Khóa luận Tinh thần nhập thế trong lễ Hằng Thuận của phật giáo ở Việt Nam hiện nay
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Tinh thần nhập thế trong lễ Hằng Thuận của phật giáo ở Việt Nam hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- khoa_luan_tinh_than_nhap_the_trong_le_hang_thuan_cua_phat_gi.pdf
Nội dung text: Khóa luận Tinh thần nhập thế trong lễ Hằng Thuận của phật giáo ở Việt Nam hiện nay
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN KHOA TRIẾT HỌC TẠ THU HẰNG TINH THẦN NHẬP THẾ TRONG LỄ HẰNG THUẬN CỦA PHẬT GIÁO Ở VIỆT NAM HIỆN NAY KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC NGÀNH TRIẾT HỌC Hệ đào tạo: Chính quy Khóa học: QH-2015-X HÀ NỘI, 2019
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI Bảng đã định dạng TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN KHOA TRIẾT HỌC TẠ THU HẰNG Đã định dạng: Thụt lề: Dòng đầu tiên: 0 cm, Khoảng cách TINH THẦN NHẬP THẾ TRONG LỄ HẰNG THUẬN Sau: 10 pt CỦA PHẬT GIÁO Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Đã định dạng: Trái, Thụt lề: Dòng đầu tiên: 0 cm, Khoảng cách Sau: 10 pt KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC NGÀNH TRIẾT HỌC Hệ đào tạo: Chính quy Khóa học: QH-2015-X NGƯỜI HƯỚNG DẪN: TS. Hà Thị Bắc
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan khóa luận này là kết quả nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng dẫn của TS. Hà Thị Bắc. Các tư liệu, tài liệu được sử dụng trong luận án là trung thực, khách quan và có nguồn gốc rõ ràng. Hà Nội, ngày 07 tháng 5 năm 2019 Sinh viên Tạ Thu Hằng
- LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành chương trình đại học và viết khóa luận tốt nghiệp này, tôi xin chân thành cảm ơn tới các Thầy, Cô giáo Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân Văn, ĐHQGHN, đặc biệt là các thầy, cô giáo Khoa Triết học – những người dạy dỗ, chỉ bảo cho tôi trong suốt 4 năm qua. Đặc biệt tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến TS. Hà Thị Bắc, người đã dành rất nhiều tâm huyết và thời gian hướng dẫn tôi hoàn thành khóa luận này. Mặc dù tôi đã có nhiều cố gắng song khóa luận vẫn còn có những thiếu sót. Vì vậy tôi rất mong nhận được những đóng góp quý báu của quý thầy cô và các bạn để khóa luận của tôi được hoàn thiện hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, ngày 07 tháng 5 năm 2019 Sinh viên Tạ Thu Hằng
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TINH THẦN NHẬP THẾ VÀ LỄ HẰNG THUẬN CỦA PHẬT GIÁO 7 1.1. Các khái niệm cơ bản 7 1.1.1. Khái niệm nhập thế 7 1.1.2. Khái niệm Phật giáo nhập thế 9 1.1.3. Khái niệm lễ Hằng Thuận 11 1.2. Biểu hiện tinh thần nhập thế của Phật giáo Việt Nam 12 1.2.1. Biểu hiện tinh thần nhập thế của Phật giáo Việt Nam trong lịch sử 12 1.2.2. Biểu hiện tinh thần nhập thế của Phật Giáo Việt Nam hiện nay 27 1.3. Khái quát chung về lễ Hằng Thuận 33 CHƯƠNG 2: NỘI DUNG TINH THẦN NHẬP THẾ TRONG LỄ HẰNG THUẬN CỦA PHẬT GIÁO VIỆT NAM HIỆN NAY 37 2.1. Biểu hiện của tinh thần nhập thế trong lễ Hằng Thuận ở Việt Nam hiện nay. 37 2.1.1. Biểu hiện tinh thần nhập thế của Phật giáo trong lễ Hằng Thuận thông qua việc thực hiện các giáo lý, giáo luật. 37 2.1.2. Biểu hiện tinh thần nhập thế của Phật giáo trong lễ Hằng Thuận qua nghi lễ, tổ chức 49 2.1.3. Biểu hiện tinh thần nhập thế trong lễ Hằng Thuận thông qua tác động của lễ Hằng Thuận đến đời sống hôn nhân gia đình 57 2.2. Ý nghĩa của lễ Hằng Thuận đối với đời sống hôn nhân, gia đình ở Việt Nam hiện nay 66 2.2.1. Lễ Hằng Thuận – cầu nối giữa đạo và đời 66 2.2.2. Thực hiện lễ Hằng Thuận góp phần giữ gìn và phát huy những giá trị tốt đẹp trong hôn nhân, gia đình của người Việt 69 KẾT LUẬN 76 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 79
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Từ khi du nhập vào nước ta, đạo Phật đã nhanh chóng ăn sâu, bám rễ vào đời sống tinh thần của người dân, ảnh hưởng sâu sắc đến mọi mặt trong đời sống xã hội. Dưới các triều đại như Đinh, Lê, Lý, Trần, tinh thần nhập thế của Phật giáo đã lấn át những ảnh hưởng vốn có vị thế vững vàng của Nho giáo trong đời sống xã hội đương thời, bằng chứng là các vị cao Tăng đạo hạnh và có uy tín của Phật giáo đã đứng ra đảm nhận vai trò quân sự, cố vấn triều đình lèo lái con thuyền dân tộc. Thời nhà Đinh, thiền sư Ngô Chấn Lưu được vua Đinh Tiên Hoàng phong chức Tăng thống, ban hiệu là Khuông Việt Thái Sư, đứng đầu Phật giáo thời bấy giờ, điều này cho thấy triều đại nhà Đinh đã chính thức công nhận nhân sự của Phật giáo trực tiếp tham gia chính sự trong vai trò chỉ đạo tâm linh. Thời nhà Lê, vua Lê Đại Hành đã cho mời hai thiền sư Pháp Thuận và Vạn Hạnh làm cố vấn chính trị, thiền sư Vạn Hạnh được vua Lê Đại Hành đích thân xin ý kiến về cuộc kháng chiến chống quân Tống vào năm 980. Sang thời nhà Lý, thiền sư Vạn Hạnh đã cố vấn vua Lý Công Uẩn dời đô từ kinh thành Hoa Lư (Ninh Bình) về Đại La, tức Thăng Long – Hà Nội ngày nay, biến nơi đây thành một trung tâm chính trị, văn hóa, xã hội. Đến thời nhà Trần, sự ra đời của thiền phái Trúc Lâm và Giáo hội Trúc Lâm, đã đánh dấu thời kỳ mở đầu của tổ chức Giáo hội Phật giáo độc lập và thuần Việt tại nước ta, khẳng định vị thế vững vàng của Phật giáo trong lòng dân tộc. Hiện nay, tinh thần nhập thế của phật giáo vẫn được phát huy mạnh mẽ. Phật giáo Việt Nam hôm nay đã có nhiều Phật sự ích đời, lợi đạo. Thông qua hoằng dương Phật pháp, Phật giáo Việt Nam đã đưa đến cho người dân tư tưởng sống trong Chính pháp, thực hiện tốt pháp luật của Nhà nước, làm tròn nghĩa vụ của người công dân, tích cực tham gia các hoạt động nhân đạo, thực 1
- hiện xóa đói giảm nghèo, xây dựng cuộc sống mới văn minh tiến bộ. Trên con đường hành đạo của mình, Phật giáo Việt Nam đã tích cực tham gia các phong trào như đền ơn đáp nghĩa, tri ân các thương binh liệt sĩ, gắn liền với đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” của dân tộc Việt Nam. Tham gia các chiến dịch nhân đạo ủng hộ đồng bào bị thiên tai lũ lụt; các công tác từ thiện, nuôi dưỡng, giúp đỡ người nghèo, người không nơi nương tựa, người khuyết tật, người bị ảnh hưởng chất độc da cam, nuôi dạy trẻ em mồ côi, trẻ em bị bỏ rơi. Tinh thần nhập thế của Phật giáo xuất hiện ngay cả trong đời sống xã hội. Đặc biệt trong bối cảnh xã hội đang có những biểu hiện suy thoái về đạo đức, lối sống. Trong gia đình, hiện tượng ly hôn, ly thân, bạo lực gia đình, diễn ra ngày càng nhiều, nhất là ở các cặp vợ chồng trẻ. Trước tình hình đó, Phật giáo nhập thế đã ảnh hưởng không nhỏ tới đời sống xã hội thì nay càng phải nhập thế vào thế tục nhiều hơn. Một trong những tinh thần nhập thế tích cực của Phật giáo Việt nam hiện nay là thông qua lễ Hằng Thuận. Đây là nghi lễ đặc biệt dành cho lễ Đã định dạng: Cô đọng 0,3 pt cưới được tổ chức tại chùa. Ngoài nghi lễ truyền thống của đám cưới như tuyên bố lý do, trao nhẫn cưới, nhận những lời chúc phúc của hai họ thì nghi thức của lễ Hằng Thuận trong ngày cưới mang đậm dấu ấn đạo đức tâm linh và trí tuệ của đạo Phật cùng với những định hướng cụ thể giúp cho đôi vợ chồng có những kiến thức cần thiết về cuộc sống hôn nhân, gia đình, từ đó nhận thức rõ ràng về trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi của vợ chồng và sống lạc quan hơn trên tinh thần giác ngộ. Hiện nay, lễ Hằng Thuận giành được sự quan tâm rất lớn từ các bạn trẻ và là một trong những khía cạnh được Giáo hội Phật giáo rất quan tâm đến. Có thể coi đây là nghi lễ mang bản sắc văn hóa của dân tộc và cũng chứa đựng nhiều tư tưởng tiến bộ của Phật giáo. Tinh thần nhập thế trong lễ Hằng Thuận được thể hiện rõ nét trong nghi lễ và cả giáo lý của lễ Hằng Thuận, ngày càng có tác động tích cực đến cuộc sống hôn nhân của nhiều gia đình trẻ ở Việt Nam. Xuất phát từ lý do trên, tôi đã lựa chọn vấn đề “Tinh thần nhập thế trong lễ Hằng Thuận của Phật giáo ở Việt Nam hiện nay” làm luận văn tốt nghiệp với mong muốn tìm hiểu rõ 2
- hơn những ảnh hưởng của tinh thần nhập thế của Phật giáo thông qua lễ Hằng Thuận đến đời sống hôn nhân gia đình ở Việt Nam hiện nay. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Phật giáo là một tôn giáo lớn có ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống văn hóa, xã hội của Việt Nam. Vì vậy khá nhiều các học giả quan tâm nghiên cứu về Phật giáo nói chung và tinh thần nhập thế của Phật giáo nói riêng. Tuy nhiên, công trình nghiên cứu về lễ Hằng Thuận nói chung và tinh thần nhập thế của lễ Hằng Thuận nói riêng vẫn còn khá ít, mà chủ yếu là các bài viết đề cập tới vấn đề này từ các góc độ khác nhau song chưa được nghiên cứu một cách hệ thống, liên quan đến đề tài có một số công trình tiêu biểu sau: Về Tinh thần nhập thế của Phật giáo, Tác giả Đặng Thị Lan với “Tìm hiểu về tinh thần nhập thế của Phật giáo Việt Nam” (tạp chí Khoa học xã hội nhân văn số 1/2003) đã chỉ ra tinh thần nhập thế của Phật giáo thể hiện rất rõ ràng ở hai khía cạnh: “dùng đạo để hướng dẫn đời và dùng đời để thực hành đạo”. Tác giả nhấn mạnh “tại thế gian giác” - việc giác ngộ thế gian, hiểu rõ thế gian của người tu sĩ Phật giáo. Tác giả Đới Thần Kinh với “Thế tục hóa và thần thánh hóa” đã xuất phát từ phân tích khái niệm thế tục hóa của tôn giáo nói chung khi các tôn giáo đều có xu hướng chuyển từ lấy thần thánh làm trung tâm sang lấy con người và xã hội loài người làm trung tâm, từ đó đi đến khẳng định xu hướng của Phật giáo ở châu Á là Phật giáo nhập thế. Tác giả dường như đã đồng nhất khái niệm “nhập thế” với khái niệm “thế tục hóa” và kết luận “dưới sự chỉ đạo của tinh thần nhập thế, các tôn giáo tích cực tham gia bảo vệ hòa bình thế giới, thúc đẩy các công cuộc phát triển xã hội, phục vụ xã hội”. Tác giả Nguyễn Tuấn Anh với bài viết “Vài nét về vấn đề “nhập thế” của Phật giáo thời Đinh và Tiền Lê” trong Phật giáo thời Đinh và Tiền Lê trong công cuộc dựng nước và giữ nước (Nxb Khoa học xã hội, 2010, tr. 31-39) đã định nghĩa nhập thế với hai ý: đem đạo vào đời và đem đời vào đạo, cách hiểu này đã phản ánh được phần nào khái niệm nhập thế. 3
- Trong luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Toan với tên đề tài: “Tinh thần nhập thế trong tư tưởng Phật giáo của Trần Nhân Tông” đã chỉ ra được tinh thần nhập thế của Phật giáo ngay từ buổi đầu của Đức Phật Thích Ca và tinh thần nhập thế của Việt Nam trong tất cả khía cạnh văn hóa, xã hội. Đồng thời làm sáng tỏ các giá trị trong Tinh thần Nhập thế Trần Nhân Tông. Tác giả Đỗ Quang Hưng với “Phật giáo Việt Nam trong bối cảnh hội nhập và toàn cầu hóa”. Trong bài viết này, tác giả đã rất đề cao vai trò của Phật giáo trong xã hội hiện đại và những thay đổi của Phật giáo nói chung cho phù hợp với thời đại mới, từ đó chỉ ra nhiệm vụ của Phật giáo trong giai đoạn hiện nay. Cuốn sách do tác giả Nguyễn Kim Sơn làm chủ biên xuất bản năm 2018 với Phật giáo nhập thế và các vấn đề xã hội đương đại. Cuốn sách tổng hợp các bài viết tham luận của nhiều học giả về tinh thần nhập thế của Phật giáo. Trong đó khái niệm nhập thế, vai trò và ảnh hưởng của Phật giáo nhập thế được rất nhiều tác giả quan tâm và trình bày trong cuốn sách này. Nhìn chung, các tác giả khi nghiên cứu về tinh thần nhập thế của Phật giáo Việt Nam đều nhấn mạnh, Phật giáo hiện nay là Phật giáo nhập thế. Khái niệm “nhập thế” không đồng nhất với khái niệm “thế tục hóa” của phương Tây. Về lễ Hằng Thuận, có một số công trình tiêu biểu sau: Trong cuốn Nghi thức lễ Hằng Thuận của Tỳ kheo Thích Chơn Không xuất bản năm 2014 là một công trình được biên soạn rất công phu dành cho thanh niên nam nữ Phật tử khi thành hôn. Trong đó có giới thiệu nghi thức truyền Tam quy Ngũ giới ngắn gọn xúc tích phù hợp với lễ Hằng Thuận và nhiều tiết mục quan trọng khác, để chư Tôn đức Tăng Ni Trụ trì các tự viện tham khảo hướng dẫn cho hàng Phật tử tại gia khi thành hôn. Cuốn sách Những nét văn hóa đạo Phật của hòa thượng Phụng Sơn xuất bản năm 2015 nói về những đóng góp của Phật giáo trong đời sống xã hội. Bên cạnh đó, lễ Hằng Thuận được thầy nói đến là một nghi lễ trong truyền thống văn hóa của người Việt. 4
