Khóa luận Tính nữ trong tập thơ Không bao giờ là cuối của Xuân Quỳnh

pdf 60 trang thiennha21 16/04/2022 6860
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Tính nữ trong tập thơ Không bao giờ là cuối của Xuân Quỳnh", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfkhoa_luan_tinh_nu_trong_tap_tho_khong_bao_gio_la_cuoi_cua_xu.pdf

Nội dung text: Khóa luận Tính nữ trong tập thơ Không bao giờ là cuối của Xuân Quỳnh

  1. LỜI CẢM ƠN Lời đầu tiên em xin gửi lời cảm ơn đến các thầy cơ giáo khoa Ngữ văn trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 đã tạo điều kiện cho em được thực hiện khĩa luận tốt nghiệp này, đây là một cơ hội tốt để cho em bước đầu hình thành các kĩ năng nghiên cứu khoa học. Em cũng xin kính gửi lời cảm ơn chân thành đến giảng viên hướng dẫn Dương Thị Thúy Hằng trong suốt thời gian vừa qua đã nhiệt tình chỉ dạy, giúp đỡ để em hồn thành tốt bài khĩa luận tốt nghiệp này. Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn và xin kính chúc quý thầy cơ sức khỏe, hạnh phúc.
  2. LỜI CAM ĐOAN Em xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của bản thân, xuất phát từ những yêu cầu trong việc học tập để hình thành định hướng nghiên cứu khoa học dưới sự hướng dẫn trực tiếp của giảng viên Dương Thị Thúy Hằng. Trong khĩa luận, các dẫn chứng đều cĩ nguồn gốc rõ ràng, được trình bày tuân thủ đúng nguyên tắc. Các kết quả nghiên cứu được trình bày trong khĩa luận là trung thực chưa từng được ai cơng bố trước đây. Em xin chịu hồn tồn trách nhiệm về nội dung trình bày trong khĩa luận này. Hà Nội, ngày 26 tháng 04 năm 2014 Tác giả khĩa luận Tạ Thị Thanh Tân
  3. MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 1. Lý do chọn đề tài 1 2. Lịch sử vấn đề 2 3. Mục đích nghiên cứu 4 4. Nhiệm vụ nghiên cứu 4 5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4 6. Phương pháp nghiên cứu 4 7. Đĩng gĩp của khĩa luận 4 8. Bố cục khĩa luận 5 Chương 1: GIỚI THUYẾT CHUNG 6 1.1.Vấn đề tính nữ trong văn học 6 1.2 Xuân Quỳnh – Cuộc đời – Duyên nợ thơ ca 8 1.2.1 Cuộc đời 8 1.2.2 Duyên nợ thơ ca – Quan niệm thơ ca 10 1.2.3 Tuyển thơ Khơng bao giờ là cuối 12 Chương 2: CÁI TƠI TRỮ TÌNH – HIỆN THÂN CỦA TÍNH NỮ TRONG TẬP THƠ “KHƠNG BAO GIỜ LÀ CUỐI” 14 2.1 Cái tơi yêu thương, dâng hiến 14 2.2 Cái tơi âu lo, ám ảnh 18 2.3 Cái tơi chở che, gắn bĩ 24 Chương 3: NGHỆ THUẬT BIỂU HIỆN TÍNH NỮ TRONG TẬP THƠ “KHƠNG BAO GIỜ LÀ CUỐI” 27 3.1 Ngơn ngữ và giọng điệu thơ giàu tính nữ 27 3.1.1 Ngơn ngữ 27 3.1.2 Giọng điệu 32 3.2 Biểu tượng 39 3.3 Khơng gian nghệ thuật – Thời gian nghệ thuật 48 3.3.1 Khơng gian nghệ thuật 49 3.3.2 Thời gian nghệ thuật 52 KẾT LUẬN 55 TÀI LIỆU THAM KHẢO 57
  4. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Xuân Quỳnh – cái tên khơng hề xa lạ trong làng thơ Việt Nam sau 1975, là một nữ thi sĩ cĩ vị trí xứng đáng trong dàn thơ trẻ kháng chiến chống Mỹ. Bà cĩ sự định hình phong cách với bản sắc riêng rất rõ nét. Trải qua những năm tháng sống và viết, lao động nghệ thuật hết mình, bà đã để lại cho đời một di sản thơ ca thật đáng quý. Thơ Xuân Quỳnh hấp dẫn bạn đọc khơng chỉ vì cái hay cái đẹp của nghệ thuật mà cịn là vì chất nữ tính đằm thắm in hằn trong mỗi câu thơ. Đĩ là những rung cảm, khát khao yêu thương dâng hiến và cịn là những lo âu trăn trở của một người phụ nữ đã trải qua nhiều sĩng giĩ trong cuộc đời. Tìm hiểu về tính nữ trong thơ Xuân Quỳnh chính là tìm hiểu một đặc điểm quan trọng về nội dung trong các sáng tác của thi sĩ. Tuyển thơ Khơng bao giờ là cuối chọn lọc những sáng tác đặc sắc nhất trong đời thơ nữ sĩ Xuân Quỳnh. Ở tuyển thơ này, chúng ta bắt gặp những bài thơ cả quen và lạ của nữ sĩ. Từ những bài thơ tình yêu đạt tới đỉnh cao khiến bao thế hệ bạn đọc đắm say như: Sĩng, Tự hát, Chỉ cĩ sĩng và em đến những vần thơ mang nặng nỗi trăn trở ưu tư về cuộc đời giữa “Những năm tháng khơng yên” của lịng người và của đất nước một thời “Tuổi trẻ đấy khĩi bom/ Tuổi trẻ đấy bùn đất/ Trong chiến hào dằng dặc nắng miền Trung/ Tuổi trẻ sang bên kia Trường Sơn” [11, tr137]. Trong tập thơ ta cịn gặp những trang viết dành cho thiếu nhi rất nồng hậu, tươi vui với Bầu trời trong quả trứng, Tuổi Ngựa, Bay cao, Tập thơ đã đi vào lịng người đọc, trở thành tiếng nĩi tâm tình về những ngọt bùi cay đắng ở đời, tiếng nĩi của tình yêu và tình mẫu tử hồn hậu, dung dị mà thiêng liêng. Những vần thơ ấy đã gieo vào lịng người đọc một tình yêu cuộc sống, tình yêu con người thiết tha. Với niềm yêu thích và mong muốn đi sâu tìm hiểu, nghiên cứu về thơ Xuân Quỳnh nĩi chung và về tuyển thơ Khơng bao giờ là cuối nĩi riêng, chúng tơi lựa chọn vấn đề tính nữ trong tập thơ Khơng bao giờ là cuối của nữ sĩ Xuân Quỳnh làm đề tài khĩa luận cho mình. Chúng tơi hi vọng kết quả tìm hiểu của khĩa luận này sẽ gĩp phần hữu ích vào việc tìm hiểu về thơ của bà. 1
  5. 2. Lịch sử vấn đề Khi người phụ nữ làm thơ, tác phẩm của họ thường được soi chiếu từ cái nhìn đặc điểm giới. Vi mạch sáng tạo trong thế giới thơ của những cây bút nữ bám rễ vào đặc điểm giới để đồng vọng và tự hĩa giải những tâm hồn đa cảm. Ở Xuân Quỳnh, cái thiên tính nữ ấy chiếm hữu cả tâm hồn, cuộc đời và thơ bà. Đời và thơ Xuân Quỳnh chỉ là một. Đã cĩ một số bài nghiên cứu đề cập đến cái phần nữ tính thiêng liêng trong thơ Xuân Quỳnh. Ngay từ tập thơ đầu tay in chung với Cẩm Lai Tơ tằm – Chồi biếc, thơ Xuân Quỳnh đã gây được sự chú ý với giới nghiên cứu, phê bình văn học. Lê Đình Kỵ trong bài Tơ tằm và chồi biếc đăng trên tạp chí Nghiên cứu khoa học số 1/1964 cũng đánh giá thơ Xuân Quỳnh “nhẹ nhàng, trong sáng, xinh xắn như một điệu múa dân tộc” [2, tr20]. Trong cuộc trao đổi về thơ Xuân Quỳnh năm 1984, Vương Trí Nhàn và Phạm Tiến Duật cũng đã phát biểu rằng: Ngày từ những tập thơ đầu tay, Xuân Quỳnh đã thể hiện: “Một sự chủ động mà chỉ người phụ nữ ngày nay mới cĩ: những ao ước nhức nhối về hạnh phúc lứa đơi và sẵn sàng “giương vây” gìn giữ bằng được” [7, tr13]. Sau đĩ, bài viết Cánh chuồn trong giơng bão của tác giả Chu Văn Sơn về thơ Xuân Quỳnh hàm chứa một cái nhìn tinh tế về thiên tính nữ trong sáng tác của nhà thơ này. Hình ảnh cánh chuồn bé bỏng, mỏng manh mang tin bão trong thơ Xuân Quỳnh cho tác giả ấn tượng về một trái tim thơ “cứ chao đi chao về, mệt nhồi giữa biển giơng và yên định, bão tố và bình yên, chiến tranh và hịa bình, thác lũ và êm trơi ” [12, tr21], luơn khắc khoải cái khao khát được chở che và gắn bĩ. Đĩng gĩp mới của Chu Văn Sơn khi tiếp cận thế giới nghệ thuật thơ Xuân Quỳnh nằm ở khái niệm chất thơ từ tổ ấm. Cùng với nỗi phấp phỏng, lo âu chiếm lĩnh điệu hồn Xuân Quỳnh, Chu Văn Sơn đã định danh cho con người này là “người đàn bà của muơn thuở” [12, tr22]. Bước vào thi giới Xuân Quỳnh là bước vào tịa lâu đài tâm hồn của một “Người đàn bà yêu và làm thơ” [3, tr228] – Đồn Thị Đặng Hương. “Từ những bài thơ của thủa ban đầu cịn nhiều hồn nhiên, mộc mạc và cả sự non nớt trong nghệ thuật đến những bài thơ đã già dặn, đã đi vào độ chín của một phong cách thơ đều lắng sâu những nỗi đau thầm kín: những nỗi đau và trăn trở của một cuộc đời và một số phận nghệ thuật của người đàn bà làm thơ” [3, tr228]. Tác 2
  6. giả khẳng định “Những bài thơ tình của Xuân Quỳnh cĩ một nhan sắc riêng, chân thật và đam mê mãnh liệt” [3, tr238]. Đây chính là “tiếng thơ rất sớm của một người con gái, một người đàn bà đã chủ động yêu và địi quyền được yêu” [3, tr236]. Đây cũng chính là chân dung, con đường tình yêu – nghệ thuật Xuân Quỳnh đã đi và cống hiến cho đời. PGS.TS Lưu Khánh Thơ trong bài viết Xuân Quỳnh – Cuộc đời gửi lại trong thơ cũng cĩ nhận định tương tự: “Dù đi vào những vấn đề lớn của đất nước hay trở về với những tình cảm riêng tư, thơ Xuân Quỳnh bao giờ cũng là tiếng nĩi rất riêng của một tâm hồn phụ nữ thơng minh, sắc sảo, đầy nữ tính” [11, tr267]. Song do dung lượng và tính chất của bài viết, tác giả chưa cĩ dịp khơi sâu chất nữ tính trang trải suốt thế giới nghệ thuật của người phụ nữ tài hoa ấy. Nhìn chung cũng đã cĩ những bài viết chạm vào mạch nữ tính trong thơ Xuân Quỳnh từ một vài phương diện cụ thể. Từ nhận định “cốt lõi của nữ tính là mẫu tính”, Thụy Sao trong bài viết Thơ Xuân Quỳnh – tiếng nĩi của tình yêu và tình mẫu tử ( đã soi vào thơ bà mà thấy được ngọn lửa nồng ấm mà người mẹ Xuân Quỳnh đã thắp lên. Bản năng của một người phụ nữ hạnh phúc trong thiên chức làm mẹ đem đến cho thơ Xuân Quỳnh những lời ru ấp ủ tình thương. Cái thiên tính nữ ấy khiến Xuân Quỳnh cĩ thể đi sâu vào thế giới tuổi thơ, thấu cảm đến tận đáy lịng những tâm tư của con trẻ. Hình ảnh một Xuân Quỳnh đậm chất nữ tính đơi khi được nhìn ngắm từ một tác phẩm thơ riêng lẻ. Nhiều tác giả đứng ở tiêu điểm của khát vọng nhân văn mà phân tích cắt lớp chiều sâu tư tưởng và kết cấu nghệ thuật của bài thơ Sĩng, để bắt gặp ở đĩ những gì thuộc về cảm xúc tinh tế của tình yêu, khát khao tình yêu vừa hồn nhiên, chân thực, vừa mãnh liệt, sơi nổi của một trái tim phụ nữ đơn hậu và đằm thắm. Song hầu như các cơng trình, bài viết trên chỉ mới đề cập đến yếu tố nữ tính trong thế giới thơ Xuân Quỳnh từ vài khía cạnh và nét biểu hiện riêng lẻ mà chưa cĩ được cái nhìn bao quát, tồn diện. Đề tài nghiên cứu của chúng tơi chính là sự tiếp nối những suy nghĩ của các nhà nghiên cứu ở trên. Qua tuyển thơ Khơng bao giờ là cuối của Xuân Quỳnh để chỉ ra thiên tính nữ độc đáo từ nguyên lí mẹ muơn thuở mà thơ Xuân Quỳnh đã thể hiện thành tiếng nĩi nghệ thuật thao thức và ám ảnh tâm linh. 3
  7. 3. Mục đích nghiên cứu Nắm vững được các mảng kiến thức xoay quanh vấn đề “tính nữ” trong thơ ca Việt Nam. Cĩ cái nhìn hệ thống, cụ thể về cuộc đời, sự nghiệp thơ ca của nữ sĩ Xuân Quỳnh và đặc biệt là về tinh tuyển Khơng bao giờ là cuối Thấy được những đặc điểm, phương diện của tính nữ biểu hiện trong tập thơ Khơng bao giờ là cuối, đồng thấy được sự ảnh hưởng của yếu tố tính nữ cũng như giá trị của nĩ trong tập thơ. Tích lũy kiến thức cần thiết giúp ích cho việc giảng dạy về thơ Xuân Quỳnh sau khi ra trường. 4. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích đề ra, đề tài phải thực hiện được các nhiệm vụ sau: Tập hợp những vấn đề lý thuyết cĩ liên quan tới đề tài Khảo sát, thống kê và phân loại các đặc điểm, biểu hiện của tính nữ trong tập thơ Khơng bao giờ là cuối Phân tích các đặc điểm để thấy được giá trị nghệ thuật của nĩ 5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng: Tập thơ Khơng bao giờ là cuối của Xuân Quỳnh Phạm vi nghiên cứu: Sự đặc sắc, khác biệt của tính nữ trong Tập thơ Khơng bao giờ là cuối của nữ thi sĩ Xuân Quỳnh 6. Phương pháp nghiên cứu Do tính chất và nhiệm vụ khoa học mà đề tài đặt ra, tơi sử dụng tổng hợp các phương pháp như sau: Phương pháp thống kê – phân loại Phương pháp phân tích – tổng hợp. Phương pháp so sánh – chứng minh. 7. Đĩng gĩp của khĩa luận Việc nghiên cứu đề tài cĩ ý nghĩa lý luận và thực tiễn như sau: 4
  8. Về mặt lý luận: Giải quyết tốt vấn đề của đề tài gĩp phần bổ sung,làm rõ sự ảnh hưởng của đặc điểm giới đến sự định hình phong cách của tác giả, sự thể hiện chiều sâu tư tưởng và yếu tố thẩm mỹ – nghệ thuật trong sáng tác. Về mặt thực tiễn: Từ sự thống kê, đi sâu phân tích thế giới nghệ thuật thơ Xuân Quỳnh, khĩa luận chỉ ra một phương diện tiêu biểu gĩp phần tạo nên phong cách của nhà thơ nữ hàng đầu nửa cuối thế kỉ XX ở cả hai khía cạnh nội dung và nghệ thuật đĩ là tính nữ, đồng thời giúp cho bạn đọc yêu thơ Xuân Quỳnh cĩ thêm cơ sở để khám phá, cảm nhận những trang viết của nữ sĩ. 8. Bố cục khĩa luận Ngồi phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, khĩa luận này gồm ba chương: Chương 1: Giới thuyết chung Chương 2: Cái tơi trữ tình – hiện thân của tính nữ trong tập thơ Khơng bao giờ là cuối Chương 3: Nghệ thuật biểu hiện tính nữ trong tập thơ Khơng bao giờ là cuối 5
