Khóa luận Tìm hiểu vai trò của phụ nữ dân tộc Thái trong phát triển kinh tế hộ trên địa bàn xã Chiềng Hoa - Huyện Mường La - tỉnh Sơn La
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Tìm hiểu vai trò của phụ nữ dân tộc Thái trong phát triển kinh tế hộ trên địa bàn xã Chiềng Hoa - Huyện Mường La - tỉnh Sơn La", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- khoa_luan_tim_hieu_vai_tro_cua_phu_nu_dan_toc_thai_trong_pha.pdf
Nội dung text: Khóa luận Tìm hiểu vai trò của phụ nữ dân tộc Thái trong phát triển kinh tế hộ trên địa bàn xã Chiềng Hoa - Huyện Mường La - tỉnh Sơn La
- ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM CÀ THỊ NGUYỆN Tên đề tài: "TÌM HIỂU VAI TRÒ CỦA PHỤ NỮ DÂN TỘC THÁI TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ HỘ TRÊN ĐỊA BÀN XÃ CHIỀNG HOA HUYỆN MƯỜNG LA - TỈNH SƠN LA” KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Hệ đào tạo: Chính quy Chuyên ngành: Phát triển nông thôn Khoa: Kinh tế & PTNT Khóa học 2015 – 2019 Thái Nguyên, năm 2019
- ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM CÀ THỊ NGUYỆN Tên đề tài: "TÌM HIỂU VAI TRÒ CỦA PHỤ NỮ DÂN TỘC THÁI TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ HỘ TRÊN ĐỊA BÀN XÃ CHIỀNG HOA HUYỆN MƯỜNG LA - TỈNH SƠN LA” KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Hệ đào tạo: Chính quy Chuyên ngành: Phát triển nông thôn Khoa: Kinh tế & PTNT Khóa học 2015 – 2019 Giảng viên hướng dẫn: ThS. Trần Thị Ngọc Thái Nguyên, năm 2019
- i LỜI CẢM ƠN Sau một thời gian học tập và nghiên cứu, đến nay em đã hoàn thành bài báo cáo thực tập tốt nghiệp theo kế hoạch của trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên với tên đề tài:"Tìm hiểu vai trò của phụ nữ dân tộc Thái trong phát triển kinh tế hộ trên địa bàn xã Chiềng Hoa huyện Mường La - tỉnh Sơn La”. Có được kết quả này lời đầu tiên em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến Cô giáo Thạc sĩ Trần Thị Ngọc -Giảng viên khoa Kinh tế và phát triển nông thôn giáo viên hướng dẫn em trong quá trình thực tập. Cô đã hướng dẫn và chỉ bảo tận tình cho em những kiến thức lý thuyết và thực tế cũng như các kỹ năng trong khi viết bài, chỉ cho em những thiếu sót và sai lầm của mình để em hoàn thành bài báo cáo thực tập tốt nghiệp với kết quả tốt nhất. Cô luôn động viên và theo dõi sát sao quá trình thực tập và cũng là người truyền động lực cho em, giúp em hoàn thành tốt đợt thực tập của mình. Em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới các phòng, cán bộ UBND xã Chiềng Hoa đã nhiệt tình giúp đỡ em, cung cấp những thông tin và số liệu cần thiết để phục vụ cho bài báo cáo. Ngoài ra, các cán bộ xã còn chỉ bảo tận tình, chia sẻ những kinh nghiệm thực tế trong quá trình công tác, đó là những ý kiến hết sức bổ ích cho em sau này khi ra trường. Đã tạo mọi điều kiện giúp em hoàn thành đợt thực tập tốt nghiệp này. Em cũng xin cảm ơn người dân xã Chiềng Hoa đã tạo điều kiện cho em trong thời gian ở địa phương thực tập. Em xin chân thành cảm ơn sự tận tình dạy dỗ của các thầy cô trong khoa Kinh tế và Phát triển nông thôn trường Đại học Nông lâm Thái Nguyên. Sau nữa em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới gia đình, bạn bè đã luôn bên cạnh động viên em trong những lúc khó khăn. Thái Nguyên, ngày tháng 5 năm 2019 Tác giả Cà Thị Nguyện
- ii DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng 2.1. Phân biệt Giới và Giới tính 5 Bảng 4.1: Hiện trạng sử dụng đất năm 2018 28 Bảng 4.2: Diện tích, năng xuất, sản lượng một số cây trồng chính của xã năm 2018 32 Bảng 4.3: Số lượng gia súc, gia cầm của xã Chiềng Hoa giai đoạn 2016 -2018 33 Bảng 4.4: Lao động xã Chiềng Hoa chia theo giới tính giai đoạn 2016 – 2018 35 Bảng 4.5: Tình hình chung của các hộ điều tra 37 Bảng 4.6: Cơ cấu phụ nữ tham gia lãnh đạo cấp ủy Đảng, chính quyền và đoàn thể năm 2018 40 Bảng 4.7: Tỷ lệ nữ làm chủ hộ và tham gia quản lý điều hành sản xuất 41 Bảng 4.8: phân công lao động trong hoạt động sản xuất nông nghiệp 2018 44 Bảng 4.9: Phân công lao động trong trong hoạt động nội trợ và chăm sóc con cái 2018 46 Bảng 4.10: Tình hình quản lý vốn vay của hộ 48 Bảng 4.11: Phân công lao động trong Hoạt động kinh doanh hàng hóa và dịch vụ 2018 50 Bảng 4.12: Phân công lao động trong hoạt động sản xuất lâm nghiệp năm 2018 51 Bảng 4.13: Tỷ lệ nữ tham gia hoạt động cộng đồng năm 2018 52 Bảng 4.14: Quan điểm của các hộ nông dân về các công việc và vai trò phụ nữ trong gia đình 54 Bảng 4.15: Nhận thức của các hộ nông dân về việc học của con gái 55
- iii MỤC LỤC PHẦN 1. MỞ ĐẦU 1 1.1. Đặt vấn đề 1 1.2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài 2 1.2.1. Mục tiêu chung 2 1.2.2. Mục tiêu cụ thể 3 1.3. Ý nghĩa của đề tài 3 1.3.1. Ý nghĩa về mặt học tập 3 1.3.2. Ý nghĩa về mặt thực tiễn 3 PHẦN 2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU 4 2.1. Cơ sở lý luận của đề tài 4 2.1.1. Một số khái niệm 4 2.1.2. Khái niệm về hộ gia đình và kinh tế hộ gia đình 8 2.1.3. Quan điểm về tăng trưởng và phát triển kinh tế 9 2.1.4. Vai trò của phụ nữ trong gia đình và xã hội 10 2.1.5. Những yếu tố ảnh hưởng đến vai trò của người phụ nữ trong phát triển kinh tế gia đình 14 2.2. Cơ sở thực tiễn của đề tài 16 2.2.1. Thực trạng vai trò của phụ nữ trên thế giới và ở Việt Nam 16 2.2.2. Một số vấn đề đặt ra với phụ nữ nông thôn 19 PHẦN 3. ĐỐI TƯỢNG NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 23 3.1. Đối tượng nghiên cứu 23 3.2. Phạm vi nghiên cứu 23 3.3. Nội dung nghiên cứu 23 3.4. Phương pháp nghiên cứu 23 3.4.1. Phương pháp chọn mẫu nghiên cứu 23 3.4.2. Phương pháp thu thập số liệu 24 3.4.3. Phương pháp tổng hợp và phân tích số liệu 25
- iv PHẦN 4. DỰ KIẾN KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 27 4.1. Đặc điểm địa bàn nghiên cứu 27 4.1.1. Điều kiện tự nhiên 27 4.1.2. Tình hình kinh tế xã hội 31 4.2. Thực trạng chung của các hộ điều tra trên địa bàn xã Chiềng Hoa – huyện Mường La – tỉnh Sơn La. 37 4.2.1.Thông tin chung về các hộ điều tra 37 4.3. Thực trạng hoạt động và vai trò của phụ nữ trong phát triển kinh tế trên địa bàn xã Chiềng Hoa. 39 4.3.1. Hoạt động và vai trò của phụ nữ trong phát triển kinh tế xã hội tại địa bàn xã 39 4.3.2. Thực trạng vai trò phụ nữ trong phát triển kinh tế hộ gia đình 41 4.4. Những thuận lợi và khó khăn trong việc phát huy vai trò của phụ nữ trên địa bàn xã Chiềng Hoa – huyện Mường La – tỉnh Sơn La 56 4.4.1. Thuận lợi 56 4.4.2. Khó khăn 56 4.5. Đề xuất các giải pháp chủ yếu nhằm phát huy vai trò của phụ nữ xã Chiềng Hoa, huyện Mường La, tỉnh Sơn La trong phát triển kinh tế hộ 58 4.5.1. Nâng cao nhận thức của xã hội về vai trò của phụ nữ 58 4.5.2. Nâng cao trình độ cho người phụ nữ 59 4.5.3. Tăng cường khả năng tiếp cận và kiểm soát các nguồn lực của phụ nữ trong phát triển kinh tế hộ gia đình 60 4.5.4. Tăng cường sự tham gia của phụ nữ vào hoạt động cộng đồng 61 4.5.5. Trong việc thực hiện các chính sách, kế hoạch, chương trình dự án phát triển của địa phương cần đặc biệt quan tâm đến vai trò, sự tham gia của phụ nữ 61 Phần 5. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 63 5.1. Kết luận 63 5.2. Kiến nghị 64 5.2.1. Đối với Nhà nước 64
- v 5.2.2. Đối với các cấp chính quyền và đoàn thể địa phương 64 5.2.3. Đối với người đối với phụ nữ dân tộc Thái 65 TÀI LIỆU THAM KHẢO 66
- vi DANH MỤC CÁC TỪ, CỤM TỪ VIẾT TẮT Chữ viết tắt Nghĩa BMI Chỉ số về khối lượng cơ thể BQ Bình quân TW Trung ương THCS Trung học cơ sở THPT Trung học phổ thông CT Chỉ thị DT Diện tích ĐVT Đơn vị tính HĐND Hộ đông nhân dân UBND Uỷ ban nhân dân QĐ Quyết định NQ Nghị quyết CNH-HĐH Công nghiệp hóa – hiện đại hóa KH Kế hoạch KHHGĐ Kế hoạch hóa gia đình TBVTV Thuốc bảo vệ thực vật
- 1 PHẦN 1 MỞ ĐẦU 1.1. Đặt vấn đề Phụ nữ có vai trò quan trọng trong đội ngũ đông đảo những người lao động trong xã hội. Bằng lao động sáng tạo của mình, họ đã và đang đóng góp phần làm giàu cho xã hội hội, làm phong phú cuộc sống con người. Phụ nữ luôn thể hiện vai trò của mình trên các lĩnh vực đời sống xã hội, cụ thể về lĩnh vực hoạt động vật chất, phụ nữ là lực lượng trực tiếp sản xuất ra của cải để nuôi sống con người. Không chỉ sản xuất ra của cải vật chất, phụ nữ còn tái sản xuất ra con người để duy trì và phát triển xã hội. Phụ nữ cũng không ngừng làm phong phú nền văn hóa văn hóa nhân loại. Nền văn hóa dân gian của bất cứ nơi nào, dân tộc nào cũng có sự tham gia bằng nhiều hình thức của đông đảo phụ nữ. Ở Việt Nam, phụ nữ chiếm trên 50% dân số cả nước, họ tham gia vào tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng và càng ngày càng thể hiện vị trí và va trò của mình trong xã hội. Suốt chặng đường đấu tranh dựng nước, giữ nước và xây dựng đất nước, lịch sử Việt Nam đã ghi nhận những cống hiến to lớn của phụ nữ. Cuộc sống đổi mới đất nước của Đảng và Nhà nước, họ luôn giữ gìn, phát huy và nêu cao tinh thần đoàn kết, trách nhiệm, năng động, sáng tạo, khắc phục mọi khó khăn để vườn lên cuộc sống và hoàn thành xuất sắc trên mọi lĩnh vực. Trong gia đình, phụ nữ vừa làm con dâu, người vợ, người mẹ, người thầy của các con, người thầy thuốc của gia đình. Đảng và Nhà nước ta ngày càng quan tâm phát huy vai trò của phụ nữ trong xã hội, tạo điều kiện thuận lợi cho phụ nữ tham gia vào tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng Ở khu vực nông thôn, cùng với việc tích cực tham gia vào quá trình phát kinh tế gia đình mỗi phụ nữ còn tham gia nhiều hoạt động xã hội, ổn định an ninh quốc phòng địa phương làm thay đổi diện mạo khu vực nông thôn Việt Nam.
- 2 Chiềng Hoa là một xã miền núi, vùng sâu vùng xa của huyện Mường La với mật độ dân số khá đông đúc. Trong đó thì phụ nữ chiếm trên 55% tổng dân số và lao động nữ chiếm số đông, chủ yếu là lao động trong sản xuất trực tiếp trong lĩnh vực nông nghiệp. Ngày ngày hộ làm việc tần tảo sớm hôm chăm sóc cho gia đình chăm lo cho con cái, thế nhưng vai trò của phụ nữ đến nay chưa được khẳng định rõ rệt.những quan niệm xưa cũ về họ vẫn được duy trì, phụ nữ chỉ cần chăm lo tốt cho chồng con và làm việc gia đình, việc đồng áng, trong khi trên lĩnh vực kinh tế - chính trị tiếng nói của họ vẫn chưa được khẳng định. Đây là lý do để em nghiên cứu đề tài. Quá trình phát triển kinh tế ở vùng nông thôn nói riêng và nền kinh tế đất nước nói chung nhiều câu hỏi được đặt ra rằng: Vai trò của phụ nữ trong phát triển kinh tế nông thôn hiện nay như thế nào? Thực trạng vai trò của phụ nữ trong phát triển kinh tế nông thôn hiện nay ra sao? Giải pháp nhằm tháo gỡ những khó khăn trong qua trình phát triển và nâng cao năng lực cho phụ nữ? Vì vậy, nghiên cứu về vai trò của phụ nữ nông thôn xã Chiềng Hoa trong việc phát triển kinh tế được đặt ra như một yêu cầu cấp bách, từ đó đề xuất một số giải pháp có tính khả thi nhằm phát huy hơn nữa vai trò của lực lượng này, qua đó góp phần thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế địa phương và nâng cao vị thế của phụ nữ tại địa phương. Xuất phát từ tính cấp thiết trên tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Tìm hiểu vai trò của phụ nữ dân tộc Thái trong phát triển kinh tế hộ trên địa bàn xã Chiềng Hoa - huyện Mường La – tỉnh Sơn La”. 1.2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài 1.2.1. Mục tiêu chung Đánh giá vai trò của phụ nữ dân tộc Thái trên địa bàn xã Chiềng hoa – huyện mường La – tỉnh Sơn La trong phát triển kinh tế hộ, từ đó phân tích những thuận lợi khó khăn và tìm ra những giải pháp nhằm nâng cao vị thế và vai trò của phụ nữ tại địa phương.
- 3 1.2.2. Mục tiêu cụ thể - Phân tích và đánh giá thực trạng vai trò của phụ nữ trong phát triển kinh tế hộ nông thôn tại xã Chiềng Hoa. - Tìm hiểu mặt được và mặt hạn chế cũng như khả năng đóng góp của phụ nữ trong phát triển kinh tế hộ gia đình trong thời gian tới. - Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nang cao vai trò của phụ nữ trong phát triển kinh tế hộ gia đình trong thời gian tới. 1.3. Ý nghĩa của đề tài 1.3.1. Ý nghĩa về mặt học tập - Rèn luyện các kỹ năng nghiên cứu khoa học: Thu thập, xử lý số liệu, viết báo cáo. - Đề tài là cơ hội cho sinh viên đi sâu vào vào thực tế, áp dụng kiến thức đã được áp dụng vào thực tế. Tích lũy thên những kinh nghiệm mới cho bản thân nhằm phục vụ cho công tác sau này. Ngoài ra, đề tài còn là cơ hội cho sinh viên được nghiên cứu, tìm hiểu về đời sống của người dân trên địa bàn xã nơi mình đang sinh. 1.3.2. Ý nghĩa về mặt thực tiễn Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ góp phần nhìn nhận đúng hơn về vai trò của người phụ nữ trong phát triển kinh tế hộ trên địa bàn nghiên cứu. Kết quả nghiên cứu có thể góp phần là tài liệu tham khảo cho các cán bộ, ban ngành liên quan có thêm những căn cứ để xây dựng các chương trình dự án nhằm thúc đẩy vai trò phụ nữ trong sản xuất phát triển nông nghiệp, nông thôn.
