Khóa luận Tính chất đạo lý trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm

pdf 64 trang thiennha21 16/04/2022 6670
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Tính chất đạo lý trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfkhoa_luan_tinh_chat_dao_ly_trong_tho_nguyen_binh_khiem.pdf

Nội dung text: Khóa luận Tính chất đạo lý trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm

  1. TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA NGỮ VĂN LƢƠNG THỊ MAI TÍNH CHẤT ĐẠO LÝ TRONG THƠ NGUYỄN BỈNH KHIÊM KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Văn học Việt Nam HÀ NỘI – 2016
  2. TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA NGỮ VĂN LƢƠNG THỊ MAI TÍNH CHẤT ĐẠO LÝ TRONG THƠ NGUYỄN BỈNH KHIÊM KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Ngƣời hƣớng dẫn khoa học TS. NGUYỄN THỊ TÍNH HÀ NỘI – 2016
  3. LỜI CẢM ƠN Trong quá trình nghiên cứu đề tài: Tính chất đạo lý trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm, tôi đã nhận đƣợc sự giúp đỡ của các thầy cô trong tổ bộ môn Văn học Việt Nam Trƣờng ĐHSP Hà Nội 2. Tác giả Khóa luận xin gửi tới các thầy cô lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất, đặc biệt là cô giáo, TS. Nguyễn Thị Tính, đã tận tình giúp đỡ tôi hoàn thành khóa luận này. Hà Nội, tháng 05 năm 2016 Tác giả khóa luận Lƣơng Thị Mai
  4. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan những nội dung mà tôi trình bày trong khóa luận này là kết quả của quá trình nghiên cứu của bản thân tôi dƣới sự hƣớng dẫn của các thầy cô trong Tổ bộ môn Văn học Việt Nam và sự hƣớng dẫn trực tiếp, nhiệt tình của cô giáo, TS. Nguyễn Thị Tính. Những nội dung này chƣa đƣợc công bố trong bất kì công trình nghiên cứu nào khác. Hà Nội, tháng 05 năm 2016 Tác giả khóa luận Lƣơng Thị Mai
  5. MỤC LỤC LỜI CẢM ƠN LỜI CAM ĐOAN MỞ ĐẦU 1 1. Lý do chọn đề tài 1 2. Lịch sử vấn đề 1 3. Mục đích nghiên cứu 4 4. Nhiệm vụ nghiên cứu 4 5. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu 4 6. Phƣơng pháp nghiên cứu 4 7. Đóng góp của khóa luận 5 8. Bố cục của khóa luận 5 CHƢƠNG 1 GIỚI THUYẾT VỀ CẢM HỨNG ĐẠO LÝ VÀ TIỀN ĐỀ CỦA CẢM HỨNG ĐẠO LÝ TRONG THƠ NGUYỄN BỈNH KHIÊM 6 1.1 Giới thuyết về cảm hứng đạo lý 6 1.2 Tiền đề của cảm hứng đạo lý trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm 8 1.2.1 Hoàn cảnh lịch sử thế kỷ XVI 8 1.2.1.1 Tình hình xã hội 8 1.2.1.2 Tình hình kinh tế 9 1.2.1.3 Tình hình văn hóa tƣởng 10 1.2.2 Cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Bỉnh Khiêm 11 1.2.2.1 Cuộc đời của Nguyễn Bỉnh Khiêm 11 1.2.2.2 Sự nghiệp của Nguyễn Bỉnh Khiêm 14 CHƢƠNG 2 ĐẠO LÝ TRONG THƠ NGUYỄN BỈNH KHIÊM 16 2.1 Sự suy đồi đạo lý 16
  6. 2.1.1 Sự suy loạn của đạo lý theo tƣ tƣởng Nho giáo 16 2.1.2 Sự suy loạn của đạo lý theo truyền thống dân tộc 25 2.2 Khát vọng giới thuyết và răn dạy đạo lý 29 2.3 Lý tƣởng sống nhàn để giữ gìn phẩm giá 34 KẾT LUẬN 56 TÀI LIỆU THAM KHẢO
  7. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585) là một nhà thơ lớn của văn học trung đại Việt Nam. Tài năng và nhân cách của ông có ảnh hƣởng mạnh mẽ đến gần suốt thế kỷ XVI- thế kỷ có nhiều biến động chính trị lớn. Ông là một chính khách có uy tín, một bậc hiền triết, một nhà tiên tri, một ngƣời thầy, ngƣời mà các vua chúa đƣơng thời kính nể tôn làm bậc phu tử. Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm luôn đƣợc các bậc thức giả, các nhà khoa học tôn vinh và đánh giá cao. Thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm là sự kết hợp từ chiều sâu chất trí tuệ và thơ ca. Những kiến thức sâu sắc về triết lý phƣơng Đông từ trong ngọn nguồn của Kinh sách kết hợp với triết lý của cuộc đời nhiều trải nghiệm của một thi nhân, một ngƣời hành đạo đã đem lại cho Nguyễn Bỉnh Khiêm tầm vóc của một nhà thơ lớn của thời đại. Chọn đề tài Tính chất đạo lý trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm chúng tôi mong muốn đƣợc tìm hiểu, đƣợc học hỏi tài năng văn chƣơng và nhân cách lịch sử của nhà thơ lớn thế kỷ XVI. Đồng thời hy vọng đề tài sẽ góp phần soi sáng phƣơng diện đạo lý trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm. Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm có một vị trí quan trọng trong chƣơng trình phổ thông, cao đẳng, đại học. Do đó đề tài này còn góp phần đem đến những hiểu biết về tính chất đạo lý trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm giúp cho việc học tập, giảng dạy các sáng tác của ông có hiệu quả hơn. 2. Lịch sử vấn đề Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhà thơ lớn của văn học dân tộc thế kỷ XVI. Nhiều công trình nghiên cứu cho thấy những thành công trong nội dung và nghệ thuật thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm. 1
  8. Về tác giả Nguyễn Bỉnh Khiêm, việc tìm hiểu, nghiên cứu cuộc đời và thơ văn của ông đã đƣợc các môn sinh của ông thực hiện ở ngay thế kỉ XVI, thế kỷ XVIII thì có Vũ Khâm Lân, Lê Quý Đôn, Bùi Huy Bích. Đến thế kỷ XIX, Phan Huy Chú đã ghi chép và chú giải công phu trong các công trình khảo cứu của ông. Trải qua hàng trăm năm, công việc này vẫn đƣợc các thế hệ đi sau tiếp tục và có những thành tựu nhất định. Qua tìm hiểu tôi thấy có một số bài viết liên quan đến đề tài Nguyễn Bỉnh Khiêm nói chung và tính chất đạo lý trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm nói riêng: Năm 1945, Chu Thiên đã cho ra đời quyển cuốn sách Tuyết Giang phu tử, đây đƣợc coi là tác phẩm đầu tiên nghiên cứu một cách công phu và khá tỉ mỉ mọi mặt trong cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Bỉnh Khiêm nhƣ: hoàn cảnh, xã hội, thân thế và đời sống của Trạng Trình, giá trị nội dung và nghệ thuật trong sáng tác của ông, cũng nhƣ những giai thoại của nhà thơ. Năm 1957, Lê Trọng Khánh và Lê Anh Trà đã cho ra đời 1 tập chuyên luận có chiều sâu: Nguyễn Bỉnh Khiêm- Nhà thơ triết lý (nhà xuất bản Văn hóa), đây là một công trình nghiên cứu dài hơi và có nhiều ý tƣởng mới. Cuốn sách đã đề cập một cách sâu sắc đến nhiều vấn đề cốt yếu trong tƣ tƣởng và nghệ thuật của Nguyễn Bỉnh Khiêm bằng một cái nhìn toàn diện và không bị ràng buộc trong những quan điểm cứng nhắc mà các công trình khác thƣờng vấp phải. Và một trong những chuyên gia hàng đầu về Nguyễn Bỉnh Khiêm, phải kể đến Bùi Văn Nguyên ông là tác giả của những chƣơng viết về Nguyễn Bỉnh Khiêm trong các bộ giáo trình lịch sử văn học Việt Nam trung đại, bên cạnh đó ông cũng công bố nhiều công trình riêng về tác giả này. Đặc biệt là công trình: văn chƣơng Nguyễn Bỉnh Khiêm, đó có thể xem là sự kết tinh của ngƣời viết trong nhiều năm nghiền ngẫm về Nguyễn Bỉnh Khiêm- nhà thơ lớn của dân tộc. 2
  9. Bài viết: Nguyễn Bỉnh Khiêm- cây đại thụ văn hóa dân tộc thế kỷ XVI PGS_TS. Nguyễn Hữu Sơn. Bài viết đã cho chúng ta thấy một Nguyễn Bỉnh Khiêm một tấm lòng lo cho nƣớc cho dân. Tác giả đã phân tích những bài thơ tiêu biểu của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Từ đó đƣa ra sự đánh giá về sự đảo điên đạo lý, xã hội loạn lạc, nhân dân đói khổ trong khi giai cấp phong kiến thiếu trách nhiệm chỉ nghĩ đến quyền lợi của riêng mình. Không chỉ vậy tác giả Nguyễn Hữu Sơn cũng đã nêu khái quát hoàn cảnh mà Nguyễn Bỉnh Khiêm sống đó là tiền đề của vấn đề đạo lý trong thơ ông. Nhƣng tác giả chƣa nêu ra cụ thể các khía cạnh đạo lý trong thơ ông. Cuốn sách Nguyễn Bỉnh Khiêm về tác gia và tác phẩm của Trần Thị Băng Thanh và Vũ Thanh tuyển chọn và giới thiệu, cuốn sách gẩn 700 trang là tập hợp các bài viết nghiên cứu chuyên sâu về Nguyễn bỉnh Khiêm ở cả ba phần: tác giả, thơ chữ Hán, thơ chữ Nôm. Trong đó các tác giả đã ít nhiều đề cập đến vấn đề Đạo lý trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm. Tuy nhiên, các tác giả chƣa đi sâu phân tích một cách cụ thể nội dung đạo lý trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm để thấy đƣợc ảnh hƣởng của ông với xã hội đƣơng thời. Đề tài nghiên cứu Học thuyết chính trị- xã hội của Nho giáo và sự thể hiện của nó ở Việt Nam từ thế kỷ XI đến nửa đầu thế kỷ XIX của Nguyễn Thanh Bình đã đề cập đến chuẩn mực đạo đức, đạo lý nhƣng khai thác dƣới góc độ chính trị, xã hội của con ngƣời Việt Nam từ thế kỷ XI đến nửa đầu thế kỷ XIX. Qua đó ta có thể thấy rằng đề tài về Nguyễn Bỉnh Khiêm và sự nghiệp thơ ca của ông đã đƣợc nhiều nhà nghiên cứu tìm hiểu, phân tích một cách sâu sắc. Nhƣng đề tài Tính chất đạo lý trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng đã có ngƣời nghiên cứu nhƣng tôi thấy rằng chƣa có công trình khoa học lớn nào phân tích kĩ lƣỡng về đề tài đó. Đó chính là lí do tôi chọn đề tài Đạo lý trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm để làm khóa luận tốt nghiệp. 3
  10. 3. Mục đích nghiên cứu - Đề tài cho thấy cái nhìn cụ thể về tính chất đạo lý trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm. - Giúp cho ngƣời đọc tiếp cận dễ dàng hơn thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm dƣới góc độ đạo lý. - Giúp cho việc nghiên cứu các tác phẩm của Nguyễn Bỉnh Khiêm trong nhà trƣờng phổ thông trên tinh thần đạo lý có hiệu quả hơn. 4. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt đƣợc mục đích trên, khóa luận phải giải quyết một số nhiệm vụ cơ bản sau: - Tìm hiểu chung về cảm hứng đạo lý, tiền đề của cảm hứng đạo lý trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm - Phân tích những khía cạnh xung quanh vấn đề đạolý (nỗi đau về sự suy đồi đạo lý; khát vọng giới thuyết răn dạy đạo lý; lý tƣởng sống nhàn để giữ gìn phẩm giá) trong các bài thơ chữ Hán và chữ Nôm - Phân tích đƣợc các tác phẩm của Nguyễn Bỉnh Khiêm trong nhà trƣờng phổ thông trên tinh thần đạo lý. 5. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu Đối tƣợng nghiên cứu: là các bài thơ ( cả chữ Nôm và chữ Hán) của Nguyễn Bỉnh Khiêm đã đƣợc in đăng và thừa nhận có liên quan đến đề tài. Phạm vi nghiên cứu: Chỉ nghiên cứu một mặt nội dung thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm đó là tính chất đạo lý (bao gồm nỗi đau về sự suy đồi đạo lý, khát vọng giới thuyết răn dạy đạo lý và lý tƣởng sống nhàn để giữ gìn phẩm giá). 6. Phƣơng pháp nghiên cứu Sử dụng một số phƣơng pháp sau: - Phƣơng pháp tiếp cận hệ thống - Phƣơng pháp so sánh - Phân tích, đánh giá, tổng hợp 4
  11. 7. Đóng góp của khóa luận Từ góc độ đạo lý, khóa luận đã làm sáng tỏ đƣợc con ngƣời, nhân cách của Nguyễn Bỉnh Khiêm- một con ngƣời giàu lòng nhân ái, sống hết mình vì nƣớc vì dân, một con ngƣời coi thƣờng danh lợi, tiền tài, con ngƣời luôn coi đạo lý làm ngƣời làm chuẩn mực, làm lý tƣởng cho bản thân. 8. Bố cục của khóa luận MỞ ĐẦU NỘI DUNG Chƣơng 1: Giới thuyết về cảm hứng đạo lý và tiền đề của cảm hứng đạo lý trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm Chƣơng 2: Đạo lý trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm KẾT LUẬN TÀI LIỆU THAM KHẢO 5
  12. CHƢƠNG 1 GIỚI THUYẾT VỀ CẢM HỨNG ĐẠO LÝ VÀ TIỀN ĐỀ CỦA CẢM HỨNG ĐẠO LÝ TRONG THƠ NGUYỄN BỈNH KHIÊM 1.1 Giới thuyết về cảm hứng đạo lý Theo Từ điển Tiếng Việt nhà xuất bản Khoa học Xã hội, năm 1988: “Cảm hứng là trạng thái tâm lý đặc biệt khi sức chú ý đƣợc tập trung cao độ kết hợp với cảm xúc mãnh liệt tạo điều kiện để óc tƣởng tƣợng sáng tạo,hoạt động có hiệu quả” [tr. 123]. Nói cách khác, cảm hứng là tâm trạng, là cảm xúc đặc biệt của ngƣời nghệ sĩ Trong Lí luận văn học, Phƣơng Lựu có trích dẫn ý kiến của Nguyễn Quýnh rất tiêu biểu: “ngƣời làm thơ không thể không có hứng, cũng giống nhƣ tạo hóa không thể không có gió vậy tâm ngƣời ta nhƣ chuông nhƣ trống, hứng nhƣ chày và dùi. Hai thứ đó gõ, đánh vào chuông trống khiến chúng phát ra tiếng ; hứng đến khiến ngƣời ta bật ra thơ cũng tƣơng tự nhƣ vậy”, [16;210]. Theo Dẫn luận nghiên cứu văn học của Pespelov: Cảm hứng (nói chung) là sự lý giải đánh giá sâu sắc và chân thực- lịch sử đối với các vấn đề đƣợc miêu tả đƣợc nảy sinh từ ý nghĩa khách quan của các tính cách, vấn đề của cuộc sống (Pespelov) Pospelov cũng chỉ rõ: Từ cảm hứng đƣợc dùng để chỉ trạng thái cao độ của nhà văn do việc chiếm lĩnh đƣợc bản chất của cuộc sống mà họ miêu tả. Tác giả còn chia cảm hứng ra thành nhiều loại: anh hùng, kịch tính, bi kịch, châm biếm, hài hƣớc, thƣơng cảm, lãng mạn. Song ông còn nói thêm: cảm hứng trong tác phẩm văn học cũng bộc lộ một số biến thể. Điều đó có nghĩa là 6
