên tham gia từ các mức độ từ cao xuống thấp trong đó sự tự đánh giá cao nhất là những đặc điểm mang tính đạo đức của bản thân, tiếp theo là những đặc điểm về sự nỗ lực của bản thân trong học tập và cao thứ ba là những đặc điểm về khả năng chia sẻ của bản thân (Ngô Thị Đẹp và Dư Thống Nhất, 2014). Các nghiên cứu đã tìm hiểu về các quan niệm tự đánh giá trên thế giới, so sánh và xây dựng thang đo phù hợp để có thể đo lường được mức độ tự đánh giá của người Việt, bước đầu là tự đánh giá của học sinh sinh viên. Tác giả Nguyễn Thanh Hương trong “Báo cáo chuyên đề Sức khỏe tâm thần của thanh thiếu niên Việt Nam” đã đánh giá mức độ và các yếu tố ảnh hưởng đến lòng tự trọng của thanh thiếu niên Việt Nam. Kết quả nghiên cứu cho thấy điểm trung bình đánh giá lòng tự trọng của vị thành niên và thanh niên tại thời điểm nghiên cứu thấp hơn đáng kể so với mức điểm trung bình của nghiên cứu trước. Tuy nhiên, nhóm tác giả nhận định điều này không hẳn phản ánh rằng thanh thiếu niên ngày nay có lòng tự trọng kém hơn so với những năm về trước mà có thể là do trong bối cảnh phát triển của xã hội và trước những áp lực của già trường, gia đình và xã hội; vì thế vị thành niên và thanh niên ngày nay kì vọng nhiều hơn về bản thân mình, về những điều các em phải đạt được để khẳng định bản thân. Tỉ lệ thanh thiếu niên có lòng tự trọng cao tăng dần theo độ tuổi và trình độ học vấn, kết quả không tìm ra sự khác biệt có ý nghĩa 21
  22. về giới tính và môi trường sinh sống của nhóm khách thể (Nguyễn Thanh Hương, 2010). Bên cạnh đó, nghiên cứu cũng tìm hiểu mối liên hệ giữa lòng tự trọng với các đặc điểm về dân số - kinh tế - xã hội, biến số trạng thái tâm lý, hành vi cá nhân, môi trường gia đình, quan hệ bạn bè và môi trường xung quanh. Nghiên cứu xác định những yếu tố nguy cơ ảnh hưởng là cảm giác buồn chán, có sử dụng internet, đang hút thuốc. Trong khi đó, các yếu tố bảo vệ lòng tự trọng là việc tập thể dục thường xuyên, tự đánh giá có sức khỏe tốt, gắn kết mạnh với gia đình, có mối quan hệ tốt với cha và là thành viên của tổ chức xã hội (Nguyễn Thanh Hương, 2010). Nghiên cứu của tác giả Trương Thị Khánh Hà (2015) với đề tài “Thích ứng thang đo hạnh phúc chủ quan dành cho vị thành niên” đã được thực hiện trên mẫu là 861 khách thể từ 15 đến 18 tuổi đang theo học Trung học phổ thông tại Hà Nội, Huế, Hồ Chí Minh và nghiên cứu của Hoàng Thị Trang (2015) về “Cảm nhận hạnh phúc của sinh viên” trên mẫu 555 sinh viên theo học tại các trường Đại học ở Hà Nội và Hải phòng. Kết quả cho thấy trong ba mặt của hạnh phúc chủ quan (cảm xúc, tâm lý và xã hội) học sinh và sinh viên có cảm nhận hạnh phúc tâm lý cao nhất và cảm nhận hạnh phúc xã hội thấp nhất. Theo Trương Thị Khánh Hà, mức độ cảm nhận hạnh phúc thì nhóm trẻ vị thành niên tại thành phố Hồ Chí Minh là cao nhất, thấp nhất là học sinh tại Hà Nội. Về giới tính có sự khác biệt, các em nam có cảm nhận hạnh phúc cao hơn nữ nhưng chỉ ở lớp 9 cuối cấp, các em lớp 12 cả hai giới đều cảm nhận hạnh phúc đều ở mức thấp (Trương Thị Khánh Hà, 2015; Hoàng Thị Trang, 2015). Trong mối liên hệ với sự tự chấp nhận, cá nhân luôn có sự thể hiện lòng trắc ẩn với bản thân thì cũng sẽ không đưa ra những phán xét tiêu cực. Một nghiên cứu định lượng “Đánh giá lòng tự trắc ẩn: Một nghiên cứu định lượng ở sinh viên Việt Nam” của Trần Thu Hương và Trần Minh Điệp nhằm đánh giá về lòng tự trắc ẩn trên mẫu là 529 sinh viên thuộc các Trường Đại học ở Việt Nam (cả ba miền Bắc, Trung, Nam). Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng để sinh viên đạt tới sự tự trắc ẩn thì thành tố được sinh viên thực hành nhiều nhất là chánh niệm, còn thành tố nhân ái với bản thân trong cuộc sống thì sinh viên ít thực hành (Trần Thu Hương và Trần Minh Điệp, 2017). Tác giả Nguyễn Minh Quân trong đề tài nghiên cứu về “Giá trị bản thân của sinh viên Trường ĐHSP TP.HCM” đã xác định rằng 300 sinh viên trong mẫu nghiên 22
  23. cứu có giá trị bản thân tổng quát và giá trị bản thân tạm thời ở mức độ khá. Trong giá trị bản thân tổng quát, mong muốn sự xứng đáng cá nhân cao hơn sự tự đánh giá về năng lực của bản thân. Còn trong mối liên hệ với lòng tự trọng, nghiên cứu cho thấy sinh viên có lòng tự trọng ở mức trung bình, có xu hướng tương ứng với giá trị bản thân tổng quát. Kết quả cũng đã tìm thấy sự khác biệt có ý nghĩa của các tham số như khối ngành, giới tính, năm học, kết quả rèn luyện, thành tích đạt được, điều kiện kinh tế và sự khác biệt tôn giáo trong việc xác định giá trị bản thân. Bên cạnh đó các tham số học lực, kết quả rèn luyện và thành tích đạt được có sự khác biệt ý nghĩa về giá trị bản thân tổng quát (Nguyễn Minh Quân, 2018). Qua các nghiên cứu đã thực hiện tại Việt Nam, các khía cạnh của cái tôi đã được các nhà Tâm lý học quan tâm nhiều đến là sự tự đánh giá, lòng tự trọng, lòng tự trắc ẩn, sự tự đánh giá, giá trị bản thân, cảm nhận hạnh phúc chủ quan. Tuy nhiên, đề tài về tự chấp nhận vẫn còn khá mới tại Việt Nam khi chưa có công trình nào đề cập đến. Điều này cho thấy nghiên cứu về sự tự chấp nhận của con người Việt Nam nói chung, của sinh viên nói riêng, đặc biệt là sinh viên theo học ngành Tâm lý học cần được quan tâm và tăng cường hơn nữa. 1.2. Một số khái niệm cơ bản 1.2.1. Lòng tự trọng (self-esteem) Tự chấp nhận được nhà Tâm lý học A. Ellis xây dựng dựa trên nền của khái niệm về lòng tự trọng. Lòng tự trọng được các nhà Tâm lý học quan tâm và nghiên cứu từ rất lâu trên thế giới. Một hướng tiếp cận sớm nhất để can thiệp vào lòng tự trọng là định nghĩa của William James khi xem lòng tự trọng như là năng lực cá nhân, ông nhấn mạnh lòng tự trọng như một loại hành động có hiệu quả nhất định, hơn là một thái độ hay niềm tin, đó là sự tự cảm nhận của mỗi người về chính mình trong thế giới và phụ thuộc vào những gì người ấy có được cũng như làm được trong đời. Dưới góc độ này, lòng tự trọng được xem xét là sự không ổn định, nó cần được duy trì qua mức độ thành công trong những lĩnh vực quan trọng của mỗi cá nhân (Lâm Lai Hưng, 2013). Năm 1969, trong cuốn Tâm lý học về lòng tự trọng, Nathaniel Branden đã đề cập đến lòng tự trọng như là sự xứng đáng khi nhận định rằng con người có một nhu cầu cơ bản để cảm thấy mình có giá trị nhưng việc đó chỉ đạt được bằng năng lực 23
  24. hành động. Điều ấy đòi hỏi một ý thức về sự hiệu quả và giá trị của cá nhân, đó là tổng hợp của sự tự tin và sự tôn trọng chính mình. Và khi ấy, lòng tự trọng là một niềm tin rằng một người là có năng lực để sống và xứng đáng được sống (Lâm Lai Hưng, 2013). Hướng tiếp cận của Mary H. Guindon và cộng sự thì nhìn nhận năng lực và sự xứng đáng là hai thành tố chính của lòng tự trọng. Mối quan hệ tương tác giữa hai thành phần này chính là điều kiện để hình thành và phát triển lòng tự trọng (Lâm Lai Hưng, 2013). Có thể thấy, nền tảng của một lòng tự trọng đúng đắn là sự hoạt động với vai trò ngang bằng nhau của các thành tố trong việc phát triển những năng lực, nhận thức của mình đồng thời là cảm nhận về giá trị, chấp nhận và tin rằng mình xứng đáng hưởng thụ những giá trị cuộc sống qua việc tôn trọng bản thân. Tại Việt Nam, tác giả Nguyễn Thạc và Phạm Thành Nghị (2008) cũng xem xét lòng tự trọng dưới góc độ của năng lực và sự xứng đáng khi nhận định: “Lòng tự trọng dựa trên cơ sở của sự tự đánh giá và biểu hiện ở đó, còn mỗi một thành phần riêng lẻ của tự đánh giá ảnh hưởng đến chính mức độ về lòng tự trọng của nhân cánh, tự đánh giá chung của nhân cách đó để có thể được phân ra các đánh giá từng phần như tự đánh giá về các phẩm chất trí tuệ, giao tiếp và xúc cảm” (Nguyễn Thạc và Phạm Thành Nghị, 2008). Có thể thấy, lòng tự trọng được sử dụng để đề cập đến việc cá nhân tự đánh giá đối với các sự kiện và trải nghiệm có giá trị. Với vai trò tự đánh giá của mình, lòng tự trọng thể hiện cách cá nhân nhìn nhận và xem xét các thuộc tính, khả năng cũng như các đặc điểm nhân cách khác nhau của bản thân. 1.2.2. Tự chấp nhận (self-acceptance) và tự chấp nhận vô điều kiện (unconditional self-acceptance) 1.2.2.1. Tự chấp nhận Tự chấp nhận đã được quan tâm tìm hiểu nhiều năm trên thế giới, các nhà tâm lý theo khuynh hướng Tâm lý học tích cực nhìn nhận tự chấp nhận vô điều kiện là điều cốt lõi trong quan điểm về hạnh phúc. Tuy nhiên, khái niệm và đặc điểm của tự chấp nhận vẫn còn hạn chế. 24