- 4 PHẦN 2 TỔNG QUAN TÀI LIỆU 2.1. Cơ sở lý luận của đề tài 2.1.1. Một số khái niệm 2.1.1.1. Giới tính, giới Giới tính và giới là hai thuật ngữ đã trở nên quen thuộc. Tuy nhiên, trên thực tế nhiều người vẫn nhầm lẫn và tranh cãi về ý nghĩa của hai khái niệm này hoặc cho rằng cả hai không có gì khác biệt hoặc chỉ muốn nói đến hai nhóm người: phụ nữ và nam giới. Sự không rõ ràng này thường dẫn đến những quan niệm không đúng về sự khác biệt giới dẫn đến bỏ qua sự đa dạng của vấn đề giới trong xã hội. Do đó, co một sự phân biệt tách bạch giữa hai khái niệm này cần thiết, đặc biệt với những người làm công tác xã hội. * Giới tính: là một thuật ngữ được các ngành khoa học xã hội và các nhà sinh học dùng để chỉ một phạm trù sinh học, trong ý nghĩa đó nam và nữ khác nhau về mặt sinh học, tạo nên hai giới tính nam và nữ: nam giới và nữ giới. * Giới: Giới trước hết không phải là phụ nữ. Giới liên hệ đến vai trò của nam và nữ do xã hội hoặc do một nền văn hóa xác lập nên. Giới có thể khác nhau giữa nơi này và nơi khác, giữa nền văn hóa này với nền văn hóa khác và có thể thay đổi theo thời gian. Giới là một thuật ngữ xã hội học bắt nguồn từ nhân học , nói đến vai trò, trách nhiệm và quyền lợi mà xã hội quy định cho nam và nữ. Giới đề cập đến vấn đề phân công lao động, các kiểu phân chia nguồn lực và lợi ích giữa nam và nữ trong một bối cảnh cụ thể. Giới là yếu tố luôn biến đổi cũng như tương quan về địa vị trong xã hội của nữ giới và nam giới, không phải là hiện tượng bất biến mag liên tục thay đổi. Nó phụ thuộc vào điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội cụ thể “giới là sản phẩm của xã hội, có tính xã hội, dùng để phân biệt sự khác nhau trong quan hệ nam và nữ”. Đây là cơ sở để nghiên cứu sự cân bằng về giới và đảm bảo công bằng cho xã hội. Theo SEAGEP (2001) giới và giới tính được định nghĩa như sau:
- 5 Giới tính: là sự khác biệt về mặt sinh học giữa nam giới và phụ nữ không thể thay đổi được. Chỉ có một số khác biệt nhỏ về vai trò cua nam và nữ veef mặt sinh học và sinh lý trên cơ sở giới tính. Ví dụ như việc mang thai, sinh nở và sự khác biệt về sinh lý có thể là do các đặc điểm giới tính. Giới: là sự khác biệt về mặt xã hội giữa nam giới và phụ nữ như vai trò, thái độ, hành vi ứng xử và các giá trị. Vai trò giới được biết đến thông qua quá trình học tập và khác nhau theo từng nên văn hóa và thời gian, do vậy giới có hể thay đổi được. Ví dụ: nữ thường để tóc dài, nam thường để tóc ngắn. Khác với vấn đề giới tính vốn chỉ đề cập tới sự khác biệt sinh học giữa nam giới và phụ nữ , khái niệm giới đề cập đến những khác biệt về mặt xã hội do các nhóm xã hội con người tạo da ra. Những quan niệm về giới luôn nảy sinh từ tính chất của các quan hệ xã hội và của những hình thái tổ chức xã hội hội khác nhau (theo Nguyễn Đức Truyến và Nguyễn Thị Nguyệt Minh,2000). Bản chất xã hội của giới được thể hiện rõ trong sự khác nhau giữa các đặc tính và các hoạt động được coi là của nam giới và nữ giới khi thực hiện so sánh các nền văn hóa, giữa các tầng lớp xã và các nhóm dân tộc trong cùng một nền văn hóa, hoặc thay đổi theo thời (theo Nguyễn Thị Nghĩa và Bùi Thị An, 2002). Bảng 2.1. Phân biệt Giới và Giới tính Giới Giới tính Giới mô tả chúng ta thể hiện nam tính và nữ Giới tính mô tả chúng ta là nam hay tính nữ Giới là: Giới tính: - Được xây dựng bởi nên xã hội: nó là những - Sinh học: đó là những đặc tính thể vai trò, trách nhiệm và hành vi mong đợi ở chất đã có từ khi chúng ta sinh ra. nam và nữ trong một văn hóa hoặc xã hội cụ - Phổ biến: những đặc tính về tình dục thể. giống nhau trên toàn thế giới, nam - Văn hóa: những yếu tố của giới khác nhau giới có dương vật và phụ nữ có âm giữa các nền văn hóa và bên trong các nền văn đạo ở tất cả các nước. hóa. - Bạn được sinh ra với giới tính của - Những vai trò của giới là được học tập: bạn: điều này không thể thay đổi. chúng phát triển và thay đổi theo thời gian
- 6 2.1.1.2. Đặc trưng, nguồn gốc, sự khác biệt về giới * Đặc trưng cơ bản về giới - Do dạy và học mà có - Đa dạng ( khác nhau giữa các vùng miền ) - Luôn biến đổi - Có thể thay đổi được * Nguồn gốc giới Trong gia đình, bắt đầu từ từ khi sinh ra đứa trẻ đã được đối xử và dạ dỗ khác nhau tùy theo nó là trai hay gái. Đó là sự khác nhau về đồ chơi, trang phục, hành vi, cách ứng xử mà cha mẹ, gia đình, nhà trường và xã hội trông chờ ở con trai và con gái. Đồng thời họ cũng hướng dẫn, dạy dỗ trẻ em trai và trẻ em gái theo những quan điểm riềng và cụ thể. Đứa trẻ được dạy dỗ và phải luôn điều chỉnh hành vi của chúng theo giới tính của mình sao cho phù hợp với khuôn mẫu cụ thể của mỗi giới đã được quy định. Sau khi đã hình thành các đặc điểm như vậy, nhà trường và các tập quán xã hội lại tiếp tục củng cố các khuôn mẫu cụ thể mỗi giới (ví dụ: nam thì học thêm các môn kỹ thuật, xây dựng, nữ học thêm các môn nữ công, may thêu ) Các thể chế xã hội như: chính sách, pháp luật cũng có nghĩa làm tăng hoặc giảm sự khác biệt giữa hai giới (ví dụ: ưu tiên nữ trong các nghề y tá, thư ký, nam trong nghề lái xe, cảnh sát ). * Sự khác biệt về giới Phụ nữ được xem là phái yếu, vì một mặt thể lực họ yếu hơn nam giới, họ sống thiên về tình cảm, họ là thành phần quan trọng tạo nên sự yên ấm trong gia đình. Vì vậy phân công lao động giữa hai giới có sự khác biệt. Thiên chức của người phụ nữ là làm vợ, làm me, chăm sóc con cái và gia đình nên họ gắn bó với con cái và gia đình hơn nam giới và cũng từ đấy mối quan tâm của họ cũng có phần khác nam giới.
- 7 Còn nam giới được coi là phái mạnh, là trụ cột gia đình. Họ có thể lực tốt hơn phụ nữ, cứng rắn hơn về tình cảm, mạnh bạo và nhanh nhẹ hơn trong công việc. Đặc trưng này cho phép họ dồn hết tâm trí vào lao động sản xuất, vào công việc xã hội, ít bị ràng buộc bởi con cái và gia đình, họ tập trung hơn vào công việc tạo ra của cải vật chất và công việc xã hội. Chính điều này đã làm tăng thêm khoảng cách khác biệt giữa phụ nữ và nam giới trong xã hội. Hơn nữa do các tác động định kiến xã hội, hệ tư tưởng, phong tục tập quán đối với mỗi giới khác nhau nên phụ nữ thường ít có cơ hội tiếp cận cái mới, trong học tập và tìm kiếm việc làm. Mặt khác, phụ nữ thường bị ràng buộc bởi gia đình và con cái do đó họ ít có cơ hội tham gia các công việc xã hội và cơ hội thăng tiến trong công việc. Sự khác biệt về giới tạo nên khoảng cách giữa hai giới trong xã hội. 2.1.1.3. Nhu cầu, lợi ích giới và bình đẳng giới * Nhu cầu giới thực tế Là những nhu cầu xuất phát từ công việc và hoạt động hiện tại của phụ nữ và nam giới. Nếu những nhu cầu này được đáp ứng để thực hiện tốt vai trò được xã hội công nhận thì sẽ giúp họ làm tốt vai trò sẵn có của mình. Là những nhu cầu được hình thành từ điều kiện cụ thể mà phụ nữ trải qua. Chúng nảy sinh từ những vị trí của họ trong phân công lao động theo giới, cùng với lợi ích giới thực tế của họ là sự tồn tại của con người. Khác với nhu cầu chiến lược, chúng được chính phụ nữ đưa ra từ vị trí của họ chứ không phải qua can thiệp từ bên ngoài. Vì vậy nhu cầu giới thực tế thường là sự hưởng ứng đối với sự cần thiết được nhận thức ngay do phụ nữ xác định trong hoàn cảnh cụ thể. * Lợi ích giới (nhu cầu giới chiến lược) Là những nhu cầu của phụ nữ và nam giới xuất phát từ sự chênh lệch về địa vị xã hội của họ. Những lợi ích này khi được đáp ứng sẽ thay đổi vị thế của phụ nữ và nam giới theo hướng hướng bình đẳng.
- 8 Nhu cầu giới chiến lược được xác định để khắc phục tình trạng thấp kém hơn mỗi giới, chúng có thể thay đổi theo hoàn cảnh xã hội, chính trị và văn hóa cụ thể. * Bình đẳng giới Bình đẳng giới có nghĩa là phụ nữ và nam giới có được địa vị như nhau, có cơ hội như nhau để phát triển tiềm năng và được hưởng thụ bình đẳng và công bằng cũng như lợi ích của sự phát triển. Bình đẳng giới không có nghĩa nam giới và phụ nữ phải như nhau, mà là sự giống nhau và khác nhau giữa nam giới và phụ nữ phải được công nhận và đánh giá một cách bình đẳng. 2.1.1.4. Vai trò giới Dù ở các loại hộ gia đình khác nhau, phụ nữ và nam giới đều thực hiện 3 vai trò: - Vai trò sản xuất: được thể hiện trong lao động sản xuất dưới mọi hình thức để tạo ra của cải vật chất, tinh thần cho gia đình và xã hội. - Vai trò tái sản xuất: bao gồm các hoạt động nhằm duy trì nòi giống, tái tạo sức lao động. Vai trò này không chỉ đơn thuần là tái sản xuất sinh học, mà còn cả việc chăm lo, duy trì, phát triển lực lượng lao động cho hiện tại và tương lai như: nuôi dạy con cái, nuôi dưỡng các thành viên trong gia đình, làm việc nội trợ vai trò này hầu như của phụ nữ. - Vai trò cộng đồng: thể hiện ở những hoạt động tham gia thực hiện ở mức cộng đồng nhằm duy trì và phát triển các nguồn lực cộng đồng, thực hiện các nhu cầu, mục tiêu chung của cộng đồng. 2.1.2. Khái niệm về hộ gia đình và kinh tế hộ gia đình Có rất nhiều quan điểm khác nhau định nghĩa thế nào là hộ có thể nêu một số quan điểm cần quan tâm khi nhận định hộ. * Hộ gia đình: có ba tiêu thức chính thường được nói đến khi định nghĩa khái niệm hộ gia đình:
- 9 - Có quan hệ huyết thống và hôn nhân - Cùng cư trú - Có cơ sở kinh tế chung Theo một từ điển chuyên ngành kinh tế, từ điển ngô ngữ thì hộ được hiểu là: tất cả những người cùng sống trong một mái nhà, bao gồm những người có cùng huyết tộc và những người làm công. Về phương diện thống kê, các nhà nghiên cứu Liên hợp quốc cho rằng hộ là những người cùng sống chung dưới một mái nhà, cùng ăn chung và có chung một ngân quỹ. Đại đa số các hộ ở Việt Nam đều gồm những người có quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống. Vì vậy khái niệm hộ thường được hiểu đồng nghĩa với gia đình,nhiều khi được gộp thành khái niệm chung là hộ gia đình. * Kinh tế hộ gia đình: Kinh tế hộ nông dân là “ các nông hộ thu hoạch các phương tiện sống từ đất, chủ yếu sử dụng lao động gia đình trong sản xuất nông trại, nằm trong hệ thống kinh tế rộng hơn nhưng về cơ bản được đặc trưng bằng việc tham gia một phần thị trường hoạt động với một tốc độ không hoàn chỉnh”. Kinh tế hộ nông dân là hình thức tổ chức kinh tế cơ sở của nền sản xuất xã hội trong đó có các nguồn lực như : đất đai, lao động, tiền vốn, và tư liệu sản xuất được coi là của chung để tiến hành sản xuất . Có chung ngân quỹ , ngủ chung một nhà, ăn chung, mọi quyết định trong sản xuất kinh doanh và đời sống là tùy thuộc vào chủ hộ được Nhà nước thừa nhận, hỗ trợ và tạo điều kiện phát triển” 2.1.3. Quan điểm về tăng trưởng và phát triển kinh tế Tăng trưởng và phát triển kinh tế đôi khi được coi như nhau nhưng thực chất chúng có những nét khác nhau và có liên quan chặt chẽ với nhau. Muốn phát triển kinh tế phải có sự tăng trưởng kinh tế, nhưng không phải sự tăng trưởng kinh tế nào cũng dẫn tới sự phát triển kinh tế.
- 10 Tăng trưởng kinh tế là một trong những vấn đề cốt lõi nhất của vấn đề lí luận kinh tế. Các nhà khoa học đều thống nhất cho rằng: “Tăng trưởng kinh tế là sự tăng thêm hay gia tăng về quy mô sản, lượng của nền kinh tế trong một thời kì nhất định”. Trong khi đó phát triển kinh tế được hiểu là: “Một quá trình lớn lên hay tăng tiến về mọi mặt của nền kinh tế trong một thời kì nhất định trong đó bao gồ cả tăng thêm về quy mô sản lượng và sự tiến bộ về cơ cấu kinh tế”. Phát triển kinh tế xã hội là nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân bằng việc phát triển lực lượng sản xuất, quan hệ xã hội, nâng cao chất lượng lao động văn hóa. Các nước trên thế giới trong phát triển kinh tế nói chung, phát triển nông nghiệp nói riêng đều phải quan tâm đến mục tiêu phát triển đó là: - Tăng khả năng sẵn có và mở rộng việc phân phối các loại hàng hóa thiết yếu cho cuộc sống như phương tiện, nhà ở, y tế và bảo vệ cho tất cả các thành viên trong xã hội. - Tăng mức sống tức là ngoài mục tiêu tăng thu nhập ra còn phải tạo thêm việc làm, cải thiện công tác giáo dục và chú trọng hơn đến giá trị văn hóa, nhân văn. - Mở rộng sự lựa chọn về y tế - xã hội cho các thành viên và các quốc gia bằng cách giúp họ thoát khỏi sự ràng buộc về lệ thuộc không chỉ đối với những người và những quốc gia khác nhau mà còn đối với những áp lực của sự nghèo đói. 2.1.4. Vai trò của phụ nữ trong gia đình và xã hội Trên thế giới, phụ nữ đóng vai trò then chốt trong gia đình về khả năng sản xuất và tái sản xuất. Họ chiếm trên 55% trong tổng dân số lao động; số giờ lao động của họ chiếm 2/3 tổng giờ lao động của xã và sản xuất ra 1/2 trong tổng sản lượng nông nghiệp. Cùng với công việc đàm nhiệm công việc khác nhau, lao động nữ chiếm tỷ lệ ngày càng cao trong các ngành công
- 11 nghiệp, dịch vụ với trình độ không ngừng được nâng cao. Theo kết quả của những công trình nghiên cứu trước cho biết: phụ nữ là người tạo ra phần lớn lương thực tiêu dùng cho gia đình. 1/4 số hộ gia đình trên thế giới do nữ làm chủ hộ và nhiều gia đình khác phải phụ thuộc vào thu nhập của lao động nữ. Tuy vậy, sự bất bình đẳng vẫn còn tồn tại ở rất nhiều nước trên thế giới. Đặc biệt là ở các vùng nông thôn, phụ nữ hạn chế về mọi mặt, đời sống, điều kiện sống và làm việc tồi tàn, địa vị trong xã hội thấp. Trong số hơn 1,3 tỷ người trên thế giới ở trong tình trạng nghèo khổ thì có đến 70% là nữ. Có ít nhất 1/2 triệu phụ nữ tử vong do các biến chứng do mang thai, sinh đẻ Ở Việt Nam ngày nay, phụ nữ chiếm trên 50% dân số và gần 50% lực lượng lao động xã hội, ngày càng có nhiều phụ nữ tham gia vào hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội và giữ những chúc vụ quan trọng trong bộ máy Nhà nước. Hiện có tới 27,3% đại biểu nữ trong Quốc hội. Tỷ lệ nữ tốt nghiệp đại học là 36,24%; thạc sỹ 33,95%; tiến sỹ 25,69%. Tuy nhiên, so với con số trung bình theo quy định của Quốc tế tỷ lệ lao động nữ là đại biểu Quốc hội của Việt Nam chưa đạt và có xu hướng giảm dần. Phụ nữ luôn là nhân tố quan trọng đối với sự phát triển của gia đình và xã hội. Nghĩa vụ công dân và thiên chức làm vợ, làm mẹ của phụ nữ được thực hiện tốt là một trong những yếu tố quan trọng đảm bảo cho sự ổn định và phát triển lâu dài của đất nước. Ngày càng có nhiều phụ nữ thành đạt trong các lĩnh vực kinh tế, khoa học, chính trị và xã hội. Điều đó cho thấy phụ nữ ngày càng có vai trò quan trọng hơn trong các lĩnh vực của xã hội. 2.1.4.1. Vai trò của người phụ nữ trong hoạt động sản xuất phát triển kinh tế gia đình Có thể nói người phụ nữ trong giai đoạn hiện nay trở thành một chủ đề quan trọng trong đời sống các gia đình. Họ cũng là người lao động trong lĩnh vực buôn bán dịch vụ góp phần tạo nên nguồn thu tiền mặt cho gia đình.