  9. Chương 1: GIỚI THUYẾT CHUNG 1.1 Vấn đề tính nữ trong văn học Để cĩ một cái nhìn tổng quát và khoa học đối với vấn đề Tính nữ trong tập thơ Khơng bao giờ là cuối của Xuân Quỳnh, chúng ta cần nắm được những kiến thức cơ bản liên quan: Giới tính, Tính nữ, Thiên tính nữ, Nguyên lí tính mẫu, nữ tính vĩnh hằng Nĩi tới vấn đề tính nữ trước hết cần hiểu về giới tính. Giới tính là một vấn đề mang tính khoa học. Từ thủa Adam, Eva đến nay, lồi người luơn ý thức tới vấn đề giới tính, đây là vấn đề mang tính xã hội, tính thẩm mỹ trong cuộc sống và trong nghệ thuật. Giới tính là hiện tượng tự nhiên cĩ liên quan đến mọi khía cạnh của cuộc sống. Hơn thế nữa, yếu tố giới tính cịn là một trong những vấn đề quyết định sự sinh tồn của xã hội lồi người. Tuy nhiên giới tính lại là vấn đề tế nhị, riêng tư, nên thật khĩ mà bày tỏ cùng người khác và khĩ mà cĩ thể nĩi lên một cách trực tiếp để mọi người cùng biết – nhất là giới tính nữ. Do đĩ từ trước đến giờ người ta nhiều khi coi đĩ là một thứ cấm kị, tránh nĩi đến, nhất là ở các nước phương Đơng, trong đĩ cĩ Việt Nam. Nĩi tới giới tính tức nĩi tới giới Nam và giới Nữ, về mặt sinh học, trong ba tuần đầu, thai nhi cĩ hình thức của một bé gái, các tuần lễ sau đĩ mới bắt đầu hình thành giới, phân chia thành trai hay gái, lồi người đã bắt đầu lịch sử của mình bằng chế độ mẫu hệ. Tuy nhiên từ khi coi Eva được sinh ra từ cái xương sườn của Adam, người ta lại mặc nhiên coi vai trị của nữ giới là vai trị bị lệ thuộc và bị chi phối bởi nam quyền. Và với hành vi xúi giục Adam ăn trộm táo thần, Eva bị coi là nguồn gốc của tội lỗi. Trên thế giới, một trong các quy định nghiêm ngặt của các nước Hồi giáo đĩ là: Phụ nữ phải che mặt khi ra đường, bên cạnh đĩ một số nước thì lại cĩ tục thờ Mẫu rất phát triển, vai trị của người phụ nữ được đề cao “Lệnh ơng khơng bằng cồng bà”. Tĩm lại, giới tính là một vấn đề phức tạp. Nĩ gắn liền với ý thức hệ, chính trị, tơn giáo của từng vùng, miền văn hĩa khác nhau nhưng nĩ đều được thể hiện rõ qua ngơn ngữ và văn học. Nguyên lí tính Mẫu trước hết là tụng ca những phẩm chất huyền diệu của người mẹ – mang bầu, sinh con, nuơi con. Theo quan niệm huyền thoại, người phụ nữ được xem là biểu tượng của vũ trụ, chứa đựng sức mạnh vĩ đại của vũ trụ. Trong cơ thể họ, mầm sống tự nhiên được sinh ra và phát triển nhờ hấp thụ chất sống từ chính họ. Họ trở thành Thánh Mẫu nhờ vai trị kép: vừa là người 6
  10. mẹ, vừa là trinh nữ. Nguyên lí tính Mẫu cĩ nguồn gốc từ truyền thống trọng Mẫu, tơn thờ Mẫu tồn tại từ rất lâu trong văn hĩa lồi người. Đối với nền văn hĩa gốc nơng nghiệp của Việt Nam, vai trị của nữ giới càng được đề cao bởi phẩm chất đảm đang, khéo léo. Trong tâm thức dân gian Việt, người mẹ cĩ vai trị, vị trí quan trọng nhất: “Con dại cái mang”, “Cha sinh khơng tày mẹ dưỡng”, “Phúc đức tại Mẫu” (Tục ngữ). Trong một trường nghĩa nhất định, cụm từ nữ tính vĩnh hằng cịn được gọi là Người Đàn Bà Vĩnh Cửu (V. Soloviev), Gái Muơn Đời (Đinh Hùng) hay Người Nữ Vĩnh Cửu (Nhật Chiêu). Điều đĩ cĩ nghĩa là, nữ tính luơn cĩ khả năng vượt thốt khỏi sự chế ngự của thời gian, mang thơng điệp về vẻ đẹp nhân thế được bảo lưu, tái hiện và tái sinh. Tính nữ, hay chính là thiên tính nữ, hiểu một cách đơn giản là tính mềm mại, uyển chuyển của người phụ nữ. Đĩ là những phẩm chất tạo hĩa ban tặng chỉ riêng cho nữ giới, những phẩm chất ấy làm nên vẻ đẹp và sự đặc biệt cho họ so với nửa kia cịn lại của lồi người. Trở về với tính nữ là trở về với sự an nhiên, hồn nhiên, chất phác của tâm tính. Nguồn cội của tính nữ lại gắn với các thiên chức cao quý của Eva. Như một sự thơi thúc tất yếu của bản năng, bất kì người đàn bà nào được sinh ra cũng biết cách mang nặng đẻ đau, chăm bẵm và lo lắng cho con cái đến cuối cuộc đời. Họ làm cho sự sống của con người sinh sơi nảy nở nhờ khả năng sinh sản. Người phụ nữ được tạo ra để làm trịn thiên chức của người mẹ, người vợ. Thiên chức đĩ cùng những chế định về tình cảm đặt người phụ nữ vào mơi trường hình thành các tính cách, phẩm chất đặc trưng khác biệt so với nam giới. Thủy chung, giàu đức hy sinh, dịu dàng, bao dung là nét đẹp phẩm hạnh nổi bật của tính nữ. Nghệ thuật suy cho cùng là hành trình đi tìm và khám phá cái Đẹp. Người phụ nữ với vẻ đẹp phẩm chất đặc trưng của giới mình luơn là đối tượng thẩm mỹ của nhiều loại hình nghệ thuật khác nhau, trong đĩ cĩ văn học. Bắt rễ từ nền tảng văn hĩa vốn coi trọng người phụ nữ, văn học Việt Nam đã xác tín cho vẻ đẹp phái tính của nữ giới bằng hệ thống những tác phẩm cĩ tính ngợi ca: Thơ Hồ Xuân Hương, Bà huyện Thanh Quan, Tắt đèn, Người mẹ cầm súng, Hịn đất, Người con gái Việt Nam Hình tượng người phụ nữ Việt Nam dù được phản ánh ở thời kì nào cũng là sản phẩm của ý thức tơn thờ thiên tính nữ vĩnh hằng. 7
  11. 1.2 Xuân Quỳnh – Cuộc đời – Duyên nợ thơ ca 1.2.1 Cuộc đời Xuân Quỳnh tên thật là Nguyễn Thị Xuân Quỳnh, sinh ngày 6 tháng 10 năm 1942 tại làng La Khê, huyện Hồi Đức, tỉnh Hà Tây (nay là Hà Nội). Đây vùng quê nằm bên bờ sơng Nhuệ hiền hịa, vùng quê cĩ những mái chùa cổ kính, những con đường lát gạch, những lũy tre xanh và đặc biệt đây là làng quê nổi tiếng với nghề dệt the, dệt gấm. Những ngày thơ ấu, Xuân Quỳnh lớn lên cùng những tiếng hát, tiếng lách cách đưa thoi của những người thợ dệt, thợ quay tơ. Cái khơng gian quê mùa thơn dã ấy đã bao bọc, chở che tâm hồn thơ ngây và bất hạnh của Xuân Quỳnh ngay từ thủa bé thơ. Sinh ra trong một gia đình cơng chức nhỏ. Cha Xuân Quỳnh là ơng Nguyễn Quang Thưởng (mọi người thường gọi là giáo Lục), ơng là người lãng mạn, từng sáng tác văn chương, viết báo, dạy học. Sau khi mẹ Xuân Quỳnh mất, ơng lấy vợ lẽ và cĩ thêm bốn người con. Vì mâu thuẫn gia đình ơng để hai chị em Xuân Quỳnh ở với bà nội rồi đưa vợ lẽ và các con vào Sài Gịn sống. Ơng mất tại Sài Gịn. Mẹ là bà Nguyễn Thị Trích, bà lấy cha Xuân Quỳnh khi mới 17 tuổi. Năm 31 tuổi, sau khi sinh Xuân Quỳnh ít lâu bà qua đời vì bệnh lao. Cĩ thể nĩi ngay từ khi sinh ra Xuân Quỳnh đã là đứa trẻ bất hạnh, cơi cút, thiếu thốn tình yêu thương. Cuộc sống cơi cút – nỗi đau mồ cơi mẹ ám ảnh cả đời nhà thơ, sống cuộc đời mồ cơi khiến nữ sĩ hiểu tình mẫu tử thiêng liêng và quý giá đến nhường nào đối với trẻ thơ. Cuộc sống nhọc nhằn bên người bà nội khắc khổ đã dạy cho Xuân Quỳnh những khéo léo từ thuở ấu thơ. Những yêu thương của bà đã vun đắp cho Xuân Quỳnh một tâm hồn đầy nữ tính: chu đáo, sớm lo âu hay trắc ẩn, Bù đắp cho những thiếu thốn về vật chất, bà cho Xuân Quỳnh cả một kho truyện cổ, tục ngữ, ca dao, những khúc Kiều, truyện thơ Nơm Học hết tiểu học, Xuân Quỳnh ở nhà với bà rồi tham gia hoạt động văn nghệ thiếu nhi với bộ đội địa phương. Tháng 2 năm 1955, cơ bé Xuân Quỳnh được tuyển vào đội múa của đồn Văn cơng nhân dân Trung ương. Để lại sau lưng bờ sơng Nhuệ hiền hịa, ngơi nhà ngĩi cổ năm gian, bà nội và những kỉ niệm tuổi ấu thơ Xuân Quỳnh đã hịa nhập cuộc đời mình vào đời sống nghệ thuật rộng lớn của đất nước. Đĩ là những ngày tháng náo nức của Xuân Quỳnh. Từ một cơ bé mồ cơi Xuân Quỳnh trở thành một diễn viên múa. Con đường nghệ thuật múa rộng mở: Xuân Quỳnh được đi biểu diễn ở nước ngồi, đi dự Đại hội Thanh niên Sinh viên thế giới năm 1959 tại Viên, thủ đơ nước Áo. Song như một 8
  12. mối nhân duyên đã định, Xuân Quỳnh táo bạo quyết định từ giã đồn Văn cơng để đến với địa hạt thơ ca và sống cùng thơ cho đến hết những tháng ngắn ngủi của cuộc đời mình. Đây là sự quyết định bao trăn trở của bà. Bà trăn trở, lo lắng khơng phải vì danh vọng cho mình mà trăn trở vì sợ đi nhầm đường, sợ khơng làm nên trị trống gì: “Đĩ, trước mắt tơi là hạnh phúc, là yên ấm. Thế mà tơi từ bỏ tất cả. Tất nhiên trên đời này được cái nọ phải mất cái kia. Nhưng biết mình cĩ được cái mà mình định đổi khơng? Tơi khơng ngại gian khổ về vật chất, tơi chỉ buồn về tình cảm. Chắc anh biết: Tơi, một con bé từ nhỏ luơn thiếu thốn tình cảm, mà bây giờ cũng chẳng hơn gì. Tơi bây giờ như kẻ đứng giữa ngã ba đường vắng mà trời thì tối, chẳng biết hỏi ai. Giá mà bây giờ cĩ ai bảo hộ tơi một điều rằng: “Đi con đường này là đúng” thì dù biết cĩ gục ngã giữa đường tơi vẫn cứ đi. Tơi chỉ sợ mình khơng biết phương hướng rồi sau này cũng ra trị trống gì, mà cứ lo nghĩ mã thế này thì hết đời ” [3, tr150]. Cĩ đứng ở trong hồn cảnh của Xuân Quỳnh ta mới hiểu được rằng bà yêu thơ lắm, yêu nhiều lắm nên mới dũng cảm và táo bạo quyết định như thế. Năm 1962, bà được chọn đi học khĩa bồi dưỡng những nhà viết văn trẻ khĩa I tại trường viết văn Nguyễn Du. Sau khi học xong, bà làm việc tại báo Văn nghệ, báo Phụ nữ Việt nam. Năm 1963, Xuân Quỳnh cĩ một tổ ấm bé nhỏ khi kết hơn với anh chàng nhạc cơng của Đồn Văn cơng nhân dân, họ cĩ một cậu con trai. Cũng thời gian này, bà đã hịa mình vào cuộc chiến tranh gian khĩ của dân tộc, đã ru con trên đường đi sơ tán, trong đường hầm, rồi gửi con cho mẹ chồng để đến với những tuyến lửa Vĩnh Linh, Quảng Bình giĩ Lào cát trắng, để ghi lại những gian khổ trong cuộc sống, chiến đấu của dân tộc bằng những vần thơ bỏng rát hiện thực. Với những trang thơ ấy bà trở thành một trong những gương mặt tiêu biểu của thế hệ thơ thời chống Mỹ cứu nước. Những mất mát của tuổi thơ đã khiến cho niềm ao ước về tình yêu, hạnh phúc và một mái ấm gia đình luơn cháy bỏng trong lịng Xuân Quỳnh. Nhưng thật buồn khi hạnh phúc đến với bà quá nhọc nhằn. Cuộc hơn nhân với anh chàng nhạc cơng ở Đồn Văn cơng tan vỡ, bà hụt hẫng và chơ vơ giữa đời như một đứa trẻ bỗng ngã nhồi ở ngay bước đi chập chững đầu tiên. Cuộc đời khơng phải lúc nào cũng quay lưng lại với người đàn bà dành tình yêu lớn cho thơ – Xuân Quỳnh. Xuân Quỳnh gặp Lưu Quang Vũ, người đàn ơng đã đi qua một mối tình dang dở, người bạn nghề thấu hiểu sự đa mang nghệ sĩ ở 9
  13. con người bà. Và rồi như là sự sắp đặt hữu ý của duyên phận. Năm 1973, Xuân Quỳnh kết hơn với nhà viết kịch Lưu Quang Vũ. Kết hơn với Lưu Quang Vũ, Xuân Quỳnh đã phải đối diện với bao gian khĩ nhưng bù lại bà đã đi tới tận cùng của tình yêu và hạnh phúc. Bà đã chắt chiu thương yêu chăm lo cho đàn con gà vịt của mình để chúng luơn sống hịa thuận và gắn bĩ với nhau. Những vần thơ dào dào cảm xúc của bà cứ lần lượt ra đời. Những trang thơ, những vở kịch của Lưu Quang Vũ cũng lần lượt ra đời, tài năng và sự nghiệp của Lưu Quang Vũ được phát triển. Từ năm 1978 đến lúc mất Xuân Quỳnh làm biên tập viên Nhà xuất bản Tác phẩm mới. Với tinh thần sáng tác nghiêm khắc, miệt mài bà đã để lại cho hậu thế một sự nghiệp văn chương đáng kể. Đầu tiên là thơ, sáng tác thơ cĩ các tập: Tơ tằm – chồi biếc (in chung); Hoa dọc chiến hào; Giĩ Lào, cát trắng; Lời ru trên mặt đất; Sân ga chiều em đi; Tự hát; Hoa cỏ may (Giải thưởng văn học 1990 của Hội nhà văn); Thơ Xuân Quỳnh (1992, 1994); Thơ tình Xuân Quỳnh - Lưu Quang Vũ (1994). Đặc biệt năm 2011, Nhà xuất bản Hội nhà văn đã cho ra đời tập thơ Khơng bao giờ là cuối , đây là cuốn tinh tuyển gồm những sáng tác thơ hay cùng với di cảo, thủ bút của nữ sĩ Xuân Quỳnh. Các sáng tác cho thiếu nhi: Cây trong phố–Chờ trăng (in chung); Bầu trời trong quả trứng (Giải thưởng văn học năm 1982 – 1983); Truyện Lưu – Nguyễn; Bao giờ con lớn; Chú gấu trong vịng đu quay; Mùa xuân trên cánh đồng; Bến tàu trong thành phố; Vẫn cĩ ơng trăng khác. Giữa năm 1988, Xuân Quỳnh phải đối diện với căn bệnh tim chớm phát. Xuân quỳnh qua đời ngày 29/8/1988 trong một tai nạn giao thơng tại cầu Phú Lương, thị xã Hải Dương cùng chồng là nhà viết kịch Lưu Quang Vũ và con trai út Lưu Quỳnh Thơ. 1.2.2 Duyên nợ thơ ca – Quan niệm thơ ca Xuân Quỳnh sinh ra trong một gia đình cĩ cha và chị gái đều là những người yêu thơ và thích sáng tác thơ. Thấy cha làm thơ, chị gái làm thơ là Xuân Quỳnh cũng bắt chước làm thử. Sống trong mơi trường ấy, thĩi quen làm thơ được ươm mầm trong Xuân Quỳnh một cách rất tự nhiên. Cha Xuân Quỳnh là một nhà giáo nhưng yêu thích nghệ thuật, ơng sáng tác thơ mỗi khi cĩ thể: từ Sài Gịn ra Hà Nội thăm gia đình ơng cĩ thơ, nhớ quê ơng viết thơ hay sung sướng vì gia đình cĩ thêm cơ con gái Xuân Quỳnh ơng viết thơ. Sau khi vào Sài Gịn, cha 10