  25. Hayes và cộng sự (2004) cho rằng: “Chấp nhận bao gồm một thái độ/cách nhìn của sự nhận thức và hành động không phán xét, đón nhận những trải nghiệm của suy nghĩ, cảm xúc và cảm giác cơ thể như chúng là”. Theo Seltzer (2008): “Sự tự chấp nhận thật sự là chấp nhận bản thân mình bất kể năng lực, điều kiện hay điều ngoại lệ nào”. Morgado và các cộng sự (2014) định nghĩa: “Sự tự chấp nhận là sự chấp nhận toàn bộ những đặc điểm của một cá nhân bất kể tích cực hay tiêu cực”. Theo Từ điển Merriam-Webster: “Sự tự chấp nhận là trạng thái chấp nhận và công nhận khả năng, giới hạn của một ai đó”. Trong tâm lý học nhân văn, C. Rogers đặt mối quan tâm lớn của ông trên sự tự chấp nhận và nhận định rằng “Tự chấp nhận là sự khởi đầu khi con người hiện hữu được nhìn một cách toàn bộ và trọn vẹn. Trong quá trình làm việc của mình, Rogers đặt trọng tâm và nhấn mạnh đến sự tự chấp nhận. Tiền đề nền tảng cho điều này là những lý thuyết tổng quát về tâm lý học nhân văn trong việc giúp cá nhân đạt được tiềm năng của chính mình như một con người. Ông tin rằng mối tương giao (interrelationship) với người khác có thể cải thiện khi một người đạt được sự chấp nhận với chính mình, ông cũng cho rằng tự chấp nhận là một yếu tố của tiến trình chữa lành (therapeutic process) và như một thành phần của cảm nhận hạnh phúc (well- being). Đó được xem là chìa khóa trong sự mãn nguyện (contentment) và sự tự do cá nhân từ những cảm xúc tiêu cực (Rogers, 1951). Còn theo Maslow, “Tự chấp nhận là một tiến trình hoặc một chuyến hành trình của sự tự khám phá (self-discovery) trong mục tiêu hướng tới tự hiện thực hóa (self-actualization) thì cá nhân được yêu cầu để hiểu bản thân” (Hoffman, Lopez & Moats, 2013). Trên phương diện của chủ nghĩa hạnh phúc, Maslow cho rằng tự chấp nhận (cùng với việc chấp nhận người khác và thiên nhiên) là một trong những đặc điểm quan trọng của những người tự hiện thực hóa. Cá nhân có đời sống lành mạnh khi tìm thấy sự tích cực đối với việc chấp nhận bản thân và sự tự nhiên nơi họ mà không có sự phiền muộn hay phàn nàn. Rogers có một quan điểm tương đồng về tầm quan trọng của tự chấp nhận khi ông nhìn nhận đó là một trong hai yếu tố của một tiến trình chữa lành và như một thành phần của cảm nhận hạnh phúc (Szentagotai & David, 2013). 25
  26. 1.2.2.2. Tự chấp nhận vô điều kiện Khái niệm “Tự chấp nhận vô điều kiện” xuất hiện trong hàng loạt các công trình nghiên cứu của Albert Ellis suốt nhiều năm qua. Tự chấp nhận vô điều kiện bao gồm việc hiểu biết rằng bản thân mỗi chúng ta là sự tồn tại phức tạp, những điều khách quan bên ngoài luôn thay đổi, bản chất của chấp nhận là nhìn nhận rằng chúng ta có thể sai lầm. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa rằng hành vi của mỗi cá nhân không thể là đối tượng để đánh giá. Tự chấp nhận vô điều kiện cho phép con người đánh giá hành động và những đặc điểm của họ, khuyến khích sự đánh giá ấy như một cách thức thay đổi và hoàn thiện bản thân, nhưng không phải là chính họ, không phải là bản chất của họ (Bernard, 2011). Carl Rogers đã từng nói rằng, nếu mỗi người có thể sống, một cách rất cởi mở và trong suốt, tất cả tâm tình phức tạp hay thay đổi và đôi khi mâu thuẫn trong mối liên hệ ấy, mọi sự sẽ tốt đẹp. Tự chấp nhận là hướng về việc sống trong mối liên hệ cởi mở, thân thiện, gần gũi với tất cả trải nghiệm của bản thân; đón nhận tất cả những trải nghiệm của mình, sống gần với chúng và trong chúng khi mọi sự xảy ra (Rogers, 1961). Đề cập đến ứng xử của một người đối với bản thân và người khác, A. Maslow nhận định rằng con người cần học để trở nên như trẻ nhỏ nhìn thế giới với cặp mắt mở rộng, ngây thơ và không phê phán, chỉ ghi nhận và quan sát mọi việc mà không tranh luận hoặc đòi hỏi nó phải khác đi, cùng một cách ấy người đó thực hiện bản ngã nhìn bản tính người nơi chính mình và nơi mọi người. Trong cuốn “On Becoming a Person” – một cuốn sách ghi chép về những trải nghiệm của C. Rogers với vai trò là một nhà Tâm lý trị liệu, ông đã nhấn mạnh rằng có một mối liên hệ mật thiết giữa sự cởi mở đối với kinh nghiệm nội tâm của cá nhân và thế giới bên ngoài, đặc biệt là sự cởi mở và chấp nhận đối với tha nhân. Khi một người có khả năng chấp nhận kinh nghiệm bản thân, người ấy cũng bắt đầu chấp nhận kinh nghiệm của người khác, người ấy đánh giá cao trải nghiệm của chính mình cũng như của người khác (Rogers, 1961). Trong lý thuyết về tự chấp nhận và sự thành công của mối quan hệ, Broder nhìn nhận rằng tự chấp nhận vô điều kiện cho phép một người tin tưởng nguồn lực nội tại (internal resources) của họ như một nguồn lực tri thức và hướng dẫn tốt nhất. Mỗi cá nhân trong một mối quan hệ đều xác định mức độ tự chấp nhận trong cuộc sống của 26
  27. người ấy. Bằng cách đánh giá một cách rất riêng, mỗi cá nhân với góc nhìn chủ quan của mình về cách họ nhìn nhận bản thân như một phần của mối quan hệ cặp đôi trong tất cả sự liên quan và các khía cạnh phù hợp của cuộc sống (Broder, 2013). Trong một nghiên cứu của Windy Dryden (2013) về tự chấp nhận và lòng tự trắc ẩn (Self-Acceptance and Self-Compassion), ông đã phân tích cụm từ “Tự chấp nhận vô điều kiện” gồm 3 thành tố sau: “Cái tôi”, “Sự chấp nhận” và “Vô điều kiện”. (1) Cái tôi (the “self”): Có rất nhiều định nghĩa về cái tôi. Tuy nhiên thay vì sử dụng những định nghĩa thì Dryden đã liệt kê những yếu tố cấu thành định nghĩa cái tôi ấy. Cái tôi vô cùng phức tạp. Nó bao gồm đặc điểm, tính cách, hành động, cảm xúc, suy nghĩ, hình ảnh, cảm giác và những khía cạnh thực thể. Sự phức tạp là một đặc tính dùng để định nghĩa cái tôi và cùng với những khía cạnh nội tại luôn biến đổi liên tục khác thì cái tôi không thể được đánh giá một cách hiệu quả. Bên cạnh đó còn có 3 yếu tố tạo nên cái tôi khác: (a) là tính nhân văn, (b) là ta có thể phạm sai lầm. Chúng ta có khuynh hướng thiên về cái sai và sự thiên vị này là không thể bỏ được. Như Maxie C. Maultsby đã từng nói, loài người có một khuynh hướng phạm lỗi không thể chữa trị được. Và (c) là vì ta là độc nhất. Chưa từng và sẽ không bao giờ có một “bạn” khác. Ngay cả khi một người được nhân bản thì bản sao của người ấy cũng sẽ có những trải nghiệm khác với chính họ và vì vậy sự độc nhất của cá nhân ấy cũng không bị ảnh hưởng. (2) Sự chấp nhận (acceptance): Theo Dryden, chấp nhận là “nhận thức về sự tồn tại của điều gì đó đang hiện diện ở hiện tại”. Vì vậy, nó không bao gồm sự đánh giá, kể cả khía cạnh tích cực hay tiêu cực của bản thân như một con người và nó cũng không ngăn chặn những thay đổi trong những điều đã được chấp nhận. (3) Vô điều kiện (unconditional): là nhìn nhận mọi điều mà không đi kèm bất kì điều kiện nào hay phụ thuộc vào điều gì. Khi tổng hợp lại 3 khía cạnh này ta có được định nghĩa như sau: “Sự tự chấp nhận vô điều kiện bao gồm nhận thức của một cá nhân về việc bản thân là một con người, độc nhất, phức tạp, thay đổi liên tục và có thể phạm sai lầm và điều này đúng dưới bất kì tình huống nào có thể xảy ra. Như thể “cái tôi” của bạn không thể được đánh giá một cách hiệu quả nhưng có thể được chấp nhận vô điều kiện dựa trên cơ sở của những thành tố trên” (Dryden, 2013). 27