- 12 Cùng với chồng, người vợ cũng trở thành người tạo ra thu nhập chính.Ở nông thôn khi mà người chồng đi làm thuê xa kiếm tiền cho gia đình thì người vợ trở thành người lao động chính, họ là chủ thể chính trong phát triển kinh tế hộ nông dân ở nông thôn. Ở thành phố, phụ nữ là lực lượng chính phát triển buôn bán - dịch vụ. Và khi người làm trong các công sở thì lương tháng của họ thì cũng đồng nghiệp nam. Hiện nay thật khó khẳng định một cách chung chung rằng người đóng vai trò quan trọng nhất trong gia đình là người chồng hay người vợ. Trong lao động sản xuất: phụ nữ là người làm ra phần lớn lương thực, thực phẩm tiêu dùng cho gia đình. Đặc biệt là các hộ nghèo sinh sống chủ yếu dựa vào kết quả làm việc của phụ nữ. Ngoài việc tham gia vào lao động sản xuất đóng góp thu nhập cho gia đình, phụ nữ còn đảm nhận chức năng người vợ, người mẹ. Họ phải làm hầu hết các công việc nội trợ chăm sóc con cái, các công việc này rất quan trọng đối với sự tồn tại, phát triển của gia đình và xã hội. Trong sinh hoạt cộng đồng: phụ nữ tham gia hầu hết các hoạt động cộng đồng tại xóm, thôn bản. Như vậy, dù được thừa nhận hay không thừa nhận, thực tế cuộc sống và những gì phụ nữ làm đã khẳng định vai trò và vị trí của họ trong gia đình, trong mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế- xã hội, trong bước tiến của nhân loại, phụ nữ cùng lúc phải thực hiện nhiều vai trò, cho nên họ cần được chia sẻ, thông cảm cả về hành động lẫn tinh thần, gia đình và xã hội cũng cần có những trợ giúp để họ thực hiện tốt hơn vai trò của mình. 2.1.4.2. Vai trò của phụ nữ trong công việc gia đình Công việc ở đây là công việc nội trợ nuôi dưỡng và chăn sóc các thành viên trong gia đình. Nhiều quan niện cho rằng đây là những công việt vặt và không quan trọng. Đây cũng chính là lí do mà vai trò và địa vị của người phụ nữ bị hạ thấp, là cơ sở căn bản tạo nên sự bất bình đẳng nam nữ. Trong nền
- 13 văn minh nông nghiệp, với sự phát triển của đại gia đình, tính gia trưởng của đàn ông được đề cao. Người phụ nữ trong các đại gia đình chỉ là nhưng nhân vật phụ thuộc và vai trò của họ hết sức mờ nhạt. Gánh nặng công việc nội trợ vẫn đè lên vai của người phụ nữ và hầu như chưa có sự chia sẻ của người chồng, người nam giới. Theo kết quả nghiên cứu của Lê Thị Nhâm Tuyết (năm 2008), phụ nữ nông thôn phải làm việc 8-16h/ngày gồm cả công việc nội trợ gia đình và chăm sóc con cái, họ không có thời gian đọc báo, nghe đài, xem văn nghệ trong khi nam giới chỉ làm 7h/ngày. Phụ nữ thành thị có điều kiện hơn do có những dịch vụ và trang thiết bị trong gia đình tốt hơn nhưng thời gian dành cho công việc gia đình vẫn gấp 1,5 lần so với nam giới. Trong việc nuôi dạy con cái, phụ nữ có ảnh hưởng rất lớn. Phần lớn các công việc cho ăn, chăm sóc dạy học phần lớn do người mẹ đảm nhiệm, nhất là thời kỳ em bé còn nhỏ. Sức khỏe và trình độ cũng như kiến thức của người mẹ giúp cho việc nuôi dạy con cái tốt hơn. Phụ nữ cũng được giao trách nhiệm chăm sóc người gia, người bệnh, người tàn tật. Họ phải làm việc vất vả, thời gian dài nhưng không tạo thu nhập ở hoạt động này so với chồng, họ phải chịu thiệt thòi nhiều hơn, thậm chí còn bị hiểu lầm bởi sự khó tính của người già, người bệnh. Rõ ràng vai trò của phụ nữ trở nên hết sức quan trọng trong việc thực hiện những công việc nhằm nuôi dưỡng và tái sản xuất lao động của các thành viên trong gia đình. Nhưng việc đồng thời phải thực hiện hai vai trò quan trọng là làm kinh tế và nội trợ trong gia đình đã làm cho họ tốn rất nhiều thời gian và trí lực. Hiện nay do cho các quan hệ kinh tế - xã hội đã có nhiều thay đổi nhưng quan hệ giới hầu như chưa có những chuyển biến kịp thời. Do vậy phụ nữ thay vì được giải phóng, được chia sẻ trong xã hội hiện đại thì vô hình chung họ trở thành gánh chịu trách nhiệm và chịu nhiều thiệt thòi.
- 14 2.1.5. Những yếu tố ảnh hưởng đến vai trò của người phụ nữ trong phát triển kinh tế gia đình 2.1.5.1. Quan niệm về giới, những phong tục tập quán ở nông thôn Việt Nam là một nước thuộc khu vực Đông Á nên còn lưu giữ rất nhiều những phong tục tập quán kể cả những phong tục cổ hủ lạc hậu. Ở nông thôn, nơi mà sự tiếp cận cơ chế thị trường rất chậm, văn minh thường đến sau cùng, nên những tư tương “trọng nam khinh nữ” có cơ hội cản trở phụ nữ nông thôn tham gia vào các hoạt động xã hội, người dân không dám mạnh bạo làm ăn, hạn chế tính năng động sáng tạo và đương nhiên cản trở vai trò của người phụ nữ. Đặc biệt đối với các dân tộc thiểu số, nơi mà quan niệm về giới và vai trò của giới vẫn còn xu hướng đề cao vai trò của nam giới hơn. Họ cho rằng chỉ có nam giới mới có khả năng đảm đương được các công việc được xem là quan trọng của gia đình, cộng đồng và xã hội. Ngoài gánh nặng công việc gia đình người phụ nữ còn bị cộng đồng đối xử bất bình đẳng, họ rất ít có cơ hội tham gia các hoạt động, hưởng thụ văn hóa tinh thần và tiếp cận với các dịch vụ thông tin. Công việc chính của phụ nữ được thừa nhận là chăm sóc con cái, nội trợ và luôn lệ thuộc vào chồng và con trai. Còn các hoat động học tập, thi cử và quản lý đất nước là do nam giới chi phối. 2.1.5.2. Trình độ học vấn, chuyên môn, khoa học kỹ thuật của người phụ nữ Trình độ học vấn, chuyên môn, khoa học kỹ thuật còn nhiều hạn chế. Ở nông thôn, đặc biệt là miền núi phương tiện nghe nhìn và sách báo đến người dân còn rất nhiều hạn chế, do vậy việc lao động nữ tiếp cận và nắm bắt các thông tin kỹ thuật về chăn nuôi , trồng trọt còn gặp nhiều khó khăn. Ngoài thời gian lao động sản xuất, người phụ nữ dường như ít có thời gian nghỉ ngơi hoặc hưởng thụ văn hóa tinh thần, học hỏi nâng cao hiểu biết kiến thức xã hội mà họ phả giành phần lớn thời gian còn lại cho công việc gia đình. Do vây, phụ nữ bị hạn chế về kỹ thuật chuyên môn kỹ thuật là 6%, còn ở nam giới tỷ
- 15 lệ này là 10%. Theo thông báo của Liên hiệp quốc thì hiện nay trên thế giới còn hơn 840 triệu người bị mù chữ, trong đó nữ chiếm 2/3; trong số hơn 180 triệu trẻ em không được đi học thì có tới 70% là trẻ em gái. Còn ở Việt Nam, theo thống kê cho thấy tỷ lệ lao động nữ không qua đào tao trong cả nước; chỉ có 0,63% công nhân kỹ thuật có bằng là nữ, trong khi chỉ tiêu này của nam giới là 3,46%. Tỷ lệ lao động nữ có trình độ đại học và trên đại học là 0,016%, tỷ này ở nam giới là 0,077% ( gấp 5 lần so với nữ giới ). Điều đó cho thấy trình độ học vấn và chuyên môn nghè nghiệp của phụ nữ là rất thấp và thấp hơn so với nam giới. Phụ nữ bị hạn chế về kỹ thuật, chuyên môn và sự hiểu biết nên gặp không ít khó khăn trong việc nắm bắt kiến thức pháp luật, tìm nguồn vốn, tìm thị trường, khó khăn trong việc tiếp cận và áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất và đời sống. Do vậy, hiệu quả công việc và năng suất lao động của họ thấp. 2.1.5.3. Khả năng tiếp cận thông tin của phụ nữ Do phụ nữ phải đảm nhiệm một khối lượng công việc lớn nên cơ hội để họ giao tiếp rộng rãi, tham gia hoạt động cộng đồng để nắm bắt thông tin rất hiếm. Ở nhiều vùng nông thôn xa xôi hẻo lánh người dân còn chưa hề được tiếp xúc với báo chí và các hình thức truyền tải các thông tin khác. Do vậy, khả năng tiếp cận thông tin của phụ nữ còn rất nhiều hạn chế. 2.1.5.4. Yếu tố chủ quan Một yếu tố không thể không nhắc đến vai trò của phụ nữ đó là nguyên nhân chủ quan do chính họ gây ra, đó chính là quan niệm lệch lạc về giới, ngay cả phụ nữ cũng có cái nhìn không đúng về những vấn đề đó. Chính họ cũng cho rằng những công việc nội trợ, chăm sóc gia đình, con cái là công việc của người phụ nữ. Họ tỏ ra không hài lòng về việc đàn ông thạo việc bếp núc, nội trợ. Trong khi họ lên tiếng đòi quyền bình đẳng thì họ vô tình ràng buộc thêm trách nhiệm cho mình, như vậy vô hình chung họ công nhận cái
- 16 định kiến của xã hội. Vậy nên, công việc gia đình, sản xuất càng đè nặng lên đôi vai phụ nữ khiến họ mệt mỏi cả thể xác lẫn tinh thần, họ không có thời gian cho việc tham gia các hoạt động xã hội, họ tự đánh mất vai trò và vị trí của mình trong gia đình và xã hội. Ta có thể khẳng định rằng, phụ nữ có vai trò đặc biệt quan trọng trong sự phát triển của nhân loại. Có nhiều nguyên nhân cản trở sự tiến bộ của họ trong cuộc sống. Các yếu tố khách quan và chủ quan đã tác động không tốt khiến cho phụ nữ đặc biệt là phụ nữ nông thôn lâm vào vòng luẩn quẩn cua sự nghèo đói và bất bình đẳng. Vì vây, cần phải tiến tới quyền bình đẳng đối với nữ trên toàn thế giới. Bình đẳng nam nữ nhằm giải phóng sức lao động xã hội, xây dựng và củng có thêm nền văn minh nhân loại. 2.2. Cơ sở thực tiễn của đề tài 2.2.1. Thực trạng vai trò của phụ nữ trên thế giới và ở Việt Nam 2.2.1.1. Khái quát về vai trò của phụ nữ ở một số nước trên thế giới Phụ nữ có vai trò quan trọng trong đội ngũ đông đảo những người lao động trong xã hội. Bằng lao động sáng tạo của mình, họ đã góp phần làm giàu cho xã hội, làm phong phú cuộc sống con người. Phụ nữ luôn thể hiện vai trò của mình trong các lĩnh vực đời sống xã hội, cụ thể là trong lĩnh vực vật chất, phụ nữ là một lực lương trực tiếp sản xuất ra của cải để nuôi sống con người. Không chỉ sản xuất ra của cải vật chất, phụ nữ con tái sản xuất ra con người để duy trì phát triển xã hội. Trong lĩnh vực hoạt động tinh thần, phu nữ có vai trò sáng tạo nền văn hóa nhân loại. Nền văn hóa dân gian của bất cứ nước nào, dân tộc nào cũng có sự tham gia bằng nhiều hình thức của đông đảo phụ nữ. Ở Việt Nam, phụ nữ chiếm 50% dân số cả nước, họ tham gia vào tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoa, xã hội, an ninh quốc phòng và ngày càng thể hiện vị trí và vai trò của mình trong xã hội. Trong suốt chặng đường đấu tranh dựng nước, giữ nước và xây dựng đất nước, lịch sử Việt Nam đã ghi
- 17 nhận những cống hiến to lớn của phụ nữ. Trong công cuộc đổi mới đất nước của Đảng, họ luôn giữ gìn, phát huy và nêu cao tinh thần yêu nước, đoàn kết, năng động, sáng tạo, khắc phục mọi khó khăn để vươn lên trong học tập, lao động, phấn đấu để đạt những thành tích xuất sắc trên mọi lĩnh vực. Trong gia đình, mỗi phụ nữ vừa là người con dâu, người vợ, người mẹ, người thầy của các con, người thầy thuốc của gia đình. Đảng và nhà nước ngày càng quan tâm phát huy vai trò của phụ nữ trong xã hội, tạo điều kiện thuận lợi cho phụ nữ tham gia vào tất cả các lĩnh vực kinh tế,văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng Ở khu vực nông thôn, cùng với việc tích cực tham gia vào qua trình phát triển kinh tế gia đình, mỗi phụ nữ còn tham gia nhiều hoạt động xã hội, góp phần quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội, ổn định quốc phòng an ninh ở địa phương thay đổi diện mạo khu vực nông thôn ở Việt Nam. 2.1.4.1. Vai trò của phụ nữ trong hoạt động sản xuất phát triển kinh tế gia đình – xã hội nông hộ * Thực trạng phụ nữ Việt Nam: là một nước có nền nông nghiệp chưa phát triển, Việt Nam hiện có khoảng 80% số người trong độ tuổi lao động sống ở nông thôn, trong đó phụ nữ chiếm 50%, nhưng họ là người yếu thế và thiệt thòi nhất trong xã hội, không được như đội ngũ công nhân, trí thức, phụ nữ nông thôn bị hạn chế bởi trình độ nhận thức. Nhưng họ lại là lực lượng chính tham gia vào hầu hết các khâu sản xuất nông nghiệp như: cấy lúa, nhổ mạ, chăm sóc lúa, sát gạo Hiện tượng tăng tương đối của lực lượng lao động nữ trong nông thôn những năm gần đây là do một số nguyên nhân chính sau: Do sự gia tăng tự nhiên só người trong độ tuổi lao động, hiện nay hàng năm nước ta có khoảng 80- 90 vạn người bước vào tuổi lao động, trong đó: lao động nữ chiếm 55%.
