Khóa luận Thực hiện quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng, phòng trị bệnh cho lợn nái sinh sản và lợn con theo me tại trại lợn Ngô Thị Hồng Gấm, huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình

pdf 55 trang thiennha21 19/04/2022 2160
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Thực hiện quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng, phòng trị bệnh cho lợn nái sinh sản và lợn con theo me tại trại lợn Ngô Thị Hồng Gấm, huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfkhoa_luan_thuc_hien_quy_trinh_cham_soc_nuoi_duong_phong_tri.pdf

Nội dung text: Khóa luận Thực hiện quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng, phòng trị bệnh cho lợn nái sinh sản và lợn con theo me tại trại lợn Ngô Thị Hồng Gấm, huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình

  1. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM NÔNG PHƯƠNG LOAN Tên chuyên đề: THỰC HIỆN QUY TRÌNH CHĂM SÓC, NUÔI DƯỠNG, PHÒNG TRỊ BỆNH CHO LỢN NÁI SINH SẢN VÀ LỢN CON THEO MẸ TẠI TRẠI LỢN NGÔ THỊ HỒNG GẤM, HUYỆN LƯƠNG SƠN, TỈNH HÒA BÌNH KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Hệ đào tạo: Chính quy Chuyên ngành: Chăn nuôi thú y Lớp: K47 - CNTY - N01 Khoa: Chăn nuôi Thú y Khóa học: 2015 - 2019 Giảng viên hướng dẫn: TS. Nguyễn Thị Bích Đào Thái Nguyên - 2019
  2. i LỜI CẢM ƠN Có được kết quả này, lời đầu tiên em xin chân thành cảm ơn trường Đại học Nông lâm Thái Nguyên nơi đào tạo, giảng dạy và giúp đỡ em trong suốt quá trình học tập nghiên cứu tại trường. Em xin chân thành cảm ơn sự tận tình dạy dỗ của các thầy cô trong khoa Chăn nuôi Thú y đã truyền đạt cho em những kiến thức về lý thuyết và thực hành trong suốt thời gian học ở trường để em có những kiến thức nền tảng phục vụ cho công việc thực tập, cũng như công việc thực tế của em sau khi ra trường. Đặc biệt, em xin chân thành cảm ơn sự quan tâm, chỉ bảo và hướng dẫn nhiệt tình của cô giáo hướng dẫn TS. Nguyễn Thị Bích Đào, người đã trực tiếp hướng dẫn em thực hiện thành công khóa luận này. Em xin bày tỏ lòng cảm ơn chân thành tới Ban lãnh đạo trại lợn Ngô Thị Hồng Gấm, huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình, cùng toàn thể anh chị em công nhân trong trại về sự hợp tác, giúp đỡ để em theo dõi các chỉ tiêu và thu thập số liệu làm cơ sở cho khóa luận này. Em xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới gia đình, người thân cùng bạn bè đồng nghiệp đã giúp đỡ, động viên tôi trong suốt thời gian hoàn thành khóa luận. Do kiến thức còn nhiều hạn chế nên khóa luận này không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của quý thầy cô và các bạn để khoá luận tốt nghiệp của em đạt được kết quả tốt hơn. Em xin chân thành cảm ơn! Thái Nguyên, ngày tháng năm 2019 Sinh viên Nông Phương Loan
  3. ii DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng 2.1. Kết quả sản xuất của trại 5 Bảng 3.1. Lịch phun thuốc sát trùng của trại 30 Bảng 3.2. Lịch phòng vắc xin của trại 34 Bảng 4.1.Kết quả tình hình chăn nuôi lợn tại trại qua 3 năm 2016 –T11/ 2018 36 Bảng 4.2. Kết quả công việc đạt được trong thời gian thực tập tại trại 37 Bảng 4.3. Tình hình đẻ của đàn lợn nái tại trại 37 Bảng 4.4. Một số chỉ tiêu về số lượng lợn con của lợn nái từ tháng 6 năm 2018 đến tháng 11 năm 2018 38 Bảng 4.5. Kết quả thực hiện vệ sinh, sát trùng tại trại 39 Bảng 4.6. Kết quả phòng bệnh cho đàn lợn 40 Bảng 4.7. Tình hình mắc bệnh ở lợn nái và lợn con theo mẹ 41 Bảng 4.8. Kết quả điều trị bệnh trên đàn lợn nái tại trại 42 Bảng 4.9. Kết quả điều trị bệnh ở lợn con 43
  4. iii DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT Cs: Cộng sự G: Gam Kg: kilogam LMLM: Lở mồm long móng Ml: Mililit Mn: Milimet NN & PTNT: Nông nghiệp và phát triển nông thôn Nxb: Nhà xuất bản STT: Số thứ tự TT: Thể trọng
  5. iv MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 1.1. Đặt vấn đề 1 1.2. Mục tiêu và yêu cầu của chuyên đề 2 1.2.1. Mục tiêu 2 1.2.2. Yêu cầu 2 PHẦN 2 TỔNG QUAN TÀI LIỆU 3 2.1. Điều kiện cơ sở nơi thực tập 3 2.1.1. Điều kiện tự nhiên 3 2.1.2. Điều kiện cơ sở vật chất nơi thực tập 4 2.1.3. Đối tượng và các kết quả sản xuất của cơ sở (trong 3 năm) 5 2.2. Những hiểu biết về quá trình chăm sóc và nuôi dưỡng lợn nái sinh sản. 7 2.2.1. Chăn nuôi lợn nái sinh sản 7 2.2.2. Kỹ thuật nuôi dưỡng lợn con theo mẹ 10 2.2.3. Những hiểu biết về phòng, trị bệnh cho vật nuôi 13 2.2.4. Những bệnh thường gặp ở lợn nái sinh sản 16 2.2.5. Một số bệnh thường gặp ở lợn con 22 2.3. Tổng quan tài liệu nghiên cứu trong và ngoài nước 24 2.3.1. Các nghiên cứu trong nước 24 Phần 3 ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP TIẾN HÀNH 29 3.1. Đối tượng nghiên cứu 29 3.2. Địa điểm và thời gian thực hiện 29 3.3. Nội dung tiến hành 29 3.4. Các chỉ tiêu theo dõi và phương pháp thực hiện 29 3.4.1. Các chỉ tiêu theo dõi 29 Số con sống đến cai sữa 29 Số con sơ sinh 29 3.4.2. Phương pháp áp dụng quy trình vệ sinh, phòng bệnh tại trại 30 3.4.3. Phương pháp thực hiện công tác chăm sóc, nuôi dưỡng đàn lợn 31 3.4.4. Phương pháp thực hiện công tác chăm sóc, nuôi dưỡng đàn lợn 34
  6. v 3.4.5. Phương pháp xử lý số liệu 35 PHẦN 4 KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 36 4.1. Tình hình chăn nuôi lợn tại trại qua 3 năm 2016-T11/ 2018. 36 4.2. Kết quả thực hiện quy trình chăm sóc nuôi dưỡng đàn lợn 36 4.2.1.Kết quả thực hiện quy trình chăm sóc đàn lợn tại trại 36 4.3. Kết quả thực hiện công tác vệ sinh phòng bệnh 39 4.3.1. Công tác vệ sinh sát trùng chuồng trại 39 4.3.2. Công tác phòng bệnh cho đàn lợn 40 4.4. Công tác chẩn đoán bệnh và điều trị bệnh cho đàn lợn nái và lợn con theo mẹ 41 4.5. Kết quả điều trị bệnh cho lợn nái sinh sản và lợn con theo mẹ tại trại 42 4.5.1. Kết quả điều trị bệnh cho lợn nái sinh sản tại trại 42 4.5.2. Kết quả điều trị bệnh cho lợn con theo lợn mẹ tại trại 43 PHẦN 5 KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 44 5.1. Kết luận 44 5.2. Đề nghị 45 TÀI LIỆU THAM KHẢO 46
  7. 1 PHẦN 1 MỞ ĐẦU 1.1. Đặt vấn đề Việt Nam là một nước có nền nông nghiệp truyền thống, trong đó ngành chăn nuôi ngày càng chiếm một vị trí quan trọng trong việc phát triển kinh tế hộ gia đình và kinh tế trang trại cũng như nền kinh tế cả nước. Trong những năm gần đây ngành chăn nuôi lợn đang phát triển mạnh mẽ theo hướng hộ gia đình và trang trại, góp phần lớn vào việc tăng trưởng kinh tế nước ta. Chăn nuôi lợn là ngành cung cấp thịt chủ yếu và đóng vai trò quan trọng ở Việt Nam, phù hợp với thị hiếu người dân, là nguồn cung cấp phân bón cho ngành trồng trọt và là nguồn cung cấp các sản phẩm phụ như: da, mỡ, cho ngành công nghiệp chế biến. Các sản phẩm chăn nuôi ngày càng nhiều và đa dạng nhờ việc áp dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật tiên tiến vào chăn nuôi. Chăn nuôi lợn là nghề đang được Đảng và Nhà nước ta đã đặc biệt quan tâm và đầu tư về công tác giống, thức ăn, thú y. Chất lượng đàn lợn không ngừng được cải thiện với mục đích đưa ngành chăn nuôi lợn trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn trong cơ cấu ngành chăn nuôi nói riêng và phát triển nông nghiệp nói chung. Sự hiệu quả trong chăn nuôi lợn và mang lại lợi ích kinh tế nhanh nhất, lớn nhất đó chính là mô hình chăn nuôi công nghiệp ở các trang trại, xí nghiệp. Đi cùng với lợi ích kinh tế là nhiều khó khăn xuất hiện, trong đó có tình hình dịch bệnh đe dọa trực tiếp đến lợi ích kinh tế và nhiều lợi ích khác. Tuy nhiên, một trong những trở ngại lớn nhất của chăn nuôi lợn nái sinh sản là dịch bệnh còn xảy ra phổ biến gây nhiều thiệt hại cho đàn lợn nái nuôi tập trung trong các trang trại cũng như nuôi nhỏ lẻ tại các hộ gia đình. Đối với lợn nái nhất là lợn ngoại được chăn nuôi theo phương thức công nghiệp nên tỷ lệ mắc bệnh sinh sản ngày càng nhiều hơn do khả năng thích nghi của đàn lợn nái với điều kiện ngoại cảnh nước ta còn kém. Xuất phát từ tình hình thực tế trên, được sự đồng ý của Ban chủ nhiệm khoa Chăn nuôi Thú y - Trường ĐH Nông lâm Thái Nguyên, cùng với sự giúp đỡ của
  8. 2 giáo viên hướng dẫn và cơ sở nơi thực tập em đã tiến hành thực hiện chuyên đề: “Thực hiện quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng, phòng trị bệnh cho lợn nái sinh sản và lợn con theo me tại trại lợn Ngô Thị Hồng Gấm, huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình”. 1.2. Mục tiêu và yêu cầu của chuyên đề 1.2.1. Mục tiêu - Thực hiện được quy trình nuôi dưỡng, chăm sóc và phòng, trị bệnh đàn lợn nái sinh sản và lợn con theo mẹ tại trại. - Rèn luyện tay nghề nâng cao hiểu biết kinh nghiệm thực tế. - Đánh giá được tình hình chăn nuôi tại trại. - Đánh giá tình hình mắc bệnh của lợn nái sinh sản và lợn con theo mẹ tại trại. - Xác định được quy trình nuôi dưỡng, chăm sóc và phòng, trị bệnh đàn lợn nái sinh sản và lợn con theo mẹ tại trại có hiệu quả cao. 1.2.2. Yêu cầu - Vận dụng những kiến thức đã học được vào thực tiễn vào chăn nuôi lợn nái sinh sản và lợn con theo mẹ tại trại. - Thực hiện quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng và phòng trị bệnh cho lợn nái sinh sản và lợn con theo mẹ tại trại. - Xác định được tình hình mắc bệnh, áp dụng và đánh giá hiệu quả điều trị bệnh ở lợn nái và lợn con. - Từ thực tiễn chăn nuôi xác định và đề xuất các biện pháp phòng và điều trị bệnh có hiệu quả cho lợn nái sinh sản và lợn con theo mẹ tại các trang trại chăn nuôi.