  13. trong tác phẩm văn học có sự giao thoa và đan xen của một vài hoặc nhiều cảm hứng khác nhau tạo nên giọng điệu riêng phong phú cho tác phẩm. Nhƣ vậy cả hai quan niệm trên đều thống nhất ở chỗ: Cảm hứng là trạng thái tâm lý đặc biệt của ngƣời nghệ sĩ khi sức chú ý đƣợc tập trung cao độ để đánh giá sâu sắc và chân thực- lịch sử đối với các vấn đề hiện thực của khách quan đƣợc miêu tả. Cảm hứng là cái quan trọng quy định nhà văn trong việc tạo ra tác phẩm. Hiện thực khách quan chỉ đi vào tác phẩm khi ngƣời nghệ sĩ nắm bắt chính xác sâu sắc hiện thực và cảm hứng sáng tạo. Cảm hứng ở mỗi nhà văn khác nhau. Ở cùng một tác phẩm loại cảm hứng này cũng bộc lộ sự không giống nhau. Đó là những biến thể của cảm hứng chung này. Cảm hứng có thể chia ra làm nhiều loại: cảm hứng yêu nƣớc, cảm hứng nhân đạo Mỗi thời đại có một cảm hứng riêng. Nhƣng có thể nói cảm hứng đạo lý là cảm hứng mà thời đại lịch sử nào cũng có, nền văn học nào cũng có từ văn học dân gian, văn học trung đại cho đến văn học hiện đại. Đạo lý (ở đây chúng ta tìm hiểu về đạo làm ngƣời) đƣợc hiểu là nguyên tắc chính trị, là quy phạm đạo đức và luân lý là đạo lý trị quốc và xử thế của con ngƣời. Nói cách khác đạo lý đƣợc hiểu là nguyên tắc đạo đức mà con ngƣời có bổn phận gìn giữ và tuân theo trong đời sống. Đó là nhân sinh quan, quan niệm sống trong sạch, thuận theo lẽ phải. Một ngƣời sống có đạo lý là cơ sở để thực hiện tốt quan hệ trong quan hệ với tự nhiên, trong ứng xử xã hội và ứng xử với chính bản thân mình theo danh phận. Đạo lý làm ngƣời đƣợc thể hiện qua các mối quan hệ: quan hệ của con ngƣời với chính bản thân mình và quan hệ của con ngƣời với ngƣời khác (với xã hội). 7
  14. 1.2 Tiền đề của cảm hứng đạo lý trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm 1.2.1 Hoàn cảnh lịch sử thế kỷ XVI 1.2.1.1 Tình hình xã hội Xã hội Việt Nam nửa sau thế kỷ XV và thế kỷ XVI có những biến động về chính trị, về xã hội cũng nhƣ về kinh tế đã ảnh hƣởng sâu sắc đến tình cảm, đến tƣ tƣởng và thái độ xuất xử của Nguyễn Bỉnh khiêm. Đầu thế kỷ XVI, nhà nƣớc tập quyền phong kiến Lê Sơ bƣớc vào thời kỳ suy thoái. Trong triều đình, các phe phái tranh giành quyền lực, các đời vua nối tiếp nhau trụy lạc, không để ý đến chính sự, bỏ mặc cho hoạn quan ngoại thích. Ngƣời ngay thẳng, trung thực bỏ trốn, thuế má tăng lên bạo ngƣợc hoành hành, đối đãi với công thần thì nhƣ chó ngựa, coi dân chúng thì nhƣ cỏ rác Thêm vào đó bộ máy nhà nƣớc Lê Sơ cồng kềnh, nặng về mặt hành chính, lúc thịnh nó góp phần ổn định xã hội, khi xã hội suy thoái nó tạo ra sự đối lập giữa nhà nƣớc và xã hội. vì vậy đã nổi lên rất nhiều cuộc đấu tranh khởi nghĩa của nông dân. Mặc dù bị thất bại nhƣng nó cũng làm cho nhà nƣớc Lê Sơ ngày càng suy yếu và đi đến tan rã. Nhân cơ hội triều đình đang rối ren đối phó với các cuộc khởi nghĩa, Mạc Đăng Dung – một võ quan nhà Lê lợi dụng leo lên chức tể tƣớng, đƣa dòng họ Mạc nắm giữ những chức vụ quan trọng. Cuối cùng, giết Lê Chiêu Tông (1526), bắt hoàng đế nhƣờng ngôi cho mình vào năm 1527, kết thúc 100 năm thống trị của nhà nƣớc Lê Sơ. Dƣới thời nhà Mạc thống trị, các công thần của triều Lê Sơ không ủng hộ. Nhiều nhà nho, sĩ phu khoa bảng cho rằng tôi trung không thờ hai chúa (trung thần bất sự nhị quân). Họ phản đối nhà Mạc trong một thế chêng vênh nên tìm cách hòa hoãn với nhà Minh bên Trung Quốc. Tuy nhiên, nhà Mạc vẫn tiếp tục mở những khoa thi để đào tạo ra lớp quan lại cho mình. Mạc Đăng Dung lên ngôi không đƣợc bao lâu, một tập đoàn phong kiến khác lấy 8
  15. danh nghĩa là “phù Lê diệt Mạc” tập hợp lực lƣợng nổi dậy ở Thanh Hóa, lập nên triều đình mới gọi là Lê Trung Hƣng. Một cuộc xung đột giữa các phe phái phong kiến xảy ra và hệ quả của nó là đất nƣớc nảy sinh hai chính quyền là “Bắc triều – chính quyền họ Mạc” và “Nam triều – chính quyền họ Trịnh”. Trong khoảng gần 50 năm (1546- 1592), hai bên Nam – Bắc triều đánh nhau 38 trận chiến lớn nhỏ. Cuối cùng Nam triều đã thắng Bắc triều vào năm 1592. Ngay khi cục diện Nam Bắc triều chƣa chấm dứt thì một cục diện khác quyết liệt hơn, lâu dài hơn đã xuất hiện ngay trong lòng Nam triều - Bắc triều: cục diện Trịnh – Nguyễn phân tranh. Tuy nhiên, hai tập đoàn phong kiến Trịnh, Nguyễn không thôn tính đƣợc nhau, phải đình chiến lấy sông Gianh làm giới tuyến, phía bắc thuộc họ Trịnh gọi là Đàng Ngoài, phía nam thuộc họ Nguyễn gọi là Đàng Trong. Sự đứt gãy của các chính quyền phong kiến và sự phân chia phạm vi thống trị của các tập đoàn Mạc, Trịnh, Nguyễn là nét nổi bật trong tình hình chính trị. Nhƣng các nhà nƣớc phong kiến Đàng Ngoài và Đàng Trong đều theo mô hình cũ từ thời Lê Sơ, càng về sau các nƣớc đó càng trở thành lực cản cho sự phát triển xã hội. 1.2.1.2 Tình hình kinh tế Mạc Đăng Dung đƣa ra một số quy chế về ruộng đất bao gồm: binh điền, lộc điền, quân điền, dựa trên các quy chế đã có từ thời Hồng Đức ( Lê Thánh Tông) hay việc cho đúc tiền Thông Bảo. Thời kỳ Mạc Đăng Doanh trị vì có thể coi là thời kỳ đỉnh cao của nhà Mạc. Lúc đó nhà Lê chƣa trung hƣng, toàn cõi do nhà Mạc cai quản, cảnh thịnh trị đƣợc các sử gia nhà Lê ghi nhận: đêm ngủ không đóng cửa, ngoài đường không ai nhặt của rơi. Nhƣng từ khi Nguyễn Kim nổi dậy, chiến tranh 9
  16. nổ ra, đất nƣớc bị tàn phá, kinh tế bị ảnh hƣởng nghiêm trọng làm cho đời sống của nhân dân trở nên đói nghèo hơn. Tuy nhiên, nhìn tổng thể, nhà Mạc có tƣ duy kinh tế rất cởi mở, sớm nhìn thấy xu thế tiến bộ của thủ công nghiệp, thƣơng mại và kinh tế hàng hóa; điều đó khác hẳn với chính sách bảo thủ của nhà Lê. Nhà Mạc cai trị trong vòng 65 năm đã đƣa vùng đông bắc giàu lên mạnh mẽ, về ngoại thƣơng đã vƣơn tới thị trƣờng các nƣớc châu Á. Mặt khác, kinh tế vẫn chủ yếu dựa vào nông nghiệp theo phƣơng thức tiểu nông, tàn dƣ của phƣơng thức sản xuất Á Đông cùng chế độ gia trƣởng của nền kinh tế manh mún, khiến mầm mống tƣ bản chủ nghĩa chớm nảy sinh đã không phát triển đƣợc. Nhà Mạc khi mới lên chiếm cứ đƣợc miền đồng bằng Bắc bộ khá sầm uất rất thuận lợi cho sự phát triển nông nghiệp, thủ công nghiệp và thƣơng nghiệp. Nhà Mạc bằng chính sách của mình đã khuyến khích ruộng đất tƣ phát triển, Mạc Đăng Doanh "giữ pháp độ, cấm hà khắc tàn bạo, ít việc tạp dịch, nhẹ thuế khóa " đã tạo ra một thập kỷ "trị bình" tạo điều kiện cho nông nghiệp phát triển. Thủ công nghiệp rất phát triển với nghề gốm sứ 1.2.1.3 Tình hình văn hóa tƣởng Nho giáo vẫn là công cụ chính của các tập đoàn phong kiến sử dụng để xây dựng chính quyền và củng cố trật tự xã hội. Các triều đại phong kiến nối tiếp nhau liên tục mở những khoa thi nhằm tuyển mộ ngƣời tài phục vụ cho cuộc chiến tranh giành quyền lực. Mặc dù càng về sau giai đoạn này, thi cử càng trở nên hình thức. Nhƣng trong số Nho sĩ vẫn có những ngƣời thực sự có tài nhƣ: Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phùng Khắc Khoan, Lê Quý Đôn, Lê Hữu Trác, Ngô Thì Nhậm với mong muốn dùng học vấn đƣa xã hội thoát khỏi khủng hoảng, mang đến cho nhân dân cuộc sống ấm no hạnh phúc. Đây là điều kiện để cho các tính chất đạo lý trong Nho giáo phát triển và có những bƣớc tiến mới tiến bộ hơn. 10
  17. Các nhà Nho thế kỷ XVI-XVII phải đối diện với một đất nƣớc triền miên trong loạn lạc, trong các cuộc đấu tranh huynh đệ tƣơng tàn sự chia cắt của non sông. Cục diện đó đã khiến cho suy tƣ của họ tập trung vào vấn đề làm sao cho đất nƣớc trở về một mối, làm sao cho xã hội đƣợc hòa bình, nhân dân đƣợc an vui. Từ đó họ để tâm đi tìm cách giải thích nguồn gốc của loạn lạc và đƣa ra những chủ trƣơng những đƣờng lối trị nƣớc của mình. Nhƣng trong hoàn cảnh triều đình đƣơng thời vẫn củng cố quyền lực của họ bằng bất cứ biện pháp nào nên chủ trƣơng trị nƣớc bằng nhân nghĩa của nhà Nho chỉ dừng lại là những dự định, những tâm tƣ nguyện vọng và mong muốn chủ quan của mỗi nhà Nho chứ không đƣợc thực hiện để trị nƣớc. 1.2.2 Cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Bỉnh Khiêm 1.2.2.1 Cuộc đời của Nguyễn Bỉnh Khiêm Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585), ngoài tên Nguyễn Bỉnh Khiêm còn có tên là Nguyễn Văn Đạt, tên tự là Hanh Phủ, hiệu là Bạch Vân cƣ sĩ, ngƣời làng Trung Am, huyện Vĩnh Lại, Hải Dƣơng (nay là xã Lý Học, huyện Vĩnh Bảo, tỉnh Hải Phòng). Nguyễn Bỉnh Khiêm đƣợc các môn sinh tôn là Tuyết Giang phu tử, là một trong những nhân vật có ảnh hƣởng nhất trong lịch sử cũng nhƣ văn hóa Việt Nam trong thế kỷ XVI. Ông đƣợc biết đến nhiều vì tƣ cách đạo đức tài thơ văn của một nhà giáo có tiếng thời kỳ Nam - Bắc triều (Lê – Mạc phân tranh) cũng nhƣ tài tiên tri các tiến triển của lịch sử Việt Nam. Sau khi đậu Trạng nguyên năm Ất Mùi (1535) và làm quan dƣới triều Mạc, ông đƣợc phong tƣớc Trình Tuyền Hầu rồi thăng tới Trình Quốc Công mà dân gian quen gọi ông là Trạng Trình. Đạo Cao Đài sau này đã phong thánh cho ông và suy tôn ông là Thanh Sơn Đạo sĩ hay Thanh Sơn Chơn nhơn. Ngƣời đời coi ông là nhà tiên tri số một trong lịch sử Việt Nam đồng thời lƣu truyền nhiều câu sấm ký đƣợc cho là bắt nguồn từ ông và gọi chung là sấm Trạng Trình. Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng đƣợc coi là ngƣời đầu tiên trong lịch 11
  18. sử nhắc đến hai chữ Việt Nam một cách có ý thức nhất thông qua các văn tự của ông còn lƣu lại đến ngày nay. Nguyễn Bỉnh Khiêm sinh năm Tân Hợi, niên hiệu Hồng Đức thứ 22 dƣới triều Lê Thánh Tông (1491), ở thời kỳ này đƣợc coi là thịnh trị nhất của nhà Lê Sơ. Ông nội của Nguyễn Bỉnh Khiêm là Nguyễn Văn Tĩnh, đƣợc ấm phong Thiếu bảo, tƣớc Tƣ Quận Công; bà nội là Phạm Thị Trinh Huệ, đƣợc ấm phong Chính phu nhân. Cha là Nguyễn Văn Định, đƣợc tặng Thái bảo, tƣớc Nghiêm Quận công, đạo hiệu là Cù Xuyên tiên sinh, là ngƣời có học vấn và đức hạnh, đƣợc sung Thái học sinh. Mẹ là Từ Thục phu nhân, con gái Thƣợng thƣ bộ Hộ Nhữ Văn Lan. Từ Thục phu nhân tƣ chất thông minh, học rộng văn hay, thạo đƣờng thuật số, lại có chí hƣớng phò vua giúp nƣớc của đấng trƣợng phu bà đã dạy kinh truyện, dạy thơ Quốc âm cho Nguyễn Bỉnh Khiêm từ năm mới bốn tuổi. Bà chính là điểm nhấn đặc biệt về gia đình trong tiểu sử Nguyễn Bỉnh Khiêm. Dƣờng nhƣ ảnh hƣởng của bà tới Trạng Trình rất quan trọng và chí lớn của ông sớm đƣợc hình thành từ sự khơi gợi bồi đắp của mẹ. Nguyễn Bỉnh Khiêm sớm đã hấp thụ truyền thống gia giáo của cả dòng họ nội và dòng họ ngoại. Đến tuổi trƣởng thành ông theo học bảng nhãn Lƣơng Đắc Bằng và nổi tiếng học giỏi, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã cất công vào tận xứ Thanh để tầm sƣ học đạo. Lƣơng Đắc Bằng từng là một đại thần giữ chức Thƣợng dƣới triều Lê Sơ nhƣng sau khi những kế hoạch của ông đƣa ra nhằm ổn định triều chính không đƣợc vua Lê Sơ cho thi hành, Lƣơng Đắc Bằng đã cáo quan về quê sống đời dạy học (1509). Nguyễn Bỉnh Khiêm vốn sáng dạ thông minh lại chăm chỉ học hành nên chẳng bao lâu trở thành học trò xuất sắc nhất của Lƣơng Đắc Bằng. Bởi vậy mà trƣớc khi qua đời, Bảng nhãn Lƣơng Đắc Bằng đã trao lại cho Nguyễn Bỉnh Khiêm bộ sách quý về Dịch học (Chu Dịch) là 12