- Trong cuốn sách Đám cưới người Việt xưa và nay (2014), Bùi Xuân Mỹ đã mô tả và xem "đám cưới tại chùa" là một trong những đám cưới “đặc biệt”. Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Mỹ Hạnh với tên đề tài “ Lễ Hằng Thuận trong cưới hỏi ở thành phố Hồ Chí Minh hiện nay”. Luận văn tập trung nghiên cứu đặc điểm và nghi thức tổ chức lễ Hằng Thuận trong phạm vi Thành phố Hồ Chí Minh. Thông qua luận văn có thể biết được nguồn gốc, diễn trình và vai trò của lễ Hằng Thuận. Đề tài về lễ Hằng Thuận hiện nay chủ yếu được nghiên cứu từ các nhà sư, nhà Phật học nên nguồn tài liệu vẫn chưa phong phú, chỉ được công bố trong phạm vi Phật giới. Trong giới hạn của một số bài viết ngắn, bài báo tạp chí, trên các phương tiện thông tin đại chúng, một số tác giả chưa đi sâu vào từng vấn đề cụ thể, chưa lý giải nhiều về nghi lễ. Các công trình nghiên cứu trên là nguồn tài liệu tham khảo rất hữu ích cho tác giả đi sâu vào tìm hiểu vấn đề “Tinh thần nhập thế trong lễ Hằng Thuận của Phật giáoViệt Nam hiện nay”. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích của khóa luận là: Trên cơ sở làm rõ một số vấn đề lý luận về tinh thần nhập thế của Phật giáo Việt Nam, đề tài tiếp tục phân tích, làm rõ những nội dung cơ bản của tinh thần nhập thế trong lễ Hằng Thuận của Phật giáo. Từ đó rút ra ý nghĩa của nghi lễ Hằng Thuận của Phật giáo Việt Nam hiện nay. Nhiệm vụ của khóa luận: - Làm rõ một số vấn đề lý luận về tinh thần nhập thế của Phật giáo Việt Nam - Phân tích nội dung tinh thần nhập thế trong lễ Hằng Thuận của Phật giáo Việt Nam hiện nay - Rút ra ý nghĩa của lễ Hằng Thuận đối với đời sống hôn nhân gia đình ở Việt Nam hiện nay. 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu 5
- Đối tượng: Luận văn tập trung nghiên cứu tinh thần nhập thế trong lễ Hằng Thuận của Phật giáo Việt Nam hiện nay Phạm vi nghiên cứu: - Nội dung nghiên cứu: Tinh thần nhập thế của Phật giáo trong lễ Hằng Thuận ở Việt Nam hiện nay - Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 1/2019 đến 4/2019 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Cơ sở lý luận và phương pháp luận: Khóa luận dựa trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về tôn giáo. Đồng thời sử dụng các phương pháp nghiên cứu liên ngành như phân tích tổng hợp, lôgic - lịch sử, so sánh, v.v. để làm rõ vấn đề nghiên cứu. 6. Đóng góp của khóa luận Khóa luận góp phần làm rõ một số vấn đề lý luận về tinh thần nhập thế trong lễ Hằng Thuận của Phật giáo ở Việt Nam hiện nay. Trên cơ sở đó rút ra ý nghĩa của lễ Hằng Thuận đối với đời sống hôn nhân gia đình ở Việt Nam hiện nay. Đóng góp về mặt thực tiễn của khóa luận: Khóa luận có thể làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, học tập, các vấn đề liên quan đến tinh thần nhập thế của Phật giáo hay nghi lễ Hằng Thuận. 7. Kết cấu của khóa luận Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của khóa luận gồm 2 chương, 4 tiết. Cụ thể: Chương 1: Một số vấn đề lý luận về tinh thần nhập thế và lễ Hằng Thuận của Phật giáo Đã định dạng: Tiếng Anh (Hoa Kỳ), Cô đọng 0,3 pt Chương 2: Nội dung tinh thần nhập thế trong lễ Hằng Thuận của Phật giáo Đã định dạng: Cô đọng 0,3 pt Việt Nam hiện nay Đã định dạng: Tiếng Anh (Hoa Kỳ), Cô đọng 0,3 pt 6
- CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TINH THẦN NHẬP THẾ VÀ LỄ HẰNG THUẬN CỦA PHẬT GIÁO 1.1. Các khái niệm cơ bản 1.1.1. Khái niệm nhập thế Khái niệm nhập thế là khái niệm khá phổ biến khi nói đến phật giáo nói riêng và các tôn giáo nói chung. Theo từ điển Tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học xuất bản năm 2004, nhập thế là “dự vào cuộc đời, gánh vác việc đời, không đi ở ẩn theo quan niệm của nho giáo”. Quan điểm này tiếp cận khái niệm nhập thế từ quan điểm của Nho gia về “xuất”, “xử”. Các nhà Nho xưa luôn cho rằng người quân tử phải đem trí óc của mình giúp đời, phò vua để ổn định đất nước, chăm lo cho nhân dân. Trong từ điển Nho, Phật, đạo của Lao Tử, Thịnh Lê giải thích khái niệm nhập thế như sau: “Đạo gia cho rằng, tại gia mà tu đạo, đó có nghĩa là hòa nhập theo thế tục mà lập thân hành đạo, cho nên gọi là công phu nhập thế. Như Lão Tử thờ nhà Chu, Trương Lương phò nhà Hán, Lưu Cơ giúp nhà Minh hưng thịnh, đều gọi là công phu nhập thế, để đối lập với công phu xuất thế. Hơn nữa, nếu lại làm các việc đời để làm nên công đức sửa mình, giúp đời, độ thế hành đạo, vì thế gian mà làm mọi đạo đức tế vật, tích lũy công danh để chứng đạo quả thì đều là công phu nhập thế” [12, tr. 1001]. Khái niệm này mang chất của đạo giáo, tác giả nhìn nhận nhập thế như một quá trình trong chỉnh thể tương tác biện chứng giữa chứng đạo và độ thế hành đạo. Dưới góc độ Phật giáo, ngay từ khi ra đời, tuy chưa đưa ra định nghĩa cụ thể nhưng Đức Phật đã dẫn thuyết như sau: “Này các tỳ kheo, vì hạnh phúc và an lạc cho quần sinh, vì lợi ích cho chư thiên và loài người, hãy đi mỗi người một ngã, đừng đi hai người trên một đường, vì lòng thương tưởng cho đời hãy đem chánh pháp” [30, tr. 62]. Như vậy, là người xuất gia phải đem đức của mình để cứu khổ cứu nạn cho tất cả các chúng sinh. 7
- Có thể thấy, trong các tôn giáo nói chung và Phật giáo nói riêng, trong quá trình hình thành và phát triển luôn phải đối đầu với nghịch lý thần thánh - thế tục, xuất thế - nhập thế. Những nghịch lý này thường nổi lên thành nhu cầu cấp bách khi quan hệ tôn giáo với nhà nước, dân tộc có vấn đề làm ảnh hưởng đến sự sống còn của tôn giáo, dân tộc hoặc đôi khi là của cả hai. Mỗi lần như vậy, buộc tôn giáo với xã hội thế tục phải xích lại gần nhau hơn bằng nhiều hình thức, biện pháp khác nhau. Sự chủ động tiếp cận thực tế sống động và vận dụng tư tưởng từ phía tôn giáo để giải quyết các vấn đề của xã hội thế tục được gọi là nhập thế. Có một số quan điểm đồng nhất giữa khái niệm nhập thế và thế tục hóa. Tuy nhiên đây là hai khái niệm khác nhau. Thế tục hoá có nguồn gốc từ tiếng La tinh “seaculum” (the transfer of power to the secular). Khởi đầu từ này được dùng trong bối cảnh văn hoá Kitô giáo, để chỉ việc chuyển giao một số quyền lực chính trị, tôn giáo và lãnh địa vốn thuộc Giáo hội thần thánh cho xã hội thế tục; như việc tách nhà trường, tòa án ra khỏi nhà thờ Dần dần, khái niệm thế tục hóa được dùng để mô tả sự tự chủ hóa của các hoạt động, các hình thức tư tưởng so với nền văn hóa truyền thống mà các giá trị Kitô giáo làm cơ sở. Đó cũng chính là “quá trình công năng của một bộ phận tôn giáo bị công năng xã hội có tính chất phi tôn giáo thay thế”. Theo Tác giả Đỗ Quang Hưng, “quá trình thế tục hóa liên quan đến sự giải phóng hữu hiệu mối quan hệ giữa con người với thế giới mà không bị các truyền thống tôn giáo kiềm chế. Kéo theo đó là việc thiết lập mối quan hệ về luật pháp trong đó nhà nước hoàn toàn trung lập về mặt tôn giáo đồng thời dẫn đến sự hình thành một xã hội dân sự mà ở đó công dân được hưởng các quyền về luật pháp cá nhân cũng như được giải phóng một cách tương đối trong việc thực hành đời sống tôn giáo so với các học thuyết, giáo luật của tôn giáo đã được giáo hội chế định” [10, tr. 62]. Có thể nói cách khác, đây là quá trình giải thiêng, giải thần thánh hóa của các tổ chức, thể chế xã hội và chúng tách dần và độc lập khỏi tôn giáo. 8
- Khái niệm nhập thế được dùng với nghĩa chỉ sự tham gia ngày càng chủ động, tích cực thâm nhập vào cuộc sống thế tục của các tôn giáo, nhất là trong bối cảnh xã hội hiện nay khi nhu cầu về tôn giáo ngày càng đa dạng hóa. Các tôn giáo không chỉ đơn thuần đảm trách nhiệm về phần tâm linh mà đã thực sự đóng vai trò tinh thần, văn hóa quan trọng của xã hội trong nhiều phương diện của đời sống. Nói cách khác, nhập thế là sự mở rộng phạm vi tham gia hoạt động của tôn giáo ra ngoài phạm vi tôn giáo, ví dụ như: chính trị, kinh tế, ngoại giao, nghệ thuật, giáo dục. Bên cạnh đó, nhập thế còn là quá trình xử lý mối quan hệ tôn giáo – thế tục như tính hai mặt của tôn giáo. Một mặt, tôn giáo không tự nhiên sinh ra, mà đó là kết quả của nhu cầu tinh thần, tâm linh của xã hội thế tục. Tôn giáo là hình thái ý thức của xã hội, không có tôn giáo nào có thể tồn tại và phát triển ngoài các nhu cầu tâm linh của đời sống xã hội. Mặt khác, tôn giáo luôn thể hiện tính tâm linh siêu việt của nó đối với xã hội thế tục bằng sự thần thánh hóa, thiêng liêng hóa. Xong tính siêu việt ấy không thể tự nó chiêm ngưỡng mà phải gây sức hấp dẫn đối với xã hội thế tục. Khi tôn giáo với xã hội thế tục có mối quan hệ tốt, đồng thời khi tôn giáo có thể chia sẻ, bù đắp hoặc giải quyết nhiều vấn đề của xã hội thế tục thì sự lan tỏa và sức mạnh của tôn giáo đó càng được củng cố, phát huy. Ngoài ra, tinh thần nhập thế của các tôn giáo còn góp phần thúc đẩy sự phát triển của xã hội trên nhiều phương diện cả về kinh tế, chính trị và văn hóa, xã hội. Như vậy khái niệm nhập thế chỉ sự tham gia ngày càng chủ động, tích cực, thâm nhập vào cuộc sống thế tục của các tôn giáo. Đồng thời, đó là quá trình xử lý mối quan hệ giữa tôn giáo và xã hội thế tục. 1.1.2. Khái niệm Phật giáo nhập thế Phật giáo nhập thế được hiểu là “Đạo phật vào đời hay đạo phật nhập cuộc” [17, tr. 222]. Theo Thích Nguyên Đạt, cách lý giải này là lời cổ vũ cho Phật giáo nhập thế. Đồng thời, nó nói lên hai đặc điểm chính của nhập thế trong Phật giáo: 9
- Nhập thế là bản chất của đạo Phật. Bởi ngay từ khi đạo Phật ra đời, đích Phật Thích Ca Mâu Ni tuy không nhắc đến khái niệm nhập thế, nhưng ngài luôn luôn dạy các đệ tử của mình phải “đi vì lợi của nhiều người, vì hạnh phúc của số đông, vì lòng lân mẫn đối với thế gian, vì lợi lạc, vì hạnh phúc của trời và người. Các thầy hãy đi, đừng đi hai người cùng một hướng,hãy đi mỗi người một ngả, hãy truyền bá Chánh Pháp” [27, tr. 1]. Như vậy, Đức Phật chỉ ra hướng đi của đạo Phật là cuộc đời và xã hội, phương thức hành động phong phú, linh hoạt, hoạt động đi vào đời và việc giác ngộ cần thực hiện đồng thời. Bàn về quan điểm này, Thiền sư Thích Nhất Hạnh tuyên bố “không bùn thì chẳng có hoa sen”, ngụ ý bùn là trần thế, hoa sen là đạo Phật. Không tham gia việc đời, cứu khổ cứu nạn thì không thể có đạo Phật được. Đặc điểm thứ hai khi nói đến Phật giáo nhập thế đó là: Nhập thế là hình thái Phật giáo của hiện đại và hậu hiện đại. Vào thế kỷ 20, thế kỷ mà thế giới có rất nhiều biến động. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 2 vào đầu thế kỷ 20 và Cách mạng công nghiệp thứ 3 bắt đầu vào năm 1980 làm cho thế giới có nhiều chuyển biến. Chiến tranh thế giới lần thứ 2 nổ ra kèm theo là các bất ổn chính trị trên khắp toàn cầu khiến cho chúng sinh rơi vào cảnh khổ cực. Trước tình hình đó, trào lưu “đạo Phật nhập thế” được khởi xướng vào giữa thế kỷ này ở châu Á sau đó lan sang châu Âu, châu Mỹ bởi một số nhà hoạt động Phật giáo đương đại có danh vọng quốc tế trong đó có Thiền sư Thích Nhất Hạnh. Theo trào lưu này, những Phật tử nhập thể tích cực hiến dâng cuộc đời của mình phục vụ cho con người và xã hội ở khắp nơi. Từ đó, quan niệm cho rằng Phật giáo là tôn giáo tiêu cực tránh đời bị bác bỏ. Trào lưu này phát triển rất mạnh mẽ và ngày càng phát triển đến tận ngày nay. Chính vì vậy, Phật giáo nhập thế là một hình thái phù hợp của xã hội hiện đại và hậu hiện đại. Ở Việt Nam, thập niên 30 của thế kỷ 20 xuất hiện khái niệm liên quan đến khái niệm “Phật giáo nhập thế” là “Nhân gian Phật giáo”. Khái niệm này xuất hiện lần đầu trên tờ báo Đuốc Tuệ. Theo đó, “nhân gian phật giáo” được 10
- định nghĩa là “đạo Phật đóng vai trò dẫn dắt tinh thần với mục đích đem lại những điều có lợi cho nhân gian” [22, tr. 349]. Khái niệm này có thể đồng nhất với khái niệm “Phật giáo nhập thế” bởi vì cả hai khái niệm đều hướng đến mục đích chung là đưa đạo phật vào trong xã hội thế tục để giúp người, giúp đời. Tuy nhiên, khái niệm “đạo Phật nhập thế” dễ gây ngộ nhận về bản chất của Phật giáo. Bởi vì “nhập thế” nghĩa là vào đời, hiểu là ở một nơi nào đó ngoài đời đi vào cuộc đời mà đạo Phật vốn ở trong đời và chưa hề ở ngoài cuộc đời. Hơn nữa, khi nhắc đến “đạo Phật nhập thế” đồng thời cũng hàm chỉ đến “đạo Phật xuất thế”. Để hiểu rõ hơn, chúng ta cần làm rõ khái niệm “xuất thế” theo quan niệm của Phật giáo. Nhiều người hiểu sai lệch về khái niệm “xuất thế”. Họ cho rằng “xuất thế” là tách xa cuộc đời, không màng đến đời sống thực tiễn xã hội. Sự hiểu sai lệch đó dẫn đến hệ quả hiểu sai về đạo Phật, cho rằng đây là tôn giáo tiêu cực, kéo lùi sự phát triển. Theo giáo lý Phật giáo, “xuất thế” mang ý nghĩa ra khỏi những muộn phiền, đẩy những dục vọng tham, sân, si ra ngoài cơ thể, tránh xa những ngôn ngữ và hành động mang đến khổ đau cho mình và toàn xã hội. Như vậy, không thể phủ nhận “xuất thế” theo ý nghĩa trên mang ý nghĩa tích cực. Khái niệm “xuất thế” tưởng như mâu thuẫn với khái niệm “nhập thế” nhưng chúng lại đồng nghĩa với nhau. Bởi lẽ muốn cho mình và tất cả mọi người ra khỏi tham, sân, si, những dục vọng của bản thân thì cần phải có con đường chính đạo, để tìm ra con đường chính đạo thì không đâu khác là tìm trong cuộc sống, xã hội và con đường chính đạo là giúp bản thân mình và giúp đời thoát khổ. Từ đây ta có thể kết luận, đạo Phật lấy trí tuệ hay giác ngộ làm đầu, cho nên ở mọi khía cạnh đều thể hiện là đạo nhập thế. Phật giáo nhập thế là quá trình tất yếu, phù hợp với xu thế vận động của thời đại, sự phát triển của Phật giáo. 1.1.3. Khái niệm lễ Hằng Thuận Lễ Hằng Thuận là một "thuật ngữ" khá thông dụng dùng để chỉ nghi thức tổ chức lễ cưới trang nghiêm ở chùa hoặc thiền viện. Ngoài ra, lễ Hằng 11