  9. 3 PHẦN 2 TỔNG QUAN TÀI LIỆU 2.1. Điều kiện cơ sở nơi thực tập 2.1.1. Điều kiện tự nhiên 2.1.1.1. Vị trí địa lý Trại lợn Ngô Thị Hồng Gấm nằm trên địa phận thôn Dẻ Cau, xã Hợp Thanh, huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình. Là trại lợn gia công của Công ty Chăn nuôi CP Việt Nam. Trang trại do bà Ngô Thị Hồng Gấm làm chủ và được cán bộ kỹ thuật của Công ty Chăn nuôi CP Việt Nam chịu trách nhiệm giám sát mọi hoạt động của trang trại. 2.1.1.2. Đặc điểm địa hình và khí hậu Về địa hình: huyện Lương Sơn là cửa ngõ của tỉnh miền núi Hòa Bình và miền Tây Bắc Việt Nam, cách thủ đô Hà Nội khoảng 40km. Nằm ở phần phía Nam dãy núi Ba Vì, phía Đông giáp huyện Chương Mỹ và huyện Mỹ Đức, thành phố Hà Nội. Phía Tây giáp huyện Kỳ Sơn, tỉnh Hòa Bình. Phía Nam giáp huyện Kim Bôi và huyện Lạc Thủy, tỉnh Hòa Bình. Phía Bắc giáp huyện Quốc Oai và huyện Thạch Thất, thành phố Hà Nội. Huyện Lương Sơn thuộc vùng trung du - nơi chuyển tiếp giữa đồng bằng và miền núi, nên địa hình rất đa dạng. Địa hình đồi núi thấp có độ cao khoảng 200 - 400m được hình thành bởi đá macma, đá vôi và các trầm tích lục nguyên. Về khí hậu: huyện Lương Sơn thuộc khí hậu nhiệt đới gió mùa, với mùa đông lạnh, ít mưa; mùa hè nóng, mưa nhiều. Nền nhiệt trung bình cả năm 22,9 - 23,30C. Lượng mưa bình quân từ 1.520,7 - 2.255,6 mm/năm, do có nhiều tiểu vùng khí hậu khác nhau nên huyện có thể phát triển cây trồng, vật nuôi phong phú, đa dạng theo hướng tập đoàn .Lương Sơn là một huyện vùng thấp bán sơn địa của tỉnh Hoà Bình, có địa hình phổ biến là núi thấp và đồng bằng. Độ cao trung bình của toàn huyện so với mực nước biển là 251 m, có địa thế nghiêng đều theo chiều từ Tây Bắc xuông Đông Nam, là nơi tiếp giáp giữa đồng bằng châu thổ sông Hồng và miền núi tây bắc Bắc Bộ. Đặc điểm nổi bật của địa hình nơi đây là có những dãy núi thấp chạy dài xen kẽ các khối núi đá vôi với những hang động. Có nhiều khe suối, hồ tự nhiên, hồ nhân tạo đan xen tạo nên cảnh sắc thơ mộng
  10. 4 Trên địa bàn huyện Lương Sơn có những danh lam thắng cảnh, di chỉ khảo cổ hàng năm thu hút một lượng đáng kể khách du lịch như hang Trầm, hang Rổng, hang Tằm, hang Trâu, mái đá Diềm, núi Vua Bà 2.1.2. Điều kiện cơ sở vật chất nơi thực tập 2.1.2.1. Về cơ sở vật chất: Trang trại có tổng diện tích 6 ha, trong đó khu chăn nuôi cùng khu nhà ở, các công trình phụ khác và đất trồng cây xanh, cây ăn quả, ao hồ chiếm diện tích 3 ha. Diện tích còn lại là đồi núi. Khu vực chuồng nuôi của trại được xây dựng trên một khu vực cao, dễ thoát nước và bố trí tách biệt với khu sinh hoạt chung của công nhân. Hiện nay, trại có hơn 1275 con lợn nái, 21 con lợn đực giống, được phân bố ở 3 chuồng đẻ (1A, 1B; 2A, 2B; 3A, 3B), 2 chuồng bầu (bầu 1 - chứa cả đực giống, bầu 2, 1 chuồng cách ly). Chuồng nuôi dược xây dựng theo hướng Đông - Nam, Tây - Bắc, đảm bảo thoáng mát về mùa hè và ấm áp về mùa đông. Chuồng nuôi xây dựng theo kiểu 2 mái gồm 6 dãy chuồng chạy dài. Trong đó, đó có 3 dãy chuồng đẻ, mỗi dãy được tách ra làm 2 chuồng nhỏ với 58 ô chuồng sàn. Chuồng lợn bầu gồm 2 chuồng với mỗi ô chuồng có 500 ô kiểu chuồng cũi sắt. Các chuồng nuôi đều được lắp đặt hệ thống điện chiếu sáng và hệ thống vòi uống nước tự động ở mỗi ô chuồng. Mùa hè có hệ thống làm mát bằng quạt thông gió và dàn mát. Mùa đông có hệ thống làm ấm bằng đèn hồng ngoại. - Khu nhà ở và sinh hoạt của công nhân. + Khu nhà ở rộng rãi có đầy đủ các trang thiết bị, máy móc phục vụ cho công nhân và sinh viên sinh hoạt hàng ngày như: máy giặt, tắm nóng lạnh, tivi, tủ lạnh, quạt, , những vật dụng cá nhân cũng được trại chuẩn bị như: kem đánh răng, xà phòng, dầu gội, xà bông tắm, , trại còn đầu tư thêm khu giải trí cho công nhân và sinh viên sau giờ làm việc như: bóng chuyền, + Khu nhà ăn cũng được tách biệt có nhà ăn ca (buổi trưa) và nhà ăn chung (buổi tối). + Khu nhà bếp rộng rãi, sạch sẽ và hợp vệ sinh. + Nhà kho là nơi chứa thức ăn cho lợn và một kho thuốc là nơi cất giữ và bảo quản các loại thuốc, vắc xin, dụng cụ kỹ thuật để phục vụ công tác chăm sóc, điều trị cho đàn lợn của trại. 2.1.2.1. Về nhân sự:
  11. 5 Trại gồm có 30 người trong đó có: + 1 quản lý + 2 kỹ sư chính của công ty + 2 tổ trưởng (1 chuồng bầu, 1 chuồng đẻ) + 17 công nhân + 1 cấp dưỡng + 1 cơ khí + 1 bảo vệ + 5 sinh viên thực tập 2.1.3. Đối tượng và các kết quả sản xuất của cơ sở (trong 3 năm) 2.1.3.1. Đối tượng sản xuất Trang trại chăn nuôi Ngô Thị Hồng Gấm chuyên nuôi lợn sinh sản, cung cấp giống lợn là Landrace - Yorkshire. Lợn sau khi sinh 21 - 23 ngày thì được xuất chuồng. 2.1.3.2. Kết quả sản xuất của cơ sở trong những năm gần đây Trang trại chăn nuôi của bà Ngô Thị Hồng Gấm là một trong những trang trại có quy mô công nghiệp, với số vốn đầu tư lớn, áp dụng khoa học kỹ thuật vào trong sản xuất, trại luôn đạt kết quả sản xuất cao. Bảng 2.1. Kết quả sản xuất của trại Số lượng (con) STT Loại lợn 2016 2017 11/2018 1 Đực giống 19 20 21 2 Nái sinh sản 1153 1301 1275 3 Lợn hậu bị 137 147 160 4 Tỷ lệ đậu thai (%) 85,63 87,69 89,60 5 Số lứa đẻ/nái/năm (con) 2,24 2,3 2,37 6 Lợn con chết và loại sau sinh (%) 7,7 8,2 6,8 7 Số lợn con cai sữa (con) 29520 20275 33254 (Nguồn: Bộ phận kỹ thuật trại) Qua bảng trên ta có thể thấy, kết quả sản xuất của trại tăng lên theo từng năm: số lợn đực giống từ năm 2016 là 19 con, tới năm 2018 tăng lên 21 con. Số lợn
  12. 6 nái hậu bị từ năm 2016 là 137 nái, tới năm 2018 tăng lên 160 nái. Số lợn nái sinh sản năm 2016 là 1153 nái, tới năm 2018 tăng lên 1275 nái. Tỷ lệ phối đậu thai từ 85,63% (năm 2016) tăng lên 89,60% (năm 2018). Số lợn con cai sữa tăng lên, năm 2016 là 29520 con, nửa năm 2018 đã đạt 33254 con. Điều đó cho thấy tình hình chăn nuôi của trang trại khá ổn định và không ngừng tăng lên về số lượng đầu nái cũng như số lượng lợn con được xuất đi trong 1 năm. Để đạt được những kết quả như trên, ngoài việc áp dụng khoa học kỹ thuật, đầu tư trang thiết bị cơ sở vật chất, đội ngũ nhân viên có tay nghề cao , trang trại đã tuân thủ nghiêm ngặt các yêu cầu về vệ sinh thú y, với phương châm “phòng dịch hơn dập dịch”. Trang trại chăn nuôi của bà Ngô Thị Hồng Gấm là một điển hình về mô hình chăn nuôi gia công theo hướng công nghiệp hóa hiện nay. 2.1.3.3. Thuận lợi và khó khăn của trại - Thuận lợi: + Được sự quan tâm tạo điều kiện và có các chính sách hỗ trợ đúng đắn của các ngành, các cấp có liên quan như UBND xã Hợp Thanh, Trạm thú y huyện Lương Sơn tạo điều kiện cho sự phát triển của trại. + Trại được xây dựng trên một quả đồi nên cách xa khu dân cư, không làm ảnh hưởng đến người dân xung quanh. + Đội ngũ quản lý, cán bộ kỹ thuật, công nhân của trại có năng lực, năng động, nhiệt tình và có trách nhiệm trong công việc. + Trại được xây dựng theo mô hình công nghiệp, trang thiết bị hiện đại, do đó rất phù hợp với điều kiện chăn nuôi lợn công nghiệp hiện nay. - Khó khăn: + Trại nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, thời tiết diễn biến phức tạp nên khâu phòng trừ bệnh gặp nhiều khó khăn. + Đội ngũ công nhân trong trại thay đổi liên tục nên chưa có kinh nghiệm trong công việc và có lúc thiếu, do đó ảnh hưởng đến tiến độ cô + Trang thiết bị vật tư, hệ thống chăn nuôi còn thiếu, chưa đáp ứng được nhu cầu sản xuất.
  13. 7 + Dịch bệnh diễn biến phức tạp nên chi phí dành cho phòng và chữa bệnh cao. + Thời điểm cuối năm 2016 đến nay, giá lợn giảm thấp khiến trang trại gặp nhiều khó khăn hơn. 2.2. Những hiểu biết về quá trình chăm sóc và nuôi dưỡng lợn nái sinh sản. 2.2.1. Chăn nuôi lợn nái sinh sản 2.2.1.1. Quy trình nuôi dưỡng và chăm sóc lợn nái đẻ Mục đích chăn nuôi lợn nái đẻ nhằm đảm bảo cho lợn đẻ an toàn, lợn con có tỷ lệ sống cao, lợn mẹ có sức khỏe tốt, đủ khả năng tiết sữa nuôi con. Chính vì vậy quá trình chăm sóc, nuôi dưỡng có vai trò rất quan trọng và ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe lợn mẹ và lợn con. - Quy trình nuôi dưỡng Theo Trần Văn Phùng và cs. (2004) [20], thức ăn dùng cho lợn nái đẻ phải là những thức ăn có giá trị dinh dưỡng cao, dễ tiêu hóa. Không cho lợn nái ăn thức ăn có hệ số choán cao gây chèn ép thai sinh ra đẻ non, đẻ khó, hoặc ép thai chết ngạt. Một tuần trước khi lợn đẻ phải căn cứ vào tình trạng sức khỏe cụ thể của lợn nái để có kế hoạch giảm dần lượng thức ăn. Đối với những lợn nái có sức khỏe tốt thì một tuần trước khi đẻ giảm 1/3 lượng thức ăn, trước 2 - 3 ngày giảm 1/2 lượng thức ăn. Đối với những lợn nái có sức khỏe yếu thì không giảm lượng thức ăn mà giảm dung tích của thức ăn bằng cách tăng cường cho ăn các loại thức ăn dễ tiêu hóa. Những ngày lợn đẻ phải căn cứ vào thể trạng của lợn nái, sự phát dục của bầu vú mà quyết định chế độ dinh dưỡng cho hợp lý. Ngày lợn nái cắn ổ đẻ, cho lợn nái ăn ít thức ăn tinh (0,5kg) hoặc không cho thức ăn tinh nhưng uống nước tự do. Ngày lợn nái đẻ có thể không cho lợn nái ăn mà chỉ có uống nước ấm có pha muối hoặc ăn cháo loãng. Sau khi đẻ 2 - 3 ngày không cho lợn nái ăn nhiều một cách đột ngột mà tăng từ từ đến ngày thứ 4 - 5 thì cho ăn đủ tiêu chuẩn. Thức ăn cần chế biến tốt, dung tích nhỏ, có mùi vị thơm ngon để kích thích tính thèm ăn cho lợn nái. - Quy trình chăm sóc Trong quá trình chăm sóc lợn nái đẻ, công việc cần thiết và rất quan trọng đó là việc chuẩn bị ô úm cho lợn con. Theo Trần Thanh Vân và cs (2004) [20], ô úm rất
  14. 8 quan trọng đối với lợn con, nó có tác dụng phòng ngừa lợn mẹ đè chết lợn con, đặc biết những ngày đầu mới sinh lợn con còn yếu ớt, mà lợn mẹ mới đẻ xong sức khỏe còn rất yếu chưa hồi phục. Ô úm tạo điều kiện để khống chế nhiệt độ thích hợp cho lợn con, đặc biệt là lợn con đẻ vào những ngày mùa đông. Ngoài ra, úm tạo điều kiện thuận lợi cho việc tập ăn sớm cho lợn con (để máng vào trong ô úm cho lợn con ăn lúc 4 – 5 ngày tuổi). Vào ngày dự kiến đẻ của lợn nái, cần chuẩn bị xong ô úm cho lợn con. Kích thước ô úm : 1,2m 1,5m. Ô úm cọ rửa sạch, phun sát trùng và để trống từ 3 – 5 ngày trước khi đón lợn con sơ sinh. 2.2.1.2. Quy trình nuôi dưỡng và chăm sóc lợn nái nuôi con - Quy trình nuôi dưỡng Theo Ngô Nhật Thắng (2006) [23], thức ăn cho lợn nái nuôi con phải là những thức ăn có ảnh hưởng tốt đến sản lượng và chất lượng sữa. Đó là các loại thức ăn xanh non như các loại rau xanh, các loại củ quả như bí đỏ, cà rốt, đu đủ. Thức ăn tinh tốt như gạo tấm, cám gạo, bột mỳ, các loại thức ăn bổ sung đạm động vật, đạm thực vật, các loại khoáng, vitamin Không cho lợn nái nuôi con ăn các loại thức ăn thối mốc, biến chất, hư hỏng. Thức ăn hỗn hợp cho lợn nái nuôi con dùng trong chăn nuôi công nghiệp phải đảm bảo đủ protein, năng lượng và các thành phần vitamin, khoáng theo đúng tiêu chuẩn quy định như năng lượng trao đổi 3100 Kcal, protein 15%, Ca từ 0,9 - 1,0%, phospho 0,7%. Lượng thức ăn cho lợn nái nuôi con cũng đóng vai trò quan trọng và ảnh hưởng trực tiếp đến sinh trưởng và khả năng điều tiết sữa của lợn mẹ, chính vì vậy ta cần phải có một khẩu phần ăn hợp lý và đầy đủ dinh dưỡng cho lợn mẹ. Theo Lê Hồng Mận, Bùi Đức Lũng (2004) [14], trong quá trình nuôi con, lợn nái được cho ăn như sau: Đối với lợn nái ngoại: + Ngày cắn ổ đẻ: cho lợn nái ăn ít thức ăn hỗn hợp hoàn chỉnh (0,5 kg) hoặc không cho ăn, nhưng cho uống nước tự do. + Sau ngày đẻ thứ 1, 2 và 3 cho ăn thức ăn hỗn hợp với lượng thức ăn từ 1 - 2 - 3 kg tương ứng. + Ngày nuôi con thứ 4 đến ngày thứ 7: cho ăn 4 kg thức ăn hỗn hợp/nái/ngày. + Từ ngày thứ 8 đến cai sữa cho ăn theo công thức:
  15. 9 Lượng thức ăn/nái/ngày = 2 kg + (số con x 0,35 kg/con). Số bữa ăn trên ngày: 2 (sáng và chiều). Nếu lợn mẹ gầy thì cho ăn thêm 0,5 kg, lợn mẹ béo thì giảm 0,5 kg thức ăn/ngày. Ngoài ra cho lợn nái ăn từ 1 - 2 kg rau xanh/ngày sau bữa ăn tinh (nếu có rau xanh). + Một ngày trước ngày cai sữa lượng thức ăn của lợn mẹ giảm đi 20 - 30%. Ngày cai sữa cho lợn mẹ nhịn ăn, hạn chế uống nước. - Quy trình chăm sóc Theo Trần Văn Phùng và cs. (2004) [20], vận động tắm nắng là điều kiện tốt giúp cho lợn nái nhanh phục hồi sức khỏe và nâng cao sản lượng sữa của lợn mẹ. Do vậy sau khi lợn đẻ được từ 3 - 7 ngày, trong điều kiện chăn nuôi có sân vận động, nếu thời tiết tốt thì có thể cho lợn nái vận động, thời gian vận động lúc đầu là 30 phút/ngày, sau tăng dần số giờ vận động lên. Trong chăn nuôi công nghiệp, hầu hết lợn nái nuôi con đều bị nhốt trong các cũi đẻ, không được vận động, vì vậy cần phải chú ý đến thành phần dinh dưỡng của thức ăn, đặc biệt các chất khoáng và vitamin. Ngoài ra yêu cầu đối với chuồng trại của lợn nái nuôi con là phải đảm bảo luôn khô ráo, sạch sẽ, không ẩm ướt, vì vậy hàng ngày phải vệ sinh chuồng trại, máng ăn, máng uống sạch sẽ. Theo Trần Văn Phùng và sc. (2004) [20], chuồng lợn nái nuôi con phải có ô úm lợn con và ngăn tập ăn sớm cho lợn con. Nhiệt độ chuồng nuôi thích hợp là 18 - 20 oC, độ ẩm 70 - 75%. Sữa mẹ là nguồn dinh dưỡng chủ yếu không thể thay thế được trong những giai đoạn đầu tiên sau khi sinh của lợn con, sản lượng của sữa mẹ và khối lượng của lợn con khi cai sữa liên quan mật thiết đến nhau, nếu lợn mẹ có sản lượng sữa cao thì khối lượng lợn con khi cai sữa cao và ngược lại. Do vậy việc áp dụng các biện pháp để nâng cao sản lượng sữa của lợn mẹ là rất quan trọng. Muốn đạt được mục đích trên yêu cầu phải nắm được quy luật tiết sữa và những yếu tố ảnh hưởng đến khả năng tiết sữa của lợn nái, từ đó đề ra biện pháp kỹ thuật có hiệu quả. Sinh lý tiết sữa Tiết sữa của lợn nái trong quá trình nuôi con là một quá trình sinh lý phức tạp, do có những đặc điểm khác với gia súc khác là bầu vú của lợn nái không có bể sữa nên lợn
  16. 10 nái không dự trữ sữa trong bầu vú, do vậy lợn mẹ không tiết sữa bất kỳ lúc nào vì vậy lợn con không phải lúc nào cũng bú được sữa mẹ. Quá trình tiết sữa của lợn nái là một phản xạ, do những kích thích vào bầu vú gây nên. Phản xạ tiết sữa của lợn nái tương đối ngắn và chuyển dần từ trước ra sau. Trong đó yếu tố thần kinh giữ vai trò chủ đạo, khi lợn con thúc vú mẹ, những kích thích này truyền lên vỏ não, vào vùng Hypothalamus, từ đó kích thích tuyến yên sản sinh ra kích tố oxytoxin tiết vào trong máu, kích tố này đi vào tuyến bào kích thích lợn nái tiết sữa. Do tác động của oxytoxin trong máu khác nhau cho nên các vú khác nhau có sản lượng sữa khác nhau, những vú ở phần ngực tiết sữa nhiều hơn những vú ở phần sau. Lợn con dùng mõm thúc vào vú lợn mẹ, thời gian thúc vú của lợn con có thể từ 5 - 7 phút, sau đó nằm im hoàn toàn và bú. Sữa tiết ra rõ nhất là lúc lợn mẹ kêu ịt ịt, lợn con mút chặt đầu vú, hai chân trước đạp thẳng vào bầu vú, nằm yên theo sự tiết sữa của lợn mẹ. Do thời gian tiết sữa của lợn mẹ rất ngắn chỉ khoảng 25 - 30 giây, nên một ngày lợn con phải bú nhiều lần mới đủ so với nhu cầu. Trong những ngày đầu sau khi sinh, lợn con bú từ 20 - 25 lần trên ngày, mỗi lần lượng sữa tiết ra 25 - 35 gam/con. Lượng sữa của lợn nái tiết ra cao dần từ lúc mới đẻ, cao nhất lúc 21 ngày sau khi đẻ, sau đó giảm dần. Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến khả năng tiết sữa của lợn nái như giống, cá thể, tuổi và lứa đẻ, số con đẻ ra/lứa, nuôi dưỡng và chăm sóc 2.2.2. Kỹ thuật nuôi dưỡng lợn con theo mẹ Theo Võ Trọng Hốt và cs (2007) [9], lợn con giai đoạn theo mẹ có 3 thời kỳ quan trọng, chúng ta cần tìm hiểu rõ để có biện pháp tác động thích hợp. * Thời kỳ từ sơ sinh đến 1 tuần tuổi: Là thời kỳ khủng hoảng đầu tiên của lợn con do sự thay đổi hoàn toàn về môi trường, bởi vì lợn con chuyển từ điều kiện sống ổn định trong cơ thể mẹ sang điều kiện tiếp xúc trực tiếp với môi trường bên ngoài. Do vậy nếu nuôi dưỡng không tốt, lợn con dễ bị mắc bệnh, còi cọc, tỷ lệ nuôi sống thấp.