  19. Thái Ất thần kinh đồng thời ủy thác ngƣời con trai Lƣơng Hữu Khánh của mình cho Nguyễn Bỉnh Khiêm dạy dỗ. Có thể căn cứ vào các mốc lịch sử và những hoạt động, có thể chia cuộc đời của Nguyễn Bỉnh Khiêm ra thành ba chặng: Chặng thứ nhất, tính từ thời niên thiếu đến năm 1534. Thời thơ ấu, Nguyễn Bỉnh Khiêm đƣợc mẹ nuôi dạy, chăm sóc cẩn thận. Đến tuổi trƣởng thành, ông đƣợc học với quan hƣu trí Hộ bộ Thƣợng thƣ Dƣơng Đức Nhan và trở thành con rể của ông. Đây là khoảng thời gian mà từ trong triều đến ngoài xã hội có nhiều biến động: Nội chiến phi nghĩa làm cho hao ngƣời, tốn của, sƣu cao thuế nặng, cƣớp bóc, giết ngƣời Trong khoảng thời gian 1523 và 1526, triều đình Lê Tƣơng Dực có mở khoa thi nhƣng Nguyễn Bỉnh Khiêm vẫn mai danh ẩn tích, không ra ứng thí. Khi Mạc Đăng Dung đoạt ngôi nhà Lê, nhà Mạc đã có một số chính sách mới nhằm ổn định trật tự xã hội và nhằm thúc đẩy phát triển đất nƣớc về mọi mặt. Do đó uy tín nhà Mạc chẳng những đƣợc củng cố dần dần mà còn đƣợc một số quan lại nhà Lê cũ phò trợ đắc lực. Và tuy nhà Mạc có tổ chức các khoa thi Hội (1529), thi Hƣơng để kén chọn nhân tài, các tài tử hƣởng ứng rất đông nhƣng Nguyễn Bỉnh Khiêm vẫn ẩn cƣ, dạy học. Chặng thứ hai, tính từ lúc ra đi thi và làm quan (1535 – 1542), Nguyễn Bỉnh Khiêm quyết định nhập thế. Mặc dù đã 44 tuổi, ông vẫn đi thi Hƣơng và đạt giải nguyên khoa Giáp ngọ dƣới triều Mạc Đăng Doanh (1534). Năm 1535, dự thi hội 4 kỳ đều đỗ đạt nhất, đỗ Hội nguyên; dự thi Đình, đỗ Trạng nguyên. Chặng thứ ba, tính từ năm 1543 đến năm 1585 trong thời gian ở ẩn Nguyễn Bỉnh Khiêm dựng am Bạch Vân, bắc hai chiếc cầu Nghinh Phong và Tràng xuân, tu bổ chùa chiền, xây dựng một ngôi quán gọi là Trung Tân trên bến Tuyết Giang, đƣợc học trò xƣng tôn là Tuyết Giang phu tử. Tuy Nguyễn 13
  20. Bỉnh Khiêm ẩn cƣ dạy học nhƣng với tài đức cao vời vợi của ông, vua Mạc vẫn lấy “sƣ lễ” đãi ông. Những khi nhà nƣớc có gì quan trọng triều đình đều sai sứ giả đến hỏi, có khi triệu ông về kinh. Bên cạnh đó, cả những ngƣời phù Lê cũng luôn tôn trọng, vị nể Nguyễn Bỉnh Khiêm. Sau hai năm, Mạc Phúc Hải gia phong cho ông tƣớc Trình Tuyền hầu. Ngay từ thời niên thiếu cho đến lúc trƣởng thành, Nguyễn Bỉnh Khiêm nhận đƣợc sự giáo huấn trong một gia đình giàu truyền thống đạo lý và truyền thống văn chƣơng. Thế nên thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm giàu tính chất đạo lý là lẽ tất nhiên. Và trong đó ông chịu ảnh hƣởng mạnh nhất là đạo lý trong Nho giáo. Tinh thần Khổng giáo đã thấm nhuần trong ông khi ông đƣợc tiếp nhận những bài học từ danh Nho Lƣơng Đắc bằng. 1.2.2.2 Sự nghiệp của Nguyễn Bỉnh Khiêm Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, Nguyễn Bỉnh Khiêm đƣợc nhìn nhận là một trong những nhà văn hóa lớn của dân tộc. Ông là một chính khách có uy tín, bậc hiền triết, nhà tiên tri nhƣng ông cũng đồng thời là một tác gia văn học lớn có những đóng góp quan trọng trong sự phát triển của văn học dân tộc. Sáng tác của Nguyễn Bỉnh Khiêm phong phú gồm cả chữ Hán và chữ Nôm. Nguyễn Bỉnh khiêm là một nhà thơ lớn, không chỉ của thế kỉ XVI. Tác phẩm của ông có ảnh hƣởng sâu rộng, tác động tích cực vào đời sống tinh thần của nhân dân và góp phần thúc đẩy sự phát triển của tiến trình văn học dân tộc. Về thơ chữ Hán, ông có tập Bạch Vân am thi tập, theo ông cho biết có khoảng một nghìn bài, nay còn lại khoảng 800 bài. Về thơ chữ Nôm, ông có Bạch Vân quốc ngữ thi tập (còn gọi là Trình quốc công Bạch Vân quốc ngữ thi tập), chính ông ghi rõ sáng tác từ khi về nghỉ ở quê nhà nhƣng không cho biết có bao nhiêu bài, hiện còn lại khoảng 180 bài. Thơ Nôm Nguyễn Bỉnh Khiêm làm theo thể Đƣờng luật và Đƣờng luật xen lục ngôn nhƣng ông 14
  21. thƣờng không đặt tiêu đề cụ thể cho từng bài và việc đó đƣợc thực hiện bởi những nhà biên soạn sau này. Theo Phả ký (Bạch Vân am cư sĩ Nguyễn Công Văn Đạt phả ký) của Vũ Khâm Lân Nguyễn Bỉnh Khiêm còn có bài phú nhƣng nay đã bị thất lạc. Theo nhƣ PGS.TS. Trần Thị Băng Thanh đã đánh giá, Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhà thơ viết nhiều nhất trong năm thế kỷ của nền văn học viết Việt Nam. Về số lƣợng mà xét thì Nguyễn Bỉnh Khiêm đƣợc coi là một nhà quán quân. Tuy nhiên vấn đề không chỉ là số lƣợng. Nguyễn Bỉnh Khiêm đƣợc coi là một ngƣời tiếp nối cho sự phát triển và hoàn thiện của nền thơ ca dân tộc kể từ sau Nguyễn trãi, đồng thời bổ sung vào đó đậm đặc hơn chất triết lý, suy tƣởng và giáo huấn để thơ trở thành một công cụ hữu ích phục vụ con ngƣời, phản ánh hiện thực đời sống và hiện thực tâm trạng một cách sâu sắc, với cái nhìn khái quát của một triết gia trong đó có những chiêm nghiệm từng trải của cá nhân ông. Ngoài di sản văn học với hơn 800 bài thơ (cả chữ Hán và chữ Nôm) còn lƣu lại đến ngày nay, Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng để lại nhiều văn bia nổi tiếng nhƣ: Trung Tân quán bi ký, Thạch khánh ký, Tam giáo tượng bi minh hầu hết bia đá ông cho khắc lúc sinh thời đã bị thất lạc hay hƣ hỏng qua hàng thế kỷ nhƣng nhiều bài văn bia do đƣợc ngƣời đƣơng thời chép lại mà còn lƣu đến ngày nay. Trên đây là những yếu tố đã làm nảy sinh tính chất đạo lý trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm. Khách quan lịch sử cộng với bản thân nhà thơ đã hợp nên một vị thế, một nhân cách lịch sử đáng kính trọng của văn học thế kỷ XVI này. 15
  22. CHƢƠNG 2 ĐẠO LÝ TRONG THƠ NGUYỄN BỈNH KHIÊM 2.1 Sự suy đồi đạo lý Nguyễn Bỉnh Khiêm nhìn nhận đạo lý dƣới hai góc độ là tƣ tƣởng Nho giáo và truyền thống của dân tộc. Ông sống trong một xã hội loạn lạc, cƣơng thƣờng đảo điên thơ ông luôn thể hiện sự suy đồi đạo lý của con ngƣời. 2.1.1 Sự suy loạn của đạo lý theo tƣ tƣởng Nho giáo Thế kỷ XVI là một giai đoạn đầy biến động, đất nƣớc sống trong cảnh loạn lạc kéo dài. Tình hình chính trị rối ren, các phe phái tranh giành quyền lực đến một mất một còn. Bản thân những ngƣời đứng đầu vƣơng triều – các hoàng đế nhà Lê đều bất tài vô hạnh. Thời trƣớc ông, chiến tranh là chính nghĩa nên văn thơ thƣờng mang giọng sang sảng, hào hùng. Đến thời đại Nguyễn Bỉnh Khiêm chiến tranh là phi nghĩa. Có sự xuất hiện của chiến tranh là do sự suy loạn của tƣ tƣởng trung quân theo quan niệm Nho giáo. Nó là cuộc chiến tranh phe phái nồi da nấu thịt, là cuộc chiến của anh em cùng một nhà. Nguyễn Bỉnh Khiêm đau cho tình cảnh đất nƣớc bị vùi trong chiến trận đẫm máu, đau cho những con ngƣời bị đẩy vào trong hoàn cảnh phải chém giết nhau, chém giết những ngƣời vốn là họ hàng thân thích của mình. Ông luôn tự đặt ra câu hỏi về nguyên nhân dẫn tới chiến tranh. Lý do cốt lõi là ở đâu? Phải chăng tƣ tƣởng trung quân không còn nữa, cƣơng thƣờng lỏng lẻo, trật tự xã hội đảo điên. Vì Vậy đọc thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm ta thấy thực tế làm tâm hồn nhà thơ rung động nhiều nhất là cảnh loạn ly, chiến tranh tàn phá: Sở quán sinh kinh cứ, Cư ốc chiết vi tân. Canh ngưu đồ nhi thực, 16
  23. Nhương đoạt phi kỷ hóa, Hiếp dụ phi kỷ sắc. Kiến hãm trọng đồ thán, ( )Tiều tụy tư vi thậm, Ai tố mạc năng đắc. (Thương loạn) (Nhà ở đem bẻ làm củi, Trâu cày đem mổ làm thịt ăn. Cƣớp đoạt tài sản không phải là của mình, Hiếp dỗ ngƣời không phải là vợ mình. Mắt thấy nơi nơi đều lầm than, Đi qua khắp chốn đều là sinh gai góc. Tiều tụy đến nhƣ thế là khó lắm, Thƣơng xót van kêu đâu có đƣợc.) Cảnh “chiến tranh liền năm, quân nhà vua mệt mỏi; bao đời xâu xé, của nƣớc kiệt quệ (Cảm hứng thi, bài 6) một vùng từ đông chí nam, ruộng lúa không cấy hái (Thương loạn) làm cho ngƣời dân khốn đốn: Lạc lạc can qua mãn mục tiền, Nhân dân bôn thoán dục cầu tuyền. Điên liên huề bão ta vô địa, Ái hộ căng linh bản hữu thiên. (Cảm hứng thi, bài 4) Gặp loạn lạc, nhân dân phải bỏ quê hƣơng đi ly tán tứ phƣơng, nhà thơ than thở: Chiến tranh hỗ tương tầm, Họa loạn chí thử cực. (Thương loạn) (Chiến tranh cuộc này tìm đến cuộc kia, Họa loạn đến thế này là cùng cực.) 17
  24. Trong bài Cảm hứng dài đến 300 câu, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã nói đến những bài học lịch sử. những chuyện: -Sự quân thần bất thần, Sự phụ tử bất tử. -Giáo bất thủy khuê vi, Tôn khởi biệt huynh đệ. -Băng thán cốt nhục thân, Ngõa lịch bằng hữu nghĩa. Đó là những cảnh điên đảo trong luân thƣờng, lễ nghĩa, dẫn đến con ngƣời thành tham lam, xảo trá và xã hội dẫn đến loạn ly: Dân khốn tặc đạo phồn, Thế loạn anh hùng khỉ. Xứ xứ quần lợp ô, Tập tập mao tập vị. Nguyên dã tác chiến trường, Tỉnh ấp biến tặc lũy. (dân khốn quẫn, trộm cƣớp đầy rẫy, Đời loạn lạc anh hùng nổi dậy. Chốn chốn quạ hợp bầy, Chi chit nhím lông trổ. Đồng ruộng làm chiến trƣờng, Làng xóm thành lũy giặc.) Xử sự thì lấy chuyện nhà Hán, nhà Đƣờng bên Trung Quốc nhƣng nó cũng chính là hoàn cảnh của nƣớc ta đầu thế kỷ XVI. Nguyễn Bỉnh Khiêm tin tƣởng ở cƣơng thƣờng làm ngƣời tức là đạo vua tôi, cha con, anh em, vợ chồng, bạn bè là do thánh nhân bắt chƣớc Trời mà đặt ra cho muôn đời. Xã hội mà nhà thơ sống là một xã hội loạn lạc, chiến tranh xảy ra liên miên, xung đột chiến tranh giữa hai lực lƣợng Trịnh- Nguyễn, ông lên án “bọn giặc hung 18
  25. bạo” một cách căm giận. Nổi bật trong các bài thơ Tòng chinh và Cảm hứng thể hiện lòng thƣơng dân, mong mỏi thái bình, mong mỏi ngƣời cầm quân, ngƣời cầm quyền có đạo lý nhân nghĩa giữa con ngƣời với con ngƣời. Trong một xã hội điên đảo luôn luôn có sự đối lập giữa hai tầng lớp thống trị và bị trị. Cƣơng thƣờng điên đảo nhƣ thế mà các nhà quyền quý sống rất xa hoa, thức ăn là những thức lạ của hiếm, nhà ở, thức dùng sang trọng đến phí phạm. Nhà cửa vẽ tranh chạm ngọc. Sự xa xỉ ở nơi bếp núc thì lấy sáp thay củi, bùi béo ngọt ngon. Say rƣợu nồng, no chất tƣơi, mặc áo nhẹ, cƣỡi ngựa béo. Viên trích ngọc thiềm thừ, Khoái hưng kim tức lý. Vu tiến hoàng tước canh, Chở đăng giá cô xị. Vạn tiền vô hạ trợ, Bát trân yến hậu vị. (Cảm hứng, 300 câu) (Giọt nƣớc tròn rỏ từ con cóc ngọc, Gỏi chả từ cá chép, cá diếc vàng. Liễn bƣng vào canh chim sẻ vàng, Mâm bồng dâng lên nem gà gô. Giá đáng vạn tiền không buồn nhúng đũa, Chán ngấy vị ngon nồng của bát trân.) Đối lập với cảnh xa hoa của giai cấp thống trị là cảnh khốn khổ của dân chúng họ luôn phải sống trong cảnh lo âu, thảng thốt: Dáo và mộc tua tủa bày ra trước mắt, Nhân dân chạy trốn tìm nơi an toàn. 19
  26. Khốn đốn dìu dắt nhau, thở than không có đất, Thương xót che chở cho may ra chỉ có trời. (Cảm hứng, bài 4) Bất thí điểu phần xào, Đãi đồng phường trinh vĩ. Thử thời tư vi cực, Sinh dân thậm tiều lụy. (Cảm hứng) (Chẳng khác gì chim bị mất tổ, Giống hệt cá bị máu dồn xuống đuôi. Lúc ấy nhƣ thế là cùng cực, Sinh dân quá ƣ tiều tụy.) Để sống một cách xa hoa, giai cấp thống trị phải bóc lột nhân dân một cách tàn tệ. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã lớn tiếng phê phán sự bóc lột ấy. Trong đó đáng chú ý nhất là bài Tăng thử (Ghét chuột) ông muốn mƣợn lời của bài thơ để ám dụ bọn bóc lột, ăn bám: Dân mệnh vi chí trọng, Thạc thử hồ bất nhân. Thảo thiết tứ âm độc, Nguyên dã hữu cảo miêu. Lẫm dữu vô dư túc, Lao phí nông phu thán. Cơ ích điền dã khấp, Tàn hại hà thái khốc. (Tăng thử) (Con chuột lớn kia sao mày bất nhân, Vụng trộm thêm nhiều âm mƣu độc hại. 20