  14. Xuân Quỳnh đã để lại cho hai chị em bà mấy tủ sách. Theo bà kể “chúng tơi đọc ngấu nghiến hết cả, cĩ cái hiểu, cĩ cái chẳng hiểu nhưng rất say mê”. “Những truyện của Nam Cao, Nguyên Hồng mỗi khi đọc tới thấy sao mà giống tơi thế. Tơi cĩ cảm tưởng là tơi cũng cĩ thể viết được như vậy, một cách dễ dàng. Và tơi đã khao khát được viết.” “Nhưng say mê hơn cả vẫn là thơ” “Tơi đọc thơ của Nguyễn Bính, Hàn Mặc Tử, Tế Hanh, Chế Lan Viên, Anh Thơ, Huy Cận, Xuân Diệu rất say sưa. Đằng sau những bài thơ bao giờ tơi cũng cảm thấy bao điều kỳ diệu. Và tơi tin rằng các nhà thơ là những vị thánh. Cho mãi đến bây giờ, tơi vẫn thấy thơ là một nghệ thuật kỳ diệu nhưng khĩ mà đi tới, mặc dù vậy vẫn khơng bao giờ cĩ thể bỏ được thơ!” [9] Những năm hoạt động ở Đồn văn cơng là một bước đệm tốt giúp cho Xuân Quỳnh bước vào lãnh địa thơ ca vững vàng. Bà bắt đầu viết thơ nhiều và cĩ dịp được làm quen với nhiều nhà văn, nhà thơ thời bấy giờ: Vân Đài; Anh Thơ, được đến dự buổi trao đổi nhận xét tập thơ Riêng chung của Xuân Diệu. Cứ thế, mỗi ngày một chút, men rượu thơ ca ngấm dần vào trái tim Xuân. Rồi Xuân Quỳnh được mời đi học lớp văn nghệ ở Quảng Bá, đi thực tế ở đảo Cơtơ, Duyên nợ giữa Xuân Quỳnh và thi ca khơng chỉ được ươm mầm từ mơi trường gia đình mà nĩ cịn được bắt nguồn từ chính nhu cầu khát khao được viết của Xuân Quỳnh. Ở nơi sâu thẳm nhất của lí trí và con tim, nữ sĩ biết rằng mình sinh ra để được viết. Trong bản tiểu sử văn học viết ngày 29/8/1982, trả lời cho đề mục nguyên nhân bắt đầu hoạt động văn học, Xuân Quỳnh cĩ ghi: “Vì thích thú. Làm văn học cảm thấy như mình được sống thêm một cuộc đời khác nữa. Vì uất ức. Khi mới vào nghề bị xơ đẩy, bị khinh rẻ nên tơi quyết phải sống. Mà sống tức là phải viết” [3, tr137]. Bắt nguồn từ một tâm hồn đa mang, nhạy cảm của một người đàn bà vốn sinh ra là để dành cho thơ. Người đàn bà ấy long đong với bao giơng bão, sĩng giĩ của cuộc đời nhưng lại cĩ một tâm hồn khát khao tình yêu đến tận cùng, vì thế trong những lời yêu nồng nàn, đắm say nhất tâm hồn ấy cũng đầy ắp những phấp phỏng lo âu về sự tan vỡ. Đến với những sáng tác thơ của Xuân Quỳnh người đọc nhận ra, những cung bậc cảm xúc trong thơ của bà bao giờ cũng được đẩy lên mức da diết, nồng nhiệt nhất. “Sống tức là phải viết”, người phụ nữ mỏng manh mang tâm hồn của một thi sĩ lớn đã thật mạnh mẽ khi đĩn nhận sứ mệnh thơ giao phĩ. 11
  15. Nhà phê bình Vương Trí Nhàn từng nhận định: “Ấn tượng về một cái gì tự nhiên càng rõ rệt hơn khi người ta nhìn vào con đường Xuân Quỳnh đã qua để đến với văn học” [10]. Ngẫm kĩ, Xuân Quỳnh đã lựa chọn thi ca như một lẽ tất yếu, thường tình. Vì tự trong máu thịt, con người ấy đã mang chất văn chương thiên phú. Từ lúc đặt chân vào địa hạt thi ca đến lúc khép lại con đường thơ của riêng mình, Xuân Quỳnh lưu lại dấu ấn bằng phong cách thơ tự nhiên, chân thật đáng kinh ngạc. Người phụ nữ ấy khơng làm thơ mà viết như để kể lại những gì đã sống, đã trải. Tâm trạng trong thơ Xuân Quỳnh nảy sinh từ hồn cảnh đời sống riêng của chính bà. Hiện thực trong thơ Xuân Quỳnh được tái sinh từ hiện thực đời sống thường nhật. Lấy sự chân thật làm điểm tựa cho cảm xúc sáng tạo, Xuân Quỳnh làm thơ một cách tự nhiên, bản năng. Về quan niệm thơ ca, đối với Xuân Quỳnh ý niệm về sự thai nghén để cho ra đời một tác phẩm dường như rất đơn giản: “Lúc viết những dịng này, tơi như người phát cuồng. Cứ phải ghi bằng hết ý nghĩ cứ ào ào kéo đến trong đầu khơng cần vần vèo gì vội. Cịn sắp xếp lại, đặt vấn đề tơi làm sau, việc ấy đơn giản hơn” [3, tr197]. Khởi nguyên thơ Xuân Quỳnh là sự xúc động chân thành, nhu cầu bộc lộ cảm xúc một cách mãnh liệt nhất. “Nghĩa là sự làm thơ ăn ở những xúc động” “Cịn hình thức thơ bốn chữ hay thơ tám chữ, chuyện ấy sẽ đến sau. Làm thơ mà cĩ mỗi cái vần bắt khơng xong, thì cịn tính chuyện viết lách làm quái gì nữa.” [3, tr197-198]. Dễ hiểu vì sao Xuân Quỳnh coi trọng nhất yếu tố tình cảm, cảm xúc trong thế giới nghệ thuật. Thơ phải là cái gì đĩ níu nhau chảy ra trong nguồn cơn xúc cảm, trong giây phút bừng ngộ của tư tưởng nghệ thuật. Thơ phải bật ra từ trong huyết quản của mình. Với Xuân Quỳnh, làm thơ đầu tiên là để tự thể hiện, tự khẳng định, để sáng tạo và để nối liền bản thân với đồng loại,vũ trụ. Xuất phát từ mình, chân thật với chính mình là điều cốt yếu dẫn đường cho sự ra đời của tác phẩm. Xuân Quỳnh thường nhìn thấy chính mình đầu tiên khi nhìn vào con người và sự vật xung quanh nên bà cĩ thĩi quen diễn tả tâm trạng của mình qua thơ đúng đến từng khía cạnh nhỏ nhặt nhất. 1.2.3 Tuyển thơ Khơng bao giờ là cuối Tuyển thơ Khơng bao giờ là cuối dường như đã khái quát được cả cuộc đời và sự nghiệp thơ của nữ sĩ được nhiều thế hệ đọc giả Việt Nam yêu mến, trân trọng – Xuân Quỳnh. Với tuyển thơ này người đọc một lần nữa được nhìn lại 12
  16. “đời thơ”, “đời yêu” của người phụ nữ cĩ trái tim “biết ngừng đập lúc cuộc đời khơng cịn nữa / Nhưng biết yêu anh cả khi chết đi rồi” (Tự hát). Tuyển thơ bao gồm ba phần. Người đọc sẽ gặp Chồi biếc; Thuyền và biển; Sĩng; Sân ga chiều em đi, Tự hát những bài thơ man mác buồn mà ngập tràn hạnh phúc, đắng đĩt xĩt xa nhưng khơng bao giờ vơi yêu thương nồng nàn trong phần đầu tiên – Dẫu biết chắc rằng anh trở lại. Đến phần hai – Những năm tháng khơng yên, ta khơng khỏi xĩt xa trước cảnh đất nước chia lìa hai miền Nam – Bắc: “Gà gáy sáng thấy tĩc đầm nước mắt Đất nước chia lìa đau cả giấc mơ” (Gặp cha) Bầu trời trong quả trứng là phần cuối của tuyển thơ. Phần này gồm những sáng tác thơ rất tươi vui, dí dỏm dành cho thiếu nhi như: Chuyện cổ tích về lồi người; Bầu trời trong quả trứng; Bay cao; Tuổi ngựa Từ khi ra đời tuyển thơ đã thu hút được nhiều sự chú ý của người đọc bởi ở đĩ chứa đựng những tác phẩm hay nhất trong đời thơ Xuân Quỳnh. Những bài thơ trữ tình giản dị, chân thật, nồng hậu gĩp phần làm tốt lên tính nữ của tuyển thơ. Trong tuyển thơ, tính nữ thể hiện rõ nét ở sự tinh tế trong cảm nhận, uyển chuyển trong cấu tứ, giọng điệu và đặc biệt là ở những xúc cảm sâu thẳm tận cùng khi bà viết cho nhà viết kịch Lưu Quang Vũ - người đàn ơng mà bà khơng ngừng yêu và khơng hết yêu cho tới tận cuối đời; viết cho mẹ, cho cha, cho chị, cho con, cho những người bà thương yêu. 13
  17. Chương 2: CÁI TƠI TRỮ TÌNH – HIỆN THÂN CỦA TÍNH NỮ TRONG TẬP THƠ “KHƠNG BAO GIỜ LÀ CUỐI” Cĩ thể nĩi, cái tơi trữ tình trong Khơng bao giờ là cuối là tiếng nĩi đầy xúc cảm, tinh tế và hồn hậu của nữ thi sĩ Xuân Quỳnh. Thơng qua cái tơi trữ tình ấy, độc giả nhận ra phẩm cách con người, cuộc đời đầy bão giơng của Xuân Quỳnh. Cái tơi trữ tình ấy cịn chi phối tới cách cảm, cách nghĩ của thi sĩ về cuộc đời, nghệ thuật. Trong tuyển thơ, cái tơi trữ tình ấy hố thân vào các nhân vật trữ tình khác nhau để cĩ thể diễn đạt đầy đủ và sâu sắc nhất khát vọng tìm kiếm sự dũng cảm, tinh lực cho lao động nghệ. Cái tơi ấy hố thân thành người cháu với những rung động tuổi thơ trước tiếng gà trưa như cổ tích, và hơn hết là sự hĩa thân vào người mẹ để hiểu con, để an ủi vỗ về con, là người vợ với những lo toan bận rộn của cuộc sống thường nhật. Cũng cĩ khi, cái tơi ấy chìm sâu trong những rung cảm, dự cảm về tình yêu ,về cuộc sống Mỗi nhân vật trữ tình ẩn giấu cả một đại dương cảm xúc sâu sắc, nhân vật ấy khám phá bản thân, khám phá thế giới bằng cái nhìn nhiều chiều, nhiều sắc thái đối nghịch. Bởi thế cĩ thể nĩi rằng, hiện thân của tính nữ trong Khơng bao giờ là cuối là cái tơi nhiều chiều, cái tơi giữa các mặt đối lập nhau: Khát khao yêu thương, dâng hiến nhưng ẩn chứa sự lo âu, ám ảnh nên luơn khát khát khao sự chở che, gắn bĩ. 2.1 Cái tơi yêu thương, dâng hiến Phải chăng bởi tấm lịng vị tha vơ biên, sự chân thành là bản chất đời thường của Xuân Quỳnh mà trong thơ bà dù nhìn ở khía cạnh nào ta cũng thấy thật ấm áp vì cái tơi nội tâm, cái tơi yêu thương và giàu trắc ẩn. Cái tơi yêu thương đĩ dễ động lịng trắc ẩn trước những con người nhỏ bé, bất hạnh, cơi cút. Khơng biết bao nhiêu lần trong Khơng bao giờ là cuối những tiếng thương da diết, đầy xúc cảm được vang lên. Đĩ là tiếng thương dành cho người chị phương xa vị võ một mình: “Đã bao mùa giĩ đổi Chị đi dạy học xa Ngày sơ tán, tháng Ba Mưa rào hầm ngập nước Em thương về lớp học 14
  18. Cĩ đường hào ra sân ” (Tháng Ba, viết cho chị) Là tiếng thương, sự lo sợ cho một cánh chuồn mỏng manh: “Khơng tìm đâu được chốn nương nhờ Mỏng mảnh thế làm sao chịu nổi Chuồn chuồn ơi báo làm chi bão tới Trời bão lên rồi mày ở đâu?” (Chuồn chuồn báo bão) Thương từ con dế bị bỏ rơi: “ Thương con dế dưới hầm Những năm bom đạn sống cùng lời ru” (Lời ru trên mặt đất) Đến sự phẫn nộ trước cảnh con bị kéo xe bị người chủ đánh bằng xẻng, người cha kéo lê hai đứa con trên mặt đường bẩn thỉu để đi xin ăn. Rồi rưng rưng thương cái dáng tảo tần của người mẹ quê mùa lam lũ: “Đau xĩt bàn chân phèn chua xĩt kẽ”, lại thương thân phận một cơ gái lấy chồng nơi chiêm trũng khơng dễ gì “Gửi ai cho mẹ bát canh cần” Thế đĩ, thơ Xuân Quỳnh làm người ta ấm lịng vì sự đồng cảm, sẻ chia. Trái tim của người đàn bà trong Khơng bao giờ là cuối cĩ lúc nào được ngủ yên vì sự đa mang? Thơ về tình yêu là mảng thơ đặc sắc nhất của Xuân Quỳnh. Vì “Xuân Quỳnh cĩ một nhân bản yêu đương cực kì mãnh liệt, là một người con gái cĩ thể sống chết vì tình” [16, tr188], lúc nào cũng sợ khơng thể nĩi hết được những lời thương yêu: “Lời yêu thương ngàn lần em muốn nĩi”; “Lịng em thương làm sao mà nĩi được”. Cĩ thể nĩi, địa hạt thơ tình chính là nơi cái tơi yêu thương, tận hiến mang điệu tâm hồn tính nữ rõ nét và rất riêng. Cái chất riêng ấy là sự đằm thắm, bao dung, dịu êm mà dữ dội đến mức táo bạo. Khơng giấu giếm khát khao yêu đương của mình. Cũng như bao người phụ nữ khác, người phụ nữ trong thơ Xuân Quỳnh sống và yêu bằng tất cả sự đắm đuối, nồng nàn đến vụng dại, cả tin: “Khơng sĩ diện đâu, nếu tơi yêu được một người Tơi yêu anh ta hơn anh ta yêu tơi nhiều lắm 15
  19. Tơi yêu anh dẫu ngàn lần cay đắng Và cả anh, anh yêu của riêng em Khi anh nĩi yêu em, trái tim em đập chừng mạnh quá Mạnh đến nỗi em tưởng là nghe rõ Tiếng tim anh đang đập vì em ” (Thơ viết cho mình và những người con gái khác) Ở thơ Xuân Quỳnh, tình yêu cịn là tượng trưng cho cái đẹp, cái cao quý, tượng trưng cho niềm khát khao được tự hồn thiện mình: “Em yêu anh, yêu anh như điên Em viết những bài thơ tình yêu tưởng anh là ý, tứ Trán em bớt dơ ra, bàn tay khơng vụng nữa Tay này đây, em may áo cho anh Và khi nào anh buồn, em sẽ hát Bài hát tình yêu ca ngợi con trai Khơng chỉ anh nghe, hát cho cả mọi người Để họ biết thế nào là hạnh phúc ” (Thơ viết cho mình và những người con gái khác) Cái tơi khát khao yêu và dâng hiến trong thơ Xuân Quỳnh luơn ở hai thái cực đối lập “dữ dội” mà “dịu êm”: “Dữ dội và dịu êm Ồn ào và lặng lẽ Sơng khơng hiểu nổi mình Sĩng tìm ra tận bể ” “Làm sao được tan ra Thành trăm con sĩng nhỏ Giữa biển lớn tình yêu Để ngàn năm cịn vỗ” (Sĩng) Người đàn bà trong Khơng bao giờ là cuối hiện diện và mang theo sứ mệnh tự nguyện dâng hiến tình yêu. Người đàn bà ấy chắt chiu từng lượng nhỏ tình 16
  20. thương để đắp xây hạnh phúc và xĩt xa khi nghĩ đến cảnh người chồng một mình trên con đường xa ngái: “Thương chiếc xe anh nhọc nhằn trong giĩ Mái nhà nào đêm nay anh dừng chân.” (Khơng đề) Chẳng kể lúc ở gần mà khi xa cách những yêu thương, lo lắng của người đàn bà ấy vẫn luơn luơn trìu mến. Sự lo lắng trong lịng đã hĩa thành những nỗi ước ao dịu dàng, đằm thắm rất nữ tính: “Ước chi làm chiếc nĩn che anh Đêm giĩ lạnh em xin làm ngọn lửa Áo ướt ai phơi, ba lơ ai xếp hộ Mong sao trời ngừng mưa” (Khơng đề) Người đàn bà trong Khơng bao giờ là cuối là người đàn bà mang cốt cách tâm hồn người phụ nữ Việt Nam truyền thống tự xa xưa: người yêu, người vợ, người mẹ với những thiên chức muơn đời, với đức hy sinh cao cả và vị tha. “ Trời mưa lạnh tay em khép cửa Em phơi mền vá áo cho anh Tay cắm hoa tay để treo tranh Tay thắp sáng ngọn đèn đêm anh đọc Năm tháng qua đi mái đầu cực nhọc Tay em dừng trên vầng trán âu lo ” (Bàn tay em) Cái tơi trữ tình trong Khơng bao giờ là cuối đâu chỉ khát khao, dâng hiến cho tình yêu, cho hạnh phúc cá nhân, cái tơi ấy cịn hịa mình vào những năm tháng khơng yên của dân tộc để hiến dâng cho đất nước, tổ quơc. “Tơi sẵn lịng đem hiến cả đời tơi Cho cát trắng và giĩ Lào quạt lửa” (Giĩ Lào cát trắng) 17
  21. Bởi: “Lá vàng rụng xuống Cho đất thêm màu, Cĩ mất đi đâu Nhựa lên chồi biếc.” (Chồi biếc) Nào cĩ gì là sợ hãi khi cái chết chỉ như là một sự thay đổi nhỏ, như người lính gác hết phiên, như là vàng thì rụng. Sự thay đổi nhỏ nhưng đầy ý nghĩa. Mỗi chiếc lá vàng rụng để lại chút nhựa sống cho những chồi non. Chúng ta sống ngày hơm nay là là do những người đi trước đã chuẩn bị cho chúng ta cũng như những chồi non được những lá vàng chuẩn bị. Vậy thì sao chúng ta lại khơng sẵn sàng chuẩn bị cho những chồi non sau mình? Nhận và trả đĩ là quy luật tất yếu. 2.2 Cái tơi âu lo, ám ảnh Sinh ra với một số phận bất hạnh, sớm bị chịu nhiều thiệt thịi về mặt tình cảm gia đình: mẹ mất sớm, cha lấy vợ tuổi thơ của Xuân Quỳnh in hằn dấu vết của sự cơi cút, lo toan. Khi mới bước vào đời, Xuân Quỳnh lại gặp phải những trớ trêu ngang trái – cuộc hơn nhân đầu tiên tan vỡ. Tất cả những điều đĩ đã khiến cho trái tim người phụ nữ đa cảm, tha thiết yêu cuộc sống – Xuân Quỳnh lúc nào cũng thức đập vì những phấp phỏng lo âu, ám ảnh. Nỗi lo âu, ám ảnh trong cuộc đời đã in vào trong thơ của Xuân Quỳnh. Nĩ bám riết suốt hành trình đời và thơ bà, đến mức người đọc cĩ cảm tưởng như đấy chính là điệu hồn, là phẩm chất của nữ sĩ. Trong thi giới Xuân Quỳnh, ẩn hiện hình ảnh một người đàn bà mặc áo đen mang khuơn mặt đăm chiêu trong nỗi lo bất tận: lo bão giơng, lo đạn bom, lo trời rét, lo khơng được gắn bĩ, lo mất tuổi trẻ và phai tàn tình yêu Những nỗi lo bất tận khiến cho nhân vật trữ tình trong thơ tin yêu mà vẫn luơn hoang mang và hồi nghi phấp phỏng: “Anh mơ, anh cĩ thấy em” (Hát ru);“Mai xa rồi, anh cĩ nhớ về khơng?” (Trung du) và “Đốt lịng em câu hỏi/ Yêu em nhiều khơng anh?" (Mùa hoa doi) 18