- Thuận cũng có thể tổ chức tại nhà thờ tổ của dòng họ. “Hằng” là thường xuyên, là luôn luôn. Nghĩa là hai vợ chồng khi đã nên duyên thì trước thế nào, sau thế đấy, chỉ sự thủy chung son sắt, đó là một trong các yếu tố quan trọng để giữ gìn hạnh phúc gia đình. “Thuận” là hòa thuận, là đồng thuận hướng về những điều cao thượng, chân thiện trong đời sống. Hằng Thuận nghĩa là tùy thuận chúng sanh mà thực hiện hay Hằng Thuận nghĩa là thường sống với nhau hòa thuận (được hiểu là theo đạo vợ chồng), tương kính nhường nhịn lẫn nhau, cùng nhau vừa làm tròn trách nhiệm bổn phận của người vợ người chồng trong đời sống gia đình, đối với ông bà cha mẹ và con cái; vừa hướng đến con đường tu tập giác ngộ giải thoát, trên cơ sở giữ gìn ngũ giới, hành thập thiện và tu tập theo Bát Chính Đạo. Hai từ “Hằng Thuận” gợi cho ta nhớ đến 10 nguyện của đức Phổ Hiền trong nguyện "tùy thuận chúng sinh", nói lên tâm nguyện đem đạo vào đời. Đồng thời nó cũng làm ta liên tưởng đến đạo đức truyền thống của dân tộc: "Thuận vợ thuận chồng tát biển Đông cũng cạn". Lễ Hằng Thuận là nghi thức tương đối đặc biệt dành riêng cho lễ cưới được tổ chức trang nghiêm, trọng thể trong chùa. Nghi thức Hằng Thuận trong ngày cưới mang đậm dấu ấn đạo đức tâm linh và trí tuệ của đạo Phật, cùng với những định hướng, mục đích giúp cho gia đình hòa thuận, êm ấm, giữ vững nề nếp gia phong và những giá trị văn hóa tốt đẹp của người Việt. 1.2. Biểu hiện tinh thần nhập thế của Phật giáo Việt Nam 1.2.1. Biểu hiện tinh thần nhập thế của Phật giáo Việt Nam trong lịch sử • Biểu hiện tinh thần nhập thế của Phật giáo Việt Nam trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước Thứ nhất, thời kỳ Bắc thuộc: Thời kỳ đầu khi Phật giáo truyền vào nước ta cũng là lúc phong kiến phương Bắc xâm lược và đặt ách đô hộ trên đất nước ta. Trong bối cảnh đó, Phật giáo đã trở thành điểm tựa vững chắc về tinh thần và tư tưởng của người dân nhằm chống lại sự đồng hóa của chính 12
- quyền phương Bắc. Góp phần to lớn trong các phong trào đấu tranh giành độc lập dân tộc suốt 1000 năm. Tương truyền, ngôi chùa đầu tiên ở Việt Nam là chùa Thanh Vân Cổ Tự (nay là chùa Yên Phú, thuộc xã Liên Ninh, huyện Thanh Trì, Thành phố Hà Nội) do bà Phương Dung trụ trì. Nơi đây đã nuôi lớn hai vị tướng tài góp sức cho cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng là Trung Vũ, Đài Liệu. Hai ông được Phương Dung nuôi dưỡng, văn tài võ lược, có năm hạn hán, hai vị ra tay cầu mưa giúp dân, lại có năm lũ lụt, dân kêu cầu liền biến thành khúc đê ngăn lũ cho dân. Khi Tô Định sang cướp nước, Phương Dung và hai con nuôi tham gia phò Hai Bà Trưng đánh giặc. Năm Thiên Phúc đời Lê Đại Hành, bà Phương Dung được phong là Hoàng Thái Hậu Tuệ Tĩnh Phu Nhân, Trinh Thục Chí Đức Đoan Trang Cẩn Tiết Hoàng Thái Hậu. Trung Vũ, Đài Liệu được phong là Bản Cảnh Thành Hoàng Linh Phù Chi Thần, Hộ Quốc Khang Dân Phù Vận Dương Vũ Uy Dực Thánh Bảo Cảnh Hiển Hữu Trợ Thuân Linh Ứng Đại Vương. Sau khởi nghĩa Hai Bà Trưng thất bại, nước ta tiếp tục bị chính quyền phương Bắc đô hộ. Trong thời kỳ này, rất nhiều các cuộc khởi nghĩa của nhân dân ta nổ ra khiến cho chính quyền phương Bắc điêu đứng. Tuy nhiên các cuộc khởi nghĩa đều bị thất bại. Đến thế kỷ thứ VI, Lý Nam Đế cho xây dựng chùa Khai Quốc (nay là chùa Trấn Quốc, Hà Nội) ngay sau khi đánh thắng quân nhà Lương và thành lập nước Vạn Xuân. Việc dựng chùa và đặt tên là Khai Quốc thể hiện rõ ý thức văn hóa, chính trị sâu sắc. Nhà nước Vạn Xuân là nhà nước Phật giáo, Phật giáo là lực lượng nòng cốt góp phần xây dựng nhà nước Vạn Xuân. Nhận định về điều này, Lý Khôi Việt viết: “đây là một sự khẳng định minh bạch, một sự dứt khoát, một sự tuyên dương công trạng rõ ràng: Phật giáo đã có công trạng rất lớn trong việc khai sinh ra một nước độc lập (Khai Quốc), Phật giáo là chủ đạo văn hóa – chính trị của chính quyền mới, là quốc giáo của triều đại. Không những thế, đây còn là một bản tuyên ngôn hùng hồn, độc 13
- lập chính trị cũng như độc lập văn hóa, đối với đế quốc phương Bắc” [13, tr. 18 – 19]. Sau Lý Nam Đế, một thủ lĩnh tự xưng là Lý Phật Tử đã dựng cờ khởi nghĩa chống lại nhà Tùy. Cuộc khởi nghĩa đã quy tụ được đông đảo Tăng Ni, Phật tử vào đấu tranh nhằm lấy lại nền độc lập tự chủ của đất nước. Cuộc khởi nghĩa thất bại, nhưng Lý Phật Tử được nhân dân rất mến phục. Sau khi chết, nhân dân lập đền thờ ở nhiều nơi. Thứ hai, thời phong kiến độc lập tự chủ: Sau chiến thắng trên sông Bạch Đằng của Ngô Quyền năm 938, nước ta hoàn toàn độc lập chấm dứt ách đô hộ gần 1000 năm của phong kiến phương Bắc, mở ra kỷ nguyên mới cho dân tộc, đó là kỷ nguyên độc lập tự chủ. Nhiệm vụ quan trọng nhất lúc này là xây dựng bộ máy chính quyền, tạo tiền đề cho sự phát triển sau này. Trong hoàn cảnh đó, Phật giáo vẫn tiếp tục phát triển và xâm nhập sâu vào các tầng lớp trong xã hội. Nổi bật nhất là sự xuất hiện của các bậc cao tăng tài đức vẹn toàn, sau này góp phần không nhỏ vào sự nghiệp dựng nước và giữ nước của các triều đại sau như Đại sư Khuông Việt, thiền sư Đỗ Pháp Thuận, thiền sư Vạn Hạnh, thiền sư Viên Thông. Đại sư Khuông Việt đã từng giúp triều Đinh và triều Tiền Lê trong việc phục hưng đất nước sau 1000 năm Bắc thuộc. Khi quân Tống kéo sang xâm lược nước ta, vua Lê Đại Hành sai Đại sư cầu đảo cho quân sĩ ở chùa Vệ Linh (nay thuộc Hà Nội). Nhờ đó, tinh thần chiến đấu bảo vệ Tổ Quốc càng được giữ vững và tăng cường trong lòng quân sĩ. Trên mặt trận ngoại giao, Đại sư đã viết bài “Ngọc lang quy” tiễn sứ thần nhà Tống về nước. Sau này, Lê Quý Đôn đã hết sức ca ngợi bài Ngọc lang quy của Đại sư như sau: “Nước ta từ khi gây dựng, văn minh không kém gì Trung Quốc. Bài Từ vua Tiền Lê tiễn Lý Giác nhà Tống lời lẽ nõn nà, có thể vốc được” [5, tr.24]. Cùng với Đại sư Khuông Việt, Thiền sư Đỗ Pháp Thuận cũng được vua Lê Đại Hành mời tham gia vào bộ máy chính quyền triều đình. Ông từng được vua tham vấn về vận nước, điều đó cho thấy vua Lê Hoàn rất đề cao 14
- Phật giáo. Tư tưởng trị nước của Thiền sư Đỗ Pháp Thuận mang đậm chất từ bi của đạo Phật, đồng thời đề cao sự bình đẳng tinh thần đoàn kết dân tộc. Theo ông, để đất nước thái bình, triều đại trường tồn, việc quan trọng nhất là đoàn kết toàn dân. Để đất nước được yên ổn, không có trộm cướp và bất công, thì vua và triều đình cần phải hành xử vì quyền lợi của người dân. Năm 1005, ngay sau khi Lê Hoàn mất, một cuộc chém giết kinh hoàng để tranh giành ngôi báu diễn ra giữa các con của Lê Hoàn. Lê Long Tích bị giết ở Thạch Hà (nay thuộc Hà Tĩnh), Lê Long Kích bị giết ở Phù Lan (nay thuộc huyện Mỹ Văn, Tỉnh Hưng Yên), Lê Long Việt giành ngôi mới được ba ngày cũng bị giết em ruột Lê Long Đĩnh giết hại ngay và cướp ngôi. Với lịch sử, Lê Long Đĩnh là một vết nhơ, hơn thế nữa, còn thực sự là một đại họa. Quốc Sử Việt thời Hậu Lê nhận xét: “Ngọa Triều làm việc càn rỡ, giết anh để giành ngôi, hoang dâm và tàn bạo, muốn tránh việc mất nước cũng chẳng thể được” [18, tr. 5]. Nhận thấy vận nước đang ngàn cân treo sợi tóc, Thiền sư Vạn Hạnh tuy giúp triều Tiền Lê, nhưng đã không ngần ngại ủng hộ Lý Công Uẩn lên ngôi vua vào năm 1009, lập ra một triều đại thịnh trị trong lịch sử Việt Nam. Lời nhận xét của Hoàng Xuân Hãn là một minh chứng triều đại nhà Lý vững chắc và thịnh vượng ngự trị trên 200 năm thực thi nhờ tinh thần Phật giáo: “Sau các đời vua hung hãn họ Đinh – Lê, ta thấy xuất hiện ra những người cầm quyền có lòng độ lượng khoan dung, những cận thần đức độ trung thành. Đời Lý có thể gọi là đời thuần từ nhất trong lịch sử nước ta” [11, tr. 424]. Như vậy, Phật giáo đời Lý đã hun đúc nên những ông vua Phật Tử thuần thành. Dưới triều đại của vua Lý Thần Tông, Thiền sư Viên Thông được phong Quốc sư và hai lần được trao quyền lãnh đạo đất nước nhưng kiên quyết từ chối. Sở dĩ ông được vua kính trọng như vậy là bởi ông có tư tưởng trị Quốc dựa vào đức chứ không dựa vào pháp: “Đức hiếu sinh của nhà vua thấm nhuần đến nhân dân, thì nhân dân yêu mến vua như cha mẹ, tôn kính vua như mặt trời, mặt trăng, thế tức là đặt thiên hạ vào chỗ yên vậy” [31, tr. 183]. 15
- Dưới triều Trần, Phật giáo vừa là chất xúc tác, vừa là lực lượng chủ yếu trong việc tạo dựng sự đoàn kết giữa nhân dân với tầng lớp lãnh đạo đất nước. Các vua nhà Trần đều là Phật tử có trình độ Phật học uyên thâm, lấy tư tưởng dân vị bản để trị nước. Trần Nhân Tông hiểu sâu sắc về triết lý “Thế trận lòng dân” và vận dụng rất thành công trong ba cuộc kháng chiến chống quân Nguyên – Mông, kẻ thù hung hãn và mạnh nhất thời bấy giờ. Thiền phái Trúc Lâm ra đời với bậc sơ tổ là Phật Hoàng Trần Nhân Tông. Thiền phái này đề cao sự tự ngộ, nỗ lực rèn luyện của mọi người. Theo ông, “sống mà không giúp gì cho đời là điều đáng hổ thẹn của kẻ trượng phu”. Từ đó có thể thấy vì Phật Hoàng này rất đề cao tinh thần nhập thế của Phật giáo. Trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên - Mông, nhờ tinh thần nhập thế của nhà Phật, Trần Nhân Tông đã xây dựng được khối đoàn kết toàn dân. Kế sách “khoan thư sức dân làm sâu rễ bền gốc” của ông phản ánh tinh thần bao dung và đặt Quốc gia xã tắc lên trên hết, đó cũng là tinh thần được kế thừa từ vua ông Trần Thái Tông. Thực tế điều kiện lịch sử Đại Việt lúc đó, thế giặc mạnh nhưng lòng yêu nước căm thù giặc của quân dân ta đang ngụt cháy. Theo nguyện vọng tấm lòng của quân sỹ, Trần Nhân Tông đã quyết định cầm quân đánh đuổi ngoại xâm ra khỏi bờ cõi. Nhưng Phật dạy giới đầu tiên trong Ngũ giới là không sát sinh. Thượng Sỹ đã lập luận: “đạo Phật cấm sát sinh, song giết giặc cứu dân không có gì là trái đạo”. Vua Trần Nhân Tông tiếp tục lập luận đó là giết một người để cứu trăm ngàn người thì không có gì là trái với đạo, mà ngược lại đã hành rất đúng với đạo từ bi của nhà Phật. Có thể nói, hai triều đại Lý – Trần là hai triều đại phong kiến tồn tại lâu dài nhất và cường thịnh nhất trong lịch sử nước ta. Đây cũng là hai triều đại hiếm hoi về việc chuyển giao quyền lực diễn ra hòa bình. Một trong số những nguyên nhân dẫn đến điều đó là cả hai triều đại này đều coi Phật giáo là quốc đạo, trị nước bằng đức với tư tưởng chủ đạo là khoan dung, độ lượng, hiếu hòa của đạo Phật đã thấm nhuần suốt mấy trăm năm trong mọi tầng lớp của người Việt. 16
- Theo quy luật của lịch sử, vương triều dù có thịnh đến đâu cũng sẽ có lúc suy tàn. Những năm cuối thời Trần, vua quan chỉ lo ăn chơi không quan tâm đến việc triều chính, cơ nghiệp nhà Trần dần suy tàn. Năm 1400, Hồ Quý Ly cướp ngôi nhà Trần lập ra triều Hồ. Chính quyền của Hồ quý Ly đề cao Nho giáo. Mặc dù có nhiều cải cách theo các nhà sử học hiện đại đánh giá là tiến bộ, đi trước thời đại như chính sách hạn điền hạn nô, nhưng Hồ Quý Ly quên mất một trong những tư tưởng trị nước quan trọng nhất đó là “lấy dân làm gốc”. Vì vậy chính quyền triều Hồ không được nhân dân tin theo nên đã thất bại trước sự xâm lược nhà Minh, đất nước ta lại rơi vào vòng nô lệ. Trong hoàn cảnh đó, với truyền thống yêu nước của nhân dân ta, rất nhiều cuộc khởi nghĩa nổ ra ở nhiều nơi, các Tăng Ni Phật tử thời kỳ này trở thành lực lượng lớn cùng với nhân dân khởi nghĩa. Trong đó, không thể không kể đến cuộc khởi nghĩa của nhà sư Phạm Ngọc. Sư Phạm Ngọc ở chùa Đồ Sơn (Hải Phòng) cùng nhóm nghĩa quân thành lập chính quyền kháng chiến, tự xưng là La Bình Vương. Cuộc khởi nghĩa nhận được sự ủng hộ đông đảo của quần chúng nhân dân trong vùng trung du và đồng bằng Bắc Bộ gây tổn thất không nhỏ cho quân Minh.Cuộc khởi nghĩa tuy thất bại nhưng ta thấy được tinh thần nhập thế của phật giáo, khi đất nước lâm nguy Phật giáo không trốn tránh cuộc đời mà đứng ra đấu tranh vì dân vì nước. Triều Hậu Lê và triều Nguyễn đề cao Nho giáo, coi đó là Quốc giáo của đất nước, Phật giáo không còn giữ vị trí độc tôn như trước nhưng trên thực tế, Phật giáo vẫn ảnh hưởng rất lớn trong lòng xã hội Việt Nam. Thứ ba, thời kỳ kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ: Từ năm 1884, Việt Nam trở thành thuộc địa của Pháp bằng việc ký hiệp ước Harmand (1883), Patenotre (1884). Tuy nhiên, không vì thế mà nhân dân ta chịu nhục nhìn đất nước rơi vào tay ngoại bang. Rất nhiều cuộc khởi nghĩa chống Pháp nổ ra. Phật giáo nhập thế lại lần nữa phát huy truyền thống nhập thế của mình trong sự nghiệp giành độc lập cho dân tộc. 17