- 18 Do quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế, sắp xếp lại cơ cấu tổ chức của các ngành doanh nghiệp, đa số lao động nữ ở các cơ quan, xí nghiệp bị giảm biên chế, không có việc là phải quay về nông thôn làm việc. Do sự tan rã của thị trường Đông Âu, Nga vào những năm 90, khiến cho các nghề tiểu thủ công nghiệp ở nông thôn Việt Nam mất đi nguồn tiêu thụ hàng hóa, đa số phụ nữ làm nghề này lại chuyển về làm nghề nông nghiệp. Ngoài ra, cơ chế thị trường, do sức cạnh tranh nên nhiều hợp tác xã lâm thủ công nghiệp trên địa bàn nông thôn cũng lâm vào tình trạng phá sản. Kết quả là công nhân chủ yếu là nữ công nhân thuộc các hợp tác xã thủ công này phải trở về nông. * Đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước Việt Nam đối với phụ nữ: sinh thời, chủ tịch Hồ Chí Minh đã rất coi trọng đến việc giải phóng phụ nữ. Bác nhấn mạnh: “ Nếu không giải phóng phụ nữ thì không giải phóng được một nửa loài người”. Người cho rằng, muốn giải phóng phụ nữ trước hết phải giải phóng họ ra khỏi sự trói buộc của tư tưởng trọng nam khinh nữ, ra khỏi sự bất công trong gia đình cũng như xã hội, đồng thời nâng cao vị thế của họ trong xã hội. Thế nên, người đã yêu cầu các ngành, các địa phương phải tạo điều kiện cho phụ nữ tham gia vào mọi lĩnh vực của cuộc sống, để phụ nữ phát huy quyền và khả năng công dân của mình. Tiếp tục kế thừa và phát huy tư tưởng của người, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành và thực hiện không ít những quyết sách mang tính chiến lược đối với vấn đề phụ nữ như: Nghị quyết số 04-NQ/TW, ngày 12/4/1993 của Bộ Chính trị “Về đổi mới và tăng cường vận động phụ nữ trong tình hình mới”, Chỉ thị số 37-CT/TW, ngày 16/5/1994 của Ban Bí Thư Trung ương Đảng khóa VII “về một số vấn đề công tác các cán bộ trong tình hình mới”. Năm 1995, tại Hội nghị lần thứ IV của phụ nữ liên Hiệp Quốc tổ chức tại Bắc Kinh ( Trung Quốc ), các quốc gia đã nhất trí thông qua Cương lĩnh hành động vì sự tiến bộ của phụ nữ đến năm 2000, nhằm thúc đẩy sự tiến bộ và tăng cường
- 19 quyền lực cho phụ nữ trên toàn thế giới. Mỗi quốc gia xây dựng chiến lược của nước mình nhằm thực hiện Cương lĩnh Bắc Kinh. Tại Hội nghị này, chính phủ Việt Nam đã công bố chiến lược phát triển vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam đến năm 2000 với 10 mục tiêu. Tiếp đó, tiếp đó Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 19/2000/QĐ-TTg, ngày 21/01/2002 về phê duyệt Chiến lược và kes hoạch hành động quốc gia về sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam giai đoạn 2001-2010 với mục tiêu là: “Nâng cao chất lượng đời sống vật chất và tinh thần của phụ nữ; tạo mọi điều kiện để thực hiện có hiệu quả các quyền cơ bản và phát huy vai trò của phụ nữ trong mọi lĩnh vực của đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội”. Báo cáo Chính trị tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX (tháng 4/2001) cũng đã khẳng định: đói với phụ nữ thực hiện tốt pháp luật và chính sách bình đẳng giới, bồi dưỡng, đào tạo nghề nghiệp, nâng cao học vấn; có cơ chế chính sách để phụ nữ tham gia ngày càng nhiều vào các cơ quan lãnh đạo và quản lý ở các cấp, các ngành; chăm sóc và bảo vệ sức khỏe bà mẹ và trẻ em; tạo điều kiện để phụ nữ làm tốt nhiệm vụ của người vợ, người mẹ, xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, hạnh phúc. Cùng phụ nữ cả nước, phụ nữ nông thôn đang đóng góp sức lực, trí tuệ cho phát triển kinh tế- xã hội của đất nước.Sự ra đời của Ban vì sự tiến bộ của phụ nữ các cấp đã giúp đỡ, khuyến khích động viên phụ nữ làm tốt vai trò, vị trí của mình. 2.2.2. Một số vấn đề đặt ra với phụ nữ nông thôn 2.2.2.1. Về vấn đề sức khỏe Sức khỏe là một tài sản hết sức quan trọng đối với con người, đối với phụ nữ thì sức khỏe lại càng quan trọng hơn, vì nó không chỉ làm tăng khả năng lao động của phụ nữ mà còn cải thiện chất lượng cuộc sống của họ và các thành viên trong gia đình. Những bà mẹ khỏe mạnh sẽ sinh ra những đứa con khỏe mạnh. Vì thế, quan tâm và cải thiện sức khỏe cho phụ nữ là phương tiện cho phát triển kinh tế và phát triển con người. Mặc dù những năm qua,
- 20 Việt Nam đã đạt được những kết quả khả quan trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe, như nhận xét của các chuyên gia quốc tế: “ Đến năm 1992 Việt Nam đứng hàng thứ hai về tỷ lệ người lớn biết chữ và là một trong những đứng đầu về tiếp cận dịch vụ y tế và đứng đầu về tiếp cận an toàn trong các nước ESEAN”. Tuy nhiên, vẫn còn một số vẫn đề đặt ra về sức khỏe phụ nữ trong nông thôn. * Về sức khỏe thể chất: Qua kết quả khảo sát mức sống dân cư Việt Nam (2000) cho thấy tình trạng đau ốm theo giới tính như sau: 68% (nữ) và 64% (nam). Tình trạng đau ốm của phụ nữ cao hơn nam giới trong nghiên cứu trên đã phản ánh thực tế: sức khỏe của phụ nữ là một vấn đề đáng lo ngại đặc biệt là sức khỏe của phụ nữ các vùng nông thôn có tỷ lệ đau ốm cao hơn: 69,25 và 63,7%. Điều tra mức sống dân cư lần 2 (2000) cho thấy: tỷ lệ đau ốm của người dân khá cao, nông thôn cao hơn thành thị,phụ nữ đau ốm nhiều hơn nam giới (45% và 38%). Nếu xét theo nhóm tuổi trong độ tuổi lao động thì ở một vài nhóm tuổi được xem là “sung sức” hơn cả như: 25-29; 30-34; 40-44 thì tỷ lệ đau ốm của phụ nữ vẫn cao hơn nam giới từ 10% đến 12%. Theo chúng tôi sức khỏe của phụ nữ nông thôn chịu ảnh hưởng của một số yếu tố sau đây: + Lao động vất vả: phụ nữ đảm nhảm khối công việc nhiều hơn nam giới. Thời gian làm việc của phụ nữ dài hơn va căng thẳng hơn. Bên cạnh đó, phụ nữ nông thôn thừơng lao động vất vả trong thời gian mang thái, trong thời này họ vẫn lao động bình thường , thậm trí vẫn lao động nặng trong những tháng cần chú ý giữ gìn để đảm bảo an toàn cho thai nhi. + Môi trường ô nhiễm: với phụ nữ, ảnh hưởng của môi trường ô nhiễm càng nhiều vì thời gian phụ nữ lao động hàng ngày trên đồng ruộng nhiều hơn nam giới nên dễ bị nhiễm độc bởi các hóa chất. Ở nhiều vùng nông thôn Việt Nam có nhiều hồ, ao tù. Đây là nguồn nước chủ yếu của người dân ở nông thôn ( tắm, giặt giũ ) đồng thời tạo điều kiện cho muỗi, ký sinh trùng sinh sôi nảy nở.
- 21 + Lấy chồng sớm, sinh đẻ nhiều: có một điều dễ nhận thấy là Việt Nam còn có hiện tượng tảo hôn. Những năm gần đây, ở các vùng nông thôn hiện tượng tảo hôn, lấy chồng sớm có xu hướng gia tăng b ời nhiều nguyên nhân văn hóa - xã hội, trong đó có nguyên nhân muốn xây dựng gia đình để tách hộ muốn nhận ruộng khoán, nếu kết hôn muojn sẽ không có cơ hội nhận ruộng vì chính sách giao ruộng dài hạn (15 đến 20 năm ). Lấy chồng sớm dẫn đến hệ quả là bên việc chưa được chuẩn bị tốt cả về thể chất, tâm lý làm dâu, làm vợ, làm mẹ lẫn kiến thức nuôi dạy con sự thiếu hiểu biết về dân số - kế hoạch hóa gia đình nên dẫn đến mang thai và sinh nở, nạo hút thai nhiều. + Dinh dưỡng không đảm bảo: năm 1995, một cuộc khảo sát quốc gia về mức độ thiếu vitamin A và suy dinh dưỡng do thiếu protein đã phát hiện 41% tổng số phụ nữ bị suy dinh dưỡng: 26% suy dinh dưỡng hạng 1 (chỉ số về khối lượng cơ thể (BMI) giữa 17,0 và 18,49), 15% độ II và độ III (BMI dưới 17,0). Thiếu máu cũng là hiện tượng phổ biến, một nghiên cứu quy mô nhỏ ở Việt Nam kiểm tra lượng Hemoglobin ở phụ nữ có thai cho thấy: 49% phụ nữ nông thôn có lượng Hb dưới tiêu chuẩn của Tổ chức y tế thế giới. Suy dinh dưỡng ở phụ nữ không chỉ làm tăng tỷ lệ đẻ khó, tai biến tai sản có thể dẫn đến tử vong mẹ mà còn ảnh hưởng đến sức khỏe con cái. Hiện nay, 35% trẻ em Việt Nam bị suy dinh dưỡng. * Sức khỏe về tinh thần Đời sống văn hóa nghèo nàn: Sự đơn điệu trong đời sống văn hóa, thiếu nơi vui chơi giải trí, hội hop sinh hoạt, thiếu thông tin thời sự chính trị, văn hóa, khoa học kỹ thuật và kinh tế, hiện tượng dễ thấy ở nhiều vùng nông thôn hiện nay. Đời sống văn hóa ở vùng nông thôn nghèo nàn là một lý do thúc đẩy thanh niên rời bỏ nông thôn. Do vậy, xóa bỏ sự nghèo nàn trong đời sống văn hóa ở nông thôn là một yêu cầu bức thiết của sự công nghiệp hóa nông thôn, làm điều cũng chính là đẩy mạnh việc truyền bá kiến thức khoa học – kỹ thuật, công nghệ mới, đồng thời nâng cao nhận thức của người dân nông thôn
- 22 về pháp luật, lối sống văn hóa. Hơn nữa, còn ngăn chặn va loại bỏ những các tật xấu như: mê tín, cơ bạc, số đề, bói toán 2.2.2.2. Về chuyên môn kỹ thuật Quá trình chuyển đổi nền kinh tế theo hướng thị trường trong những năm gần đây đã thực hiện giải phóng lao động và đặc biệt là lao động nữ ở nông thôn thoát ra khỏi những ràng buộc của cơ chế kế hoạch hóa tập trung, nhưng chưa thực sự giải phóng họ khỏi những ràng buộc của thể chế và tập quán của nền kinh tế truyền thống, cùng với thiếu hụt về cả năng lực và điều kiện của lao động nữ trong sản xuất, kinh doanh. Sự nghiệp công nghiệp nông nghiệp nông thôn không thể thành công nếu người dân ở nông thôn chỉ có kinh nghiệm được tích lũy theo năm tháng mà thiếu hiểu biết về khoa học, kỹ thuật và công nghệ mới. Với phụ nữ nông thôn hiện nay, trong quá trình sản xuất kinh doanh, họ có một quan điểm nổi bật là sự khéo léo, sự tính toán giỏi giang và thành đạt chủ yếu dựa vào kinh nghiệm cá nhân của mỗi người, số thành công do được học hành, đào tạo chưa nhiều. Nhược điểm này sẽ là một hạn chế không nhỏ trong việc phát huy nguông nhân lực nữ để phát triển nông thôn.
- 23 PHẦN 3 ĐỐI TƯỢNG NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là phụ nữ trong các hộ gia đình trên địa bàn xã Chiềng Hoa – huyện Mường La – tỉnh Sơn La 3.2. Phạm vi nghiên cứu - Phạm vi về nội dung: Đề tài nghiên cứu về vai trò của phụ nữ trong phát triển kinh tế hộ. - Phạm vi về thời gian: Thời gian nghiên cứu được khai triển từ ngày 20/02/2019 đến ngày 20/5/2019. - Phạm vi về không gian: Đề tài được nghiên cứu trên địa bàn xã Chiềng Hoa – huyện Mường La – tỉnh Sơn La. 3.3. Nội dung nghiên cứu - Điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội tại địa bàn xã Chiềng Hoa – huyện Mường La – tỉnh Sơn La Chiềng Hoa. - Thực trạng hoạt động và vai trò của phụ nữ trong phát triển kinh tế hộ gia đình trên địa bàn xã - Phân tích những khó khăn, trở ngại trong việc phát huy vai trò của phụ nữ xã Chiềng Hoa trong phát triển kinh tế hộ. - Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy vai trò của phụ nữ xã Chiềng Hoa - huyện Mường La - tỉnh Sơn La trong phát triển kinh tế hộ gia đình. 3.4. Phương pháp nghiên cứu 3.4.1. Phương pháp chọn mẫu nghiên cứu * Chọn địa điểm nghiên cứu - Địa điểm nghiên cứu phải đại diện về các điều kiện tự nhiên, KTXH, văn hóa, môi trường, chủ yếu là người dân tộc Thái để làm rõ được vai trò của phụ nữ dân tộc Thái trong phát triển kinh tế hộ gia đình. Tôi chọn ra 3 bản đại diện để nghiên cứu: bản Pia, Nà Cưa, Huổi Lay.
- 24 * Chọn mẫu nghiên Số lượng mẫu lựa chọn nghiên cứu được xác định theo công thức của Slowin (1960), độ tin cậy 90%, sai số 10%: N n = (1+N.e2) Trong đó: n là cỡ mẫu e là sai số cho phép N là tổng số hộ trong khu vực nghiên cứu Sau khi lựa chọn vùng nghiên cứu, tiến hành chọ ngẫu nhiên ra 60 hộ nghiên cứu từ dành sách các hộ gia đình, đảm bảo đủ các hộ thuộc 3 nhóm khá, trung bình khá, nghèo. Kết quả như sau: + Hộ khá là 14 hộ + Hộ trung bình khá 30 hộ + Hộ nghèo 16 hộ - Sau khi xác định được số lượng mẫu cần điều tra và địa điểm điều tra, bước tiếp theo là xây dựng phiếu điều tra tình hình sản xuất, kinh doanh của các hộ điều tra. - Thu thập tình hình của hộ bằng phiếu điều tra xây dựng trước. Qua phiếu điều tra này sẽ cho phép thu thập được các thông tin định tính và định lượng về vấn đề liên quan đến sản xuất và nguyên nhân nghèo đói của hộ. 3.4.2. Phương pháp thu thập số liệu 3.4.2.1. Số liệu thứ cấp Thu thập thông tin thứ cấp là những thông tin có sẵn, được tổng hợp từ trước và đã được công bố. * Nguồn số liệu - Số liệu được thu thập qua các số liệu thống kê, báo cáo tổng kết của UBND, Báo cáo tổng kết các hoạt động của Hội Liên Hiệp phụ nữ xã Chiềng Hoa. - Một số sách, báo, công trình nghiên cứu có liên quan đến vấn đề về
- 25 vai trò phụ nữ trong phát triển kinh tế hộ gia đình. * Phương pháp thu thập: Qua việc ghi chép, thống kê các dữ liệu cần thiết cho đề tài với số chỉ tiêu được chuẩn bị sẵn. 3.4.2.2. Số liệu sơ cấp * Nguồn số liệu: Trên cơ sở các mẫu điều tra 60 hộ đã chọn, thu thập thông tin bằng cách tiến hành phỏng vấn trực tiếp. Thu thập thông tin sơ cấp là các thông tin được thu thập trực tiếp thông qua các cuộc điều tra, phóng vấn các cán bộ, người lao động. Thu thập các thông tin này giúp cho ta thấy được nguyên nhân của những tồn tại, và những các ứng phó của địa phương giúp ta phân tích rõ từ đó đề xuất kiến nghị và có những biện pháp kịp thời. * Phương pháp phỏng vấn vấn trực tiếp thông qua bảng câu hỏi: Thu thập các số liệu bằng hệ thống các câu hỏi đã được soạn thảo trước. - Câu hỏi được soạn thảo bao gồm các câu hỏi đóng và câu hỏi mở - Nội dung các câu hỏi phục vụ cho đề tài nghiên cứu được thiết kế theo các nhóm thông tin sau: 1. Nhóm thông tin chung về hộ gia đình 2. Nhóm thông tin về ngành nghề phân loại hộ và vốn vay của h ộ 3. Nhóm thông tin về vai trò phụ nữ trong hoạt động sản xuất 4. Nhóm thông tin về vai trò phụ nữ trong hoạt động cộng đồng 5. Nhóm thông tin về tiếp nguồn tiếp cận thông tin của phụ nữ 6. Nhóm thông tin về vai trò phụ nữ trong hoạt động khác: Tái sản xuất, khinh doanh hàng hóa, dịch vụ. 7. Nhóm thông tin về một số ý kiến đóng góp nhằm nâng cao vị thế và vai trò của phụ nữ. 3.4.3. Phương pháp tổng hợp và phân tích số liệu 3.4.3.1. Phương pháp xử lý số liệu Dựa vào số liệu đã thu thập, tiến hành tổng hợp và phân tích, đánh giá
- 26 vai trò của phụ nữ trong phát triển kinh tế hộ gia đình. Các số liệu định lượng được tổng hợp trên phần Exel. 3.4.3.2. Phương pháp thông kê so sánh Các số liệu được so sánh thông qua các năm, các nhóm hộ giàu, khá, trung bình, nghèo để thấy được sự khac nhau về thực trạng vai trò của người phụ nữ qua các năm cũng như trong từng nhóm hộ. Từ đó có thể đưa ra nhận xét, đánh giá.