  22. Biết bao lần nỗi cơ đơn của Xuân Quỳnh tuơn trào trên những trang thơ. Nhân vật trữ tình trong mỗi trang thơ ấy thường đứng một mình trước biển, một mình trên con tàu, trên sân ga với nỗi cơ đơn khơng thể che giấu: “Vừa thống tiếng con tàu Lịng đã Nam, đã Bắc” (Sân ga chiều em đi) Hay: “Lời thương nhớ ngàn lần em muốn nĩi Nhưng bây giờ chỉ cĩ sĩng và em ” (Chỉ cĩ sĩng và em) Cuộc sống ngày mai sẽ như thế nào, làm sao mà nĩi trước được, những chuẩn mực tình yêu, hạnh phúc vừa thực lại vừa mong manh dễ vỡ. Chỉ cần một chút dại dột, vụng về tất cả sẽ vỡ tan. “Khắp nẻo dăng đầy hoa cỏ may Áo em sơ ý cỏ găm đầy Lời yêu mong manh như màu khĩi Ai biết lịng anh cĩ đổi thay” (Hoa cỏ may) Vì mỏng manh, vì sợ mọi thứ lại vỡ tan nên nhà thơ thường hay thoảng thốt trước những đổi thay của cảnh vật, những đổi thay của ngoại cảnh dễ khiến trái tim bé nhỏ ấy chạnh lịng: “Mùa thu nay sao bão mưa nhiều Những cửa sổ con tàu chẳng đĩng Dải đồng hoang và đại ngàn tối sẫm Em lạc lồi giữa sâu thẳm rừng anh” (Tự hát) 19
  23. Những “bão mưa nhiều” với “cửa sổ con tàu chẳng đĩng”, “những dải đồng hoang và đại ngàn tối sẫm” tạo ra cảm giác bấp bênh, bất ổn, day dứt, khắc khoải và lo âu trong trái tim em. “Em lo âu trước xa tắp đường mình Trái tim đập những điều khơng thể nĩi Trái tim đập cồn cào cơn đĩi Ngọn lửa nào le lĩi giữa cơ đơn” (Tự hát) Bởi lẽ, đau thương quá nhiều, thế nên bà luơn khát khao cĩ được sự trọn vẹn trong tình yêu và hạnh phúc. Bà đã tin, đã sống vì tình yêu vĩnh viễn của mình: “Chẳng cĩ thời gian, chẳng cĩ khơng gian Chỉ tuổi trẻ, chỉ tình yêu vĩnh viễn.” (Thơ tình cho bạn trẻ) Thế nhưng là một người đàn bà quá nhạy cảm và luơn địi hỏi sự tuyệt đối, vĩnh cửu trong tình yêu, Xuân Quỳnh lúc nào cũng trăn trở và lo sợ khi nghĩ đến sự đỗ vỡ. Tâm hồn bà luơn ở trong trạng thái xao động, chờ đợi, băn khoăn và khơng bình yên, vì “Sợ khơng tới được cùng hạnh phúc” (Thành phố lạ). Bà lo tình yêu sẽ đi qua cuộc đời mình như cơn giĩ mồ cơi bởi trong suy nghĩ của Xuân Quỳnh, tình đang hiện hữu cũng là tình đang biến mất. Người yêu là một điều gì xa xăm, khĩ nắm bắt: “Anh, con đường xa ngái Anh, bức vẽ khơng màu Anh, ngàn nỗi lo âu Anh, câu thơ nổi giĩ Mà em người đời thường Biết là anh cĩ ở!” (Anh) Vì khĩ nắm bắt nên: “Em đâu dám nghĩ là vĩnh viễn 20
  24. Hơm nay yêu, mai cĩ thể xa rồi” (Nĩi cùng anh) Vì khĩ nắm bắt nên hoang mang, lo sợ tất thảy: “Vẫn con đường tuổi mười lăm Mặt hồ rộng, giĩ đùa qua kẽ lá Lời tình tự ngàn lần trên ghế đá Biết lời nào giả dối với lời yêu Nào hạnh phúc, nào là đổ vỡ Tơi thấy lịng lo sợ khơng đâu” (Thơ tình cho bạn trẻ) Cái tơi trữ tình trong thơ Xuân Quỳnh luơn luơn bị ám ảnh bởi những dư ba bất thường của cuộc đời đầy biến động. Vì thế, hơn một lần người ta thấy trong Khơng bao giờ là cuối, ý thức thời gian trơi chảy luơn đi cùng với sự ám ảnh tàn phai nhất là vào những khoảnh khắc giao thời. Đĩ là sự ám ảnh về tuổi trẻ, số phận, của lịng người: “Thời gian đi màu hoa cũ về đâu Nay trở lại vẫn như cịn mới mẻ Bao mùa thu hoa vẫn vàng như thế Chỉ em là đã khác với em xưa Bao ngày tháng đi về trên mái tĩc Chỉ em là khác với em thơi” (Hoa cúc) Em đã khác với em xưa nên hình ảnh mùa thu tàn tạ cứ hiện về trong suy tưởng của em như một nỗi ám ảnh khơng dứt: “Cuối trời mây trắng bay Lá vàng thưa thớt quá Phải chăng lá về rừng Mùa thu đi cùng lá” (Thơ tình cuối mùa thu) Đành rằng hồn thơ đa cảm của Xuân Quỳnh hợp với cảm thức mùa thu, song cái tơi trữ tình trong thơ nữ sĩ quá nhạy cảm với bước đi khẽ khàng của thời 21
  25. gian đến nỗi sức sống rực rỡ của vạn vật mùa xuân khơng sao che chắn nổi dự cảm tàn phai: “Mùa xuân sẽ về đâu Khi nơi này xuân hết?” (Mười bảy tuổi) Điệp khúc ấy cứ lặp đi lặp lại: “Hoa héo trước kì hoa nở” và “Hạnh phúc đang cịn, tình yêu đã mất” Từ ngàn xưa, con người đã lo nghĩ về cái chết, về sự chia lìa, như một nhà nghiên cứu văn học đã nhận định: “Nỗi day dứt vào bậc nhất trong suy cảm trữ tình của con người bao đời nay là day dứt về chuyện CỊN – MẤT của những gì với mình là quý giá thiêng liêng. Người càng giàu tiên cảm, giàu dự cảm lo âu về mất mát rủi ro, thì day dứt càng ám ảnh hơn” [12, tr21-22]. Thơ Xuân Quỳnh tràn ngập những suy tư, trăn trở về việc sống – chết. Vì thế, song hành với nỗi ám ảnh về sự cơ đơn, người phụ nữ trong thơ Xuân Quỳnh cịn day dứt nỗi sợ hãi về cái chết, sự mất mát, lìa xa. Nhìn một cách tổng quan cĩ thể thấy rằng nỗi sợ hãi về cái chết xuất hiện trong thơ Xuân Quỳnh xoay xung quanh hai vấn đề chính, đĩ là cái chết của những con người trong chiến tranh và cái chết của tình yêu và con người trong tình yêu. Vốn là người đa cảm, Xuân Quỳnh khơng thể thờ ơ được trước cái chết của đồng bào mình sau Mười hai ngày gánh chịu những trận mưa bom B52 của giặc: “Mười hai ngày cùng tận của lịng đau Cơ Ngọc Tường chết ở Bạch Mai Chiếc áo cưới thay cho vải liệm Giĩ đơng bắc thổi qua nền gạch vụn Trên máu người bị giết ở Khâm Thiên.” Hay những câu thơ đầy quyết tâm: “Tơi sẵn sàng đem hiến cả đời tơi Cho cát trắng và giĩ Lào quạt lửa” “Sống đất này, chết cũng đất này thơi” 22
  26. Đọc những câu thơ trên, cái chết xuất hiện khơng chỉ một lần. Song cách khắc họa cái chết của Xuân Quỳnh khơng đem đến khơng khí bi lụy, bế tắc mà nổi bật lên là lịng căm thù sâu sắc. Với lịng căm thù ấy, cĩ gì hơn là cầm súng chiến đấu để trả thù cho những đồng bào vơ tội đã hi sinh? Xuân Quỳnh đã nhìn thấy Thần Chết đang đợi mình. Bà đã biết trước đời mình như một ngọn đèn le lĩi sắp tắt. Tháng 6/1988, Xuân Quỳnh bị đau tim nặng phải vào bệnh viện. Trên giường bệnh, bà làm bài thơ Thời gian trắng thể hiện rõ sự ám ảnh về cái chết: “Em ở đây khơng sớm khơng chiều Thời gian trắng, khơng gian tồn màu trắng Trái tim đập sau làn áo mỏng Từng đập vì anh, vì những trang thơ Trái tim nay mỗi phút mỗi giờ Chỉ cĩ đập cho mình em đau đớn Trái tim này chẳng cịn cĩ ích Cho anh yêu, cho cơng việc, bạn bè Khi cuộc đời trơi chảy ngồi kia Thời gian trắng vẫn ngừng trong bệnh viện Chăn màn trắng, nỗi lo và cái chết” (Thời gian trắng) Dự cảm nhiều về cái chết, về sự chia li trong thơ xuất phát từ những linh cảm về cuộc đời, số phận nghiệt ngã mà chỉ những người cĩ tâm hồn đặc biệt mới cĩ. GS. Chu Văn Sơn từng viết: “Cuộc đời và thơ Xuân Quỳnh là một nỗ lực thốt khỏi chơ vơ định mệnh ( ) và phải đến khi tai nạn phũ phàng ập xuống quá bất ngờ, người đời mới thấy rằng những dự cảm lo âu suốt một đời người, một đời thơ ấy sao mà linh nghiệm”. [12, tr21-22] Cĩ thể nĩi, những cung bậc cảm xúc trong thơ Xuân Quỳnh luơn luơn tồn tại một nghịch lý càng hạnh phúc thì càng lo âu, và càng lo âu khắc khoải thì càng đắm say da diết. Người đọc tự hỏi: Viết về cái chết liệu Xuân Quỳnh cĩ hết âu lo? Cĩ hết khơng những trăn trở của một trái tim nghệ sĩ? Câu hỏi đĩ cĩ lẽ sẽ cịn khắc khoải mãi bởi dù nữ thi sĩ cĩ mất đi, thời gian cĩ mãi trơi thì thơ của bà vẫn cịn lại với thời gian, bất tử trong những trang thơ nồng nhiệt, bất tử trong 23
  27. những dự cảm âu lo. Và cĩ lẽ những dự cảm lo âu, sự ám ảnh ấy chính là điều làm nên điệu hồn thơ Xuân Quỳnh. 2.3 Cái tơi chở che, gắn bĩ Hịa nhịp cùng với một cái tơi khát khao yêu thương, dâng hiến nhưng âu lo là cái tơi chở che, gắn bĩ – để được gần hơn với yêu thương và con người. Nhìn từ đặc điểm giới tính, chỉ cĩ những người đàn bà mới dành cả một đời hướng về tổ ấm, đi tìm sự che chở và mong muốn được chở che. Cõi đời vốn đã đầy cay cực, xáo động, Xuân Quỳnh lại sinh đúng vào những năm tháng xáo động, bản thân, ngay từ trứng nước đã đa mang một cõi lịng khơng yên định. Sinh ra đã chịu đựng nỗi chơ vơ, cơi cút, rồi trên mỗi bước đường đời, mặc cảm cơi cút cứ truy đuổi sát gĩt như một thứ bĩng đè lên cuộc đời người phụ nữ này. Vì thế, cĩ thể thấy rằng: cuộc đời và thơ Xuân Quỳnh là một nỗ lực vượt thốt nỗi chơ vơ định mệnh đĩ. Cũng vì thế, luơn thường trực ở hồn thơ này, một khao khát đến khắc khoải: khao khát được gắn bĩ và chở che. Ai cũng thừa nhận thơ Xuân Quỳnh đậm đà hơi thở cuộc sống đời thường. Xuân Quỳnh làm thơ hướng vào cuộc sống đời thường, vào mái nhà với những tình cảm, sự lo toan cho tổ ấm ấy. Bởi, như con chim mất tổ từ thủa ấu thơ nên Xuân Quỳnh thiết tha muốn vun đắp và gây dựng một tổ ấm yêu thương trọn vẹn cho mình. Đối với Xuân Quỳnh tổ ấm gia đình là một ốc đảo bình yên để tâm hồn thi sĩ ẩn náu, tránh những cơn bão cát nĩng bỏng và khắc nghiệt của cuộc đời. Khơng phải khơng cĩ lí khi Chu Văn Sơn gọi đích danh chất thơ Xuân Quỳnh là “chất thơ từ tổ ấm”. Trong Khơng bao giờ là cuối, hình ảnh tổ ấm cứ thấp thống ẩn hiện dưới nhiều dạng thức, mang theo bao nỗi niềm vui buồn của một người vợ, một người mẹ tận tụy kiếm tìm, chắt chiu gìn giữ hạnh phúc đời thường. “Đã xa rồi căn phịng nhỏ của em Nơi che chở những người thương mến nhất Con đường nắng dịng sơng trước mặt Chuyến phà đơng. Nỗi nhớ cứ quay về ” (Chỉ cĩ sĩng và em) Hay: 24
  28. “Ngày mai trời cịn mưa anh ở đâu Căn gác dột qua kẽ trần đã nứt Ngày mai trời cịn mưa Bậc thang gác nhà mình ẩm ướt ” (Ngày mai trời cịn mưa) Cĩ lẽ với Xuân Quỳnh tận cùng của hạnh phúc, tận cùng của tình yêu là sự yên bình của một tổ ấm với những chở che, nương tựa vào nhau. Vì thế trong Khơng bao giờ là cuối người đọc luơn gặp một người đàn bà với đơi bàn tay gầy guộc, đầy những vết chai sạn tự nguyện nhĩm ngọn lửa ấm trong căn nhà chật hẹp của mình. Ngọn lửa mà người phụ nữ ấy nhen nhĩm là lửa tình yêu, lửa từ trong tim, ngọn lửa ấy sẽ khơng bao giờ tắt lúc nào cũng nồng ấm yêu thương để sưởi ấm, che chở cho những người thân yêu. “Sao khơng cài khuy áo lại anh Trời lạnh đấy, hơm nay trời trở rét ” (Trời trở rét) “Làm mái nhà che những cơn mưa Làm ánh lửa giữa rừng khuya phía trước ” (Thương về ngày trước) Tổ ấm được bắt đầu từ tình yêu của “anh” và “em”. Tự nguyện gắn bĩ và được gắn bĩ, mong muốn chở che và được chở che, khát vọng của người phụ nữ trong cõi thơ Xuân Quỳnh bao gồm cả hai chiều cho và nhận ấy. Hĩa ra, cái đích của tình yêu là sự yêu thương hồn hậu vơ cùng. “Tay trong tay” – hình ảnh ấy trở đi trở lại trong thơ Xuân Quỳnh như là hiện thân cho khát vọng gắn bĩ và che chở. “Trong tay anh, tay của em đây Biết lặng lẽ vun trồng gìn giữ ” (Bàn tay em) “Tay ta nắm chặt tay người Dẫu qua trăm núi ngàn đồi cũng qua” (Hát ru) 25
  29. Xưa nay trong văn học ta hay bắt gặp các thi sĩ say mê ca tụng những tương tư sầu nhớ, những ái tình đơn phương, sự đổ vỡ, Ai trong chúng ta chẳng quen thuộc câu thơ của Hồ Dzếch: “Tình chỉ đẹp khi tình cịn dang dở/ Đời hết vui khi đã vẹn câu thề”. Nhưng Xuân Quỳnh hồn tồn khác, bà đi tìm cho mình “chất thơ từ tổ ấm” nên nếu chỉ cĩ tình yêu lứa đơi thì chưa hẳn đã cĩ tổ ấm. Chỉ khi dưới mái nhà bình yên cĩ sự ơm ấp, trìu mến của người lớn đối với những đứa trẻ, để tình yêu thương tràn ngập khắp miền khơng gian nhỏ bé, tổ ấm mới thật sự đầy đặn hình hài. Điều đĩ cũng cĩ nghĩa là, tự thẳm sâu ước vọng về hạnh phúc đời thường, người phụ nữ ấy khao khát biết mấy cái thiên chức thiêng liêng được làm mẹ. Người mẹ trong thơ của Xuân Quỳnh khơng lúc nào nguơi khát vọng gìn giữ, che chở con thơ: “Con thức ban ngày mẹ chở che con Đêm con mơ mẹ làm sao che chở Trong giấc mơ chỉ mình con bé nhỏ Chỉ mình con chống chọi với quân thù” (Dải đất thuộc về tơi) Người mẹ ấy cịn làm bao người phụ nữ khác xúc cảm theo niềm vui đĩn đợi con chào đời: “Bố mới mua chiếc chăn Dành riêng cho con đắp Áo con bố đã giặt Thơ con bố viết rồi Các anh hỏi con hồi Bao giờ sinh em bé?”. (Con chả biết được đâu) Chắt chiu tình yêu con từ thuở chưa thành hình hài, và đi suốt hành trình đời con cũng chính bằng yêu thương thiêng liêng đĩ: “Con làm bằng yêu thương / Của cha và của mẹ ” (Cắt nghĩa), người phụ nữ trong thơ Xuân Quỳnh dường như thấu suốt đến tận cùng nỗi lịng của người mẹ. Mẫu tính thiêng liêng ở người phụ nữ ấy là hiện thân cao nhất của nữ tính. 26