  27. Đồng nội có mạ khô, Kho đụn không thóc thừa. Vất vả nghèo khổ, ngƣời nông dân than vãn, Đói và gầy, trên ruộng đồng kêu khóc. Sinh mệnh của dân chũng ất là trọng, Tàn hại sao mà quá thảm khốc.) Loài chuột và loài cáo làm tổ ở tƣờng thành và dƣới đàn xã, đàn tắc thƣờng không bị ngƣời ta bắt vì không ai dám đào phá tƣờng thành là nơi cần phải củng cố hoặc đàn xã, đàn tắc là nơi thờ cúng uy nghiêm. Bọn quan lại bóc lột tàn tệ mà nhân dân không chống lại đƣợc vì chúng dựa vào uy thế và sự bao che của nhà nƣớc cũng giống nhƣ loài chuột loài cáo dựa vào tính bất khả xâm phạm của tƣờng thành hoặc đàn xã, đàn tắc: Thành xã ỷ vi gian, Thần dân oán mãn phúc. (Tăng thử) (Chốn thành, xã dựa vào mà làm điều gian, Cả thành và ngƣời đều oán chứa đầy bụng.) Nhƣng Nguyễn Bỉnh Khiêm luôn có niềm tin vào quy luật nhân-quả trong đạo Phật. Ông tin chắc rằng cuối cùng thì tội ác sẽ bị trừng trị Ký thất thiên hạ tâm, Tất thụ thiên hạ lục. Triều thị tứ nhĩ thi, Ô diên khiết nhĩ nhục. (Tăng thử) (Mi đã làm mất lòng thiên hạ, Tất sẽ bị thiên hạ giết chết. 21
  28. Phơi xác mi ở chốn triều thị, Quạ và diều rỉa thịt mi.) Thế gian biến cải vũng nên đồi, Mặn nhạt chua cay lẫn ngọt bùi. Còn bạc còn tiền còn đệ tử, Hết cơm hết rượu hết ông tôi. Xưa nay đều trọng người chân thật, Ai nấy nào ưa kẻ đãi bôi. Ở thế mới hay người bạc ác, Giàu thì tìm đến khó thì lui. (Thơ Nôm, bài 71) Đời này nhân nghĩa tựa vàng mười, Có của thì hơn hết mọi lời. Rõ ràng là Nguyễn Bỉnh Khiêm đã phê phán một cách gay gắt những tệ lậu của chế độ phong kiến - chế độ phong kiến đang trƣợt trên cái dốc suy đốn không thể nào cứu vãn đƣợc. Vua chúa cũng lên voi xuống chó, nay là vua, mai là giặc. Đó chính là nguyên nhân gây ra chiến tranh giữa các tập đoàn phong kiến gây ra cảnh loạn ly, cảnh núi xƣơng, sông máu cho nhân dân. Qua đó có thể thấy Nguyễn Bỉnh Khiêm đau nỗi đau của nhân dân. Ông cũng đau vì giai cấp thống trị không lấy đạo lý làm nền tảng để trị nƣớc mà chỉ quan tâm đến danh lợi quyền lực của giai cấp mình để đạt đƣợc điều đó họ sẵng sàng đẩy nhân dân vào cái chết. dƣờng nhƣ đạo lý không còn vai trò gì đối với việc trị nƣớc trong xã hội này . Trƣớc cảnh loạn lạc cùng khốn, Nguyễn Bỉnh Khiêm đặt ra câu hỏi: “ Bởi trời ƣ? Hay bởi ngƣời ƣ?” và rồi ông tự trả lời cho câu hỏi do chính mình đặt ra “là lý đây mà cũng là số đấy. Không phải chỉ có đạo lý phải suy 22
  29. nghiệm mà có cả vận hội có thể tính toán; có thể xem bằng tƣợng mà cũng có thể tính bằng số. Đề cao lý tƣởng Nho giáo, Nguyễn Bỉnh Khiêm luôn nhấn mạnh cƣơng thƣờng đạo lý, hƣớng về các giá trị tinh thần khuôn mẫu, những vua sáng tôi hiền, những nghĩa tình bạn bè, thôn xóm và trên hết là trách nhiệm của kẻ sĩ trong cõi đời. Sống giữa thời loạn lạc, ông không chỉ gắn với vƣơng triều mà còn bày tỏ ý nguyện xây dựng đất nƣớc thanh bình, chúng dân no đủ : Tằng phù công thất lý nguy gian, Chung hiệu trì khu lực cánh nan. Thâm mẫn tiểu dân ly đống nỗi, Thùy dương đại nghĩa thủ hung tàn. (Cảm hứng thi, bài 6) Đối diện với xã hội, ông thấy ngay sự đảo điên của trật tự phong kiến cũng nhƣ sự suy đồi về đạo đức con ngƣời. Phong vũ thời hối minh, Cương thường nhật điêu thỉ. Lễ nghĩa thán quải trương, Quan cái tùy đảo trí. Sự quân thần bất thần, Sự phụ tử bất tử. (Cảm hứng tam bách cú) (Gió mƣa gặp lúc u ám tối tăm, Cƣơng thƣờng ngày một suy sụp lỏng lẻo. Lễ nghĩa than ôi ngang trái, Mũ lọng theo đó đảo ngƣợc. Thờ vua tôi chẳng ra tôi, Thờ cha con chẳng ra con). 23
  30. Chỉ bằng mấy câu thơ ngắn gọn, xúc tích Nguyễn Bỉnh Khiêm đã cho ta thấy một sự biến đổi lớn của thời đại đó là sự đảo điên của trật tự xã hội. Không còn nữa cái gọi là Tam cƣơng Ngũ thƣờng. Đáng phải thờ vua thì bề tôi làm điều ngƣợc lại (tôi chẳng ra tôi) – quan hệ vua tôi bị phá vỡ. Đáng phải thờ cha thì con cái lại bất hiếu (con chẳng ra con) – quan hệ cha con bị đảo lộn. Rồi quan hệ anh em „nhƣ thể chân tay‟ giờ cũng thành : Bất hữu huynh phi huynh, Bất cung đệ phi đệ. (Cảm hứng bách tam cú) (Chẳng có lòng hữu ái, anh chẳng ra anh, Không có lòng quí mến, em chẳng ra em). Anh em đáng phải quí mến, yêu thƣơng, kính trọng nhau thì trong xã hội thời bấy giờ, lễ nghĩa ấy không còn nữa. Mọi quy tắc trong quan hệ xã hội và quan hệ của con ngƣời đã không tồn tại. Nó đã bị phá vỡ một cách nghiêm trọng mà không cứu vãn đƣợc. Sự suy đồi của các quan hệ kéo dài đến từng gia đình : Tính hậu độc nhân luân, Đồng tịch tiện lăng quí. Thất tự nghiệt đại tông, Quá á thiếp ngụy vĩ. (Cảm hứng tam bách cú) (Chung nhau phi hậu làm sàm sỡ nhân luân, Cùng ngồi một chiếu kẻ hèn lấn ngƣời sang. Mất trật tự con vợ lẽ thay con chính tông, Quá yêu thƣơng vợ lẽ giả làm vợ cả). Sự sụp đổ của chế độ phong kiến là cái nền cho sự suy đồi của đạo lý con ngƣời. Hệ thống tƣ tƣởng phong kiến, giáo lý đạo Nho đã bị phá vỡ. Con 24
  31. ngƣời không sống theo lễ nghĩa, không tuân theo đạo lý con ngƣời. Chuẩn mực đạo đức của con ngƣời đang trên đà tan vỡ. Sự sàm sỡ nhân luân, vi phạm đạo đức diễn ra ngay trong tộc gia đình : chung nhau phi hậu, kẻ hèn lấn ngƣời sang. Những mối quan hệ gia đình : đạo lý cha con, vợ chồng, anh em cũng bị vi phạm : con vợ lẽ trở nên thắng thế, con vợ cả lại là kẻ thất thế. Rồi vì quá yêu thƣơng đến mù quáng nên vợ lẽ giả làm vợ cả Nguyễn Bỉnh Khiêm đã nhìn thấy sự suy đồi đạo đức trên mộ phạm vi rộng. Đầu tiên là gia đình, sau đó đến triều đình rồi toàn xã hội. Đây là sự đổ vỡ của Tam cƣơng Ngũ thƣờng hay cũng chính là sự đổ vỡ của trật tự xã hội. Lý tƣởng Nho giáo – chuẩn mực đạo đức của toàn xã hội thời bấy giờ đã bị vi phạm. Nền tảng vững chắc cho sự tồn tại của một chế độ xã hội – cụ thể là chế độ phong kiến không còn nữa. Giờ đây, chứng kiến thực tại, Nguyễn Bỉnh Khiêm không thể không đau đớn xót xa. Càng đối diện với hiện thực, trái tim nhà thơ càng quặn thắt. Nguyễn Bỉnh Khiêm có khoảng ba chục bài thơ cả Hán và Nôm bàn về những điều chính yếu nhất trong cƣơng thƣờng, xoay quanh các mối quan hệ: vua tôi, cha con, chồng vợ, anh em, thầy trò, bè bạn, họ hàng và xóm giềng. Trong mảng thơ chữ Hán, Nguyễn Bỉnh Khiêm nói nhiều đến mối quan hệ vua tôi: Quân đạo, Thần tiết đó là bổn phận từng ngƣời, nhƣng Quân thần thi, Quân thần lưỡng toàn thi thì đó là trách nhiệm của mỗi ngƣời đặt trong mối quan hệ cụ thể, đòi hỏi một sự ràng buộc chung; ngoài ra Quân đắc hiền tướng thi, Quốc trọng lão thần thi lại là lời chỉ dẫn của Nguyễn Bỉnh Khiêm cho vua chúa cách đối xử với nhân tài của đất nƣớc. 2.1.2 Sự suy loạn của đạo lý theo truyền thống dân tộc Trên thế giới có hai loại hình văn hóa, loại hình văn hóa trọng động (gốc du mục) và văn hóa trọng tĩnh (gốc nông nghiệp), văn minh phƣơng Tây và phƣơng Đông. Điều mà chúng ta dễ dàng nhận thấy là ngƣời phƣơng Đông 25
  32. nặng tính trọng tình, nhƣ trong sách Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam của GS-TSKH. Trần Ngọc Thêm đã khẳng định Một bồ cái lý không bằng một chí cái tình cho thấy ngƣời phƣơng Đông nói chung và ngƣời Việt Nam nói riêng thƣờng thể hiện tính trọng tình một cách rõ rệt qua một số câu tục ngữ, ca dao: Bán anh em xa mua láng giềng gần. Hay: Một giọt máu đào hơn ao nước lã. Bên cạnh đó dân tộc Việt Nam ta luôn đề cao, coi trọng giá trị con ngƣời, đƣợc thể hiện qua một số câu tục ngữ nhƣ: người ta là hoa đất, một con ngƣời có giá trị là ngƣời có phẩm chất tốt đẹp từ trong ra ngoài. Nó mang một nghĩa sâu rộng là một hƣơng hoa tỏa bóng mát cho đời, con ngƣời có thể làm ra tất cả, làm cho mọi vật đƣợc tƣơi tốt hơn. Trải qua hàng nghìn năm dựng nƣớc và giữ nƣớc dân tộc ta đã đoàn kết đấu tranh bỏ qua hạnh phúc, niềm vui của cá nhân để quyết tâm giữ vững lãnh thổ, chủ quyền đất nƣớc, xây dựng một đất nƣớc giàu mạnh. Thế nhƣng vào thế kỷ XVI, các triều đình phong kiến đấu tranh liên miên, truyền thống dân tộc bị suy thoái, con ngƣời trở nên xấu xa, vị kỷ, con ngƣời cũng nhƣ cả xã hội trọng tiền hơn tình, trọng của hơn ngƣời. Thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm đã thể hiện sự suy đồi của đạo lý theo truyền thống dân tộc, xã hội, cƣơng thƣờng đảo điên. Một thực tế đã làm khuấy động tâm hồn nhà thơ, ông đau đớn cùng cực sự đen bạc của cảnh đời. Con ngƣời tham lam, hám tiền, trọng lợi hơn nghĩa, coi rẻ tình nghĩa, kể cả tình cha con, anh em, vợ chồng, bà con: Giàu sang người trọng, khó ai nhìn, Mấy dạ yêu vì kẻ lỡ hèn. Thuở khó dẫu chào, chào cũng lặng, 26
  33. Khi giàu chẳng hỏi, hỏi thì quen. Quen hiềm dan díu điều làm bạn, Lặng kẻo lân la nỗi bạ men. (Bạch Vân quốc ngữ thi tập, bài 5) Tiền của nhƣ mật, nhƣ mỡ, nhƣ nhị kết, nhƣ hoa thơm trong khi đó con ngƣời nhƣ ong, nhƣ kiến, nhƣ ruồi: Thớt có tanh tao ruồi đậu đến, Ang không mật mỡ kiến bò chi. (Bạch Vân quốc ngữ thi tập, bài 53) Trong xã hội ngƣời đời không những tham lam mà còn hiểm giảo: Miệng nói sau lưng như dao nứa, Lưỡi đưa trước mặt giống kim chì. (Bạch Vân quốc ngữ thi tập, bài 102) Lưỡi thế gẫm xem mềm tựa lạt, Miệng người toan lại sắc như chông. (Bạch Vân quốc ngữ thi tập, bài 127) Đó không phải chỉ là những sự thật, những hiện tƣợng riêng rẽ. Nhân tình đen bạc, cƣơng thƣờng đảo điên vốn là nguyên nhân của xã hội loạn ly, và vốn là hậu quả của sự suy thoái đạo đức của ngƣời cầm quyền vì danh, vì lợi, vì tiền, vì bạc mà họ cam tâm đẩy nhân dân- những con ngƣời vô tội vào cảnh loạn ly, phải rời khỏi quê hƣơng của mình, mất đi những ngƣời thân yêu. Khi treo mũ từ quan trở về quê cũ Nguyễn Bỉnh Khiêm thực hiện tiếp chí lập quán, xây chùa, mở trƣờng dạy học, dựng am Bạch Vân lấy đạo hiệu là Bạch Vân cƣ sĩ và đó cũng là tên của tập thơ chữ Hán Bạch Vân am thi tập, tập thơ Nôm Bạch Vân quốc ngữ thi. Bạch Vân (đám mây trắng) ấy sau khi đã trôi nổi khắp các chốn hoạn lộ kinh kỳ, bây giờ neo lại nơi quán gốc quê hƣơng. 27
  34. Có lẽ cũng phải đến lúc này cái vốn kinh lịch sử trải đời, suy nghiệm mọi lẽ mới đủ độ để kết tinh trong những vần thơ thế sự và triết lý thế sự của ông. Chính Nguyễn Bỉnh Khiêm đã đặt đạo đức thành vấn đề đạo lý, triết lý về đạo đức. Dƣờng nhƣ trƣớc những biến thiên dữ dội của thời cuộc, ông thấy những giá trị đạo đức truyền thống bị đảo lộn, thấy con ngƣời trở nên vị kỷ hơn vụ lợi hơn, ông đau đớn, ông phê phán thế thái nhân tình, đạo lý suy vi: Trước đến tay không, nào thốt hỏi Sau vào gánh nặng, lại vui cười. Anh anh, chú chú, cười hơ hải, Rượu rượu, chè chè, thết tả tơi. Người, của lấy cân ta thử nhắc, Mới hay rằng của nặng hơnngười (Thơ Nôm, bài 74) Cái nhìn của ông có phần cách biệt với thƣờng nhân, đứng trên tầm cao của một nhà tƣ tƣởng, một triết nhân mà soi rọi, phê phán con ngƣời hám lợi, giàu sang. Nguyễn Bỉnh Khiêm vẫn luôn là một nhà Nho coi thƣờng danh lợi, khinh miệt đồng tiền Nghe thôi thinh thỉnh lại đồng tiền, Thớt có tanh tao ruồi đậu đến- ang không mật mỡ kiến bò chi, Nhị kết, hoa thơm, ong đến đỗ- mỡ bùi mật ngọt kiến bò đi, cơm áo bỗng xui người hóa quỷ - Oản xôi dễ khiến bụt nên ma ông bị dằn vặt, giằng xé trong thực tại đắng cay, bất lực trƣớc xu thế nhãn tiền: Bần cư trung thị, vô nhân vấn – phú tại sơn lâm khách hữu tầm. Phần nhiều những suy tƣ triết lý đó đƣợc ông đúc kết từ đời sống thế sự. Nghe thôi thinh thỉnh lại đồng tiền: Nguyễn Bỉnh Khiêm đúng là một bậc thầy mới có thể lắng nghe đúng cái âm thanh của đồng tiền, một thứ âm thanh mà ngay từ buổi mới ra đời nó đã mang đặc điểm, phổ biến của một đồng tiền trong đời sống nhân loại. Sự khinh rẻ những con ngƣời tham lam vì đồng tiền mà giành giật, hãm hại lẫn nhau. Khi nghe đƣợc âm thanh của đồng 28