  17. 11 Mặt khác, lúc này lợn con mới đẻ còn yếu ớt, chưa nhanh nhẹn. Lợn mẹ vừa đẻ xong, cơ thể còn mệt mỏi, đi đứng còn nặng nề vì sức khỏe chưa hồi phục, nên dễ đè chết lợn con. Cần nuôi dưỡng chăm sóc tốt lợn con ở giai đoạn này để giảm tỷ lệ chết. * Thời kỳ 3 tuần tuổi Là thời kỳ khủng hoảng thứ 2 của lợn con, do quy luật tiết sữa của lợn mẹ gây nên. Sản lượng sữa của lợn nái tăng dần sau khi đẻ và đạt cao nhất ở giai đoạn 3 tuần tuổi, sau đó sản lượng sữa của lợn mẹ giảm nhanh, trong khi đó nhu cầu dinh dưỡng của lợn con ngày càng tăng do lợn con sinh trưởng, phát dục nhanh, đây là mâu thuẫn giữa cung và cầu, để giải quyết mâu thuẫn này, cần tập ăn sớm cho lợn con. * Thời kỳ ngay sau khi cai sữa Là thời kỳ khủng hoảng thứ 3 do môi trường sống thay đổi hoàn toàn, do yếu tố cai sữa gây nên. Mặc khác thức ăn thay đổi, chuyển từ thức ăn chủ yếu là sữa mẹ sang thức ăn hoàn toàn do con người cung cấp. Nên giai đoạn này, nếu nuôi dưỡng chăm sóc không chu đáo, lợn con rất dễ còi cọc, mắc bệnh đường tiêu hóa, hô hấp. Chú ý trong chăn nuôi lợn nái theo phương thức công nghiệp, tiến hành cai sữa lúc 21 ngày thì thời kỳ khủng hoảng thứ 2 và thứ 3 trùng nhau, hay nói cách khác ta làm giảm được một thời kỳ khủng hoảng của lợn con. Kỹ thuật nuôi dưỡng lợn con theo mẹ gồm các thao tác cơ bản sau: + Cho bú sữa đầu và cố định đầu vú cho lợn con + Bổ sung sắt cho lợn con + Tập cho lợn con ăn sớm 2.2.2.1. Cho bú sữa đầu Theo Trần Thị Dân (2004) [3], lợn con đẻ ra cần được bú sữa đầu càng sớm càng tốt. Thời gian tiết sữa đầu của lợn mẹ là 1 tuần kể từ khi đẻ nhưng có ý nghĩa lớn nhất đối với cả đàn là trong 24 giờ đầu. Sau khoảng 2 giờ, nếu lợn mẹ đẻ xong thì nên cho những con đẻ trước bú trước. Sữa đầu có hàm lượng các chất dinh dưỡng rất cao. Hàm lượng protein trong sữa đầu gấp 2 lần so với sữa thường, vitamin A gấp 5 - 6 lần, vitamin C gấp 2,5 lần, vitamin B1 và sắt gấp 2,5 lần. Đặc biệt trong sữa đầu có hàm lượng  globulin mà
  18. 12 sữa thường không có. Ngoài ra, Mg2+ trong sữa đầu có tác dụng tẩy các chất cặn bã trong quá trình tiêu hóa ở thời kỳ phát triển thai, để hấp thu chất dinh dưỡng mới, nếu không nhận được Mg2+ thì lợn con sẽ bị rối loạn tiêu hóa, gây ỉa chảy tỷ với lệ chết cao. 2.2.2.2. Bổ sung sắt cho lợn con Theo Nguyễn Quang Linh (2005) [12], những ngày đầu, khi lợn con chưa ăn được, lượng sắt mà lợn con tiếp nhận từ nguồn sữa mẹ không đủ cho nhu cầu của cơ thể, vì vậy lợn con cần được bổ sung thêm sắt. Nhu cầu sắt cần cung cấp cho lợn con ở giai đoạn 1- 20 ngày tuổi cần 7 - 16 mg/ngày hoặc 21 mg/kg tăng trọng. Trong đó lượng sắt lợn mẹ cung cấp từ sữa chỉ đạt 10 – 30% lượng sắt cơ thể cần, lượng sắt thiếu hụt cho 1 lợn con khoảng 100 - 200 mg, vì vậy mỗi lợn con cần cung cấp thêm lượng sắt thiếu hụt. Trong thực tế thường cung cấp thêm 200 mg. Nên tiêm sắt cho lợn con trong 3 - 4 ngày đầu sau khi sinh. Việc tiêm sắt thường cùng làm với thao tác khác để tiết kiệm công lao động. Nếu cai sữa lợn con ở lúc 3 tuần tuổi, tiêm 1 lần 100 mg sắt là đủ. Nếu cai sữa sau 3 tuần tuổi, nên tiêm 200 mg sắt chia làm 2 lần, lần 1 tiêm lúc 3 ngày tuổi, lần 2 tiêm lúc 10 - 13 ngày tuổi. Trại lợn Ngô Thị Hồng Gấm tiến hành cai sữa cho lợn con lúc 21 ngày tuổi nên bổ sung sắt một lần. Triệu chứng điển hình của thiếu sắt là thiếu máu, hàm lượng Hemoglobin giảm. Khi thiếu sắt, da lợn con có màu trắng xanh, đôi khi lợn con bị ỉa chảy, ỉa phân trắng, lợn con chậm lớn có khi tử vong. 2.2.2.3. Tập cho lợn con ăn sớm Theo Nguyễn Quang Linh (2005) [12], mục đích của việc cho lợn con ăn sớm là để bổ sung thức ăn sớm cho lợn con. Lợn con ăn được thức ăn có rất nhiều tác dụng: đảm bảo cho lợn con sinh trưởng phát triển bình thường, không hoặc ít bị stress, không bị thiếu hụt dinh dưỡng cho nhu cầu phát triển nhanh của lợn con sau 3 tuần tuổi và khi cai sữa, giảm tỷ lệ hao hụt của lợn mẹ. Thúc đẩy bộ máy tiêu hóa của lợn con phát triển nhanh và sớm hoàn thiện hơn. Khi bổ sung thức ăn sớm cho lợn con thì kích thích vào tế bào vách dạ dày tiết ra HCl ở dạng tự do sớm hơn và tăng cường phản xạ tiết dịch vị.
  19. 13 Giảm tỷ lệ hao hụt của lợn nái. Nếu không bổ sung thức ăn sớm cho lợn con thì tỷ lệ hao hụt của lợn nái cao, nhất là đối với lợn nái được nuôi kém, có khi tỷ lệ hao hụt lên tới 30%, sẽ làm giảm số lứa đẻ trong một năm (tỷ lệ hao hụt trung bình của lợn nái là 15%). Theo Võ Trọng Hốt và cs (2007) [9], nâng cao được khối lượng cai sữa lợn con, qua nghiên cứu cho thấy rằng khối lượng cai sữa chịu ảnh hưởng tới 57% của thức ăn bổ sung, trong khi đó chịu ảnh hưởng của sữa mẹ khoảng 38% và khối lượng sơ sinh là 5%. Qua nhiều thí nghiệm và thực tế chứng minh rằng những lợn con được tập ăn sớm thì tăng khối lượng nhanh hơn, tỷ lệ mắc bệnh ít hơn. Giúp cho lợn con làm quen với thức ăn và sớm biết ăn tốt để tạo điều kiện cho việc cai sữa sớm hơn. Hạn chế tình trạng nhiễm ký sinh trùng và vi khuẩn do lợn con hay gặm nền chuồng, thành chuồng. Thường sau 6 - 10 ngày tuổi lợn con mọc thêm răng nên hay ngứa lợi, nên có thức ăn cả ngày tránh cho lợn con gặm lung tung. Lợn cai sữa sớm lúc 21 ngày tuổi thì phải tập cho lợn con ăn từ lúc 5 ngày tuổi, tốt nhất là nên sử dụng loại thức ăn hoàn chỉnh sản xuất dành riêng cho lợn con tập ăn đến 8 kg. Thức ăn tập ăn sớm cho lợn con thường ép thành dạng mảnh như cốm, thơm, vệ sinh sạch sẽ. 2.2.3. Những hiểu biết về phòng, trị bệnh cho vật nuôi 2.2.3.1. Phòng bệnh Như ta đã biết ‘‘Phòng bệnh hơn chữa bệnh’’‚ nên khâu phòng bệnh được đặt lên hàng đầu, nếu phòng bệnh tốt thì có thể hạn chế hoặc ngăn chặn được bệnh xảy ra. Các biện pháp phòng bệnh tổng hợp được đưa lên hàng đầu, xoay quanh các yếu tố môi trường, mầm bệnh, vật chủ. Do vậy, việc phòng bệnh cũng như trị bệnh phải kết hợp nhiều biện pháp khác nhau. - Phòng bệnh bằng vệ sinh và chăm sóc nuôi dưỡng tốt: Theo Nguyễn Ngọc Phục (2005) [19], bệnh xuất hiện trong một đàn lợn thường do nguyên nhân phức tạp, có thể là bệnh truyền nhiễm, hoặc không truyền nhiễm hoặc có sự kết hợp cả hai. Có rất nhiều biện pháp đã được đưa ra áp dụng nhằm kiểm soát các khả năng xảy ra bệnh trên đàn lợn. Phần lớn các biện pháp này đều nhằm làm giảm khả năng lan truyền các tác nhân gây bệnh và nâng cao sức đề kháng của đàn lợn.
  20. 14 Theo Trần Văn Phùng và cs. (2004) [20], từ 3 - 5 ngày trước dự kiến đẻ, ô chuồng lợn nái đã được cọ rửa sạch, phun khử trùng bằng hóa chất như Crezin 5% hoặc bằng loại hóa chất khác nhằm tiêu độc khử trùng chuồng lợn nái trước khi đẻ. Vệ sinh chuồng trại và thiết bị chăn nuôi Chuồng trại phải đảm bảo phù hợp với từng đối tượng vật nuôi, thoáng mát mùa hè, ấm áp mùa đông, đảm bảo cách ly với môi trường xung quanh. Tẩy uế chuồng trại sau mỗi lứa nuôi bằng phương pháp: rửa sạch, để khô sau đó phun sát trùng bằng các loại thuốc sát trùng và trống chuồng ít nhất 15 ngày với vật nuôi thương phẩm, 30 ngày đối với vật nuôi sinh sản. Với những chuồng nuôi lưu cữu hoặc chuồng nuôi có vật nuôi bị bệnh truyền nhiễm, cần phải vệ sinh tổng thể và triệt để: Sau khi đưa hết vật nuôi ra khỏi chuồng, xử lý theo hướng dẫn của thú y, cần phun sát trùng kỹ (pha dung dịch sát trùng và phun theo hướng dẫn khi chống dịch) toàn bộ chuồng nuôi từ mái, các dụng cụ và môi trường xung quanh, để khô và dọn, rửa. Các chất thải rắn trong chăn nuôi cần thu gom để đốt hoặc ủ sinh học; chất thải lỏng, nước rửa chuồng cần thu gom để xử lý, không thải trực tiếp ra môi trường. Cần phun sát trùng 1 - 2 lần/tuần trong suốt thời gian trống chuồng, ít nhất trong 30 ngày. Các thiết bị, dụng cụ chăn nuôi cần rửa sạch, phơi khô, sát trùng và đưa vào kho bảo quản. Vệ sinh và phun sát trùng xung quanh chuồng nuôi. - Phòng bệnh bằng vắc xin: Phòng bệnh bằng vắc xin là biện pháp phòng bệnh chủ động có hiệu quả nhất. Theo Nguyễn Bá Hiên và sc (2012) [8], vắc xin là một chế phẩm sinh học mà trong đó chứa chính mầm bệnh cần phòng cho một bệnh truyền nhiễm nào đó (mầm bệnh này có thể là vi khuẩn, virus, độc tố hay vật liệu di truyền như ARN, ADN ) đã được làm giảm độc lực hay vô hoạt bằng các tác nhân vật lý, hóa học, sinh học hay phương pháp sinh học phân tử (vắc xin thế hệ mới - vắc xin công nghệ gen). Lúc đó chúng không còn khả năng gây bệnh cho đối tượng sử dụng, nhưng khi đưa vào cơ thể động vật nó sẽ gây ra đáp ứng miễn dịch làm cho động vật có miễn dịch chống lại sự xâm nhiễm gây bệnh của mầm bệnh tương ứng. Khi đưa vắc xin vào cơ thể vật nuôi, chưa có kháng thể chống bệnh ngay mà phải sau 7 - 21 ngày (tuỳ theo từng loại vắc xin) mới có miễn dịch. 2.2.3.2.Điều trị bệnh
  21. 15 Theo Nguyễn Bá Hiên và cs 2012 [8], nguyên tắc để điều trị bệnh là: + Toàn diện: phải phối hợp nhiều biện pháp như hộ lý, dinh dưỡng, dùng thuốc. + Điều trị sớm trên cơ sở chẩn đoán đúng bệnh để dễ lành bệnh và hạn chế lây lan. + Diệt căn bệnh là chủ yếu kết hợp chữa triệu chứng. + Tiêu diệt mầm bệnh phải đi đôi với tăng cường sức đề kháng của cơ thể, làm cho cơ thể tự nó chống lại mầm bệnh thì bệnh mới chóng khỏi, ít bị tái phát và biến chứng, miễn dịch mới lâu bền. + Phải có quan điểm khi chữa bệnh, chỉ nên chữa những gia súc có thể chữa lành mà không giảm sức kéo và sản phẩm. Nếu chữa kéo dài, tốn kém vượt quá giá trị gia súc thì không nên chữa. + Những bệnh rất nguy hiểm cho người mà không có thuốc chữa thì không nên chữa. Theo Nguyễn Bá Hiên và cs (2012) [8], các biện pháp chữa bệnh truyền nhiễm là: + Hộ lý: cho gia súc ốm nghỉ ngơi, nhốt riêng ở chuồng có điều kiện vệ sinh tốt (thoáng mát, sạch sẽ, yên tĩnh). Theo dõi thân nhiệt, nhịp tim, tần số hô hấp, trạng thái phân, nước tiểu để, phát hiện sớm những biến chuyển của bệnh kịp thời xử lý. Cho gia súc ăn uống thức ăn tốt và thích hợp với tính chất của bệnh. + Dùng kháng huyết thanh: chủ yếu dùng chữa bệnh đặc hiệu vì vậy thường được dùng trong ổ dịch, chữa cho gia súc đã mắc bệnh. Chữa bệnh bằng kháng huyết thanh là đưa vào cơ thể những kháng thể chuẩn bị sẵn, có tác dụng trung hòa mầm bệnh hoặc độc tố của chúng (huyết thanh kháng độc tố). + Dùng hóa dược: phần lớn hóa dược được dùng để chữa triệu chứng, một số hóa dược dùng chữa nguyên nhân vì có tác dụng đặc hiệu đến mầm bệnh. Dùng hóa dược chữa bệnh phải tác động mạnh và sớm, vì nhiều loài vi khuẩn có thể thích ứng với liều lượng nhỏ. Chúng có thể chống lại thuốc và tính chất quen thuộc được truyền cho những thế hệ sau. Khi cần, có thể phối hợp nhiều loại hóa dược để tăng hiệu quả điều trị, vì nếu một loại thuốc chưa có tác dụng đến mầm bệnh thì có loại thuốc khác tác dụng tốt hơn.