  28. Tự đánh giá tổng quát được đặt trên nền các câu hỏi hợp lý khi cho rằng tất cả mọi người đều có những điểm mạnh và hạn chế, và không có sự rõ ràng có tính hợp lý nào tronng việc đo lường toàn bộ giá trị của một người từ cao đến thấp. Theo đó, A. Ellis không chấp nhận bất kì khái niệm nào để định nghĩa một cách phổ quát (universalistic definition) rằng ý nghĩa của việc trở thành một người tốt hay xấu. Sự hữu ích của việc tự đánh giá tổng quát còn đặt nghi vấn về việc nó có dẫn đến những tổn thương về cảm xúc. Cụ thể hơn, một sự tự đánh giá tổng quát cao có ngụ ý rằng sự đánh giá ấy có thể tụt xuống nếu sự thể hiện ở tương lai thất bại bởi nó được xây dựng trên nền của một quá khứ mà mức độ tự đánh giá đã cao. Albert Ellis (1977) đã định nghĩa: “Tự chấp nhận vô điều kiện là việc cá nhân chấp nhận bản thân một cách trọn vẹn và vô điều kiện bất kể sự cư xử của bản thân là thông minh (intelligently), đúng đắn (correctly), thành thạo (competently) hay không và cho dù có được người khác ghi nhận (approval), tôn trọng (respect) hoặc yêu thương (love) họ hay không” (Martha & Haaga, 2013). Điểm cốt lõi trong tư tưởng của Ellis trong Liệu pháp hành vi cảm xúc hợp lý về tự chấp nhận vô điều kiện là sự khẳng định của giá trị con người cao hơn và vượt ra khỏi giới hạn có tính hành vi. Trong quan điểm này, chúng ta không thể đưa ra một đánh giá tổng thể để định nghĩa một người hay định nghĩa giá trị của họ. Giá trị cá nhân không thể được định nghĩa bởi những điều thay đổi. Arbold Lazarus (1977) đã gọi đó là “một trạng thái vô ngã của sự hiện hữu” (an egoless state of being). 1.3. Đặc điểm tâm lý của thanh niên sinh viên 1.3.1. Khái niệm thanh niên sinh viên Các khái niệm về sinh viên của các tác giả Việt Nam đề cập như sau: “Thuật ngữ sinh viên có nguồn gốc từ tiếng Latinh, “student” có nghĩa là người làm việc, học tập nhiệt tình, người tìm kiếm, khai thác tri thức. Nó dùng nghĩa tương đương với “student” trong tiếng Anh, “etudiant” trong tiếng Pháp và trong tiếng Nga để chỉ những người theo học ở bậc đại học và được phân biệt với trẻ em đang học trường phổ thông là các học sinh “learner”” (Nguyễn Thạc và Phạm Thành Nghị, 2008). “Thanh niên sinh viên là những người trưởng thành còn đang theo học ở các trường Đại học và Cao đẳng. Họ là đại biểu của một nhóm xã hội đặc biệt gồm những 28
  29. người đang trong quá trình chuẩn bị tri thức để trở thành chuyên gia ở một lĩnh vực nhất định của xã hội, là những người trẻ tích cực, năng động, nhạy cảm với những thay đổi của xã hội và dễ thích nghi với sự thay đổi đó” (Huỳnh Văn Sơn, Trần Thị Thu Mai và Nguyễn Thị Tứ, 2012). “Sinh viên là những người đang chuẩn bị cho một hoạt động mang lại lợi ích vật chất hay tinh thần của xã hội. Các hoạt động học tập, nghiên cứu khoa học, sản xuất hay hoạt động xã hội của họ đều phục vụ việc chuẩn bị tốt nhất cho hoạt động mang tính nghề nghiệp của mình sau khi kết thúc quá trình học trong các trường nghề” (Dương Thị Diệu Hoa, 2015) Có thể thấy, các khái niệm của các tác giả nói trên theo thời gian đều tập trung vào chức năng và nhiệm vụ của sinh viên, cụ thể là hoạt động học tập nhằm lĩnh hội tri thức hướng đến hoạt động nghề nghiệp tương lai. Theo đó, đa phần sinh viên nằm trong độ tuổi từ 18 đến 25 trùng với nhóm đối tượng được gọi là thanh niên sinh viên trong sự phát triển lứa tuổi. Có một số tác giả khác cho rằng việc định rõ giới hạn tuổi cho thanh niên sinh viên theo lứa tuổi là vô cùng khó khăn, vì thế việc xác định giai đoạn thanh niên sinh viên được bắt đầu từ sau tuổi học sinh trung học phổ thông đến khi chấm dứt hoạt động học tập của sinh viên năm nào còn phụ thuộc vào thời gian các trường Đại học, Cao đẳng đào tạo. Sự phát triển về thể chất đã đạt đến mức hoàn thiện cả về cấu tạo và chức năng ở tuổi thanh niên sau giai đoạn dậy thì với nhiều biến động. Với sự thay đổi hoạt động chủ đạo và môi trường sống, thanh niên sinh viên dần xác lập vai trò và chức năng trong vị thế xã hội riêng biệt của mình. Tuổi này xuất hiện như một giai đoạn độc lập, cũng là giai đoạn cuối cùng của sự tự xác định bản thân và là giai đoạn đầu của sự phát triển nghề nghiệp tương lai. Đây cũng là giai đoạn mà con người hình thành rõ nét hệ thống giá trị, thế giới quan, nhân sinh quan cũng như các tiêu chuẩn về ý thức nghề nghiệp. Ở tuổi thanh niên sinh viên, sự can thiệp từ người lớn dần hạn chế, cá nhân có khả năng tự quyết định nhiều vấn đề trong cuộc sống bản thân, xây dựng một cuộc sống độc lập hơn trong việc xác định vị trí, vai trò của mình trong xã hội, với địa vị là một người trưởng thành. Tuổi thanh niên đánh dấu sự trưởng thành về mặt nhận thức, thái độ, hành vi trong đời sống gia đình, các lĩnh vực nghề nghiệp và xã hội. Xã 29
  30. hội nhìn nhận sinh viên với tư cách là một công dân thực thụ của đất nước với đầy đủ quyền lợi và nghĩa vụ trước pháp luật. Không chỉ thế, việc sinh viên chọn nghề và học những tri thức, kỹ năng, các nguyên tắc đạo đức cơ bản của nghề; nâng cao năng lực chuyên môn, rèn luyện các phẩm chất trong việc thực hành nghề nghiệp đã chuẩn bị cho một đội ngũ những chuyên gia theo các nghề nghiệp khác nhau trong cấu trúc của tầng lớp tri thức xã hội. Như vậy, thanh niên sinh viên là những người trưởng thành đang theo học tại các trường Đại học, Cao đẳng nhằm chuẩn bị cho sự trở thành những chuyên gia trong những lĩnh vực nghề nghiệp nhất định mang lại lợi ích vật chất và tinh thần cho xã hội. 1.3.2. Một số hoạt động của thanh niên sinh viên Hoạt động chủ yếu của lứa tuổi thanh niên sinh viên là hoạt động học tập chuẩn bị cho đường hướng nghề nghiệp tương lai. Việc học ở Đại học, Cao đẳng không chỉ giúp sinh viên lĩnh hội tri thức trong nghề mà là cơ hội để họ phát triển và hoàn thiện nhân cách của mình. Bên cạnh đó, các hoạt động cơ bản của thanh niên sinh viên cũng có những tính chất và đặc trưng riêng. 1.3.2.1. Hoạt động học tập Trong các hoạt động cơ bản của sinh viên, hoạt động học tập với vai trò chủ đạo có ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển các đặc điểm tâm lý của sinh viên, đến sự lĩnh hội tri thức, kỹ năng, kỹ xảo cũng như các phương thức của hoạt động nhận thức. Với tính chất đặc trưng ở bậc Đại học, Cao đẳng nhằm đào tạo những chuyên gia, trí thức cho đất nước nên hoạt động học tập dần mang tính chuyên ngành, phạm vi hẹp hơn, sâu sắc hơn. Hoạt động học tập của sinh viên không đơn thuần là sự lĩnh hội các tri thức khoa học phổ thông mà là quá trình học tập nghề nghiệp. Đối tượng học tập chủ yếu của sinh viên trong hoạt động học tập chính là hệ thống tri thức, kỹ năng, kỹ xảo và những phẩm chất của nghề với tính đa dạng và hệ thống khoa học nhất định. Qua đó thúc đẩy sự phát triển về trí tuệ, phẩm chất và năng lực chuyên môn của người làm việc chuyên nghiệp ở tương lai về những lĩnh vực nhất định. Hoạt động học tập của sinh viên có tính nghiên cứu cao vì khi học ở Đại học, Cao đẳng sinh viên chủ yếu làm việc với các tài liệu khoa học, phương pháp chính là 30
  31. tự học. Quan điểm này xuất phát từ thực tiễn về lý luận tri thức nhân loại, đó là một kho tàng khổng lồ ngày một tăng lên với tốc độ nhanh chóng. Trong hệ thống tri thức đó, chỉ những ai biết cách tự học, tự chiếm lĩnh tri thức thì mới có được kiến thức. Điều này thể hiện ở việc sinh viên cần ý thức rằng mình là chủ thể của hoạt động học tập để bản thân phải là người tổ chức, định hướng, cụ thể hóa quá trình học tập, bao gồm giải quyết các nhiệm vụ học tập tự đề ra, hoàn thiện các hành động học tập, tự kiểm tra và đánh giá kết quả. Học tập ở sinh viên có tính độc lập, tự do cao qua việc sinh viên được toàn quyền quyết định việc học của mình theo nhu cầu của giảng viên, vì thế điểm cốt lõi trong việc học của sinh viên là sự tự ý thức về học tập của họ. Trong điều kiện đó, sự tự ý thức và tính kỷ luật tự giác là nhân tố quyết định sự thành công trong việc học ở giai đoạn này (Nguyễn Thạc và Phạm Thành Nghị, 2008; Dương Thị Diệu Hoa, 2015; Trương Thị Khánh Hà, 2016). Động cơ học tập ở sinh viên rất phong phú và thường bộc lộ rõ tính hệ thống, bao gồm: động cơ nhận thức, động cơ nghề nghiệp, động cơ xã hội, động cơ tự khẳng định và động cơ cá nhân. Thứ bậc của các động cơ này có sự biến đổi trong quá trình học tập và khác biệt giữa các sinh viên. Ở sinh viên, động cơ học tập có thể bị chi phối bởi các yếu tố xuất phát từ chính chủ thể như nhu cầu, hứng thú, tâm thế, niềm tin, lý tưởng; nó cũng có thể từ phía ngoài chủ thể như mong đợi/yêu cầu của gia đình, xã hội. Bên cạnh đó, động cơ học tập cũng có thể nảy sinh bởi hoàn cảnh, điều kiện của chính hoạt động học mang lại như nội dung học tập, phương pháp dạy học và nhân cách của người giáo viên, các thiết bị hỗ trợ học tập (Vũ Thị Nho, 1999; Huỳnh Văn Sơn, Trần Thị Thu Mai và Nguyễn Thị Tứ, 2012). Có thể thấy, hiệu quả của hoạt động học tập ở sinh viên chịu ảnh hưởng bởi hệ thống động cơ học tập cá nhân. Đó chính là những lí do thức đẩy sinh viên tham gia vào hoạt động học một cách tích cực, chủ động và gặt hái được thành quả tốt hơn. Như vậy, hoạt động học tập của sinh viên mang tính độc lập trí tuệ cao và đòi hỏi sự nỗ lực, sự tự ý thức, tính tự giác và kỷ luật cao. Đây là một hoạt động trí tuệ có cường độ cao và tính lựa chọn rõ rệt. Đó là sự chuẩn bị trực tiếp các yếu tố tâm lý cần thiết để bước vào môi trường lao động nghề nghiệp. 31