- Một trong các cuộc khởi nghĩa tiêu biểu đó là phong trào Cần Vương. Lấy danh nghĩa phò vua Hàm Nghi cứu nước, phong trào Cần Vương đã quy tụ được rất nhiều văn thân sĩ phu yêu nước đứng lên chống Pháp như Hoàng Diệu, Hoàng Hoa Thám, Nguyễn Thiện Thuật. Vương Quốc Chính theo tiếng gọi của vua Hàm Nghi cũng hăng hái ra phò vua giúp nước. Ông là bạn thân của Nguyễn Thiện thuật, người làng Cổ Am, huyện Vĩnh Bảo, tỉnh Hải Dương (nay thuộc Thành phố Hải Phòng). Ông tham gia phong trào Cần Vương ngay từ những năm đầu phát động. Sau nhiều lần thất bại của phong trào, ông bị truy nã phải ẩn vào chùa Ngọc Long Động, nay thuộc Chương Mỹ, Hà Nội. Năm 1895, ông xuống tóc, khoác áo cà sa, thực chất là đổi phương thức kháng chiến. Nhận thấy Phật giáo có tác động lớn đến quần chúng nhân dân, ông lập Hội Thượng Chí với phương pháp “khôi phục nhà Lý, giành lại độc lập dân tộc”, thực chất là dựa vào uy tín của phật giáo để huy động sức mạnh dân tộc. Bởi triều Lý là triều đại Phật giáo thịnh nhất. Sau khi lập Hội Thượng Chí, Vương Quốc chính tìm một người họ Lý là Lý Thiếu Quân tôn làm minh chủ, còn mình làm quân sư. Khi cuộc khởi nghĩa Yên Thế nổ ra, Vương Quốc Chính liên lạc với Hoàng Hoa Thám nhằm hiệp đồng chiến đấu. Ngày 22-10-1989, hội Thượng Thế công bố tuyên cáo, đề cập đến tư tưởng, nghĩa vụ, kỷ luật, thưởng phạt. Nghĩa quân của Vương Quốc Chính cho rằng thời cơ khởi nghĩa là lúc Pháp phân mỏng lực lượng để sang Trung Quốc chiến tranh. Tuy nhiên, Trương Công Bỉnh, một thành viên trong nghĩa quân bị bắt trên đường đi công cán. Sợ bị bại lộ, nghĩa quân quyết định khởi nghĩa vào đêm 5-12-1898 nhân dịp có Hội chợ tại Hà Nội. Cuộc khởi nghĩa quy tụ được rất đông nhân dân tham gia. Tuy thất bại nhưng thực dân Pháp phải mất rất nhiều công sức mới dập tắt được. Cùng năm 1898, ở miền Trung diễn ra cuộc khởi nghĩa do nhà sư Võ Trứ lãnh đạo. Ông là người làng An Nhơn tỉnh Bình Định, là đệ tử của sư trụ trì chùa Đá Bạc (thầy từng tham gia phong trào Cần Vương). Nhà sư Võ Trứ là người nổi tiếng nhân hậu và có tài. Ông có trong tay rất nhiều nghề đặc biệt 18
- là nghề thầy thuốc. Chính vì vậy, thầy có điều kiện tiếp xúc, vận động mọi tầng lớp nhân dân tham gia khởi nghĩa. Lực lượng đông đảo nhất của nghĩa quân là nhân dân hai tỉnh Bình Định và Phú yên. Chính vì vậy, hầu hết các chùa ở hai tỉnh này đều là căn cứ của nghĩa quân. Dịp lễ Vu Lan năm 1897, Võ Trứ cùng Trần Cao Vân mở hội nghị tại Tuy An (Phú Yên) để bàn về việc chuẩn bị lực lượng, sắm khí giới nhằm phát động cuộc khởi nghĩa chống Pháp. Mậu Tuất năm 1898, nước ta xảy ra mất mùa, đói kém kèm với sưu cao thuế nặng ở khắp nơi khiến cho lòng dân đã căm phẫn này càng căm phẫn hơn. Nhận thấy đây là thời cơ thích hợp, hơn nữa nghĩa quân của ông bị lộ nên ông quyết định khởi nghĩa. Mùa hè 1897, thầy tập hợp nghĩa quân ở huyện Đồng Xuân, tiến về xuôi đánh chiếm huyện lỵ, sông Cầu. Nhưng cuộc khởi nghĩa bị đàn áp dữ dội. Các nhà tù ở Phú Yên, Bình Định chật ních các nhà sư. Vì vậy Thực dân Pháp gọi đây là “Cuộc chiến tranh thầy chùa” [14, tr. 24]. Hai cuộc khởi nghĩa diễn diễn ra trong năm 1898 đều được sự yểm trợ của đông đảo Tăng Ni, Phật tử. Tuy thất bại nhưng “Phật giáo đã trở thành lực lượng chủ yếu trong phong trào kháng chiến” [14, tr. 25] vào những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, sau thất bại của phong trào Cần Vương. Trong cách mạng tháng 8 năm 1945, Tăng Ni, Phật tử đã có những đóng góp cả về lực lượng lẫn trí tuệ vào thắng lợi của nước nhà. Là nguồn lực chủ yếu để Tăng Ni, Phật tử Việt Nam tiếp tục cùng toàn dân đưa sự nghiệp giải phóng dân tộc đến thắng lợi. Trong suốt hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ, Phật giáo nhập thế đã chứng tỏ được mình trong cách mạng. Nhiều Tăng Ni, Phật tử miền Bắc đã mạnh dạn cởi áo cà sa, khoác chiến bào tòng quân đánh giặc trong kháng chiến chống Pháp. Ở thời kỳ chống Mỹ nhật là giai đoạn Mỹ - Diệm, cuộc biểu dương lực lượng của Tăng Ni, Phật tử đấu tranh chống chế độ độc tài của gia đình họ Ngô - Đình và Mỹ vào miền Nam năm 1963 là một minh chứng đỉnh cao cho tinh thần và hoạt động nhập thế của Phật giáo. Sự kiện hòa 19
- thượng Thích Quảng Đức tự thiêu ngày 10/6/1963 để tố cáo chế độ Ngô Đình Diệm, đồng thời phản đối chiến tranh phi nghĩa và đòi quyền bình đẳng tôn giáo đã làm chấn động dư luận trong nước và cả quốc tế. Một làn sóng biểu tình phản đối chế độ Ngô Đình Diệm diễn ra ở khắp nơi ngay cả ngoài nước. Sự kiện thầy Thích Quảng Đức chưa nguôi thì năm 1967, vụ tự thiêu của tập thể 6 tín đồ phật với mục đích đòi hòa bình, độc lập và cuộc sống an lạc cho nhân dân thể hiện một tinh thần yêu đạo, yêu nước, sẵn sàng hy sinh vì độc lập dân tộc. Người Việt Nam ta vốn có truyền thống yêu nước, tinh thần tự tôn dân tộc ngày từ những buổi đầu dựng nước. Khi Phật giáo du nhập vào, tinh thần đó không những không mất đi mà còn ngày một phát triển rõ nét. Hình ảnh nhà sư ra trận đã xuất hiện ngay từ những cuộc khởi nghĩa đầu tiên. Sở dĩ Phật giáo làm được điều đó là do sự vận dụng giáo lý vào đời một cách khéo léo. Trước hoàn cảnh đất nước bị ngoại xâm đô hộ, chúng thi hành chính sách đồng hóa dân ta bằng cách truyền bá Đạo giáo và Nho giáo bằng con đường ép buộc. Vì vậy khi đạo Phật du nhập với con đường tự nhiên, các nhà sư không ép buộc mà thâm nhập vào cùng sống với nhân dân, hiểu và cảm thông cho nỗi thống khổ của họ. Đặc biệt là đạo lý vô ngã đã tác động đến đạo đức và hành động của con người: “vô ngã là cái không có cái ta, sở hữu của ta. Mà cái ta chính là trở ngại lớn nhất cho những hành động hy sinh và dũng cảm vì xã hội, vì dân tộc và lý tưởng. Sống theo nếp sống vô ngã, tức là không cá nhân, vị kỷ sẽ rất dễ đoàn kết một lòng, cùng nhau hợp tác để phụng sự lý tưởng giải phóng dân tộc và quốc gia” [16, tr. 1011]. Hơn nữa, sống theo nếp sống vô ngã sẽ rất dễ đoàn kết một lòng, cùng nhau hợp tác để phụng sự lý tưởng giải phóng dân tộc và quốc gia. Ngoài ra, lý thuyết về giải thoát khỏi bể khổ của Phật giáo theo xu hướng là khuông phò dân tộc, cứu nhân độ thế nơi trần gian trở thành chủ trương tu tập và tục không tách rời nhau. 20
- Phật giáo luôn song hành cùng giá trị truyền thống văn hóa yêu nước của dân tộc, thể hiện sự gắn bó keo sơn giữa đạo và đời thành một khối thống nhất, có sự thẩm thấu, tương hỗ lẫn nhau. Đây là mối quan hệ tương đồng, Phật giáo mang đến cho giá trị văn hóa truyền thống yêu nước một màu sắc mới, thấm nhuần tinh thần lạc quan và niềm tin chiến thắng mọi kẻ thù cùng lòng tự hào dân tộc. Phật giáo với căn tính “Khế lý”, “Khế cơ” phù hợp và tương thích với sự mềm dẻo, hòa đồng của căn tính người Việt. Chính vì vậy, Phật giáo đã xáo trộn, tiếp biến ngay trong lòng văn hóa dân tộc và trở thành một thành tố của văn hóa Việt Nam đặc biệt là truyền thống yêu nước, đoàn kết dân tộc giúp ta đánh bại mọi kẻ thù xâm lược. Lịch sử đã chứng minh những đóng góp quan trọng trong công cuộc dựng nước và giữ của Phật giáo. Khi Tổ quốc lâm nguy, Phật giáo sẵn sàng cùng nhân dân tham gia chống giặc ngoại xâm giành độc lập dân tộc. Khi đất nước hòa bình, Phật giáo tham gia xây dựng đất nước. • Biểu hiện tinh thần nhập thế của Phật giáo Việt Nam trong văn hóa – xã hội Tinh thần nhập thế của Phật giáo Việt Nam không chỉ thể hiện qua truyền thống yêu nước lòng tự tôn dân tộc mà còn thể hiện qua mọi khía cạnh của đời sống xã hội trong đó có văn hóa. Về ngôn ngữ, rất nhiều từ ngữ Phật giáo được nhân dân Đại Việt sử dụng trong cuộc sống hàng ngày,thậm chí nó thông dụng đến độ nhiều người sử dụng như từ thuần Việt mà không biết đó có nguồn gốc xuất xứ từ Phật giáo. Ví dụ như từ “tội nghiệp”, chỉ sự thương xót cho người có hoàn cảnh khó khăn hay gặp chuyện không lành. Từ tội nghiệp nghĩa là tội của nghiệp, mặc dù bày tỏ thái độ thương xót cảm thông nhưng khi dùng từ tội nghiệp đã ngầm chỉ ra nguyên nhân người đó khổ là vì kiếp trước tạo nghiệp. Đây là một trong những giáo lý của đạo Phật. Mọi người điều nói tội nghiệp nhưng không phải nhiều người biết được đó là một từ ngữ nói lên một chủ thuyết rất căn bản của Phật: "Thuyết nhân quả báo ứng" thuyết này cũng đi sâu 21
- vào nhận thức dân gian với những cách như "ở hiền gặp lành, gieo gió gặp bão" hay là câu thơ bình dân: “Người trồng cây hạnh người chơi Ta trồng cây đức để đời mai sau” Hoặc khi muốn diễn tả một vật gì đó quá nhiều, người ta dùng danh từ "hằng hà sa số". Nếu hỏi hằng hà sa số là cái gì chắn chắn ít ai hiểu chính xác, họ chỉ biết đó là nói rất nhiều. Cụm từ đó xuất hiện khi xưa Đức Phật thường thuyết pháp gần lưu vực sông Hằng ở Ấn Độ, cho nên khi cần mô tả một con số rất nhiều, ngài thí dụ như số cát sông Hằng. Hoặc khi có những tiếng ồn náo, người ta bảo "om sòm bát nhã", do khi đến chùa vào những ngày sám hối, chùa thường chuyển những hồi trống bát nhã, nhân đó mà phát sanh ra cụm từ trên. Thiền sư Toàn Nhật đời Tây Sơn trong cuốn Tam Giáo Nguyên Lưu Ký, có phát biểu rằng: “Và như sáu giặc trong mình, Chẳng nên để nó tung hoành khuấy ta” Còn nhiều từ ngữ khác như từ bi, giác ngộ, sám hối đã được người dân Việt Nam quen dùng như tiếng mẹ đẻ. Điều đó cho thấy Phật giáo đã làm rất tốt tinh thần nhập thế của mình đối với đời. Cùng với sự mềm dẻo của người Việt trong kết hợp giá trị văn hóa truyền thống với tôn giáo, một hệ giá trị ngôn từ của Phật giáo được người Việt sử dụng hàng ngày. Từ đó ảnh hưởng đến tính cách, tư tưởng của mình. Chính vì vậy, tinh thần nhập thế của Phật giáo đã đi vào ca dao, thành ngữ, tục ngữ và ngay cả các tác phẩm văn học. Trong văn học, Phật giáo cùng với văn hóa dân gian tạo nên “tôn giáo dân gian” [9, tr. 316]. Đạo Phật xuất hiện từ tiếng hát ru của mẹ đến các tác phẩm văn học nổi tiếng. Từ khi sinh ra, em bé lọt lòng đã được nghe tiếng hát ru của mẹ: “Ai ơi hãy ở cho lành Kiếp này chẳng được để giành kiếp sau” 22
- Trong các câu chuyện cổ tích hay những chuyện thần thoại xuất hiện một nhân vật mang đầy màu sắc huyền bí, đó là “Ông Bụt”. Ông Bụt chính là Đức Phật, được phiên âm từ tiếng Phạn Buddha, dân gian gọi tắt là Bụt. Hình tượng ông Bụt trong các câu chuyện là một ông già hiền như tiên, râu tóc bạc phơ, luôn thường dạy người ta nên làm những việc tốt, sống đời lương thiện, hiếu thảo với gia đình, rồi khi gặp khó khăn, gọi ông thì ông sẽ hiện ra giúp đỡ. Điều đó chứng tỏ Phật giáo đã đi sâu vào tâm thức của người Việt. Trong mắt của họ, đạo Phật và những người theo đạo là người hiền lành, lương thiện và sẵn sàng giúp đỡ những người ăn ở hiền lành, nhân hậu. Thời Hậu Lê, dân gian lưu truyền câu Truyện “Quan Âm Thị Kính” đề cao các hạnh trì giới, tinh tấn và nhẫn nhục cùng cực. Ngoài ra chuyện còn đề cập tới hai vấn đề là chữ “hiếu” và chữ “nhân” của người xuất gia theo đạo Phật. Tiểu Kính Tâm tuy xuất gia nhưng lòng thương nhớ cha mẹ vẫn tràn đầy. Chữ hiếu của người xuất gia được quan niệm là không chấm dứt tình cảm với gia đình mà chỉ nâng tình cảm đó lên một bình diện rộng lớn với một mức độ thắm thiết, sâu sắc và cao cả hơn. Quan niệm hiếu không chỉ nhắm vào mỗi việc chăm sóc, phụng dưỡng cha mẹ bằng vật chất mà còn phải tìm mọi cách để độ cho cha mẹ thoát khỏi vòng sinh tử luân hồi. Kính Tâm mặc dù bị Thị Mầu vu oan, chịu khổ sở, nhưng vẫn hết lòng nuôi con Thị Mầu chu đáo, tận tình như nuôi con đẻ của chính mình. Bởi vì Đức Phật dạy người xuất gia phải có lòng từ rộng lớn, phải thương yêu tất cả mọi chúng sinh như là người mẹ thương yêu con ruột của mình. Đó là điển hình cho chứ “nhân” mà Phật giáo muốn truyền đạt đến người dân. Như vậy bà Thị Kính, tức tiểu Kính Tâm, xuất gia tu Đạo Phật đã đền đáp đầy đủ công ơn cha mẹ, đồng thời lại giúp đời, cứu người. Cả hai chữ hiếu và chữ nhân đều vẹn toàn. Tinh thần Phật Giáo đã là một ngọn hải đăng chói sáng hướng dẫn cho bà Thị Kính trong hành trình vượt qua con sông mê để vươn tới bến bờ giác ngộ, để bà Thị Kính trở thành tiểu Kính Tâm và sau đó tiểu Kính Tâm trở thành Đức Phật Quan Âm. 23
- Phật giáo nhập thế ăn sâu vào tư tưởng của tầng lớp trí thức, ngay cả các nhà nho. Nguyễn Trãi trong “Ức trai thi tập” có bài thơ về chùa Yên Tử như sau: “Đề chùa Hoa Yên núi Yên Tử Trên non Yên Tử tròm cao nhất Trời mới canh năm đã sáng tinh Vũ trụ mắt đưa ngoài biển cả Nói cười người ở giữa mây xanh Muôn vàng giáo ngọc che gài cửa Bao dải tua châu đá rủ mành Dấu cũ Nhân Tôn còn vẫn đấy, Trùng đồng thấy rữa ảnh quang minh” Vua Lê Thánh Tông có bài thơ nôm về chùa Non Nước như sau: “Nơi gọi bồng nơi gọi nhược, Hai bên góp làm Non Nước Đá chồng hòn thấp hòn cao Sóng trục lớp sau lớp trước Phật hư vô cảnh thiếu thừa. Khách danh lợi buồm xuôi ngược, Vẳng nghe trên gác boong boong Lẩn thẩn dưới chùa lần bước” Phong tục tập quán trong dân gian cũng ảnh hưởng rất lớn bởi đạo Phật, đặc biệt dưới triều Lý – Trần. Dưới thời Lý - Trần, xuất hiện phong tục thờ các dị vật như cau nhiều thân, rùa nhiều đầu, ngựa nhiều móng, hổ, voi, sen trắng, hươu trắng, hươu đen do ảnh hưởng từ trong Phật giáo. Đức Phật khi ra đời gắn liền với những điềm báo như voi trắng, hoa sen, vầng hào quang. Hơn nữa, dưới thời Lý - Trần, phần lớn các con vật được coi là lạ và linh thiêng trong phong tục tập quán của người Việt thì đều mang màu trắng được đặt ở vị thế cao quý, được thờ phụng ở mọi nơi như đình, đền, chùa. Ví 24