  22. 16 + Dùng kháng sinh: kháng sinh là những thuốc đặc hiệu có tác dụng ngăn cản sự sinh sản của vi khuẩn hoặc tiêu diệt vi khuẩn. Tuy nhiên sử dụng kháng sinh có thể gây nhiều tai biến do thuốc có tính độc, do phản ứng dị ứng, do một lúc tiêu diệt nhiều vi khuẩn làm giải phóng một lượng lớn độc tố, làm giảm phản ứng miễn dịch của cơ thể. Việc dùng kháng sinh bừa bãi còn gây nên hiện tượng kháng thuốc, làm giảm thấp tác dụng chữa bệnh của kháng sinh. Vì vậy, khi dùng thuốc cần theo những nguyên tắc sau đây: - Phải chẩn đoán đúng bệnh để dùng đúng thuốc, dùng sai thuốc sẽ chữa không khỏi bệnh mà làm cho việc chẩn đoán bệnh về sau gặp khó khăn. - Chọn loại kháng sinh có tác dụng tốt nhất đối với mầm bệnh đã xác định. Dùng liều cao ngay từ đầu, những lần sau có thể giảm liều lượng. - Không nên vội vàng thay đổi kháng sinh mà phải chờ một thời gian để phát huy tác dụng của kháng sinh. - Phải dùng phối hợp nhiều loại kháng sinh để làm giảm liều lượng và độc tính của từng loại, làm diện tác động đến vi khuẩn rộng hơn, tăng tác dụng điều trị và hạn chế hiện tượng vi khuẩn kháng thuốc. - Phải tăng cường sức đề kháng của cơ thể gia súc như nuôi dưỡng tốt, dùng thêm vitamin, nước sinh lý 2.2.4. Những bệnh thường gặp ở lợn nái sinh sản 2.2.4.1. Hiện tượng đẻ khó Nguyên nhân: Theo Nguyễn Đức Lưu, Nguyễn Hữu Vũ (2004) [13], do nhiều nguyên nhân khác nhau, chủ yếu như: + Do lợn nái không được chăm sóc tốt trong suốt quá trình nuôi từ hậu bị đến khi lợn chửa, đẻ, như ít vận động, cơ bụng, cơ hoành, cơ liên sườn yếu và xương chậu hẹp. Trong quá trình chăm sóc chúng ta nên lưu ý đến chế độ ăn, bổ sung đầy đủ các khoáng chất, vitamin, cân đối chất đạm, chất xơ chúng ta có thể bổ sung chế phẩm sinh học vì thường trong chế phẩm chứa đầy đủ và cân bằng các chất khoáng vi lượng, đa lượng, men, vitamin, acid amin sẽ làm cho lợn mẹ tăng sức đề kháng.
  23. 17 + Do xương chậu hẹp bẩm sinh, do thai quá to vì chế độ ăn uống cho lợn nái khi có chửa không đúng quy trình kỹ thuật. Khi lợn chửa bị sốt cao do mắc các bệnh truyền nhiễm đã điều trị trong thời gian khá dài. + Do lợn nái quá già, nội tiết tố mất cân bằng hay nồng độ hormone kích đẻ quá thấp trong thời gian đẻ. Do lợn nái bị liệt 1/3 thân sau; nơi đẻ, cách đỡ đẻ không đúng kỹ thuật hoặc chưa phù hợp và do đẻ ngược thai. Triệu chứng: + Lợn nái rặn nhiều lần, thời gian lâu mà không đẻ được. + Cơn co bóp rặn đẻ thưa dần, lợn nái mệt mỏi. + Nước ối tiết nhiều và có lẫn máu (màu hồng nhạt). Có trường hợp lợn nái đẻ được một con rồi nhưng vẫn đẻ khó ở con tiếp theo. Khi thò tay vào thấy thai nằm ngay xương chậu nhưng do ngược thai (quay lưng ra), do xương chậu hẹp nhưng bào thai quá to. Biện pháp can thiệp: + Trường hợp đã vượt quá thời gian rặn đẻ cho phép, cần tiêm oxytocin 20- 50UI/ 1con nái, có thể tiêm vào tĩnh mạch là tốt nhất. + Trường hợp không có kết quả, cần can thiệp bằng tay hoặc phẫu thuật để lấy thai ra. + Sau khi can thiệp xong, cần thụt rửa âm đạo bằng nước muối pha loãng, dùng các loại kháng sinh chống viêm tử cung, âm đạo: ampicillin 10 mg/ kg trọng lượng, ngày tiêm 2 lần; ampi-kana 15 mg/ kg trọng lượng/ngày; genta-tylo 2 ml/ 10 kg trọng lượng; gentamycin 4% tiêm 1 ml/ 6 kg trọng lượng và lincomycin 10% tiêm 1 ml/ 10 kg trọng lượng. Dùng các loại thuốc bổ để tăng sức đề kháng cho lợn như vitamin E, b-complex, vitamin E, C, B1. 2.2.4.2. Bệnh viêm tử cung Bệnh viêm tử cung xảy ra trên các giống lợn nội, ngoại khác nhau. Lợn nái đẻ ít lứa, nhiều lứa hay đang nuôi con đều có thể mắc bệnh song tỷ lệ mắc bệnh phụ thuộc vào yếu tố vệ sinh, chăm sóc nuôi dưỡng. Khi gia súc sinh đẻ nhất là trong trường hợp đẻ khó phải can thiệp bằng tay hoặc dụng cụ, niêm mạc tử cung bị xây xát, bị tổn thương, vi khuẩn xâm nhập và phát triển gây viêm.
  24. 18 Khảo sát tình hình viêm nhiễm đường sinh dục lợn nái sau khi sinh và hiệu quả điều trị của một số loại kháng sinh trên 143 lợn nái sau khi sinh, Trần Ngọc Bích và cs (2016) [2], đã phát hiện 106 con tiết dịch nghi viêm đường sinh dục, chiếm tỷ lệ 74,13%. Nguyên nhân Theo Phạm Sỹ Lăng và cs (2002) [11], Lê Minh và cs, (2017) [16], bệnh viêm tử cung ở lợn nái thường do các nguyên nhân sau: - Cơ quan sinh dục lợn nái phát triển không bình thường gây khó đẻ hoặc lợn nái khó đẻ do thai quá to, thai ra ngược, thai phát triển không bình thường Phối giống quá sớm lợn nái tơ, nái già mang nhiều thai. Khi đẻ tử cung co bóp yếu, do lứa đẻ trước đã bị viêm tử cung làm cho niêm mạc tử cung biến đổi nên nhau thai không ra gây sát nhau, thối rữa tạo điều kiện cho sự phát triển của vi khuẩn (Black W. G., 1983) [25]. - Bệnh kế phát từ các bệnh khác như bệnh viêm âm đạo, bàng quang hoặc các bệnh truyền nhiễm: sảy thai truyền nhiễm, phó thương hàn, bệnh lao thường gây ra các bệnh viêm tử cung. - Hoặc do thiếu dinh dưỡng lợn nái sẽ ốm yếu, sức đề kháng giảm nên không chống lại vi trùng xâm nhập cũng gây viêm. - Do dụng cụ thụ tinh nhân tạo cứng gây sây sát sẽ tạo ra các ổ viêm nhiễm trong âm đạo hoặc tử cung hoặc do tinh dịch bị nhiễm khuẩn. - Lợn đực bị viêm niệu quản và dương vật khi nhảy trực tiếp sẽ truyền bệnh sang lợn nái. - Bệnh còn xảy ra khi chăm sóc, nuôi dưỡng, quản lý kém hoặc do thời tiết khí hậu thay đổi đột ngột, thời tiết quá nóng, quá lạnh, ẩm ướt kéo dài. Theo kết quả nghiên cứu của Nguyễn Thị Hồng Minh (2014) [15], yếu tố thời tiết, khí hậu, ảnh hưởng rõ rệt đến tỷ lệ mắc viêm tử cung: Mùa Hạ có tỷ lệ nhiễm cao nhất 53,37%, mùa Đông 46,05%, mùa Thu 43,70%. Kết quả khảo sát tình hình mắc bệnh viêm thử cung trên 620 lợn nái ngoại nuôi tại một số trại tại vùng Bắc Bộ cho thấy: Tỷ lệ nhiễm viêm tử cung ở đàn lợn tương đối cao, biến động từ 36,57% tới 61,07%. Tỷ lệ mắc tập trung ở những lợn nái đẻ lứa đầu đến lứa thứ 8 (Nguyễn Văn Thanh, 2007) [21].
  25. 19 Viêm tử cung là một bệnh khá phổ biến ở gia súc cái, nếu không được chữa trị kịp thời thì sẽ ảnh hưởng đến khả năng sinh sản của gia súc cái. Các thể viêm tử cung Theo Trần Tiến Dũng và cs (2002) [4], triệu chứng viêm tử cung thể hiện qua 3 thể viêm: - Viêm nội mạc: lợn có biểu hiện sốt nhẹ, dịch viêm có màu trắng hoặc xám và có mùi tanh. Con vật có phản ứng đau nhẹ, phản ứng co bóp tử cung giảm nhẹ. - Viêm cơ: lợn có biểu hiện sốt cao, dịch viêm có mầu hồng hoặc nâu đỏ và có mùi tanh thối. Con vật có phản ứng đau rõ rệt, phản ứng co bóp tử cung yếu ớt. Viêm cơ tử cung thường kế phát từ viêm nội mạc tử cung, niêm mạc tử cung bị thấm dịch thẩm xuất, vi khuẩn xâm nhập và phát triển sâu vào tổ chức làm niêm mạc bị phân giải, thối rữa gây tổn thương cho mạch quản và lâm ba quản, từ đó làm lớp cơ và một ít lớp tương mạc của tử cung bị hoại tử. - Viêm tương mạc: lợn có biểu hiện sốt cao, dịch viêm có màu nâu và có mùi thối khắm. Con vật rất đau, kèm triệu chứng viêm phúc mạc, phản ứng co bóp tử cung mất hẳn. Biện pháp điều trị Sử dụng phương pháp tiêm kháng sinh vào màng treo cổ tử cung của lợn nái, điều trị viêm tử cung đạt hiệu quả cao: streptomycin 0,25 g, penicillin 500.000 UI, dung dịch KMnO4 1% 40 ml + VTM C (Smith và cs, 1995) [30]. Popkov (1999) [18], đã sử dụng phương pháp tiêm kháng sinh vào màng treo cổ tử cung của lợn nái, điều trị viêm tử cung đạt hiệu Streptomycin: 0,25 g, Penicillin: 500.000 UI, Dung dịch MgSO4 1% 40 ml + VTM C. Khi lợn bị viêm âm đạo, âm hộ, dùng rửa không sâu (qua ống thông) trong âm đạo bằng dung dịch nước etacridin 1/1.000 và 1/5.000, furazolidon 1/1.000. Đối với lợn nái viêm nhẹ, điều trị bằng cách đặt viên thuốc kháng sinh oxytetracyclin vào âm đạo từ 5 - 7 ngày. Tiêm amoxi 15% 3 lần liên tiếp, mỗi lần cách nhau 48 giờ. Đối với lợn nái sau khi đẻ, sảy thai và viêm nặng: thụt rửa tử cung bằng dung dịch Iodine 10% pha 10 ml/2 lít nước, thụt rửa 2 lần/ngày trong 2 ngày đầu và thụt
  26. 20 rửa 1 lần/ngày từ ngày thứ 3 đến ngày thứ 5 sau khi đẻ. Sau khi thụt rửa bơm thuốc kháng sinh O.T.C 10% (5 ml thuốc pha 20 ml nước sinh lý) hay bơm 4 g streptomycin + 40.000 UI penicillin ngày 1 lần trong 3 ngày liên tiếp vào tử cung. Đồng thời tiêm oxytocin liều 10 - 15 UI (2 ống 5 ml/ 1 lần) nhiều lần trong ngày để tử cung co bóp tống dịch sản ra ngoài. Tiêm kháng sinh phổ rộng chống viêm như: tetramycin LA, amoxi 15% 3 lần liên tiếp mỗi lần cách nhau 48 giờ. Ngoài ra, tiêm các loại thuốc bổ trợ như: urotropin giúp tăng cường bài tiết độc tố, thuốc hạ sốt, vitamin C liều cao và canxi hỗ trợ co bóp tử cung, các thuốc kháng viêm: ketovet, 2.2.4.3. Bệnh viêm vú Nguyên nhân + Khi nghiên cứu về mô học và vi khuẩn học từ mẫu mô vú bị viêm cho thấy, vi khuẩn chính gây viêm vú là: Staphylococcus spp và Arcanobacterium pyogenes (Christensen và cs, 2007) [26]. + Khi lợn nái đẻ nếu nuôi không đúng cách, chuồng bẩn thì các vi khuẩn, Mycoplasma, các cầu khuẩn, vi khuẩn đường ruột xâm nhập gây ra viêm vú. + Thức ăn không phù hợp cho lợn nái, không giảm khẩu phần ăn cho lợn nái trước khi đẻ một tuần làm cho lượng sữa tiết ra quá nhiều gây tắc sữa. Sau vài ngày đẻ mà lợn con không bú hết, sữa lưu là môi trường tốt cho vi khuẩn xâm nhập gây viêm như: E.coli, Streptococus, Staphylococus, Klebsiella (Đỗ Duy Hùng, 2011) [10]. + Lợn con mới đẻ có răng nanh mà không bấm khi bú làm xây sát vú mẹ tạo điều kiện cho vi trùng xâm nhập tạo ra các ổ viêm nhiễm bầu vú. + Chỉ cho lợn con bú một hàng vú, hàng còn lại căng quá nên viêm. + Do thời tiết thay đổi đột ngột, lạnh quá hoặc nóng quá hay thức ăn khó tiêu cũng ảnh hưởng đến cảm nhiễm vi trùng. Triệu chứng Biểu hiện tại vú viêm với các đặc điểm: vú căng cứng, nóng đỏ, có biểu hiện đau khi sờ nắn, không xuống sữa, nếu vắt mạnh sữa chảy ra có nhiều lợn cợn lẫn máu; sau 1 - 2 ngày thấy có mủ, lợn mẹ giảm ăn hay bỏ ăn, sốt cao 40 - 41,50C. Tùy số lượng vú bị viêm mà lợn nái có biểu hiện khác nhau. Nếu do nhiễm trùng trực tiếp vào bầu vú, thì đa số trường hợp chỉ một vài bầu vú bị viêm. Tuy vậy, lợn nái
  27. 21 cũng lười cho con bú, lợn con thiếu sữa nên liên tục đòi bú, kêu rít, đồng thời do bú sữa bị viêm, gây nhiễm trùng đường ruột, lợn con bị tiêu chảy. Điều trị Chườm đá lạnh vào bầu vú viêm. Tiêm thuốc chống viêm như prednizolon, hydro - cortizone (Lê Hồng Mận và cs, 2004) [14]. Dùng novocain tiêm ven tai, tiêm chỗ giáp nhau giữa hai bầu vú và phần sườn của lợn, tiêm nhắc lại sau một ngày. Dùng kháng sinh: streptomycin, penicillin, ampicillin, lincomycin liều đạt trên 200.000 - 500.000 UI, mỗi loại trên một lần tiêm cho 1 - 2 lần/ngày trong 3 - 5 ngày. Thực hiện phòng bệnh: vệ sinh bầu vú, hai chân sau cho lợn hằng ngày bằng dung dịch sát trùng. Bấm răng sữa cho lợn con mới sinh, nên cho lợn con bú sữa đầu và phân đều vú cho từng con trong đàn. Tăng cường ăn uống đủ chất cho lợn mẹ trước và sau khi đẻ, nên giảm bớt chất đạm để hạn chế nguy cơ thừa sữa. Khi lợn mẹ bị viêm vú, không nên cho lợn con bú ở những vùng bị viêm. Dùng các phương pháp nhân tạo như chườm nóng, xoa bóp nhẹ lên vùng vú bị sưng (Đỗ Duy Hùng, 2011) [10]. 2.2.4.4. Bệnh sót nhau Lợn nái bị viêm niêm mạc tử cung nên sau khi đẻ nhau không ra hết, can thiệp vội vàng, thô bạo, không đúng kỹ thuật nên nhau bị đứt và sót lại. Lợn nái quá già, đẻ nhiều đuối sức, tử cung co bóp kém không đẩy được nhau ra. * Nguyên nhân: Theo Trịnh Đình Thâu và Nguyễn Văn Thanh (2010) [24], nguyên nhân của bệnh sót nhau là do: sau khi đẻ tử cung co bóp yếu, trong thời gian mang thai nhất là giai đoạn cuối con vật không được vận động thỏa đáng. Trong thức ăn thiếu các chất khoáng, nhất là Ca và P. Hoặc tử cung bị sa liệt, con vật quá gầy yếu hoặc quá béo, chửa quá nhiều thai, thai quá to, khó đẻ, nước ối quá nhiều làm tử cung giãn nở quá mức. + Kế phát sau các bệnh khó đẻ khác. + Nhau mẹ và nhau con dính lại với nhau do con vật mắc các bệnh truyền nhiễm đặc biệt bệnh Brucellosis (sẩy thai truyền nhiễm), hoặc do cấu tạo của nhau.