- 27 PHẦN 4 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 4.1. Đặc điểm địa bàn nghiên cứu 4.1.1. Điều kiện tự nhiên 4.1.1.1. Vị trí địa lý: Xã Chiềng Hoa là xã vùng III của huyện Mường La cách trung tâm huyện 29,61 km, đường xá đi lại khó khăn, dân cư sống thưa thớt, nằm dọc 2 ven bờ Sông Đà: phía Đông giáp với xã Chiềng Công, Chiềng Ân, phía Nam giáp với xã Pắc Ngà huyện Bắc Yên, phía Tây giáp với xã Mường Chùm, phía Bắc giáp với xã Tạ Bú, Chiềng San. Tổng diện tích tự nhiên 7.091,55 ha; xã có 1.536 hộ và 7. 233 nhân khẩu. Trong đó nam: 3.831 người; Nữ: 3.403 người; có 4.013 lao động, có 21 bản. Mật độ dân số bình quân 102 người/km2, gồm 2 dân tộc chủ yếu cùng sinh sống (dân tộc Thái và dân tộc Mông). 4.1.1.2. Địa hình, địa mạo Xã Chiềng Hoa có địa hình phức tạp, nằm dọc 2 ven bờ Sông Đà, bị chia cắt bởi các khe suối lớn, nhỏ, phần lớn là các dãy núi cao, độ dốc tương đối lớn, đất bạc màu, tầng canh tác mỏng, độ cao trung bình 700m so với mặt nước biển. 4.1.1.3. khí hậu Xã Chiềng Hoa nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, nóng ẩm, mưa nhiều và được chia làm 2 mùa rõ rệt trong năm, mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 9, lượng mưa phân bố không đều, tập trung vào tháng 6, 7, 8. Mùa khô từ tháng 10 đến tháng 4 năm sau cộng với gió tây khô nóng làm cho mùa này thiếu nước nghiêm trọng. + Lượng mưa trung bình 1.500- 1.800 mm/năm. + Lượng bốc hơi nước trung bình từ 750- 800 mm/năm. Tổng số giờ năng bình quân 1.825 giờ/năm. 4.1.1.4. Thủy văn Xã Chiềng Hoa nguồn nước chính phục vụ cho đời sống, sinh hoạt và sản
- 28 xuất gồm. Dân cư sống thưa thớt, nằm dọc 2 ven bờ Sông Đà: phía Đông giáp với xã Chiềng Công, Chiềng Ân, phía Nam giáp với xã Pắc Ngà huyện Bắc Yên, phía Tây giáp với xã Mường Chùm, phía Bắc giáp với xã Tạ Bú, Chiềng San. 4.1.1.5. Các nguồn tài nguyên * Tài nguyên đất: Bảng 4.1: Hiện trạng sử dụng đất năm 2018 Diện tích STT Chỉ tiêu Cơ cấu (%) (ha) Tổng diện tích đất tự nhiên 7091,55 100 1 Nhóm đất nông nghiệp 6208,82 87,552 1.1 Đất sản xuất nông nghiệp 4360,31 61,486 1.1.1 Đất trồng cây hàng năm 4021,01 56,701 1.1.1.1 Đất trồng lúa 333,31 4,7 1.1.1.2 Đất trồng cây hàng năm khác 3687,7 52,001 1.1.2 Đất trồng cây lâu năm 339,3 4,785 1.2 Đất lâm nghiệp 1813,39 25,571 1.2.1 Đất rừng sản xuất 185,49 2,616 1.2.2 Đất rừng phòng hộ 1627,9 22,955 1.3 Đất nuôi trồng thủy sản 35,12 0,495 2 Nhóm đất phi nông nghiệp 548,89 7,74 2.1 Đất ở 62,07 0,875 2.1.1 Đất ở tại nông thôn 62,07 0,875 2.2 Đất chuyên dùng 102,28 1,442 2.2.1 Đất xây dựng trụ sở cơ quan 0,02 0 2.2.2 Đất xây dụng công trình sự nghiệp 5,45 0,077 2.2.3 Đất sản xuất kinh doanh phi nông nghiệp 0,07 0,001 2.2.4 Đất sử dụng vào mục đích công cộng 96,74 1,364 2.3 Đất nghĩa trang, nghĩa địa, nhà tang lễ, hỏa táng 16,12 0,227 2.4 Đất sông, ngòi, kênh, rạch,suối 368,42 5,195 3 Nhóm đất chưa sử dụng 333,83 4,707 3.1 Đất đồi núi chưa sử dụng 333,83 4,707 (Nguồn: Ban địa chính xã Chiềng Hoa, 2018)
- 29 Chiềng Hoa tổng diện tích tự nhiên 7.091,55 ha, đất có hai loại đất chính sau: + Nhóm đất mùn đỏ vàng trên núi: Nhóm đất này có tầng đất dày 0,6 – 1,2m, thành phần cơ giới trung bình và nhẹ. Đất có hàm lượng mùn và đạm ở tầng mặt khá nghèo lân nhưng kali trao đổi giàu. Ở những nơi có độ dốc lớn thích hợp trồng cây lâm nghiệp, tạo rừng đầu nguồn, những nơi thấp hơn có địa hình thoải hoặc lượn sóng thì có thể trồng các cây ăn quả, rau cỏ có nguồn gốc ôn đới, các cây đặc sản như quế, hồi. +Nhóm đất đỏ vàng: Tầng đất dày trên 1,5m, thành phần cơ giới trung bình và nặng, thường có kết cấu cục, hạt, lớp đất mặt khá tơi xốp, hàm lượng mùn khá, đạm tổng số trung bình, nhưng các chất dinh dưỡng khác như lân và kali tổng số cũng như chỗ tiêu đều nghèo. Đây là loại đất có diện tích lớn nhất và là loại đất có tính chất tốt trong các loại đất đồi núi, hiện đang được sử dụng có hiệu quả trong sản xuất nông lâm nghiệp. Thích hợp trồng các loại cây cao su, sở, cà phê và một số loại cây nông sản như: ngô, lạc, sắn, lúa nương. Những địa điểm bị xói mòn đất nên trồng các cây lâm nghiệp.Ngoài hai loại đất chính ra trong xã còn có các loại đất khác như: Đất mầu nâu vàng trên mẫu chất phù sa cổ, đất feralít biến đổi do trồng lúa nước, số lượng không đáng kể nằm rải rác trên địa bàn xã. Qua bảng 4.1 cho thấy diện tích đất nông nghiệp chiếm tỷ lệ lớn trong tổng diện tích đất tự nhiên chiếm 87,552%. Là tiềm năng cho phát triển nông - lâm nghiệp của toàn xã. * Tài nguyên khoáng sản: Trên địa bàn xã đang triển khai khoan thăm dò để tìm kiếm nguồn khoáng sản trong lòng đất chưa phát hiện nguồn khoáng sản lớn. * Tài nguyên nhân văn: Tổng diện tích tự nhiên 7.091,55 ha; xã có 1.536 hộ và 7. 233 nhân khẩu. Trong đó nam: 3.831 người; Nữ: 3.403 người; có 4.013 lao động, có 21 bản. Mật độ dân số bình quân 102 người/km2, gồm 2 dân tộc chủ yếu cùng sinh sống (dân tộc Thái và dân tộc H’mông).
- 30 - Thành phần dân tộc: + Dân tộc thái: có 1,373 hộ; có: 6.326 người chiếm 87,46%. + Dân tộc mông: có 163 hộ; có: 907 người chiếm 12,54%. Xã Chiềng Hoa là vùng đất cổ được hình thành và phát triển sớm trong lịch sử, trong quá trình đấu tranh và phát triển nhân dân các dân tộc xã Chiềng Hoa luôn luôn giữ những nét đặc trưng riêng trong đời sống văn hóa truyền thống, của dân tộc mình, xong có sự hòa nhập giữa các nền văn hóa làm phong phú, đa dạng bản sắc văn hóa dân tộc chung của nhân dân xã Chiềng Hoa. Trên địa bàn xã không có làng nghề truyền thống. Trình độ dân trí không đồng đều. Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp Uỷ Đảng, Chính quyền xã Chiềng hoa, cán bộ và nhân dân đoàn kết, thống nhất. 4.1.1.6. Thực trạng môi trường Là một xã vùng sâu, vùng xa của huyện Mường La, được sự quan tâm của các cấp, các ngành những năm gần đây, diện tích rừng được tăng nhanh do phát động phong trào trồng rừng, phủ xanh đất trống đồi núi trọc, hiện nay đất rừng của xã đang tăng nhanh, cây trồng đa dạng, phong phú, ngoài ra phong trào trồng cây xanh làm đẹp cơ quan, đường làng, ngõ xóm cũng được các cấp các ngành quan tâm, cảnh quan đẹp, môi trường trong sạch, mát mẻ, chưa có dấu hiệu bị ô nhiễm không khí và nguồn nước. 4.1.1.7. Tài nguyên du lịch Mỗi mảnh đất là một nền văn hóa mang bản sắc riêng. Xã Chiềng Hoa là xã vùng sâu, vùng xa. Nơi có công trình thủy điện kỳ vĩ, có lòng hồ mênh mang nước, có bản làng đậm đà bản sắc văn hóa của các dân tộc anh em. Cùng với tiềm năng du lịch thủy điện, du thuyền trên lòng hồ sông Đà. Du lịch văn hóa cộng đồng dân tộc Thái có các lễ hội văn hóa truyền thống như: Lễ hội Khuống, lễ hội Khắp Then, lễ hội Mừng cơm mới Đây chính là cơ sở, điều kiện thuận lợi để phát triển ngành dịch vụ - du lịch.
- 31 4.1.1.8. Nhận xét chung Thuận Lợi: Xã Mường La có địa hình, khí hậu và đất đai phù hợp với việc phát triển các ngành nông – lâm nghiệp. Cần phát triển nền kinh tế ổn định vững chắc, khai thác triệt để lợi thế của địa phương, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Tập trung tăng cường áp dụng khoa học kỹ thuật, công nghệ tiên tiến vào sản xuất, chú trọng đến việc đầu tư giống cây trồng mới có năng suất, chất lượng, hiệu quả. Khó khăn: Là một xã miền núi địa hình bị chia cắt nhiều, trình độ dân trí không đồng đều, sản xuất nông nghiệp là chính, các ngành nghề chưa phát triển, nguồn vốn ít, hoạt động thương mại, dịch vụ chậm phát triển và còn đơn lẻ, dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi chậm, hàng năm lũ lụt, xói mòn và sạt lở đất còn xảy ra ở một số vùng canh tác ảnh hưởng đến sản xuất và đời sống sinh hoạt của nhân dân trên địa bàn xã. 4.1.2. Tình hình kinh tế xã hội 4.1.2.1. Tình hình phát triển kinh tế Bối cảnh thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội năm 2018. Chiềng Hoa là một xã vùng sâu, vùng xa của huyện Mường La. Trình độ dân trí không đồng đều, tỷ lệ hộ nghèo còn cao. Đời sống người dân trong xã phụ thuộc chủ yếu vào sản xuất nông lâm nghiệp, xong việc ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất còn nhiều hạn chế, trong khi giá vật tư nông nghiệp còn ở mức cao, giá nhiều nông sản hàng hóa thiếu ổn định, đặc biệt giá thịt lợn hơi xuống thấp làm ảnh hưởng đến thu nhập của nhân dân. Năm 2018 do ảnh hưởng của đợt mưa lũ đầu tháng 10 và cơn bão số 2 làm thiệt hại rất lớn về nhà cửa, hoa màu và tài sản của nhân dân ước thiệt hại khoảng 81,8 tỷ đồng. xong dưới sự quan tâm lãnh đạo của Đảng ủy, HĐND – UBND xã, sự quyết tâm của các ban, ngành đoàn thể xã, việc thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội, quốc phòng – an ninh năm 2018 đạt được những kết quả quan trọng cụ thể như sau:
- 32 - Tổng sản lượng lương thực cây có hạt năm 2018 đạt 52066 tấn. - Hướng dẫn và thực hiện các thủ tục hành chính cho người lao động đi làm ăn xa. Đăng ký cho 1 công dân đi xuất khẩu lao động. - Tỷ lệ hộ nghèo là 41,28%. - Tỷ lệ hộ cận nghèo là 9,2 %. - Tỷ lệ trẻ em được tiêm phòng đầy đủ các loại vacxin đạt 95%. - Tỷ lệ người sử dụng nước hợp vệ sinh là 70%. - Tỷ lệ hộ được xem Đài truyền hình Việt Nam, nghe Đài tiếng nói Việt Nam 100%. - Tỷ lệ đàn gia súc, gia cầm đạt 85,5%. Bảng 4.2: Diện tích, năng xuất, sản lượng một số cây trồng chính của xã năm 2018 Chỉ tiêu Diện tích (ha) Năng suất (tạ/ha) Sản lượng (tấn) Lúa (cả năm) 114 35 3990 Ngô 1717 28 48076 Sắn 56 120 6720 (Nguồn: Ban địa chính xã Chiềng Hoa, 2018) Diện tích gieo trồng đạt kế hoạch NQHĐND xã giao , tuy nhiên do cơn lũ lịch sử 9 – 13/8/2017 đã làm vùi lấp cây gỗ, ruộng vườn cuốn trôi nên diện tích cho thu hoạch giảm. Trong sản xuất nông nghiệp: Xác định cây Lúa là cây trọng tâm, cây Ngô là cây mũi nhọn để phát triển kinh tế. - Về sản xuất lương thực: Hàng năm gieo cấy lúa hết diện tích, giống lúa lai cho năng suất cao được đưa vào sản xuất, tổng sản lượng lương thực cây có hạt năm 2018 đạt 52066 tấn. - Về sản xuất ngô: Phát huy tiềm năng và điều kiện cụ thể của địa phương xác định cây ngô là cây cho nguồn thu nhập đáng kể cho nhân dân, hàng năm được nhà nước hỗ trợ vốn, kỹ thuật để cải tạo và trồng mới, hiện
- 33 nay trong toàn xã có diện tích gieo trồng là 1717 ha đạt 99,99% tổng số cây lương thực chính của xã năm 2018. Với điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng của xã, cùng với kinh nghiệm lâu năm của người dân. Ngoài thế mạnh về cây lúa, cây ngô là thế mạnh thứ hai của địa phương.Vì vậy trong tương lai, địa phương cần tập trung phát huy thế mạnh cây ngô, nhằm tăng thu nhập và nâng cao đời sống cho bà con nông dân. * Chăn nuôi: Bảng 4.3: Số lượng gia súc, gia cầm của xã Chiềng Hoa giai đoạn 2016 -2018 (ĐVT: con) Chỉ tiêu Năm 2016 Năm 2017 Năm 2018 Đàn lợn 2770 3995 3075 Đàn trâu 170 1926 1715 Đàn bò 144 1216 1434 Đàn gia cầm 11000 18291 23034 Đàn dê 172 1578 936 (Nguồn: Ban thống kê xã Chiềng Hoa năm 2018) Qua số liệu ở bảng trên ta thấy, trong 3 năm gần đây số gia súc, gia cầm được người dân địa phương nuôi có sự biến động. Nhìn chung số lượng gia súc, gia cầm đều tăng lên. Từ năm 2016 đến năm 2018 số lượng lợn tăng lên 305 con, gia cầm tăng lên 12.034 con. Nguyên nhân là do Công tác tiêm phòng dịch cúm A cho gà, vịt, trâu, bò, lợn, dê thực hiện đúng theo kế hoạch đã được tập huấn, mở được nhiều lớp học tập chuyển giao công nghệ mới cho người dân, trong đó có các lớp về trồng trọt, chăm sóc phòng trừ sâu hại, cách sử dụng thuốc bảo vệ thực vật và các lớp thiết kế trồng rừng, trồng ngô, lớp chăn nuôi, thú y. Vì vậy số lượng gia súc, gia cầm của toàn xã đã tăng lên.
- 34 Số lượng trâu từ năm 2016 đến năm 2017 tăng rất là mạnh hơn 11 lần, vào năm 2018 số lượng trâu có xu hướng giảm nhẹ. Nguyên nhân dẫn tới tình trạng số lượng trâu giảm là do diện tích chăn thả bị thu hẹp, sức cày kéo phục vụ cho sản xuất đã dần được thay thế bằng các loại máy móc nên rất ít hộ nuôi trâu. Số lượng bò tăng mạnh, tuy nhiên con số này vẫn là một con số hạn chế. Đa số các hộ nuôi với quy mô nhỏ (1-2 con) để bán ra thị trường. Đồng thời, thời tiết bất lợi, rét đậm, rét hại kéo dài làm một số gia súc, gia cầm của các hộ bị chết. Đàn dê của năm từ năm 2016 đến năm 2017 tăng mạnh và vào năm 2018 thì có xu hướng giảm nhẹ do điều kiện khí hậu chưa phù hợp, thức ăn chăn nuôi tại địa bàn xã chưa đáp ứng được nhu cầu chăm sóc đàn dê, cần mở các lớp tập huấn kinh nghiệm chăm sóc cho người dân để nhân rộng và phát triển thêm mô hình này. 4.1.2.2. Tình hình phát triển xã hội * Dân số và lao động - Cơ cấu lao động của xã Chiềng Hoa năm 2018 + Tổng số hộ: 1.536 hộ. + Tổng số nhân khẩu: 7. 233 người, trong đó nữ: 3.403 người. + Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo so với tổng số lao động: 9,5 %. + Tình hình lao động trong độ tuổi đang đi làm việc ngoài địa phương: Tổng số 414 người, trong đó không có lao động làm việc tại nước ngoài, tất cả là làm việc ở các cơ quan, doanh nghiệp, các công ty trong và ngoài tỉnh. + Tỷ lệ lao động có việc làm ổn định thường xuyên trên 65%. - Thành phần dân tộc: + Dân tộc thái: có 1,373 hộ; có: 6.326 người chiếm 87,46%. + Dân tộc mông: có 163 hộ; có: 907 người chiếm 12,54%. - Trình độ dân trí thấp, cơ sở hạ tầng thấp kém, đời sống của nhân dân còn gặp nhiều khó khăn, xã có 20/21 bản đặc biệt khó khăn.