  35. tiền cũng tức là ông đã nghe đƣợc bản chất huyên náo đang dấy lên ở các thành thị đang đua tranh giành lấy tiền, quyền và danh. Thế gian biến ải, vũng nên đồi, Mặn, nhạt, chua cay lẫn ngọt bùi. Thế gian vô thƣờng đó cũng là tƣ tƣởng của nhà Phật: Đạo phật cho rằng cõi ngƣời là cỗi lành, cõi thiện thế nhƣng đời ngƣời lại vui ít khổ nhiều. Trong xã hội dối trá ông tuyên bố: Xưa nay đề trọng người chân thật, Ai nấy nào ưa kẻ đãi bôi. Thế nhƣng cuộc đời là cuộc đời. Nguyễn Bỉnh Khiêm sống chân thật giữa xã hội nhà Mạc điên đảo và dối trá chạy theo danh theo lợi. Với ngòi bút bình thản, ông ghi nhận mọi tấn trò đáng cƣời mà cũng đáng khinh của cuộc đời: Được thời thân thích chen chân đến, Thất thế hương lư ngoảnh mặt đi. Tiểu kết: Dân tộc Việt Nam ta vốn là một dân tộc có truyền thống trọng tình trọng nghĩa, luôn đề cao giá trị con ngƣời. Nhƣng ở thế kỷ XVI – thế kỷ của chiến tranh loạn lạc, kéo theo đó là truyền thống tốt đẹp của dân tộc cũng rơi vào tình trạng suy thoái nghiêm trọng. Con ngƣời trở nên tham lam, xấu xa, hiểm giảo, trọng tiền hơn tình, trọng của hơn ngƣời, coi khinh tình nghĩa và kẻ nghèo hèn trong xã hội. 2.2 Khát vọng giới thuyết và răn dạy đạo lý Nguyễn Bỉnh Khiêm chủ ý không bộc lộ tình cảm cá nhân. Ông đứng trên tƣ cách một ngƣời quan sát, một triết nhân để "mổ xẻ" xã hội, phơi bày một cách lạnh lùng trƣớc bàn dân thiên hạ những thói hƣ tật xấu, những điều trái với thuần phong mỹ tục, với đạo lý nhân hậu cổ truyền. Những thói hƣ tật xấu ấy nhiều khi đã mang tính phổ cập, phản ánh một mặt của quy luật tâm lý trong cuộc sống cộng đồng đời thƣờng. 29
  36. Thớt có tanh tao ruồi đậu đến, Ang không mật mỡ kiến bò chi. (Thơ Nôm, bài 53) Ở thế mới hay người bạc ác, Giàu thì tìm đến, khó tìm lui. (Thơ Nôm, bài 71) Bản thân những vần thơ nhƣ thế tự nó đã có ý nghĩa cảnh tỉnh và thức tỉnh. Quả là nếu một ngƣời còn chút lƣơng tri thì không thể không tự cảm thấy ngƣợng khi nhận ra bóng dáng mình trong cái nhân vật đang cuống quýt làm thân mong cầu lợi Anh anh chú chú mừng hơ hải Tuy nhiên phần quan trọng trong thơ đạo lý Nguyễn Bỉnh Khiêm là ở những bài thơ chỉ rõ quy luật biến dịch trong cuộc đời và những bài thơ khuyên răn. Theo Nguyễn Bỉnh Khiêm Thế nhất trị nhất loạn, Thời hữu khuất hữu thân, cho nên không có một sự thịnh mãn nào là vĩnh cửu và do vậy ngƣời ta nên giữ lấy đạo, giữ lấy sự chân chất, không nên "sinh sự", hãy yên phận: Hễ kẻ trêu ngươi, kẻ phải lo, Chẳng bằng vô sự ngáy pho pho. Tay kia khéo nắm còn khi mở, Miệng nọ hay cười có lúc ho. Có thuở được thời, mèo đuổi chuột, Ðến khi thất thế, kiến tha bò. Ðược thua sau mới ăn năn lại, Vô sự chăng hơn có sự ru. (Thơ Nôm, bài 75) Thơ khuyên răn của Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng đề cập đến nhiều vấn đề. Không những ông nói về Tam cƣơng Ngũ thƣờng, ông còn khuyên răn 30
  37. mọi ngƣời cách sống nhân ái, lƣơng thiện, trong gia đình và trong cả cộng đồng làng xóm Chất giáo huấn đậm nét hơn trong thơ Nôm Nguyễn Bỉnh Khiêm. Có thể điều đó là dụng ý của ông. Ông muốn giữ gìn thế đạo, muốn đƣa dân chúng trở lại phong tục giản phác thời Nghiêu Thuấn thái hòa, thơ Nôm do vậy là một phƣơng tiện nhiều thuận lợi và hiệu quả. Làm người có dại chớ nên khôn Chớ dại ngây si, chớ quá khôn. Khôn được ích mình, đừng rẻ dại, Dại thì giữ phân chớ tranh khôn. Khôn mà hiểm độc là khôn dại, Dại đến như vầy ấy dại khôn. Chớ cậy rằng khôn khinh kẻ dại, Gặp thời, dại cũng hóa nên khôn. (Thơ Nôm, bài 94) Đã nhiều lần ông lên tiếng phê phán, chối bỏ lối sống đô hội, thị thành trên các phƣơng diện thế sự, đạo lý, lối sống. Bạc vàng là của trữ tiêu dùng, Thành thị vốn đua tranh giành giật . (Thơ Nôm, bài 79) Chất đạo lý, giáo huấn trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm đƣợc các nhà nho đánh giá cao. Vũ Khâm Lân và Phan Huy Chú đều khen Văn chương tiên sinh rất tự nhiên không cần điêu luyện, giản dị mà điêu luyện, thanh đạm mà nhiều ý vị, câu nào cũng có quan hệ đến sự dạy đời. Nguyễn Bỉnh Khiêm lại quan tâm hơn bao giờ hết đến cuộc sống thƣờng nhật của ngƣời dân thôn quê, đến thói đời và những biến động của lòng ngƣời. 31
  38. Ông luôn có khát khao là răn dạy đạo lý cho mọi ngƣời để hƣớng tới một xã hội tốt đẹp hơn, con ngƣời yêu thƣơng lẫn nhau, giúp đỡ nhau trong cuộc sống. Đạo đó không phải phải là cái gì xa lạ, mà là đạo Nho, một đạo đã khái quát các mối quan hệ của gia đình và xã hội thành Cương thường: trời phú tính ở mình ta- Đạo cả cương thường năm mấy ba (Cương thường tổng quát), nghĩa là Tam cƣơng và Ngũ thƣờng. Nguyễn Bỉnh Khiêm tuân theo đạo Nho mà răn dạy đạo lý cho con ngƣời cùng với nội dung của đạo Nho nhƣng ông có quan niệm rộng rãi hơn. Trong đó bên cạnh cách hiểu của truyền thống phong kiến là cách hiểu ở nơi thôn xã thân thuộc, cách hiểu mang nhiều nét quan tâm đến nhau, nƣơng tựa nhau, thƣơng yêu nhau giữa các thành viên trong gia đình, cộng đồng. Con đối với cha mẹ lúc già yếu là sự chăm nom săn sóc: Hay khi ôn sảnh bề cung dưỡng- Siêng thuở thần hôn việc hỏi han ( Tử sự phụ mẫu). Anh em đối với nhau là tình thƣơng máu mủ: Biết kính hay yêu miễn thuận hòa [ ] yêu thương sá lấy lòng cha (Khuyến huynh đệ vật cạnh tranh). Chồng vợ đối với nhau là tình nghĩa tao khang, sự gắn bó thông cảm: lỗi nhỏ thứ cho đừng sá giận-Tình thân nghĩ đến cũng nên thương (Khuyến phu đãi thê) Đặc biệt Nguyễn Bỉnh Khiêm nhấn mạnh đạo “hiếu sinh” và tấm lòng từ thiện của con ngƣời: Đế đức bản hiếu sinh- Thân vật manh sát lục (Đức của trời vốn hiếu sinh- nên thận trọng chớ giết nhau bừa bãi), người ta tính vốn thiện, giữ trọn được tính thiện là trung. Để giữ đƣợc đạo này, với ông là phải lên án những bọn gây chiến tranh thảm khốc, phải phê phán những kẻ miệng thì nhân danh nhân nghĩa, nhƣng thực tế thì nhẫn tâm ích kỷ. Để chống lại lối sống danh lợi, ích kỷ. Nguyễn Bỉnh Khiêm đề cao tƣởng an phận. Ông khuyên ngƣời ta yên với mệnh trời: Được thua phú quý dầu thiên mệnh- chen 32
  39. lấn làm chi cho nhọc nhằn (Thơ Nôm, bài 87), yên phận thì hơn hết mọi điều (Thơ Nôm, bài 3). Thêm nữa, thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm về đề tài đạo lý, răn dạy đạo đức từ mức độ phổ quát đến cụ thể chẳng hạn ở các bài Cương thường tổng quát, Răn đầy tớ thờ chủ, Khuyên nàng dâu thờ cha mẹ chồng Tất cả những bài đó nhằm nêu cao yêu cầu tu thân, tu rèn đạo đức cá nhân. Triết lý đạo đức của Nguyễn Bỉnh Khiêm giáo dục thiên hạ, thơ văn của ông chính là những lời khuyên răn để theo chí hƣớng của ông. Ông muốn đem đạo đức thánh hiền phổ biến trong nhân dân, làm cho con ngƣời nhận thức đƣợc những đạo lý cuộc sống. Nhà thơ lập ra quán Trung Tân, có bài bia Khuyên làm từ thiện. Trong đó, ông trình bày những quan niệm đạo đức luân lý của ông : Thờ cha hết đạo làm con Thờ vua phải giữ cho tròn đạo tôi Anh phải thuận em phải kính Chồng bàn ra, vợ thích tàng ngay. Bạn bè giao kết xưa nay, Lòng tin chớ có thay đổi tấm lòng. Chớ thấy thiện nhơ mà khinh bỏ Cũng đừng coi ác nhỏ mà làm. Khi mới đọc lên, ta thấy tƣ tƣởng triết lý đạo đức, cách dạy đời của Nguyễn Bỉnh Khiêm giống với quần thần, phụ tử, phu tử với cái đức từ thiện, bác ái của đạo phật. Nhƣng xét kĩ ta lại thấy ý thức của những quan niệm gò bó chật hẹp xƣa đã đƣợc mở rộng hơn hợp với đạo đức của nhân dân Việt Nam thời bấy giờ. Những lời răn dạy đạo lý mà Nguyễn Bỉnh Khiêm đề ra không khô khan, lý trí nhƣ trong đạo Nho mà qua thơ văn của ông đã trở nên đầm ấm giàu cảm xúc. 33
  40. 2.3 Lý tƣởng sống nhàn để giữ gìn phẩm giá Nhàn là một quan niệm sống rất thƣờng đƣợc nhắc tới, theo định nghĩa chung nhất thì nhàn có nghĩa là rảnh việc, thƣ thả, thƣ nhàn quan (quan không có nhiệm vụ cấp thiết, không quan trọng), nhàn nhân (ngƣời sống thong thả, ít sự việc phải suy nghĩ). Nhƣng nhàn cũng có nhiều mức độ và cách thức để giành lấy hoặc phải chịu. Ví nhƣ “thân nhàn” trong trăm công ngàn việc, một ông quan “lấy trộm” đƣợc một khoảnh khắc thời gian nào đó để thảnh thơi, còn an nhàn và nhàn dật có lẽ dành cho những ngƣời không có điều kiện tham chính; nhàn ẩn chủ yếu là đối với những ngƣời chủ ý không tham gia việc đời; nhàn tâm lại là một trạng thái khác, phụ thuộc vào quan niệm ứng xử Riêng ẩn dật thì có phần khác, ngƣời ẩn dật chƣa chắc đã đƣợc nhàn tâm, bời nhiều khi phải trốn tránh, cố làm mờ đi cái tôi của mình mới có thể đƣợc an toàn để tồn tại hoặc để chờ thời. Nhƣ vậy nhàn có khi là tự chọn, tự nguyện, có khi bị hoàn cảnh bó buộc, các nhà nho xƣa ít ai không nói, không nghĩ và không muốn tìm đến “cảnh nhàn”. Ở đây chúng ta cần hiểu chữ “nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm gắn với quan niệm về một phẩm chất thanh khiết trong một xã hội mà ông cho là đục lầm, về một thái độ tự chủ trong một cõi đời mà ông cho là hỗn loạn, về một chỗ đứng vững vàng trong một thời thế mà ông cho là đảo điên. Chính vì vậy, ông đã từ bỏ chốn quan trƣờng, từ bỏ nơi thành thị huyên náo tranh giành danh lợi, tiền tài để giữ gìn phẩm giá thanh khiết của mình. Trƣớc Nguyễn Bỉnh Khiêm, trong lịch sử tƣ tƣởng và văn học Việt Nam đã có hai bậc đại trí, đại nho thân thế liên quan mật thiết đến chuyện nhàn ẩn đó là Chu Văn An đời nhà Trần và Nguyễn Trãi đời Lê Sơ. Chu Văn An xin chém 7 kẻ nịnh thần không đƣợc vua Trần nghe theo, bất đồng chính kiến ông từ quan vể ở ẩn trong vùng núi Phƣợng Hoàng. Từ đó ông rảnh việc triều chính nhƣng lòng ông không bao giờ thƣ thái, ẩn mà không nhàn. 34
  41. Nguyễn Trãi từng về Côn Sơn, cũng từng nhiều lần nói đến nhàn. Ông có khoảng thời gian mƣơi năm ở Côn Sơn hòa mình với thiên nhiên, rảnh việc triều chính, chiêm nghiệm mọi lẽ để làm triết gia và thi nhân. Bài Côn Sơn ca và nhiều bài thơ khác cho thấy Nguyễn Trãi hòa mình giữa thiên nhiên trong veo và yên tĩnh, có khi nhƣ con thuyền đơn côi gác mái chèo ngủ thâu ngày trên bến vắng, có những ngày đƣợc ngủ rất ngon ở Vân Oa, Nguyễn Trãi rảnh việc nhƣng rất buồn, tấm lòng của ông vẫn bận rộn đâu đó với việc đời, với những mối lo toan về xã tắc. Nguyễn Bỉnh Khiêm khác với Nguyễn Trãi. Thời Nguyễn Trãi, nƣớc Đại Việt đã đƣợc định vị với những tiêu chí đƣợc tuyên ngôn từ Bình Ngô đại cáo là một nƣớc văn hóa có chủ quyền, cƣơng vực lãnh thổ, có nền văn hóa riêng. Nhƣng đến thời Nguyễn Bỉnh Khiêm, triều chính đã đi vào thời kì suy thoái, hoàng tộc truy sát lẫn nhau các vị vua, quan trong triều không còn giữ đƣợc vẻ uy nghi, đức độ của bậc cha mẹ dân, của ngƣời thay trời hành đạo họ trở thành “vua quỷ” trong mắt dân, thành những kẻ mang đến gánh nặng thổ mộc, thuế má, lao dịch khiến dân đói khổ lƣu li. Thực tế xã hội cần một thánh nhân, một “triều đình mới” để đem lại thời “ vua Nghiêu Thuấn, dân Nghiêu Thuấn” Nguyễn Bỉnh Khiêm khao khát điều đó ông muốn ra tay phù nghiêng đỡ lệch nhƣng ông phải tìm đƣợc vị vua thánh minh, cho nên ông đã chờ đợi, đúng hơn là kiếm tìm. Có lẽ chính vì vậy phải đến đến tận năm 44 tuổi ông mới lều chõng đi thi và đạt điểm tuyệt đối, đỗ đầu cả 5 trƣờng. Điều ấy cho thấy sự chậm trễ với thi cử không phải vì vốn liếng học vấn, là vì ông vẫn cần phải quan sát cần suy ngẫm để lựa chọn. Và ông đã lựa chọn đƣợc quyết định, khi ông thấy ở Mạc Đăng Doanh có đƣợc những dấu hiệu của một vị vua đáng phò tá, có thể tạo điều kiện để ông thực hiện lý tƣởng “phù nguy”. Sau khi thi đỗ, Nguyễn Bỉnh Khiêm làm quan tới chức Tả Thị Lang bộ lại, Đông Các Đại học sĩ đƣợc 8 năm đến năm 1542 ông dâng sớ xin chém 18 tên lộng 35