  28. 22 * Triệu chứng: căn cứ vào mức độ sát nhau người ta chia ra làm 2 loại: + Sót nhau hoàn toàn: toàn bộ nhau thai nằm lại trong tử cung. Khi mắc thường có một phần treo lơ lửng ở mép âm môn. + Sót nhau không hoàn toàn: ở động vật đơn thai một phần màng nhau còn dính lại trong tử cung con mẹ. Đối với động vật đa thai một số nhau ra ngoài, một số nhau còn sót lại trong tử cung con mẹ. * Điều trị Can thiệp kịp thời ngay khi nái có biểu hiện bệnh, không để quá muộn sẽ gây ra viêm tử cung, can thiệp đúng kỹ thuật, không quá mạnh tay, tránh những tổn thương. Tiêm oxytoxin dưới da để kích thích co bóp tử cung cho nhau còn sót lại đẩy ra ngoài hết. Sau khi nhau thai ra dùng nước muối sinh lý 0,9% để rửa tử cung trong ba ngày liên tục (Trịnh Đình Thâu và Nguyễn Văn Thanh, 2010) [24]. - Tiêm 10ml/con ngày 2 lần - calcium cho lợn. Đồng thời kết hợp với châm cứu. 2.2.5. Một số bệnh thường gặp ở lợn con 2.2.5.1. Tiêu chảy Tiêu chảy là biểu hiện lâm sàng của quá trình bệnh lý ở đường tiêu hóa, là hiện tượng con vật đi ỉa nhanh, nhiều lần trong ngày, phân có nhiều nước do rối loạn chức năng tiêu hóa, ruột tăng cường co bóp và tiết dịch hoặc chỉ phản ánh đơn thuần sự thay đổi tạm thời của phân gia súc đang thích ứng với những thay đổi trong khẩu phần ăn. Tiêu chảy xảy ra ở nhiều bệnh và bản thân nó không phải là bệnh đặc thù. Nguyên nhân Do thời tiết khí hậu: các yếu tố nóng, lạnh, mưa, nắng, hanh, ẩm thay đổi thất thường và điều kiện chăm sóc nuôi dưỡng ảnh hưởng trực tiếp đến cơ thể lợn, nhất là cơ thể lợn con chưa phát triển hoàn chỉnh, các phản ứng thích nghi của cơ thể (Trần Đức Hạnh, 2013) [7]. Lợn con bị nhiễm khuẩn: Bệnh tiêu chảy ở lợn có nguyên nhân do vi khuẩn E.coli, Salmonella, trong đó: Salmonella là vi khuẩn có vai trò quan trọng trong quá trình gây ra hội chứng tiêu chảy.
  29. 23 - Nguyên nhân gây bệnh tiêu chảy ở lợn con chủ yếu là do vệ sinh chuồng trại kém, thức ăn thiếu dinh dưỡng, chăm sóc quản lý không tốt. Lợn mẹ bị viêm vú, viêm tử cung. Lợn mẹ ăn không đúng khẩu phần. Bệnh tiêu chảy trên lợn con do E.coli có thể xảy ra ở bất kỳ độ tuổi lợn mẹ nào nhưng thường có hai thời kỳ cao điểm là 0 - 5 ngày tuổi và 7 - 14 ngày tuổi. Triệu chứng Sàn chuồng có phân lợn lỏng, màu vàng hoặc màu trắng, Lợn nôn ra sữa, hậu môn dính bết phân, vú lợn mẹ bị dính phân của lợn con Điều trị - Với nova amcoli: 1 ml/con/ngày sử dụng tiêm bắp đối với lợn con 10 ngày tuổi. - Điều trị liên tục trong 3 - 5 ngày. 2.2.5.2. Viêm phổi Nguyên nhân Bệnh viêm phổi là bệnh do Mycoplasma hyopneumoniae gây ra, bệnh xảy ra trên lợn con ngay từ khi mới sinh ra, bệnh xâm nhập chủ yếu qua đường hô hấp. Bệnh cũng có thể do điều kiện chăn nuôi vệ sinh chuồng trại kém, thời tiết thay đổi do sức đề kháng của lợn giảm. Bệnh thường lây lan do nhốt chung với con nhiễm bệnh (Nguyễn Đức Lưu và Nguyễn Hữu Vũ, 2004) [13]. Viêm phổi thường xuất hiện ở giai đoạn sau của quá trình chăn nuôi, nhất là khi lợn sắp xuất chuồng dẫn đến thiệt hại về kinh tế. Triệu chứng Với bệnh viêm phổi ở lợn con theo mẹ, thời gian ủ bệnh thường kéo dài từ 1 - 3 ngày nhưng cũng có thể kéo dài lên đến vài tháng và phổ biến ở lợn sau khi cai sữa và trong thời gian vỗ béo chuẩn bị xuất chuồng. Khi mắc bệnh, lợn thường xuất hiện một số biểu hiện như chết đột ngột, có bọt và máu tươi xuất hiện ở mồm. Với những con còn sống sót, chúng thường bỏ ăn, sốt cao, khó thở.
  30. 24 Điều trị Bệnh viêm phổi có thể sử dụng nhiều loại thuốc khác nhau để điều trị, ở trong trại thường sử dụng phác đồ sau để điều trị: - Với tylogenta: 1ml/ con. Tiêm bắp ngày/ lần - Với hitamox LA: 1ml/ con. Tiêm bắp ngày/ lần. - Nếu lợn có hiện tượng ho nhiều, thở gấp thì tiêm bromhexine (HCl): 2ml/con. Điều trị trong 3 - 6 ngày. 2.2.5.3. Viêm khớp Nguyên nhân Streptococcus suis là vi khuẩn gram (+), Streptococcus suis gây viêm khớp lợn cấp và mãn tính ở mọi lứa tuổi. Bệnh này thường gây ra trên lợn con 1 - 6 tuần tuổi. Vi khuẩn xâm nhập qua đường miệng, cuống rốn, vết thương khi cắt đuôi, bấm nanh, các vết thương trên da, đầu gối khi chà sát trên nền chuồng, qua vết thiến. Triệu chứng Lợn con đi khập khiễng từ 3 - 4 ngày tuổi, khớp chân sưng lên vào ngày 7 - 15 sau khi sinh nhưng tử vong thường xảy ra lúc 2 - 5 tuần tuổi. Thường thấy viêm khớp cổ chân, khớp háng và khớp bàn chân. Lợn ăn ít, hơi sốt, chân lợn có hiện tượng què, đi đứng khó khăn, chỗ khớp viêm tấy đỏ, sưng, sờ nắn vào có phản xạ đau (Nguyễn Ánh Tuyết, 2015) [32]. Điều trị Phác đồ: Tiêm vetrimoxin 1 ml/ 10 kgTT/ 1lần/ 2 ngày. Hoặc tiêm pendistrep L.A. 1 ml/ 10 kg TT/ 1 ngày/ 1lần. Điều trị liên tục trong 3 - 5 ngày. 2.3. Tổng quan tài liệu nghiên cứu trong và ngoài nước 2.3.1. Các nghiên cứu trong nước Ở Việt Nam một số nhà khoa học thú y đã có những nghiên cứu tổng kết về bệnh sinh sản trên đàn lợn nái. Bệnh sinh sản có ảnh hưởng rất lớn đến năng suất sinh sản của lợn nái, nó không chỉ làm giảm sức sinh sản của lợn nái mà còn có thể
  31. 25 làm cho nái mất khả năng sinh sản, chậm sinh hay làm giảm khả năng sống sót của lợn con. Nguyễn Văn Thanh (2007) [21], viêm tử cung là một hội chứng thường xuất hiện trên lợn nái sau khi sinh. Lợn nái viêm tử cung sẽ bị tổn thương lớp niêm mạc. Từ đó gây ảnh hưởng sự tiết Prostagladin F2α và làm xáo trộn chu kỳ động dục làm tăng tình trạng chậm sinh và vô sinh. Trong đó, biểu hiện chậm động dục khi xảy ra sẽ làm giảm sức sinh sản của lợn nái, giảm số vòng quay lứa đẻ trong năm. Ngoài ra, phải tốn chi phí thuốc điều trị, phải loại thải sớm lợn nái do chậm động dục làm giảm hiệu quả kinh tế của trại chăn nuôi. Nguyễn Xuân Bình (2005) [1], cho biết, ở những nái bị viêm tử cung thường biểu hiện sốt theo quy luật sáng chiều (sáng sốt nhẹ, chiều sốt nặng). Khi gia súc bị viêm tử cung có thể viêm cơ, viêm tương mạc thì không nên tiến hành thụt rửa bằng các chất sát trùng với thể tích lớn. Vì khi bị tổn thương nặng cơ tử cung co bóp yếu, các chất bẩn không được đẩy ra ngoài, lưu trong đó làm bệnh nặng thêm. Các tác giả đề nghị nên dùng Oxytoxin kết hợp PGF2α hoặc kết hợp với kháng sinh điều trị toàn thân và cục bộ. Bệnh viêm tử cung xảy ra ở những thời gian khác nhau, nhưng bệnh xảy ra nhiều nhất vào thời gian sau khi đẻ 1 - 10 ngày. Viêm tử cung là một trong nhiều tổn thương đường sinh dục trên lợn nái sau khi sinh. Khi có dịch tiết và dịch lẫn mủ chính là biểu hiện của viêm tử cung (Nguyễn Văn Thanh, 2007) [21]. Cũng theo Nguyễn Văn Thanh và cs (2016) [22], có nhiều nguyên nhân gây ra bệnh viêm tử cung: dinh dưỡng, tuổi, lứa đẻ, tình trạng sức khỏe chăm sóc, quản lý, vệ sinh, tiểu khí hậu chuồng nuôi Nhưng nguyên nhân chính luôn hiện trong tất cả các trường hợp là do vi sinh vật, nguyên nhân khác sẽ làm giảm sức đề kháng của cơ thể hoặc tạo điều kiện cho vi sinh vật xâm nhập và phát triển để gây nên các triệu chứng. Đồng thời cũng có nhiều tác giả đã có những tổng kết về tỷ lệ mắc bệnh viêm tử cung ở lợn: Nguyễn Văn Thanh (2007) [21], lợn nái sau khi sinh có triệu chứng viêm tử cung chiếm tỷ lệ 42,4%. Viêm tử cung trên nhóm thuần chiếm 25,48%, trên nhóm
  32. 26 lai chiếm 50,48%. Viêm tử cung xảy ra cao nhất là lứa 1 và lứa 2. Tỷ lệ chậm động dục ở nhóm lợn bị viêm tử cung thường cao hơn so với nhóm không mắc. Phạm Sỹ Lăng và cs (2002) [11], thì: bệnh viêm tử cung do vi khuẩn Streptococcus và Colibacilus nhiễm qua cuống rốn của lợn con sang lợn mẹ do đẻ khó, sát nhau, sảy thai hay qua dụng cụ thụ tinh nhân tạo cứng gây xây xát tạo các ổ viêm nhiễm trong tử cung, âm đạo. Trần Tiến Dũng và cs (2002) [4], bệnh viêm đường sinh dục ở lợn chiếm tỷ lệ cao từ 30 - 50%, trong đó cơ quan ngoài chiếm 20%, còn lại 80% là viêm tử cung. Khi gia súc bị bệnh viêm tử cung ở thể viêm cơ, viêm tương mạc thì không nên tiến hành thụt rửa bằng các chất sát trùng với thể tích lớn. Vì khi bị tổn thương nặng, cơ tử cung co bóp yếu, các chất bẩn không được đẩy ra ngoài, lưu trong đó làm cho bệnh nặng thêm. Các tác giả đề nghị nên dùng Oxytoxin kết hợp PGF2α hoặc kết hợp với kháng sinh điều trị toàn thân và cục bộ. Nguyễn Tài Năng và cs, (2016) [17], vệ sinh chuồng trại sạch sẽ một tuần trước khi lợn đẻ, rắc vôi bột hoặc nước vôi 20% sau đó rửa sạch bằng nước thường, tắm cho lợn trước khi đẻ, vệ sinh sạch sẽ bộ phận sinh dục và bầu vú. Trong quá trình mang thai lợn ăn nhiều chất dinh dưỡng, ít vận động hoặc bị nhiễm một số bệnh truyền nhiễm như: bệnh xoắn khuẩn (Leptospirosis), bệnh sảy thai truyền nhiễm (Brucellosis) và một số bệnh truyền nhiễm khác làm cơ thể lợn nái yếu dần dẫn đến lợn sảy thai, đẻ non, thai chết lưu từ đó dẫn đến viêm tử cung (Nguyễn Đức Lưu và Nguyễn Hữu Vũ, 2004) [13]. Nguyên nhân chính dẫn đến bệnh viêm tử cung của nái là do: thiếu về dinh dưỡng, chăm sóc, quản lý, vệ sinh, tiểu khí hậu chuồng nuôi, tuổi, lứa đẻ, tình trạng sức khỏe, kích dục tố, nhiễm trùng sau khi sinh. Từ những yếu tố đó ta có thể đề ra phương pháp phòng bệnh viêm tử cung. Do nhiễm vi khuẩn Staphylococcus, Streptococcus vì các nguyên nhân như lợn con có răng nanh làm xây xát vú mẹ tạo điều kiện vi trùng xâm nhập. Lợn nái nhiều sữa con bú không hết làm sữa ứ đọng nhiều tạo môi trường cho vi trùng sinh sản gây viêm vú. Lợn nái cho con bú một hàng vú, hàng còn lại căng sữa quá nên viêm. Nguyễn Văn Thanh và cs (2016) [22], cho biết tỷ lệ viêm tử cung sau đẻ của lợn nái là 76,38%, biến động từ 62,10 - 86,96%. Hầu hết lợn nái phải can thiệp bằng
  33. 27 tay khi đẻ đều bị viêm tử cung (96,47%). Trong khi đó lợn không cần can thiệp bằng tay khi đẻ có tỷ lệ viêm tử cung là 69,06%. Tỷ lệ viêm tử cung ở nái có thai chết lưu và lợn nái không có thai chết lưu lần lượt là 81,63% và 73,91%. Ở lợn nái đẻ lứa đẻ từ 1 – 6, tỷ lệ viêm tử cung biến động từ 70,07% - 93,33%. Cũng theo tác giả Nguyễn Văn Thanh và cs ( 2016) [22], đã đưa ra 4 phương pháp điều trị viêm tử cung ở lợn nái: - Phương pháp 1: thụt rửa tử cung bằng dung dịch rivanol 0,1% hay thuốc tím 0,1% ngày/ lần, sau khi thụt rửa đợi hay kích thích cho dung dịch thụt rửa đẩy hết ra ngoài, sau đó thụt kháng sinh ngày/ lần, liệu trình từ 3 - 5 ngày. - Phương pháp 2: dùng PGF2α hay các chế phẩm của nó như etrumat, oestrophan, prosalrin, hanprost, lutalyse, tiêm dưới da theo liều chỉ dẫn, tiêm 1 lần, sau đó thụt vào tử cung 200 - 500 dung dịch lugol ngày/ lần. Liệu trình điều trị từ 3 - 5 ngày. - Phương pháp 3: oxytocin 6 - 8 ml tiêm dưới da, lugol 200 - 500 ml kết hợp với kháng sinh bơm vào tử cung, đồng thời dùng kháng sinh thích hợp tiêm bắp ngày/ lần, liệu trình điều trị từ 3 - 5 ngày. - Phương pháp 4: dùng PGF2α hay các chế phẩm của nó như etrumat, oestrophan, prosalrin, hanprost, lutalyse, tiêm dưới da theo liều chỉ dẫn, tiêm 1 lần, sau đó dùng dung dịch lugol 200 - 500 ml phương pháp kết hợp với kháng sinh thụt rửa vào tử cung, đồng thời dùng kháng sinh thích hợp tiêm bắp hay tĩnh mạch tai ngày/ lần. Liệu trình điều trị từ 3 - 5 ngày. Nguyễn Văn Điệp và cs (2014) [6], cho biết: tỷ lệ lợn tiêu chảy giảm theo tuổi, cao nhất ở giai đoạn sau cai sữa đến 2 tháng (13,90%), sau đó giảm dần và chỉ còn 5,55% ở lợn trên 6 tháng tuổi. Trần Đức Hạnh (2013) [7], cho biết: lợn con ở 1 số tỉnh phía Bắc mắc tiêu chảy và chết với tỷ lệ trung bình là 31,84% và 5,37%, tỷ lệ mắc tiêu chảy và chết giảm dần theo lứa tuổi, cao nhất ở lợn con giai đoạn từ 21 - 40 ngày ( 30,97 và 4,93%) và giảm ở giai đoạn 41 - 46 ngày. Nguyễn Chí Dũng (2013) [5], cho biết: tháng có nhiệt độ thấp và ẩm độ cao (12,12%) tỷ lệ mắc tiêu chảy cao (26,98 - 38,18%). 2.2.4.2. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài
  34. 28 Hiện nay, ngành chăn nuôi lợn trên thế giới đang rất phát triển, các nước không ngừng đầu tư cải tạo chất lượng đàn giống và áp dụng các biện pháp khoa học kỹ thuật tiên tiến nhằm nâng cao năng suất chăn nuôi. Tuy nhiên vấn đề bệnh ở lợn vẫn xảy ra rất nhiều. Katri Levonen (2000) [28], việc chẩn đoán bệnh trên đường hô hấp ở lợn có thể dựa trên phương pháp chẩn đoán truyền thống là: phát hiện những biểu hiện lâm sàng của hội chứng viêm phổi và việc kiểm tra những tổn thương sau khi giết mổ dùng phản ứng kết tủa và phản ứng phân lập Pasteurella multocida thành 12 type (được ký kiệu từ 1 đến 12). Clifton Hadley và cs (1986) [27], đã nghiên cứu và xác định được vi khuẩn Streptococcus suis luôn có mặt trong hạch Amidan và xoang mũi của lợn khỏe mà không có triệu chứng lâm sàng, nhưng chúng là một trong những tác nhân gây bệnh ở lợn khi có điều kiện thuận lợi. Bệnh do Streptococcus suis gây ra có thể phát sinh dịch bệnh vào đầu mùa xuân hoặc sau những thay đổi thời tiết đột ngột Streptococcus suis là những nguyên nhân của những ổ dịch nhiễm trùng huyết, viêm não, viêm khớp, viêm hạch dưới hàm. Bên cạnh đó Streptococcus suis có liên quan đến viêm não tủy, viêm phế quản phổi, viêm màng bao. Sokol và cs (1981) [31], cho rằng, vi khuẩn E.coli cộng sinh có mặt thường trực trong đường ruột của người và động vật, trong quá trình sống vi khuẩn có khả năng tiếp nhận các yếu tố gây bệnh như: yếu tố bám dính (K88, K89), yếu tố dung huyết (Hly), yếu tố cạnh tranh (Colv), yếu tố kháng sinh (R) và các độc tố đường ruột. Các yếu tố gây bệnh này không được di truyền qua ADN của chromosome mà được di truyền qua ADN nằm ngoài chromosome gọi là plasmid. Những yếu tố gây bệnh này đã giúp cho vi khuẩn E.coli bám dính vào nhung mao ruột non, xâm nhập vào thành ruột, phát triển với số lượng lớn. Smith và cs (1967) [29], thông báo có 2 loại độc tố là thành phần chính của Enterotoxin được tìm thấy ở các vi khuẩn gây bệnh. Sự khác biệt của 2 độc tố này là độc tố chịu nhiệt (Heat Stabletoxin - ST) chịu được nhiệt lớn hơn 1.000 °C trong 15 phút, còn độc tố không chịu nhiệt (Heat labiletoxin - LH) bị vô hoạt ở nhiệt độ 600˚C trong 15 phút.