  32. 1.3.2.2. Hoạt động nghiên cứu khoa học Do tính chất đặc trưng ở bậc đại học, song song với hoạt động học tập là hoạt động nghiên cứu khoa học. Hoạt động này đã được hình thành từ các lứa tuổi trước nhưng vẫn còn mờ nhạt. Chỉ đến tuổi sinh viên, với sự đòi hỏi trong học tập về lý luận và thực tiễn đối với những người thực hành nghề, những chuyên gia tương lai thì hoạt động nghiên cứu dần trở thành hình thức học tập được quan tâm và chiếm vị trí ngày càng quan trọng. Nghiên cứu khoa học là một dạng hoạt động tự học bậc cao. Sinh viên là người phát hiện các vấn đề và tìm cách giải quyết vấn đề bằng các phương pháp khoa học. Nhiều công trình nghiên cứu khoa học của sinh viên có tính giá trị khoa học và thực tiễn cao, được ứng dụng để giải quyết các vấn đề an sinh xã hội (Trương Thị Khánh Hà, 2016). Hoạt động nghiên cứu khoa học phát huy những tố chất của một người trí thức lao động chuyên nghiệp nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước. Với bản chất là hoạt động nhận thức tạo ra những giá trị mới thông qua phương pháp tìm tòi, phát hiện, nghiên cứu khoa học trang bị cho sinh viên hệ thống quan điểm, phương pháp luận và những phẩm chất – năng lực của một con người làm việc có phương pháp và đam mê sáng tạo (Huỳnh Văn Sơn và cộng sự, 2012). Qua hoạt động nghiên cứu khoa học sinh viên phát triển khả năng tư duy sâu sắc, sáng tạo trong việc tiếp nhận những nguồn dữ liệu, những thành tựu khoa học, ứng dụng những giá trị ấy vào khoa học xoay quanh những vấn đề thực tiễn cuộc sống. Động cơ tham gia nghiên cứu khoa học của thanh niên sinh viên rất đa dạng trong đó động cơ chủ yếu là nhận thức khoa học. Sinh viên mong muốn mở rộng nhãn quan khoa học, hoàn thiện tri thức và đóng góp sức lực của mình trong việc giải quyết các vấn đề. Động cơ này được hình thành từ năm nhất Đại học dưới sự tác động của giảng viên làm nảy sinh nhu cầu tìm tòi những thông tin mới (Nguyễn Thạc và Phạm Thành Nghị, 2008). Bên cạnh đó, động cơ của việc tự khẳng định bản thân thông qua nghiên cứu khoa học cũng góp phần thúc đẩy sinh viên tham gia hoạt động nghiên cứu khoa học. Sinh viên thực hiện hoạt động nghiên cứu khoa học dưới sự hỗ trợ, hướng dẫn của giảng viên để học và bắt đầu từ những phương pháp, bước tiến cơ bản nhất là việc 32
  33. tham gia vào các buổi hội thảo chuyên đề, các hội nghị khoa học, tìm tòi, xác định, tham khảo và khám phá ra những điều cần thực hiện để mang lại những ý nghĩa trong các chủ đề mà sinh viên quan tâm. Để hoạt động nghiên cứu khoa học đạt hiệu quả, thanh niên sinh viên cần xây dựng cho mình những kỹ năng cần thiết như kỹ năng tìm kiếm và trích dẫn tài liệu tham khảo, kỹ năng đánh giá ý nghĩa các tài liệu, kỹ năng so sánh và vận dụng các phương pháp, tích lũy, kỹ năng phân tích và tổng hợp. Bên cạnh đó, chất lượng của một công trình nghiên cứu khoa học không chỉ phụ thuộc vào kỹ năng của sinh viên mà còn dựa vào một số yếu tố khác công tác giảng dạy của giáo viên, kế hoạch tổ chức và hỗ trợ sinh viên nghiên cứu cùng với các phương tiện hỗ trợ. Tuy nhiên, không thể bỏ qua những phẩm chất của người nghiên cứu trong việc thực hiện nghiên cứu khoa học, đó chính là tinh thần trách nhiệm và lòng yêu mến của người nghiên cứu với nghiên cứu khoa học. Như vậy, hoạt động nghiên cứu khoa học làm tăng khả năng tư duy, nhận thức khoa học, thúc đẩy tính tích cực trí tuệ và sự sáng tạo của thanh niên sinh viên; giúp cá nhân rèn luyện những phẩm chất nhân cách, hình thành tính độc lập trong nhiệm vụ nghề nghiệp, lĩnh hội tri thức khoa học và liên kết để giải quyết những vấn đề thực tiễn. 1.3.2.3. Hoạt động chính trị xã hội Một trong những hoạt động đặc trung ở tuổi sinh viên là hoạt động chính trị - xã hôi. Sinh viên là một tổ chức xã hội quan trọng của đất nước, là những người có trí tuệ nhạy bén, nhạy cảm đối với tình hình kinh tế, chính trị xã hội trong và ngoài nước nên hoạt động chính trị - xã hội cũng là nhu cầu, nguyện vọng của thanh niên sinh viên (Vũ Thị Nho, 1999). Vì thế, việc tham gia các hoạt động chính trị xã hội có ý nghĩa đối với sự phát triển nhân cách toàn diện, đây cũng là biểu hiện của sự trưởng thành về mặt xã hội của sinh viên. Các hình thức của hoạt động chính trị xã hội được tổ chức hết sức đa dạng và phong phú. Sinh viên tham gia các hoạt động của tập thể Trường lớp, các tổ chức Đoàn Thanh niên, Hội sinh viên hay các hoạt động có tính chính trị xã hội mở rộng hơn. Việc tham gia vào các hoạt động này ở sinh viên xuất phát từ nhiều động cơ khác 33
  34. nhau, từ việc thỏa mãn nhu cầu giao tiếp, thể hiện bản thân, hoàn thiện nhân cách cho đến việc đóng góp cho xã hội. Việc tham gia hoạt động chính trị xã hội là cơ hội cho sinh viên được trải nghiệm mình, thúc đẩy sự phát triển và dần hoàn thiện nét nhân cách cá nhân. Từ đó, sinh viên có khả năng nâng cao nhận thức, phát triển những phẩm chất cần thiết trong hoạt động lao động sau này. 1.3.2.4. Hoạt động giao tiếp Không thể không đề cập đến hoạt động giao tiếp – cửa ngõ bao trùm lên tất cả các hoạt động đa dạng, phong phú ở tuổi thanh niên sinh viên. Trong hoạt động giao tiếp, sự tích cực, chủ động giao tiếp của sinh viên trong các mối quan hệ xã hội đan xen, những mối quan hệ xã hội này mang tính phức hợp giữa cá nhân sinh viên với bạn bè, giảng viên, với các nhóm – tổ chức xã hội. Hoạt động này chiếm vị trí quan trọng và là động lực trong sự hình thành và phát triển đời sống tâm lý, đó cũng là môi trường, cơ hội giúp sinh viên rèn luyện, phát triển các phẩm chất, hình thành các kỹ năng giao tiếp trong đời sống cũng như những kỹ năng cơ bản hỗ trợ cho nghề nghiệp sau này. 1.3.2.5. Hoạt động kinh tế Lứa tuổi thanh niên học sinh không thể không đề cập đến hoạt động kinh tế, là hoạt động ngày càng thu hút nhiều sinh viên tham gia. Hoạt động này được thúc đẩy bởi nhiều động cơ của sinh viên khác nhau như động cơ thu nhập kinh tế, thực tập hay nâng cao hiểu biết, trải nghiệm. Việc tham gia hoạt động có những lợi ích nhất định cho sinh viên nhưng cũng đi kèm những trở ngại cho quá trình học tập nghề của họ. 1.3.2.6. Hoạt động văn-thể-mỹ Thanh niên sinh viên tham gia vào các câu lạc bộ, đội nhóm mang các màu sắc khác nhau như văn học, nghệ thuật, thể thao, khoa học, qua đó sinh viên xây dựng và mở rộng các mối quan hệ xã hội, rèn luyện và phát triển bản thân, tự khẳng định mình qua những trải nghiệm và lưu giữ những khoảng thời gian của tuổi trẻ năng động đầy nhiệt huyết. Nhìn chung, các dạng hoạt động của thanh niên sinh viên có những nét đặc trưng riêng qua sự khác biệt về chất so với lứa tuổi thanh niên học sinh trước đó. Để có thể 34