  42. thần, nhƣng không đƣợc nghe theo nên ông đã xin nghỉ quan lui về ở ẩn. Ông là một nhà trí thức tự do, không chịu ràng buộc vào một thế lực chính trị nào. Những đặc điểm ấy đã tạo ra một Nguyễn Bỉnh Khiêm với những quan niệm sống nhàn riêng của mình. Nguyễn Bỉnh Khiêm dâng sớ xin chém 18 tên lộng thần là vì ông chỉ muốn trăm họ đƣợc an vui, những ngƣời tàn tật, mù lòa cũng cho họ có đƣợc nghề ca hát, bói toán nhƣng điều ông mong muốn đã không đựoc chấp nhận, từ đó ông nhận thấy một xã hội đảo lộn với các thế lực lộng quyền trong đó có con rể của Mạc Đăng Doanh là Phạm Dao. Nên để giữ phẩm giá cao khiết của mình Nguyễn Bỉnh Khiêm đã lui về ở ẩn sống một cuộc sống nhàn dật. Với Nguyễn Bỉnh Khiêm, sống “ nhàn” là sống hạnh phúc hạnh phúc do trị đƣợc cái bệnh của bản thân (“y ngô”), cái bệnh cố hữu ham công danh của ngƣời nho sĩ. Hạnh phúc là do đƣợc tự làm chủ bản thân, điều mà Nguyễn Bỉnh Khiêm gọi là tự tại. Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm là “an nhàn”, Trạng Trình cũng chính là ông tiên nhàn, nhƣ chính ông đã tự nhận an nhàn ngã thị địa trung tiên. Nhà thơ rời bỏ triều đình có vẻ nhƣ rất nhẹ nhàng, tự nhiên không viện vào một danh nghĩa to tát nào, nhƣ “treo ấn từ quan”, “không chịu khom lƣng vì cái lƣơng năm đấu gạo” Tất nhiên Nguyễn Bỉnh Khiêm đều nhắc đến những vấn đề cốt lõi của đạo đức nho gia nhƣ: Danh lợi, quân tử, tiểu nhân, trong đục nhƣng dƣờng nhƣ những vấn đề cũng đồng đẳng với mối quan tâm của ông là cuộc sống tự do, tự tại nơi làng quê, mối quan hệ cùng xóm giềng, thiên nhiên và một vùng biển rộng mở. Nguyễn Trãi có Côn Sơn là miền ẩn cƣ, có bài thơ Côn Sơn ca nhƣ một lời tuyên ngôn về quan niệm nhàn ẩn. Nguyễn Bỉnh Khiêm thì có Trung Tân quán, có am Bạch Vân đây là nơi ông đƣợc sống nhàn, cũng là nơi tạo cho ông nguồn cảm hứng bất tận để sáng tác thơ với chùm đề tài thể hiện quan điểm rõ ràng của ông về nhàn dật là sự xa 36
  43. lánh danh lợi, công danh để đƣợc sống thung dung tự tại giữa thiên nhiên, hòa nhập với thiên nhiên. Trong bài Trung Tân quán bi ký (Bài ký trên văn bia quán Trung Tân) ông viết về vùng quê nơi ông chọn làm chốn ẩn dật của mình với một hứng thú thực sự: Mùa thu năm Nhâm Dần (năm 1542) tôi bỏ việc quan về nghỉ ở làng, bèn triệu các vị cao niên trong làng cùng du ngoạn ở bến Trung Tân, trông xa phía Đông là biển, nhìn phía Tây là kênh; ngắm phía Nam là dòng Liêm Khê, nào là Trung Am, Bích Động trước sau kế tiếp, cúi nhìn phía Bắc là Tuyết Giang, nào chợ Hàn, đò Nhật ôm bên tả hữu; một con đường lớn chạy ngang ở giữa, ngựa xe tấp nập, chẳng biết là dài mấy ngàn dặm vậy. Đọc bài ký ta có thể thấy rằng: Bỏ việc quan về làng nhƣng Nguyễn Bỉnh Khiêm không hề “lánh đời” ông chọn nơi trung tâm, phía xa là rừng là biển, gần là sông là ngòi, có chợ có bến đò, có cầu và “một con đƣờng lớn chạy ngang ở giữa, ngựa xe tấp nập” Trƣớc khi hòa mình với thiên nhiên ông đã tìm đến con ngƣời, dành mối quan tâm ƣu tiên cho những con ngƣời bình thƣờng. Với sự trở về của ông làng quê dƣờng nhƣ trở nên sinh sắc hơn, hƣớng thiện hơn, các vị già làng đã cùng ông “quyên góp của nhà” để làm quán. Ngôi quán giúp cho ngƣời đi đƣờng có chỗ nghỉ ngơi, cũng gợi ý cho ngƣời ta một quan niệm sống: sự chí thiện: Trung nghĩa là trung chính vậy . Trung ở chỗ nào thì chí thiện ở chỗ đó. Có thể thấy khi trở về Nguyễn Bỉnh Khiêm có một ƣớc vọng lớn lao đó là: Xây dựng ở quê hƣơng ông một vùng quê mà ngƣời dân coi “chí thiện” là chuẩn mực. Có thể nói rằng, nhà thơ lựa chọn cho mình cuộc sống thanh khiết tránh xa tiền tài, danh vọng trong xã hội mà trắng đen lẫn lộn ấy, nhƣng ông vẫn luôn mang trong mình trách nhiệm và nghĩa vụ của một nhà nho đó là truyền thụ đạo lý, răn dạy con ngƣời giúp con ngƣời hƣớng đến sự “chí thiện” của con ngƣời làm sống dậy tính thiện trong con ngƣời. 37
  44. Nguyễn Bỉnh Khiêm giống nhƣ là “ông tiên” bên dòng sông Tuyết đã sống một cuộc sống thật hòa đồng với thiên nhiên. Cũng nhƣ Nguyễn Trãi ông bầu bạn với gió trăng, vui với thơ rƣợu: Tính thơ dại cũ hãy còn đeo, Nẻo được nhàn thì kẻo có nghèo. Bến nguyệt thuyền kề hai bãi mía, Am mây của khép một cần pheo. Cá tôm tối chác bên kia bến, Củi đuốc ngày mua mé nọ đèo. Khách đến hỏi: nào song viết? Nữa rằng: còn một túi thơ treo. (Thơ Nôm, bài 35) Từng nhiều lần nhƣ Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm đắm mình trong thiên nhiên. Ông thấp thỏm sợ vẻ đẹp mong manh của một bong hoa, làn hƣơng mà ông đã “nƣơng song” chờ đợi dễ tan, dễ vỡ: Nƣơng song ngày tiếc mùi hƣơng lọt, Nối chén đêm âu bóng quế tan. (Thơ Nôm, bài 23) Đêm đợi trăng cài bóng trúc, Ngày chờ gió thồi tin hoa. (Thơ Nôm, bài 17) Và ông đã sống những ngày ẩn dật thật thƣ thái, vui vẻ: Đèo núi vỗ tay cười khúc khích, Rặng thông vắt cẳng hát nghêu ngao. Đòi nơi phong nguyệt vui thay đấy, Dầu phận công hầu bận được nao. (Thơ Nôm, bài 143) Đọc những vần thơ nhƣ vậy, tƣởng chừng nhƣ Nguyễn Bỉnh Khiêm đã quên hết mọi điều thế sự, đã quay lƣng lại với cuộc đời; hoặc nếu không thế, 38
  45. thì cũng giống nhƣ Nguyễn Công Trứ phải giành lấy cho mình những ngày hoàn toàn phóng túng: Ngoài vòng cương tỏa chân cao chân thấp để dù có lên chùa lễ Phật đi nữa cũng vẫn dắt theo chân đủng đỉnh một đôi dì. Nhƣng không, khác với mọi ẩn sĩ khác ngoài những lúc nhàn dật bầu bạn với nƣớc, với hoa, với trăng, gió, đá, ghềnh, cần câu Nguyễn Bỉnh Khiêm trở lại quê hƣơng làm trách nhiệm của một ngƣời thầy, một bậc “kì lão” trong làng, với những ngƣời dân chất phác, đôn hậu nhƣng không hiếm những thói hƣ tật xấu. Chính những ngày ẩn dật tại quê hƣơng, ông đã tìm thấy trong cuộc sống giữa thiên nhiên sự bình tĩnh và lắng đọng của tâm hồn, có thể nói rằng Nguyễn Bỉnh Khiêm ra làm quan và xin về hƣu nhiều lần điều này chứng tỏ rằng hai quan điểm của ông: ông không hám công danh, không thích quyền thế, điều đáng quý nhất ở con ngƣời ông là mặc dầu công danh và chức tƣớc vào loại bậc nhất nhƣng ông vẫn không hám. Ông khinh bỉ bọn hám danh lợi, coi giàu sang là cái không đáng để tâm tới, giàu sang cũng rất nguy hiểm nhƣng đƣợc giàu sang thì ông cũng không phải là muốn cự tuyệt, có điều ông có không mừng, mất không tiếc. Làm quan chức tƣớc cao thì chỉ càng thêm lo lắng không đƣợc sống với bản tính tự nhiên của mình. Thanh nhàn giữ được tính tự nhiên, Non nước cùng ta đà có duyên. Dắng dỏi bên tai cầm suối, Dập dìu trước mặt tán sen. (Thơ Nôm, bài 125) Ông thong dong trong không gian đó, chống gậy tre, đi guốc mộc, dạo chơi đi chùa, nhà mở cửa suốt ngày đón bất kỳ ai. Với chùm bài về Trung Tân quán, Ngụ hứng, Tự thuật ta thấy rằng Nguyễn Bỉnh Khiêm có một không gian sống nhàn khá đắc ý: 39
  46. Vân Am am ngoại Tuyết giang tân, Vị bốc u cư thả trạch lân. Bất mãi khê tuyền kham tị tục, Vô tư môn quán tối nghi nhân. Hứng tùy Tạ tướng du sơn kịch, Túy bả đào, công sai nhuận cân. Hao hạ ngẫu phùng thi khách đáo, Tương tương huề thủ thoại tình thân. (Loạn hậu ức Cao Xá hữu nhân, bài 3) (Bến Tuyết bên ngoài am Bạch Vân, Dựng nhà, sông bến láng giềng gần. Suối khe, lánh tục không mua nổi, Am quán cùng dân có bạn thân. Hứng đến guốc tre dạo quanh núi, Say rồi rƣợu đậu tƣới đầm khăn. Dƣới hoa bỗng gặp vài thi khách, Cùng dắt tay nhau chuyện Tấn Tần.) Rõ ràng Nguyễn Bỉnh Khiêm không lánh đời mà rất coi trọng việc chia sẻ. Nơi ẩn cƣ của Trạng Trình không phải một Lục dã đƣờng mà là quán Trung Tân, am Bạch vân mở cửa suốt ngày. Ở đó ông đƣợc cùng chung vui buồn, lo lắng với dân với xóm, hòa đồng gần gũi không có gì ngăn cách. Tự điếu điền viên lão bệnh thân, Ngư hà vi lữ điểu vi lân. Thủy biên mao ốc than thanh cận, Trúc ngoại sài môn nguyệt sắc tân. Kỳ nhật trước lai tiêu tử hạ, Tửu niên túy bả lạc dư xuân. 40
  47. Hưu luân hành dĩ tùy thanh trọc, Đạo đại phương năng hỗn thế trần. (Loạn hậu ức Cao Xá hữu nhân, bài 2) (Tự ngạo, bệnh già vƣờn ruộng thân, Cá tôm, cò vạc láng giềng gần. Hàng tre trƣớc cửa trăng ngời sáng, Nhà của ven sông song lớp vần. Đƣợc nƣớc cờ hay quên nóng hạ, Say bầu rƣợu cũ vui tàn xuân. Đục trong hành chỉ bàn chi nữa, Đạo đức cao thì sống với dân.) Có lẽ hiếm có khi tìm thấy đƣợc một lời khuyên nhƣ Nguyễn Bỉnh Khiêm: “Đạo đức cao thì sống với dân” thực chất Trạng Trình về nghỉ, nhàn mà không nhàn, cũng không phải ông đã can tâm bỏ cuộc. Khi ông từ quan lui về quê hƣơng, ông vẫn yêu dân giáo dƣỡng ngƣời dân và khẳng định một điều quan trọng trong bản lĩnh nhân cách của kẻ sĩ không phải là “độc thiện kì thân” mà là sự hòa đồng với mọi ngƣời đó là sự khác biệt của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ông dù tàng, dù ẩn thì cũng là lựa chọn một cuộc sống xa lánh danh lợi và những tranh giành, đua chen để đƣợc thanh cao, thung dung, tự tại, giữa thiên nhiên bình dị. Nhƣng trên hết vẫn trách nhiệm của một kẻ sĩ, quan tâm đến thế sự và đau đáu một nỗi niềm: Đã ngoài mọi việc chăng còn ước, Ước một tôi hiền chúa thánh minh. (Bạch Vân thi tập, bài 29) Hà thời tái đồ Đường Ngu trị, Y cựu kiền khôn nhất thái hòa. (Ngụ hứng, bài 2) 41
  48. (Bao giờ lại thấy đời Nghiêu Thuấn, Xoay lại kiền khôn buổi thái hòa). Nguyễn Bỉnh Khiêm dù “hành” hay “tàng”, “xuất” hay “xử” thì ông vẫn luôn mang trên mình vai trò của một ngƣời thầy uy vọng để dẫn dắt ngƣời dân chất phác của quê hƣơng đạt đến “chí thiện”. Trạng Trình đau xót trƣớc cảnh thế xã hội mà ông cho là “đục lầm”. Ở đấy con ngƣời không những đen bạc, trọng của hơn ngƣời mà còn bon chen, lật lọng, cạn tàu ráo máng Phát hiện ra bao nhiêu thói xấu ngự trị trong con ngƣời, làm cho con ngƣời cơ hồ mất đi tất cả vẻ đẹp hồn hậu, tuy vậy Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng không tỏ ra ghét bỏ mà càng xót thƣơng chúng sinh không đƣợc sống một cuộc sống yên vui nhƣ một cuộc sống đáng lẽ ra họ phải đƣợc hƣởng. Tận đáy lòng, ông vẫn tin ở cái phần tốt đẹp, cái chí thiện sẵn có trong mỗi con ngƣời. Bởi vậy, dù căm ghét sự bạc ác, bất nhân nhƣng ông không lánh xa trần thế. Ông hƣớng đến một tình cảm cao cả hơn, sâu sắc hơn là tìm cách cải tạo con ngƣời, giúp họ gạt bỏ những thói xấu, tăng thêm những nết tốt. Với tƣ cách một bậc thầy, một triết nhân ung dung tự tại, ông tỏ lời khuyên bảo các hạng ngƣời khác nhau trong xa hội phải sống đúng với chức phận của mình, phải giữ vững kỷ cƣơng, đạo lý trong quan hệ ứng xử giữa con ngƣời với con ngƣời. Nhƣ vậy có thể thấy Nguyễn Bỉnh Khiêm về sống cuộc sống nhàn ẩn là nhằm giữ vững phẩm giá, lý tƣởng của mình. Hàng loạt những bài “giới, khuyến” (răn, khuyên) của ông chính là nhằm mục đích ấy. Khuyên con thờ cha mẹ, khuyên anh em không tranh giành lẫn nhau, khuyên chồng thƣơng vợ, nàng dâu kính thờ cha mẹ chồng, bạn bè, hàng xóm, họ hàng đối xử tốt với nhau; răn ngƣời có lòng tham, ngƣời ham sắc, ham cờ bạc, cậy sang mà kiêu ngạo, coi thƣờng ngƣời nghèo, răn ngƣời hay tin nhảm 42
  49. Mỗi một bài là một bài học đạo đức giản dị nhƣng sâu sắc và gần gũi đến nay vẫn còn giá trị thời cuộc. Trạng Trinh đã có những ngày tháng ẩn dật, thanh nhàn, sống chan hòa với thiên nhiên thân thuộc bình dị của quê hƣơng. Thơ ông đã miêu tả đƣợc cuộc sống nhàn ẩn, đắm mình trong thiên nhiên. Chẳng hạn cái vui trong trẻo vô tƣ của con ngƣời gắn liền với niềm vui giản dị, trong trẻo của thiên nhiên nhƣng ở đó chứa đựng một niềm vui sống thực sự. Trăng thanh gió mát là tương thức, Nước biếc non xanh ấy cố tri. (Thơ Nôm, bài 90) Mịch đắc thôn khê, địa nhất triền, Nhàn lai ngô diệc, lạc ngô thiên. Hiểu lâm thái phố, sương niêm lý, Dạ phiếm ngư ky, nguyệt mãn thuyền. (Ngụ hứng, bài 4) (Tìm đƣợc một miếng đất ở cạnh con khe trong làng, Khi thanh nhàn ta cũng vui với tính tự nhiên của ta. Buổi sáng đến vừờn rau, sƣơng dính vào dép, Ban đêm chơi ở ghềnh xóm chài, trăng rọi đầy thuyền.) Và cũng giống nhƣ nhiều văn nhân trung đại khác, nông thôn ít nhiều vẫn là một miền an lạc, thanh bình, là nơi lẩn trốn lý tƣởng của kẻ sĩ muốn an bần, lạc đạo, tránh những eo xèo, nơi kẻ chợ bộn bề danh lợi. Một mai, một cuốc, một cần câu, Thơ thẩn dầu ai vui thú nào. Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ, Người khôn người tới chốn lao xao. Thu ăn măng trúc đông ăn giá, Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao. 43