- 35 * Lao động của xã chia theo giới từ năm 2016- 2018 Bảng 4.4: Lao động xã Chiềng Hoa chia theo giới tính giai đoạn 2016 – 2018 Chia theo giới tính Năm nghiên cứu Tổng số lao động Nam Nữ 2016 3.578 1.876 1.702 2017 3.650 1.899 1.751 2018 3.967 1.946 2.021 (Nguồn: Ban thống kê xã Chiềng Hoa năm 2018) Qua bảng 4.4 có thể thấy tổng số lao động qua các năm có xu hướng tăng từ năm 2016 đến năm 2018 tăng gần 400 người. Mặc dù tỷ lệ lao động nam giới nhiều hơn nhưng nhìn chung không chênh lệch nhiều ở 2 giới, đến năm 2018 tỷ lệ lao động nữ nhiều hơn lao động nam. * Lĩnh vực văn hóa xã hội 1. Giáo dục – Đào tạo - Toàn xã có 5 đơn vị trường trong đó: 01 trường THCS; 3 trường Tiểu học; 01 trường Mầm non. + Tổng số phòng học: 93 phòng, trong đó: THCS 16 phòng; Tiểu học 57; Mầm non 20 phòng. + Tổng số cán bộ, giáo viên: 134 giáo viên, trong đó: THCS 30 giáo viên; Tiểu học 73 giáo viên; Mầm non 32 giáo viên. + Tổng số học sinh: 2008 em, trong đó: THCS 490 em; Tiểu học 946 em; Mầm non 572 cháu. - Xã Chiềng Hoa mức độ phổ cập trung học cơ sở: đã đạt phổ cập 100%, Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp THCS tiếp tục học trung học đạt trên 95%. Do cơ sở hạ tầng thấp kém chưa đáp ứng được nhu cầu dạy và học của học sinh và giáo viên nên xã chưa có trường đạt chuẩn.
- 36 2. Văn hóa, thể thao - du lịch, truyền thanh - truyền hình, thông tin truyền thông: Duy trì các hoạt đội văn hóa, văn nghệ, tập trung phản ánh diễn biến đời sống chính trị, kinh tế - xã hội, an ninh – quốc phòng của xã. Chỉ đạo và củng cố ban chỉ đạo “ Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”. Chỉ đạo các bản đăng ký các danh hiệu bản văn hóa , gia đình văn hóa. Duy trì 17 đội văn nghệ bản. Tổ chức nhiều hoạt động văn hóa, văn nghệ chào mừng các ngày lễ lớn, các sự kiện chính trị của đất nước, của xã; Tổ chức thành công Hội thi văn nghệ quần chúng mừng xuân Đinh Dậu năm 2017, với 14 đội văn nghệ tham gia, Hội thi thể dục thể thao mừng xuân Đinh Dậu năm 2017 bóng đá, bóng chuyền với 8/21 bản tham gia, bóng đá với sự tham gia của 17/21 bản, kéo co 19/21, ném còn 21/21 đội. 3. Công tác y tế, dân số và chăm sóc sức khỏe cho người dân - Tổng số lần khám bệnh: 2894 - Tổng số lần kê đơn khám chữa bệnh ngoại trú: 2894 - Tổng số bệnh nhân điều trị nội trú: 0 - Tổng số ngày giường điều trị nội trú: 0 - Tổng số lần thực hiện các kỹ thuật y tế. - Tổng số ca đẻ tại trạm y tế 03; bệnh viện 24; tại nhà cán bộ y tế đỡ; 60 - Tổng số người tàn tật, khuyết tật tại địa bàn xã: 53 người. - Trong đó liệt hai chi dưới: 03 người theo dõi khám bệnh tại nhà - Thiểu năng trí tuệ: 38 người Tổng số thẻ bảo hiểm y tế đã cấp cho xã Chiềng Hoa năm 2017 phát là: 8688 thẻ. 4. Công tác Tài chính - Ngân sách Công tác quản lý, điều hành ngân sách năm 2017 có nhiều đổi mới, tiến bộ, đảm bảo thu đúng, thu đủ, đảm bảo chi thường xuyên. Thực hiện tiết kiệm, chống lãng phí, đảm bảo đúng luật ngân sách. - Tổng thu ngân sách năm 2017 thực hiện: 4.556.410.700 đồng Trong đó: + Thu trên địa bàn: 23.850.000 đồng
- 37 + Thu chuyển nguồn năm 2016 sang năm 2017: 287.843.013 đồng. + Thu từ ngân sách cấp trên: 4.556.410.700 đồng. - Tổng chi ngân sách năm 2017 ước thực hiện: 4.556.410.700 đồng 4.2. Thực trạng chung của các hộ điều tra trên địa bàn xã Chiềng Hoa – huyện Mường La – tỉnh Sơn La. 4.2.1.Thông tin chung về các hộ điều tra 4.2.1.1. Một số thông tin cơ bản của các nhóm hộ điều tra Bảng 4.5: Tình hình chung của các hộ điều tra Tổng Chỉ tiêu ĐVT SL CC (%) Tổng số hộ điều tra Hộ 60 100 1.Giới tính chủ hộ Nam chủ hộ Hộ 50 83,33 Nữ chủ hộ Hộ 10 16,66 2.Loại hộ Nông nghiệp Hộ 23 38,33 Phi nông nghiệp Hộ 32 53,53 Hộ kiêm Hộ 5 8,33 3.Kinh tế của hộ Khá Hộ 14 23,33 Trung bình khá Hộ 30 50 Nghèo Hộ 16 26,66 4.Số nhân khẩu Người 237 100 Số nhân khẩu bình quân/hộ Người/hộ 3,95 1,67 5.Số lao động Người 164 100 Số lao động bình quân/hộ LĐ/hộ 2,73 1,66 6. Trình độ học vấn của chủ hộ Tiểu học Người 7 11,66 THCS Người 35 58,33 THPT Người 17 28,33 TC – CĐ – ĐH Người 1 1,66 (Nguồn: Tổng hợp từ số liệu điều tra)
- 38 Qua điều tra 60 hộ, cho thấy: Tỷ lệ nam chủ hộ ở cả 3 nhóm hộ khá, trung bình khávà nghèo đều cao hơn so với phụ nữ. Bình quân nam chủ hộ chiếm 83,33%, nữ chủ hộ chiếm16,66 %. Phụ nữ Thái có vai trò quan trọng trong gia đình nhưng với cương vị người chủ quyền quết định công việc lại mờ nhạt, quyền hạn đó không vượt qua việc mua bán lương thực và các nhu cầu cơ bản của các thành viên, công việc chăm sóc con cái trong gia đình. Các hộ có nữ giới làm chủ hộ hầu hết là do chồng mất hoặc không có chồng, qua đó cho thấy những hộ này, người phụ nữ thật vất vả và phải tự nuôi con một mình. Tỷ lệ hộ phi nông nghiệp cao, chiếm 53,53%, nông nghiệp chiếm tỷ lệ 38,33%, chỉ có một số ít là hộ kiêm. Nhóm hộ khá chiếm tỷ lệ 23,33%. Phần lớn, nhóm hộ khá thường rơi vào các hộ kiêm, hộ phi nông nghiệp, hộ thuần nông chiếm tỷ lệ thấp hơn. Hộ trung bình chiếm tỷ lệ cao nhất 50%, chủ yếu là các hộ làm nông nghiệp. Những hộ này chủ yếu là các hộ đã biết chi tiêu một cách có kế hoạch, am hiểu và chăm chỉ làm ăn, ngoài thời gian nông nhàn, những hộ này chủ yếu có chồng làm thêm nghề hoặc dịch vụ giúp tăng thêm thu nhập cho gia đình, người vợ mạnh dạn áp dụng các tiến bộ kỹ thuật vào trồng trọt, chăn nuôi. Tỷ lệ hộ nghèo chiếm 26,66%. Những hộ nghèo trong nhóm hộ điều tra, theo em do nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan dẫn đến tình trạng nghèo, song chủ yếu vẫn là nguyên nhân chủ quan. Họ chi tiêu không có kế hoạch, không có sự tích lũy, cộng với ốm đau bệnh tật và sinh đẻ không có kế hoạch, thiếu đất, thiếu vốn sản xuất. Một số hộ không có chồng hoặc chông không minh mẫn nên người vợ phải gánh vác phần lớn công việc trong gia đình. Nhưng nguyên nhân chính dẫn đến nghèo là do bệnh tật, thiếu lao động. Do đó, mà xã cần có các chương trình hỗ trợ, động viên để những hộ này vươn lên làm giàu.
- 39 Sản xuất nông nghiệp cũng đòi hỏi rất nhiều về khoa học kỹ thuật. Vì thế, kiến thức hay trình độ học vấn của chủ hộ cũng và các thành viên trong gia đình cũng ảnh hưởng đến nền kinh tế gia đình nói riêng và của toàn xã hội nói chung. Qua bảng ta thấy, học vấn của các hộ điều tra tương đối đồng đều, có 7 người học tiểu học, chiếm 11,66%, số người học THCS chiếm tỷ lệ cao nhất là 35 người, chiếm 58,33%. Số người học THPT là 17 người, chiếm 28,33% và 1 người học TC – CĐ – ĐH, chiếm 1,66%. Có thể thấy, thế hệ con, cháu của các gia đình đã và đang được đầu tư để học lên cấp bậc cao hơn. 4.3. Thực trạng hoạt động và vai trò của phụ nữ trong phát triển kinh tế trên địa bàn xã Chiềng Hoa. 4.3.1. Hoạt động và vai trò của phụ nữ trong phát triển kinh tế xã hội tại địa bàn xã 4.3.1.1 Phụ nữ tham gia sinh hoạt đoàn thể năm 2018 Phụ nữ trong độ tuổi tham gia sinh hoạt đoàn thể trên địa bàn xã là 2.250 người. Trong đó số phụ nữ là hội viên Hội liên hiệp phụ nữ Viêt Nam là 1.260 người, chiếm 56 %. điều này cho thấy nhận thức việc tham gia vào các hoạt động đoàn thể của phụ nữ tương đối cao. Hội liên hiệp phụ nữ xã có chức năng vận động, hướng dẫn phụ nữ thực hiện chủ trương của Đảng và tham gia quản lý Nhà nước. Hội liên kết mọi tầng lớp phụ nữ lại với nhau, nhằm cùng học hỏi kinh nghiệm, giúp đỡ nhau trong cuộc sống cũng như trong phát triển kinh tế và nâng cao nhận thức của người phụ nữ về vai trò của mình trong gia đình cũng như ngoài xã hội. Trong số những phụ nữ tham gia sinh hoạt đoàn thể có 54 chị em hội viên là hội cựu chiến binh, chiếm 6,2%; hội viên hội người cao tuổi có 92, chiếm 10,7%; chị em là CB – CNVC là 162, chiếm 18,8%; hội nông dân 554 người, chiếm 64,3%.
- 40 Bảng 4.6: Cơ cấu phụ nữ tham gia lãnh đạo cấp ủy Đảng, chính quyền và đoàn thể năm 2018 Tổng số Trong đó nữ Tỷ lệ Các chức danh (người) (người) (%) Lãnh đạo cấp Ủy Đảng 2 0 0 Lãnh đạo hội, đoàn thể 5 1 20 Lãnh đạo UBND xã 3 0 0 Trưởng bản 21 0 0 Tham gia ban chấp hành Đảng ủy xã 15 2 13,2 (Nguồn: Hội liên hiệp Phụ nữ xã Chiềng Hoa 2018) Hiện nay, người phụ nữ ngày càng khẳng định được vị thế của mình trong xã hội, ở các cấp, các ngành lực lượng cán bộ nữ tham gia vào công tác lãnh đạo ngày một tăng lên. Tuy nhiên xã Chiềng Hoa, tỷ lệ cán bộ nữ tham gia lãnh đạo ở các cấp, các ngành còn chưa cao, chưa đáp ứng yêu cầu của địa phương cũng như quá trình phát triển của nền kinh tế đất nước. Bảng 4.6 ở trên cho thấy cán bộ nữ tham gia lãnh đạo chiếm tỷ lệ rất nhỏ. Tổng số phụ nữ tham gia lãnh đạo các cấp Uỷ Đảng, chính quyền và đoàn thể chỉ có 3 người. Cụ thể cơ cấu phụ nữ lãnh đạo hội, đoàn thể chỉ chiếm 1%. Tham gia ban chấp hành Đảng Ủy phụ nữ cũng chiếm tỷ lệ không nhiều 2%, còn lại trong các chức danh khác không có mặt của phụ nữ. Xã Chiềng Hoa có 21 bản, tuy nhiên trưởng các bản 100% là nam giới. Nguyên nhân của tình trạng này do nhiều yếu tố mang lại như: Nhận thức của các cấp ủy, chính quyền về bình đẳng giới, về vai trò, năng lực của phụ nữ còn hạn chế; hoặc do áp lực công việc gia đình khiến người phụ nữ không làm tốt nhất công việc của mình, do đó bị đánh giá sai năng lực Để tăng tỷ lệ nữ tham gia vào hoạt động lãnh đạo ở các cấp, chính quyền các cấp cần quan tâm hơn nữa tới công tác bồi dưỡng cán bộ nữ, nhận thức đầy đủ hơn về năng lực và vai trò của cán bộ nữ; gia đình cần động viên, ủng hộ họ tham gia vào công tác lãnh đạo và hơn hết, người phụ nữ phải nâng cao trình độ bản thân và nhận thức đúng về vị thế của mình trong hoạt động đóng góp cho sự phát triển của xã hội.
- 41 4.3.2. Thực trạng vai trò phụ nữ trong phát triển kinh tế hộ gia đình 4.3.2.1. Vai trò của phụ nữ trong quản lý và điều hành sản xuất Bảng 4.7: Tỷ lệ nữ làm chủ hộ và tham gia quản lý điều hành sản xuất (ĐVT:%) Hộ khá Hộ trung bình khá Hộ nghèo Tiêu chí n = 14 n = 30 n = 16 Tỷ lệ nữ làm chủ hộ 23,3 26,7 50 Tỷ lệ tham gia điều 53,19 54,87 52,94 hành sản xuất (Nguồn:Tổng hợp từ số liệu điều tra năm 2018) Người phụ nữ thường là người có vai trò quan trọng trong tất cả các công việc gia đình, sản xuất hay phát triển kinh tế thế nhưng theo quan niệm xưa cũ vai trò ấy lại không được nhìn nhận. Ngày nay, xã hội ngày càng phát triển dường như vị trí của người phụ nữ cũng đang dần thay đổi. Kết quả nghiên cứu trên 60 hộ cho ta thấy, tuy không cao nhưng người phụ nữ đã có tiếng nói hơn trong gia đình, thể hiện ở tỷ lệ nữ làm chủ hộ theo đó thì tỷ lệ nữ tham gia quản lý điều hành sản xuất đã tăng lên, tỷ lệ này giảm dần từ hộ khá, hộ giàu đến hộ nghèo, với hộ khá tỷ lệ nữ làm chủ hộ là 23,3% và tham gia quản lý điều hành sản xuất 53.19% . Tuy nhiên qua điều tra cho thấy phụ nữ mới chỉ dừng ở mức độ tham gia mà chưa phải quyết định. Để phụ nữ có thể dễ dàng hơn và chủ động trong các hoạt động sản xuất tạo thu nhập cần tăng tỷ lệ phụ nữ làm chủ hộ và bản thân người phụ nữ cần năng động và có chủ kiến. 4.3.2.2. Vai trò của phụ nữ trong hoạt động sản xuất tạo thu nhập Do đặc điểm nghề nghiệp và các hoạt động sản xuất tạo thu nhập của mỗi nhóm hộ khác nhau cũng như quan niệm về sự tham gia của phụ nữ và
- 42 nam giới trong các hộ và nhóm hộ khác nhau. Vì vậy mà sự tham gia đóng góp công sức vào các hoạt động này giữa nam và nữ trong mỗi nhóm hộ không giống nhau.Nhìn chung cả nam và nữ đều đóng góp công sức vào các hoạt động sản xuất tạo thu nhập của các hộ gia đình nhưng nữ đóng góp nhiều hơn nam. Các hoạt động tạo thu nhập rất phong phú và đa dạng, ở mỗi loại hộ khác nhau đều có ít nhất 2 hoạt động tạo thu nhập, hộ nông dân chủ yếu vẫn là sản xuất nông, lâm nghiệp, chăn nuôi, ngoài ra một số hộ còn hoạt động kinh doanh, dịch vụ trong và ngoài nông nghiệp, làm thuê. Bảng 4.7 cho thấy phân công lao động trong sản xuất nông nghiệp tại các hộ nghiên cứu trên địa bàn xã Chiềng Hoa như sau: qua điều tra 3 nhóm hộ thì hộ khá và trung bình là nhóm có sự chia sẻ trong các công việc đồng áng giữa nam và nữ cao hơn so với nhóm hộ nghèo. Phần đa các công việc trong hoạt động trồng trọt và chăn nuôi tỷ lệ người được điều tra trả lời rằng đó là công việc của cả hai là rất cao, tức là họ đã có sự bàn bạc và thống nhất trong việc quyết định các hoạt động sản xuất, chăn nuôi của gia đình mình. Người phụ nữ được bày tỏ, đóng góp những ý kiến của mình. Đặc biệt, có thể thấy rõ vai trò của người phụ nữ trong các khâu chọn giống, chăm sóc, mua vật tư hay bảo quản nông sản. Ở các khâu này tỷ lệ nữ làm chiếm phần trăm nhiều hơn nam giới ở cả ba nhóm hộ do người phụ nữ luôn là người tỉ mỉ, chịu khó tìm hiểu và luôn tinh tế, ví dụ khi tìm hiểu về một loại cây trồng hay vật nuôi, để có được con giống tốt người phụ nữ phải tìm hiểu từ nhiều người và nhiều nguồn thông tin, với người chồng đôi khi lại không tiện.Sự chia sẻ của người chồng trong các công việc nặng nhọc đòi hỏi sức khỏe như làm đất hay chuồng trại cũng tăng lên. Tuy nhiên khi xét trong ba nhóm hộ, nhóm hộ nghèo ở khâu chọn giống chủ yếu lại do người chồng quyết định chiếm 41.17%, vợ 17,64% trong khi tỷ lệ có ý kiến của cả hai ở nhóm hộ khá chiếm 64.28% và nhóm hộ trung bình chiếm 58.62%. Điều này khẳng định tiếng nói của người phụ nữ ở các hộ nghèo có phần hạn chế hơn.