  35. phát triển bản thân qua từng hoạt động, sinh viên cần thích nghi được với sự thay đổi trong hoàn cảnh sống (môi trường sinh hoạt, học tập, những mối quan hệ xã hội mở rộng), nội dung, phương pháp học tập, tổ chức ở cấp bậc Đại học, Cao đẳng có những yêu cầu và đòi hỏi nhất định. Sự thích nghi này nhanh hay chậm, hiệu quả như thế nào còn tùy thuộc vào từng cá nhân sinh viên với những khác biệt rất riêng trong đặc điểm tâm lý và môi trường cụ thể, tuy nhiên luôn cần một thời gian nhất định. Các hoạt động của thanh niên sinh viên có mối quan hệ, tương tác lẫn nhau. Với mục đích chung là hình thành những phẩm chất và năng lực nghề nghiệp. Sinh viên tham gia với hệ thống động cơ đa dạng nhằm lĩnh hội và vận dụng những thông tin phù hợp trong việc giải quyết các nhiệm vụ của thực tiễn học tập và đời sống. Qua từng hoạt động, sinh viên thể hiện những phẩm chất, tri thức, kỹ năng, kỹ xảo với mức độ khác nhau nhưng tất cả đều đóng góp vào quá trình hình thành và phát triển nhân cách, là sự chuẩn bị cho đội ngũ thực hành nghề chuyên nghiệp trong tương lai. 1.3.3. Đặc điểm tâm lý của thanh niên sinh viên 1.3.3.1. Đặc điểm nhận thức Nhận thức của thanh niên có những biến đổi về chất so với tuổi thiếu niên, thanh niên mong muốn dùng tri thức của mình để cải tạo thế giới và đã bước đầu tìm cách giải quyết các vấn đề thực tiễn do cuộc sống đặt ra. Từ năm nhất đến năm tư, sinh viên đã chuyển từ quan điểm tuyệt đối sang quan điểm tương đối, tiếp theo là tự mình lựa chọn các quan điểm, ý tưởng và niềm tin phù hợp với mình. Perry coi khía cạnh phát triển trí tuệ đó là đặc điểm đặc trưng trong nhận thức của tuổi thanh niên (Trương Thị Khánh Hà, 2014). Theo Jean Piaget, lứa tuổi thanh thiếu niên đã hình thành tư duy thao tác hình thức. Đến giai đoạn thanh niên sinh viên, tư duy sau hình thức được hình thành nhằm đáp ứng các yêu cầu mới từ cuộc sống. Một số nhà nghiên cứu cho rằng tư duy sau hình thức thực chất là sự tổ chức lại về tư duy. Trong giai đoạn này, tư duy trừu tượng và tư duy logic đã phát triển ở trình độ cao với sự phối hợp của nhiều thao tác tư duy. Mặt khác, tư duy của sinh viên thường linh hoạt cho phép lĩnh hội nhanh nhạy, sắc bén mọi vấn đề. Điều này dẫn đến khả năng tìm tòi và nghiên cứu của sinh viên khá phát triển. Thêm vào đó, sinh viên phát triển nhu cầu khám phá tri thức, hướng đến cái mới dẫn đến sự thôi thúc phản biện của họ. Sinh viên còn phát triển khả năng 35
  36. tưởng tượng đến đỉnh cao thông qua hoạt động sáng tạo nghệ thuật (Huỳnh Văn Sơn và cộng sự, 2012). Hoạt động nhận thức của sinh viên là tìm hiểu những môn học, những chuyên ngành khoa học cụ thể một cách chuyên sâu, gắn kết chặt chẽ với nghiên cứu khoa học, không tách rời hoạt động nghề nghiệp của người chuyên gia. Sinh viên không chỉ dừng lại ở việc kế thừa một cách hệ thống những thành tựu khoa học đã có, đi từ việc nhận thức dựa trên kinh nghiệm cá nhân để tiến dần đến việc chấp nhận những chân lý mà còn thể hiện qua mong muốn làm sáng tỏ những giá trị khoa học trong việc tiệm cận với những thành tựu khoa học đương đại và có tính cập nhật, thời sự. Đó là những giá trị khoa học mà sự phát triển nhận thức của sinh viên nhận được thông qua những trải nghiệm. Có thể thấy, hoạt động nhận thức của sinh viên là hoạt động trí tuệ đích thực, căng thẳng, cường độ cao và có tính lựa chọn rõ rệt, phạm vi rất đa dạng, có sự phối hợp của nhiều thao tác tư duy như phân tích, so sánh, tổng hợp, trừu tượng hóa, khái quát hóa. 1.3.3.2. Đời sống xúc cảm – tình cảm Tuổi sinh viên là thời kì phát triển tích cực nhất của những loại tình cảm cấp cao như tình cảm trí tuệ, tình cảm đạo đức, tình cảm thẩm mỹ, tình bạn, tình yêu. Đặc điểm của các loại tình cảm này là có tính hệ thống và bền vững hơn so với thời kì trước đó. Những tình cảm này biểu hiện rất phong phú trong hoạt động và đời sống của sinh viên (Vũ Thị Nho, 1999). Tình cảm trí tuệ làm cho sinh viên chủ động hơn trong việc tích lũy và chiếm lĩnh tri thức. Hoạt động học tập ở đại học khai phá nơi sinh viên nhu cầu khám phá và say mê học hỏi những giá trị khoa học mà cá nhân có cơ hội được tiếp cận, sự say mê ấy không chỉ dừng lại với chuyên ngành và nghề nghiệp đã chọn qua việc chủ động tìm hiểu, đào sâu tri thức ở giảng đường, thư viện, báo cáo chuyên đề, hội thảo khoa học, tham gia hoạt động nghiên cứu khoa học mà còn mở rộng tri thức qua việc kết nối các mạng lưới xã hội, học tập từ khoa khác, trường khác và học trên các phương tiện truyền thông. Sinh viên là người yêu vẻ đẹp của con người ở hành vi, phong thái đạo đức cũng như vẻ đẹp thẩm mỹ ở các sự vật hiện tượng của thiên nhiên. Qua việc tham gia vào 36
  37. các hoạt động có tính nghệ thuật, các hoạt động xã hội, sinh viên dần cảm nhận những vẻ đẹp về người, về vật một cách sâu sắc và rõ rệt hơn, có những “triết lý” cho cái đẹp của mình theo chiều hướng khá ổn định. Tình bạn ở tuổi sinh viên tiếp tục phát triển theo chiều sâu và làm phong phú thêm đời sống tinh thần, tâm hồn và nhân cách của sinh viên. Bạn bè ở thời trung học phổ thông vẫn được sinh viên lưu giữ và có vị trí quan trọng dù việc gặp gỡ, giao tiếp hạn chế. Bên cạnh đó, những năm tháng trên giảng đường đại học sinh viên cũng xây dựng thêm những mối quan hệ bạn bè không kém phần bền vững sâu sắc. Tình yêu là một chủ đề rất đặc trưng ở tuổi sinh viên, khi sự phát triển của lứa tuổi đang dần hoàn thiện và dần đạt đến hình thái chuẩn mực cùng với những biểu hiện phong phú, đặc sắc của nó. Trong tình yêu, sinh viên có sự phát triển mạnh mẽ mang tính định hướng và khá sâu sắc, tình cảm này chiếm một vị trí quan trọng ảnh hưởng đến các hoạt động của sinh viên. Tình yêu sinh viên đạt đến sự chuẩn mực, có tác dụng tích cực trong việc giúp sinh viên thỏa mãn được nhu cầu tinh thần qua việc giúp đỡ nhau trong học tập, cùng vượt qua những khó khăn, có người bầu bạn tâm tình. Tuy nhiên, tình yêu tuổi này cũng gặp phải những vấn đề như mâu thuẫn giữa việc cân bằng học tập và giải trí, giữa mong muốn tiến xa hơn trong mối quan hệ và sự phù hợp của các điều kiện cá nhân (Vũ Thị Nho, 1999; Huỳnh Văn Sơn và cộng sự, 2012). 1.3.3.3. Đặc điểm nhân cách Nhân cách của sinh viên phát triển khá toàn diện và phong phú. Những phẩm chất, đặc điểm của nhân cách đều phát triển mạnh mẽ và dần hoàn thiện như sự tự ý thức, tự đánh giá, lòng tự trọng, sự tự tin, định hướng giá trị và thế giới quan của cá nhân. Tất cả đều có ý nghĩa rất lớn đối với việc sinh viên tự giáo dục, tự hoàn thiện bản thân theo hướng tích cực. a. Đặc điểm sự tự ý thức, tự đánh giá Một đặc điểm tâm lý chiếm vị trí quan trọng trong sự phát triển của thanh niên sinh viên là sự tự ý thức. Tự ý thức là một đặc điểm tâm lý quan trọng của thanh niên sinh viên. Đây là một trình độ phát triển cao của ý thức, giúp sinh viên không chỉ ý thức về các phẩm chất và năng lực của bản thân một cách đơn thuần như tuổi thiếu niên, mà còn ý thức bản thân với tư cách là một thành viên của xã hội: Tôi là ai, sẽ 37
  38. làm gì, có những mục tiêu, ước mơ gì, có lập trường ra sao trước tác động của những người xung quanh, Từ đó sinh viên hiểu biết rõ hơn về bản thân và có những thái độ, hành vi, cử chỉ để chủ động hướng những hoạt động theo những yêu cầu của xã hội. Một trong các thành tố có ý nghĩa quan trọng trong sự phát triển tự ý thức của thanh niên sinh viên là sự tự đánh giá. Tự đánh giá là một trong những phẩm chất quan trọng, một trình độ phát triển cao của nhân cách. Tự đánh giá có ý nghĩa định hướng, điều chỉnh hoạt động, hành vi của chủ thể nhằm đạt được mục tiêu, lý tưởng sống một cách tự giác. Nó giúp con người không chỉ biết người mà còn “biết mình”. Tự đánh giá ở tuổi sinh viên là một hoạt động nhận thức, trong đó đối tượng nhận thức chính là bản thân chủ thể, là quá trình chủ thể thu thập, xử lý thông tin về chính mình, chỉ ra được mức độ nhân cách tồn tại ở bản thân, từ đó có thái độ, hành vi, hoạt động phù hợp nhằm tự điều chỉnh, tự giáo dục để hoàn thiện và phát triển. Tự đánh giá của sinh viên vừa có ý nghĩa tự ý thức, tự giáo dục (Vũ Thị Nho, 1999). Tuổi thanh niên sinh viên, với những nhiệm vụ và mục tiêu phía trước để sẵn sàng cho cuộc sống của người trưởng thành, việc hình thành tự đánh giá tích cực là rất cần thiết. Dựa trên một số công trình nghiên cứu, mức độ tự đánh giá các lĩnh vực của sinh viên có sự khác biệt. Trong khi đánh giá sự ổn định xúc cảm của bản thân ở mức thấp; sinh viên tự đánh giá trí nhớ, tốc độ phản ứng, lòng tự tin và kĩ năng định hướng vào người khác của mình ở mức độ trung bình. Mức độ tự đánh giá cao nhất ở sinh viên bao gồm năng lực tự nhận thức, tự hiểu biết (Nguyễn Thạc và Phạm Thành Nghị, 2008). Tự ý thức, tự đánh giá là cơ sở của sự tự giáo dục, tự hoàn thiện bản thân theo định hướng giá trị về nhân cách và mục tiêu nghề nghiệp tương lai. Sự phát triển mạnh mẽ các phẩm chất này trong nhân cách của sinh viên tạo điều kiện đáp ứng các yêu cầu khác trong học tập và cuộc sống, từ đó thúc đẩy sự phát triển và hoàn thiện nhân cách. b. Sự phát triển nhu cầu Trong sự phát triển nhu cầu ở thanh niên sinh viên thì nhu cầu xã hội ở sinh viên phát triển về chất mạnh mẽ, nếu thiếu đi sự giao tiếp trong đời sống sinh viên sẽ có thể ảnh hưởng quan trọng đến sự hình thành và phát triển kỹ năng sống cũng như các 38