  30. Chương 3: NGHỆ THUẬT BIỂU HIỆN TÍNH NỮ TRONG TẬP THƠ “KHƠNG BAO GIỜ LÀ CUỐI” 3.1 Ngơn ngữ và giọng điệu thơ giàu tính nữ 3.1.1 Ngơn ngữ Mỗi nhà thơ sẽ xây cất lên ngơi nhà thơ của mình theo một cách riêng với vốn ngơn từ chung của đời sống xã hội. Nhờ cách tổ chức ngơn từ mà nhà thơ cĩ thể chuyển tải thành cơng nội dung, cảm xúc tác phẩm tới người đọc. Nếu nĩi thơ Xuân Quỳnh giàu chất tính nữ thì cần thấy được sự gĩp sức đắc lực của ngơn ngữ trong việc tạo ra chất thơ giàu nữ tính ấy. Ngơn ngữ thơ Xuân Quỳnh mang âm hưởng ngọt ngào của ngơn ngữ dân gian, thường giản dị mộc mạc và đặc biệt là ngơn ngữ cĩ sự khẳng định tuyệt đối, cĩ sự hướng tới những điều tuyệt đích như chính con người bà – khát khao yêu thương dâng hiến, nâng đỡ tình yêu lên mức tuyệt đối, vĩnh cửu. Lại Nguyên Ân viết: “Xuân Quỳnh với tư cách một con người và một nhà thơ, vẫn gắn bĩ, vẫn hướng nhiều hơn về phía những chuẩn mực, những nền nếp đã hình thành từ xưa của đời sống và của nghệ thuật” [3, tr141]. Ở thơ của bà, cĩ sự kết hợp hài hịa giữa ngơn ngữ cổ điển truyền thống với ngơn ngữ hiện đại. Ta gặp trong Khơng bao giờ là cuối cái chất tình tự muơn đời của ca dao: “Muối mặn ba năm gừng cay chín tháng Cha mẹ chúng tơi dạy ghét dạy yêu Yêu lời ru vời vợi những câu Kiều Thương cái bờ sơng thân cị lặn lội” Ở con người và ở thơ Xuân Quỳnh luơn tiềm tàng nét giản dị, thậm chí sự thơ trẻ: đã yêu củ ấu cũng trịn. “Đã thương mấy núi cũng trèo Mấy sơng, mấy biển mấy đèo cũng qua” (Tình ca trong lịng vịnh) Ta bắt gặp hình ảnh người mẹ kể cho các con nghe câu truyện cổ tích về lồi người bằng thơ: 27
  31. “Mẹ mang về tiếng hát Từ cái bống cái bang Từ cái hoa rất thơm Từ cánh cị rất trắng Từ vị gừng rất đắng Từ vết lắm chưa khơ Từ đầu nguồn cơn mưa Từ bãi sơng cát vắng ” (Chuyện cổ tích về lồi người) Trong đoạn thơ, người đọc cĩ cảm tưởng các từ ngữ như gọi nhau, như say, như tỉnh, biến hĩa nhịp nhàng như những lời hát đồng dao xưa. Hơi thở dân gian vừa hư ảo vừa xác thực tạo nên sự hấp dẫn cho những bài thơ của Xuân Quỳnh. Quả thật ngơn ngữ thơ Xuân Quỳnh trở nên mềm mại, duyên dáng hơn khi kế thừa và phát triển những vẻ đẹp của ngơn ngữ ca dao, dân ca. Trở về với lời ru trong kỷ niệm tuổi thơ là một quy luật tình cảm, con người càng từng trải những khổ đau, vấp váp trong cuộc sống càng khao khát nhìn nhận lại những giá trị cũ. Một trong những giá trị ấy là lời ru của mẹ. Là một phụ nữ đã “đi qua mùa bão giĩ” và “thác lũ”, Xuân Quỳnh cảm nhận sâu sắc, thấm thía lời ru xưa. Suốt chặng đường đời của mình nhà thơ cứ vương vấn “Thương câu hát cũ”, và mong muốn được bù trừ, xoa dịu nỗi đau quá khứ: “Mưa khơng cịn lạnh nữa những lời ru” (Gửi mẹ). Tắm mình trong dịng suối dân gian, nên dù viết về lời ru nay, lời ru của thời hiện đại, thơ Xuân Quỳnh vẫn luơn thắm đượm dư vị dân gian, đậm đà chất trữ tình. Mọi cảm quan nghệ thuật của Xuân Quỳnh về lời ru luơn cĩ xu hướng tìm về dân giã. Thơ ru của bà cĩ giọng điệu nhắn nhủ, ví von, gần với cách nĩi, cách cảm thơng thường của người Việt từ xa xưa. “Rào rào tiếng những bầy ong Chuyên cần là tiếng cái tằm nhả tơ Mẹ cịn đang bận đưa ru Cái hoa bận đỏ, cái hồ bận xanh Hạt cây đang bận nảy mầm Con quay quay cĩ một mình ngồi kia” (Lời ru trên mặt đất) 28
  32. “Cái ngủ” được đặt trong mơi trường dân gian, mơi trường lao động. Thiên nhiên, tạo vật, con người đều ở trạng thái thức và bận rộn. Con ong làm mật, con tằm nhả tơ, bơng hoa đỏ hết mình, mặt hồ xanh đến tận cùng, con quay quay khơng ngừng nghỉ và mẹ bền lịng đưa ru. Tất cả đều “làm việc” vì giấc ngủ trẻ thơ. Vả chăng mọi sự phấn đấu trên mặt đất này đều nhằm đạt đến sự bình yên cho trẻ thơ. Đĩ là một thái độ sống tích cực và nhân đạo truyền thống Việt Nam. Gắn những quy luật tự nhiên với quy luật xã hội, lời ru Xuân Quỳnh là triết lý dân gian nhẹ nhàng, dễ hiểu, dễ thấm mà sâu sắc. Nĩ khơng trơi tuột đi, tan biến vào giấc mơ, trái lại nĩ kết đọng và thức tỉnh. Cĩ ai khơng xúc động trước những câu thơ: “Mẹ lại hát ru con bài ca đất nước Vợ cấy chồng cày đồng cạn, đồng sâu Và yêu nhau cởi áo cho nhau” Hay: “Nào là hoa bưởi hoa chanh Nào câu quan họ mái đình cây đa Xin đừng bắt chước câu ca Đi về dối mẹ để mà yêu nhau ” (Mẹ của anh) Ta như nhớ lại những câu ca dao: “Trên đồng cạn, dưới đồng sâu/ Chồng cày, vợ cấy con trâu đi bừa”, ta như hịa mình vào âm điệu của những câu hát quan họ trong những lễ hội làng quê Việt: “Yêu nhau cởi áo ối à cho nhau, về nhà dối rằng cha dối mẹ a à a á a, rằng a ối a qua cầu, tình tình tình giĩ bay Yêu nhau cởi nĩn ối à cho nhau, về nhà dối rằng cha dối mẹ a à a á a, rằng a ối a qua cầu, tình tình tình giĩ bay”. Đối với Xuân Quỳnh lời ru con là một miền ký ức xanh màu cỏ, tím hoa xoan và xào xạc lá tre đường làng. Hình ảnh mẹ và lời ru con luơn da diết trong tiềm thức của nhà thơ: “Hoa xoan tím ngõ Cánh cị trắng xố Như lời ru của mẹ bay về” (Gửi mẹ) 29
  33. Đĩ là cánh cị ca dao, cánh cị của nền văn minh lúa nước mang thân phận người phụ nữ, người mẹ, người vợ với những đức tính hy sinh thầm lặng: “Con cị lặn lội bờ sơng” (ca dao). Lời ru của mẹ đã hố thân vào cánh cị dân gian để ngàn năm cịn chấp chới, chao liệng giữa đời. Cái màu trắng xố ngang trời lúc mưa giơng, mây tạnh như một lời nhắc nhở về nỗi vất vả gian truân của mẹ. Sinh ra và lớn lên với tuổi thơ cơi cút, hình bĩng mẹ với Xuân Quỳnh thật xa vời vợi: “Những lời ru vời vợi canh khuya Con vẫn nhớ Lời mẹ hát cĩ đơi bờ cách trở Cĩ bên này, bên nở ngĩng trơng nhau ” (Gửi mẹ) Những khúc hát ru của mẹ luơn là niềm hạnh phúc ngọt ngào của tuổi thơ, nhưng đối với Xuân Quỳnh đĩ là nỗi thèm khát. Những câu thơ trên nghe thấm thía nỗi lịng khao khát nghẹn ngào, nức nở của một tuổi thơ mất mát, thiếu vắng bĩng hình mẹ. Mẹ và Xuân Quỳnh xa vời cách trở, mỗi người ở một bến bờ riêng: “Đứng bên ni đồng ngĩ bên tê đồng, mênh mơng bát ngát/ Đứng bên tê đồng ngĩ bên ni đồng, cũng bát ngát mênh mơng ” Nhớ thương mẹ, Xuân Quỳnh chỉ biết hút lấy những tinh chất ngọt ngào từ nhụy của bơng hoa văn học dân gian để viết lên những câu thơ của riêng mình diễn tả nỗi lịng thương nhớ ấy. Lấy ý từ câu ca : “Con gái mà gả chồng gần/ Cĩ bát canh cần nĩ cũng mang cho” để viết lên những câu thơ thương mẹ đến xĩt ruột vì khơng thể gửi cho mẹ một “bát canh cần”. Và từ trong sâu xa, niềm thương cảm Xuân Quỳnh dành lại cho chính bản thân mình, thương: “Thân gái như hạt mưa sa/ Hạt vào gác tía, hạt ra vũng lầy” (Mưa ngâu). Những câu thơ dân gian đầy màu sắc folklore – một màu Việt cổ thuần tuý và cả những hình ảnh mang điệu tâm tình của người xưa: thuyền, biển, núi, đèo, gừng cay, muối mặn đã ám nhiễm vào tâm trạng thơ Xuân Quỳnh và trở thành một ám ảnh dai dẳng suốt đời sống và đời thơ của bà. Cái chất truyền thống ấy, chất dân gian ấy đã gĩp phần khiến cho những trang thơ của Xuân Quỳnh ngọt ngào,sâu lắng và đậm đà chất nữ tính. 30
  34. Chảy ra từ mạch nguồn cảm xúc chân thực tự bên trong tâm hồn, ngơn ngữ thơ trong Khơng bao giờ là cuối rất giản dị, mộc mạc, trong sáng lan tỏa và lắng đọng trong tâm cảm người đọc. Đĩ là thứ ngơn ngữ gọi đúng cảm xúc nữ tính của điệu thơ, hồn thơ Xuân Quỳnh. Đơi khi, cả khoảng trời tâm hồn đa diện của Xuân Quỳnh được mở ra chỉ bởi một từ. “Nghe”, “nhớ”, “thương” những từ ngữ bình thường ấy lại cĩ tiếng nĩi riêng trong việc lột tả thế giới nội tâm của con người. Nếu cái tơi trong thơ khơng khao khát mãnh liệt sự sống, sao lại phải lắng nghe những âm thanh đời?! Nếu khơng dạt dào tình yêu hướng về cõi đời và người, làm sao lại phải cứ nhớ và thương?! Ngơn ngữ đã gọi tên rất đúng điệu hồn nữ tính của Xuân Quỳnh. Là một người sống và yêu hết mình nhưng tầm hồn Xuân Quỳnh lúc nào cũng khắc khoải, cũng nhớ về miền xưa cũ, hay hồi ức về quá khứ. Bà đã làm sống dậy những kỉ niệm trong quá khứ bằng những từ ngữ chỉ thời gian: Vẫn, cứ, như thế, tự bao giờ, xưa, như xưa, thủa nhỏ, từ xưa “Ngày xưa má mẹ cũng hồng Bên anh, mẹ thức lo từng cơn đau Bây giờ tĩc mẹ trắng phau Để cho mái tĩc trên đầu anh đen Lời ru mẹ hát thủa nào Chuyện xưa mẹ kể lẫn vào thơ anh ” (Mẹ của anh) Hay: “Hoa cúc tím trong bài hát cũ Dẫu vẫn là cung bậc của ngày xưa Quá khứ đáng yêu, quá khứ đáng tơn thờ Nhưng đâu phải là điều em luyến tiếc.” (Cĩ một thời như thế) Những từ ngữ chỉ thời gian ấy được sắp xếp, đan xen cùng với biết bao hình ảnh, nĩ tạo nên chiều sâu cảm xúc trong các bài thơ, khiến cho mỗi trang thơ như chao nghiêng, xao động trước những khoảnh khắc của cuộc sống. Khi ấy, cảnh vật, con người khơng cịn đơn điệu mà trở nên sống động, hấp dẫn trước cuộc đời đầy biến động, chảy trơi: “Hơm nay yêu mai cĩ thể xa rồi” nhưng: “Sẽ cĩ mãi cơ bé mười sáu tuổi 31
  35. Dẫu tĩc em năm tháng dổi thay màu.” (Sẽ cĩ mãi cơ bé mười sáu tuổi) Trong Khơng bao giờ là cuối tần số xuất hiện của các từ ngữ chỉ cỏ cây, khung cảnh thơn quê, tuổi thơ rất cao. Điểm qua cĩ thể kể đến: mùa thu, con chim, vườn, núi, sơng, lau cỏ, trời , thuyền, biển, giĩ, trăng, hoa cau, cây ổi, ngơ, khoai, Chúng được đặt cạnh các màu sắc như: hồng, xanh, biếc, đỏ, tím, vàng, trắng. Những yếu tố này kết hợp hài hịa với nhau tạo ra một khơng gian trữ tình sâu lắng. Những ưu tư, băn khoăn trăn trở trong thơ được thể hiện thơng qua nhiều câu hỏi với nhiều sắc thái khác nhau. Từ lời thì thầm “Bao giờ hoa ngâu nở” đến sự sục sơi : “Sĩng bắt đầu từ giĩ? Giĩ bắt đầu từ đâu Khi nào ta yêu nhau”, cĩ khi thoảng thốt: “Chuồn chuồn ơi báo bão làm chi bão tới/ Trời bão lên rồi mày ở đâu?”, lại cĩ khi nơn nĩng: “Đốt lịng em câu hỏi/ Yêu em nhiều khơng anh?”, cĩ khi lại trầm tư: “Lịng anh là đầm sen/ Hay là nhánh cỏ úa?” và đơi khi lại bi thiết: “Lời yêu mỏng manh như màu khĩi/ Ai biết lịng anh cĩ đổi thay?”. Các câu hỏi ấy cĩ sức gợi vơ cùng mạnh mẽ. Ta cịn gặp trong thơ Xuân Quỳnh một hệ thống những từ cĩ ý nghĩa khẳng định, tuyệt đối hĩa: dẫu, suốt, tận cùng, vĩnh viễn, vơ tận, vơ cùng, muơn thuở “Chỉ tuổi trẻ, chỉ tình yêu vĩnh viễn” hay “Biết yêu anh cả khi chết đi rồi”. Xuân Quỳnh cĩ xu hướng vĩnh viễn hố tình yêu, trao cho tình yêu một sức sống vĩnh cửu, một giá trị bất diệt. Ta dễ hiểu, dễ lý giải điều đĩ bởi cái tơi trữ tình trong thơ Xuân Quỳnh luơn khao khát tình yêu mãnh liệt, tình yêu thuỷ chung, một hạnh phúc thường ngày bình dị nhưng lại bị ám ảnh bởi sự đổi thay trong tương lai. Do cảnh ngộ riêng, Xuân Quỳnh đến với tình yêu như một nỗ lực để thốt khỏi cảm giác rét mướt vì thiếu thốn tình cảm, mong được yêu thương, bù đắp và chở che. Cĩ lẽ khát vọng được tận hiến cho yêu thương của người đàn bà đa mang trong Khơng bao giờ là cuối tìm được ở lớp ngơn ngữ này chỗ nương tựa thích hợp nhất. 3.1.2 Giọng điệu Nĩi về nghệ thuật biểu hiện tính nữ trong Khơng bao giờ là cuối chúng ta khơng thể khơng nĩi tới giọng điệu thơ – một dấu hiệu nghệ thuật đặc sắc. Giọng 32
  36. điệu ở đây khơng phải là cách nĩi mà là cảm xúc, là giọng của tâm hồn. Trong tuyển thơ người ta dễ dàng nhận ra một giọng thơ khơng kiểu cách, khơng khiên cưỡng, mà luơn tự nhiên, phĩng khống. Mai Quốc Liên từng nhận xét: “Chưa cĩ ai biểu hiện một sự thương yêu sâu xa, đằm thắm đến thế trong thơ tình Việt Nam như chị, cĩ lẽ vì rằng trong đời chị đã chẳng gặp may? Cĩ lẽ chị đã chẳng gặp được người nào cĩ thể đem đến cho chị cốc nước trong suốt mà chị mong ước làm vợi đi cơn khát? Khơng cĩ lẽ, khơng đúng thế. Đành rằng tình yêu luơn luơn muốn vươn tới lý tưởng trong khi đĩ người tình luơn luơn là con người cụ thể với những giới hạn ngặt nghèo nhưng khơng phải vì nghịch lý đĩ của tình yêu. Vậy ta chỉ cĩ thể giải thích mọi điều bằng lịng tốt, bằng bản chất yêu thương của con người chị” [16, tr171]. Cũng cĩ lẽ vì vậy, thế giới nghệ thuật trong thơ Xuân Quỳnh đã hình thành một giọng điệu riêng – giọng “hát ru”. Điệu hát ru là sản phẩm tâm hồn của những người mẹ bao dung, người yêu, người vợ giàu đức hy sinh. Thơ Xuân Quỳnh với giọng hát ru là một sự kế tiếp nhưng lại mang một dự báo thẩm mỹ. Bà hát ru mọi người hay cũng chính là hát để ru, để an ủi chính bản thân mình? Bởi Xuân Quỳnh vốn mang cốt cách tâm hồn người phụ nữ Việt Nam truyền thống: tự nguyện hy sinh hết thảy tất cả vì chồng, vì con. Vì thế bà thường hay chọn lời ru hoặc lấy cảm hứng từ lời ru làm giọng điệu cho bài thơ của mình. Trong Khơng bao giờ là cuối, người đọc được thưởng thức một giọng ru hời ngọt ngào chất chứa bao tình yêu, sự chăm sĩc ân cần, chu đáo: “Ngủ đi, người của em yêu Này, con tàu lạ vừa neo bến chờ Trời đêm nghiêng xuống mái nhà Biển xanh kia cũng đang mơ đất liền Anh mơ anh cĩ thấy em Thấy bơng cúc nhỏ nơi triền đất quê” (Hát ru) Cĩ tình yêu nào vị tha đến thế? – ru cho chồng say giấc cịn mình thì thao thức.Trong lời thơ, người đọc thấy tất cả sự vật trong khơng gian căn phịng bé nhỏ ấy cũng như đang chìm trong giấc ngủ êm đềm: từ trang sách, ngọn đèn, con tàu, biển xanh, đám mây Giấc ngủ êm đềm ấy như cõi bình yên giữa mênh 33