  35. 29 Phần 3 ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP TIẾN HÀNH 3.1. Đối tượng nghiên cứu - Lợn nái sinh sản và lợn con theo mẹ (từ sơ sinh đến 21 ngày tuổi). - Các bệnh của lợn nái sinh sản và lợn con theo mẹ. 3.2. Địa điểm và thời gian thực hiện - Địa điểm thực hiện: Trại lợn Ngô Thị Hồng Gấm, huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình. - Thời gian thực hiện: Từ ngày 18/05/2018 đến ngày 25/11/2018. 3.3. Nội dung tiến hành - Thực hiện quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng cho đàn lợn nái sinh sản và lợn con theo mẹ. - Phòng bệnh cho đàn lợn nái sinh sản và lợn con theo mẹ. - Chẩn đoán và điều trị bệnh cho đàn lợn nái sinh sản và lợn con theo mẹ. 3.4. Các chỉ tiêu theo dõi và phương pháp thực hiện 3.4.1. Các chỉ tiêu theo dõi - Sốlượng công việc vệ sinh, sát trùng chuồng trại - Số lượng lợn nái được chẩn đoán và điều trị bệnh - Số lượng lợn con được chẩn đoán và điều trị bệnh Số con sống đến cai sữa -Tỷ lệ nuôi sống đến cai sữa (%) = x 100 Số con sơ sinh Tổng số con mắc bệnh - Tỷ lệ mắc bệnh (%) = x100% Tổng sSốố conlợn theocon dõisơ sinh Tổng số con khỏi bệnh - Tỷ lệ khỏi bệnh (%) = x 100% Tổng số con điều trị
  36. 30 3.4.2. Phương pháp áp dụng quy trình vệ sinh, phòng bệnh tại trại + Hàng ngày, trước khi vào chuồng làm việc công nhân cũng như sinh viên đều phải đi qua phòng sát trùng và tắm sạch sẽ, mặc quần áo lao động, đi ủng rồi mới vào chuồng. + Việc đầu tiên vào chuồng là kiểm số lượng lợn con để giao ca và cào phân tránh lợn mẹ nằm đè phân. + Lau sàn nhựa bằng nước pha loãng với dung dịch sát trùng. + Rắc vôi lối đi giữa, xung quanh chuồng và dưới gầm chuồng. + Thu phân vào bao và quét dọn sạch sẽ quanh chuồng. Chuồng nuôi luôn được vệ sinh sạch sẽ, chuồng được tiêu độc bằng thuốc sát trùng Ommicide 2 lần hàng ngày, pha với tỷ lệ 320ml sát trùng/1000 lít nước . Ở chuồng đẻ sau khi cai sữa, lợn mẹ được chuyển lên chuồng nái chửa 1 hoặc chuồng cách ly (khu vực sau cai sữa). Sau khi xuất lợn con, các tấm đan chuồng này được tháo mang ngâm ở hố sát trùng bằng dung dịch NaOH 10%, ngâm trong 1 ngày sau đó được cọ sạch, phơi khô. Để khô 1 ngày rồi tiến hành lắp đan vào, sau đó đuổi lợn chờ đẻ từ chuồng nái chửa 2 xuống. Lịch sát trùng được trình bày qua bảng 3.1 Bảng 3.1. Lịch phun thuốc sát trùng của trại Trong chuồng Thứ Chuồng cách Ngoài chuồng Chuồng bầu Chuồng đẻ ly Quét hoặc rắc Phun sát trùng Thứ 2 Phun sát trùng + rắc vôi Phun sát trùng vôi hành lang toàn bộ khu vực Quét hành lang + Phun Quét hoặc rắc Thứ 3 Phun sát trùng - sát trùng vôi đường đi Thứ 4 Xả vôi xút gầm Phun sát trùng - Rắc vôi Phun sát trùng + xả vôi Quét vôi đường Thứ 5 Phun ghẻ Phun ghẻ xút gầm liên chuồng Thứ 6 Phun sát trùng Phun sát trùng + rắc vôi Phun sát trùng Phun sát trùng Vệ sinh tổng Vệ sinh tổng Thứ 7 Vệ sinh tổng chuồng Vệ sinh tổng khu chuồng chuồng Chủ Phun sát trùng Phun sát trùng - - nhật (Nguồn: Phòng kỹ thuật công ty CP Việt Nam)
  37. 31 3.4.3. Phương pháp thực hiện công tác chăm sóc, nuôi dưỡng đàn lợn Thực hiện chăn nuôi theo dúng quy trình chăn nuôi của công ty C.P áp dụng tại trại Ngô Thị Hồng Gấm. - Đối với nái đẻ: Lợn nái chửa được chuyển lên chuồng đẻ trước ngày đẻ dự kiến 7 - 10 ngày. Trước khi chuyển lợn lên chuồng đẻ, chuồng phải được dọn dẹp, sát trùng và cọ rửa sạch sẽ. Lợn chuyển lên phải được ghi đầy đủ thông tin lên bảng ở đầu mỗi ô chuồng. Thức ăn của lợn chờ đẻ được cho ăn với tiêu chuẩn ăn 3 kg/ngày, chia làm 2 bữa sáng, chiều. Lợn nái chửa trước ngày đẻ dự kiến 3 ngày giảm lượng thức ăn xuống còn 2,5 kg/ngày, chia làm 2 bữa sáng chiều. Trước ngày đẻ dự kiến 1 ngày tiêu chuẩn khẩu phần ăn giảm xuống còn 1,5kg/ ngày, chia làm 2 bữa sáng và chiều. Khi lợn nái đẻ được 2 ngày tăng dần lượng thức ăn từ 0,5 - 1 kg/con/ngày chia làm hai bữa sáng, chiều. Đối với nái nuôi con quá gầy hoặc nuôi nhiều con có thể tăng lượng thức ăn lên 2 kg/con/ngày. - Đối với đàn lợn con theo mẹ đến khi cai sữa: + Ngay sau khi đẻ ra được vài tiếng lợn được tiến hành cắt rốn. + Đối với những con còi yếu vắt sữa đầu cho bú. + Sau khi đẻ 1 ngày tiến hành ghép lợn con đẻ cùng ngày để đạt được độ đồng đều về số lượng các đàn, thể trạng trong một bầy. + Lợn con 1 - 3 ngày tuổi được mài nanh, bấm số tai, cắt đuôi và tiêm sắt, tiêm kháng sinh, cho uống thuốc phòng phân trắng lợn con và tiêu chảy. + Lợn con 3 - 5 ngày tuổi cho lợn con uống thuốc phòng cầu trùng. + Cho lợn còi uống sữa bình. + Lợn con 4 - 5 ngày tuổi tiến hành thiến lợn đực. + Lợn con được từ 4 - 5 ngày tuổi tập cho ăn bằng thức ăn hỗn hợp hoàn chỉnh 550 SF. + Lợn con được 10 - 18 ngày tuổi tiêm phòng Mycoplasma, Circo. + Lợn con được 21 ngày tuổi tiến hành cai sữa cho lợn con.
  38. 32 Thường xuyên theo dõi đàn lợn để điều chỉnh lượng thức ăn hợp lý, đảm bảo lợn nái nuôi con tốt, không quá béo, không quá gầy. Đối với những lợn nái béo thì giảm khẩu phần 0,2 - 0,5 kg/ngày, còn lợn quá gầy thì tăng thêm 0,2 - 0,5 kg/ ngày, tùy vào thực tế. Đối với lợn con tlợn mẹ tiến hành đặt máng tập ăn càng sớm càng tốt, để đảm bảo nhu cầu sinh trưởng của lợn con, kích thích cho bộ máy tiêu hóa của lợn con phát triển, hạn chế hao hụt lợn mẹ. Chúng tôi tiến hành tập ăn cho lợn con từ lúc 4 - 5 ngày tuổi, sử dụng thức ăn dễ tiêu hóa, giàu chất dinh dưỡng, mùi thơm ngon tương tự sữa, cho ăn làm nhiều lần trong ngày, mỗi lần cho ít cám để thức ăn lúc nào cũng được thơm ngon, kích thích lợn con ăn nhiều. Hàng ngày, chúng tôi tham gia vệ sinh chuồng trại, vệ sinh cho lợn, tham gia đỡ đẻ, chăm sóc lợn nái đẻ, lợn nái nuôi con. - Chuẩn bị trước lúc đẻ: Sau khi cai sữa, lợn mẹ được đưa về chuồng bầu nuôi dưỡng, chờ phối cho lứa sau. Chúng tôi cùng tham gia thực hiện cọ rửa sạch sẽ, phun sát trùng, dội vôi chuồng và gầm sàn, để trống chuồng ít nhất 3 ngày sau đó mới đưa lợn chờ đẻ sang. Lợn đưa lên đẻ phải cùng tuần phối và được sắp xếp t sơ đồ cuốn chiếu từ dưới lên trên, để thuận lợi trong việc đỡ đẻ và chăm sóc quản lý lợn con sơ sinh. Dựa vào ngày đẻ dự kiến ghi trên thẻ nái mà chúng tôi chuẩn bị dụng cụ đỡ đẻ, bao gồm: panh kẹp, kéo, bông, khăn lau, khay đỡ đẻ, thảm lót, bóng úm, bột rắc lợn con (mistran), cồn sát trùng, thuốc kích thích phải được chuẩn bị đầy đủ để ở trong chuồng đẻ và phải được sát trùng kỹ lưỡng. Nếu mùa đông thì dựa vào ngày đẻ dự kiến, lợn nái nào sắp đến ngày đẻ thì tiến hành lau mình, phần vú, phần mông cho sạch sẽ. Dùng nước sạch pha sát trùng loãng. Còn nếu là mùa hè thì tiến hành tắm rửa cho lợn nái và sau đó giữ vệ sinh sạch sẽ cho lợn. Lợn nái trong giai đoạn chờ đẻ giảm dần lượng thức ăn, cho uống nước tự do. Thường xuyên theo dõi nhiệt độ trong chuồng nuôi mà có biện pháp điều chỉnh quạt thông gió và thắp bóng đèn trong lồng úm lợn con sao cho phù hợp. * Trực và đỡ đẻ: Đây là công việc có ý nghĩa rất quan trọng để đảm bảo tỷ lệ sống của lợn con và kịp thời can thiệp, hỗ trợ lợn mẹ trong trường hợp bất thường. Công tác trực, đỡ đẻ dựa vào việc theo dõi ngày đẻ dự kiến và quan sát những biểu hiện của lợn nái.
  39. 33 Trước đẻ 3 - 5 ngày vú lợn bắt đầu cương cứng. Trước đẻ 1 - 2 ngày bộ phận sinh dục ngoài dãn lỏng, hai bên gốc đuôi lõm xuống gọi là hiện tượng sụt mông, vắt vú thấy có sữa chảy ra, lợn mẹ đi tìm chỗ nằm, âm hộ chảy nước nhờn, lợn sắp đẻ. Cần phải theo dõi và đỡ đẻ kịp thời. * Đỡ đẻ lợn con: Một tay cầm chắc mình lợn con, một tay vuốt dịch nhờn ở miệng, mũi trước để lợn con thở được, sau đó vuốt thân và hai chân sau. Rồi mới dùng khăn bằng vải xô lau sạch cơ thể. Thao tác nhẹ nhàng, khéo léo để lợn con không kêu nhiều và không bị đau. Sau đó cho lợn con vào ô úm đã chuẩn bị để được bú sữa đầu càng sớm càng tốt. * Thao tác làm nanh tai và tiêm sắt cho lợn con: Lợn con sau khi bú mẹ sức khỏe tốt hơn, cứng cáp hơn sẽ được tiến hành mài nanh, bấm số tai, cắt đuôi, tiêm kháng sinh và tiêm sắt. Thường thì sắt sẽ được tiêm vào 3 ngày tuổi sau khi lợn con sinh với liều lượng 2 ml/con, nhưng để tránh gây strees cho lợn con và tiện cho các thao tác kỹ thuật thì trại thực hiện các công việc đó cùng một lúc. Sắt sẽ được tiêm bổ sung lần 2 vào 7 - 10 ngày tuổi nếu thấy cần thiết. Số tai của lợn con sẽ được bấm theo mã số của trại là 46 và số tuần mà lợn con được sinh ra. - Thiến lợn đực: Đối với lợn đực nuôi thịt ta cần thiến càng sớm càng tốt. Thông thường trong chăn nuôi lợn nái sinh sản người ta thường thiến lợn vào 7 - 10 ngày tuổi. Nhưng thực tế trại thực hiện thiến lợn đực vào ngày thứ 4 - 5 sau khi sinh. Trước khi thiến lợn đực cần chuẩn bị dụng cụ thiến đầy đủ gồm: Dao thiến, cồn sát trùng, panh kẹp, bông gòn, khăn vải sạch, thuốc kháng sinh, xi lanh tiêm. Thao tác: Đầu tiên là tiêm cho lợn con 1ml/con kháng sinh amlistin. Sau đó người thiến ngồi ghế cao, sau dùng một tay kẹp hai chân sau cho đầu của lợn con hướng xuống dưới và sao cho dịch hoàn nổi rõ, tay còn lại cầm dao rạch hai vết đứt vào chính giữa của mỗi bên dịch hoàn. Dùng panh kẹp dịch hoàn ra ngoài rồi giật dịch hoàn ra, dùng cồn bôi vào vị trí thiến. *Quy trình xuất bán lợn Lợn con tại trại sau 21 ngày sẽ được tách mẹ và nuôi thêm 2 - 3 ngày nữa rồi xuất bán. Trước khi xuất lợn, kỹ sư của trại sẽ đi đánh dấu những con lợn nào khỏe mạnh, đủ tiêu chuẩn xuất bán bằng mực xanh để thuận tiện cho công nhân lúc bắt.