- dụ, hình tượng voi trắng có nguồn gốc từ chuyện mẹ đức Thích Ca thấy voi trắng chui vào mình mà hoài thai Phật. Con voi trắng linh thiêng có thể thay cho con bò thần (trắng) Nadin, vật cưỡi của thần Shiva. Bên cạnh đó, những phong tục tập, quán của người Việt như thờ cúng tổ tiên cũng chịu ảnh hưởng sâu sắc của Phật giáo. Tục thờ cúng tổ tiên là tín ngưỡng phổ biến nhất của người Việt Nam. Nó bắt nguồn từ niềm tin rằng, linh hồn người chết vẫn tồn tại trong thế giới chúng ta và ảnh hưởng tới cuộc sống của những người đang sống, đặc biệt là con cháu trong gia đình. Dưới ảnh hưởng của Phật giáo, người chết được nhà chùa làm lễ cầu siêu và sau đó được “gửi” vào chùa để đức Phật che chở. Tuy nhiên, dù linh hồn người chết được gửi ở chùa nhưng quan niệm phù trợ, che trở cho con cháu vẫn giữ nguyên trong dân gian. Bằng chứng rõ nét nhất là bàn thờ tổ tiên vẫn duy trì ở các gia đình; vào ngày giỗ, anh em, thân tộc vẫn quy tụ về nhà trưởng tộc để tưởng nhớ người đã mất. Sự “giao duyên” giữa Phật giáo và tôn giáo dân gian còn thể hiện qua các lễ hội. Trong hội làng, hội chùa có phong tục tập quán thả chim, là một nghi lễ “phóng sinh” thể hiện tinh thần từ bi hỉ xả của nhà Phật. Ngược lại, vào ngày mồng 8 tháng Tư (ngày Phật đản) hằng năm, tại các chùa đều tổ chức lễ tắm Phật - vốn cũng là một lễ thức cầu nước truyền thống của dân tộc được Phật giáo hóa. Sau lễ tắm Phật là lễ Phóng sinh. Ngoài ra, văn hóa Phật giáo còn ảnh hưởng đến một số tập quán khác của người Việt như tục ăn chay, tục đi lễ chùa vào các ngày Rằm, mồng Một. Tục ăn chay phổ biến ở một bộ phận người Việt, đó là các nhà tu hành, Phật tử, những tín đồ Phật giáo. Ăn chay xuất phát từ quan niệm từ bi của Phật giáo, đó là sự yêu thương muôn loài. Theo Phật giáo, khi trở thành Phật tử, phải thọ giới và trì giới, trong đó thọ giới quan trọng nhất là không được sát sinh loài vật. Theo đó, người xuất gia ăn chay trường, còn Phật tử tại gia chỉ ăn chay kỳ. Hình thức ăn chay phổ biến cho các đối tượng ăn chay kỳ là mỗi tháng hai ngày vào mồng Một và ngày Rằm. Tục cúng Rằm, mồng Một là tập 25
- tục cúng Sóc, Vọng, theo quan niệm truyền thống, vào thời điểm đó Mặt Trời và Mặt Trăng thông suốt nhau, vì thế mà thần thánh, tổ tiên có thể liên lạc, thông thương với con người để lắng nghe những lời cầu nguyện, ước muốn của cõi giới khác. Đối với Phật giáo, đây cũng là ngày trong sạch để các vị tăng, ni kiểm điểm hành vi của mình, còn gọi là ngày Bồ Tát và ngày sám hối. Các tín đồ Phật giáo cũng về chùa để tham dự lễ sám hối, cầu nguyện, vứt bỏ điều ác, làm điều lành và sửa đổi tâm tính. Quan niệm ngày Sóc, Vọng là những ngày trưởng tịnh, sám hối, ăn chay, xuất phát từ ảnh hưởng của Phật giáo Đại thừa. Tuy nhiên, ở nhiều gia đình vào những ngày này cũng mua hương, hoa, quả để dâng cúng tổ tiên và kiểm điểm lại việc tu tâm, dưỡng tính của từng cá nhân. Bên cạnh tập tục đi chùa sám hối vào ngày Rằm, mồng Một, người Việt còn đi chùa lễ Phật vào những ngày Rằm tháng Giêng, Rằm tháng Tư (Phật đản) và rằm tháng Bảy (Vu Lan). Đây là một tập tục, một nhu cầu không thể thiếu được trong đời sống người Việt. Trong bối cảnh của sự khoan dung, hòa hợp tôn giáo “Tam giáo đồng nguyên”, giữa giáo lý và thực tiễn đời sống để hình thành lên một lối sống nhân sinh, nhân bảo cao đẹp. Từ những ảnh hưởng đến phong tục tập quán, văn hóa Phật giáo đã góp phần không nhỏ hình thành nên lối sống “từ bi, hỷ xả”, nhập thế tích cực của người dân Đại Việt thời phong kiến. Ảnh hưởng đến lối sống, văn hóa Phật giáo mang lại cho người dân Đại Việt một lối sống dung dị. Đó là sự hòa quyện giữa triết lý nhân sinh từ bi của Phật giáo và tư tưởng nhân ái cao cả của dân tộc với các đặc điểm sau: Thứ nhất, lối sống nhân ái, đức thương người truyền thống của tổ tiên chúng ta mang tính giới hạn ở cộng đồng quốc gia - dân tộc. Đó là tình thương nảy nở trên cơ sở thực tiễn của đoàn kết chống kẻ thù xâm lược, thể hiện qua câu: “Nhiễu điều phủ lấy giá gương, Người trong một nước thì thương nhau cùng”. 26
- Thứ hai, lối sống nhân ái, đức thương người truyền thống của tổ tiên chúng ta đặt trên nền tảng của thực tiễn hiện thực cố kết cộng đồng dân tộc nhằm thực hiện sự nghiệp chống kẻ thù xâm lược, cải tạo thiên nhiên, tạo cuộc sống an lành, hòa bình. Thứ ba, lối sống, cách sống nhân ái, thương người của truyền thống tổ tiên chúng ta mang nặng tình cảm nhân ái. Không còn là hiện tượng cộng hưởng mà đã đạt tới mức độ nâng cao tầm triết học của lối sống nhân ái Việt Nam nhờ có sự hòa quyện với lối sống từ bi của Thiền tông. 1.2.2. Biểu hiện tinh thần nhập thế của Phật Giáo Việt Nam hiện nay Tinh thần nhập thế của Phật giáo trong chính trị, tư tưởng xã hội Sau cuộc Chấn hưng Phật giáo ở thế kỷ trước, hiện nay Phật giáo tiếp tục giữ vị trí quan trọng của mình trong lòng xã hội Việt Nam. Trong bối cảnh xã hội ngày một phát triển, đời sống con người ngày một tiến bộ nhưng cũng nảy sinh rất nhiều bất cập như diễn biến hòa bình, suy thoái đạo đức, biến đổi khí hậu, đang đe dọa đến an nguy của con người trong đó có Việt Nam, vai trò của Phật giáo nhập thế rất quan trọng đặc biệt là ở mặt tư tưởng. Ảnh hưởng của Phật giáo đã đạt được rất nhiều thành quả to lớn. Về chính trị, đại hội Phật giáo năm 1981 được tổ chức sau khi Phật giáo Việt Nam được thống nhất trong Tổ chức chung là Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã đề ra phương châm hoạt động là “Đạo pháp - dân tộc và Chủ nghĩa xã hội. Từ đó đề ra 6 điểm trong chương trình hành động như sau: “1. Thực hiện hợp tác hòa hợp dân tộc giữa các hệ phái phật giáo giữa Tăng Ni; Phật tử 2. Truyền bá Chánh pháp và nêu rõ tính tích cực của Phật giáo 3. Thiết lập một hệ thống giáo dục cho Tăng, Ni và một lối sống đúng đắn cho các Phật tử 4. Tăng cường truyền thống yêu nước của phật giáo Việt Nam, mối liên hệ gắn bó của Phật giáo đối với nhân dân và sự đóng góp tích cực của Phật giáo trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước 27
- 5. Ổn định kinh tế nhà chùa để cải thiện điều kiện sinh hoạt của Tăng, Ni và đóng góp tạo phồn vinh cho đất nước 6. Tăng cường mối liên hệ hữu nghị với Phật tử và các tổ chức Phật giáo trên thế giới, tham gia xây dựng hòa bình và hạnh phúc cho nhân loại” [22, tr. 210]. Sự kiện này đánh dấu bước phát triển đặc biệt của Phật giáo Việt nam sau thời gian phân tán và chia rẽ. Phương châm hoạt động và sáu điểm cho thấy Phật giáo tiếp tục nhập thế tích cực trước những vấn đề của dân tộc cũng như trên thế giới. Phật giáo vốn không chủ trương về chính trị mà chủ trương hướng đến giải thoát nhân sinh. Nhưng Đức Phật lại quan tâm đến sự bình an của nhân dân nên Ngài đã đưa ra phương pháp làm chính trị: “Người lãnh đạo Quốc gia là người biết đặt quyền lợi của nhân dân và đất nước lên trên lợi ích cá nhân, không được lợi dụng địa vị của mình để hưởng thụ”. Tư tưởng trị nước của Đức Phật hoàn toàn trùng với tư tưởng của một Đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam. Hiện nay, có nhiều cao tăng tham gia vào hệ thống chính trị các cấp như Đại biểu Quốc hội, Mặt trận Tổ quốc, Hội đồng nhân dân các cấp, góp tiếng nói trong việc ban hành chính sách của Nhà nước. Giáo hội phật giáo Việt Nam là cơ quan biểu hiện cho tiếng nói của Tăng Ni, Phật tử, đây cũng được coi là tổ chức tôn giáo chính thống và hợp pháp trong hệ thống chính trị Việt Nam. Nhiều Phật tử tích cực tham gia công cuộc xây dựng xã hội mới trong các đoàn thể, hiệp hội được tổ chức tại địa phương. Với một cán bộ cộng sản trong thời kỳ hội nhập và phát triển, đức tính của Phật giáo như cần kiệm, kiên định, bình đẳng bác ái rất cần thiết. Chính sách bình đẳng và tự do tôn giáo của Nhà nước Xã hội chủ nghĩa Việt Nam giúp cho Phật giáo có thể chủ động hơn trong quan hệ giữa tôn giáo và nhà nước. Tuy nhiên những diễn biến của đất nước trong thời đại mới rất phực tạp và tinh vi đòi hỏi các Tăng Ni, Phật tử phải có cái nhìn kiên định, tránh sự lợi dụng của kẻ thù. 28
- Trong bối cảnh hội nhập quốc tế đang là xu hướng chính,có rất nhiều nguồn văn hóa ngoại lai được du nhập vào. Bên cạnh những giá trị tốt đẹp, văn hóa ngoại lai đã khiến cho nhiều người có tư tưởng lệch lạc, chạy theo lợi ích vật chất mà lãng quên đi giá trị tinh thần. Làm cho con người chìm đóng trong tham – sân – si, mờ mắt bởi dục vọng. Từ đó, phật giáo đóng vai trò quan trọng trong sự định hướng tư tưởng xã hội. Phật giáo lấy giải thoát nhân sinh làm trọng tâm và làm mục tiêu hướng tới. Chính vì những mục đích tốt đẹp mà Phật giáo muốn hướng đến, các tín đồ Phật tử đến chùa tu học ngày một đông. Đa phần các tín đồ đến đây để tìm sự yên bình, làm cho thân tâm được thanh thản. Sở dĩ họ cảm thấy như vậy vì những triết lý nhân sinh của Phật giáo đã giúp ta định hướng trong tư tưởng, lấy việc hành thiện, tu tâm làm tôn chỉ trong hành động và suy nghĩ hàng ngày. Phật giáo nhập thế trong giáo dục đạo đức, lối sống Từ khi Phật giáo du nhập vào nước ta cho đến nay, tư tưởng của Phật giáo hòa quyện với tín ngưỡng dân gian tạo nên giá trị truyền thống độc đáo tồn tại và ảnh hưởng cho đến tận ngày nay. Việt Nam đã và đang đạt được những tiến bộ vượt bậc kinh tế, khoa học kỹ thuật nhưng mặt trái của nền công nghiệp, của kinh tế thị trường làm cho “môi trường nhân văn” bị ô nhiễm trầm trọng. Đạo đức, lối sống của nhiều người bị suy thoái, nhiều biểu hiện của lối sống xa lạ, trái với thuần phong mỹ tục trong một bộ phận cộng đồng dân cư diễn ra ngày càng phổ biến, đặc biệt là ở giới trẻ, học sinh – sinh viên. Họ có thiên hướng đề cao cá nhân, sống ích kỷ, lạnh lùng, ít chú ý đến nghĩa vụ và trách nhiệm. Hiện nay, số lượng trẻ vị thành niên nói chung và học sinh, sinh viên nói riêng phạm pháp đang gia tăng theo xu hướng trẻ hóa và mức độ tội lỗi ngày càng nghiêm trọng. Hàng loạt những hiện tượng đau lòng diễn ra ở chốn học đường gần đây khiến cho chúng ta không thể làm ngơ. Theo thống kê cho thấy 55 – 65% số người phạm tội ở nước ta những năm gần đây là thanh, thiếu niên, trong đó có không ít học sinh, sinh viên. Theo kết quả điều tra gần 29
- đây của Viện nghiên cứu và phát triển Giáo dục Việt Nam, ta có bảng thống kê sau: Biểu hiện vi phạm Tiểu học Trung học cơ sở Trung học Cao đẳng, phổ thông Đại học Tỉ lệ đi học không 20% 21% 58% 85% đúng giờ Tỉ lệ quay cóp 8% 55% 60% 69% Tỉ lệ nói dối cha mẹ 22% 50% 64% 83% Tỉ lệ vi phạm Luật 4% 35% 70% 84% giao thông Đây là những con số đáng báo động cho thế hệ trẻ. Bởi vì, thanh niên là chủ tương lai của đất nước, nước nhà thịnh hay suy, mạnh hay yếu, một phần là do thanh niên. Chính vì vậy, cần có các biện pháp để giảng dạy đạo đức cho giới trẻ. Trước tình hình trên, Phật giáo đóng vai trò quan trọng trong việc giáo dục đạo đức, lối sống của thời trẻ hiện nay bằng các giáo lý, tư tưởng tiến bộ như: Tư tưởng từ bi, hỷ xả của Phật giáo hướng con người đến việc xây dựng nếp sống trong sáng, lành mạnh, một tinh thần hướng thiện thực sự. Đây là một trong những quan niệm giá trị nhất của Phật giáo. Nó không chỉ giúp con người sống cuộc đời đạo đức, lành mạnh mà còn giúp ngăn ngừa và vượt qua các tệ nạn xã hội; đồng thời nó kích thích con người yêu thương lẫn nhau và làm nhiều việc thiện. Tư tưởngbình đẳng, ôn hòa, tôn trọng lẫn nhau: Tư tưởng bình đẳng trong những lời dạy của Đức Phật Thích Ca là một trong những điều tốt đẹp và tiến bộ cho nền Phật học ngày nay. Một trong những lời bình dị đơn giản của Đức Phật Thích Ca đã nói, nhưng ít ai để ý đến đó là: "Một người trở nên cao quý hay thấp kém là do ba nghiệp của họ, chứ không phải do nơi chốn mà 30
- họ sinh ra" [40, tr. 2]. Vì vậy mọi người đều xuất phát điểm như nhau, không nên phân biệt, kì thị nhau. Phật giáo hướng con người đến việc tôn trọng và xây dựng môi trường bền vững: Phật giáo đưa chúng ta tới một thái độ đúng hơn đối với vấn đề môi trường, một trong những vấn đề lớn trong thời đại của chúng ta. Trong lời răn không được hủy diệt cuộc sống thì quyền sống của thú vật và cây cỏ cũng được tôn trọng như con người. Thiên nhiên không những lệ thuộc vào con người, mà ngược lại con người cũng lệ thuộc vào thiên nhiên. Hiện nay trên cả nước có “165 cơ sở tuệ tĩnh đường, hàng trăm phòng chẩn trị y học dân tộc, có trên 10 phòng khám Tây y, Đông Tây y kết hợp đã khám và phát thuốc miễn phí cho hàng trăm bệnh nhân có hoàn cảnh khó khăn. Trên 1000 lớp học tình thương, 36 cơ sở nuôi dạy trẻ mẫu giáo bán trú, nuôi dạy trẻ mồ côi, khuyết tật, với trên 20000 em, trên 20 cơ sở nhà dưỡng lão, nuôi dưỡng trên 1000 cụ già và có khoảng 10 trường dạy nghề miễn phí” [22, tr. 161]. Hiện nay, hình thức từ thiện được xem là hoạt động nhập thế nổi bật của đạo Phật lên đã được nhân rộng ra cả các Phật tử trong và ngoài nước. Từ đó đã mang lại nhiều ấn tượng tốt đẹp, giúp mọi người xích lại gần nhau hơn tăng khối đại đoàn kết dân tộc. Ngoài ra, việc đi làm từ thiện còn giúp cho bạn bạn trẻ thay đổi tâm tính, có tình yêu thương và làm cuộc sống trở lên ý nghĩa hơn. Đứng trước biểu hiện suy thoái về đạo đức, lối sống của một số bộ phận giới trẻ hiện nay như: hiện tượng bạo lực học đường, tệ nạn xã hội, lối sống ăn chơi đua đòi, hưởng thụ, đã có nhiều cơ sở chùa và thiền viện tổ chức khóa tu tập cho giới trẻ. Việc tổ chức các khóa tu này giúp cho các em hiểu được lẽ phải và thay đổi tâm tính. Khóa tu thường diễn ra vào mùa hè trong khoảng một tuần. Đến đây, các em được sống cuộc sống như một người tu học thiết thực. Được dạy về cuộc đời đức Phật, giáo lý Phật giáo như kinh Nhân Quả, kinh Vu Lan, tham gia các hoạt động nhằm phát triển bản thân. Điều này giúp các bạn trẻ phát triển toàn diện và biết đi theo chính pháp. 31