  37. mơng xao động, như niềm mong ước của thi sĩ về một tổ ấm yên lành để đi đến tận cùng của tình yêu và hạnh phúc. “Tay ta nắm lấy tay người Dẫu qua trăm suối ngàn đồi cũng qua” (Hát ru) “Để ngày mai bình minh đến Buồm chúng ta lại tung cánh ra khơi” (Ru) Đối với mỗi đứa trẻ, những câu hát ru của bà, của mẹ luơn là niềm hạnh phúc ngọt ngào của tuổi thơ vì được yêu thương, chăm bẵm nhưng riêng với Xuân Quỳnh đĩ là nỗi thèm khát. Những lời thơ ru con của Xuân Quỳnh vì thế mà nghe thấm thía một nỗi lịng nức nở, nghẹn ngào của một tuổi thơ mất mát. Cĩ lẽ vì một tuổi thơ cơi cút, thiếu vắng bĩng hình mẹ– hình ảnh mẹ chỉ là tấm hình trên bàn thơ xa xơi hư ảo, mà trang thơ Xuân Quỳnh ngân vang lên một tình yêu thương vơ bờ bến đối với con thơ. Đứa con là niềm hạnh phúc, là báu vật đồng thời là nỗi lo toan để người mẹ chăm chút. “Khi con sinh ra cái tã đã nhuốm xanh Cái nơi mắc trước hầm trú ẩn. Lửa đạn giặc sém cành hoa đậu ván Bên bờ ao con chuồn chuồn mất chỗ chơi” Lời mẹ ru khơng chỉ ngọt ngào “Cái bống ngủ ngon, cánh cị bay mãi” Bởi khi bay cĩ cánh cị đã gãy Trong lúc ngủ say cái bống vẫn giựt mình.” (Khi con ra đời) Trong bom đạn tơi bời lời ru trong trang thơ của Xuân Quỳnh vẫn vút cao lên niềm khát khao của người người mẹ về một tổ ấm cho con. Người mẹ trong thơ Xuân Quỳnh thương con trong cả những giấc mơ: “Con thức ban ngày mẹ chở che con 34
  38. Đêm con mơ mẹ làm sao che chở Trong giấc mơ chỉ mình con bé nhỏ Chỉ mình con chống chọi với quân thù ” Trong thơ Xuân Quỳnh cĩ lời ru của bà, của mẹ, cĩ tiếng võng đưa, cĩ bãi cỏ xanh, cĩ con chuồn chuồn, con dế que kem. Nơi mỗi đứa trẻ sẽ quay về mà khơng phải lo sợ điều bất trắc chính là lịng mẹ. Đối với Xuân Quỳnh, thế giới trẻ thơ thật đáng yêu, vui vẻ. Trẻ thơ lúc nào cũng cần được nâng niu, chở che và bao bọc trong yêu thương, trong Bầu trời vỏ trứng “Bầu trời trong quả trứng Khơng cĩ diều cĩ cắt Khơng cĩ bão cĩ mưa Khơng biết đĩi biết no Khơng bao giờ biết sợ ” (Bầu trời trong quả trứng) Là người mẹ làm thơ, Xuân Quỳnh dành tặng cho người đọc những trang thơ viết về thiếu nhi với những tình cảm trìu mến, ân cần của người mẹ, tình mẫu tử thiêng liêng. Những trang thơ viết cho thiếu nhi luơn lấp lánh một giọng điệu hồn nhiên, tươi vui và dí dỏm. Là đặc điểm tâm lý nên trẻ nhỏ là chúa hay tị mị, thắc mắc và muốn tìm hiểu thế giới xung quanh với rất nhiều những câu hỏi ngây thơ, hồn nhiên: “Vì sao con cĩc Nĩ hay nghiến răng? Vì sao con cịng Nĩ khơng nhắm mắt? Khơng cĩ chân cĩ cánh Mà lại gọi: con sơng? Khơng cĩ lá cĩ cành Lại gọi là: ngọn giĩ? Cái quạt bé như thế Thì giĩ ở vào đâu? (Vì sao) 35
  39. Ta thấy lấp lĩ đằng sau câu thơ trên là nụ cười hĩm hỉnh, vui sướng của Xuân Quỳnh. Những giọng nĩi ví von, bi bơ của con trẻ tràn lên những bài thơ viết cho thiếu nhi của Xuân Quỳnh. “Con yêu mẹ bằng ơng trời Con yêu mẹ bằng Hà Nội Con yêu mẹ bằng trường học Con yêu mẹ bằng con dế” (Con yêu mẹ) Khơng cần những cảm xúc vay mượn như người lớn, trẻ con luơn thể hiện tình cảm theo cách riêng của chúng. Và với trẻ con, hình ảnh con dế cịn hơn cả ơng trời, Hà Nội hay trường học vì con dế luơn luơn ở bên con. Những ý nghĩ đột ngột đĩ của chú bé để lại trong lịng người đọc một hình tượng thơ thật đẹp, thấm thía tình cảm mẹ con giống như chú bé trong bài thơ Tuổi ngựa: “Tuổi con là tuổi ngựa Nhưng mẹ ơi đừng buồn Dẫu cách núi cách rừng Dẫu cách sơng cách bể Con tìm về với mẹ Ngựa con vẫn nhớ đường” (Tuổi ngựa) Vọng lên từ cõi thơ Xuân Quỳnh khơng chỉ là giọng hát ru ngọt ngào, giọng ví von, hĩm hỉnh mà cịn cĩ những thanh âm bàng bạc day dứt, lo âu. Trong chuỗi giọng điệu đậm chất nữ tính của thơ Xuân Quỳnh, âm hưởng suy tư, thao thức chính là cái lõi tinh yếu nhất để giúp người đọc nhận ra hơi thơ Xuân Quỳnh, cũng là sắc điệu đưa thơ nữ sĩ đi đến gần vùng xúc cảm, đồng điệu của người đọc. “Em lo âu trước xa tắp đường mình Trái tim đập những điều khơng thể nĩi Trái tim đập cồn cào cơn đĩi Ngọn lửa nào le lĩi giữa cơ đơn” (Tự hát) 36
  40. Day dứt, lo âu là “điệu hồn” của cái tơi trữ tình trong thơ Xuân Quỳnh. Lẽ tất yếu, tâm hồn đĩ phải đi tìm một chất giọng tương ứng để tái hiện đời sống nội tâm nhiều cung bậc của chủ thể trữ tình – người đàn bà mang khát vọng lớn về tình yêu. Sau những lời ca hát về tình yêu muơn đời và bất tận, người ta thấy bộc lộ trên trang thơ Xuân Quỳnh một nỗi lo âu về tình yêu mong manh, dễ vỡ trước cuộc đời, lịng người biến suy, một dự cảm đau đớn về đổ vỡ hạnh phúc trở nên ám ảnh trong thơ thơ bà: Em đâu dám nghĩ là vĩnh viễn Hơm nay yêu mai cĩ thể xa rồi” (Nĩi cùng anh) Hay: “Này anh, em biết Rồi sẽ cĩ ngày Dưới hàng cây đây Ta khơng cịn bước” (Chồi biếc) Ngay cả khi nắm giữ hạnh phúc trong tay người đàn bà ấy cũng đầy lo âu. Sao vậy? Vì dường như sợ khơng đuổi kịp tuổi thanh niên, sợ khơng tới được tận cùng của hạnh phúc, và vì thế người phụ nữ trong thơ Xuân Quỳnh rất trân trọng tình yêu, hạnh phúc “Gương mặt ấy, lời yêu thủa ấy/ Màu hoa vàng cháy mãi ở trong em” (Hoa cúc) Nét riêng khác biệt trong sắc điệu dịu dàng, nữ tính của Xuân Quỳnh là sự kết hợp hai phạm trù đối lập: đằm thắm mà vẫn mạnh mẽ, nhẹ nhàng mà rạo rực say mê. Ta gặp ở Thuyền và biển chất giọng thỏ thẻ tâm tình của người con gái: Em sẽ kể anh nghe Chuyện con thuyền và biển: Từ ngày nào chẳng biết Thuyền nghe lời biền khơi Cánh hải âu, sĩng biếc Đưa thuyền đi muơn nơi. 37
  41. (Thuyền và biển) Thỏ thẻ đấy nhưng cũng vơ cùng cuồng nhiệt và đắm say: “Những ngày khơng gặp nhau Lịng thuyền đau – rạn vỡ Nếu từ giã thuyền rồi Biển chỉ cịn sĩng giĩ Nếu phải cách xa anh Em chỉ cịn bão tố” (Thuyền và biển) Rồi ta lại gặp ở “Sĩng” những thanh âm sĩng đơi, tương phản ấy: “Dữ dội và dịu êm Ồn ào và lặng lẽ Sĩng khơng hiểu nổi mình Sĩng tìm ra tận bể ” (Sĩng) Qua hình tượng sĩng, người đọc cảm nhận được những rung cảm vơ hình của tình yêu trong tâm hồn người con gái đang yêu. Cĩ lúc là “dữ dội” – cồn cào và da diết nhớ nhung nhưng cũng cĩ lúc thật “dịu êm” – đằm thắm, sâu lắng, song dù thế nào thì “sĩng” luơn muốn: “Làm sao được tan ra Thành trăm con sĩng nhỏ Giữa biển lướn tình yêu Để ngàn năm cịn vỗ” (Sĩng) Dải phổ giọng điệu thơ Xuân Quỳnh là sản phẩm của một hồn thơ đậm đà tính nữ. Nếu tính nữ là “chất nhu uyển chuyển” thì những giai âm khác nhau trong giọng thơ Xuân Quỳnh đều mang dấu ấn này. Khi dịu dàng đằm thắm, lúc dữ dội đắm say, cĩ lúc lại hồn nhiên dí dỏm và suy tư thao thức Nhưng dù ở sắc giọng nào, điệu thơ Xuân Quỳnh cũng lặng lẽ tìm về cội nguồn thiên tính nữ. 38
  42. 3.2 Biểu tượng Thế giới biểu tượng trong thơ Xuân Quỳnh phong phú, đa dạng. Đĩ là những biểu tượng về tình yêu, hạnh phúc về cả sự tan vỡ và lo âu, những biểu tượng này rất gần gũi, quen thuộc trong cuộc sống thường ngày: Là thuyền – biển– con sĩng tràn bờ để mãi ngân vang bản tình ca mà gần như suốt một đời thi sĩ đã Tự hát về tình yêu của mình. Là hình tượng con tàu – sân ga, là hoa cỏ dại, là bàn tay và đặc biệt là hình tượng trái tim. Thơ tình là mảng sáng tác làm nên tên tuổi Xuân Quỳnh và cũng là mảng sáng tác khiến người đọc nhớ, yêu mến Xuân Quỳnh mãi mãi. Nĩi tới tình yêu là người ta nĩi tới nhịp đập của hai trái tim đồng điệu,vì thế trái tim trở thành biểu tượng đặc biệt trong thơ tình của Xuân Quỳnh, là nơi chứa đựng bao khát vọng yêu đương cháy bỏng. “Em trở về đúng nghĩa trái tim em Là máu thịt, đời thường ai chẳng cĩ Vẫn ngừng đập lúc cuộc đời khơng cịn nữa Nhưng biết yêu anh cả khi chết đi rồi.” (Tự hát) Nơi đâu chứa đựng lịng chân thành, sự thủy chung, khát vọng yêu thương cháy bỏng? Đĩ chính là nơi trái tim của mỗi người. Xuân Quỳnh đã dùng hình ảnh trái tim để làm biểu tượng cho tình yêu của mình, cho thơ tình của mình. Bà đã tự hát một cách dung dị về trái tim “máu thịt”, trái tim “đời thường” của mình với tình yêu đằm thắm luơn khao khát hiến dâng và luơn hướng đến cái tuyệt đối vĩnh hằng của nĩ. Khơng chỉ là hình tượng trái tim khát khao yêu thương cháy bỏng mà nĩ cịn là hình ảnh về một trái tim đa cảm, thơng minh và tinh tế. Thơng minh và tinh tế để hiểu rằng: “Chẳng dại gì em ước nĩ bằng vàng Anh là người coi thường của cải Nên nếu cần anh bán nĩ đi ngay ” “Em cũng khơng mong nĩ giống mặt trời Vì sẽ tắt khi bĩng chiều đổ xuống Lại mình anh với đêm dài câm lặng 39
  43. Mà lịng anh xa cách với lịng em ” (Tự hát) Tình yêu chân thành khơng dựa trên điểm tựa là sự sáng chĩi của vàng bạc bởi những thứ vật chất đĩ rồi sẽ nhanh chĩng tàn phai theo năm tháng. Người phụ nữ trong tình yêu cũng khơng mong tình yêu của mình là vầng dương của vũ trụ, vì nĩ sẽ tàn khi bĩng hồng hơn đổ xuống để rồi “lịng anh” với “lịng em” phải xa vời cách trở. Điểm tựa vững chắc cho một tình yêu thực sự đĩ là đức hạnh của trái tim nồng nàn, tha thiết yêu và được yêu. Xuân Quỳnh – người phụ nữ long đong cả đời đi tìm và giữ gìn tình yêu của mình. Bà đã bị lỡ mất nhịp yêu đầu vì thế ta dễ hiểu vì sao nỗi khắc khoải, lo âu về sự cơ đơn, xa cách lại luơn ẩn hiện trong trái tim yêu ngay cả khi tình yêu đang nồng nàn: “Em lo âu trước xa tắp đường mình Trái tim đập những điều khơng thể nĩi Trái tim đập cồn cào cơn đĩi Ngọn lửa nào le lĩi giữa cơ đơn ” (Tự hát) Trong tình yêu khơng phải lúc nào cũng cĩ ngọt ngào, hạnh phúc mà đi cùng với nĩ cịn là sự tan vỡ, cay đắng, mất mát và thiệt thịi. Bởi vậy, chỉ một chút xíu hạnh phúc cũng khiến trái tim nhỏ bé của người phụ nữ đa đoan Xuân Quỳnh rạo rực và thổn thức: “Biết xúc động qua nhiều nhận thức Biết yêu anh và biết được anh yêu ” (Tự hát) “Chỉ riêng điều được sống cùng nhau Niềm sung sướng với em là lớn nhất Trái tim nhỏ nằm trong lồng ngực Giây phút nào tim đập chẳng vì anh.” (Chỉ cĩ sĩng và em) Hình tượng trái tim trong thơ Xuân Quỳnh như là một phương tiện đắc lực để nhà thơ giãi bày bao tâm tư tình cảm của mình, đĩ là nơi bà cất giấu một tình 40
  44. yêu đằm thắm, cuồng si của cả một đời đánh đổi. Hình ảnh trái tim khơng phải là một hình ảnh mới xuất hiện trong thơ, đã cĩ nhiều nhà thơ trước và cùng thời với Xuân Quỳnh sử dụng hình ảnh đẹp này trong thơ mình, chẳng hạn như T.T.Kh, Xuân Diệu nhưng ở những nhà thơ này, hình ảnh đĩ chỉ dừng lại ở việc là đối tượng để thể hiện tâm trạng. Đối với Xuân Quỳnh, trái tim đã trở thành biểu tượng duy nhất và thiêng liêng của tình yêu. Biểu tượng tình yêu đĩ, được Xuân Quỳnh cụ thể hĩa qua từng giai đoạn của cuộc đời, hay nĩi đúng hơn là mỗi chặng đường đi tìm hạnh phúc. Từ những nhịp đập rạo rực, mạnh mẽ của thời tuổi trẻ, đến những ưu tư, khắc khoải và dường như mỏi mệt của một người đã từng trải. “Trái tim buồn sau lần áo mỏng Từng đập vì anh vì những trang thơ Trái tim nay mỗi phút mỗi giờ Chỉ cĩ đập cho mình em đau đớn Trái tim này chẳng cịn cĩ ích Cho anh yêu, cho cơng việc, bạn bè ” (Thời gian trắng) Như vậy dù thể hiện trực tiếp hay gián tiếp thì trái tim đã trở thành một biểu tượng tiêu biểu trong tuyển thơ, gĩp phần làm cho thế giới hình tượng trong thơ Xuân Quỳnh thêm phong phú, đa dạng. Xuân Quỳnh đã lớn lên với một tuổi thơ buồn bã, thiếu vắng bàn tay yêu thương, chăm sĩc của mẹ. Những nỗi cơ cực của một đứa trẻ mồ cơi đã làm cho Xuân Quỳnh trở nên đảm đang và khéo léo. Tất cả sự đảm đang đĩ được thể hiện rõ nhất ở đơi bàn tay của bà. Đơi bàn tay ấy trở đi trở lại trong tuyển thơ như một dấu hiệu nghệ thuật. Bà đã tự họa cuộc đời mình qua biểu tượng đơi bàn tay một cách rất chân thật và xúc động: đơi bàn chẳng đẹp khi cĩ những vết chai, ngĩn tay khơng thon, khơng dài. Bàn tay ấy là điểm tựa cho một thời tuổi thơ dữ dội,là điểm tựa khi nỗi nhớ mang hình bĩng của người mẹ ùa về trong kí ức. “Bàn tay em ngĩn chẳng thon dài Vệt chai cũ, đường gân xanh vất vả Em đánh chắt chơi chuyền thuở nhỏ Hái rau dền rau rệu nấu canh Rồi úp mặt lên bàn tay khĩc mẹ.” 41