  40. 34 3.4.4. Phương pháp thực hiện công tác chăm sóc, nuôi dưỡng đàn lợn - Thực hiện vệ sinh phòng bệnh và sử dụng các chế phẩm / thuốc / vắc xin theo đúng quy định Bảng 3.2. Lịch phòng vắc xin của trại Liều Cách sử Tuổi Vaccine Phòng bệnh (ml) dụng Sau khi nhập về 1 tuần Ingelvac Tai xanh 2 Tiêm bắp PRRS Sau khi nhập về 2 tuần Farrowsure Khô thai + 2 Tiêm bắp doramectin Hậu bị Sau khi nhập về 3 tuần Colapets Dịch tả 2 Tiêm bắp Sau khi nhập về 4 tuần Porcilis Giả dại + 2 Tiêm bắp Bengonia LMLM Sau khi nhập về 5 tuần Ingelvac Tai xanh 2 Tiêm bắp PRRS Sau khi nhập về 6 tuần Farrowsure Khô thai + 2 Tiêm bắp Aftopor LMLM Mang thai được 10 tuần Colapets Dịch tả 2 Tiêm bắp Lợn nái Mang thai được 12 tuần Aftopor LMLM 2 Tiêm bắp Tháng 2, 6 Colapets Dịch tả 2 Tiêm bắp Tháng 4, 8, 12 Porcilis Giả dại 2 Tiêm bắp Toàn đàn Bengonia Tháng 3, 7, 11 Ingelvac Tai xanh 2 Tiêm bắp PRRS 1 - 3 ngày tuổi Fe + B12 Thiếu máu 2 Tiêm bắp 3 - 5 ngày tuổi Toltrazuril Cầu trùng 1 Cho uống Lợn con 2 tuần tuổi Mycoplasma Suyễn 1 Tiêm bắp 2 tuần tuổi Circo Hội chứng còi 1 Tiêm bắp cọc (Nguồn: Phòng Kỹ Thuật công ty CP Việt Nam) - Phát hiện lợn mắc bệnh dựa trên các triệu chứng điển hình của bệnh. * Bệnh viêm tử cung Bệnh xảy ra ở những thời gian khác nhau, nhưng thường nhiều nhất vào thời gian sau đẻ 1 - 3 ngày và sau khi phối giống. - Triệu chứng: Sau khi đẻ 1 - 2 ngày nái ít ăn, sốt cao, thường sốt vào buổi chiều lúc 15 - 17 giờ, ở âm hộ chảy nước đục mùi hôi tanh.
  41. 35 * Bệnh viêm vú - Triệu chứng: Bệnh xảy ra sau khi đẻ 4 - 5 giờ cho đến 7 - 10 ngày, có con đến một tháng. Viêm vú thường xuất hiện ở một vài vú nhưng đôi khi cũng lan ra toàn bộ các vú, vú có màu hồng, sưng đỏ, sờ vào thấy hơi nóng, hơi cứng, ấn vào lợn nái có phản ứng đau. Lợn nái giảm ăn, nếu bị nặng thì bỏ ăn, nằm một chỗ, sốt cao 40,50C -420C kéo dài trong suốt thời gian viêm. Sản lượng sữa giảm, lợn nái thường nằm úp đầu vú xuống sàn, ít cho con bú. Vắt sữa ở những vú bị viêm thấy sữa loãng, trong sữa có cặn hoặc cục sữa vón lại, xuất hiện các cục casein màu vàng, xanh lợn cợn có mủ đôi khi có máu. Lợn con thiếu sữa kêu la, chạy vòng quanh mẹ đòi bú, lợn con ỉa chảy, xù lông, gầy nhanh, tỷ lệ chết cao từ 30 đến 100%. * Bệnh sót nhau - Triệu chứng: Lợn nái sau khi đẻ 4 - 5 giờ không thấy nhau ra hoặc không hết là bị sót nhau. Biểu hiện của bệnh là lợn nái rặn nhiều, đôi khi bỏ ăn, sốt cao liên tục 40 - 41oC trong vòng 1 - 2 ngày, cắn con, không cho con bú, niêm dịch chảy ra có màu đục, lẫn máu. - Phương pháp phát hiện bệnh trên đàn lợn con theo mẹ * Hội chứng tiêu chảy -Triệu chứng: Sàn chuồng có phân lợn lỏng, màu vàng hoặc màu trắng. Lợn con có hiện tượng nôn ra sữa,lợn con bị bẩn do dính phân, vú lợn mẹ dính phân lợn con. *Bệnh viêm phổi - Triệu chứng: Lợn con còi cọc chậm lớn, lông xù, khi thở hóp bụng lại. Bình thường nghỉ ngơi lợn không ho, chỉ khi xua quấy rầy lợn mới ho (ho vào lúc sáng sớm hay chiều tối), nhiệt độ cơ thể bình thường hay tăng nhẹ. 3.4.5. Phương pháp xử lý số liệu Các số liệu thu thập được trong quá trình thực hiện chuyên đề được xử lý theo phần mềm Microsolf Excel trên máy tính.
  42. 36 PHẦN 4 KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 4.1. Tình hình chăn nuôi lợn tại trại qua 3 năm 2016-T11/ 2018. Bảng 4.1.Kết quả tình hình chăn nuôi lợn tại trại qua 3 năm 2016 –T11/ 2018 Em đã tiến hành theo dõi tình hình chăn nuôi của trại trong 3 năm (2016- T11/2018) qua số liệu trực tiếp tại thời điểm thực tập và trên số liệu thống kê của trại. Kết quả được trình bày qua bảng 4.1 STT Loại lợn Năm 2016 Năm 2017 T11/2018 1 Lợn đực giống 19 20 21 2 Lợn hậu bị 137 147 160 3 Lợn nái sinh sản 1153 1301 1275 5 Lợn con 29520 20275 33254 Tổng 30829 21743 34710 ( Nguồn: phòng kỹ thuật của trại) Hiện nay trung bình lợn nái của trại sản xuất được 2,3 lứa/ năm.Số con sơ sinh là 11,8 con/ đàn, số con cai sữa 11 con/ đàn. Tại trại lợn con theo mẹ có su hướng được nuôi đến 21 ngày tuổi, chậm nhất là 28 ngày tuổi tiến hành cai sữa và chuyển sang chuồng cai sữa của trại. 4.2. Kết quả thực hiện quy trình chăm sóc nuôi dưỡng đàn lợn 4.2.1.Kết quả thực hiện quy trình chăm sóc đàn lợn tại trại Ngoài việc chăm sóc, nuôi dưỡng, phòng trị bệnh cho lợn nái sinh sản, lợn con theo mẹ và tiến hành thực hiện đề tài tốt nghiệp, em còn tham gia một số công việc như: đỡ đẻ cho lợn nái, thiến lợn đực, mài nanh, bấm tai lợn con, vắt sữa đầu lợn nái sắp đẻ và đang đẻ cho lợn con còi uống, xuất lợn.
  43. 37 Bảng 4.2. Kết quả công việc đạt được trong thời gian thực tập tại trại Số lượng Kết quả an Tỷ lệ TT Nội dung (con) toàn (con) (%) 1 Đỡ đẻ cho lợn 348 348 100 2 Bấm số tai 653 653 100 3 Cắt đuôi 653 653 100 4 Thiến lợn đực 648 641 98,91 5 Xuất lợn con 2850 2850 100 Kết quả bảng 4.2 cho thấy: Em đã tham gia đỡ đẻ 348 lợn nái, các ca đẻ đều đạt về số lượng lợn con sơ sinh an toàn. Bấm số tai và cắt đuôi cho 653 lợn con, kết quả các công việc này đạt an toàn 100%, kết quả thiến an toàn là 641/648 lợn con đạt 98,91% do trong quá trình thiến không phát hiện hecni khiến lợn con bị lòi ruột đồng thời không được phát hiện kịp thời nên lợn con chết. Tham gia cùng kỹ sư và công nhân trong việc xuất lợn con, đã thực hiện xuất được 2850 con, đạt an toàn 100%. 4.2.1.1.Tình hình đẻ của đàn lợn sinh sản Trong điều kiện tự nhiên lợn thường tự sinh sản, hay nói cách khác là lợn mẹ tự đẻ và lợn con đi tìm vú mẹ bú theo bản năng, tự rụng rốn Còn trong chăn nuôi, con người thuần dưỡng, chăm sóc và có những biện pháp tác động nhằm đảm bảo lợn mẹ đẻ an toàn, lợn con có tỷ lệ sống cao. Theo dõi tình hình đẻ của 348 lợn nái lai giữa Landrace x Yorshire tại trại lợn và thu được kết quả dưới đây: Bảng 4.3. Tình hình đẻ của đàn lợn nái tại trại Đẻ khó can Đẻ khó can Đẻ bình thường thiệp bằng kích Số lợn thiệp bằng tay tố Lứa đẻ theo Số Số Số dõi Tỷ lệ Tỷ lệ Tỷ lệ lợn lợn lợn (%) (%) (%) (con) (con) (con) Lứa 1 - 2 107 102 95,33 5 4,67 0 0 Lứa 3 - 5 184 175 95,11 8 4,35 1 0,54 Lứa ≥ 6 57 54 94,74 3 5,26 0 0 Tổng 348 331 95,11 16 4,60 1 0,29
  44. 38 Qua bảng 4.3 ta thấy: Trong 107 lợn đẻ lứa 1 - 2 có tỷ lệ lợn đẻ bình thường là 95,33%, tỷ lệ lợn đẻ khó can thiệp bằng kích tố là 4,67%, tỷ lệ lợn đẻ khó can thiệp bằng tay là 0%. Trong 184 lợn đẻ lứa 3 - 5 có tỷ lệ lợn đẻ bình thường là 95,11%, tỷ lệ lợn đẻ khó can thiệp bằng kích tố là 4,35%, tỷ lệ lợn đẻ khó can thiệp bằng tay là 0,54%. Trong 57 lợn đẻ lứa ≥ 6 có tỷ lệ lợn đẻ bình thường là 94,74%, tỷ lệ lợn đẻ khó can thiệp bằng kích tố là 5,26%, tỷ lệ lợn đẻ khó can thiệp bằng tay là 0%. Nhìn chung, lợn đẻ bình thường có 331/348 con, chiếm tỷ lệ 95,11%, lợn đẻ khó can thiệp bằng kích tố là 16/348 con chiếm tỷ lệ là 4,60 %, số lợn đẻ khó can thiệp bằng tay là 1/348 con chiếm tỷ lệ là 0,29%. Như vậy thì tình hình đẻ của đàn lợn là tương đối tốt, tuy nhiên cần hạn chế hơn nữa những trường hợp lợn nái đẻ khó phải can thiệp bằng tay và kích tố. 4.2.1.2. Số lợn con đẻ ra trên nái trong thời gian thực tập tại trại Bảng 4.4. Một số chỉ tiêu về số lượng lợn con của lợn nái từ tháng 6 năm 2018 đến tháng 11 năm 2018 Số con còn Tỷ lệ Số lợn nái Tháng Số lợn con sống đến sống đẻ(con) (con) cai sữa (%) 6 58 650 647 99,54 7 58 667 651 97,60 8 58 672 659 98,06 9 58 675 661 97,92 10 58 653 634 97,09 11 58 648 633 97,68 Tổng 348 3965 3885 97,98 Em đã tiến hành chăm sóc, nuôi dưỡng được 6 lượt lợn con, từ sau khi đẻ đến 21 ngày số lượng lợn con giảm. Có nhiều nguyên nhân là do lợn mẹ đè chết, do loại thải, một số lợn con nhiễm trùng hay mắc bệnh dẫn đến chết. Tại trại, trong 6 tháng theo dõi em thấy lợn con có tỉ lệ sống cao nhất là 99,54 vào tháng 6 và thấp nhất là 97,09% vào tháng 10. Để có tỷ lệ lợn con cai sữa cao phải chú ý chăm sóc, nuôi dưỡng tốt, nếu nhiệt độ môi trường thấp phải đưa lợn con vào ô úm, không nên
  45. 39 để chuồng, sàn chuồng ẩm hơn để tránh lợn con bị tiêu chảy. Nên cho lợn con tập ăn sớm lúc 3 ngày tuổi để tăng khả năng tăng trọng của lợn. Phải tạo mọi điều kiện thích hợp, tối ưu nhất để lợn con có khả năng phát triển tốt nhất. Trong quá trình đỡ đẻ, thiến, mổ hecni phải đảm bảo sát trùng đúng kỹ thuật. Tuân thủ đúng yêu cầu trên thì có thể hạn chế được tỷ lệ lợn con chết, đảm bảo tỷ lệ lợn con xuất bán cao, mang lại hiệu quả kinh tế cho người chăn nuôi. 4.3. Kết quả thực hiện công tác vệ sinh phòng bệnh 4.3.1. Công tác vệ sinh sát trùng chuồng trại Việc vệ sinh sát trùng chuồng trại có vai trò rất quan trọng trong chăn nuôi. Vê ̣sinh bao gồm nhiều yếu tố: vê ̣sinh môi trường xung quanh, vê ̣sinh đất, nước, vê ̣sinh chuồng trại Trong thời gian thực tập em đã thực hiện tốt quy trình vê ̣sinh trong chăn nuôi. Hàng ngày em cùng các công nhân tiến hành thu gom phân thải, rửa chuồng, quét lối đi lại giữa các dãy chuồng. Định kỳ tiến hành phun thuốc sát trùng, quét vôi, phun thuốc diệt muỗi, quét mạng nhện trong chuồng và rắc vôi bột ở cửa ra vào chuồng, đường đi nhằm đảm bảo vệ sinh. Sau đây là kết quả thực hiện vệ sinh, sát trùng trong 6 tháng thực tập tại trại của tôi. Bảng 4.5. Kết quả thực hiện vệ sinh, sát trùng tại trại Khối Khối lượng lượng Đơn vị Tỷ lệ Stt Công việc phải thực tính (%) thực hiện hiện được 1 Vệ sinh chuồng trại hàng ngày Số lần 180 105 58,33 3 Quét và rắc vôi đường đi Số lần 90 26 28,89 Kết quả bảng 4.5 cho thấy việc vệ sinh, sát trùng hàng ngày luôn được trại quan tâm và làm thường xuyên hàng ngày, trong 6 tháng thực tập tại trại tôi đã thực hiện được 105 lần (đạt tỷ lệ 58,33%). Việc quét và rắc vôi đường đi,trong quá trình thực tập tôi thực hiện được 26 lần rắc vôi bột đường đi (đạt tỷ lệ 28,89%).Nếu trại có tình hình nhiễm dịch bệnh thì sẽ được tăng cường việc phun sát trùng lên hàng ngày. Qua đó, em đã biết được cách thực hiện việc vệ sinh, sát trùng trong chăn
  46. 40 nuôi như thế nào cho hợp lý nhằm hạn chế được dịch bệnh cũng như nâng cao sức đề kháng cho vật nuôi. 4.3.2. Công tác phòng bệnh cho đàn lợn Trong suốt thời gian thực tập em và công nhân chăn nuôi đã thực hiện nghiêm túc quy trình vệ sinh, sát trùng người và dụng cụ chăn nuôi đúng quy cách. Hàng ngày tham gia quét dọn, phun sát trùng chuồng nuôi và khu vực xung quanh, khơi thông cống rãnh thoát nước, tích cực diệt ruồi muỗi, diệt chuột, định kỳ thay nước sát trùng, rắc vôi bột xung quanh chuồng, đường đi và khu vực xung quanh trang trại, thường xuyên phun thuốc sát trùng chuồng nuôi. Nhờ tuân thủ nghiêm ngặt khâu sát trùng nên trại lợn hạn chế được dịch bệnh. Thực hiện phương châm “phòng bệnh hơn chữa bệnh”, trại lợn nái Ngô Thị Hồng Gấm có quy trình tiêm phòng, phòng bệnh cho đàn lợn được thực hiện tích cực, thường xuyên và bắt buộc. Đối với lợn con tiêm vắc xin Mycoplasma, Circo, Fe + B12, ngoài ra còn cho lợn con uống Amox và Toltrazuril phòng bệnh tiêu chảy và bệnh cầu trùng. Tiêm phòng cho đàn lợn nhằm tạo ra trong cơ thể chúng có sức miễn dịch chủ động, chống lại sự xâm nhập của vi khuẩn, tăng sức đề kháng cho cơ thể. Trong 6 tháng thực tập tại trại, tôi đã học hỏi và cùng tham gia với các kỹ sư, tổ trưởng của trại thực hiện các biện pháp phòng bệnh trên. Kết quả phòng bệnh cho đàn lợn được thể hiện qua bảng 4.4: Bảng 4.6. Kết quả phòng bệnh cho đàn lợn Số con Số lợn an Số lợn thực Tên bệnh theo dõi toàn Tỷ lệ (%) hiện (con) (con) (con) Mycoplasma 3965 2648 2648 100 Circo 3965 2648 2648 100 Tiêu chảy (uống) 3965 2648 2648 100 Cầu trùng (uống) 3965 3965 3965 100 Thiếu máu (Fe + B12) 3965 1347 1347 100 Qua kết quả bảng 4.6, ta có thể thấy được kết quả tổng quát về việc phòng bệnh cho đàn lợn con tại trại bằng thuốc và vắc xin. Lợn con sau 2 - 3 ngày tuổi được tiêm Fe + B12 để phòng thiếu sắt, thuốc phòng trị cầu trùng và nâng cao sức
  47. 41 đề kháng cho lợn con, 100% lợn con sau khi sinh sẽ được tiêm. Trong 6 tháng thực tập, chúng tôi đã tiêm Fe + B12 cho 1347 lợn con được 3 ngày tuổi (đạt an toàn 100%), nhỏ thuốc phòng trị bệnh cầu trùng cho 3965 lợn con (an toàn 100%), nhỏ thuốc phòng trị tiêu chảy 2648 lợn con (an toàn 100%). Lợn con từ 14 - 18 ngày tuổi được tiêm vắc xin Circo và Mycoplasma, số lợn đã được phòng bệnh 2648 con (an toàn 100%). Trong quá trình thực tập chúng tôi đã học hỏi và cùng tham gia với các kỹ sư, tổ trưởng của trại thực hiện các biện pháp phòng bệnh trên. 4.4. Công tác chẩn đoán bệnh và điều trị bệnh cho đàn lợn nái và lợn con theo mẹ Bảng 4.7. Tình hình mắc bệnh ở lợn nái và lợn con theo mẹ Số lợn theo dõi Số lợn mắc bệnh Tỷ lệ mắc Bệnh (con) (con) (%) Viêm tử cung 348 3 0,86 Viêm vú 348 3 0,86 Sót nhau 348 5 1,43 Tiêu chảy 3965 1853 46,73 Viêm phổi 3965 285 7,18 Kết quả bảng 4.7 cho thấy: Trong tổng số 348 lợn nái chúng tôi theo dõi trong thời gian vừa qua, có 3 lợn nái bị viêm tử cung sau đẻ (chiếm tỷ lệ 0,86%); có 3 lợn nái bị bệnh viêm vú (chiếm tỷ lệ 0,86%); có 5 lợn nái bị bệnh sót nhau sau đẻ (chiếm tỷ lệ 1,43%). Trong 3965 lợn con theo dõi có 1853 con mắc bệnh tiêu chảy, chiếm 46,73%; 285 lợn bị viêm phổi, chiếm 7,18%. Như vậy, bệnh phổ biến nhất ở trại là tiêu chảy, chiếm tỷ lệ cao. Theo Trần Đức Hạnh (2013) [6], lợn con ở 1 số tỉnh phía Bắc mắc tiêu chảy và chết với tỷ lệ trung bình là 31,84% và 5,37%, như vậy ta thấy lợn con tại trại mắc tiêu chảy khá cao nguyên nhân là do lợn con được nuôi tập trung nên lợn lây bệnh nhanh từ ô này sang ô khác.