- 44 Bảng 4.8. phân công lao động trong hoạt động sản xuất nông nghiệp 2018 (ĐVT: %) Hoạt động Hộ khá Hộ trung bình khá Hộ nghèo vợ chồng Cả hai thuê vợ chồng Cả thuê vợ chồng Cả hai thuê hai 1. Trồng trọt Chọn giống(quyết định trồng cây gì ) 10 20 70 17,64 35,29 47,08 7,69 46,15 46,15 Làm đất ( cày, bừa ) 10 20 70 5,88 58,82 35,29 15,38 69,23 15,38 Trồng cây 10 20 70 11,76 47,05 41,18 7,69 38,47 53,84 Chăm sóc (bón phân, làm cỏ ) 60 10 30 52,94 11,76 35,29 30,76 15,38 53,84 Bảo quản sau thu hoạch (Phơi, sấy ) 50 10 40 64,70 11,76 23,52 15,38 61,53 23,07 Tìm thị trường tiêu thụ 10 60 30 5,88 76,47 17,64 15,38 61,53 23,07 Bán nông sản (quyết định thời điểm bán) 20 30 50 50,92 30,05 19,91 7,71 61,53 30,76 2. Chăn nuôi Chọn giống (quyết định nuôi con gì ) 20 30 50 11,76 29,41 58,82 19,65 41,17 39,18 Mua vật tư, làm chuồng ( cám tăng trọng, ) 0 60 40 0 82,35 17,69 0 76,92 23,07 Chăm sóc 60 20 20 70,88 11,76 17,29 53,84 23,07 23,09 Đi bán (quyết định thời điểm bán ) 10 30 60 10,35 27,61 62,04 0 29,41 61,53 (Nguồn:Tổng hợp từ số liệu điều tra năm 2018)
- 45 Qua bảng 4.8 cho thấy phân công lao động trong sản xuất nông nghiệp tại các hộ nghiên cứu trên địa bàn xã Chiềng Hoa như sau: Qua điều tra 3 nhóm hộ thì hộ khá là nhóm có sự chia sẻ trong các công việc đồng áng cao nhất. Các công việc trong hoạt động trồng trọt, người được điều tra trả lời rằng đó là công việc của cả hai là rất cao, tức là họ đã có sự bàn bạc trong việc quyết định các hoạt động sản xuất, chăn nuôi của hộ gia đình. Ở nhóm hộ khá, nhiều khâu trong hoạt động sản xuất, người phụ nữ cũng tham gia nhiều hơn so với hai nhóm hộ còn lại. Như khâu chọn giống, 11,76% do người phụ nữ quyết định, 17,29% do người chồng và 53,84 % có sự bàn bạc của cả hai. Tỷ lệ này ở nhóm hộ trung bình khá và hộ nghèo có thấp hơn và thấp nhất là ở hộ nghèo, sự bàn bạc trong gia đình không cao, chỉ chiếm 37,5%. Quyết định trồng cây gì, nuôi con gì vẫn chủ yếu thuộc về người đàn ông (50%). Trong một số hoạt động khác như làm đất, phun thuốc trừ sâu, người đàn ông vẫn đảm nhiệm chính, do đây là những công việc đòi hỏi sức khỏe cao hơn và tỷ lệ này cũng có xu hướng giảm khi nghiên cứu hai nhóm hộ trung bình và khá. Đặc biệt là ở nhóm hộ nghèo, sự tham gia của phụ nữ trong hai hoạt động trên so với người đàn ông trong gia đình tuy có thấp hơn, nhưng vẫn là cao hơn khi so sánh với sự tham gia của phụ nữ ở hai nhóm hộ kia. Hoạt động này ở hộ khá cũng có sự thuê ngoài nhiều hơn. Do đây là nhóm hộ có điều kiện kinh tế tốt hơn. Các hoạt động mua vật tư, chăm sóc thì lại chủ yếu là công việc của phụ nữ. Tuy nhiên ở cả 3 nhóm hộ đều có sự chia sẻ công việc trong các hoạt động này, sự chia sẻ cao nhất ở nhóm hộ khá và thấp nhất ở nhóm hộ nghèo. Ở nhóm hộ khá việc bán sản phẩm do gia đình tạo ra chủ yếu là công việc của phụ nữ. Ngược lại ở nhóm hộ nghèo thì công việc này chủ yếu là do người đàn ông quyết định. Qua bảng phân công lao động 4.8 có thể thấy, sự tham gia của người phụ nữ vào các hoạt động sản xuất chiếm tỷ lệ rất cao, họ đã khẳng định vai
- 46 trò quan trọng của mình trong các hoạt động sản xuất, tạo thu nhập. Và sự san sẻ công việc đồng áng được thể hiện rõ ở nhóm hộ khá và trung bình. Nhóm hộ nghèo hầu hết các công việc nặng vẫn đặt lên vai người phụ nữ. Họ phải đảm đương quá nhiều mà ít có sự chia sẻ từ phía người đàn ông trong gia đình. 4.3.2.3. Phân công lao động trong trong hoạt động nội trợ và chăm sóc con cái Bảng 4.9: Phân công lao động trong trong hoạt động nội trợ và chăm sóc con cái 2018 (ĐVT:%) Hộ khá Hộ trung bình khá Hộ nghèo Hoạt Cả động vợ chồng Cả hai vợ chồng Vợ chồng Cả hai hai Nội trợ: 60 20 40 47,15 5,88 47,05 61,53 30,67 nấu cơm, 7,69 giặt. Chăm sóc 50 30 20 29,41 35,29 35,29 36,22 27,56 36,22 sức khỏe gia đình Kèm con 20 30 50 41,17 29,41 29,41 38,46 38,46 23,07 cái học hành (Nguồn: Tổng hợp từ số liệu điều tra) Sự phân công trong các hoạt động khác ngoài sản xuất nông nghiệp được thể hiện qua bảng 4.9. Sự phân công trong các hoạt động tái sản xuất được thể hiện rất rõ rệt qua bảng trên. Tỷ lệ phụ nữ làm việc nhà, chăm sóc con cái là rất cao. Rõ nét nhất là ở nhóm hộ nghèo: 75% phụ nữ thuộc nhóm hộ nghèo được điều tra phải đảm nhiệm các công việc nhà như dọn dẹp nhà cửa, nấu ăn, giặt giũ, .và ít có sự chia sẻ của người chồng.Tuy nhiên ở nhóm hộ khá và trung bình tỷ lệ cả hai vợ chồng tham gia vào công việc nhà, chăm sóc con cái khá cao. Điều này
- 47 cho thấy nhận thức của những người đàn ông trong gia đình ở hai nhóm hộ này khá cao, họ không còn quá phân biệt công việc đó là của phụ nữ, mà đã coi đó là trách nhiệm của cả hai. 4.3.2.4. Vai trò của phụ nữ trong việc kiểm soát nguồn lực của hộ * Kiểm soát nguồn lực đất đai Tuy phụ nữ chịu trách nhiệm chính trong hoạt động sản xuất và các hoạt động nội trợ, chăm sóc gia đình. Nhưng trong kiểm soát kinh tế hộ vai trò của họ được đánh giá thấp hơn nam giới, trong kiểm soát các nguồn lực đất đai cụ thể đứng tên trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nam giới vẫn là người đảm nhận chính. Thực tế nghiên cứu trong các hộ, nhận thức của các thành viên trong gia đình đều cho rằng việc người chồng đứng tên trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (sổ đỏ) là đương nhiên, cả người vợ và người chồng đều hài lòng khi người chồng đứng tên trong sổ đỏ, có trường hợp phụ nữ còn từ chối quyền đứng tên trong sổ đỏ. Chính điều này dẫn tới sự bất công bằng trong việc sở hữu, kiểm soát các nguồn lực đất đai giữa nam giới và nữ giới. Người phụ nữ được đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở nhóm hộ khá chiếm 23.08% và hộ trung bình chiếm 20% và thấp nhất ở nhóm hộ nghèo chiếm 14.29% trong khi nam giới ở nhóm hộ nghèo đảm nhận vai trò này chiếm 85.71%, qua điều tra, chủ yếu nữ hộ nghèo đứng tên trên sổ đỏ thuộc nhóm người cơ nhỡ, góa chồng hoặc chồng sức khỏe kém, khả năng tạo ra thu nhập kém hơn vợ. Vì vậy càng khẳng định rằng với hộ nghèo thực tế người vợ chưa có quyền kiểm soát nguồn lực đất đai.
- 48 * Kiểm soát nguồn lực tài chính Bảng 4.10: Tình hình quản lý vốn vay của hộ (ĐVT:%) Người thực hiện Hộ khá Hộ trung bình Hộ nghèo khá Tỷ lệ vay vốn 71,42 51,72 52,94 1. Quản lý Chồng 50 40 88,9 Vợ 20 33,3 11,1 Cả hai 30 26,6 2. Quyết định sử dụng vốn Chồng 60 40 77,8 Vợ 40 13,3 22,2 Cả hai 46,6 3. Đứng tên vay vốn Chồng 100 80 77,8 Vợ 20 22,2 4. Trả lãi tiền vay Chồng 80 80 55,6 Vợ 20 20 44,4 (Nguồn: Tổng hợp từ số liệu điều tra 2018) Cùng với kiểm soát nguồn lực đất đai, để phát triển kinh tế gia đình người phụ nữ cần kiểm soát nguồn lực tài chính. Bảng tổng hợp trên cho ta thấy trong ba nhóm hộ, hộ trung bình có tỷ lệ vay vốn thấp hơn cả, họ luôn sợ rủi ro, họ chỉ đầu tư và dám vay vốn để đầu tư khi họ đã chắc chắn, tư tưởng
- 49 lỗ không có khả năng thanh toán làm cho họ ngần ngại khi quyết định vay vốn, nếu có vay vốn thì mục đích của họ cũng là cho con cái học hành, đầu tư cho sản xuất nông nghiệp với quy mô nhỏ. Xét trong từng nhóm hộ, đã có sự tham gia của cả hai giới từ việc quản lý, đứng tên, quyết định sử dụng và trả lãi, kết quả điều tra tại các hộ cho thấy trong quá trình ra quyết định sử dụng tài chính, hầu hết đều cho rằng cả vợ và chồng bàn bạc thống nhất nhưng nếu có sự không đồng thuận thì quyết định cuối cùng thuộc về người chồng, điều này thể hiện rõ nhất ở nhóm hộ nghèo với tỷ lệ chồng quản lý vốn và quyết định sử dụng chiếm 77,8% khi trả lãi lại do người vợ thực hiện chiếm 44,4%. Như vậy có thể nói ở hộ nghèo, người vợ tham gia vào quản lý tài chính như thủ quỹ của gia đình, còn quyền quyết định sử dụng tài chính vào mục đích gì, sử dụng thế nào lại thuộc về người chồng. Nguồn vốn vay của các hộ chủ yếu từ ngân hàng chính sách và ngân hàng nông nghiệp. Mặc dù hệ thống Ngân hàng Nông nghiệp, ngân hành chính sách đã được đưa xuống tận cấp xã nhưng không phải lúc nào cần là vay được, lượng vay, thời gian vay luôn bị hạn chế. Hơn nữa việc vay vốn phụ thuộc vào tài sản thế chấp, thủ tục, làm cho hộ nghèo ít có cơ hội vay vốn, người phụ nữ do ít được đứng tên trên sổ đỏ nên khả năng chủ động nguồn vốn cho phát huy các ý tưởng sản xuất, kinh doanh hay khả năng chủ động phát triển kinh tế thu hẹp hơn. Họ chỉ có thể vay thông qua các hội, đoàn thể với lượng không nhiều. Vì vậy yêu cầu đặt ra cần phải đơn giản hóa các thủ tục vốn vay, đa dạng hóa các nguồn vốn cho phụ nữ để họ tăng thêm sự lựa cho phát triển kinh tế. 4.3.2.5. Phân công lao động trong các hoạt động khác * Hoạt động kinh doanh hàng hóa và dịch vụ Ngoài các hoạt động nông nghiệp, sự phân công lao động giữa phụ nữ và nam giới còn thể hiện rõ trong các hoạt động khác như hoạt động dịch vụ, bán hàng. Các hộ hoạt động dịch vụ chủ yếu là các hộ buôn bán nhỏ cung cấp
- 50 các mặt hàng hằng ngày như: Hàng tạp hoá, thực phẩm, hàng ăn, một số hộ chuyên kinh doanh vật tư nông nghiệp, thuốc BVTV, vật liệu xây dựng việc kinh doanh - dịch vụ, bán hàng để có được hiệu quả tốt phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như: vốn, sự năng động, quan hệ xã hội Bảng 4.11: Phân công lao động trong Hoạt động kinh doanh hàng hóa và dịch vụ 2018 (ĐVT:%) Hộ khá Hộ trung bình khá Hoạt động Vợ Chồng Cả hai Vợ Chồng Cả hai Tỷ lệ hộ tham gia 50 31,03 Chọn mặt hàng để 12,5 12,5 75 62,5 40 bán Đi lấy hàng 100 25 75 12,5 Bán hàng 87,5 12,5 100 Quản lý sổ sách 62,5 25 12,5 75 25 Trả nợ, đòi nợ 100 87,5 12,5 (Nguồn:Tổng hợp từ số liệu điều tra năm 2018) (Ghi chú: Hộ nghèo không tham gia các hoạt động dịch vụ, bán hàng) Hộ tham gia hoạt kinh doanh hàng hóa và dịch thuộc nhóm hộ khá và trung bình, họ có vốn để nhập hàng và bán chịu cho người dân trong vùng, điều này các hộ nghèo không thể thực hiện được, hơn nữa các hộ này có điều kiện thuận lợi về địa điểm, thường có nhà nằm ở vị trí trung tâm của bản thuận tiện cho hoạt động buôn bán, họ có được sự nhanh nhạy, khả năng quay vòng nguồn vốn và biết kết hợp giữa hoạt động nông nghiệp và phi nông nghiệp. So với hộ nghèo, hộ trung bình và hộ khá ngoài những lợi thế mà họ có họ còn dám nghĩ dám làm và mạnh dạn đầu tư, vì vậy mà tỷ lệ thành công
- 51 của họ cao hơn. Qua bảng trên cho thấy, trong hoạt động dịch vụ, người vợ tham gia phần lớn ở tất cả các khâu từ chọn mặt hàng để bán, bán hàng và quản lý sổ sách. Họ tham gia nhiều nhất ở khâu bán hàng vì đa phần các hoạt động khác đều nặng nhọc và không phù hợp. Các công việc này ở cả hai hộ đều chiếm trên 70%. Do thường xuyên bán hàng nên người phụ nữ còn là người hiểu được tâm lý người tiêu dùng, biết được thị hiếu của người tiêu dùng từ đó điểu chỉnh hoạt động kinh doanh cho phù hợp. Người đàn ông giúp đỡ phần việc nặng hơn như đi lấy hàng ở hộ khá chiếm 100% và hộ trung bình chiếm 75%. Tuy nhiên, việc buôn bán kinh doanh đòi hỏi cần có sự bàn bạc và tìm hiểu kỹ, vì vậy cần có sự tham gia và quyết định của cả hai vợ chồng. * Phân công lao động trong hoạt động sản xuất lâm nghiệp Quản lý bảo vệ 1920,2 ha diện tích rừng hiện có. Chỉ đạo các bản thực hiện công tác quản lý, bảo vệ rừng, phòng chống cháy rừng trong mùa khô hanh. Mở hội nghị tuyên truyền văn bản luật bảo vệ rừng và phát triển rừng . Bảng 4.12: Phân công lao động trong hoạt động sản xuất lâm nghiệp năm 2018 (ĐVT:%) Hộ trung bình khá Hoạt động Hộ khá (n=14) Hộ nghèo (n=16) (n=30) Vợ Chồng Cả hai Vợ Chồng Cả hai Vợ Chồng Cả hai Tỷ lệ hộ tham gia 45,71 50,28 40,18 Phát cây, dọn đồi, đốt 20 80 21,42 21,42 57,14 28,57 28.57 42,85 Cuốc hố trồng cây 20 80 14,28 35,71 50 28,57 28,57 42,85 Chăm sóc rừng 20 20 60 42,86 7,1 50 28,57 42,85 28,57 Khai thác lấy gỗ, bán 30 70 14,29 35,71 50 14,29 57,14 28,57 (Nguồn:Tổng hợp từ số liệu điều tra năm 2018)