  45. (Bàn tay em) Chỉ với biểu tượng đơi bàn tay đầy vết chai, xù xì, thơ kệch, Xuân Quỳnh đã cho ta thấy được một cuộc đời luơn thiếu hụt, luơn đau đáu một khát vọng được chở che, vỗ về. Nhưng cũng chính đơi bàn tay xù xì, thơ kệch ấy, Xuân Quỳnh đã lặng lẽ nâng niu chăm chút từng mảnh vụn hạnh phúc để vun đắp cho tổ ấm, cho những người thân yêu của mình: “Trong tay anh, tay của em đây Biết lặng lẽ vun trồng gìn giữ Trời mưa lạnh tay em khép cửa Em phơi mền vá áo cho anh Tay cắm hoa tay để treo tranh Tay thắp sáng ngọn đèn đêm anh đọc.” (Bàn tay em) Hơn thế, bằng chính đơi bàn tay của mình Xuân Quỳnh đã thắp lên ngọn lửa ấm của tình yêu thương, sự dịu dàng, vị tha cĩ thể xoa dịu mọi nỗi lo âu, bất trắc. “Năm tháng đi qua trên mái đầu cực nhọc Tay em dừng trên vầng trán lo âu Em nhẹ nhàng xoa dịu nỗi đau Và gĩp nhặt niềm vui từ mọi ngả Khi vắng anh bàn tay em biết nhớ Lấy thời gian đan thành áo mong chờ Lấy thời gian em viết những dịng thơ Để thấy được chúng mình khơng cách trở” (Bàn tay em) Xuân Quỳnh đã thổi vào đơi bàn tay linh hồn của con người, để biết nhớ, biết yêu và biết đau khi cĩ sự xa cách. Lưu Quang Vũ, người bạn đời của Xuân Quỳnh cũng đã từng ca ngợi đơi bàn tay của bà. “Em của anh, đơi vai ấm ấp dịu dàng Người nhĩm bếp buổi chiều, người thức dậy lúc tinh sương Em ở đấy đời chẳng cịn đáng ngại Em ở đấy bàn tay tin cậy 42
  46. Bàn tay luơn đỏ lên vì giặt giũ mỗi ngày” (Và anh tồn tại) Biểu tượng bàn tay trong thơ Xuân Quỳnh thật khác so với hình tượng bàn tay trong thơ Phan Thị Thanh Nhàn. Trong thơ Phan Thị Thanh Nhàn bàn tay chỉ đơn thuần biểu hiện một phương diện: “Hè tay làm làn giĩ Quạt cho anh giấc nồng Đơng – ngĩn như tia nắng Tay nhen lên bếp hồng.” (Bàn tay – Phan Thị Thanh Nhàn) Trong thơ Xuân Quỳnh đơi bàn tay cĩ ý nghĩa như một thân phận, cuộc đời. “Gia tài em chỉ cĩ bàn tay Em trao tặng cho anh từ ngày ấy Bàn tay em gia tài nhỏ bé Em trao anh cùng với cuộc đời em” (Bàn tay em) Cả gia tài em chỉ cĩ bàn tay “Em trao tặng anh ” bàn tay cũng là trao cho anh cả cuộc đời, niềm tin, tình yêu. Lúc này bàn tay là biểu tượng của niềm tin. “Đường tít tắp khơng gian như bể Anh chờ em cho em vịn bàn tay” (Bàn tay em) “Tay ta nắm lấy tay người Dẫu qua trăm suối ngàn đồi cũng qua” (Hát ru) Biểu tượng đơi bàn tay đã tiết lộ cuộc đời của người phụ nữ trong thơ Xuân Quỳnh, và chúng ta hiểu đĩ chính là cuộc đời bà, một cuộc đời với bao thăng trầm. Nhưng dù cĩ lắm thăng trầm, người phụ nữ cĩ đơi bàn tay chai, xù xì ấy vẫn vững vàng vượt qua những giơng bão của cuộc đời để gìn giữ tình yêu, hạnh phúc của mình 43
  47. “Tay trong tay tơi đã ở bên người Tơi chẳng nĩi điều chi vĩnh viễn” (Lại bắt đầu) Trong gia tài thơ của Xuân Quỳnh, người đọc rất quen với hình ảnh con thuyền xuơi ngược, biển cả bao la và những con sĩng cuộn trào. Với một tâm hồn nhạy cảm, khát vọng yêu đương luơn cháy bỏng trong con tim, thì hình ảnh sĩng vỗ bờ, thuyền và biển cũng sơi nổi, nồng nàn như chính tâm hồn của nữ sĩ. Nét độc đáo đầu tiên khi Xuân Quỳnh xây dựng những hình tượng trên đĩ là bà đã thổi vào chúng những cảm xúc, trạng thái tình cảm của con người qua đĩ khái quát lên những quy luật của tình yêu, cuộc sống. “Cũng cĩ khi vơ cớ Biển ào ạt xơ thuyền ” “Chỉ cĩ thuyền mới hiểu Biển mênh mơng dường nào Chỉ cĩ biển mới biết Thuyền đi đâu về đâu ” (Thuyền và biển) “Thuyền – biển” trở thành một cặp khơng thể thiếu trong cuộc hành trình trên đại dương bao la, đúng là khoảng cách bến bờ của biển chỉ cĩ thuyền mới xác định được bao nhiêu hải lý và cũng chỉ cĩ biển mới theo kịp những chuyến rong ruổi của thuyền trên sĩng biển bao la. Chúng trở thành đối tượng hướng về nhau như một quy luật tất yếu của cuộc sống. Những lúc cĩ sĩng, khi bão tố đại dương nổi lên, bão táp cuộn trào, biển sẽ “ào ạt xơ thuyền”, cĩ khi nhấn chìm thuyền vào trong lịng biển. Chuyện tình yêu của con người cũng thế, tình yêu khơng bao giờ đứng yên, khơng bao giờ bất biến. Trong tình yêu bên cạnh những phút giây thăng hoa, hạnh phúc cịn cĩ những khoảnh khắc khổ đau, cay đắng đến nghiệt ngã: “Vì tình yêu muơn thuở/ Cĩ bao giờ đứng yên?” Thuyền và biển khơng chỉ là đối tượng chủ thể trữ tình mà cịn là biểu trưng cho cảm xúc của những đơi lứa yêu nhau. Đĩ là tâm trạng nhớ nhung, buồn đau của tháng ngày xa cách, là ước nguyện luơn được gắn bĩ, bền chặt bên nhau. 44
  48. Tình yêu trong Xuân Quỳnh vẫn mãi là biển xanh mênh mơng, vẫn mãi nồng nàn, say đắm, đồng thời vẫn tiềm ẩn bên trong đĩ là những bão tố, là rạn vỡ. “Nếu từ giã thuyền rồi Biển chỉ cịn sĩng giĩ Nếu phải cách xa anh Em chỉ cịn bão tố” (Thuyền và biển) Cùng với thuyền và biển, hình ảnh sĩng cũng là một biểu tượng tiêu biểu cho khát vọng yêu mãnh liệt của Xuân Quỳnh. Nhân vật trữ tình trong thơ Xuân Quỳnh đã bắt đầu bước vào con đường đi tìm cội nguồn của tình yêu bằng hình tượng con sĩng. Con sĩng mang trong mình những đặc trưng sĩng đơi tương phản, đĩ cũng chính là những tương phản trong xúc cảm tâm hồn của tác giả muốn thể hiện: “Dữ dội và dịu êm Ồn ào và lặng lẽ Sơng khơng hiểu nổi mình Sĩng tìm ra tận bể ” (Sĩng) Hình tượng “sĩng” như là những cung bậc tình cảm của những tâm hồn đang yêu, lúc “ồn ào” cuộn sĩng, lúc lặng lẽ “dịu êm”, nhưng dù thế nào đi nữa “sĩng” vẫn luơn dào dạt vỗ bờ, đồng nghĩa là trái tim đĩ lúc nào cũng yêu và mãi mãi thổn thức, bồi hồi vì tình yêu. “Ở ngồi kia đại dương Trăm ngàn con sĩng đĩ Con nào chẳng tới bờ Dù muơn vời cách trở” (Sĩng) Bằng sự nhạy cảm và tinh tế của người phụ nữ, sự sắc sảo của một nhà thơ, Xuân Quỳnh đã nắm bắt được từng đặc điểm của sự vật: thuyền – biển – sĩng để từ đĩ phản ánh những cung bậc tình cảm, những khía cạnh của đời sống con người ở từng trạng thái khác nhau, đặc biệt là những xúc cảm của tình yêu. 45
  49. Cùng với biểu tượng bàn tay, trái tim, thuyền- biển- sĩng thì biểu tượng hoa cỏ dại cũng là biểu tượng nghệ thuật độc đáo. Hoa, cỏ dại trong Khơng bao giờ là cuối là cúc xanh, lau trắng, nghệ dại, cỏ may, ti gơn, hoa gạo, hoa mua, hoa sim, hoa ban, Chúng sống trong “rừng chung”, trong “đầm lầy” và “bên đường”, chúng lặng lẽ nở, lặng lẽ dâng hương sắc cho đời. “Anh đừng hỏi tên hoa làm chi nữa Những hoa này chỉ dại mà thơi Khơng phải hoa được ở cùng người Được chăm sĩc trong mảnh vườn sạch cỏ Được khoe đến muơn màu sắc lạ Và được đời chiêm ngưỡng mùi hương Khơng phải hoa được cắm trên bàn Trong ngày hội của những ngày vui mới Những hoa này nở trên triền núi Lại nở cho vẻ đẹp của rừng chung” (Hoa dại núi Hồng Liên) Trong Khơng bao giờ là cuối người đọc thấy cĩ một lồi hoa giản dị, khơng hương sắc, chỉ xuất hiện một lần thống qua trong một bài thơ nhưng sức sống và sự lan tỏa lại vơ cùng mãnh liệt. Đĩ là hoa cỏ may: Khắp nẻo dâng đầy hoa cỏ may, Áo em sơ ý cỏ găm đầy. Lời yêu mỏng mảnh như màu khĩi, Ai biết lịng anh đã đổi thay? (Hoa cỏ may) Xuân Quỳnh nhiều lần nhắc đến hoa lau trắng, hoa tường vi như là những hình ảnh đẹp đẽ trong sáng của quá khứ, những lồi hoa đã sống suốt một thời trẻ dại cùng bà: “Dịng sơng này, bãi cát, cánh đồng quen Hoa lau trắng suốt một thời quá khứ Tơi đã đi đến tận cùng xứ sở Đến tận cùng đau đớn của tình yêu” (Thơ tình cho bạn trẻ) 46
  50. “Trắng với hồng và tím nhạt Tựa màu mây phiêu lãng cuối trời xa Hoa tường vi như thực tại như mơ Cùng tơi sống suốt một thời trẻ dại” (Hoa tường vi) Khi viết về hoa Xuân Quỳnh khơng cố ý vẽ nên bức tranh rực rỡ sắc màu, cũng khơng cĩ ý tả những đặc điểm của hoa mà viết về hoa là viết về những kỉ niệm đã qua. Cĩ khi đĩ là kỉ niệm về tình yêu: “Gương mặt ấy tình yêu thuở ấy Màu hoa vàng vẫn cháy ở trong em” (Hoa cúc) Cĩ khi là ký ức tuổi thơ đầy thơ mộng: “Hoa cúc xanh cĩ hay là khơng cĩ Trong đầm lầy tuổi nhỏ của anh xưa” (Hoa cúc xanh) Hoa cúc là lồi hoa mà thi sĩ yêu thích? Cĩ lẽ vì vậy mà ta thấy hoa cúc xuất hiện rất nhiều trong thơ Xuân Quỳnh nĩi chung và trong tuyển thơ nĩi riêng. Hoa cúc như là dấu hiệu đặc trưng của mùa và là biểu tượng của thời gian. Thời gian cứ tuần tự trơi, hoa tàn rồi lại nở kế tiếp. Xuân Quỳnh nhắc đến điều đĩ như là một quy luật. “Đã mùa hoa cúc vàng Lại một năm sắp hết ” (Đêm cuối năm) “Mùa hạ qua rồi lại đến mùa thu Thời gian đi màu hoa cũ về đâu Nay trở lại vẫn cịn như mới mẻ Bao mùa thu hoa vẫn vàng như thế ” (Hoa cúc) “Mùa thu vào hoa cúc Chỉ cịn anh và em Cùng tình yêu ở lại” 47
  51. (Thơ tình cuối mùa thu) Cùng với hoa, cỏ dại được nhắc đến như một biểu tượng của sự sống khơng thể hủy diệt: “Cỏ dại quen nắng mưa Làm sao mà giết được” (Cỏ dại) Khi trở về quê hương, người chiến sỹ được vỗ về an ủi bằng một sự sống giản dị. Cỏ dại qua mưa nắng, qua bom đạn chiến tranh tàn khốc vẫn bùng lên sức sống mạnh mẽ. Vì vậy cỏ là biểu tượng của sự sống khơng thể huy diệt. “Anh nhìn thấy trước tiên là cỏ Sự sống đầu anh gặp ở quê anh” (Cỏ dại) Cỏ dại – lồi thực vật nhỏ nhoi ấy cũng gợi ý niệm về sự lãng quên, vơ tình. “Cĩ mấy ai nhớ về ngọn cỏ Mọc vơ tình trên lối cũ ta đi” (Cỏ dại) Cĩ thể chỉ là trong tiềm thức, nhưng hình như Xuân Quỳnh cảm nhận thấy những bơng hoa dại, những nhành cỏ dại kia tương ứng với thân phận, cuộc đời mình. Những thua thiệt, cay đắng mà lồi hoa, cỏ dại phải chịu đựng cũng giống như những mất mát, đau thương mà bà phải chịu đựng trong cuộc đời. Và những nhành hoa, cỏ dại kia luơn ẩn chứa một sức sống mãnh liệt để dù cĩ nắng mưa, nước ngập, nước rút cũng khơng giết được chúng thì Xuân Quỳnh cũng vậy bà vượt qua mọi đau khổ, mất mát để sống, khát khao hạnh phúc. 3.3 Khơng gian nghệ thuật – Thời gian nghệ thuật Thơ ca là một loại hình sáng tạo nghệ thuật đặc biệt của con người. Nĩ được thể hiện bằng ngơn ngữ nghệ thuật; loại hình ngơn ngữ mà ý nghĩa được xây dựng trên đĩ đã thành những biểu tượng; và để nắm bắt được các biểu tượng đĩ khơng phải là điều đơn giản. Đặc biệt là để nắm bắt, nhận diện được các biểu tượng về khơng gian, thời gian nghệ thuật trong thơ ca là một điều vơ cùng phức tạp. Việc xây dựng nên được khơng gian, thời gian nghệ thuật đĩ chính là tạo 48
  52. nên giá trị thẩm mỹ đặc sắc của thơ ca. Khơng gian, thời gian nghệ thuật là hai phương diện quan trọng giúp nhân vật trữ tình giãi bày nỗi niềm, tình cảm của mình vào trong thơ ca, hai phương diện này gĩp phần khơng nhỏ trong việc hình thành chất thơ đậm đà tính nữ. 3.3.1 Khơng gian nghệ thuật Bước vào thi giới Xuân Quỳnh là ta bước vào tịa lâu đài tâm hồn của một người đàn bà yêu thơ và làm thơ. Vì thế ta dễ thấy khơng gian nghệ thuật trong Khơng bao giờ cuối của là khơng gian gần gũi với người phụ nữ, hơn nữa với quan niệm khởi nguyên của thơ ca là sự xúc động chân thành, là nhu cầu bộc lộ cảm xúc một cách mãnh liệt nhất nên khơng gian nghệ thuật trong tuyển thơ là khơng gian chất chứa đầy tâm trạng bên cạnh khơng gian rộng vơ cùng, khơng gian cụ thể đến từng địa danh. Cảm xúc, tâm trạng của hồn thơ đậm chất nữ tính chi phối mạnh mẽ việc tổ chức khơng gian nghệ thuật. Khơng gian ấy ẩn chứa: chiều cao của khát khao, chiều dài của nỗi nhớ, chiều sâu của tình yêu. Tự trong bản thể, tâm hồn Xuân Quỳnh như một cánh chim cơ đơn khát khao chở che, gắn bĩ, ước ao một tổ ấm bình yên nên cõi thơ nữ sĩ cĩ khoảng khơng gian gắn liền với đời sống hằng ngày, gắn liền với người phụ nữ. Đĩ là miền hiện hữu của những đồ vật bình dị đời thường: bình hoa, cái bếp, ngọn đèn, mắc áo, giá sách, lọ mực, cây bút Chúng thân thương, mộc mạc như chính hạnh phúc đời thường giản dị của người phụ nữ, người mẹ, người vợ. Người ta nhớ hình ảnh cơ hàng phố tần tảo phơi chăn: “Tháng mười trời trải nắng hanh Cĩ cơ hàng phố phơi chăn trước thềm Giĩ qua lay động bức rèm Tấm gương trong suốt, ánh đèn nê-ơng” (Thơ viết tặng anh) Người đàn bà thức cùng giấc ngủ của con với ngọn đèn và những trang thơ: “Ngọn đèn và trang thơ Tiếng thở đều con nhỏ Màu hoa trên cửa sổ 49