  50. Rượu đến cội cây ta sẽ uống, Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao. (Thơ Nôm, bài 79) Khát uống chè mai, hơi ngọt ngọt, Sốt kề hiên nguyệt, gió hiu hiu. Giang sơn tám bức là tranh vẽ, Hoa cỏ tứ mùa ấy gấm thêu. (Thơ Nôm, bài 3) Đó là cảnh thiên nhiên quen thuộc của làng quê Việt Nam, là cuộc sống nhàn dật, đạm bạc đến mức trong trẻo, vô tƣ. Nguyễn Bỉnh Khiêm từ giã chốn quan trƣờng, chốn chen đua danh lợi, tiền tài về sống với thiên nhiên, ông nhàn nhƣng ông không hề xa lánh cuộc đời, xa lánh con ngƣời. Ông tiếp tục thực hiện trách nhiệm của một ngƣời thầy, trách nhiệm của một bậc kỳ lão trong làng truyền thụ đạo lý cho những ngƣời dân đen, những con ngƣời bình thƣờng, ông luôn hƣớng ngƣời dân đến sự “chí thiện” đến các mối quan hệ tốt đẹp giữa con ngƣời với con ngƣời. Nguyễn Bỉnh Khiêm tìm đƣợc lạc thú cá nhân trong các cuộc cờ, chén rƣợu, thú đọc sách, làm thơ, câu cá, uống chè. Không những vậy, Trạng Trình còn tìm thấy sự đầm ấm ở những ngƣời bán cá, bán củi, những ngƣời bạn thơ, bạn rƣợu gần gũi trong làng. Lẻ thẻ bên sông bảy tám nhà, Thú nhàn mừng thấy bạn ngâm nga. Thơ nên ngồi đợi vừng đan quế, Rượu chuốc han tìm ngõ Hạnh Hoa. Lục ỷ tiếng thanh đêm tựa ngọc, Lan châu chèo vỗ nước bằng là. Ít nhiều ngày tháng qua thì chớ, Tiêu sái ta thìn, vẹn chí ta. (Thơ Nôm, bài 127) 44
  51. Điều mà ông nhàn Trạng Trình tìm thấy trong cuộc sống mà ông đã lựa chọn ở làng quê là những giá trị tinh thần, sự thoải mái ở tâm, là niềm vui thanh nhã, hồn hậu dân dã khi đƣợc gần gũi với thiên nhiên. Đặc biệt trong cuộc sống nhàn dật ở quê hƣơng ông đã có thể thực hiện đƣợc phần nào đấy ƣớc nguyện của bản thân là đem những kiến thức, tri thức mà mình có đƣợc để dạy cho những ngƣời dân hiền lành, dạy cho họ cách sống nhƣ thế nào với cha, với mẹ, với anh chị em và với mọi ngƣời xung quanh, cách làm ngƣời chân chính. Nội đắc tâm thân lạc, Ngoại vô hình dịch lụy. (Cảm hứng) (Bên trong đƣợc cái vui của tâm, của thân, Bên ngoại khỏi có cái lụy hình hài, bị sai khiến.) Nguyễn Bỉnh Khiêm là một ngƣời thầy giáo coi trọng đạo lý, không quan tâm đến vật chất, danh lợi, tiền tài. Vì thế mà ông luôn giữ đƣợc tấm lòng nhẹ nhõm, thanh tịnh. Có chẳng giữ giàng, không phải lụy, Được chăng háo hức, mất chăng âu. (Thơ Nôm, bài 28) Trong những vần thơ của ông, hậu thế còn thấy đƣợc niềm vui trẻ trung, trong sáng ở ông và cả nỗi niềm vui mừng đƣợc thoát khỏi vòng danh lợi: Thoát chân khỏi chốn giàu sang, Tuổi già mong được chữ nhàn thong dong. Hương lan gom tứ thơ nồng, Tiếng chim gọi khách ngoài song ngọt ngào. (Ngụ hứng, bài 6) 45
  52. Nhìn chung thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm cho thấy một cuộc sống giản dị nhƣng lại rất thú vị, qua đó thể hiện một sự tinh tế hiếm có trong cách cảm nhận về thiên nhiên cuộc đời. Đêm đợi trăng cài bóng trúc, Ngày chờ gió thổi tin hoa. (Thơ Nôm,bài 19) Nguyễn Bỉnh Khiêm là một ông thơ nhàn, nhàn tự tại, hòa đồng và là nhà thơ đạo lý. Ông là một nhà trí thức tự do, ngƣời thầy dạy học mà học vấn không lệ thuộc vào khoa cử, quan trƣờng, không gắn chặt với một thế lực chính trị nào. Nguyễn Bỉnh Khiêm - một nhà nho áo vải “một bậc đại nho bình dân”. Đến với cuộc sống nhàn dật Trạng Trình vừa thỏa tính tình, vừa giữ gìn đƣợc phẩm giá cá nhân của mình, nhƣng trên hết đó là tấm lòng ƣu ái tâm hồn thanh cao tự tại và trí tuệ hơn ngƣời của ông. Trạng Trình từ sự hiều biết đạo lý, kết hợp với sự suy tƣ và thể nghiệm triết lý ấy trong đời sống xã hội và rồi ông đã tìm ra đƣợc một đáp số: Sống theo lẽ tự nhiên, vui với đạo trời, biết số mệnh,an nhiên tự tại, lấy “nhàn” làm quan niệm nhân sinh có lạc thú không phụ đạo quên đời. Lý tòng phi ẩn sát hồ thiên, Ngư diệc diên phi khế tự nhiên. (Trung Tân quán ngụ hứng) (Xét theo lý ở trời, đời loạn thì ở ẩn, Cá nhảy diều bay, là hợp lẽ tự nhiên.) Nhàn ở Nguyễn Bỉnh Khiêm không phải là thái độ sống vô trách nhiệm, cuồng phóng. Trong thơ ông, các từ “ nhàn, tiên, vô sự”: có nghĩa là an nhiên, tự tại, không đua tranh danh lợi, giữ chọn phẩm giá giữa cõi đời lố nhố, những đống lợi gò danh. Nhàn là không để dục vọng làm mờ ám lƣơng tâm, làm vẩn đục tâm hồn, là không tham dự vào những hành động tội lỗi, ô nhục 46
  53. của ngƣời đời, là “khép cửa ải danh lợi ồn ào phiền não lại” (Trung Tân quán ngụ hứng), “không chịu dấn thân vào nguy cơ của giàu sang” (Ngụ hứng) vì “từ xƣa lợi danh rút cuộc là mang vạ vào thân” (Tự thuật). Nhàn cũng là cảnh sống thỏa thích trong cảnh trí non xanh nƣớc biếc, bạn bè với trăng trong gió mát, với ông già lão thực, trẻ thơ hồn toàn, ấm áp tình ngƣời trong hƣơng đồng gió nội, mây sớm trăng khuya. Nguyễn Bỉnh Khiêm tuy đỗ trang và làm quan trong một xã hội đảo điên, nhƣng ông lại coi thƣờng danh lợi, phú quý: Được thua thấy đã ít nhiều phen, Để rẻ công danh đổi lấy nhàn. Am Bạch Vân rồi nhàn hứng, Dặm hồng trần vắng ngại chen. Ngày chầy họp mặt hoa là khách, Đêm vắng hay lòng nguyệt hóa đèn. Chớ chớ thờ ơ nhìn mới biết, Đỏ thì son đỏ mực thì đen. (Nhẹ đường công danh) Hai câu kết cho thấy, theo ông chỉ có cái tâm nhàn siêu thoát thì mới có thể nhìn thấy danh lợi, sự vật nhƣ thật, đỏ đen, phải trái phân minh. Những bài thơ nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm mộc mạc, giản dị mà sâu sắc mỗi bài thơ mang một thông điệp đạo đức, nội dung đạo đức sâu sắc để cải tạo con ngƣời xấu trở nên tốt, từ ác thành thiện: Xóm tự nhiên nhiên lều một căn, Quét không thay thảy bụi hồng trần. Sớm uống chè thung hơi ngát ngát, Hôm kề hiên nguyệt tỏ làu làu. Vung thùng tưới cúc ba thằng nhỏ, 47
  54. Đỏ lửa hâm trà một mụ hầu. Đó là cảnh sống nhàn của Trạng Trình nhàn cả ở thân và nhàn cả trong tâm. Tâm nhàn là tâm siêu thoát, không vƣơng vấn thế tục lợi danh, đó là cái nhàn mà đạo Phật đề cao, cái nhàn sống ở giữa đời mà vẫn vui với đạo, cái nhàn của một ngƣời đã đoạn tuyệt với tham, sân, si, cái nhàn của ngƣời sống có đạo đức, sống trong sáng. Trong thời đại mà chuyện đôi co, giành giật, chuyện nay đƣợc mai mất diễn ra phổ biến, thì sống “ nhàn “ đƣợc xem là lối sống của bậc trí giả. Nguyễn Bỉnh Khiêm còn xem lối sống nhàn là lối sống của bậc hiền nhân. Tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến tội lỗi, tội ác, thói đời đen bạc, xem nặng của hơn ngƣời, chiến tranh tƣơng tàn, núi thây sông máu , thấy tất cả đều có một căn bệnh chung, đó là do “dạ tƣ thiên”, do tƣ dục vị kỷ. Vì vậy mà ngƣời sống nhàn là ngƣời đã ngăn đƣợc tƣ dục vị kỷ xấu xa, đó là một việc cực kỳ khó khăn, do đó ngƣời sống nhàn xứng đáng đƣợc tôn là bậc thánh hiền: Dù ai ngăn được lòng tư ấy, Ta ắt nhường cho đấng thánh hiền. (Thơ Nôm, bài 124) Chữ “nhàn” vốn không thuộc phạm trù đạo đức nhƣng trong tƣ tƣởng sống “ nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm nhƣ đã trở thành một chuẩn tắc đạo đức. Nó là chuẩn tắc đạo đức cần thiết đề ra trong “thời nguy”. Trong tƣ tƣởng đạo lý sống “nhàn” Trạng Trình muốn phê phán đả kích các đối tƣợng đó là những ngƣời “ở triều đình thì tranh nhau cái danh, ở chợ búa thì tranh nhau cái lợi”. Đó là những kẻ vì quyền lợi ích kỷ của tập đoàn, của dòng họ mà tiến hành những cuộc giao tranh đẫm máu, đem đất nƣớc thống nhất vốn là “của chung” cắt thành những mảnh “tƣ”. Trong một thời đại mà chế độ phong kiến bƣớc vào giai đoạn suy yếu, giai cấp phong kiến chƣa phải đã mất hết tính tích cực lịch sử của nó, Nguyễn Bỉnh Khiêm có khinh ghét, nhƣng 48
  55. ông vẫn còn hy vọng ngăn ngừa, hạn chế cái căn bệnh hiểm nghèo vừa mới phát sinh trong con ngƣời cùng thời. Có thể thấy Nguyễn Bỉnh Khiêm dù tàng hay ẩn, nhƣng ông không ngoảnh đi, trái lại chăm chú nhìn vào đời, sẵn sàng làm những gì đời cần đến, chỉ miễn là không phải lao vào vòng danh lợi, làm hoen ố tấm lòng trung trinh của một nhà nho chí sĩ. Ông hành ít mà tàng thì nhiều, xuất ít mà xử nhiều chỉ bởi lẽ ông không gặp thời, không thi thố đƣợc tài kinh bang tế thế phải lui về sống ở quê suốt một thời gian dài trong khi vẫn ƣớc vọng đến một xã hội có vua sáng tôi hiền. Trạng Trình đã sống mãi trong lòng nhân dân trở thành một chỗ dựa tinh thần không thể thiếu giúp họ từ bỏ đƣợc cái xấu, cái ác mà hƣớng tới cái tốt, cái thiện. Quãng đời ở ẩn của ông chính là quãng thời gian mà ông sống nhiều nhất thể hiện cái chí của mình đạt hơn cả. Quãng đời ấy đã tỏ rõ nhân cách của ông- một coi ngƣời có tấm lòng yêu nƣớc thƣơng dân, luôn muốn nhân dân hãy sống với cái thiện mà mình có, hƣớng nhân dân đạt đến sự “chí thiện” và ƣớc mơ nhân dân đƣợc sống trong một xã hội có vua sáng tôi hiền. Xã hội điên đảo, cƣơng thƣờng đảo lộn nhƣng Nguyễn Bỉnh Khiêm đã chọn cho mình cuộc sống nhàn để giữ vững đƣợc phẩm giá cao khiết trong sáng của chí cả ông là để trong nhàn dật. Để nói đến quan niêm sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm chúng ta không thể không kể đến tác phẩm Thơ Nôm, bài 79 (Nhàn) trong chƣơng trình THPT. Nhàn là một tác phẩm đƣợc Nguyễn Bỉnh Khiêm sáng tác khi ông cáo quan về ở ẩn để bày tỏ quan niệm về thú thanh nhàn của mình. Không chỉ dừng lại ở đó mà nó còn là quan điểm sống, triết lý sống có tính giáo huấn, cảnh tỉnh với ngƣời đời nhƣng không hề khô khan trái lại tràn đầy cảm xúc bởi nhàn là bài thơ đƣợc nói bằng sự chân thành từ chính trái tim mình bằng sự trải nghiệm của cuộc đời mình. 49
  56. Tác phẩm Nhàn bao trùm hai nội dung: Đó là vẻ đẹp trí tuệ, nhân cách của Nguyễn Bỉnh Khiêm và vẻ đẹp cuộc sống ở Bạch Vân Am của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Vẻ đẹp trí tuệ, nhân cách của Nguyễn Bỉnh Khiêm ( hai câu 3-4. 7-8) Nguyễn Bỉnh Khiêm đƣa ra quan niệm về lẽ sống của mình đó là xuất xử, hành tàng, ƣu thời mẫn thế. Từ đó ông đƣa ra quan niệm sống là trở về nơi núi rừng quê hƣơng, về với thiên nhiên thuận theo tự nhiên, thoát ra ngoài vòng ganh đua của thói tục, không bị lôi kéo cuốn hút bởi tiền tài, chức tƣớc, danh vọng địa vị, để tâm hồn an nhiên thoáng đạt. Vẻ đẹp cuộc sống ( câu 1-2, 5-6) cuộc sống mà Nguyễn Bỉnh Khiêm lựa chọn là cuộc sống lao động nhƣ một ông lão nông tri điền ở nông thôn, một ông tiều nơi rừng núi với những dụng cụ lao động: một mai, một cuốc, một cần câu. Sinh hoạt của ngƣời ẩn sĩ giản dị mà thanh cao, giống nhƣ tiên khách giữa trần gian. Những nhu cầu của ẩn sĩ đều đƣợc thiên nhiên thỏa mãn. Đó là cuộc sống đạm bạc mà ý nghĩa khi con ngƣời đã tìm thấy niềm vui đích thực, niềm vui trong cuộc sống lao động. Đạm bạc với những thức ăn quê mùa, dân dã, là cây nhà lá vƣờn, kết quả của công sức lao động mà có. Bằng mọi giác quan và tâm hồn tƣơi trẻ, mộc mạc. Nguyễn Bỉnh Khiêm đang tìm đến tận hƣởng cuộc đời thanh nhàn, sung túc cả vật chất lẫn tinh thần. Nếu nhƣ ở hai câu đề nhân vật trữ tình xuất hiện nhƣ một ông lão nông đang say sƣa trƣớc đời, quê kiểng thanh nhàn, thì đến hai câu thực lại thấp thoáng bóng hình của một triết nhân đang lên tiếng lựa chọn cho mình một phƣơng châm sống. Trạng Trình đã nhìn thấy cuộc sống của nhân dân chứa đựng vẻ đẹp cao cả một triết lý nhân sinh vững bền. Nhân cách của Nguyễn Bỉnh Khiêm đối lập với danh lợi nhƣ nƣớc với lửa: Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ, Người khôn người tới chốn lao xao. 50