- 52 Bảng tổng hợp cho thấy hộ trung bình tham gia hoạt động lâm nghiệp nhiều hơn chiếm 50,28%, với hoạt động này phụ nữ thường tham gia các công việc nhẹ nhàng như phát cây, dọn đồi, đốt. Đặc biệt ta có thể thấy, phụ nữ trong các hộ khá được ưu tiên hơn ở công việc nặng đòi hỏi sức khỏe như cuốc hố trồng cây, khai thác bán, phần việc này đều do người chồng thực hiện chiếm 80%, trong khi nhóm hộ nghèo người phụ nữ gần như tham gia ngang bằng với đàn ông ở tất cả các khâu của hoạt động lâm nghiệp, họ vẫn chưa nhận được sự ưu ái trong công việc. 4.3.2.6. Vai trò của phụ nữ trong tham gia công tác xã hội Bảng 4.13: Tỷ lệ nữ tham gia hoạt động cộng đồng năm 2018 (ĐVT:%) Hoạt động Hô khá Hộ trung bình khá Hộ nghèo (n=14) (n=30) (n=16) Vợ Chồng Cả Vợ Chồng Cả Vợ Chồng Cả hai hai hai Dự đám ma, 30,57 43,21 26,66 21,71 33,49 44,8 25,38 41,18 33,52 cưới hỏi, lễ Đi họp xóm 28,14 44,21 27,65 19,77 52,71 27,52 17,59 51,90 30,51 Văn nghệ - 23,44 67,07 9,49 18,23 54,17 27,6 31,29 42,18 26,53 TDTT Tham gia tập huấn, 17,34 43,90 38,76 23,17 39,12 37,71 10,77 58,83 30,4 lao động công ích (Nguồn:Tổng hợp từ số liệu điều tra năm 2018) So với nam giới phụ nữ tham gia các hoạt động cộng đồng không nhiều và không giống nhau giữa các hộ và nhóm hộ. Kết quả nghiên cứu ở cả ba nhóm hộ đều cho thấy, trong tất cả các hộ gia đình, trong khi hầu hết các khâu trong trồng trọt và chăn nuôi đa số đều do người phụ nữ đảm nhận nhưng việc tham gia các hoạt động cộng đồng nam giới thực hiện là chính, phụ nữ đóng
- 53 vai trò ít quan trọng hơn. 44,21% người chồng trong hộ khá, 52,71% hộ trung bình và 51,90% ở hộ nghèo tham gia các buổi họp xóm. Về tham gia tập huấn cũng chủ yếu do người chồng đảm nhận. Hộ khá người chồng tham gia 43,90%, hộ trung bình 39,12%, hộ nghèo 58,83%. Điều này càng làm tăng thêm khoảng cách về nhận thức, hạn chế khả năng tiếp cận thông tin hiểu biết về xã hội hay những kiến thức, kinh nghiệm trong sản xuất, kinh doanh và những vấn đề khác. Đây có thể coi là hiện tượng “ nữ làm, nam học” Quá trình CNH-HĐH nông nghiệp nông thôn đòi hỏi cần áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông lâm nghiệp nhằm tăng năng xuất, sản lượng cây con.Vì vậy sẽ thật khó khăn để người phụ nữ có thể tiếp nhận nguồn kiến thức này. Đây là điều thiệt thòi lớn đối với chính bản thân người phụ nữ, đồng thời họ cũng ít có điều kiện để thể hiện khả năng, tiếng nói của mình trong các hoạt động chung của cộng đồng dân cư, hạn chế trong việc đưa ra quyết định về những vấn đề liên quan đến cộng đồng hoặc vấn đề xã hội, quan hệ cộng đồng, quan hệ xã hội bị thu hẹp. Trong dự đám ma, cưới, hỏi, lễ cả hai đều tham gia, ở các nhóm hộ với tỷ lệ tương đương. Khi chồng hoặc vợ đi vắng thì người còn lại sẽ đi thay. 4.3.2.7. Phụ nữ trong tiếp cận thông tin Một xã hội hiện đại sự phát triển của công nghệ thông tin giúp người phụ nữ ngay cả ở vùng xâu, vùng xa hay phụ nữ dân tộc ít người đều được tiếp cận thông tin. Ti vi, báo, đài là những phương tiện truyền tin chủ yếu đến họ, họ không cần phải đi xa để nghe thông tin mà trực tiếp tìm hiểu tại nhà, nguồn thông tin phong phú và được cập nhật thường xuyên. Cách tiếp cận thông tin này giúp cho phụ nữ, đặc biệt là phụ nữ vùng nông thôn, có thể tiết kiệm thời gian mà công việc vẫn đảm bảo tính hiệu quả.
- 54 4.3.2.8. Ðánh giá của hai giới về các công việc và vai trò của phụ nữ trong gia ðình Bảng 4.14: Quan điểm của các hộ nông dân về các công việc và vai trò phụ nữ trong gia đình (ĐVT:%) Nội dung Hộ khá Hộ trung bình Hộ nghèo (n=14) khá (n=16) (n=30) Ý kiến về một số nội dung Vợ Chồng Vợ Chồng Vợ Chồng - Việc nội trợ, nấu cơm, giặt quần 57,14 42,86 85,71 14,28 48,28 51,72 áo, chăm sóc con, là việc của phụ nữ - Đi họp, tập huấn, nghe tuyên 71,43 28,57 57,14 42,85 62,07 37,93 truyền là việc của đàn ông - Quyền quyết định cuối cùng là 78,57 21,43 78,57 21,43 62,07 37,93 của đàn ông.Vợ phải nghe lời chồng (Nguồn: Tổng hợp từ số liệu điều tra năm 2018) Phải chăng xuất phát từ quan niệm xã hội, phụ nữ sinh ra là để làm các công việc gia đình như: Thực hiện chức năng mang thai, cho con bú, nuôi con bằng sữa mẹ, chăm sóc người già, người ốm, nên họ không thể làm được những công việc phức tạp, đòi hỏi về thể chất và tư duy. Những công việc phụ nữ phải làm là sự phân công mang tính tự nhiên, phù hợp với thiên chức, ngược lại đàn ông sẽ thích hợp hơn với những công việc khác. Vì vậy, sự chia sẻ công việc nhà của nam giới chỉ được thực hiện trong những trường hợp nhất định. Ở mỗi hộ và nhóm hộ lại có sự đánh giá khác nhau của hai giới về các công việc cũng như vai trò của phụ nữ. Khi đi từ nhóm hộ nghèo đến nhóm hộ khá thì sự đánh giá của cả nam và nữ về vai trò của phụ nữ theo chiều hướng tăng lên. Tuy nhiên xét trong từng nhóm hộ vẫn thấy được quan niệm phong kiến ít nhiều còn tồn tại.
- 55 Nếu như nói quyền quyết định cuối cùng là của đàn ông, vợ phải nghe lời chồng, ý kiến này hộ khá người chồng chiếm 42,86%, trong khi đó ở hộ nghèo đánh giá chiếm 51,72%. Ý kiến trên ngoài việc đánh giá về khía cạnh nhận thức của người chồng thì nó còn thể hiện tư tưởng an phận, nghe theo của người phụ nữ. Tư tưởng ấy càng đúng khi có 57,14% người vợ ở nhóm hộ khá, 85,71% nhóm hộ trung bình và 48,28% ở hộ nghèo vẫn nhận nội trợ, nấu cơm, giặt, chăm sóc con cái là việc của mình. Trong khi đàn ông luôn cho rằng các hoạt động tập huấn, tuyên truyền hay những vấn đề liên quan đến quan hệ cộng đồng, quan hệ xã hội luôn là phạm trù của họ. Vì vậy bản thân người phụ nữ muốn được xã hội nhìn nhận về vai trò, quyền lợi của mình trước tiên bản thân họ cần thay đổi cách suy nghĩ của mình. 4.3.2.9. Nhận thức của các hộ điều tra về việc học của con gái Bảng 4.15: Nhận thức của các hộ nông dân về việc học của con gái (ĐVT: %) Hộ trung Hộ khá Hộ nghèo Nội dung bình khá (n=14) (n=16) (n=30) Con gái không nên đi học 14,28 50 60,25 Con gái cần đi học hết khả năng có thể 71,43 33,33 6,25 Con gái nên học ít thôi 14,28 16,66 12,5 (Nguồn:Tổng hợp từ số liệu điều tra năm 2018) Từ bảng số liệu ta thấy, trong tổng số 60 hộ điều tra có 14 hộ khá, 30 hộ trung bình, 16 hộ nghèo. Do những hộ khá có cha mẹ tham gia làm công chức nhà nước hay kinh doanh tự do nên có 71,43% hộ cho rằng con gái cần đi học hết khả năng vì họ nhận thức được sự quan trọng của việc học, chỉ có 14,28% cho rằng con gái không nên đi học hoặc học ít thôi. Đối với các hộ trung bình chủ yếu họ làm nông nghiệp, thu nhập không cao, có 50% trong
- 56 tổng số nghĩ rằng con gái không nên đi học và 16,66% suy nghĩ rằng con gái học ít thôi, chỉ có 33,33% đồng ý con gái cần đi học hết khả năng. Hộ nghèo chiếm 16 hộ trong tổng số 30 hộ có đến 60,25% ý kiến rằng không nên cho con gái đi học và 12,5% cho rằng con gái nên học ít thôi, chỉ có 6,25% cho con gái đi học hết khả năng. Như vậy qua bảng số liệu tỉ lệ việc đồng ý cho con gái đi học có sự chênh lệch rất lớn giữa hộ khá và hộ nghèo. 4.4. Những thuận lợi và khó khăn trong việc phát huy vai trò của phụ nữ trên địa bàn xã Chiềng Hoa – huyện Mường La – tỉnh Sơn La 4.4.1. Thuận lợi - Ngày càng có nhiều chính sách hỗ trợ cho nữ giới, đặc biệt nữ giới nông thôn về các lĩnh vực nông nghiệp, xóa đói giảm nghèo, đào tạo việc làm, hỗ chợ học tập hay chăm sóc sức khỏe cho họ. - Tổ chức hội phụ nữ từ trung ương đến cơ sở thường xuyên được kiện toàn và hoạt động có chiều sâu, là chỗ dựa vững chắc cho chị em phụ nữ trong hoạt động kinh tế, xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, đồng thời họ là những người trung gian giúp cho người phụ nữ tiếp nhận thông tin cũng như truyền tải tâm tư, nguyện vọng của mình đến với các cơ quan, ban ngành. - Sự nghiệp CNH-HĐH nông nghiệp nông thôn của nước ta là cơ sở giúp cho phụ nữ nông thôn có cơ hội để nâng cao kiến thức, năng lực, hoàn thiện bản thân. - Sự phát triển của hoa học kỹ thuật cũng như các phương tiện thông tin đại chúng giúp người phụ nữ có thể tiếp cận thông tin phục vụ sản xuất phát triển kinh tế hộ một cách có kế hoạch. - Phụ nữ là người cần cù, chịu khó, tỉ mỉ, biết lắng nghe, những nhân tố này rất quan trọng trong quá trình giúp đỡ và nâng cao năng lực cho phụ nữ. 4.4.2. Khó khăn - Hiện nay vốn là một vần đề rất quan trọng, hầu hết các hộ đều muốn phát triển sản xuất kinh doanh nhưng đều thiếu vốn. Nhưng khi đi vay vốn họ
- 57 gặp phải rất nhiều trở ngại bởi vì thủ tục vay vốn còn rườm rà và lãi suất vẫn còn cao. Hơn nữa muốn vay vốn thì phải có tài sản để thế chấp mà phụ nữ lại không có tài sản lớn vì họ ít được đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, việc này thường do chủ nhà tức người chồng quyết định trong khi đi vay vốn lại là người vợ. Ở nông thôn hiện nay chỉ có hội nông dân và hội phụ nữ là 2 tổ chức mà người phụ nữ có thể tin cậy nhất, họ được vay với lãi suất thấp tuy nhiên vốn vay lại không được nhiều. Muốn vay nhiều phải chấp nhận lãi suất cao và ở tổ chức tín dụng, ngân hàng và các tổ chức tư nhân khác. Những hộ nghèo họ không có tài sản thế chấp nên họ không có cơ hội vay vốn để phát triển sản xuất và cải thiện cuộc sống. - Phụ nữ nông thôn là lực lượng quan trọng trong việc sản xuất, tạo ra của cải vật chất, cung cấp cho toàn xã hội, họ phải lao động vất vả tuy nhiên họ lại không được hưởng một chế độ nào giống với phụ nữ làm việc trong các cơ quan, doanh nghiệp như chế độ bảo hiểm thương tật, thai sản hay nghỉ phép, làm ảnh hưởng đến sức khỏe, khả năng sản xuất và tái sản xuất của phụ nữ. Đây là thiệt thòi lớn cho phụ nữ nông thôn. - Trình độ học vấn của đại bộ phận phụ nữ vùng nghiên cứu còn chậm và hạn chế. Làm ảnh hưởng tới sự ra quyết định trong sản xuất, chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất nhằm tăng năng xuất, sản lượng hay việc quản lý hộ và tham gia công tác quản lý cộng đồng. - Do ảnh hưởng của tư tưởng từ ngàn đời xưa để lại, chính bản thân người phụ nữ vẫn chưa nhận thức được đầy đủ các quyền của mình. Nhiều phụ nữ ngại bộc bạch chính kiến, ngại tranh luận với nam giới, từ chối tham gia các lớp tập huấn về khoa học kỹ thuật, luôn an phận, tự ti, giữ lối sống khép kín, không vận động để tự mình thoát mình. Chính tư tưởng là lực cản bên trong kìm hãm sự độc lập trong suy nghĩ, sáng tạo, khả năng cống hiến của phụ nữ. - Phụ nữ nông thôn ít có điều kiện tham gia và thụ hưởng các hoạt động
- 58 văn hóa, tinh thần. Mức độ tiếp cận phúc lợi xã hội như dịch vụ y tế, nước sạch còn nhiều hạn chế, chị em còn gặp nhiều vấn đề trong chăm sóc sức khỏe sinh sản, tỷ lệ tử vong bà mẹ giảm chưa nhiều điều này có ảnh hưởng lớn đến tâm lý, mức độ hòa nhập cộng đồng, các hoạt động sản xuất kinh doanh, và đời sống của họ. - Trong gia đình, tư tưởng trọng nam khinh nữ còn tồn tại dẫn đến hiện tượng mất cân bằng giới tính khi sinh, bạo lực gia đình dưới nhiều hình thức vẫn còn tồn tại ở một số hộ. Vấn đề việc làm tại chỗ nhằm hạn chế thời gian lao động nông nhàn vẫn là vấn đề cần được quan tâm. Trong điều kiện kinh tế khó khăn, một bộ phận người dân di cư ra các khu thành phố, chủ yếu là nam giới vì thế phụ nữ phải đảm nhận cả lao động sản xuất và nội trợ trong hộ gia đình. Việc này gây sức ép cho các khu công nghiệp, đô thị, tệ nạn xã hội gia tăng, ngoài ra còn hiện tượng ngoại tình làm ảnh hưởng hạnh phúc gia đình. Trong khi thời vụ khẩn trương người phụ nữ phải làm việc hết công xuất và nhàn rỗi khi hết thời vụ. Vì vậy việc làm tại chỗ nhằm hỗ chợ cho người dân phát triển kinh tế địa phương và là cơ hội để phụ nữ nhận được sự chia sẻ gánh nặng cuộc sống từ người chồng. 4.5. Đề xuất các giải pháp chủ yếu nhằm phát huy vai trò của phụ nữ xã Chiềng Hoa, huyện Mường La, tỉnh Sơn La trong phát triển kinh tế hộ Một thực tế cho thấy, xã hội không thể tiến bộ, nền kinh tế không thể phát triển nếu có một bộ phận nào đó bị loại trừ hoặc xem nhẹ. Người phụ nữ luôn là đối tượng yếu thế hơn so với nam giới, vì vậy cần xây dựng môi trường thuận lợi để họ tự tin tiếp cận với các điều kiện sản xuất mới, tiến bộ mới. Cần có chủ trương phù hợp và thường xuyên tham gia hội nghị, hội thảo để cải thiện đời sống.Từ đó sẽ giúp họ khẳng định năng lực của mình trong xã hội. 4.5.1. Nâng cao nhận thức của xã hội về vai trò của phụ nữ Để thực hiện nhiệm vụ công nghiệp hóa hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn thì phát triển kinh tế hộ gia đình đóng vai trò không nhỏ, muốn vậy cần