- Giáo dục Phật giáo giàu tính nhân bản, luôn hướng đến mục tiêu đào tạo con người hướng thiện, có niềm tin chân chính, đem đến lợi lạc cho bản thân, cùng cộng đồng chung tay xây dựng gia đình hòa thuận, văn minh và giàu đẹp. Phật giáo nhập thế trong vấn đề gia đình Trong xu thế hội nhập và bối cảnh kinh tế, xã hội ngày càng phát triển đa dạng. Đời sống được nâng cao, con người có điều kiện trau dồi kiến thức. Tuy nhiên, mặt trái của nó là đạo đức trong gia đình, cơ quan, trường học xuống cấp nghiêm trọng; xu hướng tranh giành quyền lợi làm ảnh hưởng đến lối sống của gia đình. Những biến đổi về xã hội đang tác động làm thay đổi cơ cấu gia đình và đặt ra nhiều vấn đề mới, tình trạng ly hôn, ly thân, bạo lực có xu hướng tăng. Theo số liệu từ viện nghiên cứu gia đình và giới, trung bình trên cả nước có 60.000 vụ ly hôn/năm, tỉ lệ 30%, tức là 10 cặp vợ chồng thì có đến 3 cặp ly hôn, có xu hướng tăng. Điều đáng nói 70% các vụ ly hôn đều thuộc về các vợ chồng trẻ, trong đó có tới 60% ly hôn sau khi kết hôn từ 1 đến 5 năm. Nguyên nhân do mâu thuẫn về lối sống là nguyên nhân hàng đầu chiếm 27.7%, ngoài ra còn có các yếu tố: Ngoại tình (25,9%), kinh tế (13%), bạo lực gia đình (6.7%), sức khỏe (2.2%), xa nhau lâu ngày (1.3%). Hệ quả của các cuộc ly hôn không chỉ ảnh hưởng đến gia đình, người thân mà còn cả xã hội. Ảnh hưởng nghiêm trọng nhất là những đứa con thiếu đi tình yêu thương chăm sóc của người bố hoặc mẹ, thậm chí là cả hai. Những đứa trẻ như vậy không được phát triển hoàn thiện, tuổi thơ không hạnh phúc làm cho nhiều em bị mắc bệnh tự kỷ, trầm cảm, một số em trở nên hư hỏng. Đây là một trong những nguyên nhân làm cho tệ nạn xã hội gia tăng. Không chỉ vậy, tỷ lệ ly hôn lớn còn cho ta thấy một thực trạng là các giá trị truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt đang bị mai một. Phật giáo can thiệp vào vấn đề gia đình thông qua nghi lễ Hằng Thuận. Nghi lễ này xuất hiện lần đầu ở Việt Nam trong phong trào Chấn hưng Phật 32
- giáo ở thế kỷ XX. Với mục đích đưa giáo lý Phật giáo vào cuộc sống gia đình nhằm giảm bớt tỷ lệ ly hôn, khôi phục, giữ vững và phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt. Lễ Hằng Thuận được tổ chức ở rất nhiều nơi như chùa Bằng, chùa Yên Phú, Thiền viện Sùng Phúc ở Hà Nội, chùa Thiên Phúc ở Ninh Bình, Thiền viện Trúc Lâm ở Yên Tử, 1.3. Khái quát chung về lễ Hằng Thuận Lễ Hằng Thuận bắt nguồn từ khi Đức Phật còn tại thế. Có một lần Đức Thế Tôn trở về thăm Vương thành Ca Tì La Vệ. Một ngày đặc biệt trong chuyến về lại cố hương của Đức Thế Tôn, gặp dịp cả kinh thành chuẩn bị làm lễ thành hôn cho Vương tử Mahanam, có thỉnh Đức Thế Tôn và Tăng đoàn vào hoàng cung chứng minh cho hôn lễ. Và từ nhân duyên đó, Đức Thế Tôn dạy người làm chồng phải sống như thế nào để họ hàng nhà vợ tôn trọng, chấp nhận. Người chồng phải có trách nhiệm với họ hàng nhà vợ làm sao, trách nhiệm với vợ con trong tương lai như thế nào? Cũng như vậy, phận làm dâu đối với họ hàng nhà chồng và trách nhiệm đối với người chồng và những đứa con mình trong tương lai. Đức Phật dạy, điều quan trọng nhất là hai người gặp nhau và chọn nhau làm bạn đời, có nghĩa là cả hai sẽ cùng đi bên nhau trọn đời; cùng đối diện với những nghiệp chướng của cuộc đời; cùng chia sẻ với nhau những gian khó trước những khúc quanh của đời người; cùng nâng đỡ nhau tạo thiện nghiệp, khuyên can nhau dứt trừ ác nghiệp và luôn tùy thuận với nhau để cùng tu tập. Mượn nhân duyên vợ chồng để đồng làm pháp lữ tạo thiện nghiệp. Vui cũng thuận, buồn cũng thuận. Thành công cũng thuận, thất bại cũng thuận. Giàu cũng thuận, nghèo kém cũng thuận. Thế nên được gọi là lễ Hằng Thuận nghĩa là, luôn thuận bên nhau suốt cả cuộc đời. Cho dù nắng hay mưa, hạnh phúc hay đau khổ. Kể từ đó, trong Phật giáo mới tổ chức lễ Hằng Thuận quy y. Tuy nhiên, lễ cưới trong chùa không có văn bản hoàn chỉnh trong giáo lý. Khác với đạo Thiên Chúa, người theo đạo Thiên Chúa lấy chồng/vợ đều bắt buộc phải tổ chức lễ cưới tại nhà thờ với sự chứng minh của Chúa. Còn với Phật giáo thì tùy vào duyên mỗi người có nguyện vọng hay không. 33
- Ở Việt Nam, chưa có tài liệu nào khẳng định lễ Hằng Thuận ra đời vào thời điểm nào, do ai đặt ra, ai là người đầu tiên đến chùa làm lễ Hằng Thuận. Phải chăng, lễ Hằng Thuận chỉ là sự kiện nhỏ trong một thời kỳ đầy biến động của Phật giáo nên đã dần phai mờ đi trong ký ức của mọi người. Trong bản Nghi thức lễ thành hôn của Hòa thượng Thích Thiện Hòa, được viết và in thành sách sớm nhất năm 1971, trong đó, hai chữ "Hằng Thuận" được Hòa thượng nhắc đến một lần duy nhất ở phần hồi hướng: "Hằng Thuận công đức thì thắng hạnh", hai bản còn lại không hề nhắc đến chữ này. Vậy phải chăng Hòa thượng Thiện Hòa là người đầu tiên xác nhận "Hằng Thuận" chính là nghi thức cử hành hôn lễ tại chùa bằng văn bản. Còn đối với Hòa thượng Đào Như – Ủy viên Thư ký Hội đồng Trị sự Giáo hội phật giáo Việt Nam, Trưởng ban Trị sự Thành hội Phật giáo thành phố Cần Thơ, theo ông “Truyền thống xa xưa của người Khmer Nam bộ cũng như nhân dân các nước Phật giáo Nam tông, tất cả Phật tử khi thành hôn đều có lệ thỉnh chư Tăng tổ chức lễ Chúc phúc cho tân lang, tân nương và hai họ với nội dung tương tự như lễ Hằng Thuận của Phật tử người Việt”. Các tư liệu sử chính thống cho rằng, người khởi xướng ra nghi lễ Hằng Thuận là ông Đồ Nam Tử. Ông tên thật là Nguyễn Trọng Thuật (1883 - 1940) quê ở Hải Dương. Ông vốn là một nhà Nho, sau ông chuyển qua đạo Phật và là người cổ vũ phong trào Chấn hưng Phật giáo nước nhà. Ông Đồ Nam Tử cho rằng đạo Phật nên được dấn thân và hoà hợp vào quần chúng. Vào năm 1930, bác sỹ Tâm Minh, hay còn gọi là Lê Đình Thám là một trong những cư sĩ tiên phong và có công rất lớn trong công cuộc Chấn hưng Phật giáo vào những thập niên đầu thế kỷ XX, người sáng lập nên Đoàn Thanh niên Phật học Đức dục gia đình Phật hóa phổ (1940), tiền thân của Gia đình Phật tử (1951) đã tổ chức lễ cưới cho con gái đầu lòng là bà Lê Thị Hoành với ông Hoàng Văn Tâm tại chùa Từ Đàm, Huế. Có thể nói đây là lễ cưới đầu tiên trước cửa Phật được chư Tăng chứng minh. Hưởng ứng theo lời kêu gọi của ông Đồ Nam Tử, vào năm 1971 Hoà thượng Thích Thiện Hoa đã dùng hai chữ Hằng Thuận để chỉ việc kết hôn trước cửa Phật. 34
- Qua những điều trình bày trên, có thể nhận thấy lễ Hằng Thuận là một tập tục đã có từ lâu trong sinh hoạt tín ngưỡng của người Phật tử, có ý nghĩa rất quan trọng trong ngày thành hôn của đôi bạn trẻ, mà chư Tăng Ni đã khuyến khích các bậc phụ huynh nên tích cực động viên và hướng dẫn con em của mình khi kết hôn về chùa đăng ký tổ chức lễ Hằng Thuận. Mục đích chính của lễ Hằng Thuận là làm thế nào để cho đôi vợ chồng ý thức được tầm quan trọng của nền tảng đạo đức tâm linh trong đời sống gia đình, để từ đó hướng đến một đời sống hôn nhân thật sự an lạc hạnh phúc. Để thực hiện được điều này, trước hết, đôi vợ chồng phải hết lòng yêu thương nhau, chung thủy, tôn trọng, quý kính lẫn nhau và luôn luôn hòa thuận với nhau, cùng nhau hướng đến những điều thánh thiện và cao thượng trong cuộc sống như hàm nghĩa của hai từ Hằng Thuận đã toát lên. Đó cũng là ý nghĩa của "chiếc nhẫn" (được cô dâu chú rể trao nhau trong lễ Hằng Thuận) mà tổ tiên ta đã nêu ra cho mọi người noi theo, cho đôi nam nữ hiểu được ý nghĩa của đời sống lứa đôi trong tinh thần yêu thương hòa kính theo những lời Phật dạy, cũng chính là trọng tâm ý nghĩa của buổi lễ, thật sự có tác động mạnh trong đời sống tâm linh của đôi nam nữ sau này. Trong ngày trọng đại này, sẽ là bước khởi đầu đầy ý nghĩa cho những ai chuẩn bị bước vào đời sống hôn nhân nếu được sự chứng minh, chúc phúc và gửi gắm những đạo lý, kinh nghiệm sống xây dựng tổ ấm gia đình hạnh phúc của các bậc đức hạnh. Đây thật sự là một nghi lễ vô cùng quan trọng đối với người Phật tử. Tiểu kết chương 1 Đã định dạng: Ở tâm Đã định dạng: Phông: Đậm Từ khi du nhập vào nước ta, Phật giáo luôn thể hiện tinh thần nhập thế của mình trong mọi mặt. Phật giáo đồng hành cùng nhân dân trong lịch sử dựng nước và giữ nước. Thời Bắc thuộc có Lý Nam Đế với chùa Khai Quốc và thiền sư Khuông Việt. Thời lý có thiền sư Vạn Hạnh, người góp công không nhỏ lập ra nhà Lý.thời Trần có Phật hoàng Trần Nhân Tông nổi tiếng với “cư trần lạc đạo thả tùy duyên”. Sang đến thời nhà Lê, Nguyễn, mặc dù nhà nước không có chính sách đề cao phật giáo nhưng Phật giáo vẫn có chỗ 35
- đứng vững chắc trong lòng xã hội. Thời kỳ chống Pháp, Mỹ, tinh thần nhập thế được phát huy cao độ. Biểu hiện trong phong trào Chấn hưng Phật giáo ở thể kỷ XX và tinh thần “cởi áo cà sa khoác chiến bào” thời chống Pháp. Nổi bật lên là phong trào chống Mỹ - Diệm trong thời kỳ chống Mỹ, Phật giáo đã góp phần không nhỏ vào sự sụp đổ của chính quyền Ngô Đình Diệm. Trong suốt 2000 năm du nhập và phát triển ở Việt Nam, Phật giáo đã để lại dấu ấn sâu sắc trong đời sống xã hội Việt Nam từ những sự kiện trọng đại của đất nước đến những điều bình dị nhất có trong dân gian. Phật giáo nhập thế có trong những câu chuyện cổ tích với ông bụt luôn giúp đỡ người lương thiện, ngay cả trong ngôn ngữ hàng ngày như từ “tội nghiệp”. Xuất hiện trong thơ ca của các nhà trí thức lớn như Trần Nhân Tông, Nguyễn Trãi, ngay cả trong các vở chèo như Quan Âm thị kính. Như vậy, Phật giáo nhập thế ở Việt Nam là một nét đặc trưng, một xu hướng không thể không xảy ra. Ngày nay, Phật giáo nhập thế tiếp tục khẳng định vai trò của mình trong tất cả các mặt đời sống xã hội. Trong xu thế hội nhập toàn cầu hóa, bên cạnh các thuận lợi, Phật giáo đã ảnh hưởng đến tất cả khía cạnh trong xã hội như: Tích cực hội nhập quốc tế, tổ chức từ thiện giúp dân có hoàn cảnh khó khăn, tham gia giáo dục phong cách sống, Vấn đề gia đình hiện nay đang là vấn đề xã hội quan tâm khi tỷ lệ ly hôn quá lớn. Như một xu hướng tất yếu, lễ Hằng Thuận đang ngày một phát triển. Xuất hiện từ phong trào Chấn hưng phật giáo đầu thế kỷ XX, hiện nay lễ Hằng Thuận đang trở thành xu hướng của giới trẻ, được rất nhiều gia đình tổ chức. Từ đó, Phật giáo thể hiện tinh thần nhập thế của mình trong việc giải quyết vấn đề gia đình. Lễ Hằng Thuận là nghi thức tương đối đặc biệt dành riêng cho lễ cưới được tổ chức trang nghiêm trọng thể trong chùa. Nghi thức Hằng Thuận trong ngày cưới mang đậm dấu ấn đạo đức tâm linh và trí tuệ của đạo Phật, cùng với những định hướng với mục đích giúp cho gia đình hòa thuận, êm ấm, giữ vững phong tục tập quán của người Việt. Xuất hiện từ phong trào Chấn hưng Phật giáo. Cho đến nay, lễ Hằng Thuận đã ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống gia đình của người Việt. 36
- CHƯƠNG 2: NỘI DUNG TINH THẦN NHẬP THẾ TRONG LỄ HẰNG THUẬN CỦA PHẬT GIÁO VIỆT NAM HIỆN NAY 2.1. Biểu hiện của tinh thần nhập thế trong lễ Hằng Thuận ở Việt Nam hiện nay. 2.1.1. Biểu hiện tinh thần nhập thế của Phật giáo trong lễ Hằng Thuận thông qua việc thực hiện các giáo lý, giáo luật. Thứ nhất, Tam Quy Ngũ Giới, nền tảng để xây dựng hạnh phúc gia đình Trước khi thực hiện lễ cưới, đôi tân lang, tân nương trước tiên phải thị trì tam quy ngũ giới. Tam Quy Ngũ Giới là các điều kiện cơ bản của một tín đồ Phật tử tại gia. Tam Quy là Quy y Tam Bảo, Quy y Pháp Bảo và Quy y Tăng Bảo. Tam Bảo là Phật Bảo chỉ đức Phật Thích Ca Mâu Ni, do trước kia Ngài tu hành giác ngộ thành Phật. Pháp Bảo là giáo pháp do Đức Phật nói ra chỉ dạy đường lối tu hành. Tăng Bảo là những vị tu hành theo giới luật và chánh pháp của Đức Phật. Quy y Tam Bảo là trở về, nương tựa với Phật, Pháp và Tăng. Lấy Tam Bảo làm chỗ cứu cánh, để không còn tạo thêm nghiệp đau khổ, rồi từ đó đem lại cho chúng ta sự an lạc trong cuộc sống. Ngũ Giới là năm điều ngăn cấm do Đức Phật bảo các Phật tử phải tuân theo. Sau khi Quy y người ấy đã tự nhận là đệ tử Phật, để đủ tư cách một Phật tử cần phải gìn giữ năm giới. Phật vì thương xót chúng sanh mà tạo ra năm điều răn cấm này, cốt khiến đời sống họ được an lành hạnh phúc. Gìn giữ năm giới này là vì mình, không phải vì Phật. Hình thức năm giới: 1. Không sát sanh nghĩa là không được giết hại mạng sống con người. Chúng ta tự quý sinh mạng của mình, vô lý lại sát hại sinh mạng của kẻ khác. Trên lẽ công bằng nhân đạo không cho chúng phép chúng ta làm việc ấy. Nếu làm chúng ta đã trái lẽ công bằng, thiếu lòng nhân đạo, đâu còn xứng đáng là đệ tử Phật. Giết hại mạng sống người có ba : trực tiếp giết, xúi bảo người giết, 37