  53. Quán nước chè mùa đơng” (Sân ga chiều em đi) Từ sự trải nghiệm cuộc đời, Xuân Quỳnh luơn nâng niu tình yêu, hạnh phúc bằng cái nhìn giản dị, thiết thực nhưng vẫn đầy sự xúc cảm từ tổ ấm khiêm nhường của mình. “Và hạnh phúc trong bàn tay cĩ thật Chiếc áo mắc trên tường Màu hoa sau cửa kính Nồi cơm reo trên ngọn lửa bếp đèn” Và: “Bình hoa đã ngủ trên bàn Kìa trang sách gấp ngọn đèn thiu thiu Ngủ đi vầng trán yêu thương Bức tranh đã ngủ mặt tường lặng im” (Hát ru) Hạnh phúc là một thứ quả ngọt dường như xa xơi lắm, quá tầm tay với, nên Xuân Quỳnh cứ ao ước, chấp chới với. Ai cĩ thể mơ và cảm nhận được những điều li ti quá đơn sơ của hạnh phúc như bà: “Như lúc này anh ở bên em Niềm vui sướng trong em là cĩ thật Như chiếc áo trên tường, như trang sách Như chùm hoa mở cánh giữa hiên nhà ” (Nĩi cùng anh) Mỗi người đi qua cuộc đời dẫu nghèo khĩ hay sang giàu đều cĩ một nơi chốn đi về để an trú nương thân. Dù một túp lều tranh hay dinh cơ ngàn phịng thì mỗi người trong chúng ta đều an hưởng hạnh phúc như nhau, nếu nơi ấy vẫn âm vang tiếng hát của những trái tim yêu thương, nhân ái, chan hịa. Ngược lại, nếu thiếu vắng suối nguồn yêu thương, dẫu cĩ trú ngụ trong một tịa lâu đài nguy nga tráng lệ thì ta cũng chỉ thấy mình lầm lũi trên con đường cát bụi trần ai với những cuộc hành trình đi – về. Vì thế khát vọng về một hạnh phúc, về một tổ ấm thơi thúc suốt hành trình đời và thơ Xuân Quỳnh, nĩ gĩp phần tạo nên hình ảnh 50
  54. về một “mái che” với vơ số những biến thể trong thơ Khơng bao giờ là cuối: mái phố, mái nhà, căn hầm, nhà ga, bầu trời xanh trong “Yêu thương là lịng anh Bao dung là mái phố Trời khi nắng khi mưa Lại nhớ về mái phố Tơi trở về trong mái nhỏ Sau mỗi lần gian nan Dưới mái nhà thầm lặng Nghe nắng trời ngoại ơ ” (Mái phố) Hay: “Em trở lại một mình trên lối- nhớ Giĩ trở lại một mình trên mái phố” (Khơng đề) Mái phố– căn phịng nhỏ của chúng mình – tổ ấm là nơi để con thuyền Xuân Quỳnh neo đậu, tránh giĩ mưa, dơng bão và những đắng đĩt của cuộc đời "Căn phịng con riêng của chúng mình Nước trong phích hoa trong bình gốm cũ" (Nghe rét đến nhớ về Hà Nội) Những câu thơ kia được tốt lên từ một chất thơ mẫn cảm và giàu cĩ hơn ai hết: chất thơ từ tổ ấm! Hiện diện thường trực và phong phú trong cảm thức thơ ca Xuân Quỳnh, tổ ấm là biểu tượng sống động của sự gắn bĩ và chở che. Hồn thơ Xuân Quỳnh cũng bộc lộ rõ nét một nỗi khát vọng vươn tới những phương trời chưa tới, những phương trời xa xơi rộng lớn. Tâm hồn nữ tính tha thiết, say mê yêu thương đã dựa vào khơng gian nghệ thuật để mà thỏa ước vọng vươn tới một bầu xanh bình yên - biểu tượng của những khát khao vươn tới, của tình yêu, sự bình yên, hi vọng. “Bầu trời xanh cả lúc nằm mơ Và hạnh phúc trong bàn tay cĩ thật . 51
  55. Bầu trời đã trở về Cao và xanh biết mấy” (Bầu trời đã trở về) Để thỏa ước vọng đi xa: “Con thuyền mới căng buồm ra biển rộng”, “Con đường đi tới miền chưa cĩ đường”, “Phương trời lạ giĩ vàng cát biển / Con tàu đi quyết liệt giữa mùa đơng”, “Tiếng cịi tàu giục giã chuyến đi xa” 3.3.2 Thời gian nghệ thuật Theo Trần Đình Sử “Thời gian nghệ thuật là phạm trù của hình thức nghệ thuật, thể hiện phương thức tồn tại và triển khai của thế giới nghệ thuật” “Thời gian nghệ thuật là cái thời gian được cảm nhận bằng tâm lý, qua chuỗi liên tục những biến đổi (biến cố) cĩ ý nghĩa thẩm mĩ xảy ra trong thế giới nghệ thuật” [13, tr62]. Cá tính thơ nữ tính riêng biệt của Xuân Quỳnh cĩ được một phần là nhờ sự hỗ trợ của yếu tố thời gian nghệ thuật mà trở nên đầy đặn hình hài. Thời gian trong thi giới Xuân Quỳnh là thời gian của tâm lý, thời gian tâm trạng và xúc cảm, thời gian quá khứ. Nĩ tạo ra chiều sâu cho chất thơ tự biểu hiện. Nĩ soi tỏ hơn nhân sinh quan, thế giới quan và điệu tâm hồn của cái tơi trữ tình trong thơ Xuân Quỳnh - cái tơi của một người phụ nữ . Ta thường gặp trong thơ Xuân Quỳnh sự xáo trộn của dịng chảy thời gian. Năm tháng khơng trơi chảy theo một chiều bất biến như dịng thời gian hiện thực, thời gian vật lí, mà quá khứ, hiện tại và tương lai luơn xáo trộn bất ngờ. Chẳng phải người phụ nữ trong thơ Xuân Quỳnh đi miên man trong cõi vơ thức khơng phân định, mà đĩ chính là lúc con người ý thức sâu sắc nhất về những suy ngẫm, trăn trở tự bản thể. Thời gian cũng mang điệu tâm hồn người. Khát vọng vơ cùng về tình yêu và hạnh phúc đời thường khiến cái tơi Xuân Quỳnh chắt chiu từng khoảnh khắc đời sống, thương nhớ dai dẳng khoảng trời thơ trẻ – quá khứ đã qua: “Quá khứ đáng yêu quá khứ đáng tơn thờ”. Vì thế mà nhịp điệu thời gian trong thơ thường tương đối chậm, nhất là những giây phút nhân vật trữ tình sống đắm chìm với quá khứ. Lúc ấy, dường như tất cả những hình ảnh của quá khứ cứ níu lấy những xúc cảm của người đọc. Ta thấy quá khứ tuổi thơ của thi nhân qua hình ảnh bàn tay chai sần: “Bàn tay em ngĩn chẳng thon dài 52
  56. Vết chai cũ, đường gân xanh vất vả Em đánh chắt chơi chuyền thủa nhỏ Hái rau dền rau rệu nấu canh Tập vá may, tết tĩc một mình Rồi úp mặt lên bàn tay khĩc mẹ” (Bàn tay em) Thời gian – quá khứ hiện về khi trái tim thi sĩ đang buồn, mệt mỏi: “Cửa bệnh viện, ngồi kia là quá khứ Những vui buồn khao khát đã từng qua Nào chỉ đâu những chuyện ngày thơ Con đường gạch ao bèo hoa tím ngắt Những ơ ăn quan, que chuyền, bài hát Những mùa hè chân đất, tĩc râu ngơ” (Thời gian trắng) Đọc những câu thơ trên, chẳng ai là khơng xúc động. Cĩ lẽ viết về quá khứ, nhất là quá khứ về tuổi thơ Xuân Quỳnh khơng thể che giấu được tâm trạng của mình. Quá khứ như ngọn lửa bùng lên, lan ra miên man trong dịng suy tưởng của thi sĩ. Vì thế dù là quá khứ nhưng mọi việc dường như cứ đang hiển hiện trước mắt vậy. Viết về những nhớ nhung, những đắng đĩt ở đời nhịp thời gian trong thơ Xuân Quỳnh dường như ngưng đọng. Nhưng khi viết về những điều hạnh phúc thì nhịp thời gian trơi đi rất nhanh: “Đã mùa hoa cúc vàng Lại một năm sắp hết Thế là ba cái Tết Hai chúng mình cĩ nhau Dù chưa phải là lâu Nhưng cũng khơng ngắn ngủi Hạnh phúc tính bằng năm Cây tính bằng mùa trái” (Đêm cuối năm) 53
  57. Những câu thơ trên khơng nhiều nhưng cũng đủ cho ta thấy: thời gian nhanh hay chậm đều gắn với tâm trạng của nhân vật trữ tình. Vì tâm trạng của nhân vật mà thời gian thay đồi: nhanh – chậm, Ngược lại cũng chính nhờ thời gian mà tâm trạng của nhân vật càng thêm sáng rõ. Thật đúng khi nĩi: Thời gian trong thế giới nghệ thuật soi chiếu những biến động nhiều cung bậc của nội tâm con người. Cái tơi trữ tình của Xuân Quỳnh càng âu lo, phấp phỏng về sự nhạt phai hạnh phúc bao nhiêu, tốc độ trơi chảy của thời gian càng tăng bấy nhiên. “Qua khứ em khơng chỉ ngày xưa Mà ngay cả hơm nay thành quá khứ Quá khứ của em ở ngồi cánh cửa Lúc anh đến, anh đi thành quá khứ” (Thời gian trắng) Cái tơi trữ tình lo âu bị ám ảnh bởi nỗi lo và cái chết. Nhưng dù cĩ chết cái tơi trữ tình ấy vẫn tự hát mà khẳng định rằng: “Nhưng biết yêu anh cả khi chết đi rồi” (Tự hát). Và khi đĩ thời gian trở nên bất lực trước tình yêu và khát vọng: “Chẳng cĩ thời gian, chẳng cĩ khơng gian Chỉ tuổi trẻ, chỉ tình yêu vĩnh viễn” (Thơ tình cho bạn trẻ) Thời gian nghệ thuật khơng phải là yếu tố duy nhất để thể hiện diễn biến tâm tư tình cảm, nỗi lịng của nhân vật trữ tình nhưng nĩ là yếu tố hữu hiệu. Thời gian gấp rút, giục giã hay chậm chạm đều gĩp phần bộc lộ tâm trạng nhân vật. Thơ Xuân quỳnh rất giàu tâm trạng, tất cả những gì được nĩi đến trong thơ bà đều chứa chan cảm xúc: từ gĩc phố, căn phịng đến những miền đất đi qua, đến những sự vật nhỏ bé, tưởng chừng như vơ tri vơ giác: hạt cát, ngọn cỏ Chúng ta cảm nhận tất cả những tâm trạng, cảm xúc thơ ấy khơng chỉ trên bề mặt câu thơ qua từ ngữ, hình ảnh mà cịn phải cảm nhận cả ở yếu tố thời gian nghệ thuật của thơ. Nĩi cụ thể hơn, yếu tố thời gian– nhịp độ thời gian sẽ giúp chúng ta hiểu được những tầng cảm xúc cịn ẩn sâu trong những trang thơ của Xuân Quỳnh. 54
  58. KẾT LUẬN Xuân Quỳnh được xem là nhà thơ nữ hàng đầu của thi đàn Việt Nam nửa cuối thế kỉ XX, khơng chỉ bởi số lượng và giá trị của những tác phẩm nữ sĩ để lại, mà cịn bởi cái chất nữ tính thiêng liêng ơm tỏa lên mạch nguồn thơ bà. Từ tập thơ trong trẻo đầu tay – Chồi biếc (1963), đến những tập thơ tiếp theo Hoa dọc chiến hào (1968), Giĩ Lào cát trắng (1974), Sân ga chiều em đi (1982), Hoa cỏ may (1988), Xuân Quỳnh viết như để tình tự về chính cuộc đời mình, về những gì thân thuộc của đời sống hằng ngày. Giữa đời thường, Xuân Quỳnh là người phụ nữ đam mê sống, đam mê yêu, đam mê trong các thiên chức của một người phụ nữ. Cái bĩng ấy đã đổ vào mỗi trang viết của bà, thầm lặng mà lăn dài suốt cả hành trình thơ. Tiếng thơ đầy nữ tính của Xuân Quỳnh là sự hội tụ của thiên tính tự nhiên và ý thức phái tính của một người phụ nữ hiện đại mà vẫn bảo lưu được những giá trị truyền thống. Người phụ nữ hát khúc du ca về tình yêu và hạnh phúc đời thường ấy cứ hồn nhiên lặn ngụp vào thơ để giải bày, khao khát mà khơng hề biết bản năng của người phụ nữ đang dẫn đường cho chị. Yếu tố nữ tính trở thành điểm sáng lung linh nhất, thuần khiết nhất trong đời thơ Xuân Quỳnh như một lẽ tự nhiên, tất yếu. Cĩ một cái tơi Xuân Quỳnh mang nỗi thao thức, lo âu đầy đa cảm của một người đàn bà trong cõi thơ. Cịn cĩ ở đĩ một cái tơi Xuân Quỳnh đắm đuối, nồng nàn, da diết và đơn hậu vơ cùng trong tình yêu. Bao nhiêu cung bậc cảm xúc, nghĩ suy của những cơ gái khi đứng trước nguồn yêu được Xuân Quỳnh giải bày nhỏ nhẹ mà đằm sâu trong trang viết. Cĩ gì đâu, Xuân Quỳnh khơng viết hộ người khác. Nữ sĩ viết bằng những trải nghiệm của chính con tim mình, bằng những chiêm nghiệm triết lí của người người đàn bà đã đi qua vùng đất thiêng của tình yêu. Lấy tổ ấm làm tiêu điểm để nhìn cuộc sống, thơ Xuân Quỳnh đốt cháy lên cái khát vọng vĩnh hằng của bao người phụ nữ trong cõi đời – khát vọng được chở che và gắn bĩ. Cái tơi trữ tình trong thế giới thơ Xuân Quỳnh ấp iu, cẩn trọng gìn giữ đến nơm nớp, khắc khoải cái hạnh phúc của tổ ấm gia đình trong vai trị của người vợ, người mẹ. 55
  59. Xuân Quỳnh cĩ một bản lĩnh nghệ thuật thơ khá vững vàng. Bản lĩnh ấy kết tinh từ thiên bẩm tài hoa, vốn sống dày dạn và niềm đam mê khơng cùng với thi ca. Song chúng tơi lại cảm thấy phẩm chất nghệ thuật trong thơ Quỳnh cịn được nuơi nấng từ yếu tố nội tại tự nhiên – thiên tính nữ. Chất thơ nữ tính của Xuân Quỳnh hiện diện ngay trong bề sâu cấu trúc và các yếu tố nghệ thuật. “Dải phổ giọng điệu” trong thơ Quỳnh là sự thống nhất giữa chất giọng đằm thắm, hồn nhiên chân thành, sơi nổi, tha thiết, để cuối cùng hướng về giọng điệu phổ quát đậm chất nữ tính say mê. Ngay cả ngơn ngữ được nữ sĩ chắt lọc cũng phảng phất chất tình tự, phức cảm thường cĩ ở cõi lịng của người phụ nữ. Chúng tơi cứ nhớ đến lời thơ của Phùng Quán khi nghĩ đến Xuân Quỳnh: “Cĩ những phút ngã lịng – Tơi vịn câu thơ mà đứng dậy” . Người đàn bà ấy đã nương vào thơ mà đi qua bão giơng cuộc đời. Rồi biết bao người đàn bà khác đọc thơ Xuân Quỳnh mà tìm thấy chính mình, tìm thấy cõi tin yêu, mà ngấm sâu cái lẽ sống tận hiến cao đẹp. Phải chăng mỗi người phụ nữ trong đời sẽ mãi như cánh chuồn báo bão mềm mại, bé bỏng bay về hướng sự sống hiện hữu, bất chấp giĩ, bất chấp mưa 56
  60. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nguyễn Thị Dư Khánh (1995), Phân tích tác phẩm văn học dưới gĩc độ thi pháp, NXB Giáo dục, Hà Nội 2. Lê Đình Kỵ (1964), “Tơ Tằm và chồi biếc”, NCVH, số 1 3. Vân Long sưu tầm và tuyển chọn (2011), Xuân Quỳnh thơ và đời, NXB Văn học, Hà Nội 4. Nguyễn Thị Đơng Mai (1993), Xuân Quỳnh – Một nửa cuộc đời tơi (hồi kí), NXB KHXH, Hà Nội 5. Nguyễn Đăng Mạnh (1994), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn, NXB Giáo dục, Hà Nội 6. Chu Nga (1973), “Xuân Quỳnh – Một chồi thơ sắc biếc”, TCVH, số 1 7. Vương Trí Nhàn – Phạm Tiến Duật (1985), “Cảm xúc về thời gian – ý thức về hạnh phúc” (“Trao đổi về thơ Xuân Quỳnh”), TCVN, số 9 8. Vương Trí Nhàn (1993), Xuân Quỳnh và những buồn vui của kiếp hoa dại (Những kiếp hoa dại), NXB Hội Nhà văn, Hà Nội 9. Vương Trí Nhàn (2008), “Đời và thơ Xuân Quỳnh”, blog cá nhân: 10. Vương Trí Nhàn (2008), “Cuộc đời để lại trong thơ”, blog cá nhân: th.html 11. Xuân Quỳnh (2011), Khơng bao giờ là cuối, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội 12. Chu Văn Sơn (1993), “Xuân Quỳnh – cánh chuồn trong giơng bão”, TCVH, số 11 13. Trần Đình Sử (2002), Thi pháp học hiện đại, NXB ĐHQG, Hà Nội 14. Nguyễn Thị Minh Thái (1991), “Xuân Quỳnh – Một giọng thơ tình ám ảnh”, Tạp chí Hành trang tri thức, 11/1991 15. Lưu Khánh Thơ (1995), Cảm nhận về thơ Xuân Quỳnh, Xuân Quỳnh – thơ và đời, NXB Văn hĩa, Hà Nội 16. Nguyễn Anh Vũ biên soạn (2012), Xuân Quỳnh tác phẩm và lời bình, NXB Văn học, Hà Nội 57