  39. đặc điểm nhân cách của cá nhân. Sự phát triển nhu cầu này được dựa trên thang bậc nhu cầu của Abraham Maslow. Nhu cầu được tôn trọng vẫn tiếp tục phát triển một cách sâu sắc hơn trên bình diện các mối quan hệ khác nhau và có sự chuyển biến theo hướng bình đẳng. Nhu cầu tự thể hiện được phát triển mạnh vào lứa tuổi thanh niên sinh viên, điều này thôi thúc họ thể hiện chính mình trong những hoàn cảnh khác nhau của cuộc sống (Huỳnh Văn Sơn và cộng sự, 2012). c. Định hướng giá trị của thanh niên sinh viên Định hướng giá trị phát triển mạnh vào cuối tuổi thiếu niên, đầu thanh niên khi họ phải đứng trước việc chọn nghề, chọn chuyên ngành khác nhau ở trường đại học, cao đẳng. Một nghiên cứu của Nguyễn Quang Uẩn và các cộng sự năm 1995 cho thấy trong hệ thống giá trị chung, sinh viên Việt Nam đánh giá cao các giá trị: hòa bình, tự do, tình yêu, công lý, việc làm, niềm tin, gia đình, nghề nghiệp, tình nghĩa, sống có mục đích, lòng tự trọng. Định hướng giá trị của sinh viên liên quan mật thiết với xu hướng nhân cách và kế hoạch đường đời của cá nhân (Vũ Thị Nho, 1999). Định hướng giá trị là một mặt hết sức cơ bản trong đời sống tâm lý của thanh niên nói chung và sinh viên nói riêng. Đó là những giá trị được chủ thể nhận thức và đánh giá cao. Nó có ý nghĩa định hướng, điều khiển, điều chỉnh thái độ, hành vi lối sống của chủ thể để vươn tới những giá trị đó. Bản thân mỗi sinh viên cần chú trọng việc tự rèn luyện nhân cách, tự phát triển và tự giáo dục bản thân để trở thành những người có ý thức, có trình độ, có phẩm chất đạo đức và lập trường tư tưởng vững vàng (Trương Thị Khánh Hà, 2014). Sự tự đánh giá của tuổi thanh niên không chỉ phụ thuộc vào những gì các em đạt được, mà còn phụ thuộc vào định hướng giá trị của các em, đặc biệt là định hướng giá trị về nhân cách của bản thân. d. Sự hình thành thế giới quan Tuổi thanh niên là giai đoạn quyết định đối với sự hình thành thế giới quan của con người vì chính vào giai đoạn này, sự phát triển thể chất, nhận thức và tình cảm cá nhân đã đạt đến độ chín muồi. Mặc dù trình độ phát triển nhận thức, năng lực tư duy trừu tượng và phạm vi hứng thú của thanh niên là khác nhau, nhưng nhìn chung họ đều có xu hướng suy ngẫm về thế giới và hình thành quan điểm của riêng mình. 39
  40. Theo Erikson, việc lựa chọn thế giới quan ở tuổi thanh niên có vai trò vô cùng quan trọng. Sự bất ổn trong hệ thống các quan điểm về thế giới, về bản thân và xã hội không cho phép con người tìm được vị trí của mình trong các mối quan hệ phức tạp và không tạo ra sự phát triển nhân cách toàn diện (Trương Thị Khánh Hà, 2014). Tuổi thanh niên là giai đoạn ổn định dần về nhân cách qua việc tích lũy tri thức về thế giới, về bản thân và xã hội tích hợp lại thành hệ thống, gắn bó chặt chẽ tạo nên thế giới quan tương đối bền vững, ổn định. Cấu trúc tâm lý mới quan trọng của tuổi thanh niên là “tự xác định” bản thân và hình thành thế giới quan qua việc hình thành hệ thống những quan điểm bền vững đối với bản thân và thế giới. 1.4. Tự chấp nhận của sinh viên Trong sự phát triển về lứa tuổi, thanh niên sinh viên đã hoàn thiện các khía cạnh về giải phẫu sinh lý để có thể đảm bảo khả năng sống. Trong lĩnh vực nhận thức và nhân cách, giai đoạn này đánh dấu sự chuyển biến quan trọng của những nét tâm lý như tự ý thức và tự đánh giá về bản thân qua các yếu tố về năng lực, phẩm chất cá nhân. Trong bối cảnh văn hóa xã hội, thanh niên sinh viên là những người đứng trước ngưỡng cửa cuộc sống của người trưởng thành, lứa tuổi này có sự háo hức lẫn lo âu với những nhiệm vụ và mục tiêu lớn lao ở tương lai, vì thế sinh viên cần có đủ sự tự tin, biết chấp nhận bản thân để phát triển mình và đạt được sự lành mạnh hơn trong đời sống cá nhân. 1.4.1. Khái niệm về tự chấp nhận của sinh viên Dựa trên khái niệm và những đặc điểm về tự chấp nhận đã được xác lập, nghiên cứu đề xuất định nghĩa về tự chấp nhận của sinh viên như sau: “Tự chấp nhận của sinh viên là việc sinh viên chấp nhận mình là một người đáng quý, chấp nhận những nét tính cách tích cực và tiêu cực, những ưu điểm và hạn chế của bản thân ngang qua việc chấp nhận những suy nghĩ, cảm xúc, cách ứng xử và trải nghiệm của chính mình một cách hoàn toàn và vô điều kiện cho dù có được người khác tán thành, tôn trọng, chấp nhận và yêu thương hay không” 1.4.2. Vai trò của tự chấp nhận trong đời sống của sinh viên Chamberlain và Haaga (2001) khi tìm hiểu về mối liên hệ giữa tự chấp nhận vô điều kiện và phản ứng của sinh viên đối với những phản hồi tiêu cực, kết quả đã chỉ ra rằng sinh viên có điểm tự chấp nhận cao thì sẽ khách quan hơn trong đánh giá sự 40
  41. thể hiện của bản thân và ít nghiêng về sự chê bai người đã phê bình họ (Chamberlain và Haaga, 2001a). Trong nghiên cứu của Thompson và Waltz (2003) khi tìm hiểu về mối liên hệ giữa chánh niệm với tự chấp nhận vô điều kiện và lòng tự trọng trên các sinh viên ngành Tâm lý học tại Đại học Montana (Mindfulness, Self-esteem and Unconditional Self-acceptance). Kết quả cho thấy chánh niệm có mối liên hệ tích cực với tự chấp nhận vô điều kiện và lòng tự trọng của sinh viên. Các nhà nghiên cứu nhận định, thông qua chánh niệm, sinh viên học cách chấp nhận những suy nghĩ, cảm xúc và tình huống của bản thân hơn là ra sức chống trả với những gì không thể thay đổi và không còn đánh giá giá trị của mình dựa trên tiêu chuẩn của người khác (Thompson & Walts, 2007). Flett và cộng sự (2003) đã xây dựng nghiên cứu tìm hiểu mối liên hệ giữa tự chấp nhận vô điều kiện với các khía cạnh của chủ nghĩa cầu toàn và tự báo cáo về trầm cảm trên sinh viên. Kết quả đã chỉ ra rằng tự chấp nhận vô điều kiện của sinh viên có mối liên hệ tiêu cực với các khía cạnh của chủ nghĩa cầu toàn (hướng vào bản thân, hướng vào người khác và chủ nghĩa cầu toàn mang tính bắt buộc xã hội). Bên cạnh đó, sự tự chấp nhận ở sinh viên làm trung gian điều tiết mối liên hệ giữa khía cạnh chủ nghĩa cầu toàn mang tính bắt buộc xã hội (socially prescribed perfectionism), của niềm tin không dung thứ sự thất vọng (frustration intolerance beliefs) và trầm cảm (Flett và cộng sự, 2003). Popov và cộng sự (2016) đã trình bày kết quả nghiên cứu về sự ảnh hưởng của tự chấp nhận vô điều kiện trên sức khỏe tâm thần của sinh viên. Nghiên cứu này dự đoán về về vai trò của tự chấp nhận vô điều kiện trong phản ứng buồn chán và lo lắng của sinh viên đối với các tình huống căng thẳng. Đồng thời, nghiên cứu cũng cho thấy tự chấp nhận vô điều kiện sẽ có những ảnh hưởng khác nhau đếu các chỉ số sức khỏe tâm thần trên sinh viên với phản hồi hài lòng khác nhau. Đối với yếu tố lo âu, sinh viên có điểm tự chấp nhận thấp ít hài lòng đối với phản hồi tích cực mà họ nhận được và cũng lo lắng hơn khi so sánh với những sinh viên khác. Mặt khác, sinh viên có mức độ tự chấp nhận thấp nhưng hài lòng hơn với phản hồi, lo lắng chỉ xuất hiện trong trường hợp ở những người nhận được phản hồi tiêu cực nhiều hơn. Đối với yếu tố trầm cảm, sinh viên có mức tự chấp nhận thấp không hài lòng với phản hồi thì buồn 41