- tùy hỷ trong việc giết hại. Phật tử không tự tay mình giết mạng người, không dùng miệng xúi bảo đốc thúc kẻ khác giết, khi thấy họ giết hại nhau chỉ một bề thương xót không nên vui thích. Đó là giữ giới không sát sanh. Nhưng suy luận rộng ra, chúng ta quý trọng mạng sống của chúng ta, những con vật cũng quý trọng mạng sống của nó, để lòng công bằng tràn đến các loài vật, nếu không cần thiết, chúng ta cũng giảm bớt giết hại sinh mạng của chúng. 2. Không trộm cướp của cải tài sản của chúng ta, không muốn ai xâm phạm đến, của cải tài sản của người, chúng ta cũng không được giựt lấy hay lén lấy. Bởi cướp giựt hay lén lấy của người là hành động trái nhơn đạo, phạm luật pháp chánh quyền, phải bị trừng phạt. Trộm cướp là do lòng tham lam ác độc, chỉ nghĩ lợi cho mình, quên nỗi đau khổ của người, mất cả công bằng và nhơn đạo, người Phật tử nhất định không được làm. 3. Không tà dâm, người Phật tử có vợ chồng đôi bạn như mọi người thế gian khác. Khi có đôi bạn rồi tuyệt đối không phạm đến sự trinh bạch của kẻ khác. Nếu phạm thì mắc tội tà dâm. Bởi vì đây là hành động làm đau khổ cho gia đình mình và gia đình người, tạo thành nguy cơ tán gia bại sản. Do một chút tình cảm riêng tư của mình, khiến nhiều người khổ đau liên lụy, quả là thiếu lòng nhân. Để bảo đảm sự an ổn của gia đình mình và hạnh phúc của gia đình người, Phật tử nhất định không phạm tà dâm. 4. Không nói dối, nói lời trái với sự thật để mưu cầu lợi mình, hoặc hại người là nói dối. Do động cơ tham lam ác độc, sự kiện xảy ra như thế này lại nói thế khác, sửa trái làm mặt, đổi phải thành quấy, khiến người mắc họa. Người nói như thế trái với đạo đức, mất cả lòng nhân, không xứng đáng là một Phật tử. Phật tử là người đạo đức nên ăn nói có mẫu mực, thấy biết thế nào nói thẳng thế ấy, không điêu xảo dối trá. Trừ trường hợp vì lợi người, lợi vật, không nỡ nói thật để người bị hại hoặc khổ đau, do lòng nhân cứu người cứu vật nói sai sự thật mà không phạm. Không nói dối là giữ lòng tin với mọi người chung quanh. 38
- 5. Không sử dụng chất kích thích, đạo Phật chủ trương giác ngộ muốn được giác ngộ trước phải điềm đạm tỉnh sáng, uống rượu vào gan ruột nóng bức, tâm trí quay cuồng, mất hết bình tĩnh không còn sáng suốt, trái hẳn mục đích giác ngộ. Chính vì nóng bức cuồng loạn, có những người khi say sưa tội lỗi họ cũng dám làm, xấu xa gì họ cũng không sợ, mất hết lương tri. Vì thế người biết đạo đức phải tránh xa không uống rượu. Uống rượu chẳng những làm mất trí khôn, lại gây nên bịnh hoạn cho thân thể, còn di hại cho con cái sau này đần độn. Quả là một tai họa cho cá nhân và xã hội. Người Phật tử vì nghiệp giác ngộ, vì lợi ích cho mình cho người quyết hẳn không uống rượu. Trừ trường hợp mắc bệnh y sỹ bảo phải dùng rượu hòa thuốc mới lành, Phật tử được uống thuốc rượu đến khi lành bệnh thì chấm dứt, cần phải trình cho chư Tăng biết trước khi uống. Việc thụ trì Tam Quy Ngũ Giới không chỉ có mục đích là đôi tân lang, tân nương là tín đồ của Phật giáo mà còn có ý nghĩa răn dạy. Đôi vợ chồng trẻ cần phải hiểu được giá trị, vai trò và cách thức thực hiện cụ thể. Nắm được mục tiêu thiết thực của cá nhân mình đối với người bạn đời, gia đình và cả xã hội. Ý thức được mối tương quan trong triết lý duyên sinh không chỉ ở cuộc sống hiện thực hài hòa, tốt đẹp thuộc tầng nhân quả báo ứng thiện ác thường tình mà cần phải sống và thực hiện triết lý duyên sinh trong từng hành vi, ngôn ngữ và ý nghĩ trong việc thiết lập mối quan hệ dân sinh và vũ trụ. Mọi hành vi đó không chỉ hướng đến hiện tại, mà cả quá khứ và tương lai. Hướng đến trong không gian dần mở rộng, đầu tiên là bản thân, sau đó là người bạn đời, đến gia đình, xã hội. Từ đó, các Phật tử nói chung và đôi vợ chồng trẻ nói riêng sẽ xác định được mục đích sống, cuộc sống có hạnh phúc hay không đều do họ xây dựng lên. Cuộc sống vợ chồng hạnh phúc không chỉ nhờ vào của cải vật chất mà dựa rất nhiều và tinh thần. Ngoài ra, lễ trao nhân Tam Quy Ngũ Giới có ý nghĩa về mặt tôn giáo rất lớn. Lời thề trước tam bảo và mọi người tạo nên sức mạnh tinh thần mạnh mẽ. Làm cho Tam Quy Ngũ Giới và người thu nhận được thiêng liêng hóa. 39
- Đủ khả năng ngăn chặn điều ác, ngăn chặn dục vọng phá vỡ hạnh phúc gia đình. Thứ 2 kinh Tthiện Sinh và sáu mối quan hệ gia đình dòng tộc Đối với người Việt, các mối quan hệ gia đình, xã hội là yếu tố rất quan trọng trong đời sống, xã hội. Trong quan hệ hôn nhân cũng vậy, các cặp vợ chồng không chỉ có mối quan hệ giữa vợ và chồng mà còn có các mối quan hệ giữa cha, mẹ với con cái, cha mẹ chồng với con dâu, cha mẹ vợ với con rể. Trong quan hệ vợ chồng: Trong gia đình truyền thống, người đàn ông thường nắm vai trò trụ cột và quyền quyết định mọi công việc của gia đình còn người phụ nữ thường ở địa vị thấp hơn, đảm nhiệm các công việc chăm sóc, giáo dục con cái, quán xuyến mọi việc lớn nhỏ trong gia đình. Từ đó có thể thấy, vai trò người đàn ông truyền thống thường gắn bó mật thiết với lĩnh vực kinh tế - xã hội, còn người phụ nữ có vai trò gắn với các hoạt động chăm sóc gia đình, nội trợ. Quyền hạn của người vợ trong gia đình truyền thống bị giới hạn trong khuôn khổ nhất định. Ngoài việc phải chăm lo cuộc sống, vun vén hạnh phúc gia đình, người vợ còn phải chăm lo cho gia đình nhà chồng, phụng dưỡng cha mẹ chồng. Nhìn trên phương diện này có thể thấy đây giống như nghĩa vụ của người vợ nhiều hơn là quyền lợi mà người vợ đáng được hưởng. Song gia đình Việt Nam hiện nay đang có sự biến đổi mạnh mẽ trong việc lựa chọn hôn nhân, điều đó cho thấy quan hệ vợ chồng ngày nay đã có sự tự do, bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau để cùng nhau xây dựng hạnh phúc gia đình. Hôn nhân trong xã hội cũ thường được xây dựng trên mai mối, sự áp đặt của bố mẹ, sự môn đăng hộ đối giữa hai gia đình và thường không xuất phát từ tình yêu trai gái. Nó hoàn toàn đối lập với quan hệ vợ chồng hiện đại họ được tự do bình đẳng chọn lựa cuộc sống hôn nhân của mình, vai trò của người phụ nữ cũng được đề cao hơn khi họ không bị gò bó ép buộc trong góc bếp, hay quán xuyến công việc gia đình mà được 40
- tham gia các công việc như phát triển kinh tế, tham gia vào các hoạt động chính trị - xã hội. Nếu như người vợ trong gia đình hiện đại được thụ hưởng một nền hôn nhân tự chủ, tự do, thì người phụ nữ truyền thống luôn phải sống cam chịu, gánh vác lo toan mọi công việc. Ngay từ khi bước vào gia đình nhà chồng cuộc sống của họ đã bị phụ thuộc vào người chồng “phu xướng phụ tuỳ”, người phụ nữ không có quyền chủ động, chỉ làm việc “tề gia nội trợ”, nâng khăn sửa túi cho chồng, không được tham gia vào việc họ, việc làng, việc nước; khi goá chồng sớm thì không nên tái giá mà phải biết “thủ tiết thờ chồng”, thờ chồng đến trọn đời. Mọi công việc trong gia đình đều phải đảm nhận từ nuôi dưỡng con cái tới việc nhà cửa mà không có sự san sẻ từ phía người chồng, họ không có được nhiều sự quan tâm từ phía người chồng nhưng cũng không được phép bỏ chồng kể cả khi người đó là kẻ vũ phu, bạc tình, bạc nghĩa vì nếu không sẽ bị mang định kiến xã hội và không được gia đình chấp nhận. Tuy luôn phải đảm đương công việc vất vả, lại không có tiếng nói nhưng khi có chuyện xảy ra hoặc có sai phạm gì thì người vợ vẫn bị lôi ra để chê trách. Ngày nay mối quan hệ vợ chồng có phần cởi mở hơn xã hội cũ,sự tôn trọng lẫn nhau được xem là kim chỉ nam của mỗi gia đình, người phụ nữ hiện đại được tự do làm những công việc mình mong muốn, không chỉ bó buộc trong góc bếp, hay công việc nội trợ. Sự phân công công việc trong gia đình cũng có nhiều thay đổi, những công việc như chăm sóc con cái, giữ tiền, chăm sóc người già cũng có sự san sẻ giữa vợ và chồng. Chính vì vậy mà trong cuộc sống hiện nay những áp lực, bất công của người vợ xuất phát từ phía người chồng và gia đình chồng cũng giảm hơn trước. Cả vợ và chồng đều phải có tinh thần trách nhiệm xây dựng cho tổ ấm của mình được bền vững. Người vợ ngày nay được tự do tham gia vào các công việc xã hội, những quan niệm cổ hủ lạc hậu dần thay thế bằng tư tưởng nam nữ bình quyền. Người phụ nữ dần thoát khỏi những giới hạn, sự kìm kẹp của 41
- những định kiến xã hội, họ được khẳng định bản thân nhiều hơn, được phấn đấu thăng tiến trong công việc của mình. Nhờ vậy mà có rất nhiều người phụ nữ ngoài việc đảm nhiệm tốt công việc nội trợ trong gia đình mà còn gặt hái được rất nhiều thành công trong con đường sự nghiệp, họ dần trở thành tượng đài vững chắc được xã hội tôn vinh. Bên cạnh các mặt tích cực, thì cũng dễ dàng nhìn thấy một số điểm tiêu cực trong mối quan hệ vợ chồng hiện đại, cuộc sống ngày càng hối hả và bon chen, khối lượng công việc ngày càng nhân lên, trong khi quỹ thời gian lại càng bị thu hẹp lại. Thời gian dành cho công việc ngày càng nhiều hơn là cho gia đình. Chính vì vậy mà có rất nhiều cặp vợ chồng đang trải qua một cuộc hôn nhân có quá nhiều áp lực, mệt mỏi và căng thẳng, mất cân bằng trong việc điều tiết giữa gia đình và công việc làm nảy sinh những mâu thuẫn, đưa họ vào cuộc sống không hạnh phúc. Những bất hòa về ứng xử, quan điểm sống, hay những khó khăn kinh tế dần trở thành những trở ngại, những khó khăn khiến vợ chồng không hài lòng về cuộc sống hôn nhân của mình. Có nhiều trường hợp liên quan tới xung đột và bạo lực gia đình. Mối liên kết ngày nay giữa các thành viên ngày càng ít bền vững, tỷ lệ ly hôn ngày càng tăng, điều này cho thấy một vấn đề đang cần được đặt ra và suy ngẫm về tầm quan trọng và ý nghĩa của hôn nhân trong cuộc sống hiện đại. Đồng thời nó cũng cho thấy địa vị và suy nghĩ của người phụ nữ ngày nay đã có nhiều thay đổi, nhận thức về quyền của họ ngày càng được nâng lên, người phụ nữ ngày nay càng tự chủ hơn trong đời sống hôn nhân của mình. Hậu quả của việc các cuộc ly hôn chính là sự ảnh hưởng đến sự phát triển toàn diện của trẻ. Chúng không được sống và lớn lên trong sự yêu thương và đùm bọc của cả cha và mẹ là thiệt thòi rất lớn. Quan hệ giữa cha mẹ và con cái Với gia đình ngày nay mối quan hệ bố mẹ và con cái có khoảng cách gần gũi và nới lỏng hơn so với gia đình truyền thống, thể hiện ở các khía cạnh trong gia đình truyền thống cha mẹ có quyền uy tuyệt đối với con cái 42
- và con cái phải có bổn phận phục tùng uy quyền của cha mẹ. Trong mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái, người ta ít đề cập tới trách nhiệm của cha mẹ đối với con cái nhưng lại nhấn mạnh tới bổn phận của con cái đối với cha mẹ, mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái được nhấn mạnh theo nguyên tắc: quyền của cha mẹ và bổn phận của trẻ em. Còn với gia đình hiện nay nguyên tắc đó được nhấn mạnh theo chiều hướng ngược lại, đó là: quyền của trẻ em và bổn phận của cha mẹ. Nhất là trong bối cảnh bố mẹ phải đối diện với guồng quay của công việc, không có thời gian hoặc có quá ít thời gian quan tâm, chăm sóc, giáo dục con cái cho thấy đã xuất hiện một khoảng trống trong việc kiểm soát, giáo dục con cái. Việc đánh mất vai trò kiểm soát của cha mẹ đối với con cái đã dẫn đến nhiều hậu quả nhức nhối cho gia đình và xã hội như hiện tượng trẻ em lang thang, phạm tội hay rơi vào các tệ nạn xã hội, bạo lực học đường. Có một chức năng quan trọng là giáo dục để hình thành nhân cách, lối sống và ứng xử cho con cái nhưng ngày ngày nay dưới tác động của nhiều yếu tố thì chức năng giáo dục văn hóa trong gia đình đã và đang nó biểu hiện suy giảm. Việc quá đề cao những yếu tố mới vô tình làm cho những chuẩn mực, giá trị cũ, phong tục của cha ông để lại đang bị xem nhẹ. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế - xã hội đã dẫn tới những chuyển biến trong ngay chính trong các gia đình. Dẫn tới sự tan rã của những gia đình và ngôi nhà truyền thống. Nhiều giá trị, chuẩn mực văn hóa của gia đình truyền thống đang bị mai một dần thay thế vào đó là lối sống thực dụng, chủ nghĩa cá nhân, vai trò và chức năng của gia đình truyền thống trong việc giáo dục, định hướng nhân cách của trẻ ngày một suy giảm. Một trong những nguyên nhân là do bộn bề lo toan cuộc sống, trách nhiệm với công việc ngày càng cao, khiến cho nhiều bậc cha mẹ không có thời gian dành cho gia đình, các mối quan hệ bị thu hẹp. Sự biến đổi từ gia đình gia trưởng truyền thống sang gia đình kiểu dân chủ hiện đại đã làm cho văn hóa của gia đình truyền thống cũng đang phải thực hiện 43