  48. 42 4.5. Kết quả điều trị bệnh cho lợn nái sinh sản và lợn con theo mẹ tại trại 4.5.1. Kết quả điều trị bệnh cho lợn nái sinh sản tại trại Bảng 4.8. Kết quả điều trị bệnh trên đàn lợn nái tại trại Số con Số con khỏi Tên bệnh Phác đồ điều trị Tỷ lệ (%) điều trị (con) +Pendistrep: 1 ml/10kg TT/ 1 ngày/1lần hoặc tiêm vetrimoxin. Viêm tử cung 3 3 100 LA: 1 ml/10kgTT/1 ngày/1 lần + Oxytocine: 5 ml/con. + Cục bộ: phong bế giảm đau bầu vú bằng cách chườm nước đá lạnh. + Toàn thân: Tiêm analgin: (1 Viêm vú 3 3 ml/10kgTT/1lần/ngày). 100 Tiêm vetrimoxin LA: (1 ml/10kgTT/1lần/2ngày). +Tiêm oxytoxin dưới da để kích thích co bóp tử cung cho nhau còn sót lại đẩy ra hết. Sót nhau 5 5 100 +Dùng nước muối sinh lý 0,9% để rửa tử cung trong ba ngày liên tục. Qua bảng 4.8 cho thấy: Trong 3 lợn mắc bệnh viêm tử cung mà chúng tôi điều trị có 3 con khỏi bệnh, chiếm tỷ lệ 100%.Điều trị 3 con mắc bệnh viêm vú có 3 con khỏi bệnh, đạt 100%. Bệnh sót nhau điều trị 5 con có 5 con khỏi bệnh, đạt 100%. Sau khi được điều trị kết quả khỏi bệnh ở lợn nái đạt tỷ lệ khá cao.
  49. 43 4.5.2. Kết quả điều trị bệnh cho lợn con theo lợn mẹ tại trại Bảng 4.9. Kết quả điều trị bệnh ở lợn con Tên bệnh Phác đồ điều trị Số con Số con Tỷ lệ điều trị khỏi (con) (con) Tiêu chảy +Nor - 100: 1 ml/ con/ ngày sử dụng tiêm bắp đối với lợn con > 10 ngày tuổi. 1853 1810 97,68 Điều trị liên tục trong 3 - 5 ngày. Viêm phổi + Với Tylogenta: 1ml/con. Tiêm bắp ngày/lần. + Hitamox LA: 1 ml/con. Tiêm bắp 285 271 95,09 ngày/lần. Điều trị liên tục 3 -6 ngày. Qua bảng 4.9 cho thấy: Bệnh tiêu chảy lợn con điều trị 1853 con có 1810 con khỏi bệnh, đạt tỷ lệ 97,68%. Điều trị 285 con mắc bệnh viêm phổi có 271 con khỏi bệnh, đạt 95,09%. Do quá trình theo dõi và chăm sóc còn nhiều hạn chế, bên cạnh đó có một số con thể chất quá yếu nên tỷ lệ điều trị khỏi bệnh chưa thể đạt mức tối đa.
  50. 44 PHẦN 5 KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 5.1. Kết luận Sau 6 tháng thực tập tốt nghiệp tại trại lợn nái Ngô Thị Hồng Gấm, huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình, em có một số kết luận về trại như sau: - Về tình hình chăm sóc nuôi dưỡng đàn lợn của trại: + Đàn lợn được cho ăn đúng khẩu phần ăn của trại. + Hiệu quả chăm sóc, nuôi dưỡng cho đàn lợn nái khá tốt. - Về tình hình đẻ của đàn lợn nái sinh sản: - Phần lớn lợn nái của trại đẻ bình thường 95,11%, số đẻ khó cần can thiệp bằng kích tố 4,60% và rất ít con phải can thiệp bằng tay 0,29%. - Kết quả công tác tiêm phòng: Đối với lợn con: tỷ lệ tiêm vắc xin Mycoplasma + Circo là 100%; tỷ lệ cho uống thuốc phòng cầu trùng nâng cao sức đề kháng cho lợn là 100%; tỷ lệ tiêm Fe + B12 phòng thiếu sắt là 100%. - Công tác chẩn đoán bệnh cho đàn lợn: +Lợn nái của trại có tỷ lệ mắc bệnh viêm tử cung là 0,86%, viêm vú là 0,86%, sót nhau là 1,43%. + Lợn con theo mẹ có tỷ lệ mắc bệnh tiêu chảy 46,73%, viêm phổi 7,18% - Kết quả điều trị: +Sau khi điều trị 100% lợn nái đều khỏi bệnh viêm tử cung, viêm vú và sót nhau. + Kết quả điều trị tiêu chảy cho lợn con đạt 97,68% khỏi bệnh; 95,09% khỏi viêm phổi. - Các công tác khác: + Tham gia các công việc tắm chải,cắt lông đuôi cho lợn mẹ, dọn vệ sinh chuồng, + Bấm tai, cắt đuôi cho 653 lợn con; đỡ đẻ cho 348 lợn nái và xuất 2850 lợn con.
  51. 45 5.2. Đề nghị - Trại lợn cần thực hiện tốt hơn nữa quy trình vệ sinh phòng bệnh và quy trình nuôi dưỡng, chăm sóc đàn lợn nái và lợn con để giảm tỷ lệ lợn nái mắc các bệnh mắc hội chứng tiêu chảy, viêm phổi ở lợn con. - Thực hiện tốt công tác vệ sinh trước, trong và sau khi đẻ, có thao tác đỡ đẻ khoa học để giảm bớt tỷ lệ mắc các bệnh sinh sản ở lợn. - Điều chỉnh quạt, dàn mát phù hợp theo mùa để điều chỉnh nhiệt độ trong chuồng thích hợp, tránh để lợn con bị quá lạnh hoặc quá nóng. - Nhà trường và Ban chủ nhiệm khoa tiếp tục cho các sinh viên khóa sau về các trại thực tập để có được nhiều kiến thức thực tế và nâng cao tay nghề. - Các cơ quan chức năng cấp cao của nhà nước tìm biện pháp đưa ngành chăn nuôi thoát khỏi tình trạng giá lợn giảm xuống mức thấp như thời gian qua để ổn định tình hình kinh tế trong nước.
  52. 46 TÀI LIỆU THAM KHẢO I.Tài liệu tiếng việt 1. Nguyễn Xuân Bình (2005), Phòng trị bệnh heo nái - heo con - heo thịt, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 2. Trần Ngọc Bích, Nguyễn Thị Cẩm Loan, Nguyễn Phúc Khánh (2016), “Khảo sát tình hình viêm nhiễm đường sinh dục lợn nái sau khi sinh và hiệu quả điều trị của một số loại kháng sinh”, Tạp chí Khoa học kỹ thuật Thú y, tập XXIII (số 5), tr. 51 - 56. 3. Trần Thị Dân (2004), Sinh sản heo nái và sinh lý heo con, Nxb Nông nghiệp Tp HCM. 4. Trần Tiến Dũng, Dương Đình Long, Nguyễn Văn Thanh (2002), Giáo trình sinh sản gia súc, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 5. Nguyễn Chí Dũng (2013), Nghiên cứu vai trò gây bệnh của vi khuẩn E.coli trong hội chứng tiêu chảy ở lợn con nuôi tại tỉnh Vĩnh Phúc và biện pháp phòng trị, Luận văn thạc sỹ khoa học Nông nghiệp. 6. Nguyễn Văn Điệp, Nguyễn Thị Kim Lan, Nguyễn Thị Hòa, Yamaguchi (2014), “ Một số đặc điểm dịch tễ và bệnh lý của bệnh tiêu chảy thành dịch trên lợn ở một số tỉnh phía Bắc Việt Nam”, Tạp chí Khoa học kỹ thuật thú y, tập XXI (số 2), tr. 43 - 55. 7. Trần Đức Hạnh (2013), Nghiên cứu vai trò gây bệnh của Escherichia coli, Salmonella và Clostridium perfringens gây tiêu chảy ở lợn nái tại 3 tình phía Bắc và biện pháp phòng trị, Luận án tiến sỹ Nông nghiệp_ Đại học Thái Nguyên. 8. Nguyễn Bá Hiên, Huỳnh Thị Mỹ Lệ (2012), Giáo trình bệnh truyền nhiễm thú y, Nxb Nông nghiệp Hà Nội. 9. Võ Trọng Hốt, Nguyễn Thiện (2007), Kỹ thuật chăn nuôi và chuồng trại nuôi lợn. Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 10. Đỗ Duy Hùng (2011), “Bệnh viêm vú ở lợn nái”, Báo nông nghiệp Việt Nam. 11. Phạm Sỹ Lăng, Phan Địch Lân, Trương Văn Dung (2002), “Bệnh phổ biến ở lợn và biện pháp phòng trị”, Tạp chí Khoa học Công nghệ Chăn nuôi tập II, tr. 44 - 52. 12. Nguyễn Quang Linh (2005), Giáo trình kỹ thuật chăn nuôi lợn, Nxb Nông
  53. 47 nghiệp, Hà Nội. 13. Nguyễn Đức Lưu, Nguyễn Hữu Vũ (2004), Một số bệnh quan trọng ở lợn, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 14. Lê Hồng Mận, Bùi Đức Lũng (2004), Kỹ thuật chăn nuôi lợn, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 15. Nguyễn Thị Hồng Minh (2014), Nghiên cứu biến đổi của một số chỉ tiêu lâm sàng, phi lâm sàng và thử nghiệm biện pháp phòng, trị hội chứng MMA ở lợn nái sinh sản, Luận án Tiến sĩ Nông nghiệp, Hà Nội. 16. Lê Minh, Nguyễn Văn Quang, Phan Thị Hồng Phúc, Đỗ Quốc Tuấn, La Văn Công (2017), Giáo trình thú y, Nxb Nông nghiệp Hà Nội. 17. Nguyễn Tài Năng, Phạm Đức Chương, Cao Văn, Nguyễn Thị Quyên (2016), Giáo trình Dược lý học thú y, Nxb Đại học Hùng Vương. 18. Popkov (1999), “Điều trị viêm tử cung”, Tạp chí Khoa học Thú y, tập XII (số5), tr. 9 - 15. 19. Nguyễn Ngọc Phục (2005), Công tác vệ sinh thú y trong chăn nuôi lợn, Nxb Lao động xã hội Hà Nội. 20. Trần Văn Phùng, Từ Quang Hiển, Trần Thanh Vân, Hà Thị Hảo (2004), Giáo trình chăn nuôi lợn, Nxb Nông nghiệp Hà Nội. 21. Nguyễn Văn Thanh (2007), “Kết quả khảo sát tình hình mắc bệnh viêm tử cung trên lợn nái ngoại nuôi tại một số trang trại tại vùng đồng bằng Bắc Bộ”, Tạp chí Khoa học kỹ thuật thú y, tập XIV (số 3), tr. 38 - 43. 22. Nguyễn Văn Thanh, Nguyễn Hoài Nam (2016), “Một số yếu tố liên quan tới viêm tử cung sau đẻ ở lợn”, Tạp chí KH Nông nghiệp Việt Nam 2016, tập XIV (số 5), tr. 720 - 726. 23. Ngô Nhật Thắng (2006), Hướng dẫn chăn nuôi và phòng trị bệnh cho lợn, Nxb Lao động và xã hội, Hà Nội. 24. Trịnh Đình Thâu, Nguyễn Văn Thanh (2010), “Tình hình bệnh viêm tử cung trên đàn lợn nái ngoại và các biện pháp phòng trị”, Tạp chí KHKT thú y, tập 1. II. Tài liệu tiếng anh 25. Black W. G. (1983), “Inflammatory response of the bovine endometrium“, Am. Jour. Vet. Res. 14, tr. 179. 26. Christensen R. V., Aalbaek B., Jensen H. E. (2007), “Pathology of udder lesions in sows”, J. Vet. Med. A Physiol. Patho.l Clin. Med. 2007 Nov., 54(9), tr. 491.
  54. 48 27. Clifton Hadley F. A., Alexanderand Enright M. R., (1986), “A Diaglosis of Streptococcus suis infection”, Inproc. Am. Assoc. swine Pract., p. 473 - 491. 28. Katri Levonen (2000), The detection of respiratory diseseases in swine herds by means by means of antibody assay on colotrum from sow, Department of Food and Environment Hygiene, Faculty of Veterinary Medicine, University of Helsinki. 29. Smith H. W., Halls S. (1967), “Observations by the ligated segment andoral inoculation methods on Escherichia coli infections in pigs, calves, lambs and rabbits”, Journal of Pathology and Bacteriology , 93, p. 499 - 529. 30. Smith, Martineau B.B., G., Bisaillon (1995), “Mammary gland and lactaion problems”, In disease of swine, 7thedition, Iowa state university press, tr. 40 - 57. 31. Sokol A., Mikula I., Sova C. (1981), “Neonatal coli - infecie laboratoriana diagnostina a prevencia UOLV”, Kosice. III.Tài liệu internet 32. Nguyễn Ánh Tuyết (2015), Bệnh viêm khớp trên lợn con,
  55. 49 MỘT SỐ HÌNH ẢNH THỰC HIỆN CHUYÊN ĐỀ Hình 1: Vắc xin aftopor Hình 2: Nona anazine 20%, gentylo Hình 3: Thuốc trị cầu trùng Hình 4: Nova Fe + B12