  42. chán hơn trong việc so sánh chúng với những người có điểm tự chấp nhận cao hơn (trong cả hai trường hợp của việc nhận được phản hồi trung tính và tích cực). Trong khi đó, sinh viên có mức độ tự chấp nhận thấp nhưng hài lòng với phản hồi nhận được thì buồn chán hơn với phản hồi tiêu cực mà họ nhận được khi so sánh với những người có điểm tự chấp nhận cao hơn. Đồng thời khi sinh viên hài lòng với phản hồi, nhưng mức độ tự chấp nhận vô điều kiện thấp thì có nghĩa họ cũng có điểm cao trong thang đo trầm cảm (Popov và cộng sự, 2016). Có thể thấy, sinh viên có sự tự chấp nhận cao sẽ hài lòng trong cuộc sống, hạnh phúc, có khả năng tự bảo vệ mình khi trải nghiệm những tình huống thất bại mà cá nhân không thể lường trước được, luôn sẵn sàng và cởi mở với những trải nghiệm của bản thân, đón nhận chính mình và cuộc sống trên tinh thần của sự khám phá, hiểu biết để trưởng thành; còn các sinh viên có sự tự chấp nhận thấp sẽ dẫn đến các vấn đề về cầu toàn, lo âu, tức giận và triệu chứng trầm cảm. Đồng thời, sinh viên có thể nâng cao tự chấp nhận và ít phản ứng gay gắt với những kinh nghiệm tức thì của mình qua chánh niệm, khi đó cá nhân biết tập trung tâm trí vào những trải nghiệm của bản thân, duy trì sự chú ý ở giây phút hiện tại với thái độ không phán xét. 42
  43. TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 Những năm gần đây, các nhà tâm lý học trên thế giới đang ngày càng quan tâm và tiến hành nhiều công trình nghiên cứu về tự chấp nhận vô điều kiện, các nghiên cứu được thực hiện trên mẫu đa dạng ở người trưởng thành, học sinh sinh viên. Tuy nhiên, tại Việt Nam lĩnh vực nghiên cứu về tự chấp nhận này vẫn còn khá mới. Là nguồn gốc của tự chấp nhận vô điều kiện, thuật ngữ lòng tự trọng đã được nghiên cứu từ rất lâu. Có nhiều quan điểm để đánh giá lòng tự trọng với nhiều khía cạnh, đa chiều hơn như năng lực hay sự xứng đáng, đặc biệt là mối liên hệ giữa hai yếu tố này. Cùng với khuynh hướng Tâm lý học tích cực, Albert Ellis (1977) – người sáng lập Liệu pháp hành vi cảm xúc hợp lý đã đề ra khái niệm “Tự chấp nhận vô điều kiện” như một thành tố thay thế cho “lòng tự trọng” trên một quan điểm đặc trưng duy nhất và vươn xa hơn đến ý tưởng về sự hạnh phúc, đó là sự khẳng định về giá trị con người cao hơn và vượt ra khỏi giới hạn hành vi ứng xử. Theo đó, các nhà tâm lý học đã tìm hiểu và nghiên cứu về mối mối liên hệ giữa mức độ tự chấp nhận vô điều kiện với các yếu tố như sự thể hiện bản sắc cá nhân, cảm nhận hạnh phúc, những niềm tin phi lý cũng như các vấn đề về sức khỏe tâm lý/tâm thần. Khi đó, tự chấp nhận vô điều kiện được hiểu là việc cá nhân chấp nhận bản thân một cách trọn vẹn và vô điều kiện bất kể sự cư xử của bản thân là thông minh, đúng đắn, thành thạo hay không và cho dù có được người khác ghi nhận, tôn trọng hoặc yêu thương họ hay không. Đối với sinh viên, tự chấp nhận hướng đến việc cá nhân chấp nhận rằng mình là người thật sự có giá trị, đón nhận những trải nghiệm, ý thức rằng là con người thì dễ mắc sai lầm, chưa hoàn hảo, nhiều khi thể hiện tốt nhưng đôi khi cũng sai; chấp nhận bản thân luôn luôn và vô điều kiện mà không có bất kì sự phán xét nào. 43
  44. CHƯƠNG 2 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG TỰ CHẤP NHẬN CỦA SINH VIÊN NGÀNH TÂM LÝ HỌC – KHOA TÂM LÝ HỌC TRƯỜNG ĐHSP TP.HCM 2.1. Thể thức nghiên cứu 2.1.1. Mẫu nghiên cứu Mẫu nghiên cứu được chọn ngẫu nhiên từ sinh viên theo học chuyên ngành Tâm lý học (hệ chính quy) tại Khoa Tâm lý học Trường ĐHSP TP.HCM năm học 2018- 2019. Sinh viên được hướng dẫn trả lời nội dung trong phiếu khảo sát. Tổng số phiếu thu về đạt yêu cầu là 274 phiếu. Phân bố mẫu nghiên cứu được trình bày ở bảng 2.1. Bảng 2.1. Phân bố mẫu nghiên cứu Tiêu chí Số lượng Tỉ lệ (%) Nam 40 14,6 Giới tính Nữ 227 82,8 Khác 7 2,6 Năm nhất 74 27 Năm hai 74 27 Năm học Năm ba 52 19 Năm tư 74 27 Xuất sắc 10 3,6 Giỏi 112 40,9 Điểm trung bình Khá 140 51,1 Trung bình 12 4,4 Xuất sắc 39 14,2 Tốt 146 53,3 Điểm rèn luyện Khá 82 29,9 Trung bình 7 2,9 44
  45. 2.1.2. Công cụ nghiên cứu Công cụ nghiên cứu chính của đề tài là Bảng hỏi Tự chấp nhận vô điều kiện (USAQ) của Chamberlain & Haaga (2001). Bên cạnh đó, một công cụ khác là Bộ câu hỏi phỏng vấn bán cấu trúc dành cho sinh viên Khoa Tâm lý học Trường ĐHSP TP.HCM. 2.1.2.1. Quy trình thích nghi và thiết kế công cụ Bảng hỏi Tự chấp nhận vô điều kiện được xin phép bản quyền từ tác giả, sau đó chuyển ngữ và dịch ngược. Người nghiên cứu tự điều chỉnh một số từ sử dụng và cách viết câu sao cho phù hợp mà không làm mất đi ý nghĩa của mệnh đề được nêu ra. Qua nghiên cứu về khái niệm, vai trò, mối liên hệ của tự chấp nhận vô điều kiện và các yếu tố khác như hạnh phúc, lòng tự trắc ẩn, niềm tin phi lý và sức khỏe tâm lý/ tâm thần. Bộ câu hỏi phỏng vấn bán cấu trúc dành cho sinh viên Tâm lý học được thiết kế với những câu hỏi mở nhằm thu thập thông tin về các khía cạnh của tự chấp nhận dưới góc nhìn, quan điểm và trải nghiệm của 8 sinh viên ngành Tâm lý học tham gia nghiên cứu. 2.1.2.2. Mô tả công cụ a. Bảng hỏi tự chấp nhận Phiếu khảo sát Tự chấp nhận vô điều kiện của sinh viên Khoa Tâm lý học Trường ĐHSP TP.HCM bao gồm 2 phần: Phần A: Thông tin cá nhân của người tham gia, gồm: giới tính, năm học, điểm trung bình và điểm rèn luyện. Phần B: Nội dung bảng hỏi gồm 20 câu hỏi đo lường mức độ sinh viên chấp nhận bản thân vô điều kiện (Chamberlain & Haaga, 2001). Các câu hỏi được trải dài trên thang đo từ 1 đến 7 với các giá trị tương ứng: (1) Gần như luôn luôn sai (2) Thường sai (3) Thường sai nhiều hơn đúng (4) Số lần đúng và sai bằng nhau (5) Thường đúng nhiều hơn sai (6) Thường đúng (7) Gần như luôn luôn đúng 45
  46. b. Bảng phỏng vấn tự chấp nhận Phần A: Thu thập thông tin ban đầu về sức khỏe, cảm xúc cũng như các thông tin về trải nghiệm trong gia đình, học tập và sự kiện đặc biệt của người tham gia trong thời gian gần. Phần B: Nội dung phỏng vấn tìm hiểu về quan điểm và trải nghiệm của người tham gia qua một số câu hỏi về cách họ định nghĩa, nhận định về tự chấp nhận, những chia sẻ của họ về quá trình tự chấp nhận, quan điểm của họ về một người tự chấp nhận cao/thấp, những yếu tố tác động đến tự chấp nhận cũng như vai trò của tự chấp nhận trong đời sống cá nhân. 2.1.2.3. Cách xử lí và đánh giá a. Bảng hỏi tự chấp nhận vô điều kiện Phần A: Thông tin cá nhân của sinh viên trong phiếu khảo sát, số liệu được sử dụng để thống kê tính tần số, không tính điểm. Phần B: 20 câu hỏi được tính như sau: (a). Sẽ tính điểm ngược: 7=1, 6=2, 3=5, 4=4 với 11 câu hỏi, bao gồm: 1, 4, 6, 7, 9, 10, 12, 13, 14, 15, 19. Có nghĩa rằng, điểm số cao bằng mức độ tự chấp nhận thấp. (b). Tính điểm bằng với điểm được cho: 1=1, 7=7 và tương tự, bao gồm: 2, 3, 5, 8, 11, 16, 17, 18, 20. Có nghĩa rằng, điểm số cao cho thấy mức độ tự chấp nhận cao. (c). Tính tổng tất cả các câu thành phần Trong nghiên cứu đâu tiên của Haaga, điểm trung bình của nhóm sinh viên là 82,78 với độ lệch chuẩn là 17,28. Tuy nhiên, chưa có một nghiên cứu vĩ mô nào sử dụng Bảng hỏi tự chấp nhận vô điều kiện nên không thể xác định được thang điểm về tự chấp nhận. Việc xử lý và đánh giá điểm của bảng hỏi đang được các nhà nghiên cứu thực hiện trên mẫu quy mô hơn (Falkenstein & Haaga, 2013). Vì thế, điểm tổng được người nghiên cứu quy đổi thành 7 mức độ như sau: lấy điểm tổng cao nhất (140) trừ điểm tổng thấp nhất (20) và chia cho số mức độ được lựa chọn (7), kết quả ghi nhận trên 7 mức độ với số điểm tương ứng dưới bảng 2.2: 46