- bước quá độ để chuyển sang hiện đại đó là một xu thế tất yếu của quá trình phát triển xã hội. Khi mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái có nhiều thay đổi hơn trước, thì một tất yếu dẫn tới là mối quan hệ giữa con cái và cha mẹ cũng có nhiều chuyển biến cả theo chiều hướng tích cực và tiêu cực. Những điểm tích cực mà chúng ta dễ dàng nhận thấy là do được sống trong thời kì hòa bình dân chủ cho nên những đứa trẻ ngày nay cũng sớm hình thành tư tưởng dân chủ bình đẳng, mong muốn được nói ra chính kiến của mình, quan hệ giữa con cái và cha mẹ trở nên cởi mở hơn, gần gũi và thân thiết hơn. Từ đó cha mẹ có thể dễ dàng thấu hiểu tâm sinh lý của con cái. Bên cạnh các mặt tích cực, thì mối quan hệ giữa con cái và cha mẹ cũng có những biến chuyển theo chiều hướng tiêu cực. Nếu như trước đây ngày lễ tết là những ngày cực kì quan trọng, đó là khoảng thời gian mà các thành viên trong gia đình được quây quần bên nhau cạnh mâm cỗ cúng chiều ngày 30, để kể những câu chuyện xưa cũ, tổng kết công việc của một năm. Nhưng ngày nay do khối lượng công việc quá lớn, những mối quan hệ xã hội khác khiến cho rất nhiều gia đình phải đứng trước tình cảnh những ngày lễ tết chỉ có cha mẹ cùng nhau ăn lễ tết. Ngày nay con cháu ở làm ăn ở xa, nên ít dành được ít thời gian về thăm hỏi do vậy nhờ các công cụ hỗ trợ như điện thoại họ có thể thăm hỏi được cho cha mẹ, hay gửi thư điện tử thăm hỏi, chúc mừng. Thay cho sự thăm nom trực tiếp. Địa vị các thành viên trong gia đình trở nên bình đẳng. Lâu dần những hành động ấy trở thành những nỗi đau khổ của bậc làm cha, làm mẹ. Mặc dù các gia đình hiện đại càng đầy đủ về mặt vật chất nhưng lại thiếu thốn về tình cảm, sự đầy đủ về mặt chất không thể khỏa lấp được những thiếu thốn về tinh thần. Mặc dù có một phần những người xa quê muốn về nhà nhưng vì hoàn cảnh eo hẹp, kinh tế bấp bênh nên họ không thể thực hiện tốt được nghĩa vụ và trách nhiệm của mình với gia đình, với cha mẹ. 44
- Lễ Hằng Thuận góp phần giải quyết các thực trạng trên thông qua giáo lý, giáo điều được sử dụng trong lễ Hằng Thuận. Kinh Thiện Sinh là kinh thứ 16 trong bộ Trường a hàm Hán tạng Thanh văn. Cùng với Tam Quy Ngũ Giới, đây là giáo lý riêng cho các đôi phật tử làm lễ Hằng Thuận. Nội dung của kinh gồm bốn phần: Lễ bái sáu phương, Lễ sáu phương theo thánh pháp, ý nghĩa của sáu phương, Kệ tụng. Sáu phương được biểu trưng cho sáu mối quan hệ của con người. Phương Đông tượng trưng cho cha mẹ, phương Nam tượng trưng cho sự trưởng, phương Tây cho thê thiếp, phương Bắc cho họ hàng thân thích bên nội và ngoại, phương Dưới tượng trưng cho nha môn, phương Trên tượng trưng cho sa môn. Một số người cho rằng Kinh Thiện Sinh hướng đến mối quan hệ của con người với các mối quan hệ thân cận với mình. Tuy nhiên, Kinh Thiện Sinh còn hướng đến cả hai chiều tương tác trong các mối quan hệ. Nghĩa là không chỉ hướng cách ứng xử của con với cha mẹ, vợ với chồng mà còn cả cha mẹ đối với con, chồng đối với vợ. Đây là điểm nổi bật quan trọng và có ý nghĩa nhất trong lễ Hằng Thuận. Từ mối quan hệ tương tác hai chiều này, lễ cưới không chỉ là lễ thành hôn của đôi vợ chồng mà còn liên quan đến cả gia đình, dòng tộc. Quan trọng hơn, ngay trong từng mối quan hệ hai chiều tương tác hết sức rõ ràng chứ không chỉ có một chiều. Như trong kinh dạy về quan hệ vợ chồng: “Bổn phận chồng trong gia đình: 1. Lấy lễ đối đãi vợ 2. Chuẩn mực nhưng không hà khắc 3. Tùy thời cung cấp y thực và nhu cầu 4. Tùy thời tặng trang sức đẹp 5. Cùng vợ làm tốt việc nhà Đạo làm vợ trong gia đình phải: 1. Siêng năng, thức dậy trước chồng 2. Nể chồng, trước sau, trong ngoài 45
- 3. Dùng lời hòa nhã xây dựng 4. Nhún nhường, ủng hộ điều hay 5. Hiểu chồng, cảm thông, chia sẻ” Giáo lý của kinh Thiện Sinh về bổn phận của chồng và vợ phù hợp với đời sống gia đình hiện đại. Đồng thời khắc phục được nhiều nguyên nhân khiến gia đình đổ vỡ như cách sống không hợp nhau. Ngoài ra, kinh Thiện Sinh còn thể hiện sự bình đẳng trong mối quan hệ gia đình. Người chồng đối đãi với vợ bằng lễ chứ không phải bằng sự gia trưởng như trong quan điểm của Nho giáo. Điều này rất quan trọng trong việc giữ gìn hạnh phúc. Đối với người vợ, đòi quyền bình đẳng không phải là chồng làm gì mình cũng phải làm bằng được, mà bình đẳng ở đây thể hiện sự phân chia các công việc cho phù hợp và tôn trọng lẫn nhau. Trong mối quan hệ giữa cha, mẹ với con cái và ngược lại, kinh Thiện Sinh đề cập rất rõ: Đạo làm con phải: “1. Phụng dưỡng không để thiếu thốn 2. Trình báo và xin lời khuyên 3. Không chống điều cha mẹ dạy 4. Không trái điều cha mẹ làm 5. Không cản tất cả chánh nghiệp của cha mẹ làm Đạo làm cha mẹ phải: 1. Ngăn chặn con làm việc ác 2. Chỉ dạy con làm việc lành 3. Thương con đến tận xương tủy 4. Sắp xếp hôn phối tốt đẹp 5. Chu cấp những thứ cần dùng” Cha mẹ ngày nay thường ít quan tâm đến con cái và chỉ vun túng tiền bạc cho con, xem đó là hành động thương con. Nhưng họ quên rằng, con cái cần phải nuôi lớn về thể xác lẫn tâm hồn. Vì thế, con cái sa đà đạo đức, phạm pháp, sống thực dụng thì nên xem lại cách giáo dục của mình. Như biết được 46
- thực trạng này, kinh Thiện Sinh đã chỉ cho các bậc cha mẹ về bổn phận cũng như cách nuôi dạy con. Dù công việc có bận đến đâu thì cha mẹ cũng cần phải dành thời gian cho con mình. Về bổn phận của con cái: Cha mẹ lớn tuổi cần phải có sự tu tập nên chúng ta phải có trách nhiệm gánh vác công việc gia đình để cha mẹ có thời gian đi tu. Người lớn tuổi sẽ thấy cuộc sống có ý nghĩa, yêu đời, lạc quan nếu được cống hiến cho chùa, cho xã hội. Đó là đời sống tinh thần của người già mà chúng ta phải hiểu và tạo điều kiện cho họ nhiều hơn. Ngoài ra, kinh Thiện Sinh còn đề cập thế sáu mối quan hệ của lễ Hằng Thuận, năm mối quan hệ : cha mẹ với con cái, vợ với chồng, thầy với trò, cá nhân với dòng tộc, chủ với tớ không quá xa lạ với người Việt, đây đều là các mối quan hệ cơ bản của văn hóa Việt xưa. Tuy nhiên ở lễ Hằng Thuận có một số khác biệt về mối quan hệ giữa sa Môn và Thí chủ, đây là quan hệ mang đậm chất phật giáo trong văn hóa tín ngưỡng của người Việt về coi trọng sinh tử luân hồi. Thứ 3, nhẫn, phương thức trong cách ứng xử giữa cá nhân trong gia đình và xã hội Từ ý nghĩa là một tín vật khẳng định sự trở thành một của đôi vợ chồng, chiếc nhẫn cưới của đôi vợ chồng trong lễ Hằng Thuận còn mang lại giá trị tốt đẹp nữa. “Nhẫn chỉ chung cho sự nhẫn nhục, nhẫn nại, tức bị người làm nhục, bức hại mà không xin tâm tức giận, hoặc tự mình bị khổ mà không động tâm, khi chứa ngộ chân lý, tâm được an trụ” [32, tr. 3627]. Nhẫn nhục là đức sống vô cùng quan trọng và thiết thực. Bởi cuộc sống vốn không đơn giản, không phải lúc nào cũng suôn sẻ hòa thuận. Nhất là đôi vợ chồng trẻ, khi họ từ rã độc thân đến với sống chung nhà không tránh khỏi lối sống khác nhau, hơn nữa còn phải tập quen với các mối quan hệ mới, nếu không khéo nhẫn nhịn thì không dễ có được sự bình an. Nhẫn cưới là phần quan trọng trong hôn nhân. Nó quan trọng không phải nằm ở giá trị vật chất. Mà giá trị đích thực của nhẫn thể hiện qua ba điều: 47
- Một là: Đó là một nửa của nhau không thể tách rời. Nhẫn lễ theo theo nguyên tắc mỗi chiếc chỉ năm phân để thể hiện mỗi người là một nửa của nhau, phải gắn kết bên nhau, không thể sống khi thiếu suốt cuộc đời này . Như một triết gia có nói: Dù bạn tài giỏi đến đâu thì bạn cũng chỉ là một nữa, một nửa còn lại bạn phải đi tìm. Nên trong cuộc sống gia đình, chồng có thái độ như thế nào sẽ nhận lại sự phản ảnh lại từ người vợ như thế đó và ngược lại, vì cả hai đã là một cơ thể chung. Nên hạnh phúc và đau khổ trở thành đau khổ chung. Hai là: Đó là bùa hộ mệnh cho hạnh phúc của đôi vợ chồng ít ai biết rằng, nhẫn cưới chính là câu thần chú, là bùa hộ mệnh cho hạnh phúc của lứa đôi. Có câu: “Nhẫn vẫn trơ trơ vẫn trụ đồng Nhẫn này muốn luyện rất dày công Nhẫn là thành sắt che tên đạn Nhẫn để cho người dụi lửa lòng” Là phàm phu, hỷ nộ ái ố còn dẫy đầy nên sẽ không thể tránh khỏi sự giận dỗi, bốc đồng trong cuộc sống hôn nhân. Khi ấy nhẫn sẽ kiềm chế bớt cơn giận đó nếu hiểu ý nghĩa của chiếc nhẫn này. Đó là hãy bao dung, tha thứ nhịn nhường, chịu đựng nhau những lúc như thế này. Nên hành động đeo nhẫn cho nhau là để gửi gắm nhau một điều gì đó, một hứa hẹn trong hôn nhân để tự nhắc nhở nhau mỗi khi cơm không lành canh không ngọt. Ba là: Là nét văn hóa trong xã giao Đeo nhẫn ngón áp út, về mặc định tâm lý học đó là ngón chứa nhiều thần kinh cảm xúc nhất, để tăng mối quan hệ trong hạnh phúc hôn nhân. Bên cạnh đó là ngầm cho mọi biết rằng chúng ta đã lập gia đình để có cách ứng xử hợp lý hơn trong mối quan hệ. 48
- 2.1.2. Biểu hiện tinh thần nhập thế của Phật giáo trong lễ Hằng Thuận qua nghi lễ, tổ chức Vì hôn lễ Phật giáo không có căn cứ rõ ràng trong ba tạng Kinh điển cho nên hiện nay mỗi chùa, mỗi thầy làm theo thanh quy riêng của chùa mình nên nghi thức chưa được đồng nhất quy định. Nhưng nghi thức chủ yếu thường thấy là, hai người cùng Quy y Tam Bảo và tuyên thệ thương yêu tôn trọng nhau dưới ánh sáng hào quang của Tam Bảo, long trọng kết bạn thành vợ chồng, thương yêu nhau, tương trợ nhau. Tất cả là một quá trình chuẩn bị công phu và đầy tâm huyết. Tổ chức lễ cưới ở chùa trước đây thường chỉ được các gia đình theo đạo Phật thực hiện nhưng ngày nay, phạm vi đối tượng đã mở rộng hơn. Chỉ cần cô dâu chú rể, hai bên gia đình mong muốn và được nhà chùa chấp thuận là có thể thực hiện lễ Hằng Thuận.Tuy nhiên, để được tổ chức lễ cưới theo nghi thức Phật giáo, các đôi vợ chồng đều phải là Phật tử, đã Quy y và có pháp danh. Trong trường hợp một trong hai người hoặc cả hai chưa Quy y, nhà chùa sẽ Tổ chức Quy y cho họ trước khi diễn ra buổi lễ. Trước khi tổ chức, cô dâu, chú rể và gia đình hai bên phải đến chùa xin ý kiến của sư thầy trụ trì, sau khi nhận được sự đồng ý mới bắt đầu bước vào công việc chuẩn bị cho buổi lễ. Nếu đám cưới diễn ra tại chùa mà đôi tân lang tân nương chưa Quy y thì các vị chư Tăng sẽ làm lễ Quy y cho đôi vợ chồng trẻ, sau đó mới cử hành nghi lễ cưới. Khi các thiện nam tín nữ làm lễ Quy y sẽ được Hòa thượng giảng giải về ý nghĩa của việc Quy y và giá trị của việc thực hành Ngũ Giới cấm (gồm: không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không sử dụng chất kích thích), nếu chuyên tâm hành trì năm điều giới này, đặc biệt biết tin vào luật Nhân Quả, thì mỗi người Phật tử đều sẽ được mười phương chư Phật gia hộ, không bị đọa vào ba đường ác, luôn được sống an lạc, hạnh phúc. Nghi thức hôn lễ tại chùa có thể được tổ chức ngay sau khi đón dâu về làm lễ bái gia tiên tại nhà trai hoặc vào ngày hôm sau sau lễ bái gia tiên tại nhà trai. Có thể hiểu là cô dâu chú rể sẽ thực hiện đám cưới hai lần, lần đầu ở tại gia, người chủ hôn là ông bà hoặc cha mẹ, đám cưới này có quy mô lớn, 49
- trước sự chứng kiến của những người trong gia đình, hàng xóm. Lễ cưới lần hai được tổ chức tại chùa trước sự chứng kiến của tam bảo, Tăng Ni Phật tử. Buổi lễ diễn ra với quy mô nhỏ hơn lễ cưới tại ra, những người tham gia là đôi tân lang tân nương, những người thân ruột thịt của hai gia đình. Một số nơi coi đám cưới tại chùa là chính. Vì vậy số người tham gia hôn lễ khá đông, lên đến 50 - 100 người. Tuy nhiên, dù nghi lễ được thực hiện theo hình thức nào thì đều phải qua các bước cơ bản sau. Chủ hôn thường là vị trụ trì chùa và các chư Tăng. Một chiếc bàn dài được kê ở chính điện, vị trụ trì và các chư tăng đứng sau chiếc bàn này; gia đình cô dâu chú rể cùng họ hàng, bạn bè đứng ở hai bên theo quy cách “nam tả, nữ hữu”. Trước khi làm lễ, vị trụ trì sẽ hỏi cô dâu, chú rể đã Quy y chưa, nếu chưa thì thầy sẽ làm lễ Quy y cho hai vợ chồng trước rồi mới tới nghi lễ cưới. Cô dâu, chú rể quỳ trước bàn thờ để đọc lời nguyện và nhận lời ban phước cũng như lời răn dạy của vị trụ trì. Tiếp theo là nghi lễ “phu thê giao bái”, cô dâu chú rể trao nhẫn cưới và nghe trụ trì nói về ý nghĩa của việc trao nhẫn. Cuối cùng đại diện đôi bên gia đình sẽ hứa trước tượng Phật và các vị chư tăng về việc chỉ bảo cho cô dâu chú rể nên người, xây dựng gia đình hạnh phúc. Kết thúc lễ, gia đình đôi bên sẽ mời trụ trì, các vị chư tăng cùng họ hàng và bạn bè dự tiệc chay. Thông thường, tiệc chay được tổ chức ngay tại chùa, mâm cỗ với những món chay hoàn toàn, không có bia rượu vừa giúp gia đình theo đạo Phật tránh khỏi việc sát sinh, đồng thời cũng rất có lợi cho sức khỏe của gia đình và quan khách đôi bên. Để có thể hiểu hơn về nghi thức lễ Hằng Thuận, tôi lấy ví dụ về nghi thức lễ Hằng Thuận của đôi bạn trẻ Hoàng Anh và Minh Huyền. Buổi lễ diễn ra tại chùa Thiên Phúc, xã Kim Mỹ, huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình vào ngày 4/4/2018 với sự chứng minh của Thượng toạ Thích Minh Quang - Ủy viên Ban Thư kí Trung Ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam, trưởng ban Giáo dục Tăng, Ni tỉnh Ninh Bình. Đại Đức Thích Thanh Đức, Ủy viên Ban Trị sự 50