  57. Nguyễn Bỉnh Khiêm về với thiên nhiên, sống hòa thuận theo tự nhiên là thoát ra ngoài ganh đua của thói tục, là không muốn bị cuốn hút bởi tiền tài, địa vị để tâm hồn an nhiên khoáng đạt. Hai câu thực là một cách phân biệt rõ ràng nhà thơ với những ai, những thú vui nào về ranh giới nhận thức cũng nhƣ đứng giữa cuộc đời. Nghệ thuật đối xuất sắc giữa các đại từ “ta”(một mình tự tại, kiêu hãnh) với “ngƣời” (số đông hỗn tạp, tầm thƣờng). Giữa các tính từ “dại” (khờ khạo, kém cỏi) với “khôn” (sắc sảo, tinh ma) Bản thân Nguyễn Bỉnh Khiêm đã nhiều lần khẳng định dại, khôn theo cách nói ngƣợc này. Bởi vì ngƣời đời lấy lẽ dại, khôn để tính toán, tranh giành thiệt hơn cho nên thực chất dại- khôn là thói thực dụng, ích kỷ và dục vọng thấp hèn làm tầm thƣờng con ngƣời. Mƣợn cách nói ấy Nguyễn Bỉnh Khiêm chứng tỏ đƣợc một chỗ đứng cao hơn và đối lập với bọn ngƣời mờ mắt vì danh lợi. Tự nhận mình là dại vì theo đuổi cuộc sống thanh đạm, thoát khỏi vòng danh lợi để giữ tâm hồn thanh nhàn. Cũng là ca ngợi chữ nhàn. Cũng là triết lý sống nhàn nhƣng nhàn Nguyễn Trãi là nhàn bắt buộc, buộc phải nhàn. Thân nhàn mà trí chẳng nhàn. Trong khi đó nhàn Nguyễn Bỉnh Khiêm là tự nguyện ông thức nhận và tự lựa chọn. Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ, Người khôn người tới chốn lao xao. Nguyễn Bỉnh Khiêm có hoài bão giúp vua làm trăm dân hạnh phúc nhƣng triều đình đang tranh giành quyền lực, nhân dân đói khổ, ƣớc mơ của ông không đƣợc xét đến, nhƣ vậy Nguyễn Bỉnh Khiêm từ bỏ chốn lao xao là đáng trân trọng, đó là lựa chọn của một bậc đại trí,đại tài. Cặp đối “tìm” (chƣa xã định nên vất vả nhọc nhằn tìm kiếm) với “đến” (đã xác định rõ ràng nên đơn giản, ngƣời ngƣời lũ lƣợt đua chen). Đối giữa 51
  58. các phép ẩn dụ “nơi vắng vẻ” (thƣa vắng con ngƣời đó là nơi bình yên không phải bận tâm lo nghĩ) với “chốn lao xao” (đầy tiếng ngƣời đua chen, nơi ngƣời hang thịt nguýt ngƣời hàng cá, đứa bán bò rèm đứa bán trâu.) Qua phép đối ấy Nguyễn Bỉnh Khiêm khẳng định cho thái độ sống của mình. Ông muốn chứng tỏ một chỗ đứng cao hơn và đối lập với bọn ngƣời mờ mắt vì bụi phù hoa, giữa chốn lao xao nơi mà: Miệng thế gian nhọn hơn chông mác nhọn, Lòng người quanh nữa nước non quanh. Nguyễn Bỉnh Khiêm chủ động trong việc tìm nơi vắng vẻ, không vƣớng bụi trần. Trạng Trình đã cƣời cợt vào thói đời bằng cái nhếch môi lặng lẽ mà sâu cay, phê phán cả một xã hội chạy theo danh lợi, bằng tƣ thế của một chính nhân quân tử không bận tâm những trò khôn dại ở đời. Tìm thấy sự thanh cao, tìm thấy sự thƣ thái của tâm hồn, Nguyễn Bỉnh Khiêm vui, niềm vui thốt lên thành lời: “thơ thẩn dầu ai vui thú nào”. Niềm vui nhƣ hiện lên trong bƣớc đi ung dung thơ thẩn. Rượu đến cội cây ta sẽ uống, Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao. Nguyễn Bỉnh Khiêm nói lên thái độ sống dứt khoát đoạn tuyệt với công danh phú quý. Phú quý đi liền với chức quyền đối với Nguyễn Bỉnh Khiêm chỉ là cuộc sống của bọn bạc ác, thủ đoạn, giẫm đạp lên nhau mà sống. Bọn chúng là bầy chuột lớn gây hại cho nhân dân mà ông vô cùng căm ghét và lên án trong bài thơ Tăng thử (Ghét chuột) của mình. Bởi thế có thể hiểu thái độ sống “nhìn xem phú quý tựa chiêm bao” cũng là cách nhà thơ lựa chọn con đƣờng sống gần gũi, chia sẻ với nhân dân. Cuộc sống đạm bạc mà thanh cao của ngƣời bình dân đáng quý trọng vì đem lại sự thanh thản cũng nhƣ giữ cho nhân cách không bị hoen ố, vẩn đục trong xã hội chạy theo đồng tiền, công danh, địa vị. Cội nguồn triết lý của Nguyễn Bỉnh Khiêm gắn liền với quan 52
  59. niệm sống tốt đẹp của nhân dân. Nhân vật trữ tình lãng đãng say sƣa với thú nhàn, ung dung nhìn đời: “nhìn xem phú quý tựa chiêm bao”, thản nhiên đến vô ƣu, bình thản trƣớc những điều nhìn thấy. Nguyễn Bỉnh Khiêm liên tƣởng phú quý chỉ tựa nhƣ giấc chiêm bao, giấc mơ đẹp của ngƣời xƣa, không coi thƣờng nhƣng cũng không ham thích. Giấc mơ cũng chỉ là thứ không tồn tại đích thực, vì thế ông càng không lấy phú quý làm lẽ sống, phú quý danh lợi là cái gốc đẻ ra, sinh ra những chốn lao xao nên ta chỉ dại, ngƣời khôn ta từ chối nó đứng ngoài mọi cuộc đua chen. Nguyễn Bỉnh Khiêm quan niệm rằng cái còn lại vĩnh hằng và bất tử với cuộc đời này chính là nhân cách con ngƣời. Quan niệm ấy có thể khiến Trạng Trình thong dong mà sống một cách đầy bản lĩnh, nhàn tản, trong sạch giữa cuộc đời đang bị đảo lộn mọi giá trị. Thêm một lần nữa nhân cách và bản lĩnh lớn lao của ông đƣợc ngƣời đời vị nể. Đạo lý trong triết lý sống nhàn của Trạng Trình có ý nghĩa với mọi thời đại và nó càng có ý nghĩa trong xã hội hiện đại ngày nay khi mà đồng tiền, danh lợi, phú quý đang ngự trị mà điều khiển con ngƣời chúng ta vào guồng quay của nó. Nó làm thức tỉnh bản tính xấu tồn tại trong mỗi ngƣời. Trong xã hội này có biết bao nhiêu con ngƣời bị công danh, phù hoa bụi trần làm mờ mắt, bán đi nhân cách và nhân phẩm của mình. Có những quan chức vì lợi nhuận cá nhân mà sẵn sàng chà đạp lên tính mạng của ngƣời dân vô tội, ăn hối lộ, bòn rút của công. Có những ngƣời chỉ vì tranh chấp nhau một miếng đất làm rẫy mà có thể nhẫn tâm giết hại cả gia đình họ. Dƣờng nhƣ xã hội càng tiến bộ thì con ngƣời chúng ta càng trở nên nhẫn tâm hơn thì phải? Nhiều học sinh, sinh viên hiện nay bất chấp hoàn cảnh gia đình mà chạy theo những mốt ăn mặc sành điệu, bạo lực học đƣờng, sex để đƣợc nổi tiếng, để thách thức với cuộc đời, để đạt đƣợc những điều mình muốn. Nhiều cô ca sĩ, ngƣời mẫu vì danh tiếng mà bán đi danh dự của mình. Con ngƣời vì đồng tiền 53
  60. mà sẵn sàng chiếm đoạt tính mạng của ngƣời khác các vụ cƣớp của giết ngƣời xảy ra ngày càng nhiều và ngày càng tinh vi hơn và nó đã xảy ra cả ở các em đang ở vị tuổi thành niên. Ngƣời con, ngƣời cháu sẵn sàng giết chết bố mẹ, ông bà của mình để lấy tiền ăn chơi. Trong xã hội ngày nay khi mà khoa học công nghệ phát triển nhƣ vũ bão, con ngƣời phải chạy đua với guồng quay của cuộc sống cho kịp thời đại, chạy đua với sức mạnh nhƣ vũ bão của đồng tiền khi tiền bạc, danh lợi làm mờ mắt con ngƣời. Có thể nói đạo lý trong triết lý sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm nhƣ một lời thức tỉnh, cảnh tỉnh bản thân mình và có tác dụng cảnh tỉnh ngƣời đời.Lời khuyên và cách sống ấy còn đúng và sống mãi trong xã hội đặc biệt là trong xã hội hiện nay. Danh vọng, tiền tài chỉ là phù du cũng nhanh chóng qua đi tất cả cùng đi vào hƣ vô không còn nghĩa lý gì sau khi khép con mắt lại thật nhẹ nhàng. Nguyễn Bỉnh Khiêm nhƣ muốn truyền cho chúng ta một thông điệp qua bài thơ Nhàn là con ngƣời sống trên đời nên tuân theo lẽ đời, thuận theo tự nhiên sống cho thanh thản, đừng vì dục vọng của mình mà bất chấp tất cả. Mỗi con ngƣời đều có cuộc sống riêng và mỗi ngƣời đều chọn cho mình con đƣờng đi đến thành công khác nhau. Có ngƣời thành công nhờ học tập, có ngƣời thành công nhờ kinh doanh nhƣng cũng có ngƣời thành công nhờ trồng cây, nuôi cá Nếu ai cũng học đƣợc đạo lý mà Nguyễn Bỉnh Khiêm gửi gắm qua bài thơ Nhàn thì xã hội chũng ta sẽ không còn những cảnh ganh đua, giẫm đạp lên nhau để sống, không còn những cảnh chiến tranh chiếm đoạt quyền lợi khiến bao ngƣời phải đổ máu, không còn những bài báo, những cảnh tƣợng làm đau đớn lòng ngƣời, sẽ không còn những vết hoen ố làm mất đi vẻ đẹp của tổ quốc ta, của dân tộc ta. Mỗi chúng ta hãy sống chậm lại và cảm nhận vẻ đẹp của cuộc sống để biết rằng có những thú vui rất đơn giản nhƣng cũng đủ làm cho con ngƣời ta 54
  61. hạnh phúc. Cuộc sống chỉ thực sự ý nghĩa khi chúng ta làm chủ cuôc đời mình. 55
  62. KẾT LUẬN Có thể nói, trong nền văn học viết của dân tộc vấn đề đạo lý luôn đƣợc các nhà văn, nhà thơ đào sâu nghiên cứu. Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng không phải ngoại lệ, ông đứng trên lập trƣờng đạo lý để bộc lộ quan niệm sống của mình. Những suy ngẫm gắn kết với đạo lý của nhân dân, thể hiện một nhân sinh quan lành mạnh giữa thời cuộc đảo điên. Trƣớc tiên trong tác phẩm của Nguyễn Bỉnh Khiêm ngƣời ta sẽ bắt gặp rất nhiều yếu tố hiện thực xã hội. Ông phê phán gay gắt các cuộc chiến tranh phi nghĩa giữa các tập đoàn phong kiến, họ vì lợi ích của bản thân mình mà đẩy nhân dân vào bao cảnh đau lòng, chết chóc, đói khổ, áp bức, loạn lạc, biệt ly. Từ đó Nguyễn Bỉnh Khiêm kêu gọi kẻ sĩ, ngƣời hiền tài trong thiên hạ hãy ra giúp nƣớc cứu đời. Ông mơ ƣớc thịnh trị nhƣ thời Đƣờng ngu. Nguyễn Bỉnh Khiêm với tinh thần đạo lý đã đứng về phía nhân dân lao động để phê phán, phản đối chiến tranh. Những tƣ tƣởng đó của ông đã vƣợt ra ngoài lợi ích của kẻ thống trị, vƣợt ra ngoài sách vở, giáo lý thánh hiền để gắn liền với cảnh ngộ thực tế của ngƣời dân đang rên xiết vì chiến tranh trong giai đoạn này. Trong xã hội loạn lạc đảo điên ấy, truyền thống dân tộc cũng trên đà suy thoái. Nguyễn Bỉnh Khiêm đau khi quan hệ giữa ngƣời với ngƣời không phải vì tình nghĩa mà vì tiền bạc và danh lợi. Đạo lý trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm còn đƣợc thể hiện trong việc giáo dục thiên hạ. Thơ văn ông chính là những lời khuyên răn, giáo huấn nhân dân sống theo đạo lý. Ông muốn đem đạo đức thánh hiền phổ biến trong nhân dân, làm cho con ngƣời nhận thức đƣợc những đạo lý của cuộc sống. Những đạo lý mà Nguyễn Bỉnh Khiêm đề ra không khô khan, lý trí nhƣ đạo nho mà qua thơ văn ông đã trở nên đầm ấm, giàu cảm xúc. Nguyễn Bỉnh Khiêm răn dạy nhân dân đối với cha mẹ phải là sự hỏi han, săn sóc, anh em với nhau là tình thƣơng máu mủ, vợ chồng với nhau là tình nghĩa tao khang, thủy chung, 56
  63. sự gắn bó chia sẻ. Đặc biệt Nguyễn Bỉnh Khiêm nhấn mạnh đạo hiếu sinh và tấm lòng từ thiện của con ngƣời. Trƣớc thời cuộc đen bạc những lời giáo huấn của Nguyễn Bỉnh Khiêm lại càng có ý nghĩa làm cho xã hội nhân văn, tốt đẹp là mơ ƣớc lí tƣởng của ông. Trong xã hội loạn lạc, đảo điên ấy Nguyễn Bỉnh Khiêm đã chọn cho mình cuộc sống nhàn để giữ gìn phẩm giá, khí tiết. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã tìm về với nhân dân tránh xa nơi lợi danh huyên náo, nhƣng không phải là trốn tránh, cách biệt với thế giới bên ngoài, xa vời cuộc sống. Nguyễn Bỉnh Khiêm trở về với công việc của một ngƣời thầy, bậc tao nhân truyền thụ đạo lý cho nhân dân lao động. bản chất chữ “nhàn” của nguyễn bỉnh Khiêm là nhàn thân và nhàn tâm. Nhàn mà vẫn lo âu việc nƣớc, việc đời. Thơ đạo lý của Nguyễn Bỉnh Khiêm góp phần củng cố và làm phong phú thêm truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, con ngƣời Việt Nam. 57
  64. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Đỗ Huy (2005), “Nguyễn Bỉnh Khiêm và những tƣ tƣởng đạo đức của ông”, Triết học, tr.22-27. [2] Đinh Gia Khánh (1997), Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nxb. Hà Nội. [3] Đinh Gia Khánh, Bùi Duy Tân, Mai Cao Chƣơng (1997), Văn học Việt Nam từ thế kỷ X Đến hết thế kỷ XVIII, Nxb. Giáo dục Hà Nội. [4] Bùi Văn Nguyên (1986), Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nxb. Hải Phòng. [5] Bùi Văn Nguyên (1994), Truyện danh nhân Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nxb. Hải Phòng. [6] Vũ Đức Phúc (1986), “Tƣ tƣởng chính trị và xã hội của Nguyễn Bỉnh Khiêm qua thơ văn ông”, Tạp chí Văn học số 4. [7] Nguyễn Hữu Sơn (1990), “Khảo sát cái nhìn đạo lý trong Văn học cổ điển dân tộc”, Tạp chí Văn học số 6, tr.60-65. [8] Trần Thị Băng Thanh Và Vũ Thanh tuyển chọn và giới thiệu (2001), Nguyễn Bỉnh Khiêm về tác gia tác phẩm, Nxb. Giáo dục Hà Nội. [9] Lã Nhâm Thìn (1997), Thơ Nôm Đường luật, Nxb. Giáo dục Hà Nội. [10] Trần Nho Thìn (2012), Văn học từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XIX, Nxb. Giáo dục Việt Nam. [11] Trần Nguyên Việt (2000), “Vấn đề con ngƣời trong tƣ tƣởng triết học của Nguyễn Bỉnh Khiêm”, Triết học, tr. 50-55. [12] Trần Ngọc Vƣơng (Chủ biên) (2007), Văn học Việt Nam từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XIX, Nxb. Giáo dục Việt Nam.