  47. Bảng 2.2. Phân chia mức độ tự chấp nhận dựa trên điểm trung bình Mức 1 Mức 3 Mức 4 Mức 5 Mức 7 Mức 2 Mức 6 (Rất (Khá (Trung (Khá (Rất (Thấp) (Cao) thấp) thấp) bình) cao) cao) Điểm 20 đến 38 đến 55 đến 72 đến 89 đến 106 đến 123 đến tổng 37 54 71 88 105 122 140 b. Bảng hỏi phỏng vấn Thông tin buổi phỏng vấn được ghi chép thành văn bản. Quá trình xử lý kết quả phỏng vấn như sau: - Tìm kiếm những thông tin liên quan đến mục tiêu ban đầu và lợi ích cuộc phỏng vấn hướng đến để mã hóa. Nếu có các vấn đề mới phát sinh sẽ được ghi nhận thêm trong quá trình mã hóa. - Xác định các sự kiện, đặc điểm, ý nghĩa, các hoạt động, các từ/cụm từ, hành vi được đề cập và phân loại thành các “mã” hoặc “từ ngữ”. - Phân biệt hoặc tích hợp các sự kiện, nhóm các thông tin ghi chép được thành các đơn vị/nhóm có ý nghĩa theo chủ đề để rút ra kết luận. - Quá trình xử lý được thực hiện cho đến khi bản ghi chép không còn gì mới và một số mã đã nổi bật lên, mối liên kết giữa các mã đã được hình thành. 2.1.2.4. Độ tin cậy của thang đo Bảng 2.3 dưới đây trình bày độ tin cậy của bảng hỏi Tự chấp nhận vô điều kiện. Hệ số tin cậy Cronbach’s Alpha là 0,7 đạt mức tốt. Bảng 2.3. Hệ số tin cậy của thang đo Hệ số tin cậy Thang đo Số câu (Cronbach’s Alpha) Bảng hỏi Tự chấp nhận vô điều kiện 20 0,704 47
  48. 2.2. Kết quả nghiên cứu thực trạng tự chấp nhận của sinh viên Khoa Tâm lý học Trường ĐHSP TP.HCM 2.2.1. Kết quả khảo sát tự chấp nhận của sinh viên Khoa Tâm lý học Trường ĐHSP TP.HCM trên toàn mẫu Bảng 2.4. Mức độ tự chấp nhận của sinh viên Khoa Tâm lý học Trường ĐHSP TP.HCM Mức Xếp loại Tổng điểm Tần số Tỉ lệ (%) độ 1 Rất thấp 20 đến 37 0 0 2 Thấp 38 đến 54 2 0,7 3 Khá thấp 55 đến 71 41 15 4 Trung bình 72 đến 88 146 53,3 5 Khá cao 89 đến 105 76 27,7 6 Cao 106 đến 122 8 2,9 7 Rất cao 123 đến 140 1 0,4 Kết quả thống kê ở bảng 2.4 cho thấy 274 sinh viên tham gia trả lời 20 câu hỏi về tự chấp nhận vô điều kiện: chỉ có 0,4% sinh viên có mức độ tự chấp nhận ở mức rất cao, có 2,9% sinh viên ở mức cao, 27,7% sinh viên ở mức khá cao, 53,3% ở mức trung bình, 15% ở mức khá thấp và 0,7% ở mức thấp, không có bất kì sinh viên nào trong mẫu nghiên cứu có mức tự chấp nhận rất thấp. Như vậy, sự tự chấp nhận của đa số sinh viên Khoa Tâm lý học Trường ĐHSP TP.HCM ở mức trung bình. Trung bình điểm tổng của tự chấp nhận trên mẫu là 83,32 thuộc mức trung bình, trong đó tổng điểm thấp nhất là 52 và cao nhất là 129 với độ lệch chuẩn là 12,17. Biểu đồ 2.1 phân bố mức độ tự chấp nhận của sinh viên tập trung ở mức trung bình đến khá cao. 48
  49. 0 % 0,7 % 15 % 53,3 % 27,7 % 2,9 % 0,4 % Biểu đồ 2.1. Phân bố mức độ tự chấp nhận của sinh viên Khoa Tâm lý học Trường ĐHSP TP.HCM Dưới quan điểm của A. Ellis, chấp nhận mình một cách trọn vẹn và vô điều kiện trong việc nhìn nhận rõ sự sinh động của bản thân, chọn sống hạnh phúc và hạn chế những nỗi đau không cần thiết, tập trung vào sự trưởng thành, chấp nhận chính mình mà không chịu bất kì sự tác động của đánh giá nào khác. Trong quá trình phát triển, thanh niên sinh viên là giai đoạn có sự tự ý thức ngày càng được nâng cao, cá nhân dần khám phá và có sự tự đánh giá về bản thân một cách rõ ràng hơn. Sinh viên Tâm lý học là những người được tiếp cận với tri thức khoa học về đời sống tâm lý con người, về các chiều kích sâu hơn trong tiến trình khám phá bản thân. Vì thế, sự tiếp cận ấy cũng góp phần vào việc sinh viên mở rộng và đi sâu hơn trong việc xác định mục đích và ý nghĩa cuộc sống của mình, khởi đi từ việc lắng nghe bản thân và học cách đón nhận mình với tất cả những trải nghiệm, những ưu khuyết điểm, những tiềm năng và giới hạn của bản thân. Tỉ lệ tự chấp nhận của sinh viên Khoa Tâm lý học Trường ĐHSP TP.HCM có xu hướng phân bố thiên về mức trung bình – khá cao, điều này cũng thể hiện một khuynh hướng tích cực của sinh viên Tâm lý học trong việc họ đang tiến dần đến sự tự chấp nhận hoàn toàn và vô điều kiện. 49
  50. Bảng 2.5. Một số khía cạnh nổi bật trong tự chấp nhận của sinh viên Khoa Tâm lý Trường ĐHSP TP.HCM Biểu hiện ĐTB ĐLC Khi tôi quyết định đặt mục tiêu cho chính mình thì việc cố gắng để đạt được hạnh phúc quan trọng hơn là cố 5,47 1,56 gắng để chứng tỏ bản thân. Điểm số Tôi tin rằng tôi có giá trị, đơn giản chỉ vì tôi là một con cao nhất 5,26 1,70 người. Khi tôi nhận một phản hồi tiêu cực, tôi xem đó như 5,01 1,33 một cơ hội để cải thiện hành vi và biểu hiện của mình. Tôi nghĩ rằng ai thành công trong những việc họ làm 2,39 1,36 là người có giá trị đặc biệt. Điểm số Tôi đặt cho mình những mục tiêu với hy vọng khi đạt 3,08 1,48 thấp nhất được thì tôi có thể cho mọi người thấy giá trị của mình. Tôi cảm thấy một số người có giá trị hơn những người 3,27 1,64 khác. Kết quả trên ghi nhận quan điểm “thường đúng nhiều hơn sai” với các mệnh đề của tự chấp nhận vô điều kiện thể hiện việc đa số sinh viên Tâm lý tập trung và hướng đến việc đạt được hạnh phúc hơn là thể hiện hoặc đánh giá chính mình, cảm nhận của sinh viên về giá trị nguyên bản và ý thức của họ trong việc nhìn nhận sự phản hồi, đánh giá của người khác trong đời sống thường ngày. Cũng trên bảng 2.5 cho thấy các mệnh đề ngược với sự tự chấp nhận như việc nhìn nhận, so sánh và định giá trị của một người dựa trên thành công, mong đợi sự ghi nhận từ người khác hầu hết được sinh viên Tâm lý nhận định những điều ấy “thường sai nhiều hơn đúng”. Điều này cho thấy các sinh viên đều ý thức được giá trị của sự tồn tại hợp lý và chấp nhận mình qua việc không đánh giá bản thân trong bất kì điều kiện hay sự thể hiện nào của mình. 50
  51. Biểu đồ 2.2 dưới đây thể hiện khuynh hướng của sinh viên Tâm lý trong việc nhìn nhận ý nghĩa của sự tự chấp nhận là hướng đến cảm nhận hạnh phúc hơn là chứng tỏ mình khi đặt mục tiêu cá nhân. Biểu đồ 2.2. Phân bố lựa chọn cho mệnh đề “Khi quyết định đặt mục tiêu cho chính mình thì việc cố gắng để đạt được hạnh phúc quan trọng hơn là cố gắng để chứng tỏ bản thân” Kết quả trên cho thấy, phân bố lựa chọn hướng đến hạnh phúc hơn nhiều hơn việc chứng tỏ bản thân, thống kê chỉ ra đa số sinh viên chọn câu trả lời thường đúng, luôn đúng và đúng nhiều hơn sai. Điều này thể hiện việc sinh viên Tâm lý dần ý thức rõ ràng hơn nhu cầu và mong muốn của bản thân mỗi khi đặt mục tiêu cho chính mình trong cuộc sống đó là hướng đến hạnh phúc hơn là chứng tỏ bản thân với người xung quanh. Trong điều kiện về mối quan tâm của A. Ellis với sự phát triển, duy trì và điều trị các vấn đề về cảm xúc, ông rất hứng thú trong việc tìm hiểu và khám phá xem điều gì khiến con người vui vẻ. Ông nhận định rằng việc cá nhân cảm nhận hạnh phúc trong điều kiện của cảm giác hài lòng và có thể đạt được qua sự tham gia tích cực của họ vào các hoạt động, và đó chỉ là hạnh phúc ngắn hạn dựa trên nền của sự hài lòng 51
  52. tạm thời. Trong khí đó, hạnh phúc thật sự là khi con người có những cảm xúc dương tính với những trải nghiệm của mình, đó là kết quả đáp ứng những tiềm năng, sự phấn đấu của cá nhân để hướng tới sự xuất sắc và tự hiện thực hóa. Cũng trong việc nhìn nhận sự tự chấp nhận, biểu đồ 2.3 dưới đây thể hiện khuynh hướng định giá trị không dựa trên sự thành công của sinh viên Khoa Tâm lý. Biểu đồ 2.3. Phân bố lựa chọn cho mệnh đề “Tôi nghĩ rằng ai thành công trong những việc họ làm là người có giá trị đặc biệt” Kết quả của khuynh hướng sinh viên có định giá trị của một người dựa trên sự thành công hay không phân bố tập trung ở lựa chọn cho rằng điều đó thường sai, sai nhiều hơn đúng nhưng cũng có gần 20% sinh viên chọn đúng và sai bằng nhau. Điều này cho thấy khuynh hướng chung của sinh viên Tâm lý trong việc định giá trị của một người không dựa trên sự thành công hay dựa vào năng lực thông qua thành tích và sự công nhận từ bên ngoài để đánh giá về giá trị bản thân nhưng đặt trên nền của sự hiện hữu như một người có giá trị. Trong “The Value of Human Being” Bernard đã xác định rằng việc định giá trị (valuing) của một người trong nhìn nhận việc được sống hay được tồn tại đã được nhiều nhà triết học hiện sinh như Paul Tillich, Robert S. Hartman khi xem nó là một giải pháp hợp lý cho vấn đề của giá trị bản thân khi cá nhân cảm nhận mình như một 52